Bắt đầu từ Malaysia
Ngày 12/12/2019, Malaysia đã gửi một bản đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc, theo đó, yêu cầu một phần thềm lục địa mở rộng của nước này trên Biển Đông, dựa trên Điều 76 của Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS).
Đảo Trường Sa (huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa) trên Biển Đông -Ảnh : Lê Văn Hùng
Đương nhiên, việc đệ trình này là những toan tính của Malaysia như Nguyễn Hồng Thao có phân tích trên tờ The Diplomat. Trong đó, như Nguyễn Hồng Thao đã chỉ ra : "việc đệ trình cũng khuyến khích Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa xem xét lại đệ trình chung của Việt Nam-Malaysia năm 2009, vì căn cứ mà Trung Quốc và Philippines dựa vào để phản đối đệ trình đó đã bị Tòa trọng tài 2016 bác bỏ. Chính xác hơn, đường chín đoạn đã bị tuyên bố là không có giá trị pháp lý và các thực thể trong quần đảo Trường Sa không đủ điều kiện hưởng quy chế đảo. Nói cách khác, đệ trình của Malaysia đặt ra câu hỏi về mối quan hệ giữa hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và các phán quyết pháp lý".
Philippines lên tiếng
Ngày 26/3/2020, Phái đoàn thường trực của Philippines tại Liên Hợp Quốc đã đệ trình Công hàm lên Liên Hợp Quốc để đáp lại Đệ trình của Malaysia. Trong Công hàm này, Philippines đã nêu ra 3 điểm quan trọng :
1. Philippines khẳng định rằng, các yêu sách biển của Trung Quốc là không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS.
2. Philippines khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của Philippines tại nhóm cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines gọi là Kalayaan Island Group cùng với Bãi cạn Scarborough mà Philippines gọi là Bajo de Masinloc.
3. Philippines viện dẫn Phán quyết của Tòa Trọng tài ngày 12/7/2016 trong việc giải thích tính chất pháp lý của các cấu trúc thuộc Trường Sa, theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS. Philippines cũng nhắc lại tinh thần của Phán quyết rằng : "Các quy định của UNCLOS về các vùng biển của quốc gia ven biển sẽ có sức mạnh vượt trội so với các quyền lịch sử, hoặc các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán nếu vượt quá các quy định của UNCLOS".
Như vậy, ta có thể thấy, mặc dù, Tổng thống đương nhiệm Philippines Duterte rất "thân thiết" với Trung Quốc và dường như "không muốn nhắc tới" Phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc về những tranh chấp trên Biển Đông giữa hai quốc gia này. Thế nhưng, đây chỉ là những lời "đầu môi chót lưỡi" của ông Duterte. Với các nội dung của Công hàm mà Philippines đệ trình như vậy, nó có sức mạnh pháp lý lớn hơn rất nhiều những "lời nói gió bay" của ông này.
Trung Quốc lặp lại luận điệu cũ
Ngày 23/3/2020, Trung Quốc đã ra Công hàm đáp trả Công hàm của Malaysia và Philippines. Công hàm này của Trung Quốc bao gồm những nội dung như sau :
1. Trung Quốc khẳng định Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo) và Scarborough (Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham) cùng với những vùng nước kế cận các đảo này cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Trung Quốc có quyền lịch sử ở Biển Đông. Chủ quyền và các quyền liên quan khác cùng với quyền tài phán của Trung Quốc được hỗ trợ bởi các bằng chứng lịch sử và pháp lý. 2. Cái gọi là Kalayaan Island Group là một phần của quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo) và chưa bao giờ là một phần lãnh thổ của Philippines. Cho tới những năm 70, Philippines đã chiếm đoạt một cách bất hợp pháp một số cấu trúc biển này. Philippines không thể viện dẫn vào hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp này để bảo vệ cho yêu sách lãnh thổ của họ.
3. Là một phần của Trung Sa quần đảo, Scaborough (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham đảo) là lãnh thổ lâu đời của Trung Quốc. Trung Quốc đã thực hiện chủ quyền một cách hiệu quả và liên tục và quyền tài phán tại Scarborough. Yêu sách lãnh thổ phi pháp của Philippines đối với Scarborough hoàn toàn không dựa trên luật pháp quốc tế.
4. Tòa Trọng tài trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc không có thẩm quyền vì tranh chấp này liên quan đến tranh chấp chủ quyền, phân định biển và thực hiện quyền tài phán..nên Tòa này đã vi phạm UNCLOS. Các hành động và Phán quyết của Tòa này là phi pháp, bất chính. Chính phủ Trung Quốc không chấp nhận, không tham gia và không thừa nhận phán quyết này và không bao giờ chấp nhận các hành vi hoặc các yêu sách dựa trên Phán quyết này. Trung Quốc và Philippines đã đi tới thỏa thuận chung bỏ qua Phán quyết này, sử dụng tham vấn và thương lượng song phương để giải quyết các tranh chấp biển này.
5. Chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa yêu cầu Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc không xem xét đến đệ trình về thềm lục địa mở rộng này của Malaysia.
Qua Công hàm này của Trung Quốc, chúng ta lại thấy những luận điệu nhàm chán của Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc làm phức tạp hóa vấn đề bằng các khái niệm "hổ lốn, hỗn tạp" trong tuyên bố của mình, lúc thì quyền lịch sử, lúc thì chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán. Nhưng bao giờ cũng thêm câu "Trung Quốc có các bằng chứng lịch sử và pháp lý", tuy nhiên các bằng chứng đó đâu thì không thấy Trung Quốc đưa ra, mà chỉ nói suông vậy thôi.
Những căn cứ của Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, cụ thể Scarborough là một bãi cạn, nó không thể là một "đảo" theo điều 121 của UNCLOS. Nhưng Trung Quốc muốn sử dụng nó là một "đảo" để Trung Quốc lúc thì viện dẫn chủ quyền, lúc thì quyền lịch sử… miễn "nói lấy được" thì thôi.
Phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS là một phán quyết lịch sử, góp phần làm sáng tỏ điều 121 của UNCLOS, theo đó giải thích không có cấu trúc nào thuộc Trường Sa có thể đáp ứng được yêu cầu là "đảo" cả. Đồng thời, Phán quyết cũng bác bỏ cái gọi là "yêu sách quyền lịch sử" của Trung Quốc trong vùng Biển Đông. Nhưng mặc dù Trung Quốc một mặt lúc nào cũng viện dẫn luật quốc tế và UNCLOS, nhưng mặt khác, "điên cuồng" chống lại Phán quyết này, cho dù bị thế giới lên án.
Còn Việt Nam ?
Việt Nam là một bên tham gia trực tiếp trong các tranh chấp này ở Biển Đông. Quan điểm của Việt Nam là ủng hộ Phán quyết và chống lại cái gọi là "yêu sách đường lưỡi bò" trên Biển Đông, bởi vì yêu sách này không có cơ sở nào trong luật quốc tế. Mới đây, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam "Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam ; không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình ở Biển Đông và khu vực ; tuân thủ quy định của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc".
Đối với Đệ trình của Malaysia, có một phần chồng lấn với thềm lục địa của Việt Nam, vì thế, cũng đã có tác giả yêu cầu Malaysia phải thảo luận với phía Việt Nam về khu vực chồng lấn này, để bảo vệ lợi ích của Việt Nam.
Dư luận đang chờ Chính phủ Việt Nam lên tiếng chính thức về vấn đề này, cũng như, với cương vị là Chủ tịch ASEAN của năm nay, cố gắng để có thể đưa ra những quyết định quan trọng của ASEAN mà có thể thẳng thắn nêu tên kẻ hung hăng, gây bất ổn nhiều nhất ở khu vực Biển Đông là Trung Quốc.
Hoàng Sa
Nguồn : RFA, 29/03/2020
Có thật Bắc Kinh "không bận tâm" khi tàu sân bay Mỹ ghé thăm Đà Nẵng ?
Huyền Minh, RFA, 26/03/2020
Chuyến ghé thăm và giao lưu tại cảng Đà Nẵng giữa thuỷ thủ và nhân viên trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt với phía Việt Nam hồi đầu tháng 3 như là một minh chứng cho bước phát triển của quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ.
Hình minh hoạ. Tàu sân bay của Mỹ USS Theodore Roosevelt ở biển Philippines hôm 18/3/2020 Reuters
Bỏ qua những khác biệt về chính thể cũng như ý thức hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ có thể được coi là "các đồng minh tự nhiên", khi tìm thấy quan điểm chung về việc duy trì hoà bình và an ninh trên khu vực biển Đông, đồng thời cùng đối mặt trước một nhân tố gây bất ổn tại khu vực biển này, đó chính là Trung Quốc.
Cũng chính vì mối đe doạ qua các hành động hung hăng của Trung Quốc tại biển Đông, đặc biệt giai đoạn từ 2007 tới nay, quan hệ Việt - Mỹ đã có bước phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, cũng chính vì sự cản trở từ Trung Quốc, quan hệ Việt - Mỹ vẫn còn chưa đạt đến những bước đi như mong đợi.
Nhận xét về chuyến viếng thăm này của tàu USS Theodore Roosevelt, có nhiều ý kiến khác nhau. Có nhà nghiên cứu người Nga cho rằng "Bắc Kinh không bận tâm" vì điều này quá bình thường.
Vậy quả thực Bắc Kinh thực sự không bận tâm trước vì điều này theo Trung Quốc xảy ra là bình thường ?
Tờ Global Times, một ấn phẩm phụ bản của Nhân dân Nhật báo, chuyên thể hiện quan điểm "diều hâu", có bài viết của chuyên gia Cheng Hanping từ Đại học Nam Kinh viết về vấn đề này : "Mỹ và Việt Nam có hệ tư tưởng cực kỳ khác nhau và giữa họ tồn tại nhiều tranh cãi về nhân quyền, dân chủ và tự do ngôn luận. Điều này không thể đột ngột thay đổi vì tìm thấy một mục tiêu chiến lược chung. Quan hệ đối tác Mỹ-Việt sẽ không giống như quan hệ đối tác mà Mỹ có với Nhật Bản, Hàn Quốc và thậm chí là Philippines. Và có lẽ sẽ không bao giờ được như vậy". Trong một ấn phẩm khác của Global Times, Li Haidong thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc viết : "Chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ tới Việt Nam sẽ khó có thể thay đổi chính sách hợp tác của Việt Nam với Trung Quốc. Với sự tin tưởng lẫn nhau về chính trị, hợp tác kinh tế và hội nhập khu vực, một bên thứ ba sẽ khó có thể tác động đến mối quan hệ ổn định chung giữa Bắc Kinh và Hà Nội".
Trung Quốc đã chính thức xác nhận những bình luận của chuyên gia Li Haidong trên trang China Military Online : "Tăng cường kết nối quân sự Mỹ-Việt là một hiện tượng bình thường, nhưng mối quan hệ quân sự chặt chẽ hơn, thể hiện trong chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ tới Việt Nam, sẽ không thay đổi chính sách hợp tác của Việt Nam với Trung Quốc".
Như vậy, quan điểm của Trung Quốc được thể hiện là việc tàu sân bay thăm Việt Nam không phải là điều đáng ngại ? Sự đáng ngại (nếu có) là việc thay đổi quan hệ Việt - Trung, mà điều đó khó có thể xảy ra vì nhiều lý do.
Thêm nữa, trên tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, Mark Valencia viết rằng "Liên minh chiến lược Mỹ - Việt khó mà tồn tại lâu".
Mark Valencia là một trường hợp khá đặc biệt vì ông ta là một nhà nghiên cứu tên tuổi của người Mỹ.
Người ta biết nhiều đến Mark Valencia khi ông ta là đồng tác giả trong cuốn sách rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu biển Đông : "Chia sẻ tài nguyên biển Đông" (Sharing the Resources of the South China Sea). Mark Valencia cũng được mời tham dự rất nhiều lần các Hội thảo biển Đông do Học Viện Ngoại Giao tổ chức ở Việt Nam. Có một lần trong bữa tiệc chia tay ở Hội thảo như vậy, người ta nghe thấy Mark Valencia phàn nàn việc ông ta xin một số tiền để phục vụ việc nghiên cứu một đề tài nào đó, nhưng không được phía Mỹ chấp thuận. Và cơ hội đã đến với ông ta, Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc với Viện trưởng, cũng là một quan chức Trung Quốc, Ngô Sĩ Tồn (Wu Sicun) đã cung cấp một học bổng nghiên cứu hậu hĩnh cho Mark Valencia. Và từ đó, quan điểm của Mark Valencia luôn đả kích Mỹ và ủng hộ Trung Quốc.
Trong bài viết của Mark Valencia thể hiện rõ một số điểm nguỵ biện. Một trong những điểm nguỵ biện đó là việc khẳng định quan hệ Mỹ - Việt là liên minh chiến lược. Việt Nam đã nhiều lần thể hiện một cách chính thức về chính sách "Ba không", mà mới nhất là trong Sách trắng quốc phòng được xuất bản vào hồi tháng 11 năm 2019. Theo đó, Việt Nam không tham gia liên minh quân sự nào, không cho đặt căn cứ quân sự của nước ngoài tại Việt Nam và không đi với nước này để chống nước kia. Có lẽ đối với người quan tâm, chính sách "Ba không" này dường như là "lời nhắn gửi" từ Việt Nam đối với Trung Quốc.
Trung Quốc từ lâu không giấu diếm tham vọng chiếm hữu gần như toàn bộ biển Đông. Cho dù họ không thể đưa ra các bằng chứng cũng như các cơ sở pháp lý cho việc chiếm hữu ấy.
Có thể nói, duy nhất chỉ có Hoa Kỳ là có đủ sức để ngăn chặn sự bành trướng trên biển của Trung Quốc. Và cũng chính vì vậy, Trung Quốc luôn muốn "gạt" Hoa Kỳ ra ngoài khu vực biển Đông, với lý do "vấn đề biển Đông thì để cho các quốc gia khu vực biển Đông tự giải quyết".
Việt Nam cũng là "cái gai" trong con mắt của Trung Quốc khi nhìn về biển Đông. Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm luôn chống lại tham vọng lãnh thổ cường quyền của Trung Quốc, và nay, Việt Nam luôn chống lại tham vọng độc chiếm biển Đông từ Trung Quốc.
Chính vì vậy, việc quan hệ Việt - Mỹ phát triển, Trung Quốc không thể không "khó chịu".
Trong thực tế, Trung Quốc luôn muốn thực hiện chính sách "Phần Lan hoá" đối với Việt Nam. Nghĩa là giống như Phần Lan trước kia bị Liên Xô khống chế về chính sách đối ngoại. Trung Quốc muốn rằng, các vấn đề trong nước sẽ để Việt Nam tự quyết định, nhưng về đối ngoại, phải được sự chuẩn thuận từ Bắc Kinh.
Chúng ta đều biết, mỗi khi một lãnh đạo cao cấp của Việt Nam sang thăm Mỹ, thì luôn luôn trước đó, hoặc là chính lãnh đạo đó hoặc một lãnh đạo cao cấp khác được phái sang để "trao đổi" với Bắc Kinh.
Và chính vì vậy, trước các tín hiệu cho thấy sự phát triển quan hệ Việt - Mỹ không thể là thứ mà Bắc Kinh không quan tâm. Mà sự thực, Trung Quốc đang rất chú ý đến vấn đề này, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh cao độ Mỹ - Trung. Trung Quốc vẫn luôn coi Việt Nam như một "chư hầu" nằm trong vùng ảnh hưởng truyền thống của mình. Có chăng, Bắc Kinh đang dùng truyền thông, thông qua các luận điệu này, đánh đòn tâm lý để cảnh báo Việt Nam không nên đi quá xa, vượt ngoài sự cho phép của "thiên triều".
Huyền Minh
Nguồn : RFA, 26/03/2020
***************
Trung Quốc tố Mỹ ‘chơi trò nguy hiểm’ khi điều tàu chiến qua eo biển Đài Loan
VOA, 26/03/2020
Trung Quốc hôm 26/3 cáo buộc Hoa Kỳ là "chơi trò nguy hiểm" với chính sách hậu thuẫn Đài Loan, sau khi một tàu chiến Mỹ đi ngang qua eo biển Đài Loan, một địa điểm ‘nhạy cảm’ sau khi căng thẳng quân sự tăng cao giữa Trung Quốc và Đài Loan.
Tàu chiến của Hải quân Mỹ USS McCampbell (VOA Chinese)
Trung Quốc tức giận vì cho rằng chính quyền của Tổng thống Trump đã có những bước để tăng cường sự hỗ trợ cho Đài Loan, như bán thêm vũ khí, tiến hành các cuộc tuần tra gần Đài Loan, và hồi tháng trước đón tiếp Phó Tổng thống đắc cử Đài Loan, ông William Lai tới thăm Washington trong khi Trung Quốc coi Đài Loan là thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
Phát ngôn viên của Hạm đội Thài Bình Dương (Hạm đội 7) của Hoa Kỳ, Anthony Junco, xác nhận rằng chiếc USS McCampbell, một tàu khu trục có tên lửa dẫn đường, đã đi ngang qua eo biển Đài Loan hôm 25/3 trong một hoạt động mà ông mô tả là ‘thường lệ, phù hợp với luật pháp quốc tế’.
Ông Junco nói việc tàu McCampbell đi ngang qua eo biển Đài Loan thể hiện cam kết của Hoa Kỳ đối với một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Ông tuyên bố Hoa Kỳ sẽ tiếp tục điều tàu đi ngang qua, máy bay bay qua khu không phận bên trên tuyến đường thủy này, và tái khẳng định Hải quân Mỹ sẽ hoạt động ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép.
