Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Tư liệu

13/05/2018

3. Sự hình thành các vùng biên giới miền Trung

Nguyễn Văn Huy

Bài 3 :

Sự hình thành các vùng biên giới miền Trung

 

mientrung1

Nhà rong là một trong những khám phá về đời sống cộng đồng người Thượng trên Tây Nguyên

 

Hai chữ "miền Trung"

Miền Trung là một danh xưng, xuất hiện trong thập niên 1960 tại miền Nam, để chỉ phần đất nằm giữa hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Trước đó phần đất này được gọi là Trung Kỳ, Trung Bộ hay Trung Phần, một chuyển nghĩa từ chữ "Annam" do người Pháp sử dụng. Theo đúng nghĩa, "An Nam" là phần đất phía Nam chưa được bình định, một danh xưng do người Hán đặt cho miền Bắc Việt Nam từ thời Bắc thuộc và tồn tại cho đến 1884. Các triều vương Việt Nam trước kia tuy có đặt ra nhiều quốc hiệu khác nhau nhưng ít khi dùng đến. Mỗi khi có việc với "thiên triều" phương Bắc (Trung Hoa), dân chúng và triều đình Việt Nam thường dùng chữ "nước Nam" hay "vua nước Nam" để nói về mình.

Vào thế kỷ 16, các giáo sĩ Pháp đầu tiên đến Việt Nam đã dựa theo cách đặt tên của triều đình nhà Thanh gọi "nước Nam" là "Annam", người Kinh là "annamites". Nhưng trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, sông Gianh được dùng làm lằn ranh phân chia hai lãnh thổ năm 1630, miền Bắc có tên là Bắc Hà và miền Nam là Nam Hà (Nam Hà thực ra chỉ là miền Bắc nối dài xuống phía Nam, ngày nay là vùng đất thấp ở phía Bắc miền Trung). Với thời gian, sau khi hiểu rõ cách thức tổ chức chính trị của người Việt, các giáo sĩ Pháp, mặc dù vẫn gọi chung hai lãnh thổ này là Annam, đã dựa theo cách gọi của chúa Nguyễn đổi tên Bắc Hà thành xứ Đàng Ngoài (Tumkin) và Nam Hà là xứ Đàng Trong (Cocincina). Phần đất phía Nam Đàng Trong, lúc đó còn là lãnh thổ Chiêm Thành (Ciampa), được sát nhập vào không gian sinh tồn của người Kinh năm 1693 mà người Pháp sau này gọi là Annam.

Hiệp ước Quí Mùi (1883) chia lãnh thổ Việt Nam ra làm ba miền : Tonkin, Annam và Cochinchine. Annam là vùng đất từ tỉnh Khánh Hòa ra tới đèo Ngang, lãnh thổ trực thuộc triều đình Huế, đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Người Việt, dị ứng với cách gọi này và cũng để phân biệt với hai khu vực địa dư khác do người Pháp đặt tên, đã dịch Annam thành Trung Kỳ, Cochinchine là Nam Kỳ và Tonkin là Bắc Kỳ ; dân chúng là "người nước Nam" (để phân biệt với người phương Bắc, tức người Trung Hoa, và người phương Tây, tức Pháp và Châu Âu). "Kỳ" ở đây, theo chủ tâm của Pháp, có nghĩa là một khu vực địa lý độc lập, một "nước" (quốc gia) mà phần lớn người Việt không muốn, do đó các chính quyền Việt Nam sau này đã đổi lại tên để xóa bỏ ấn tượng đó. Năm 1945, phong trào Việt Minh đổi thành Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Sau 1954, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dùng chữ Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần. "Bộ" hay "Phần" chỉ là những tên gọi khác nhau để chỉ những khu vực địa lý hành chánh có từ thời Pháp thuộc. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ (1963), dân chúng miền Nam dùng chữ "miền" để gọi các khu vực địa lý hành chánh cũ : miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Danh xưng mới này vừa xóa bỏ một quá khứ đau buồn vừa giữ nguyên lằn ranh phân chia hành chánh cũ, đồng thời nó cũng thể hiện một tình tự dân tộc vừa tôn trọng sự khác biệt giữa các địa phương vừa bộc lộ ước muốn thống nhất.

Ngày nay, về mặt hành chánh, lãnh thổ miền Trung bao gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận và vùng Tây Nguyên, với một diện tích tổng cộng gần 152.000 cây số vuông và 17 triệu dân, tương đương với 46% diện tích và 21% dân số toàn quốc. Tổng số diện tích và dân số này là thành quả của hơn 600 năm dài Nam tiến và 50 năm Tây tiến.

Cuộc Nam tiến

Cuộc Nam tiến của người Việt, hay là sự mở rộng không gian sinh tồn thuần chủng của người Kinh từ châu thổ sông Hồng xuống phía Nam, trong thực tế có lẽ đã diễn ra từ thời lập quốc cho đến hết thời Bắc thuộc, nhưng chỉ thực sự được ghi nhận khi người Việt giành được quyền tự chủ từ 1069 đến 1693 tại miền Trung và sau đó từ 1658 đến 1714 tại miền Nam.

Cũng cần nhắc lại là quan niệm về lãnh thổ và chủ quyền của người Việt từ thời Hùng Vương cho đến khi bị Bắc thuộc đã không rõ ràng, mỗi nhóm cư dân tùy ý chọn khu vực định cư và canh tác. Sự cộng cư của những nhóm người khác nhau này có lẽ đã diễn ra theo một tiến trình tự nhiên, các nhóm nhỏ và yếu hoặc phục tùng hay đồng hóa với các nhóm mạnh, hoặc di chuyển sang nơi khác và đồng hóa với những nhóm khác yếu hơn. Những khai quật khảo cổ gần đây xác nhận các nhóm dân cư thuộc văn hóa Sa Huỳnh (từ Nghệ Tĩnh đến Bình Định) biết chế tác đồ gốm và vật dùng kim khí cùng thời với các nhóm thuộc văn hóa Đông Sơn. Chỉ đến khi bị người Hán cai trị và tổ chức xã hội theo khuôn mẫu Nho Giáo, nghĩa là xây dựng không gian sinh tồn thuần chủng, tranh chấp đất đai canh tác và xung đột chủng tộc mới xảy ra, và thường bất lợi cho những nhóm dân cư nhỏ và yếu hơn ở phía Nam, sau này là Lâm Ấp, một vương quốc nhỏ được thành lập năm 198 sau công nguyên.