Bộ Quốc phòng Đài Loan xác nhận tàu chiến Mỹ đã đi ngang qua eo biển Đài Loan và trực chỉ hướng Bắc, với sự giám sát của các lực lượng vũ trang Đài Loan trong một ‘sứ mạng thường lệ’, Đài Loan nói thêm rằng không có lý do để báo động.
Tại Bắc Kinh, người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Trung Quốc Nhậm Quốc Cường (Ren Guoqiang) tố cáo các ‘hành động tiêu cực’ của Mỹ để hậu thuẫn Đài Loan, kể cả các cuộc hành trình bằng đường thủy và đường không ngang qua Eo biển Đài Loan.
Reuters dẫn lời ông Nhậm nói rằng các hành động của Mỹ là ‘cực kỳ nguy hiểm’.
"Các động thái của Mỹ can thiệp nghiêm trọng vào nội tình Trung Quốc, phương hại nghiêm trọng tới hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan và đầu độc các mối quan hệ quân sự Trung-Mỹ,"
Trong những tuần gần đây, không quân Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận gần Đài Loan, khiến đảo quốc này phải tức tốc điếu máy bay chiến đấu lên chặn và cảnh báo phi công Trung Quốc phảia rời khỏi khu vực.
Đài Loan nói các cuộc tập trận của Trung Quốc có tính cách khiêu khích, và kêu gọi Trung Quốc hãy tập trung chống dịch Covid-19 thay vì đe dọa đảo Đài Loan.
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn đã đến thăm một căn cứ quân sự hôm 24/3 và cảnh báo về mối đe dọa từ Trung Quốc giữa dịch Covid-19.
*******************
Việt Nam : Hai trạm nghiên cứu mới của Trung Quốc ‘vi phạm chủ quyền’
VOA, 26/03/2020
Việt Nam hôm 26/3 lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh "tôn trọng chủ quyền" sau khi truyền thông nhà nước Trung Quốc thông tin về hai "trạm nghiên cứu" mới vừa được khánh thành tại Đá Chữ Thập và Đá Subi, nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng.
"Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình ở Biển Đông và khu vực", báo Tiền Phong dẫn lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói tại cuộc họp báo trực tuyến hôm 26/3.
Trước đó, hôm 24/3, Tân Hoa Xã tường thuật lễ khánh thành hai "trạm nghiên cứu", mà báo chí quốc tế gọi là các cơ sở quân sự mới, trên hai đảo đá ở Trường Sa.
Theo tờ báo nhà nước Trung Quốc, hai trạm nghiên cứu với các phòng thí nghiệm về sinh thái, địa chất và môi trường "có mục đích hỗ trợ các nhà khoa học điều tra thực địa, lấy mẫu và nghiên cứu khoa học trên quần đảo Nam Sa [Trường Sa]".
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng động thái mới nhất của Trung Quốc là bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đang tranh thủ tình hình cả thế giới đang vật lộn với đại dịch Covid-19 để "lấn tới" trong quyết tâm xâm chiếm Biển Đông.
"Một số người có thể nghĩ rằng đại dịch virus corona đang diễn ra sẽ khiến Bắc Kinh mất tập trung khỏi các điểm nóng hàng hải này, nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại", nhà nghiên cứu an ninh hàng hải Collin Koh nói với tờ Inquirer của Philippines.
Theo ông, quân đội Trung quốc "được cổ xúy để sẵn sàng chiến đấu, bất chấp đại dịch virus corona", và việc sử dụng lý do xây dựng cơ sở khoa học dân sự của Bắc Kinh là một trong những phương thức nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền ít gây chú ý nhưng lại có kết quả không kém những chiến lược khác.
Tại cuộc họp báo hôm 26/3, Hà Nội nói rằng mọi hoạt động tại Đá Chữ Thập và Đá Subi đều "phải được sự cho phép của Việt Nam", và yêu cầu Bắc Kinh "tuân thủ quy định" trong bối cảnh các quốc gia ASEAN đang đàm phán với Trung Quốc về Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông.
Ngoài Việt Nam, Philippines và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền trên Đá Chữ Thập và Đá Subi.
*******************
Dân quân biển Trung Quốc hoạt động ở quần đảo Trường Sa đang tranh chấp
Drake Long, RFA, 25/03/2020
Ngay cả khi khủng hoảng dịch bệnh do coronavirus gây nên đang hoành hành khắp Châu Á, Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định sự hiện diện của họ ở Biển Đông bằng cách bố trí lực lượng dân quân biển quanh các đảo và rạn san hô thuộc Quần đảo Trường Sa. Thực tế này được Đài Á Châu Tự Do phân tích dựa trên dữ liệu theo dõi tàu biển và hình ảnh vệ tinh.
Bản đồ hiển thị đường đi của 5 tàu dân quân hàng hải Trung Quốc thông qua cụm đảo sinh tồn ở quần đảo Trường Sa trong ba tuần đầu tháng 3. RFA
Cụ thể trong tháng này một đội tàu Trung Quốc đã di chuyển qua Cụm Đảo Sinh Tồn, một nhóm các thực thể đang tranh chấp giữa Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Đài Loan. Trong số những thực thể quan trọng nhất trong khu vực này là Đá Tư Nghĩa và Đá Gạc Ma hiện do Trung Quốc kiểm soát, cùng Đảo Sinh Tồn và Đá Cô Lin của Việt Nam. Đội tàu vừa nêu được Nhóm Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á nhận diện vào tháng 1 năm 2019 thuộc Lực lượng Dân quân Biển nổi tiếng Trung Quốc.
Năm tàu mà hành trình di chuyển được của chúng được RFA theo dõi hiện đang ở đá Gạc Ma, ở góc tây nam của Cụm đảo Sinh Tồn. Không phải ngẫu nhiên mà những tàu này hiện diện tại địa điểm trên vào những ngày kỷ niệm 32 năm trận hải chiến Gạc Ma hồi ngày 14 tháng 3 năm 1988. Đó là cuộc thảm sát của hải quân Trung Quốc khiến hàng chục binh sĩ Việt Nam thiệt mạng và Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát đá này.
Hình ảnh vệ tinh chụp vào ngày 22/3/2020, phí Bắc căn cứ chiếm đóng của Trung Quốc tại đá Gạc Ma. Có thể thấy nhiều tàu không danh tính ở góc trên bên phải. Planet Labs Inc.
Như lệ thường, Trung Quốc không hề công khai hoạt động đưa tàu của họ vào Cụm đảo Sinh Tồn. Lực lượng Dân quân Biển Vũ trang Nhân dân (PAFMM) thường bao gồm những tàu được ngụy trang bề ngoài là tàu đánh cá - mặc dù những tàu này không tham gia đánh bắt cá. Sự hiện diện của những tàu này đồng nghĩa với việc 'treo cờ' cho Bắc Kinh trong vùng biển tranh chấp mà không cần sự hiện diện công khai của lực lượng quân sự có thể dẫn đến việc lên án của cộng đồng quốc tế.
Zack Cooper, một nhà nghiên cứu chuyên về các vấn đề an ninh châu Á tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, phát biểu rằng Trung Quốc đang tiếp tục thái độ quyết đoán đối với các tranh chấp khu vực mặc dù đại dịch Covid-19 đang buộc thế giới để tâm vào.
"Bắc Kinh tăng cường hoạt động quân sự quanh Đài Loan và hiện đang có dấu hiệu thực hiện một số điều tương tự xung quanh Cụm Sinh Tồn. Đây chỉ đơn thuần là việc tiếp nối hoạt động trước nay hay cố ý lợi dụng tình hình xao lãng hiện nay để gây áp lực lên những quốc gia khác có tranh chấp, thì điều đó không được làm rõ", ông Cooper nói.
Phần mềm theo dõi tàu biển cho thấy năm tàu PAFMM - với các ký hiệu Yuetaiyu (Tàu cá) 18777, 18333, 18888, 18222 và 18555 - vào đầu tháng 3 đã qua lại giữa Đá Subi (do Trung Quốc bối lấp nên và thường là trạm dừng cho các tàu của Trung Quốc bố trí tới khu vực này) và đảo Thị Tứ, một thực thể do Philippines chiếm đóng và là nơi mà các tàu Trung Quốc từng can dự vào chiến dịch gây áp lực kéo dài, theo như tài liệu của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á cho thấy. Các tàu vừa nêu trước hết dừng tại Đá Ba Đầu, ở phía Đông Bắc Cụm đảo Sinh Tồn, từ ngày 3 tháng 3 đến ngày 8 tháng 3.
Sau đó, các tàu di chuyển về phía Tây Nam đến Đá Tư Nghĩa do Trung Quốc kiểm soát, đi qua đảo Sinh Tồn Đông do Việt Nam kiểm soát và xa hơn về phía Tây gần đảo Sinh Tồn. Các tàu này nán lại gần Sinh Tồn trong khoảng thời gian từ ngày 13 đến 18 tháng 3.
Số lượng chính xác các tàu Trung Quốc được triển khai đến khu vực rất có thể vượt con số năm tàu được RFA phát hiện bằng phần mềm theo dõi tàu biển. Hình ảnh vệ tinh cho thấy nhiều tàu khác tập trung tại Cụm đảo Sinh Tồn mặc dù danh tính của các tàu không rõ ràng. Khoảng 12 tàu đã di chuyển đến Đá Tư Nghĩa trong khoảng thời gian từ 8 tháng 3 đến 13 tháng 3.
Hình ảnh chụp cận từ vệ tinh ngày 22/3/2020. Có thể thấy nhiều tàu không danh tính ở góc trên bên phải phía Bắc căn cứ chiếm đóng của Trung Quốc tại đá Gạc Ma. Planet Labs Inc.
Ngoài ra, hàng chục tàu khác đã nán lại ở phía đông bắc của Cụm đảo Sinh Tồn, bên trong Đá Ba Đầu, ít nhất kể từ ngày 6 tháng 3 và vẫn ở trong khu vực này cho đến ngày 19 tháng 3. Đá Ba Đầu, tên tiếng Anh là Whitson Reef, là một rạn san hô cạn, không có đảo nhân tạo hoặc các cơ sở vật chất. Hình ảnh vệ tinh cho thấy các cụm tàu lớn được tụ lại với nhau.
Các tàu thuộc dòng Yuetaiyu ( Tàu Cá) đã từng đến Đá Tư Nghĩa do Trung Quốc nắm giữ và sau đó đến đảo Sinh Tồn do Việt Nam kiểm soát, đã di chuyển đến Đá Gạc Ma do Trung Quốc chiếm đóng hôm ngày 18 tháng 3. Một lần nữa, hình ảnh vệ tinh cho thấy số lượng tàu xuất hiện trong khu vực nhiều hơn hẳn so với năm tàu mà AIS, Automtatic Identification System (Hệ thống Nhận dạng Tự động), phát ra tín hiệu. Tất cả các tàu được yêu cầu phải có thiết bị phát đáp AIS để hỗ trợ mục đích theo dõi các trường hợp tìm kiếm và cứu hộ cũng như cho việc thực thi pháp luật. Mặc dù vậy, các tàu dân quân biển Trung Quốc thường xuyên tắt các thiết bị phát đáp AIS để che giấu hoạt động của mình. Rõ ràng đây là thực tế hiện nay khi hình ảnh vệ tinh cho thấy có ít nhất 30 tàu vừa xuất hiện tại Đá Gạc Ma.
Gạc Ma, tiếng Anh là Johnson Reef, chỉ là một đảo đá theo phán quyết của Tòa Trọng Tài Liên Hiệp Quốc năm 2016 đối với các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, một đá chỉ là một thực thể "không thể duy trì việc cư ngụ của con người hoặc đời sống kinh tế của chính họ" và vì vậy không có quyền có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Bất chấp phán quyết đó, Trung Quốc vẫn tiến hành xây dựng Đá Gạc Ma thành một đảo nhân tạo khác để có thể sử dụng làm căn cứ.
Tính đến ngày 23 tháng 3, các tàu PAFMM đã di chuyển một lần nữa đến cùng một địa điểm gần Đảo Sinh Tồn mà các tàu này đã đến trước đó vào ngày 13 tháng 3.
Drake Long
Nguồn : RFA, 25/03/2020
Virus corona : Mỹ lo chống dịch, Trung Quốc lợi dụng lấn thêm tại Biển Đông (RFI, 24/03/2020)
Đầu năm 2020, Hoa Kỳ liên tục có những hành động thể hiện cam kết tăng cường hiện diện ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông : bắt đầu từ chuyến tuần tra "khai xuân" ngày 25/01, tiếp theo là chuyến thăm hữu nghị ngày 05/03 tại Đà Nẵng của tầu USS Theodore Roosevelt (CVN 71), đánh dấu 25 năm Mỹ-Việt bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Nhưng liệu những cam kết này có bị tác động vì virus corona không ?
Không ảnh Đá Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa, nơi đang xảy ra tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực. U.S. Navy/Handout via Reuters/File
Trung Quốc lợi dụng dịch Covid-19 để đẩy quân cờ ở Biển Đông
Thực tế cho thấy Trung Quốc đang tranh thủ thời điểm toàn thế giới gồng mình chống dịch Covid-19 để tiến những nước cờ ở Biển Đông. Hành động mới nhất, được Tân Hoa Xã đưa tin ngày 20/03/2020, là Trung Quốc vừa khánh thành hai trạm nghiên cứu trên Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và Đá Xu Bi (Subi Reef), thuộc quần đảo Trường Sa.
Trên giấy tờ, hai cơ sở được đặt dưới sự quản lý của Trung tâm Nghiên cứu Tổng hợp các Đảo và Đá thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) chỉ đơn thuần mang tính chất khoa học, chuyên "nghiên cứu tổng hợp về rạn san hô và biển sâu". Tuy nhiên, việc Trung Quốc khánh thành hai trạm nghiên cứu mới vào lúc này là một diễn biến nghiêm trọng, theo đánh giá của Collin Koh, chuyên gia về an ninh biển hàng hải trong khu vực.
Trước đó, ngày 20/03, Hải Quân Trung Quốc tuyên bố đã tiến hành diễn tập chống tầu ngầm ở Biển Đông, ngay sau khi Hải Quân Mỹ thông báo một cuộc tập trận cũng ở Biển Đông huy động lực lượng hùng hậu, trong đó có đội tầu sân bay USS Theodore Roosevelt, từ ngày 15 đến 18/03.
Trả lời Inquirer ngày 24/03, ông nhận định : "Hẳn nhiều người nghĩ rằng dịch virus corona đang diễn ra có lẽ sẽ khiến Bắc Kinh không chú ý đến những điểm nóng hàng hải. Thực tế lại không như vậy. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, bất chấp virus corona".
Covid-19 làm xáo trộn các chiến dịch của quân đội Mỹ
Thực vậy, lợi thế có vẻ đang thiên về Bắc Kinh. Trung Quốc đang từng bước thoát khỏi dịch Covid-19 trong khi cả thế giới đang dốc hết sức lực chống dịch, từ Mỹ đến Anh, Pháp, cũng như các nước Đông Nam Á.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ trấn an rằng "nhiệm vụ đầu tiên của quân đội Mỹ vẫn là bảo vệ người dân Mỹ, đất nước và lợi ích của Hoa Kỳ ở nước ngoài". Tuy nhiên, nhiều hoạt động quân sự của Mỹ ở nước ngoài bị xáo trộn do chiến lược chống dịch của mỗi nước, từ Trung Đông (Irak), Nam Á (Afghanistan), Đông Á (Hàn Quốc) đến Châu Âu (cuộc tập trận Defender-20) và Châu Phi.
Khắp nơi trên thế giới, quân nhân Mỹ phải ở lại trong doanh trại, mọi ra vào đều được kiểm tra nghiêm ngặt thông qua trình báo sức khỏe, đo thân nhiệt hoặc cách ly người bị nhiễm virus corona. Từ đầu tháng 03/2020, quân nhân Mỹ bị cấm du lịch hoặc về thăm nhà do đã có nhiều trường hợp nhiễm virus corona.
Dù chưa có trường hợp mắc Covid-19 nào trong Hạm đội 7 Hoa Kỳ, đóng Yokosuka (Nhật Bản), nhưng Hải Quân Mỹ đã điều nhiều nhóm y tế và thiết bị cần thiết đến các tầu USS Theodore Roosevelt (CVN 71), US Blue Ridge (LCC 19) và USS America (LHA 6) để có thể xét nghiệm ngay trên tầu mà không cần gửi mẫu bệnh phẩm lên bờ.
Trên thực tế, theo bác sĩ quân y Christine Sears khi trả lời trang America’s Navy, "toàn bộ đội ngũ quân nhân Hạm Đội 7 rất chú ý đến dịch Covid-19 ngay từ đầu và triển khai nhiều biện pháp bảo đảm y tế cộng đồng. Lực lượng nhân viên y tế tăng viện còn giúp tăng cường thêm khả năng chống dịch" của Hạm Đội 7.
Tuy nhiên, chuyên gia Collin Koh lo ngại : "Thế giới có thể sẽ lơ là về những tranh chấp khi ưu tiên chống dịch Covid-19. Điều này cũng có thể xảy ra đối với khu vực Biển Đông". Còn Bắc Kinh, chắc chắn sẽ không ngừng những hành động lấn chiếm, gia tăng quân sự hóa ở Biển Đông trong thời dịch vì ngừng lại là đồng nghĩa với việc gửi một tín hiệu xấu đến công luận Trung Quốc, đang mạnh mẽ chỉ trích cách xử lý dịch của chính quyền trung ương.
Thu Hằng
*******************
Trung Quốc đặt thêm hai 'trạm nghiên cứu khoa học' ở Biển Đông (BBC, 24/03/2020)
Trung Quốc đã lắp đặt hai trạm nghiên cứu tại Đá Chữ Thập và Su Bi thuộc Quần đảo Trường Sa, Tân Hoa Xã tuyên bố trong dịp cuối tuần rồi.
Hình ảnh Đá Su Bi do quân đội Philippines chụp từ hồi 21/4/2017. Nay khu vực này đã có thêm nhiều cơ sở, nhà cửa
Việc thiết lập các trạm nghiên cứu mới sẽ cho phép các khoa học gia sống và nghiên cứu thực địa trong các lĩnh vực sinh thái, địa lý và môi trường, bản tin của China Daily nói.
Trung Quốc nói rằng các trạm này cũng đóng vai trò trong việc theo dõi các thay đổi sinh thái và địa chấn trong các vùng then chốt ở Biển Đông.
Tuy nhiên, việc này được coi như bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đang đẩy mạnh việc thuộc địa hóa Biển Đông vào lúc cả thế giới đang lo phòng chống đại dịch Covid-19, theo một số nhà quan sát.
Là chi nhánh của Trung tâm Nghiên cứu Tích hợp Đảo và Đá ngầm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc và đặt trên Đá Vành khăn kể từ 2018, hai trạm nghiên cứu mới có các hệ thống theo dõi nhằm phục vụ các dự án bảo tồn, theo Tân Hoa Xã.
Tuy nhiên, các địa điểm xây cất mới đây đều nằm trong vùng biển đang có tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các nước khác trong khu vực, trong đó có Việt Nam, Philippines và Đài Loan.
Đá Chữ Thập có tên tiếng Anh là Fiery Cross Reef, Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử Tiêu, còn Philippines gọi llaf Kagitingan ; còn Đá Su Bi có tên tiếng Anh là Subi Reef, Bắc Kinh gọi là Chử Bích Tiêu và Manila gọi là Zamora, là các địa điểm đang có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
Trung Quốc trên thực tế đã nắm quyền kiểm soát những nơi này kể từ 1988, sau khi chiếm từ tay Việt Nam.
Kể từ đó, Bắc Kinh đã bồi đắp những nơi này cùng một số bãi đá, đảo nhỏ khác ở Biển Đông thành các đảo nhân tạo, điều được các nước khác cho là để nhằm biến những nơi này thành tiền đồn quân sự chiến lược trên biển.
Hồi năm 2018, Earthrise Media, một tổ chức phi lợi nhuận, đã phân tích các ảnh chụp Đá Su Bi và phát hiện ra rằng một lượng lớn các tòa nhà, các sân tập, thiết bị radar và cả các sân chơi bóng rổ đã được xây dựng trong thời gian từ 2014 tới nay.
Đá Vành Khăn và Đá Chữ Thập cũng có các cơ sở hạ tầng tương tự, như vị trí đặt tên lửa, đường băng, các nhà kho lớn và nhiều loại thiết bị khác phục vụ cho việc phát hiện, theo dõi vệ tinh, hoạt động quân sự và thông tin liên lạc của nước khác.
Các tàu nạo vét của Trung Quốc được trông thấy ở vùng nước gần Đá Chữ Thập - hình ảnh do máy bay giám sát của Hải Quân Hoa Kỳ chụp hồi tháng 5/2015
Các cơ sở quân sự đó cũng được cho là nơi đặt các thiết bị liên lạc, xây cất bãi đáp máy bay và đặt bệ phóng tên lửa của Trung Quốc.
Chuyên gia an ninh hàng hải Collin Koh được trang tin Global Nation Inquirer của Philippines trích lời, nói việc Trung Quốc xây cất hai trạm nghiên cứu mới vào thời điểm này là một bước tiến quan trọng.
"Một số người cho rằng đại dịch virus corona đang diễn ra sẽ làm Bắc Kinh bớt chú ý tới những tranh chấp trên biển", ông Koh nói. "Sự thực là không hề như vậy. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vẫn sẵn sàng tác chiến".
"Dùng những thứ được cho là 'khoa học phục vụ đời sống dân sự' này để xác quyết các tuyên bố chủ quyền là một cách thức hoạt động mà chúng ta có thể dễ lơ là bỏ qua", ông Koh nhận xét.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ trong việc xác quyết chủ quyền ở các vùng biển tranh chấp tại Biển Đông, bất chấp các phản đối quốc tế.
Nhiều quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, coi đây như bước đi của Bắc Kinh nhằm đưa Trung Quốc trở thành một sức mạnh quan trọng trên thế giới.
Hoa Kỳ đã tăng hiện diện của mình tại Biển Đông trong những năm gần đây, và hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á trong nỗ lực chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực.
Quân đội Mỹ cũng tăng các hoạt động mà Hoa Kỳ gọi là nhằm "thực thi quyền tự do đi lại trên biển, phù hợp với luật pháp quốc tế", với việc nhiều lần đưa tàu chiến vào sát phạm vi 12 hải lý của các đảo nhân tạo Đá Su Bi, Đá Vành Khăn, Đá Chữ Thập.
Gần đây nhất, hải quân Mỹ đã đưa nhóm tàu sân bay USS Theodore Roosevelt tới Đà Nẵng trong 5 ngày, 5-9/3/2020, trong dịp 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam.
Việt Nam cần chủ động trong cuộc chiến truyền thông về Biển Đông
Trương Gia Kiệm, RFA, 26/03/2020
Trung Quốc có tham vọng chiếm đoạt Biển Đông từ rất lâu. Từ những năm 1950, thấy được những lợi ích từ biển và đại dương, Trung Quốc đã tích cực tham gia vào các Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật biển. Trung Quốc cũng ủng hộ chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý, cho dù năm ấy các quốc gia vẫn còn những quan điểm khác nhau về vấn này. Những năm 1980, tướng Lưu Hoa Thanh - Đô đốc Hải quân Trung Quốc lúc đó, đã vạch ra chiến lược tiến ra biển cho Hải quân Trung Quốc.
Hình minh họa. Biểu tình phản đối trước lãnh sự quán Trung Quốc ở Manila, Philippines hôm 17/4/2015 AFP
Với tham vọng đó, Chính quyền Trung Quốc phải tìm được lý do để thuyết phục người dân Trung Quốc. Chính vì vậy, Chính quyền Trung Quốc đã dựa vào một bản đồ không rõ ràng về mục đích và nguồn gốc để thực hiện tham vọng. Đó chính là bản đồ "đường lưỡi bò" đầy tai tiếng. Tuy nhiên, bản đồ này chỉ thực sự chính thức xuất hiện trước cộng đồng quốc tế trong hai công hàm ngày 7/5/2009 của Trung Quốc gửi lên Liên Hợp Quốc. Mặc dù không có cơ sở pháp lý nào, nhưng Trung Quốc vẫn chủ trương dùng sức mạnh của mình để nó thực hiện nó trong thực tế. Các học giả Trung Quốc gửi đi khắp nơi các giải thích khác nhau về "đường lưỡi bò" đó. Một trong các luận điểm quan trọng mà phía Trung Quốc hay sử dụng, cho là "đường lưỡi bò" thể hiện "quyền lịch sử" của Trung Quốc trên Biển Đông.
Năm 2013, "tuyệt vọng" trước sự hung hăng của Trung Quốc, đặc biệt sau sự kiện Philippines mất kiểm soát tại Bãi cạn Scarborough vào tay Trung Quốc, Chính quyền Tổng thống Aquino III đã khởi kiện Trung Quốc tại một Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Năm 2016, sau ba năm thụ lý, Tòa trọng tài đã ra phán quyết, theo đó, cái gọi là "yêu sách về quyền lịch sử" đối với các vùng biển bên trong "đường lưỡi bò" là vô giá trị do không có cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, Chính quyền Trung Quốc đã "không tham gia" ; "không thừa nhận" và "không áp dụng" đối với Phán quyết này.
Tổng thống Philippines đương nhiệm Duterte rất thân thiết với Trung Quốc, không muốn nhắc tới Phán quyết này. Tuy nhiên, mới đây, Bộ Ngoại giao Philippines khi gửi công hàm ngoại giao lên Liên Hợp Quốc phản đối Báo cáo về ranh giới thềm lục địa của Malaysia vẫn tiếp tục viện dẫn Phán quyết. Điều đó cho thấy, Phán quyết sẽ luôn là "nỗi đau nhức nhối" của Trung Quốc.
Do đó, để xoá nhòa Phán quyết này, Chính quyền Trung Quốc đã và đang sử dụng chiến dịch truyền thông để chống lại Phán quyết, đồng thời tô vẽ cho hình ảnh của Trung Quốc. Người Trung Quốc tỏ ra rất giỏi về truyền thông đánh vào tâm lý như vậy. Với các chiến dịch truyền thông liên tục, "mưa dầm thấm lâu", Trung Quốc tin rằng họ có thể "đổi trắng thay đen" được.
Đã có rất nhiều ví dụ về việc Trung Quốc tuyên truyền như vậy. Ngay gần đây, việc Trung Quốc đổ vấy virus Vũ Hán sang cho Hoa Kỳ là một ví dụ tiêu biểu.
Ngoài ra, Trung Quốc còn muốn đổ vấy nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng trên Biển Đông cho các quốc gia khác. Cụ thể là Trung Quốc luôn khẳng định rằng tình hình trên Biển Đông là ổn định. Việc Hoa Kỳ xuất hiện tại khu vực Biển Đông mới là nguyên nhân dẫn đến căng thẳng. Trong khi tất cả mọi người đều biết, "Biển Đông dậy sóng" chính là do các hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Để tiếp tục "hiện thực hóa" "đường lưỡi bò" tai tiếng và vô lý này. Trung Quốc đã dùng sức mạnh của mình đe doạ và uy hiếp các hoạt động của các quốc gia khác ngay tại vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ.
Năm 2019 vừa qua, Trung Quốc đã cho tàu hải cảnh cùng các tàu dân quân biển quấy phá trên vùng biển của Philippines, Malaysia, Việt Nam và Indonesia. Các quốc gia đã lên tiếng phản đối hành động này của Trung Quốc rất quyết liệt. Tuy nhiên, Trung Quốc đang sử dụng chiến thuật "đổ vấy" cho các quốc gia khác, hòng "biến không thành có", thông qua các chiến dịch truyền thông của mình.
Ngày 3/2/2020, một Think Tank của Trung Quốc là SCSPI đã đăng một báo cáo khẳng định rằng nhiều tàu cá Việt Nam đã xâm phạm trái phép vùng biển xung quanh đảo Hải Nam của Trung Quốc nhằm mục đích do thám. Nhiều báo chí quốc tế đã dẫn lại thông tin từ báo cáo này.
Đến ngày 5/3/2020, Think Tank này tiếp tục ra báo cáo thứ hai. Trong báo cáo này, họ đưa ra dữ liệu để khẳng định rằng, có 311 tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển của Trung Quốc, bao gồm cả khu vực đảo Hải Nam.
Think Tank này trong phần giới thiệu cho biết họ thuộc Trường đại học Bắc Kinh. Trường đại học Bắc Kinh là một trong những trường đại học công lập lớn nhất của Trung Quốc. Và vì thế, không khó mà đoán biết được sức mạnh thực sự của Think Tank này cùng với những liên hệ với Chính quyền Trung Quốc.
Có một nhóm nghiên cứu tự phát ở Việt Nam có tên tiếng Việt là Dự án Đại sự ký Biển Đông (SCSCI) tranh luận về các cáo buộc cũng như kiểm tra các dữ liệu mà SCSPI của Trung Quốc đưa ra. Vì là nhóm tự phát, với nguồn lực vô cùng hạn chế, cho nên Dự án Đại sự ký Biển Đông chưa thể kiểm tra hết các dữ liệu mà phía SCSPI cung cấp.
Phía Dự án Đại sự ký Biển Đông sau khi kiểm tra khoảng 5% số dữ liệu mà phía SCSPI cung cấp thì chưa phát hiện được nguồn dữ liệu này có vấn đề gì.
Qua trao đổi với một số nguồn có liên hệ trực tiếp với ngư dân Việt Nam thì được biết thực tế, có một số tàu cá của ngư dân Việt Nam có vào vùng biển của Trung Quốc. Có hai lý do mà ngư dân cho biết khi họ mang tàu cá đi vào trong vùng biển của Trung Quốc. Đó là :
Như vậy, với bối cảnh nhiều báo cáo từ EU cho thấy tình trạng đánh bắt cá trái phép của ngư dân Việt Nam (IUU) không giảm. Cộng với việc bỗng dưng các lực lượng Trung Quốc rất "bao dung" với các tàu cá Việt Nam được "thoải mái" vào sâu trong vùng biển của Trung Quốc. Rất có thể đây là một chiến thuật "cao tay" từ Trung Quốc. Một mặt, họ ngầm "tạo điều kiện" cho các tàu cá Việt Nam vào sâu trong vùng biển Trung Quốc. Mặt khác, cơ quan chức năng Trung Quốc thu thập dữ liệu các tàu cá này làm bằng chứng cáo buộc trước quốc tế là các tàu cá Việt Nam xâm nhập trái phép vùng biển của Trung Quốc không ngoại trừ mục đích do thám.
Đứng trước tình hình này, thiết nghĩ, Chính quyền Việt Nam cần thực hiện hai việc sau :
1. Cần phải thông báo cho các ngư dân Việt Nam biết được các tác hại đối với hình ảnh Việt Nam của việc xâm nhập vào các vùng biển của Trung Quốc. Khi Chính quyền Trung Quốc đột ngột thay đổi thái độ thì sự an toàn của các ngư dân sẽ bị đối mặt với nguy hiểm khó có thể biết trước.
2. Các cơ quan chức năng Việt Nam, hàng năm thường thông tin là có hàng ngàn tàu cá "lạ" xâm nhập trái phép vùng biển Việt Nam, trong đó có các tàu cá Trung Quốc. Tuy nhiên, thông tin chỉ chung chung như vậy. Các cơ quan chức năng Việt Nam cần cung cấp rõ thông tin cụ thể từng tàu cá vi phạm này, để phía Việt Nam có thể sử dụng thông tin để cung cấp cho quốc tế nếu thấy cần thiết.
Trương Gia Kiệm
Nguồn : RFA, 26/03/2020
*********************
Chiến tranh thông tin về Biển Đông của Trung Quốc
Nguyễn Hải Quân, RFA, 24/03/2020
Trong Cổ học tinh hoa có truyện "Tăng Sâm giết người". Tăng Sâm hay chính là Tăng Tử, một người nổi tiếng là hiền hậu, hiếu kính. Một ngày, có người chạy đến nói với mẹ của Tăng Tử là : Tăng Sâm giết người. Bà mẹ không tin. Nhưng tới người thứ 3 đến nói : Tăng Sâm giết người thì bà mẹ thực sự hoảng sợ. Sự thực là có người trùng tên là Tăng Sâm mới giết người, chứ không phải là Tăng Tử.
Hình minh họa. Bản đồ Biển Đông có đường lưỡi bò mà Trung Quốc tự vẽ ra trên biển - AFP
Câu chuyện đó cho thấy, từ xa xưa, người Trung Quốc đã biết đến yếu tố tác động đến tâm lý, cho dù nó không phải là sự thật, nhưng cũng khiến người ta tin vào nó.
Thế kỷ 20, ông trùm về tuyên truyền của Đức Quốc xã là Joseph Goebbels cũng đã chủ trương : "Nếu đưa một lời nói dối đủ lớn, nhưng lặp đi lặp lại nó, sẽ khiến người khác tin lời nói dối đó là sự thật". Đây cũng là những ý tưởng cho việc sử dụng chiến tranh tâm lý của các quốc gia trên thế giới.
Khi Trung Quốc vươn mình sau giấc ngủ dài, Trung Quốc đã tính đến chuyện thay thế địa vị của Hoa Kỳ để "thống trị thế giới". Và Trung Quốc bắt đầu từ Biển Đông.
Ngày nay, khi Trung Quốc muốn thay thế vị trí của Hoa Kỳ, nhiều người nghĩ rằng, có khi hai đại cường phải trải qua một trận quyết đấu để phân thắng bại. Tuy nhiên, Dennis F. Poindexter, tác giả của cuốn sách "Chiến tranh thông tin của Trung Quốc", thì nghĩ khác.
Theo ông ta, viễn cảnh một cuộc đối đầu quân sự giữa hai cường quốc Mỹ - Trung là khó xảy ra, nhưng chiến tranh không nhất thiết phải là chiến tranh quân sự, và kỳ thực, Trung Quốc đang sử dụng cuộc chiến tranh ngoài quân sự để có thể đạt được mục đích tối thượng của mình. Điều này, như trong Binh pháp Tôn Tử của người Trung Quốc cổ xưa đã cho rằng "không đánh mà thắng mới là thượng sách". Đó chính là cuộc chiến tranh thông tin của Trung Quốc (Information War), nhằm đoạt vị trí "thiên tử" như xưa kia.