Tưởng cũng nên biết thêm về Lâm Ấp vì đó là một phần lãnh thổ Việt Nam và người Lâm Ấp dầu sao cũng là một trong những tổ tiên của chúng ta đã có công khai phá miền Trung. Lằn ranh phân chia Lâm Ấp với các lân bang (Giao Châu và Phù Nam) cũng không rõ ràng, nó hoàn toàn tùy thuộc vào sức mạnh quân sự, khi thắng thì to phình ra, khi thua thì teo hẹp lại. Thời đó, người ta thường lấy con sông hay đèo ải làm định mức phân ranh, mỗi vùng có một vị trí địa dư rõ ràng. Người Lâm Ấp cũng như người Kinh sống tập trung trên những vùng đất thấp, do đó không gian sinh tồn không vượt quá chân núi phía Tây (Trường Sơn). Từ cuối thế kỷ 3, lãnh thổ Lâm Ấp, còn gọi là Indrapura, được xác định từ phía Nam đèo Ngang, cạnh sông Gianh, đến đèo Hải Vân, tức Bình Trị Thiên ngày nay. Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 9, tranh chấp ảnh hưởng giữa Lâm Ấp và Trung Hoa thường xuyên xảy ra, bất lợi cho Lâm Ấp, nhưng người Hoa không có ý định lấn chiếm Lâm Ấp vì quá xa xôi, đất đai nghèo khó và khí hậu khắc nghiệt.

Do không thể đương đầu với sức ép của Trung Hoa tại Giao Châu ngày càng đè nặng, Lâm Ấp lùi dần về phía Nam. Tại đây, họ gặp sự kháng cự gay gắt của những vương quốc nhỏ khác, được thành hình một cách tự nhiên dọc các đồng bằng duyên hải, cùng thời với Lâm Ấp, do những nhóm dân cư bản địa chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, từ hải đảo mang vào và từ Phù Nam đem lên. Theo các nguồn sử liệu đáng tin cậy, dưới đèo Hải Vân trở xuống là các tiểu vương quốc Amavarati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Aryaru (Phú Yên), Kauthara (Khánh Hòa) và Panduranga (Bình Thuận) ; mỗi tiểu vương có một lãnh thổ cai trị nhất định, nằm giữa hai đèo ải thiên nhiên, và sinh hoạt tương đối độc lập với nhau. Với thời gian, các tiểu vương quốc này bị Lâm Ấp và Phù Nam, một vương quốc được thành hình cùng thời với Lâm Ấp, khuất phục : Panduranga và Kauthara đặt dưới quyền kiểm soát của Phù Nam ; Amavarati và Vijaya lệ thuộc Lâm Ấp ; lãnh thổ Aryaru được dùng làm khu vực trái độn.

Ảnh hưởng của Lâm Ấp vào cuối thế kỷ 5 mở rộng về phía Tây đến tận miền Nam Lào (Champassak), nhưng đến đầu thế kỷ 6 thì lọt vào tay người Khmer ; lãnh thổ Lâm Ấp chỉ còn trải dài từ sông Lô Dung (Thừa Thiên) đến đèo Cù Mông (Phú Yên). Vào đầu thế kỷ 7, Phù Nam bị người Khmer chiếm đóng và xóa bỏ ; Panduranga và Kauthara nhân cơ hội liên kết với Lâm Ấp phía Bắc để thành lập một vương quốc thống nhất mang tên Campapura (hay Champa), mà sử sách Việt Nam gọi là Chiêm Thành, chống lại đế quốc Angkor của người Khmer ở phía Tây Nam và người Việt ở phía Bắc. Lãnh thổ Chiêm Thành lớn rộng tới đâu không tài liệu nào nói rõ, nhưng người Chăm thường lên đánh phá các làng ven biển phía Bắc đèo Ngang và đã thiết đặt những quan hệ khắn khít với người Thượng trên cao nguyên, và có lúc đã vượt Trường Sơn tràn xuống đồng bằng Biển Hồ chiếm đế đô Angkor. Phẩm vật mà Chiêm Thành triều cống Trung Hoa, và sau đó là Đại Việt, phần lớn đến từ rừng xanh : ngà voi, sừng tê giác, trầm hương, mật ong, cánh kiến...

Cuối thế kỷ 10, người Việt đuổi quân Trung Hoa ra khỏi lãnh thổ và thành lập một vương quốc độc lập, nước Đại Việt. Người Chăm ở phía Nam đèo Ngang, do sinh trú trên một vùng đất không thuận lợi cho nông nghiệp, thường lên phía Bắc cướp lương thực, đồng thời cũng bắt người về làm nô lệ xây dựng đền đài. Tranh chấp đất đai giữa người Việt và người Chăm ngày càng trầm trọng, bất lợi cho Chiêm Thành. Mỗi lần thất bại, miền Bắc Chiêm Thành teo hẹp lại theo đà Nam tiến của người Việt. Năm 1069, vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) thua trận, phải nhường cho vua Lý Thánh Tôn ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị). Người Việt đã không mất nhiều công sức như người Chăm để khai phá những vùng đất mới, nơi nào người Chăm rút lui người Việt tiến đến khai thác. Lằn ranh phân chia hai lãnh thổ rõ ràng dần với thời gian khi những đình làng của người Việt được thành lập dọc vùng ven biên. Người Chăm lùi dần về phía Nam cộng cư với những nhóm đồng chủng khác, hoặc lên vùng núi đồng hóa với các nhóm địa phương khác để rồi trở thành những nhóm người Thượng thuộc ngữ hệ Nam Đảo.