Một trong các biểu hiện của chiến tranh thông tin của Trung Quốc đó là mặc dù cả thế giới đang nguy hiểm trước đại dịch Covid-19, mà virus này khởi phát từ Vũ Hán (Trung Quốc), nhưng gần đây, Trung Quốc đang dùng chiến dịch truyền thông để xóa nhòa ký ức của mọi người về nguồn gốc của virus. Thậm chí, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc còn tìm cách đổ cho virus xuất phát từ quân đội Hoa Kỳ mang tới Trung Quốc.
"Tam chủng chiến pháp"
Theo một nghiên cứu của Doug Livermore, thì "Tam chủng chiến pháp" của Quân đội Nhân dân Trung Quốc (PLA) chính là một phần của cuộc chiến tranh thông tin mà Trung Quốc đang phát động.
Tam chủng chiến pháp của PLA bao gồm : Chiến tranh tâm lý ; Chiến tranh truyền thông và Chiến tranh luật pháp.
Chiến tranh tâm lý bao gồm các hoạt động của lực lượng quân sự và/hoặc các lực lượng bán quân sự tiến hành trong giai đoạn chưa xảy ra xung đột quân sự. Các hoạt động này nhằm đe dọa tâm lý của đối phương. Các hoạt động này còn được hỗ trợ bởi các cơ quan thuộc các lĩnh vực khác như ngoại giao, kinh tế, văn hoá…
Chiến tranh truyền thông bao gồm các hoạt động công khai và bí mật nhằm chi phối truyền thông.
Chiến tranh luật pháp là các hoạt động khai thác tối đa các lĩnh vực liên quan từ hệ thống pháp luật quốc gia cho đến hệ thống pháp luật quốc tế nói chung để nhằm giành lợi thế và bảo vệ các "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc.
"Tam chủng chiến pháp" được chia thành ba loại hình cho dễ nhớ và dễ nhận biết. Trong thực tế, cả ba loại hình này được Trung Quốc phối kết hợp một cách nhuần nhuyễn, cái nọ bổ sung và hỗ trợ cho cái kia.
"Tam chủng chiến pháp" trên mặt trận Biển Đông
Trung Quốc muốn thay thế được vị trí của Hoa Kỳ thì trước hết phải làm "bá chủ biển khơi". Chính vì thế, Biển Đông được Trung Quốc chọn làm bước mở đầu để Trung Quốc tiến ra biển. Vì vậy, Trung Quốc xác định Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc. Và cuộc chiến tranh thông tin trên mặt trận Biển Đông đã được Trung Quốc ráo riết thực hiện.
Để có lý do "hợp lý" cho việc đòi sở hữu 80% Biển Đông, Trung Quốc đã tung ra cái gọi là yêu sách "đường lưỡi bò". Mặc dù cái gọi là yêu sách này không dựa trên cơ sở nào của luật pháp quốc tế cả. Nhưng Trung Quốc tìm mọi cách để biện minh cho cái gọi là yêu sách này. Trung Quốc biết sức mạnh của câu chuyện "Tăng Sâm giết người", nói một lần không tin thì nói trăm lần cũng phải tin. Và Trung Quốc, một mặt tìm mọi cách để tuyên truyền về "đường lưỡi bò", từ hộ chiếu của người dân Trung Quốc đi du lịch có in hình này, đến các phần mềm xe hơi, các bản đồ, địa cầu, phim ảnh…. Mới đây nhất là việc Đại sứ quán Trung Quốc tại Ý, trên Fanpage Facebook của mình, khi cám ơn nước Ý, nhưng cũng đồng thời "trương" tấm bản đồ có "đường lưỡi bò" chình ình trong đó. Thậm chí, Trung Quốc còn tìm cách "mua" một số học giả quốc tế nổi tiếng, thông qua việc ưu đãi họ, cấp cho họ học bổng nghiên cứu, để họ viết bài ủng hộ cho lập trường của Chính phủ Trung Quốc. Tiêu biểu cho các học giả này là Mark Valencia từ Mỹ, Sam Bateman từ Australia… Song song đó, Trung Quốc cho đội ngũ các nhà khoa học của mình tập trung trình bày các luận điểm của mình một cách khéo léo để bảo vệ lập trường của Chính phủ Trung Quốc. Ví dụ, Tạp chí Trung Quốc về Luật quốc tế (Chinese Journal of International Law) là một diễn đàn được các học giả Trung Quốc thành lập ngay tại đại học Oxford (Anh Quốc). Tạp chí này đã dành một số đặc biệt hơn 500 trang để bác bỏ Phán quyết Biển Đông năm 2016 của Tòa trọng tài quốc tế theo phụ VII của UNCLOS.
Trên thực địa, Trung Quốc sử dụng các lực lượng dân quân biển để quấy rối các tàu của các quốc gia đi lại hay thăm dò trên khu vực Biển Đông, cho dù các hoạt động đó diễn ra trên vùng biển của họ hay vùng biển quốc tế. Sự quấy rối này của các tàu dân quân biển Trung Quốc sẽ khiến các quốc gia khó có thể gây căng thẳng cho Trung Quốc khi mối đe dọa này vẫn ở "vùng xám", tức là dưới ngưỡng chiến tranh. Tuy nhiên, các lực lượng hải quân Trung Quốc luôn bên cạnh để bảo vệ và hỗ trợ các tàu dân quân biển Trung Quốc này. Các trường hợp cắt cáp tàu thăm dò Việt Nam năm 2011, triển khai giàn khoan HD 981, quấy phá hoạt động thăm dò khai thác của Việt Nam, Malaysia, Philippines. Indonesia trong suốt thời gian vừa qua là nhằm vào mục đích này.
Trung Quốc cũng áp dụng chiến thuật tâm lý, đặt ra nguy cơ của một cuộc chiến quân sự có thể nổ ra, và nhấn mạnh vào mức độ và quy mô của PLA, và nhắc đi nhắc lại về khả năng chiến thắng và sức mạnh của Hải quân Trung Quốc, khiến các quốc gia ASEAN khác phải lo sợ. Đồng thời, Trung Quốc cũng đe dọa chiến tranh kinh tế nếu có quốc gia nào chống lại âm mưu của Trung Quốc. Philippines năm 2013, khi bắt đầu khởi kiện Trung Quốc đã gặp phải sự trừng phạt kinh tế như vậy.
Việt Nam cần có chiến lược để chống lại chiến tranh thông tin từ Trung Quốc
Trong các quốc gia ASEAN tham gia tranh chấp Biển Đông, Việt Nam là quốc gia đặc biệt được Trung Quốc lưu tâm. Một mặt, bởi vì Việt Nam có chung biên giới đất liền với Trung Quốc ; Việt Nam cũng là nước chịu nhiều ảnh hưởng từ Trung Quốc, từ văn hóa, kinh tế, thể chế chính trị. Việt Nam là nước duy nhất ở ASEAN có hệ thống chính trị gần gũi với Trung Quốc, với sự "cai trị" của Đảng cộng sản, nhưng được gọi bằng cái tên mỹ miều là "Đảng lãnh đạo". Tuy nhiên, mặt khác, đặc biệt là việc người dân Việt Nam rất ghét sự tham lam vô độ , muốn chiếm cả Biển Đông của Chính phủ Trung Quốc.
Chính vì vậy, Trung Quốc đã ráo riết triển khai và áp dụng "tam chủng chiến pháp" đối với Việt Nam, và không thể nói là không có những tác dụng nhất định.
Việc đe dọa tiến hành chiến tranh bằng việc thực hiện các hành động dưới ngưỡng chiến tranh của các lực lượng dân quân biển trong suốt thời gian qua, cùng với những đe dọa về chính trị, ngoại giao, kinh tế… đã khiến nhiều lãnh đạo Việt Nam tê liệt ý chí đối kháng trước Trung Quốc. Trong sự kiện căng thẳng tại khu vực Bãi Tư Chính năm 2019, từ Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đến Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đều không dám đả động đến Trung Quốc và tình hình căng thẳng tại khu vực Tư Chính trong các phát biểu của mình.
Mặc dù là bên khởi phát và chịu nhiều ảnh hưởng của virus Vũ Hán, nhưng Trung Quốc vẫn không ngừng nghỉ các tham vọng của mình, và cuộc chiến tranh thông tin vẫn được Trung Quốc thúc đẩy, thậm chí còn mạnh hơn trước. Vì Trung Quốc thấy được đây là thời cơ của mình, trong khi cả thế giới tập trung chống dịch.
Mới đây, một Think Tank của Trung Quốc (có thể do Chính phủ Trung Quốc hỗ trợ đằng sau) là SCSPI đã hai lần cung cấp báo cáo về việc các tàu cá Việt Nam xâm nhập trái phép khu vực biển của Trung Quốc nhằm mục đích thu thập thông tin tình báo. Đây chính là một điển hình cho việc dùng chiến tranh thông tin của Trung Quốc. Báo cáo này dựa trên các dữ liệu thu thập từ các AIS. Tuy nhiên, một câu hỏi đơn giản là nếu các tàu Việt Nam xâm nhập trái phép các vùng biển của Trung Quốc để thu thập thông tin tình báo thì ngu gì họ lại bật thông tin AIS để phía Trung Quốc có thể dễ dàng phát hiện và nhận dạng ? Cách sử dụng thông tin này cũng tương tự với việc Trung Quốc đổ cho virus Vũ Hán là do quân đội Hoa Kỳ mang tới.
Tuy nhiên, vấn đề là Việt Nam đã có chiến lược để đối phó với chiến tranh thông tin của Trung Quốc chưa ? Câu trả lời là dường như chưa thấy. Có thể các nghiên cứu của Quân đội Việt Nam về vấn đề này vẫn còn nằm trong vòng bí mật ? Tuy nhiên, các hành động của Chính phủ Việt Nam cho thấy phía Việt Nam hoàn toàn bị động, chạy theo giải quyết sự việc mà thôi. Chỉ đơn giản nếu Việt Nam không có một chiến lược chủ động, nếu Trung Quốc lặp đi lặp lại các hành động như đã làm tại khu vực Bãi Tư chính hồi năm ngoái thì về lâu về dài, phía Việt Nam sẽ dần dần kiệt sức, không thể chạy mãi theo Trung Quốc được.
Nguyễn Hải Quân
Nguồn : RFA, 24/03/2020
Trong cuộc khủng hoảng toàn cầu do virus Vũ Hán gây ra, Bắc Kinh đang sử dụng các kỹ năng phổ biến các tin tức giả, trục xuất các nhà báo Mỹ và chỉ đạo giới học giả lập luận hoạch định chính sách và viết các câu chuyện sai sự thật.
Valencia, cùng với Chủ tịch của viện, Tiến sĩ Wu Shicun, là những người tham gia thường xuyên tại các hội nghị ở Biển Đông, và tiếp tục đưa ra những lập luận học thuật cho chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển tranh chấp, trong nỗ lực chung nhằm duy trì chiến dịch tuyên truyền của Bắc Kinh.
Để rõ ràng, Viện này nằm dưới sự quản lý của chính quyền tỉnh Hải Nam, và làm theo chỉ đạo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng như Cục Quản lý Đại dương nhà nước Trung Quốc. Bắc Kinh cố gắng thúc đẩy mục tiêu thiết lập và hợp pháp hóa quyền kiểm soát hành chính đối với Biển Đông thông qua các học giả đóng vai trò bán chính thức trong việc soạn thảo các bài báo và ý kiến phản ánh lợi ích cốt lõi của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Valencia trong bài viết của mình đã nhào trộn các khái niệm lại với nhau và dẫn dắt sai về một số điểm.
Đầu tiên, từ tiêu đề, gọi mối quan hệ Mỹ-Việt là một liên minh là sai lệch và tự mâu thuẫn. Dù bản thân tác giả đã trích dẫn nguyên tắc quốc phòng của Việt Nam là không liên minh quân sự, không đứng về phía một quốc gia chống lại một quốc gia khác và không cho phép căn cứ quân sự nước ngoài được thiết lập.
Thứ hai, gán ghép yêu cầu của Việt Nam về thông báo trước từ các tàu nước ngoài thực hiện quyền đi lại vô hại qua lãnh hải của mình với ý định của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông là sai lệch.
Việt Nam có quyền tài phán đối với lãnh hải của mình như được xác định theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển, trong khi các đảo nhân tạo do Trung Quốc bồi lấp ở Biển Đông không được coi là lãnh thổ theo phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016. Phán quyết tiếp tục khẳng định rằng cái gọi là đường chín đoạn của Bắc Kinh, không có cơ sở trong luật pháp quốc tế. Hải quân Hoa Kỳ, dưới quyền tự do hoạt động hàng hải (FONOPs), thực hiện quyền tự do đi lại trong phạm vi 12 hải lý thuộc các đảo nhân tạo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền hoặc chiếm đóng để thách thức các yêu sách hàng hải của Bắc Kinh.
Viết về FONOPs, Valencia đề cập thêm rằng, Hoa Kỳ không công nhận các yêu sách của Việt Nam đối với các khu vực của Trường Sa nhưng không ở trên mặt nước khi thủy triều lên cao, nhưng thực tế FONOP của Hoa Kỳ không có liên quan đến tranh chấp chủ quyền đối với các đặc điểm trên đất liền.
Điểm sai lầm thứ ba trong tin tuyên truyền của Valencia là ông đã đánh đồng chuyến thăm tàu sân bay thứ hai của Hoa Kỳ đến Việt Nam vào tháng 3 năm 2020 với lập luận rằng, lần truy cập cảng này, Việt Nam không yêu cầu sự cho phép trước đó hoặc Hoa Kỳ không cho phép trước – hoặc cả hai. Cái sai mà mệnh đề Valencia lập luận nằm ở chỗ, đòi hỏi một điểm dừng chân cho một con tàu trong hành trình vận hành hàng hóa hoặc tiếp nhận nguồn cung cấp hoặc nhiên liệu, trong khi cái sau nhấn mạnh việc đi qua lãnh hải của một quốc gia khác. Hoa Kỳ và Việt Nam đã làm việc cùng nhau trong nhiều tháng để hiện thực hóa chuyến thăm.
Ông cũng cho biết thêm, Hoa Kỳ hy vọng rằng việc tiếp cận các cảng của Việt Nam sẽ thay thế các địa điểm ở Philippines. Điều này thật khó hiểu vì bản chất của mối quan hệ Mỹ-Việt và Mỹ-Philippines là khác nhau. Việt Nam không tìm cách trở thành đồng minh của Hoa Kỳ, và do đó, không thể so sánh hoặc thay thế Philippines.
Hơn nữa, logic của Valencia là Việt Nam và Hoa Kỳ đã cùng nhau chống lại Trung Quốc mà không xem xét sự khác biệt trong hệ thống chính trị và hệ tư tưởng của hai quốc gia, từ đó sẽ dẫn đến một liên minh ngắn ngủi. Tuy nhiên, hai nước biết rõ sự khác biệt và đã vượt qua những điều đó để hợp tác chặt chẽ với nhau.
Mặc dù có mối quan tâm chung về hành vi gây hấn của Trung Quốc tại Biển Đông đã tạo điều kiện cho mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ phát triển, nhưng hợp tác về các vấn đề di sản chiến tranh đóng vai trò quan trọng trong việc tái lập quan hệ ngoại giao và dẫn đến sự phát triển quan hệ đối tác toàn diện giữa hai quốc gia. Việc tăng cường quan hệ với Mỹ cũng là một phần trong chính sách của Việt Nam về đa dạng hóa và đa phương hóa của mối quan hệ với các cường quốc.
Lập luận chính của Valencia là sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam khiến mối quan hệ chiến lược vững chắc và lâu dài là khó có thể xảy ra. Tuy nhiên, báo cáo quốc phòng trắng của Việt Nam 2019 cho rằng, tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển quan hệ quân sự và quốc phòng cần thiết, phù hợp với các quốc gia khác, bất kể sự khác biệt về chế độ chính trị và mức độ phát triển. Hà Nội coi đó là tự vệ, và không xung đột với nguyên tắc không dựa vào một quốc gia chống lại một quốc gia khác.
Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục có ý thức hệ và quan hệ kinh tế mạnh mẽ, nhưng rõ ràng rằng Trung Quốc không tôn trọng bất kỳ thỏa thuận nào mà hai nước có được liên quan đến Biển Đông. Do đó, Việt Nam đã cố gắng giảm sự phụ thuộc kinh tế vào nền kinh tế Trung Quốc bằng cách tích cực đàm phán các hiệp định thương mại tự do với các cường quốc khác. CPTPP và EVFTA đóng góp đáng kể cho những nỗ lực này.
Bich T. Tran & James Borton
Diễm My dịch
Nguồn : VNTB, 23/03/2020
Đảo Hải Nam có vị trí chiến lược đối với Trung Quốc trong vùng Biển Đông. Tại thành phố Tam Á, phía nam hòn đảo rộng 34.000 km2, Trung Quốc lập một căn cứ quân sự hùng hậu nhằm cân bằng với sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương, đặc biệt phải kể đến đội tầu ngầm (tấn công quy ước và hạt nhân) thuộc Hạm Đội Nam Hải.(Tạp chí phát lần đầu ngày 04/06/2018)
Thủ phủ Hải Khẩu của tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 06/05/2018. China Daily via REUTERS
Đảo Hải Nam còn hỗ trợ về mặt hậu cần và quân sự cho các đảo và đá bị Trung Quốc kiểm soát ở Biển Đông, trong đó có 7 hòn đảo nhân tạo ở Trường Sa, nằm cách Hải Nam hơn 1.000 km.
Ngoài vai trò chiến lược về mặt quân sự, tháng 04/2018, chủ tịch Trung Quốc nâng tầm của Hải Nam lên một bậc khi quyết định biến hòn đảo thành vùng tự do thương mại . Chưa đầy một tháng sau, chính quyền địa phương đã khởi công ba dự án công nghiệp lớn trong khu vực Hainan Resort Software Community và đưa ra chính sách đãi ngộ nhằm thu hút một triệu tài năng, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Theo chính sách mới, công dân 59 nước được miễn visa du lịch với thời hạn lưu trú tối đa là 30 ngày với điều kiện đặt tour qua các hãng lữ hành.
Nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 300 km, chiến lược thay đổi trên đảo Hải Nam có tác động như thế nào đối với Việt Nam và các nước trong khu vực, cũng như trong chiến lược đòi chủ quyền trên gần toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc ? Ban tiếng Việt đài RFI đã đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Mathieu Duchâtel, chuyên gia về Trung Quốc, trợ lý giám đốc chương trình Châu Á của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu (European Council on Foreign Relations).
----------------
RFI : Đảo Hải Nam có vị trí chiến lược như thế nào đối với miền bắc Việt Nam và trong vùng ?
Mathieu Duchâtel : Đảo Hải Nam dĩ nhiên là có một vị trí chiến lược theo hai hướng. Trước hết, bởi vì đảo là tiền đồn, vừa là của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc, đặc biệt là Hải Quân và Không Quân nhằm phô trương sức mạnh Trung Hoa ở Biển Đông, vừa là của lực lượng dân quân, đóng chủ yếu ở bên bờ đông của đảo, giúp Trung Quốc duy trì sự hiện diện quan trọng ở Biển Đông. Chính vì vậy, đảo Hải Nam là một tiền đồn thực sự quan trọng đối với Trung Quốc.
Tiếp theo, yếu tố quan trọng nhất khi chúng ta chú ý một chút đến cách tiếp cận của Trung Quốc về vấn đề tranh chấp lãnh hải, chính là ý đồ răn đe hạt nhân của Trung Quốc vì tại căn cứ hải quân Du Lâm (Yulin), nằm ở phía nam đảo Hải Nam, có đội tầu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) đang tìm lối ra vùng biển sâu để có thể trú ẩn, xây dựng sức răn đe hạt nhân và khả năng tấn công của Trung Quốc.
Đây là một chi tiết thường ít được nhắc đến khi nói về vấn đề hàng hải ở Đông Nam Á, nhưng đây lại là yếu tố hoàn toàn mang tính quyết định để hiểu được cách tiếp cận của Trung Quốc và những gì mà nước này đang tiến hành, có nghĩa là các công trình xây dựng tiền đồn quân sự trên đảo Phú Lâm, ở quần đảo Hoàng Sa và trên các đá Chữ Thập, đá Xu Bi, đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa, vừa để bảo vệ đội tầu ngầm vừa để đảm bảo sự hiện diện hải quân ở trong vùng.
RFI : Trung Quốc sử dụng căn cứ hải quân ở đảo Hải Nam như thế nào ?
Mathieu Duchâtel : Điều quan trọng đối với tôi chính là đội tầu ngầm mang tên lửa đạn đạo vì đây là yếu tố vô cùng quan trọng đối với mọi chính sách quốc phòng của Trung Quốc. Điều cần chú ý là Trung Quốc đã đưa ra chương trình trong những năm 1960 và cố đóng được một tầu ngầm tấn công có năng lực đáng tin cậy. Để thực hiện được điều này, yếu tố đầu tiên là tầu phải có khả năng ra khỏi căn cứ mà không bị theo dõi, một cách kín đáo và có thể ẩn trong đại dương, mà không bị tầu ngầm, hoặc máy bay tuần tra hàng hải của Mỹ phát hiện.
Dù nếu không bị phát hiện, nhưng để có khả năng răn đe hạt nhân một cách tin cậy, tầu ngầm đó phải có khả năng bắn được các tên lửa liên lục địa. Tuy nhiên, về điểm này, Trung Quốc vẫn chưa phát triển được một cách khả quan, ví dụ theo những gì chúng tôi được biết, loại tên lửa JL-2 mà nước này đang phát triển chưa đạt hiệu quả. Còn tên lửa JL/3 thế hệ mới vẫn chưa hoạt động.
Điểm lý thú có thể nhận thấy trong sự năng động này, đó là Trung Quốc có căn cứ quân sự ở phía nam đảo Hải Nam, cùng với nhiều tầu ngầm tấn công, nhưng lại chưa có khả năng răn đe hạt nhân mà nước này vẫn tìm kiếm.
Vì thế, Trung Quốc đang trong giai đoạn tăng tốc hiện đại hóa. Đây cũng là một cách giải thích cho những hoạt động của Trung Quốc ở phía nam đảo Hải Nam, ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc cần bảo vệ căn cứ hải quân và đội tầu ngầm này để sớm trang bị được khả năng răn đe dưới đại dương, hiện vẫn còn thiếu. Đó là một yếu tố vô cùng quan trọng trong cách tiếp cận của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này giải thích một phần những công trình xây dựng quân sự mà chúng ta thấy được tiến hành với nhịp độ rất nhanh.
RFI : Sự kiện oanh tạc cơ Trung Quốc diễn tập hạ cánh ở đảo Phú Lâm có liên quan đến căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam hay không ?
Mathieu Duchâtel : Tôi cho rằng việc oanh tạc cơ chiến lược hạ cánh trên đảo Phú Lâm mang một ý nghĩa khác. Sự kiện đó mang ý nghĩa răn đe, không phải đối với Hoa Kỳ mà là với các nước trong khu vực đang có tranh chấp với Bắc Kinh, như Việt Nam, Philippines.
Loại oanh tạc cơ H-6K này được truyền thông giới thiệu rất nhiều là một loại oanh tạc cơ nguyên tử, điều này là đúng ! Và có khả năng tấn công đến tận đảo Guam, điều này cũng đúng ! Nhưng tôi không cho rằng Bắc Kinh muốn phô trương khả năng hạt nhân của loại oanh tạc cơ H-6K mà thực ra, muốn chứng tỏ với khu vực rằng Trung Quốc có khả năng tấn công quy ước, ví dụ đến những thực thể ở Trường Sa do các nước khác kiểm soát.
Ngược lại, những hoạt động mà Trung Quốc đang tiến hành ở các đá Xu Bi, Vành Khăn, Chữ Thập, như lập hệ thống phòng không, chống hạm, đúng là nhằm mục đích bảo vệ đội tầu ngầm hạt nhân và ngăn chặn điều cản trở nhất đối với Trung Quốc, có nghĩa là cách giám sát, chủ yếu là từ phía Mỹ, các hoạt động hàng hải và tầu ngầm mà Trung Quốc luôn tự cho mình là nạn nhân.
RFI : Đảo Hải Nam có vai trò như thế nào trong chiến lược đòi chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực ?
Mathieu Duchâtel : Trung Quốc có một logic là làm chuyện đã rồi về mặt hành chính trong khu vực. Có nghĩa là nói với các nước láng giềng trong khu vực và cộng đồng quốc tế, theo kiểu : "Hãy nhìn đây, tôi thực sự quản lý hành chính vùng này. Khu vực này nằm dưới quyền quản lý hành chính trực tiếp của chúng tôi !"
Thành phố Tam Á (Sanya) được hình thành theo kiểu đó và là hình ảnh phản chiếu cho cộng đồng quốc tế thấy rằng Trung Quốc đã quản lý vùng này. Vì vậy, Hải Nam đóng một vai trò quan trọng.
RFI : Khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình quyết định biến đảo Hải Nam thành một khu vực tự do thương mại, ông muốn đưa ra chiến lược gì ?
Mathieu Duchâtel : Có một điểm rất quan trọng là tất cả những gì liên quan đến kinh tế, đặc biệt là kinh tế biển, Hải Nam từng là một tỉnh đầu tầu trong chương trình cải cách của Đặng Tiểu Bình. Năm 2018, nhân dịp 30 năm thành lập tỉnh Hải Nam, ông Tập Cận Bình thông báo xây dựng một vùng tự do thương mại hướng đến lĩnh vực biển. Ông thậm chí còn nói là Hải Nam sẽ trở thành viên ngọc trai của Trung Quốc.
Như vậy, ông Tập biến Hải Nam thành biểu tượng của chính sách mở cửa của Trung Quốc và đặc biệt nhấn mạnh vào lĩnh vực du lịch. Hiện Hải Nam có cả một kế hoạch thu hút khách du lịch nước ngoài lưu lại lâu hơn trên đảo, như không cần visa, thời hạn lưu trú dài hơn so với những thành phố khác của Trung Quốc. Người ta nhận thấy có sự tăng tốc trong tiến trình mở cửa ở Hải Nam. Vì là một hòn đảo, Hải Nam không dính với phần còn lại của Trung Hoa lục địa nên có thể dễ dàng thử nghiệm hơn những chính sách theo hướng mở cửa.
Cũng cần chú ý là tất cả những gì liên quan đến kinh tế biển như vận tải hàng hải, chuyên chở container, du lịch biển, đánh bắt hải sản, tất cả những gì liên quan đến sinh vật biển, sử dụng sản vật biển để bào chế thuốc… đang phát triển rất mạnh. Đó là những lĩnh vực mà Trung Quốc chú trọng và đảo Hải Nam đóng một vai trò thực sự quan trọng.
Đây cũng là một thách thức chính trị, cạnh tranh giữa các tỉnh miền nam Trung Quốc, như Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang… để trở thành tỉnh dẫn đầu về ngành kinh tế biển. Ở điểm này, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thật sự lựa chọn Hải Nam làm tiền đồn để phát triển một nền kinh tế hướng đến tự do trao đổi nhiều hơn, mở cửa hơn với những chính sách ưu đãi để phục vụ tiến trình quốc tế hóa của đảo. Những chính sách này rất có lợi cho sự phát triển của Hải Nam.
RFI : Du lịch Hải Nam phát triển mạnh có gây tác động đến Việt Nam và các nước khác trong vùng không ?
Mathieu Duchâtel : Có, tôi nghĩ là sẽ có tác động vì Trung Quốc đã phát triển du lịch ở quần đảo Hoàng Sa mà nước này chiếm từ Việt Nam và đang quản lý hành chính. Thông qua hình thức du lịch, Trung Quốc tìm cách củng cố quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 23/03/2020
Trung Quốc, Mỹ liên tục tập trận ở Biển Đông (Thanh Niên, 22/03/2020)
Tờ South China Morning Post (SCMP) hôm qua (21/3) dẫn thông báo từ quân đội Trung Quốc cho hay máy bay quân sự nước này vừa tiến hành cuộc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông.
Hạm đội Thái Bình Dương - Máy bay ném bom B-52H cùng chiến đấu cơ F-15C bay phía trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và tuần dương hạm USS Bunker Hill ở biển Philippines, ngày 18/3/2020
Thông báo nói rằng cuộc tập trận diễn ra trong tháng này, không lâu trước khi nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ do hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt dẫn đầu cùng một đơn vị đổ bộ thực hiện cuộc huấn luyện ở Biển Đông trong thời gian gần đây.
Trong thông báo, quân đội Trung Quốc khoe rằng máy bay đã xác định thành công nhiều mục tiêu khả nghi và một phi công tham gia tập trận nói rằng việc hai máy bay cùng tham gia làm gia tăng khả năng phát hiện tàu ngầm.
Chuyên gia quốc phòng Swee Lean Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore) nhận định cuộc tập trận của Trung Quốc nhằm phản ứng không chỉ hoạt động gần đây của nhóm tác chiến tàu sân bay USS Theodore Roosevelt mà còn sự hiện diện ngày càng gia tăng của hải quân Mỹ ở Biển Đông.
Ông Koh còn đánh giá không có gì ngạc nhiên nếu tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân của Trung Quốc hoạt động trong vùng xung quanh một nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ.
Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt cùng tuần dương hạm USS Bunker Hill thăm Đà Nẵng từ ngày 5 - 11/3/ Đến ngày 15 - 18.3, các tàu thuộc các nhóm tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt (TRSG) cùng nhóm tấn công viễn chinh Mỹ (AMAESG) và Đơn vị viễn chinh đổ bộ 31 thực hiện các hoạt động của lực lượng tấn công viễn chinh (ESF) ở Biển Đông, theo thông báo đăng trên website của hải quân Mỹ.
Thông báo nhấn mạnh ESF giúp gia tăng khả năng của hai nhóm tấn công TRSG và AMAESG trong việc đối phó các mối đe dọa và hành động thù địch, đồng thời duy trì ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Bên cạnh đó, cũng hôm qua, thông qua mạng xã hội Twitter, Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đăng tải bức ảnh với chú thích máy bay ném bom B-52H cùng chiến đấu cơ F-15C bay trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và tuần dương hạm USS Bunker Hill ở biển Philippines. Theo chú thích bức ảnh, đây là hình ảnh từ cuộc tập trận phòng không chung của hải quân và không quân.
Trước đó ngày 18/3, Hạm đội Thái Bình Dương đã đăng ảnh chiến đấu cơ F/A-18F hạ cánh xuống tàu sân bay ở biển Philippines.
Văn Khoa
*****************
Hải quân Trung Quốc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông (Zing, 21/03/2020)
Trung Quốc thông báo hải quân nước này tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông vào đầu tháng 3. Các học giả cho biết Bắc Kinh đang quyết tâm cải thiện khả năng chống tàu ngầm.
Cuộc tập trận chống ngầm có sự tham gia của hai máy bay của hải quân PLA. Ảnh : South China Morning Post.
Máy bay quân sự Trung Quốc gần đây tiến hành tập trận chống tàu ngầm trên Biển Đông, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (PLA) cho biết hôm 20/3.
Cuộc tập trận có sự tham gia của hai máy bay được tiến hành vào đầu tháng, không lâu trước khi các đơn vị hải quân Mỹ tham gia khóa huấn luyện tấn công viễn chinh ở Biển Đông, Hải quân PLA cho biết trong một báo cáo.
Trong khi thừa nhận những khó khăn liên quan đến hoạt động tập trận, báo cáo cho biết máy bay đã xác định thành công một số vật thể đáng ngờ.
"Các bài tập chống tàu ngầm giống mò kim đáy bể. Rất khó khăn, điều kiện thủy văn dưới nước rất phức tạp", ông Yu Yang, cơ trưởng của một trong những chiếc máy bay, nói trong báo cáo.
PLA công bố báo cáo này ra sau khi Mỹ tổ chức một cuộc tập trận kéo dài bốn ngày ở Biển Đông vào tuần trước có sự tham gia của nhóm tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt, lực lượng viễn chinh và đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến số 31.
Vào cuối tháng trước, Hải quân Mỹ đã cáo buộc PLA có hành vi không an toàn và thiếu chuyên nghiệp sau khi một tàu khu trục Trung Quốc chĩa tia laser vào máy bay tuần tra hàng hải của Mỹ đang bay qua vùng biển quốc tế phía tây đảo Guam.
Ông Collin Koh, nhà nghiên cứu tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S Rajaratnam tại Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore, cho biết quân đội Trung Quốc rất muốn phát huy khả năng chống tàu ngầm của mình.
"Điều này có nghĩa là chúng ta có thể thấy nhiều cuộc tập trận như vậy trong tương lai. Virus corona sẽ không thể ngăn cản điều này", ông nói.
"Cũng có thể xem đây là phản ứng không chỉ đối với các hoạt động của nhóm tác chiến tàu sân bay mà còn là sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của Mỹ ở Biển Đông", ông nói thêm.
"Tôi cũng sẽ không ngạc nhiên nếu một tàu ngầm tấn công hạt nhân ở gần khu vực của nhóm tác chiến tàu sân bay", ông cho biết.
Như Trần
******************
Trung Quốc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông (RFA, 21/03/2020)
Máy bay chiến đấu của Trung Quốc vừa tiến hành một cuộc diễn tập chống tàu ngầm ở Biển Đông hồi đầu tháng này. Trang tin South China Morning Post trích thông báo của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, loan tin này hôm 20/3
Hình minh họa. Máy bay ném bom JH-7 của Trung Quốc bay tại Hàng Châu hôm 5/2/2020 - AFP
Cuộc tập trận diễn ra vào lúc quân đội Trung Quốc lên tiếng cáo buộc Hoa Kỳ cho tàu chiến đi vào vùng nước gần quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đòi chủ quyền thời gian vừa qua, và gọi đây là hành động phô trương sức mạnh của Mỹ trong khu vực, xâm phạm vùng nước của Trung Quốc.
Thông báo của quân đội Trung Quốc cho biết cuộc diễn tập bao gồm 2 máy bay chiến đấu, đồng thời thừa nhận những khó khăn trong diễn tập mà họ gọi là tìm kim đáy biển. Tuy nhiên, một phi công tham gia diễn tập được dẫn lời cho biết sự phối hợp của hai máy bay chiến đấu giúp tăng khả năng tìm kiếm tàu ngầm.
Thông báo về cuộc diễn tập được đưa ra sau khi Hoa Kỳ thực hiện một cuộc tập trận kéo dài 4 ngày ở Biển Đông hồi tuần trước. Cuộc tập trận bao gồm đội tàu tấn công Theodore Roosevelt. Tàu sân bay Theodore Roosevelt trong đội tàu này trước đó, vào ngày 5/3 đã có chuyến thăm đến Đà Nẵng, Việt Nam.