Trong cuộc chiến chống Mông Cổ cuối thế kỷ 13, Đại Việt và Chiêm Thành đã hợp lực đẩy lùi quân Nguyên ra khỏi lãnh thổ, quan hệ giữa hai nước ngày càng thắt chặt. Lằn ranh phân chia hai lãnh thổ gần như không có, sự qua lại của dân chúng rất là tự do, nhất là thương nhân. Năm 1306, Chế Mân (Simhavarman III) tặng vua Trần Anh Tôn châu Ô và Châu Lí (Thuận Hóa) làm quà cưới công chúa Huyền Trân. Quà cưới này quá đắt, người Chăm không bằng lòng. Ngay sau khi Chế Mân vừa mất (1308), những vị vua kế tiếp không ngừng xua quân chiếm lại Thuận Hóa và nhiều lần tiến vào Thăng Long (dưới thời Chế Bồng Nga). Tranh chấp đất đai tại Thuận Hóa diễn ra liên tục trong suốt hơn 60 năm, từ 1308 đến 1470, trong thế nghiêng ngữa.

Năm 1471, vua Lê Thánh Tôn mang quân tiến chiếm thành Đồ Bàn (Vijaya), kinh đô của Chiêm Thành (Qui nhơn), và sát nhập một vùng đất dài từ Thuận Hóa tới mũi Chân Mây (Quảng Nam). Phần đất từ Quảng Nam đến Qui Nhơn được dùng làm khu vực trái độn và chia ra làm ba vùng theo qui chế bảo hộ : Đại Chiêm hay Chiêm Động (Quảng Nam), Cổ Lũy (Quảng Ngãi) và Đồ Bàn (Qui Nhơn) ; đèo Cù Mông là lằn ranh phân chia hai vương quốc. Lãnh thổ Chiêm Thành chỉ còn lại từ Phú Yên đến mũi Kê Gà (Bình Thuận) và tồn tại hơn một trăm năm cho đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

Từ thế kỷ 17 trở đi, lãnh thổ Chiêm Thành teo hẹp dần theo đà Nam tiến của các chúa Nguyễn. Năm 1611 người Chăm mất đất Phú Yên ; năm 1653 mất Khánh Hòa và một phần Ninh Thuận. Đến năm 1693 thì mất hết, tất cả những địa danh Chăm đều mang tên Việt. Cuộc Nam tiến của người Việt tại miền Trung coi như hoàn tất, một hành lang dài trực tiếp xuống đồng bằng sông Cửu Long được mở ra, một cuộc Nam tiến khác bắt đầu.

Cuộc Tây tiến

Trong suốt hơn 600 năm của cuộc Nam tiến, chưa lần nào các triều vương Việt Nam nghĩ đến việc nới rộng không gian sinh tồn lên vùng rừng núi phía Tây, nơi sinh trú của những người "man".

Có người cho rằng lãnh thổ Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng nới rộng đến tả ngạn sông Mékong, điều này không đúng. Trong quá khứ, từ thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 19, quân Việt Nam đã nhiều lần vượt Trường Sơn sang Láng Cháng và Vạn Tượng, đôi khi sang cả Chân Lạp can thiệp, nhưng liền rút về khi an ninh được vãn hồi. Trấn Ninh, Trấn Biên, Trấn Tịnh, Trấn Man hay Trấn Tây Thành chỉ là những đơn vị hành chánh lâm thời do quân đội quản lý ở vùng ngoại biên, nơi sinh trú của những thuộc man và thuộc quốc. Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, các trấn ngoại biên thôi triều cống và đến cuối thế kỷ 18 thì rơi vào quỹ đạo Xiêm La. Sau 1828, triều đình Huế mất hẳn quyền kiểm soát toàn bộ vùng đất từ Trường Sơn Đông đến tả ngạn sông Mékong. Không những thế, từ 1804 nhà Nguyễn còn xây nhiều lũy dài dọc triền núi phía Tây các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú, gọi là Tịnh Man Trường Lũy, do quân đội quản lý nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của người Thượng vào đồng bằng.

Về mặt pháp lý, trường lũy này là lằn ranh chính thức phân chia đồng bằng và cao nguyên. Năm 1869, theo lời đề nghị của Nguyễn Tấn, tiểu phủ sứ Quảng Ngãi và Đình Định, triều đình Huế thành lập Sơn Phòng Trấn (hay Nghĩa Định Sơn Phòng). Đây là một hệ thống phòng thủ gồm 117 đồn canh, mỗi đồn có từ 20 đến 25 lính, và 31 lân ; lân là những làng biên giới do các gia đình binh sĩ trấn thủ trường lũy, mục đích của những làng này là cung cấp lương thực và canh chừng sự xâm nhập của người Thượng. Tuyến phòng thủ này, dài trên 170 cây số, chạy từ Trà Mi (Quảng Nam) đến Chỉ Đốc (Bình Định), qua các huyện Trà Bồng, Minh Long, Ba Tơ và An Lão, Hoài Nhân và Hoài ên. Nhiệm vụ của trấn Sơn Phòng là thu thuế và ngăn chặn sự xâm nhập ngày càng tăng của người Thượng vào đồng bằng trao đổi lương thực. Từ sau ngày 9/10/1899, Sơn Phòng Trấn bị giải tán, sự hội nhập Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam do người Pháp trực tiếp chủ động.

Đối với người Pháp, sự khám phá Tây Nguyên là một tình cờ đầy phiêu lưu. Để trùốn chính sách cấm và giết đạo của triều đình Huế đang đến hồi quyết liệt, giám mục địa phận Bình Định thuộc Giáo Hội Công Giáo Miền Đông Nam Bộ, Etienne-Théodore Cuenot, quyết định cử người lên cao nguyên dò đường xây dựng họ đạo mới. Năm 1848, các giáo sĩ Pháp theo sự hướng dẫn của thầy phó tế Do đi về hướng Tây-Bắc, dọc thượng nguồn sông Ba nhằm tránh sự kiểm soát của quân triều đình Huế đồn trú tại An Khê, chốt canh cuối cùng ở vùng ngoại biên, và tình cờ khám phá ra một vùng thảo nguyên rộng lớn, cao nguyên Kontum cùng những sắc dân Thượng.

Hội Truyền Giáo Kontum được thành lập năm 1851 và phát triển dần theo thời gian. Từ địa bàn Kontum, sau khi đã cảm hóa người Bahnar, đạo Công giáo mở rộng dần sang các làng người Rơngao và Sedang. Một số giáo dân cùng giáo sĩ người Kinh từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên được tuyển lên Kontum xây dựng họ đạo và hướng dẫn người Thượng nghề trồng lúa nước. Nhờ ở cách xa đồng bằng, Hội Truyền Giáo Kontum phát triển yên bình trong suốt bốn mươi năm, từ 1848 đến 1888 ; triều đình Huế không hay biết gì về việc này. Nhiều giáo sĩ dòng Thừa Sai đến từ Paris được bí mật đưa lên Kontum truyền đạo, các bộ lạc người Thượng trên Tây Nguyên từ đó mới được thế giới phương Tây biết đến, với ít nhiều huyền bí.