Hôm 12/3, truyền thông nhà nước Trung Quốc cho biết, quân đội Trung Quốc thời gian qua đã vài lần đuổi tàu chiến khỏi vùng nước của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung Quốc hiện là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông theo đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này tự vẽ ra trên biển. Toà Trọng tài Quốc tế hồi năm 2016 đã ra phán quyết bác bỏ tính hợp lý của đường đứt khúc này.
Từ năm 2015 đến nay, Hoa Kỳ đã thực hiện chương trình tự do hàng hải, gửi tàu chiến và máy bay đi qua khu vực Biển Đông nhằm thách thức những đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung Quốc, đồng thời khẳng định tự do hàng hải, hàng không ở khu vực tranh chấp này.
********************
Trung Quốc đe dọa chặn tàu Mỹ vào Biển Đông bằng vũ khí điện từ (VNTB, 20/03/2020)
Tàu sân bay Theodore Roosevelt và nhóm tàu tấn công đổ bộ của Mỹ đã cùng tiến vào Biển Đông hôm 15 tháng 3 trong một cuộc tập trận, Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ cho biết trên tài khoản Twitter sau đó một ngày.
Đây là lần thứ ba chỉ trong một tuần các tàu chiến Mỹ đi vào Biển Đông, trước đó là khu trục hạm gắn tên lửa dẫn đường của Mỹ McCampbell, tàu tấn công đổ bộ Mỹ và tàu chiến đấu duyên hải Gabrielle Giffords.
"Để chống lại sự xâm phạm nhiều lần của Mỹ vào lãnh hải Trung Quốc, quân đội Trung Quốc lựa chọn sử dụng các phương pháp mới, bao gồm triển khai vũ khí điện từ", Song Zhongping, một chuyên gia và nhà bình luận quân sự Trung Quốc, nói với Thời báo Hoàn cầu hôm thứ 17 tháng 3.
Bắn vào tàu chiến Mỹ không phải là một lựa chọn tốt trừ khi Mỹ bắn trước, và điều đó sẽ dẫn đến một cuộc xung đột quân sự giữa hai quốc gia, Song nói. Vị chuyên gia này cũng loại trừ khả năng đâm vào tàu Mỹ, vì bài học rút ra ở Biển Đen giữa Liên Xô và Mỹ năm 1988.
Nhưng sử dụng vũ khí điện từ gồm các thiết bị laser có thể khả thi, vì chúng có thể làm tê liệt tạm thời hệ thống vũ khí và điều khiển của tàu Mỹ mà không gây ra xung đột rõ ràng nhưng có thể gửi một cảnh báo mạnh mẽ, theo Song.
Vũ khí điện từ có thể phát ra sóng điện từ có khả năng gây nhiễu các thiết bị điện tử của tàu mục tiêu và sẽ không gây thương vong, các nhà quan sát quân sự cho biết.
Trước đó, Washington cáo buộc một tàu khu trục Trung Quốc sử dụng tia laser vào ngày 17 tháng 2 đối với máy bay tuần tra gần đảo Guam.
"Mỹ đang sử dụng ‘tự do hàng hải’ như một cái cớ để liên tục vào Biển Đông để thể hiện sức mạnh và gây rắc rối, đó là những hành động bá quyền vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực, phát ngôn viên Bộ Tư lệnh Chiến khu phương Nam Li Huamin cho biết sau các hoạt động của hải quân Mỹ vào ngày 10 tháng 3.
"Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận, và quân đội Trung Quốc vẫn luôn cảnh giác cao độ", Li tuyên bố.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc vẫn chưa đưa ra phản ứng của họ đối với các hoạt động của Mỹ vào ngày 13 đến 15 tháng 3.
Anh Khoa dịch
Nguồn : https://www.globaltimes.cn/content/1182886.shtml
********************
Mỹ điều tàu chiến đi qua eo biển Đài Loan, tiến vào Biển Đông (Zing, 16/02/2020)
USS Chancellorsville - tuần dương hạm mang theo tên lửa dẫn đường - đã đi qua eo biển Đài Loan để tiến vào Biển Đông hôm 15/2.
Tàu USS Chancellorsville đi qua eo biển Đài Loan. Ảnh : Hải quân Mỹ.
Theo CNA, một tàu chiến của Mỹ đã đi qua eo biển Đài Loan vào hôm 15/2, đánh dấu sự hiện diện quân sự thứ 3 của quân đội Mỹ ở khu vực tính riêng trong tuần này.
Động thái này được thực hiện sau khi xảy ra sau hai lần liên tiếp máy bay chiến đấu F-16 của Đài Loan xuất kích để bám theo các máy bay ném bom của Trung Quốc đi vào vùng trời eo biển Ba Sĩ tại phía nam đảo Đài Loan.
Tàu chiến Mỹ vừa đi vào Biển Đông chính là tuần dương hạm USS Chancellorsville (CG-62) mang tên lửa dẫn đường. Con tàu thuộc lớp Ticonderoga, trực thuộc Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, lực lượng phụ trách các chiến dịch an ninh và ổn định trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Tờ Stars and Stripes dẫn lời các quan chức Mỹ xác nhận thông tin này.
Đây là lần thứ 2 trong năm nay tàu chiến Mỹ đi qua eo biển Đài Loan. Trước đó vào ngày 17/1, một tuần dương hạm mang tên lửa dẫn đường khác là USS Shiloh (CG-67) cũng thực hiện hành trình tương tự.
Vào ngày 9 và 10/2, các máy bay chiến đấu J-11 và máy bay ném bom H-6 của quân đội Trung Quốc đã bay qua vùng trời eo biển Ba Sĩ ở phía nam đảo Đài Loan.
Sau đó, Mỹ đã điều động 2 máy bay ném bom chiến lược B-52 Stratofortress thực hiện các chuyến bay về phía nam ngoài khơi bờ biển phía đông của Đài Loan. Một máy bay vận tải chiến đấu đa nhiệm MJ-130J Commando II cũng bay qua eo biển Đài Loan, hướng về phía nam.
Một máy bay khác của Mỹ là chiếc P-3 Orion - chuyên thực hiện các nhiệm vụ giám sát và chống ngầm, cũng xuất hiện hôm 13/2 trên vùng trời ngoài khơi Mũi Eluanbi ở phía nam đảo Đài Loan.
Hương Hảo
Điểm mấu chốt : Trung – Mỹ không tin tưởng lẫn nhau và căng thẳng vẫn là một vấn đề. Với việc tranh nhau gây ảnh hưởng ở Biển Đông thì có ba điều điều sẽ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ.
Trong nhiều tháng qua, Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng "Vạn lý trường thành bằng cát".
Cả Trung – Mỹ đều không muốn chiến tranh, ít nhất là trong tương lai gần. Riêng Mỹ chắc chắn muốn tránh sự hỗn loạn mà bất kỳ cuộc xung đột quân sự nào với Trung Quốc sẽ tạo ra.
Tuy nhiên, cả hai quốc gia đều đưa ra các cam kết ở Biển Đông mà mỗi nước có thể khó lùi bước. Trong hai tuần qua, những cam kết này đã tạo ra một cuộc tranh luận gây khó khăn cho chính những nhà phân tích chính trị. Các vấn đề chính tập trung vào việc Trung Quốc mở rộng (hoặc tạo ra) các đảo ở Trường Sa, về mặt lý thuyết có thể cung cấp cơ sở cho các yêu sách đối với vùng lãnh hải. Sự cương quyết của Mỹ về tự do hàng hải có thể khiến những căng thẳng này gia tăng ở các phương diện sau :
Chuỗi đảo trong Biển Đông
Trong nhiều tháng qua, theo các nhà quan sát Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng "Vạn lý trường thành bằng cát". Trong đó bao gồm mở rộng một nhóm đảo ở Trường Sa để có thể hỗ trợ phi đạo, vũ khí và các cơ sở lâu dài khác. Dường như Bắc Kinh cam kết bảo vệ những hòn đảo mới này như một phần của lãnh thổ Trung Quốc, điều mà Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển không ủng hộ. Washington lại có ý tưởng khác khi tìm cách duy trì thực hiện các cuộc tuần tra tự do hàng hải trong các khu vực mà Trung Quốc tuyên bố là lãnh hải.
Xung đột đang hiện hữu. Nếu tàu hoặc máy bay của Mỹ vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, thì các thủy thủ, binh lính và phi công Trung Quốc cần phản ứng hết sức thận trọng. Một hành động quân sự hóa có thể nhanh chóng leo thang, đặc biệt là nếu Mỹ bị bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào. Điều đó cũng dễ dàng tưởng tượng ra kịch bản xây dựng đảo khiến Trung Quốc trở nên đối lập với các quốc gia ASEAN. Trong trường hợp như vậy, một cuộc tuần tra tự do hàng hải có thể đưa Trung Quốc vào thế khó xử.
Va chạm máy bay chiến đấu
Trung – Mỹ đã tiến gần đến xung đột liên quan đến va chạm máy bay, khi một chiếc P/3 Orion va chạm với máy bay đánh chặn PLAN J-8 vào năm 2001.
Không khó để tưởng tượng một cuộc đối đầu thậm chí nghiêm trọng hơn trong Biển Đông. Một va chạm vô tình sẽ đủ tồi tệ, nhưng nếu một kịch bản tương tự như sự kiện KAL 007 (chuyến bay 007 của Korean Air Lines (KAL007/KE007) bị máy bay đánh chặn Su-15 bắn hạ gần đảo Moneron, phía tây đảo Sakhalin, thuộc biển Nhật Bản vào thứ 5, ngày 1 tháng 9 năm 1983), nhưng lần này là binh sĩ Trung Quốc nổ súng vào một chiếc máy bay Mỹ, tình huống có thể trở nên tồi tệ rất nhanh. Và nếu một phi công Mỹ bắn vào máy bay Trung Quốc, phản ứng của người Trung Quốc có thể vượt mức để Bắc Kinh xử lý hợp lý.
Nếu Trung Quốc quyết định đi trước và tuyên bố vùng cấm bay trên Biển Đông, vấn đề có thể trở nên phức tạp hơn. Mỹ có thể bỏ lơ quan điểm đó của Bắc Kinh, nhưng Bắc Kinh có lợi ích lớn hơn và sự hiện diện lớn hơn ở Biển Đông. Một tuyên bố sẽ gần như chắc chắn gây ra phản ứng tương tự từ Mỹ, và máy bay của hai quốc gia sẽ gầm ghè nhau.
Tàu ngầm va nhau
Trong Chiến tranh Lạnh, Liên Xô và NATO đã phải hứng chịu vô số tàu ngầm tên lửa, những chiếc thuyền săn nhau, và đôi khi va vào nhau, ở Đại Tây Dương, Bắc Cực và Biển Bắc. Mỹ – Trung có thể diễn ra theo cách tương tự, một phần vì Trung Quốc vẫn chưa chắc chắn thiết lập một cuộc tuần tra tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo (SSBN), và vì các tàu Trung Quốc không đi xa như Liên Xô. Nhưng khi lực lượng tàu ngầm của quân đội Trung Quốc trở nên phiêu lưu hơn thì sự cố tàu ngầm có thể gia tăng.
Nhiều nhà phân tích cho rằng quân đội của Bắc Kinh cần cho tàu ngầm đi ra khỏi quần đảo đầu tiên nhằm đe doạ Mỹ tiếp cận ‘vùng chủ quyền’ Trung Quốc. Chuẩn bị cho việc này sẽ đòi hỏi phải tăng các hoạt động đội tàu ngầm Trung Quốc, thường sẽ đưa các tàu Trung Quốc gần với tàu ngầm Nhật Bản và Mỹ. Để chắc chắn, các tàu ngầm Trung Quốc đủ lớn để các tàu thuyền của Mỹ có đủ thời gian để tránh đường, nhưng điều tương tự cũng có thể diễn ra như từng diễn ra với các tàu của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Nếu một sự cố tàu ngầm Mỹ – Trung, bản chất của tàu ngầm này có thể tạo hy vọng cho sự xuống thang (thường chúng ta thường không nghe về những tai nạn này ngay). Nhưng một sự cố như vậy cũng sẽ khiến nhân mạng và tài sản bị thiệt hại lớn hơn so với một vụ va chạm máy bay chiến đấu.
Chiến tranh (phát sinh) ngẫu nhiên hiếm khi xảy ra nhưng không phải là không có. Điểm chung cho tất cả các kịch bản này là dư luận Trung Quốc có thể trở nên quá căng thẳng nhằm thúc ép quốc hội. Nếu Tập Cận Bình cảm thấy không thể lùi bước, thì chuyện sẽ rất khó lường.
Như Denny Roy đã lập luận, Trung Quốc đang tấn công ở Biển Đông. Bằng cách thiết lập các sự kiện nhằm khiến cho các hoạt động bình thường của Mỹ thành hành động can thiệp, gây bất ổn.
Robert Farley
Ngày 27/02/2020, nhóm Nghị sĩ hữu nghị Pháp-Việt của hai viện Quốc Hội Pháp đã tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế về tình hình Biển Đông. Nếu các chuyên gia quốc tế, đặc biệt là Pháp, nói chung ủng hộ Việt Nam trong việc tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì cuộc hội thảo này một lần nữa cho thấy sự hạn chế của luật pháp quốc tế trước thái độ lấn lướt của Trung Quốc đối với các nước tranh chấp, đặc biệt là đối với Việt Nam
Hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Hạ Viện Pháp ngày 27/02/2020 RFI
Cuộc hội thảo diễn ra dưới sự bảo trợ của nữ dân biểu gốc Việt Stéphanie Do, chủ tịch Nhóm Hữu nghị Pháp – Việt tại Hạ Viện và với sự hỗ trợ của đại sứ quán Việt Nam. Với đề tài "Biển Đông : Thách thức và thời cơ đối với Pháp và Việt Nam, các nước ven bờ và các cường quốc Ấn Độ - Thái Bình Dương ", cuộc hội thảo quy tụ các nhà nghiên cứu Pháp, Việt, dưới sự điều phối của giáo sư Pierre Journoud, Đại học Paul – Valéry Montpellier 3.
Trong phiên buổi sáng, diễn ra tại một phòng họp của Hạ Viện Pháp, cử tọa đã nghe phần trình bày của giáo sư Monique Chemillier-Gendreau (Đại học Paris – Diderot), nói về luật quốc tế đối với vấn đề chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông, đặc biệt Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) để xác định chủ quyền quốc gia đối với vùng biển, đảo, phân định biên giới trên biển giữa các quốc gia cũng như ranh giới các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, trong đó có phán quyết của Toà án Trọng tài Thường trực La Haye 2016. Giáo sư Laurent Gédéon (Cao đẳng Sư phạm Lyon) có bài tham luận về hoạt động của các cường quốc tại Biển Đông hiện nay.
Giáo sư Jean-Marie Crouzatier điểm lại các nguồn lịch sử mà các bên tranh chấp ở Biển Đông đưa ra để bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình. Theo giáo sư Crouzatier, có rất nhiều nguồn tài liệu lịch sử tại châu Âu, đặc biệt là tại Pháp, có thể được sử dụng vào việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, như các văn thư của nhà Nguyễn, mà các bản sao trong kho lưu trữ của chính quyền thuộc địa Pháp vẫn còn được lưu giữ ở Pháp.
Đại điện cho phía Việt Nam, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học Viện Ngoại Giao, Nguyễn Hùng Sơn trình bày quan điểm của Hà Nội về những diễn biến mới nhất tại Biển Đông, trong đó có vụ Trung Quốc đưa tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm ngoái. Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, phó chủ tịch Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên Hiệp Quốc, thì giải thích về tác động của phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực về Biển Đông trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Phiên buổi chiều của cuộc hội thảo, diễn ra tại một phòng họp của Thượng Viện Pháp, tập trung nói về những thách thức và tiềm năng về kinh tế, môi trường, khoa học và văn hóa ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên một cuộc hội thảo về Biển Đông được tổ chức cùng ngày tại hai viện của Quốc Hội Pháp.
Nói chung, trong cuộc hội thảo, các diễn giả đã phân tích các khía cạnh pháp lý và chính trị-chiến lược của vấn đề tranh chấp chủ quyền và hoạt động của các bên ở Biển Đông, nêu bật những quan ngại của quốc tế về những hoạt động của Trung Quốc quân sự hóa và thay đổi nguyên trạng các thực thể ở Biển Đông. Họ đặc biệt nhấn mạnh các nước tranh chấp, đặc biệt là Trung Quốc, phải tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, kêu gọi tôn trọng quyền chính đáng của các quốc gia liên quan.
Trả lời RFI Việt ngữ sau phiên hội thảo buổi sáng, ông Nguyễn Hùng Sơn, Viện trưởng Viện Biển Đông, nêu nhận xét của ông về hội thảo :
"Qua sự tham gia của các đại biểu hôm nay, tôi thấy đáng mừng ở chỗ vấn đề Biển Đông đang ngày càng được cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Pháp và Liên Hiệp Châu Âu quan tâm. Họ quan tâm đến Biển Đông theo nhiều khía cạnh khác nhau, không phải chỉ vì đó là một vùng biển có nhiều xung đột, mà còn là một nơi hội tụ rất nhiều lợi ích của cộng đồng quốc tế và cũng có nhiều triển vọng hợp tác.