Sự huyền bí đó đã hấp dẫn Charles-Marie David, một tay phiêu lưu mạo hiểm người Pháp, văn võ song toàn và gan dạ, tự xưng là nam tước (baron) de Mayréna. Năm 1888, Mayréna được toàn quyền Đông Dương cấp người và vật dụng lên cao nguyên tìm vàng tại Attopeu và thám hiểm các vùng đất lạ. Mục đích của Pháp là tìm đường vào Quảng Tây ở phía Nam Trung Quốc để cạnh tranh với Anh Quốc đã vào được Vân Nam qua ngã Miến Điện. Sự có mặt của Mayréna vào lúc này trùng với ước muốn của Hội Truyền Giáo Kontum, lúc đó đang quân Xiêm La đe dọa. Các giáo sĩ Pháp đã tận tình giúp đỡ Mayréna chinh phục người Sedang, một sắc dân thiện nghề luyện sắt và chế biến vũ khí, sinh sống quanh Kontum và Attopeu.

Không tìm thấy vàng và nhận thấy vùng đất núi rừng này vô chủ, Mayréna liền thành lập một vương quốc riêng. "Vương Quốc Sedang" được khai sinh ngày 3/06/1888, với một Hiến pháp gồm 11 điều. Mayréna tự xưng là vua "Marie đệ nhất", phong vợ là một người Kinh làm hoàng hậu Marie, đặt kinh đô tại làng Plei Marie (sau này là Pleiku), chọn quốc hiệu (cờ màu xanh dương có chữ thập trắng và một ngôi sao đỏ ở giữa), thành lập quân đội, bưu điện, quan thuế, huân chương, v.v... Các giáo sĩ được phong nhiều tước vị cao. Lãnh thổ "vương quốc Sedang" được mở rộng sang các làng người Mnong sinh sống ở phía Nam trong cùng thời gian.

Thấy Mayréna thành công dễ dàng với người Sedang, ngày 5/06/1888, các giáo sĩ Pháp cũng liên kết người Bahnar và Rơngao thành lập "Liên Bang Bahnar-Rơngao", thủ phủ đặt tại Kon Rơhai (nay là thị xã Kontum ). "Hội đồng quốc sự" gồm các tù trưởng và già làng ; tù trưởng Krui được phong làm "tổng thống". "Liên bang Bahnar-Rơngao" liên minh với "vương quốc Sedang" chống lại người Djarai, lúc đó rất mạnh và chuyên bắt người Bahnar làm nô lệ bán sang Lào. Lằn ranh phân chia vương quốc này với liên bang kia không rõ ràng, nó được qui định một cách đại khái ở những con sông hay ngọn núi của mỗi làng trong khu vực. Đầu tháng 9/1888, Mayréna trở về Pháp và Châu Âu vận động hợp thức hóa vương quốc và liên minh vừa thành lập.

Sự ra đời của "vương quốc Sedang" ngay trên lãnh thổ Đông Dương đã làm chính phủ Pháp bất bình và tìm cách loại trừ Mayréna. Ngày 21/03/1889 viên công sứ Qui Nhơn, Guiomar, lên gặp các giáo sĩ và các tù trưởng người Thượng, tuyên bố giải tán "vương quốc Sedang" và thành lập một liên bang mới, "Liên Bang Bahnar-Rơngao-Sedang", vẫn do tù trưởng Krui làm "tổng thống" ; bù lại Hội Truyền Giáo Kontum được công nhận và giáo sĩ Vialleton được giao trách nhiệm quản lý vùng đất mới này.

Tháng 1/1890, chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương vận động chính quyền Anh tại Singapore không cho phái đoàn Mayréna từ Bỉ về cập bến mà phải đổ bộ lên một hòn đảo nhỏ Tioman trong vịnh Pahang, Mã Lai. Tại đây, Mayréna bị "rắn độc" cắn chết ngày 11/11/1890, chấm dứt huyền thoại về xứ Sedang. Từ một khám phá tình cờ, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định biến vùng đất này thành một lãnh thổ chính trị. Sự có mặt của quân Xiêm La trên cao nguyên đã làm các giới hữu trách Pháp lo ngại, chính sách bành trướng vào sâu trong nội địa Đông Dương gia tăng vận tốc.

Trước đó, từ nửa cuối thế kỷ 18, đã có nhiều giáo sĩ Pháp tìm đường lên cao nguyên miền Đông (tỉnh Bình Long và Sông Bé ngày nay) giảng đạo nhưng không thành công, nhiều người đã bỏ mạng, một số khác mang tật bệnh suốt đời. Tuy vậy những báo cáo của những giáo sĩ này đã được những nhà thám hiểm đi sau khai thác triệt để. Từ 1860 đến 1904, các ông Henri Mouhot (1860), Francis Garnier (1861), Bonard (1864), Doudart de Lagrée (1863-1867), Harmand (1873-1877), d'Artefeuille và Rheinart (1869), Néis và Septans (1879-1882), Gautier (1882-1883), Nouet (1882), Humann (1884-1889), Navelle (1884-1885), Yersin (1890-1894) và Odend'hal (1891-1904), v.v... vào sâu trong nội địa Đông Dương thám thính dọc hai bờ sông Mekong, vẽ họa đồ và ghi chú những khu vực đã đi qua. Các bản báo đều nói đến sự bành trướng của Xiêm La trên cao nguyên, đồng thời cũng cho biết phản ứng của người Lào và người Thượng trước sự xâm nhập người phương Tây rất yếu, đúng hơn là không có. Tất cả các nhóm dân cư trên cao nguyên gần như chấp nhận dễ dàng sự bảo hộ của Pháp vì lúc đó quân Xiêm, lợi dụng sự vắng mặt của quân triều Nguyễn, áp dụng một chính sách cai trị hà khắc : sưu cao thuế nặng và còn bắt người mang về Xiêm La làm nô lệ.