Đặc biệt, Biển Đông còn là nơi kiểm chứng mức độ thượng tôn pháp luật của cộng đồng quốc tế, hiệu lực của pháp luật quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Tôi thấy các đại biểu Pháp nói rất nhiều về việc tăng cường hiệu lực của luật pháp quốc tế, rằng một nước, dù lớn hay nhỏ đều cần phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Họ cũng kêu gọi tăng cường hợp tác, nhất là hợp tác đa phương, để tăng cường việc áp dụng Công ước 1982, không chỉ ở Biển Đông, mà ở khắp nơi trên thế giới, với hy vọng là khi tất cả các nước đều tôn trọng Công ước về Luật Biển, nhất là nước đã ký và phê chuẩn Công ước, như Trung Quốc, thì trật tự, hòa bình, ổn định trên biển sẽ được duy trì".
Là một trong những chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông, giáo sư Monique Chemillier-Gendreau, nhấn mạnh đến chính sách của Trung Quốc nhằm áp đặt chủ quyền của họ trên Biển Đông :
"Đó là một phần trong chính sách của Trung Quốc. Trung Quốc vẫn thi hành chính sách gọi là "sự đã rồi", tức là họ hành xử như thể là những đòi hỏi của Bắc Kinh chính là luật pháp quốc tế ! Hơn nữa, từ rất lâu, họ vẫn thao túng dư luận trong nước, tuyên truyền rằng Trung Quốc có đầy đủ các quyền trên toàn bộ vùng biển mà rất tiếc vẫn được gọi là biển Nam Trung Quốc Hải (Mer de Chine méridionale). Nay Trung Quốc đã có một sức mạnh đáng kể về hải quân và không quân, chứ không phải như cách đây 50 năm, nên cứ tiếp tục lấn tới, với hy vọng là "sự đã rồi" sẽ dần dần biến thành luật. Cho nên, các nước trong vùng, toàn bộ các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam phải phản đối mỗi lần Trung Quốc có hành động như vậy. Phải phản đối lên Liên Hiệp Quốc để ngăn chận chính sách "sự đã rồi" của Trung Quốc được chấp nhận".
Chính là nhằm ngăn chận chính sách đó của Trung Quốc mà Philippines đã kiện Trung Quốc ra trước Tòa Trọng Tài Thường Trực. Vào tháng 07/2016, Toà đã ra phán quyết kết luận rằng không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.
Tuy rằng phán quyết này đã bị Bắc Kinh bác bỏ, đại sứ Nguyễn Hồng Thao, phó chủ tịch Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên Hiệp Quốc, cho rằng đây vẫn là một cơ sở pháp lý quan trọng, đối với những nước như Việt Nam :
"Phán quyết này chỉ có giá trị đối với Philippines và Trung Quốc, hai bên có liên quan đến việc tuân thủ phán quyết. Tuy nhiên, Trung Quốc đã không chấp nhận thẩm quyền của tòa án và cũng không công nhận phán quyết. Song, theo quy định của Phụ lục 7 của Công ước 1982, phán quyết của tòa án quốc tế được thành lập phù hợp với Phụ lục 7 của Công ước bao giờ cũng là phán quyết chung thẩm và có giá trị bắt buộc đối với các bên, đối với các quốc gia khác không phải là các bên tham gia trong vụ kiện.
Chúng ta có thể coi các phán quyết của tòa án quốc tế cũng như của Tòa Trọng Tài là nguồn bổ sung của luật quốc tế để so sánh trong việc xem xét lại những lập trường và những áp dụng giải thích của điều 123, khoản 3 về quy chế pháp lý của các đảo, các đá tại Trường Sa".
Về phần ông Nguyễn Hùng Sơn, ông cho biết là Việt Nam vẫn để ngỏ khả năng đưa Trung Quốc ra trước một tòa án quốc tế, nếu Bắc Kinh tiếp tục những hành động xâm lấn chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, giống như năm 2019 :
"Việt Nam đã nói rất rõ là Việt Nam sẽ sử dụng tất cả những biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông, có nghĩa là Việt Nam không loại trừ biện pháp hòa bình nào. Mặc dù Việt Nam không nói ra nhưng Việt Nam không loại trừ biện pháp giải quyết các tranh chấp Biển Đông thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.
Đưa ra tòa án nào còn tùy thuộc vào vấn đề mà các nước muốn giải quyết là gì. Mỗi tòa án có một chức năng riêng. Các cơ quan chức năng Việt Nam, nhất là các chuyên gia pháp lý đã và đang nghiên cứu, chuẩn bị các hồ sơ cần thiết, để nếu cần sử dụng biện pháp đó, thì Việt Nam sẵn sàng".
Tuy nhiên, giáo sư Monique Chemillier-Gendreau lưu ý về sự hạn chế của luật pháp quốc tế trong việc phân xử các vụ tranh chấp chủ quyền như ở Biển Đông, cho dù theo bà, Việt Nam có một hồ sơ rất vững chắc nếu kiện Trung Quốc ra trước một tòa án quốc tế :
"Như tôi vừa nói trong cuộc hội thảo, luật pháp quốc tế rất giới hạn. Theo luật quốc tế, quốc gia nào muốn đưa vụ việc ra trước Tòa án Công lý Quốc tế thì phải có sự đồng ý của cả quốc gia kia. Khả năng duy nhất đó là kiện lên Tòa Trọng tài Thường trực như Philippines đã làm, nhưng kết quả đạt được cũng rất hạn chế, vì tòa này không thể phân xử về vấn đề chủ quyền. Tôi nghĩ rằng công luận quốc tế có vai trò rất quan trọng, rằng chúng ta phải sử dụng mọi phương tiện hiện có : phản đối về ngoại giao, đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc mỗi khi có hành động hung hăng và có thể là kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài nếu Việt Nam cảm thấy sẳn sàng làm điều này.
Nếu kiện Trung Quốc, Việt Nam có một hồ sơ rất tốt. Nhưng chúng ra không biết trong hồ sơ của phía Trung Quốc có những gì. Tôi đã từng đến Trung Quốc, từng gặp nhiều nhà sử học Trung Quốc. Họ cứ bảo : "Chúng tôi có nhiều tư liệu xưa, những chứng cứ để xác nhận chủ quyền", nhưng họ chưa bao giờ đưa ra những tư liệu, chứng cứ đó. Tôi không tin là họ thật sự có những chứng cứ đó. Theo tôi thì một tòa án rất khách quan như Tòa án Công lý Quốc tế phải có trong tay toàn bộ những hồ sơ của hai bên. Nhưng tôi cho là Việt Nam có một vị thế rất tốt".
Trước mắt, để ngăn ngừa những xung đột trên Biển Đông, ASEAN đang thương lượng với Trung Quốc về một bộ quy tắc ứng xử COC. Nhưng các chuyên gia như bà Monique Chemilier-Gendreau không mấy tin tưởng vào bộ quy tắc này. Theo bà, bộ quy tắc ứng xử một khi được chấp thuận sẽ chỉ giúp cho Trung Quốc rảnh tay hành động, nhân danh bộ quy tắc ứng xử này, họ sẽ tiếp tục chính sách của họ để áp đặt chủ quyền trên Biển Đông.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 09/03/2020
Phần I
Năm 2020, tròn 70 năm Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ trong 70 năm ấy giữa hai nước có vui, có buồn, có hữu nghị, có xung đột, thậm chí chiến tranh.
Trên thực tế mối quan hệ này đã không suôn sẻ từ hơn bốn chục năm, mặc dù có vẻ hai nước vẫn ôm lấy cái mà Trung Quốc gọi là "đại cục" : cùng lý tưởng chính trị, cùng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Cái "đại cục" này được gọi là "đại cục" để che lấp, che khuất hết những bất đồng, xung đột khác chăng ? Có thể !
Trung Quốc là quốc gia có dân số lớn nhất thế giới và đã phát triển vũ bão trong mấy chục năm qua nhờ công cuộc cải cách mở cửa. Bình quân đầu người khi bắt đầu công cuộc này chỉ với 156 USD (thấp hơn cả khu vực được coi là nghèo nhất thế giới lúc đó là Hạ Sahara, 390 USD) thì nay, theo số liệu của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc đã ở mức trên 10.000 USD (2019), trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao. Tính theo sức mua tương đương, quy mô nền kinh tế Trung Quốc đã vượt Mỹ từ năm 2014. Với mục tiêu "100 năm thứ hai" tính đến 2049, Trung Quốc sẽ thực sự trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Và cũng sẽ đến danh xưng siêu cường, sánh ngang Mỹ.
Để trở thành siêu cường – điều mà Trung Quốc vẫn còn đang ủ mưu – Trung Quốc đã có những phát triển và cải tổ mạnh mẽ về mặt quốc phòng và quân sự. Các hệ vũ khí mới được phát triển, đặc biệt các vũ khí có tầm chiến lược, vươn cao vươn xa, có sức công phá lớn như : tên lửa, máy bay, tàu chiến, vũ khí – khí tài vũ trụ. Trung Quốc liên tiếp cho đóng tàu sân bay, tàu đổ bộ trực thăng tấn công khổng lồ, tàu tự hành. Ngày 27/5/2019 họ đưa máy bay ném bom hạng nặng ra Hoàng Sa và lần đầu tổ chức tuần tra liên hợp tại khu vực này. Trên tất cả, Trung Quốc tổ chức lại bộ máy quân sự, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản với người chỉ huy cao nhất là Tập Cận Bình, Tổng bí thư – Chủ tịch nước.
Trung Quốc cũng không giấu diếm việc tìm kiếm vai trò quản trị quốc tế trên mọi lĩnh vực, thậm chí đưa mô hình quản trị của họ như một hình mẫu khả thi mà thế giới có thể cần và noi theo.
Trái với việc ủ mưu siêu cường, Trung Quốc không giấu diếm việc cạnh tranh chiến lược với Mỹ trên mọi mặt trận có thể. Rõ ràng nhất là để đối trọng với việc Tổng thống Obama tái cân bằng Chiến lược châu Á – Thái Bình Dương, Chủ tịch Tập Cận Bình có ngay sáng kiến "Vành đai và Con đường" đáp lại ("Vành đai con đường tơ lụa và Con đường tơ lụa trên biển", đã trở nên quen thuộc với tên chữ cái tiếng Anh : BRI – Belt and Road Initiative). Phải nói ngay đó là một sáng kiến khôn ngoan, nó không chỉ tranh thủ được các đối tác về cả ngoại giao, kinh tế, kết nối địa chiến lược mà còn giúp Trung Quốc ""tiêu thụ" sự thặng dư nguồn lực của mình. Nghĩa là với BRI, Trung Quốc muốn "được" mọi phương diện.
BRI đã khiến Tổng thống mới của Mỹ, Donald Trump lại phải thêm một lần điều chỉnh : chiến lược "Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở" ra đời. Cuộc cạnh tranh giữa hai thế lực lớn nhất thế giới, ngấm ngầm hoặc bộc phát trở thành cuộc chiến địa chính trị toàn cầu. Với phiên bản "Vành đai – Con đường" đối chọi phiên bản "Ấn – Thái" Trung Quốc cho thấy mình muốn gì, đang làm gì và ở đâu.
Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, giống như một cái thùng không đáy hứng sự đầu tư của thế giới tư bản, bước sang thế kỷ XXI Trung Quốc gần như đột ngột xuất hiện trong tư cách nhà cung ứng tài chính không chỉ cho thế giới thứ ba mà cho cả địa cầu. Với ngân khoản khổng lồ có được từ sự phát triển kinh tế của mình, Trung Quốc ồ ạt đầu tư ra nước ngoài, không kịp gây ngạc nhiên cho người quan sát. Chỉ riêng giai đoạn 2013-2017, Trung Quốc đã chiếm khoảng 35% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Sáng kiến Vành đai – Con đường lại là một ví dụ khác.
***
Sự lớn mạnh của Trung Quốc chắp cánh cho những toan tính sẵn có. Toan tính ấy là toan tính toàn cầu nhưng trước hết nhằm phục vụ lợi ích và quyền lực của Trung Quốc trong khu vực chiến lược sát sườn Đông Nam Á /ASEAN. Trung Quốc luôn lớn tiếng ASEAN là hạt nhân, là trung tâm giữ vai trò quyết định trong hợp tác và an ninh khu vực (các nước lớn Mỹ, Nhật Bản cũng nói vậy) nhưng vai trò ấy phải trong vòng kiềm tỏa. Năm 2010, trong một cuộc làm việc ở Hà Nội, có sự tham gia của cả Ngoại trưởng Mỹ và các Ngoại trưởng ASEAN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc – một cách rất nước lớn – đã chỉ vào đại diện của Singapore và Việt Nam mà bảo rằng các anh chỉ là những nước nhỏ, rồi giận dữ bỏ ra ngoài.
Các nước Đông Nam Á lục địa cùng chung hệ thống sông Mekong. Dòng sông này bắt nguồn từ Tây Tạng với Lan Thương (Trung Quốc) ở thượng nguồn. Năm 1995, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia lập ra Ủy hội sông Mekong (MRC) để cùng quản lý dòng sông này. Một trong những việc đầu tiên của MRC là thúc đẩy việc cấm xây dựng các đập thủy điện lớn. Mọi thứ đang còn ngổn ngang thì tháng 3/2016 một cơ chế hợp tác khác, Hợp tác Lan Thương – Mekong, LMC, do Trung Quốc khởi xướng, bao gồm Trung Quốc và các nước trên cộng thêm Myanmar ra đời [1].
Trung Quốc đề nghị lập một cơ cấu quản lý và cơ cấu này nên nằm ở Vân Nam. Khỏi cần một cơ cấu quản lý, ai cũng biết chính các con đập quản lý nguồn nước, nguồn cá, nguồn phù sa của dòng sông. Riêng Trung Quốc đã xây tới 11 con đập, chứa lượng nước khổng lồ 47 tỉ m3. Một lượng nước như vậy bị trữ lại đã gây thiệt hại rất nhiều cho vùng hạ lưu, đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cuối nguồn. Đã có dự báo từ sớm, xâm nhập mặn ở vùng này sẽ khốc liệt chưa từng vào quý I năm nay 2020. Và thực tế đã diễn ra như vậy. Hạ nguồn (Thái Lan, Campuchia, Việt Nam) đang đói, đói nước, đói cá, đói phù sa.
Lượng thủy sản của hệ thống sông này được coi là một trong những nguồn thủy sản nội địa lớn nhất thế giới, chiếm gần 1/4 lượng đánh bắt cá nước ngọt toàn cầu. Ngư dân Thái Lan cho biết mực nước và lượng cá đã đang giảm hẳn từ khi Trung Quốc xây dựng các con đập. Muốn vận chuyển lớn, họ xả nước, còn không thì giữ lại. Mực nước không ổn định khiến cá không đẻ trứng. Nổ mìn, phá đá mở rộng lòng sông và nạo vét cát sỏi ở thượng nguồn đã phá hệ sinh thái và đe dọa an ninh lương thực của hàng triệu người phụ thuộc vào nó. (Theo thông tin vừa cập nhật, Nội các Thái Lan đã tuyên hủy Dự án khơi thông luồng lạch, ghềnh đá trên sông Mekong vào ngày 11/02/2020 và đây được coi là thắng lợi chưa từng có).
Một vấn đề khác : Trung Quốc cũng là đối tác hàng đầu của các nước Đông Nam Á về kinh tế – thương mại, đặc biệt với Việt Nam, được coi là nước xuất nhập khẩu lớn nhất của Trung Quốc trong khu vực. Do quan hệ truyền thống lâu đời và một đường biên hơn 1400km đã khó quản lý, buôn bán tiểu ngạch và buôn lậu phát triển mạnh lúc nóng lúc lạnh lại càng khó quản lý. Chưa nói trong quan hệ thương mại, phía Việt Nam hầu như bị động hoàn toàn vào nhập khẩu từ Trung Quốc.
***
Nhưng có lẽ Biển Đông mới là vấn đề lớn nhất trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN nằm ven bờ : Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei. Trong những nước này thì Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa/Tây Sa và Trường Sa/Nam Sa, còn các nước Philippines và Brunei tuyên bố sở hữu một phần (một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa/Nam Sa). Indonesia tuyên bố sở hữu quần đảo Natuna nhưng vùng nước phía Bắc của quần đảo này nằm trong phạm vi đường 9 đoạn mà Trung Quốc nêu ra (Indonesia thường cho thấy họ không có tranh chấp với Trung Quốc, nhưng ngay đầu năm 2020, ngày 1/1 Indonesia đã triệu tập Đại sứ Trung Quốc tại nước này để phản đối việc các tàu cá và hải cảnh Trung Quốc xâm nhập vùng nước Natuna).
Sự quan tâm của Trung Quốc đến Biển Đông, những tuyên bố và hành động gần như đột ngột của nước này đến vùng biển chung của các nước Đông Nam Á mà họ muốn một mình sở hữu đã gây nên sự hoang mang lẫn phẫn nộ trong vùng. Đặc biệt với Việt Nam, nước gắn bó nhiều lợi ích nhất với Biển Đông (hơn hẳn Trung Quốc) và cũng là nước có nhiều duyên nợ với Trung Quốc về lịch sử, địa lý, văn hóa,… Biển Đông có gì ? Biển Đông có tất cả. Một nguồn lợi cá và hải sản khổng lồ, một nguồn lợi về tài nguyên dầu khí lên tới hàng ngàn tỉ đô la Mỹ và nhất là một tuyến hàng hải, một tuyến thương mại quốc tế không thể thay thế. Khống chế được tuyến này là có thể bắt nạt các quốc gia cần đến nó, bắt nạt các nước lớn, bắt nạt cả thế giới.