Sự bành trướng của Xiêm La trên thượng nguồn sông Mékong càng làm người Pháp e ngại. Sau biến cố Mayréna, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định dùng biện pháp mạnh bằng cách cử hai đoàn thám hiểm võ trang, một do Auguste Pavie cầm đầu, từ 1887 đến 1895, và đoàn khác do Henri Maître thực hiện, từ 1905 đến 1914, để tìm hiểu thực lực quân Xiêm La và phản ứng của các sắc dân bản địa. Pavie và Maître đã bình định một vùng đất rộng lớn từ hạ lưu sông Bé và sông Đồng Nai đến miền Bắc Lào, từ tả ngạn sông Mékong (lưu vực các sông Prek Chhlong, Prek Tê, Srepok, Sekong, Sesan, Sedon, Sebang Hien, Sebang Sai, Nam Cadinh, Nam Muon, v.v...) đến bờ biển miền Trung. Nhưng nổi tiếng nhất là Auguste Pavie.

Auguste Pavie tổ chức ba cuộc thám hiểm bằng đường bộ qua các khu rừng núi, từ Hà Nội và duyên hải miền Trung đến tả ngạn sông Mékong. Lần đầu (1887/1889), Pavie đuổi các toán quân Xiêm ra khỏi thượng lưu sông Đà và sông Mã và bảo hộ 12 mương Thái sinh sống tại đây. Lần thứ hai (1890-1891), Pavie cùng đại úy Cupet đánh đuổi quân Cờ Đen và Xiêm La ra khỏi Trấn Ninh cũ, tái lập và bảo hộ vương quốc Xiêng Khoảng và Hứa Phàn. Lần thứ ba (1892-1893), đoàn thám hiểm được trang bị hùng hậu hơn và chia ra làm hai cánh, một cánh do Pavie dẫn đầu đi từ Điện Biên đến Luang Prabang, một cánh do Cupet chỉ huy đi từ duyên hải miền Trung đến tả ngạn sông Mékong. Kết quả lần thám hiểm sau cùng này rất là khả quan, năm 1893 quân Xiêm La chịu rút về hữu ngạn sông Mékong, vương quốc Luang Prabang và Vientiane được tái lập và toàn bộ các tiểu vương quốc khác tại Lào đều đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Nước Lào được thành lập và được chia thành nhiều địa phận, mỗi địa phận có một đồn binh do một sĩ quan quân đội Pháp cai quản. Mục đích của các đồn này là giữ gìn an ninh và đo đạc địa hình để thiết lập các bản đồ địa lý hành chánh và quân sự với những biên giới rõ ràng.

Tiến trình phân chia ranh giới

Sau khi tái lập lại vương quốc Lào, tháng 3/1893, chính quyền thuộc địa Pháp tiến hành công tác phân ranh giữa Lào và Việt Nam, dựa theo những họa đồ của Pavie. Ranh giới bảy tỉnh Bắc Trung kỳ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam) được ấn định từ bờ biển đến tả ngạn sông Mekong, nhưng trước phản ứng quyết liệt của Xiêm La và sau cuộc thám hiểm của Cupet (tháng 4 và 5/1893), một số địa phận (Savannakhet, Kham Muon, Strung Treng, Khong, Bassac và Attopeu) được tách ra để nhập vào Nam Lào và đặt dưới quyền quản trị hành chánh của Nam Kỳ tháng 10/1893. Ranh giới phía Đông miền Nam Lào được ấn định sát tới tới chân dãy Trường Sơn về phía Tây các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi, dựa theo định mức phân chia của trường lũy cũ. Ranh giới tỉnh Nghệ An được ấn định tới thượng nguồn sông Cả ; ranh giới phía Tây các tỉnh Bình Định dừng tại đèo An Khê, Phú Yên tại đèo Củng Sơn và Khánh Hòa tới chân núi Khánh Sơn. Đèo Lao Bảo dùng làm lằn ranh phân chia Tchépone với Khe Sanh (1901) ; khu vực rừng núi "vô chủ" phía Tây dãy Trường Sơn dọc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi tới ranh giới Kontum trực thuộc Trung Kỳ (1905).

Vùng biên giới các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thừa Thiên với Lào được xác định cụ thể hơn qua các đỉnh núi chạy dài từ Bắc xuống Nam qua các đèo Kèo Nứa, Mụ Giạ, Lao Bảo và thung lũng A Sao (1916). Phong trào di dân người Việt từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Ngãi và Bình Định sang Lào làm việc cho các đơn vị hành chánh và quân sự Pháp rất đông trong giai đoạn này, nhất là tại Kham Muon, Savannakhet và Xieng Khoảng. Trước phản ứng của triều đình Vientianne, năm 1935 Pháp phải hạn chế sự qua lại trên vùng biên giới của người Việt, chỉ những người được nhận làm việc tại Lào mới được vào mà thôi. Mặc dù vậy, lằn ranh phân chia Khe Sanh và Tchépone vẫn chưa ổn thỏa, tranh chấp chủ quyền, thật ra là giữa người Pháp tại Lào và người Pháp tại Trung Kỳ, tiếp diễn đến 1940.

Tại miền Đông Nam Kỳ, giai đoạn từ 1895 đến 1914 rất là gay go. Nhiều bộ lạc Thượng, nhất là người Stieng và Mnong sinh sống tại vùng Tam Biên (Nam Kỳ, Trung Kỳ và Cambodge), đã phản ứng dữ dội trước sự xâm nhập của Pháp. Nhiều sĩ quan và công chức Pháp cùng binh lính Khmer bị thiệt mạng, nhưng thiệt hại nặng nhất vẫn về phía người Thượng ; cung nỏ không chống lại vũ khí tối tân, nhiều làng Thượng bị thiêu rụi, nhiều làng khác phải di tản vào các vùng đất sâu hơn. Nơ Trang Long (Pou Trang Long), một thủ lãnh Mnong, đã trở thành nỗi kinh hoàng của đoàn quân viễn chinh trang bị tối tân hơn khi phục kích giết Henri Maître, một nhà thám hiểm có công bình định vùng rừng núi phía Tây-Nam Darlac, cùng đám tùy tùng hồi tháng 7/1914 tại Ban Bou Mera. Sau vụ này tất cả các cuộc thám hiểm, xây dựng đường sá và khai thác tại khu vực Tam Biên đều bị đình chỉ. Mãi tới năm 1934, khi Pou Trang Long bị giết, các công trình khai thác và mở rộng cao nguyên miền Đông Nam Kỳ mới tiến hành với một tốc độ nhanh, với những định mức rõ ràng.

Về mặt hành chánh, sau khi làm chủ hoàn toàn nội địa Đông Dương, chính quyền thuộc địa Pháp gặp nhiều lấn cấn trong việc phân chia khu vực quản trị. Tây Nguyên từ trước đến nay chưa bao giờ là một thực thể chính trị, do đó thiếu một căn bản pháp lý để sát nhập vào những lãnh thổ chính trị có sẵn. Tùy mỗi giai đoạn và tùy mỗi người cai trị, những vùng đất sau đây được qui định với những lằn ranh vẫn còn hiệu lực cho tới ngày nay.

- Tỉnh Thủ Dầu Một (Sông Bé ngày nay) được thành lập năm 1898 và tỉnh Đồng Nai Thượng (nay là Lâm Đồng ; thời Việt Nam Cộng Hòa gồm hai tỉnh Lâm Viên và Lâm Đồng) được sát nhập vào lãnh thổ Nam Kỳ năm 1899.

- Ranh giới các tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị được nới rộng đến các làng thổ dân trên dãy Trường Sơn (thay vì sát chân núi phía Tây như năm 1893), từ đèo Mụ Giạ tới đèo Lao Bảo.

- Kontum được sát nhập vào địa phận Attopeu tháng 3/1898 rồi bị tách ra để sát nhập vào địa phận Pleiku năm 1905. Liên Bang Bahnar-Rơngao-Sedang, thành lập từ năm 1888, bị giải tán năm 1895 và sát nhập vào lãnh địa Kontum.

- Ban Don được thành lập tháng 1/1899 trực thuộc Stung Treng, Nam Lào (nay thuộc Kampuchea), sau lại tách ra để nhập vào Darlac (1904). Lãnh địa Darlac được thành lập ngày 2/11/1899 trực thuộc địa phận Khong (một tỉnh trên hữu ngạn sông Mékong, Nam Lào).

- Ngày 15/02/1900 trung tâm hành chánh Củng Sơn được thành lập, trực thuộc Phú Yên, và bị giải tán ngày 19/01/1904.

- Tỉnh Đồng Nai Thượng, thành lập ngày 1/11/1899, được sát nhập vào lãnh thổ Nam Kỳ sau đó được sát nhập vào Trung Kỳ năm 1903.

Nhận thấy sự sát nhập Tây Nguyên vào Nam Lào không thuận lợi cho việc quản lý hành chánh và quân sự, ngày 22/11/1904 toàn quyền Paul Doumer tách Darlac ra khỏi Nam Lào và sát nhập vào Trung Kỳ. Năm 1917, tỉnh Darlac được hưởng qui chế tự trị về chính trị và ngày 19/07/1920 qui chế tự trị về hành chánh, sau đó bị giải thể để sát nhập vào tỉnh Kontum. Dưới thời toàn quyền Pierre Pasquier, ngày 2/07/1923 tỉnh Darlac được tái lập lại và năm 1929 trở thành một trung tâm chính trị lớn nhất trên Tây Nguyên, thủ phủ đặt tại Buôn Ma Thuột.

Sau 1904 là một loạt những biện pháp hành chánh và chính trị hợp thức sự sát nhập Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam : tỉnh Pleiku Der được thành lập tháng 7/1905 và bị giải tán năm 1907 ; địa phận Kontum được tái lập lại và trở thành một trung tâm hành chánh tháng 6/1907, trực thuộc Bình Định, và ngày 9/02/1913 được nâng lên thành cấp tỉnh ; ngày 12/06/1907, lãnh địa Củng Sơn được tái lập lại và trở thành trung tâm hành chánh Cheo Reo, trực thuộc Phú Yên ; trung tâm hành chánh M'Drack được thành lập ngày 19/01/1904, trực thuộc tỉnh Khánh Hòa ; tỉnh Langbian được thành lập ngày 6/01/1915, thủ phủ đạt tại Đà Lạt.

Năm 1936, toàn bộ khu vực Tam Biên đã được bình định, một phần lãnh thổ phía Bắc sát nhập vào tỉnh Darlac, một phần lãnh thổ phía Nam sát nhập vào tỉnh Langbian và Thủ Dầu Một, và một phần lãnh thổ phía Tây nhập vào tỉnh Mondolkiri, Cambodge.

Tây Nguyên trong cơn lốc chính trị

Sau 1935, khi Nơ Trang Long bị sát hại, chương trình phát triển cao nguyên miền Trung gia tăng vận tốc : nhiều đường sá, cầu cống, phòng ốc hành chánh, dinh thự, doanh trại, nhà cửa, trường học và bệnh viện được xây dựng cấp tốc. Những công trình này đòi hỏi một nguồn lao động lớn, có tay nghề mà người Thượng không cung ứng nổi, chính quyền thuộc địa Pháp phải tuyển dụng binh lính và nhân công gốc Kinh từ các đồng bằng duyên hải miền Trung lên cao nguyên làm việc.

Mặc dù rất cần người Kinh đến làm việc nhưng chính quyền thuộc địa không cho người Kinh định cư tại đây, hết hạn hợp đồng tất cả bị trả về đồng bằng. Không những thế, một số công chức và quân đội Pháp còn kỳ thị và xúi giục người Thượng thù ghét người Kinh. Công sứ Léopold Sabatier muốn biến tỉnh Darlac thành một lãnh địa riêng của người Rhadé và cấm người Kinh vào lập nghiệp. Các tài liệu của Pháp trên cao nguyên trong thời kỳ này đều nói rằng "người Kinh (annamites) sẽ chiếm hết đất đai của người Thượng trên cao nguyên bằng những thủ đoạn gian dối", do đó phải cấm. Quân đội Pháp còn cấm binh sĩ Thượng đồn trú vùng đồng bằng mang vợ người Kinh về nơi sinh quán. Tại nhiều nơi khác, nhất là Darlac và Pleiku, tiếng Việt bị cấm dạy cho trẻ em Thượng.

Thấy người Bahnar được các tu sĩ công giáo Pháp nâng đỡ, có ích cho việc quản lý địa phương, chính quyền Pháp chú ý tới người Rhadé. Người Rhadé, được coi là thông minh và rất thiện chiến, do đó được trọng hơn người Djarai, Bahnar và Sedang ; ngược lại người Stieng và Mnong trước kia chống lại sự xâm nhập của người Pháp không được tin tưởng. Từ 1923 trở đi một chương trình đào tạo qui mô cán bộ Thượng, đặc biệt là người Rhadé, được gấp rút thi hành để thay thế người Kinh trong các chức vụ thừa hành về hành chánh, y tế, giáo dục và quân đội, kể cả công việc tạp dịch trong các đồn điền trà và cà phê. Trong thực tế, trừ những thành phần được Pháp đào tạo để làm trung gian cai trị có một mức sống tương đối khá, phần còn lại vẫn sống trong lầm than. Người Pháp ve vuốt người Thượng nhưng không tin người Thượng, các chức vụ lãnh đạo đều nằm trong tay người Pháp, các chức vụ trung gian được giao cho người Kinh. Tình trạng này đã làm nhiều trí thức Thượng bất mãn và bất hợp tác.

Tất cả những dẫn chứng trên cho thấy, dưới thời Pháp thuộc, người Kinh không có mặt đông đảo trên cao nguyên và chưa bao giờ làm chủ cao nguyên. Niên Giám Thống Kê Đông Dương cho biết năm 1921 tỉnh Darlac có 21 người Việt (annamites), Kontum có 7.000 người (đa số là người Công giáo), Lang Bian : 600 người (đa số làm nghề trồng rau) và Đồng Nai Thượng : 500 người (công nhân đồn điền). Số binh lính và nhân công xây dựng đường sá không được kể vào vì bị trả về đồng bằng sau khi mãn hạn hợp đồng. Cuộc điều tra dân số do Trần Văn Lý, quản đạo tỉnh Đồng Nai Thượng, thực hiện trong những năm 1936-1937, cho biết năm 1916 Đà Lạt có 887 người Việt, năm 1921 giảm xuống còn 608 người và năm 1937 tăng lên 6.591 người. Số người Việt tăng nhanh trong giai đoạn này vì Pháp cần nguồn rau quả tươi và dịch vụ phục vụ các quan chức thuộc địa không thể về mẫu quốc, lúc đó đang có chiến tranh với Đức, nghỉ hè. Tại Đồng Nai Thượng (Di Linh và Bảo Lộc) từ 1916 đến 1935 không có người Việt nào, sau 1935 có 4.366 người Việt được tuyển lên xây dựng đường sá và làm việc trong các đồn điền cao su, trà và cà phê để xuất cảng sang Pháp.

Người Pháp có cơ sở để e ngại sự hiện diện của người Kinh trên cao nguyên vì vùng đất này có một tầm chiến lược quan trọng. Tây Nguyên là giao điểm giữa ba nước Lào, Kampuchea và Việt Nam, lực lượng nào làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ Đông Dương. Giới chiến lược Pháp biết rõ điều này và rất sợ nếu người Kinh kết hợp được người Thượng chống lại người Pháp thì Đông Dương rất khó bảo vệ. Do đó trong thời gian gần 50 năm làm chủ Tây Nguyên, người Pháp luôn luôn hạn chế số người Việt trên cao nguyên mặc dù rất cần. Cho đến năm 1945, người Việt định cư trên cao nguyên rất ít, đa số đều ở trung tâm các thành phố lớn, làm nghề phục dịch cho người Pháp và không có quan hệ gì với người Thượng.

Ngày 9/03/1945 quân Nhật tước khí giới quân Pháp và thả tất cả tù nhân chính trị. Thay vì trở về đồng bằng như những tù nhân khác, cán bộ Việt Minh ở lại vận động giới trí thức và hạ sĩ quan Thượng chiếm cứ các cơ quan hành chánh và căn cứ quân sự bị bỏ ngỏ. Người Thượng được hứa hẹn rất nhiều, nhất là quyền tự trị mà họ hằng ao ước. Phần lớn những phần tử ưu tú người Thượng đều theo Việt Minh, nhưng tổ chức ô hợp này chưa đủ mạnh để đối đầu với Pháp về mặt quân sự. Năm 1946 quân Pháp làm chủ các trục lộ giao thông chính (quốc lộ 7, 14, 19, 20 và 21) và tái chiếm tất c%á các trung tâm hành chánh lớn, nhưng các thị trấn và đồn bót xa xôi vẫn nằm trong tay quân kháng chiến.

Để lấy lòng dân Thượng, năm 1946, cao ủy Pháp tại Đông Dương, Thierry d'Argenlieu, tổ chức một loạt lễ tuyên thệ trung thành với Pháp tại Buôn Ma Thuột, Đà Lạt và Kontum. Ngày 27/05/1946, d'Argenlieu cho thành lập "Xứ Thượng Nam Đông Dương" (PMSI, Pays Montagnard du Sud Indochinois) trực thuộc Liên Bang Đông Dương, nhằm thỏa mãn nguyện vọng của người Thượng và vô hiệu hóa phe Việt Minh trên mặt trận tuyên truyền. Xứ này bao gồm tất cả những vùng đất có người Thượng cư trú nằm giữa ba nước Lào, Kampuchea và Việt Nam, cảng Cam Ranh được dùng làm cửa ngõ vận chuyển hàng hóa vận chuyển bằng đường biển lên cao nguyên. Tuy mang tiếng là tự trị nhưng tất cả quyền hành và phương tiện đều nằm trong tay người Pháp, phe Việt Minh lợi dụng sơ hở này để phản tuyên truyền. Giải pháp xứ Thượng bị bỏ rơi nhưng nội bộ người Thượng bị chia rẽ, một nửa ủng hộ Pháp, một nửa ủng hộ Việt Minh, thế giằng co này kéo dài trong suốt cuộc chiến từ 1945 đến 1954.

Đầu năm 1950, tổng thống Pháp Vincent Auriol, qua trao đổi thư riêng, khuyến khích Bảo Đại thành lập một lãnh thổ riêng cho "những dân cư không phải người Việt", ý muốn nói các sắc tộc sinh trú trên cao nguyên. Ngày 15/04/1950 Bảo Đại ban hành Dụ số 6 thành lập "Hoàng Triều Cương Thổ" (Domaine de la Couronne), gồm "Xứ Thượng miền Nam" và "Xứ Thượng miền Bắc", độc lập với năm nước Đông Dương có sẵn, thủ phủ đặt tại Đà Lạt sau dời về Buôn Ma Thuột. Lãnh thổ Xứ Thượng miền Nam là Xứ Thượng Nam Đông Dương thành lập năm 1946 ; Xứ Thượng miền Bắc gồm các lãnh thổ tự trị của người Thái, Mường, Tày và Nùng. Việc điều hành Hoàng Triều Cương Thổ đều do người Pháp đảm nhiệm mà mục tiêu chính là được toàn quyền sử dụng lãnh thổ và người thiểu số chống lại phe Việt Minh, lúc đó đã lập nhiều căn cứ trên vùng rừng núi.

Hoàng Triều Cương Thổ bị giải thể tháng 7/1954, Xứ Thượng miền Nam được sát nhập vào Việt Nam Cộng Hòa ; Xứ Thượng miền Bắc vào Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tại miền Bắc, chính quyền cộng sản đã khôn ngoan chấp nhận qui chế tự trị của người sắc tộc trong một thời gian rồi mới giải thể, do đó không gây nhiều xáo trộn chính trị. Tại miền Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm áp dụng chính sách đồng hóa triệt để làm cho những nhóm thiểu số (người Hoa, người Khmer, người Chăm và người Thượng) bất mãn và chống lại. Người Hoa thì bỏ về Đài Loan, sang Lào hay Kampuchea và các quốc gia Đông Nam Á khác. Người Khmer, người Chăm và người Thượng thành lập nhiều tổ chức chống lại, được biết đến nhiều nhất là tổ chức FULRO (Front Unifié de Libération des Races Opprimées), thành lập năm 1964 tại Kampuchea ; mặt trận này chủ trương chống chính quyền miền Nam vừa bằng chính trị vừa bằng bạo lực. Chủ trương của FULRO là thành lập một quốc gia độc lập gồm các sắc dân Thượng, Chăm và Khmer sinh sống tại miền Nam Việt Nam.

Ngày nay phong trào FULRO trên nguyên tắc đã bị giải tán nhưng tinh thần FULRO vẫn còn trong lòng mỗi người Thượng, vì thái độ và cách cư xử của chính quyền cộng sản sau 1975 không khác gì dưới thời Pháp thuộc. Những viên chức của chính quyền cộng sản địa phương, nhất là những di dân đến từ miền Bắc, chỉ muốn chiếm hữu những vùng đất tốt mà không giúp người Thượng ra khỏi nghèo đói và lạc hậu. Thêm vào đó, chính quyền cộng sản còn đào tạo một giai tầng người Thượng làm trung gian bóp nghẹt mọi ước muốn ra khỏi nghèo đói và cô lập người Thượng với thế giới bên ngoài. Ngày nay người Thượng trở thành thiểu số và nghèo khổ trên chính quê hương của họ. Nếu chính quyền cộng s%ản vẫn tiếp tục chính sách nghi ngờ và ngăn cản các tổ chức thiện nguyện giúp đỡ người Thượng, chúng ta đang chứng kiến một cuộc diệt chủng lớn nhất ngay trên đất nước của mình. Dân số người Thượng hiện nay trên Tây Nguyên, tất cả các sắc tộc cộng lại, khoảng 1,5 triệu người, tương đương 1/3 dân số Tây Nguyên ; 50 năm về trước, người Thượng đại diện cho hơn 80% dân số.

Trong suốt hơn 600 năm dài của cuộc Nam tiến, lãnh thổ miền Trung chỉ là một dải đất hẹp dọc duyên hải tương đương với 77.000 cây số vuông, nhưng chỉ trong mười năm đầu dưới chế độ Pháp thuộc Việt Nam có thêm 75.000 cây số vuông diện tích. Làn ranh phân chia Việt Nam với Lào và Kampuchea đã có một căn bản pháp lý rõ ràng và ổn định. Đây là một thành tích đáng kể, chúng ta ghi nhận công lao của người Pháp trong cuộc Tây tiến này.

Tuy vậy, đối với người Việt Nam, cuộc Tây tiến vẫn còn tiếp diễn. Nó đã chấm dứt tại miền Bắc nhưng chưa ngừng hẳn tại miền Trung, người Việt từ các vùng đồng bằng đông đúc và chật hẹp miền Bắc tiếp tục tiến vào Tây Nguyên. Từ sau 1954, người Bắc di cư và dân chúng các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú đã lên lập nghiệp rất đông. Nhưng từ sau 1975, chính sách di dân ồ ạt và khai thác bừa bãi thiên nhiên của chính quyền cộng sản, đưa người từ miền Bắc từ đồng bằng sông Hồng và miền thượng du lên Tây Nguyên lập nghiệp, đã khiến Tây Nguyên xuống cấp trầm trọng. Dân số Tây Nguyên trong vòng 20 năm qua đã tăng lên gấp ba bốn lần, đây là một dấu hiệu tốt nhưng cũng là một mối nguy. Tốt ở chỗ giảm áp lực gia tăng dân số tại các đồng bằng, nhưng nguy là người Thượng không có chỗ đứng trên chính quê hương của họ. Thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra nếu người Thượng bất mãn, sẵn sàng phá rối trong những trung tâm đông đúc ? Chúng ta phải cẩn thận, không nên để những lời tuyên truyền của thời Pháp thuộc trở thành sự thật. Không nên duy trì một biên giới không có giữa Kinh và Thượng.

Nguyễn Văn Huy

(09/1999)

Đọc thêm :

Lời mở đầu

Bài 1 : Quan niệm của người Việt xưa về không gian sinh tồn, lãnh thổ và quốc tịch

Bài 2 : Sự hình thành các vùng biên giới miền Bắc

Bài 3 : Sự hình thành các vùng biên giới miền Trung

Bài 4 : Sự hình thành các vùng biên giới miền Nam

Bài 5 : Sự hình thành hải phận và không phận

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Nguyễn Văn Huy
Read 1403 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)