Gắn với tranh chấp Biển Đông, gắn với sự tham lam của Trung Quốc là "đường 9 đoạn". Con đường này không hiểu vì lý do gì mươi năm gần đây lúc thì Trung Quốc gọi 9 đoạn, lúc thì 11 đoạn, lúc thì 10 đoạn một cách tùy tiện và chỉ được gọi theo hình thức cắt đoạn như vậy, không một lần có tên gọi theo nội dung, nhưng Trung Quốc ngầm cho hiểu nó là đường biên giới quốc gia trên biển của họ (không dính bất cứ một quy định hay thông lệ quốc tế nào, kể cả điều mà Trung Quốc viện dẫn là "vùng nước lịch sử").
Lập trường về "đường 9 đoạn" được Trung Quốc chính thức đề cập đến lần đầu là văn bản được trình lên Liên hợp quốc ngày 7/5/2009- Họ từng tuyên bố không đòi hỏi quyền lợi vùng biển trong "đường chín đoạn" theo UNCLOS mà theo tập quán quốc tế, là quyền lợi lịch sử như tiền lệ tư pháp quốc tế nhưng lại không chứng minh được đường này qua các bản đồ lịch sử mà chỉ dựa vào chứng cứ mơ hồ thông qua các tuyên bố "hàng ngàn năm lịch sử" "hai ngàn năm lịch sử", "từ thời nhà Hán".v.v… Nếu nói về đời nhà Hán có thể đưa thêm một dẫn chứng ngược. Thư tịch Trung Quốc thời đó mô tả tàu thuyền đi qua vùng biển này – Hoàng Sa/Tây Sa – nhất là tàu thuyền có chốt sắt, thường bị bẻ ra hoặc bị giữ lại làm đắm thuyền vì các hòn đảo ấy toàn đá nam châm(?) Bây giờ ta có thể hiểu đó là những bãi đá nước lên xuống theo thủy triều, không có đá nam châm nào cả, gặp lúc nước rút tàu không thoát kịp sẽ trơ trọi nằm lại với đá. Một khu vực nguy hiểm "toàn đá nam châm", không có dân cư, không có điều kiện sống lại cách xa Trung Quốc như vậy thì "tổ tiên" đòi hỏi chủ quyền làm gì ? Chưa nói văn kiện nào tuyên bố chủ quyền mấy ngàn năm trước từ thời Hán để đến bây giờ các giới trách nhiệm Trung Quốc tranh nhau nói về vùng nước lịch sử và việc phải bảo vệ "đất đai tiên tổ" (?).
Có lẽ người đầu tiên vẽ con đường này (năm 1933) muốn chỉ ra khu vực đánh cá mà các ngư thuyền Trung Quốc từng lui tới chăng ? Phía Trung Quốc cũng không bao giờ cung cấp công khai văn bản ấy. Nếu có chút ít pháp lý (dù mơ hồ) thì họ đã trưng ra Tòa trọng tài khi Tòa này xét xử theo đơn kiện của Philippines (dù không tham gia phiên tòa hoặc không chấp nhận phán quyết của Tòa).
Một việc cũng thú vị là năm 2012, trước sự mù mờ của dư luận Trung Quốc và quốc tế và của cả những người sáng tạo ra nó, ông Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nam Hải tuyên bố là hai năm sau đó sẽ xác định được vững chắc cơ sở pháp lý của đường 9 đoạn. Bây giờ đã 2020, nghĩa là gần 8 năm sau rồi, chưa biết ông này đang ở đâu cùng với thề thốt của mình (?).
Trung Quốc bám víu vào đường 9 đoạn như là cơ sở chủ yếu cho tham vọng chiếm quyền ở Biển Đông. Nhưng ngoài đường chín đoạn, họ còn đánh chiếm các đảo đá (quần đảo Hoàng Sa 1974, một số đảo đá của Trường Sa 1987, 1988 và Scarborough, Mischief… vào những dịp khác). Và họ vừa nghe ngóng vừa mở rộng, xây cất trên các đảo đá đánh chiếm được theo chiến thuật tằm ăn rỗi mà phương Tây gọi là cắt lát salami.
***
Một vấn đề liên quan đến Biển Đông bắt buộc có sự tham gia của Trung Quốc và có ý nghĩa thực tế hơn : Xác lập bộ Quy tắc ứng xử cho các bên (COC).
COC là chủ đề các nước ASEAN, đặc biệt các nước ven Biển Đông rất quan tâm. Nhưng Trung Quốc thì tùy. Cuộc đàm phán về COC bắt đầu được các bên tiến hành vào năm 2013 – mười một năm sau khi có DOC (Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông). Nghĩa là rất chậm, vì Trung Quốc không muốn COC, họ coi DOC là đủ rồi. Tổng thư ký của tổ chức ASEAN lúc đó than phiền rằng tổ chức này không thể lôi kéo Trung Quốc vào các cuộc thảo luận thực chất. Bắt đầu rồi mà như chưa bắt đầu, cứ như sên bò vậy. Bằng cách đó Trung Quốc muốn cho mọi người thấy rằng họ cơi nới chưa xong, họ còn phải mang vũ khí đặt lên đấy đã,…
Không thể lộ liễu hơn, Trung Quốc chơi trò câu giờ. Trong 7 bãi đá (Chữ Thập, Gạc Ma, Châu Viên, Tư Nghĩa, Gaven, Vành Khăn, Xubi) mà Trung Quốc cơi nới thì đá Chữ Thập đã được mở rộng tăng kích thước lên gấp 11 lần, lớn hơn cả đảo Ba Bình là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa/Nam Sa mà Đài Loan đang chiếm giữ. Cho đến trước khi mở rộng, Trung Quốc là bên duy nhất không có đường băng ở Trường Sa (Đài Loan có ở Ba Bình, Philippines có ở Thị Tứ, Malaysia có ở đá Hoa Lau, Việt Nam có ở đảo Trường Sa Lớn) thì bây giờ đường băng đã xuất hiện ở Chữ Thập, Vành Khăn, Xubi. Câu giờ đủ rồi, Trung Quốc mới quay sang COC. Trong hai năm 2017, 2018 họ công bố rằng "văn bản duy nhất" của COC đã được các bên cùng đọc. Thế nào là văn bản duy nhất ? Theo các nguồn tin, đây là 11 văn bản do 11 quốc gia đưa ra và nó còn quá xa cách nhau về nội dung, nhất là những vấn đề cơ bản như : phạm vi các thực thể địa lý được đề cập, các yếu tố chế tài trên cơ sở pháp luật quốc tế…
Theo ông I. Storey từ Viện ISEAS (Singapore) "Hà Nội và một số nước đưa ra một danh sách dài những điều mà họ muốn COC cấm nhưng thật ra lại là những điều Trung Quốc đã làm trong những năm qua". Nhà phân tích M.J. Valencia thì nói với South China Morning Post : "Rất ít khả năng có được một COC có hiệu lực pháp lý như mong muốn". Tờ Nikkei (Nhật) thì cho rằng, mặc dù bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài, Trung Quốc không muốn bị coi như kẻ ngoài vòng pháp luật do vậy quan tâm đến COC có thể giúp họ hóa giải tình trạng này ?
Các nước ASEAN có lẽ muốn có sự chế tài trên cơ sở luật pháp quốc tế thông qua Bộ quy tắc ứng xử. I. Storey cho rằng, COC muốn có giá trị pháp lý thì phải trình lên Liên Hiệp Quốc, nhưng Bắc Kinh lại không chấp nhận. Còn Ngoại trưởng Philippines Locsin thì bảo "Chấp nhận những yêu sách của Trung Quốc là gián tiếp công nhận bá quyền của Trung Quốc, như cho con voi vào phòng khách".
Có một điều chắc chắn là COC không phải để giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Trung Quốc luôn cho chủ quyền các đảo, đá là vấn đề song phương mà COC chỉ có thể kiểm soát ổn thỏa những bất đồng phát sinh từ Biển Đông, bản nâng cấp chút đỉnh của DOC mà thôi.Thực tế cũng có thể không hẳn như vậy, vì thế nào là "bất đồng" và phạm vi những bất đồng ấy là gì và kiểm soát thì như thế nào. Chưa nói, Trung Quốc muốn COC không có sự can thiệp của bên ngoài trong tiến trình thảo luận (cũng vì vậy mà tiến trình này được bảo mật) nhưng các nước "bên ngoài" lại rất muốn tham gia vì vấn đề tự do hàng hải. Mà vấn đề này lại liên quan đến thế nào là phi quân sự hóa đang được các bên tranh cãi. Trung Quốc cho rằng phi quân sự hóa là tàu quân sự đi qua khu vực 12 hải lý quanh các đảo "của họ" phải có sự xin phép, còn Mỹ và các nước nói chung thì coi việc Trung Quốc xây dựng sân bay, đưa vũ khí khí tài ra các đảo đá được xây đắp, mở rộng đã là quân sự hóa rồi.
Việc tìm được sự đồng thuận giữa các bên về các vấn đề chủ chốt không hề đơn giản. Có hai luồng dư luận : một, COC chưa chắc đã cải thiện tình hình hiện nay ; hai, có COC vẫn hơn.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng tuyên bố tại Hội nghị về các biện pháp xây dựng lòng tin ở châu Á năm 2014 : "Việc điều hành công việc, giải quyết các vấn đề châu Á, bảo vệ an ninh châu Á là giành cho người châu Á". Và Trung Quốc yêu cầu trong văn kiện COC thì việc thăm dò và phát triển dầu khí và tài nguyên biển nói chung ở các vùng tranh chấp sẽ do các nước trong khu vực tiến hành, không hợp tác với các quốc gia bên ngoài. Cũng như sẽ không có các cuộc tập trận chung với các quốc gia ngoài khu vực. Yêu cầu này cho thấy, COC sẽ có thể tạo ra một dàn xếp mang tính độc quyền, trái với công ước Liên hiệp quốc về luật biển. Bà Dewi Fortuna Anwar, nhà quan sát người Indonesia đặt câu hỏi : "Làm thế nào để đảm bảo rằng COC sẽ không thể chế hóa mối quan hệ rất bất đối xứng gây bất lợi không chỉ cho các nước ASEAN mà còn cho các bên liên quan rộng lớn hơn ở Biển Đông, bao gồm cả việc không chú ý đến tất cả các điều khoản của UNCLOS ? Các nước Việt Nam, Malaysia, Philippines đã khẳng định COC sẽ không bao gồm bất kỳ điều gì gây ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của các bên theo luật pháp quốc tế…", Trung Quốc đã từng viện dẫn đoạn 4 của DOC quy định về giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán giữa các bên liên quan để phủ nhận thẩm quyền của Tòa Trọng tài và chỉ trích Philippines đã vi phạm DOC. Nhưng DOC chỉ là một tuyên bố ứng xử lỏng lẻo, thế nào mới được gọi là đàm phán, mà Trung Quốc lại chỉ muốn song phương mà thôi.
Trong khi làm ra vẻ thúc đẩy COC Trung Quốc luôn luôn nói rằng tình hình Biển Đông vẫn yên ổn thì thực tế đã xảy ra nhiều chuyện bất ổn. Một tàu cá Philippines bị tàu Trung Quốc đâm chìm vào tháng 6/2019 và hơn hai chục ngư dân lênh đênh giữa biển khiến dư luận nước này sôi sục, ba tháng sau họ mới có lời xin lỗi. Và suốt từ tháng 7 đến cuối tháng 10/2019 tàu thăm dò và hải cảnh Trung Quốc liên tục cản trở, quấy phá Việt Nam hoạt động ở vùng đặc quyền kinh tế của mình, bãi Tư Chính, dù Việt Nam nhiều lần lên án và dư luận quốc tế phản đối. Trước đó, các tàu này cũng đã thường xuyên cản trở hoạt động của Malaysia ở bãi Luconia. Và sau đó, cho đến tận đầu tháng 1/2020, hải cảnh và tàu cá Trung Quốc liên tục thâm nhập hải phận Bắc Natuna của Indonesia.
Philippines từng là nền kinh tế có trình độ phát triến thứ hai ở châu Á sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dựa vào Philippines cũng như dựa vào Hàn Quốc, Nhật Bản như là nơi cung cấp hậu cần cho cuộc chiến tranh, một lợi ích mà biết khai thác có lẽ Philippines cũng sẽ có một nền kinh tế không cách xa lắm với Hàn Quốc, Nhật Bản, nghĩa là một nền kinh tế phát triển. Hay sự tham nhũng của tổng thống độc tài Marcos và gia đình ông ta đã nuốt hết mọi cơ hội của Philippines mà khi trở thành người lãnh đạo của đất nước này, ông Duterte đã thất vọng đổ cho đồng minh lâu đời là Mỹ để làm một cuộc thoát Mỹ nhập Trung. Ông Duterte cũng bày tỏ thất vọng vì tổng thống tiền nhiệm đã để mất bãi cạn chiến lược Scarborough ở ngay cửa ngõ trung tâm quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự Manila, nhưng ông đã làm gì ? Trong 3 năm làm tổng thống, ông gặp ông Tập Cận Bình 8 lần và thăm Trung Quốc 5 lần. Sau lần gặp gỡ mới đây, ông thừa nhận là hoàn toàn bế tắc vì đối tác quyết không thay đổi lập trường. Dù vậy, ông vẫn muốn cùng khai thác với Trung Quốc vì cho rằng Philippines đã cạn kiệt nguồn cung. Theo các hãng tin nước ngoài, nếu Bắc Kinh thực sự giành được quyền khai thác chung với Philippines ở bãi Cỏ Rong thì sẽ là một bước lùi tai hại cho các bên cùng có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Nó như một chỉ dấu về cách thức "cùng khai thác" mà Trung Quốc muốn.
Những người Philippines ủng hộ Tổng thống Duterte thì nói rằng, trong khi làm chủ tịch ASEAN, Campuchia cũng đã hai lần bỏ phiếu chống lại việc ASEAN thông qua những tuyên bố chỉ trích hoạt động xây dựng và mở rộng đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông, còn hơn ông Tổng thống của họ bây giờ ? Người ta quên một điều là Campuchia có thể chẳng có lợi ích trực tiếp gì từ Biển Đông nhưng Philippines thì sao ?
Giám đốc Viện các vấn đề biển và luật biển của Đại học Philippines, Jay Batongbacan cho rằng : "Philippines đã phung phí những đòn bẩy có thể có đối với Trung Quốc thông qua việc gạt bản phán quyết của Tòa Trọng tài trong thời gian làm Chủ tịch ASEAN sang bên lề. Nếu Philippines không quan tâm đến việc đưa phán quyết vào nghị trình của ASEAN, không quốc gia nào khác trong hoặc ngoài khu vực có thẩm quyền đạo đức để đề cập đến phán quyết"
***
Ngày 13/7/2019, cơ quan CSIS (Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Mỹ) đã có bài viết nhận định Trung Quốc đã hoàn toàn bất chấp ít nhất 9 phán quyết chủ yếu của Tòa Trọng tài, sau 3 năm Tòa này ra phán quyết.
Thứ nhất, không tuân thủ phán quyết bãi Cỏ Mây và vùng biển xung quanh là thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Các tàu Trung Quốc tiếp tục thường xuyên tuần tra qua lại và có lần, trực thăng của họ còn quấy rối nguy hiểm một tàu tiếp tế của Philippines.
Thứ hai, chiếm đóng trái phép đá Vành Khăn, phản đối tàu Mỹ đi qua vô hại trong phạm vi 12 hải lý của đá này.
Thứ ba, ngăn chặn Philippines khai thác tài nguyên trong thềm lục địa của họ và ở bãi Cỏ Rong.
Thứ tư, Trung Quốc tiếp tục đơn phương đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá từ tháng 5 đến tháng 8 trong một khu vực phần lớn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines (và Việt Nam).
Thứ năm, Trung Quốc đã không ngăn chặn ngư dân của họ hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, tại bãi Vành Khăn và trên khắp Trường Sa. Tháng 6/2019, một trong số các tàu này đã đâm chìm một tàu cá Philippines
Thứ sáu, không tuân thủ phán quyết không cho phép ngư dân Trung Quốc khai thác trái phép loại sò tai tượng có nguy cơ tuyệt chủng bằng các biện pháp tàn phá môi trường, phá hủy nghiêm trọng một diện tích lớn san hô, dưới sự chứng kiến của lực lượng tuần duyên Trung Quốc như một sự phá hoại lấy được.
Thứ bảy, Trung Quốc đã phá hủy trái phép môi trường thông qua việc xây đắp đảo. Trung Quốc đã hoàn thành công việc nạo vét và chôn lấp tại quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2016. Cũng bao gồm cả việc Trung Quốc lắp đặt các trạm giám sát trên các rạn san hô ở Hoàng Sa, hủy hoại môi trường sống dưới biển.
Thứ tám, không tuân thủ phán quyết, các tàu chấp pháp của Trung Quốc tiếp tục vi phạm các quy định về chống va chạm bằng cách tạo ra nguy cơ va chạm, gây nguy hiểm cho các tàu của Philippines. Vụ quấy rối tàu tiếp tế của Philippines gần bãi Cỏ Mây tháng 5/2018 là một ví dụ.
Điều cuối cùng, thứ chín. Đặt thứ tự thứ chín là dụng ý của người viết bài này, còn CSIS đặt nó ở vị trí thứ nhất vì đây chính là vấn đề đường 9 đoạn. Phán quyết của Tòa trọng tài là Trung Quốc không thể yêu sách chủ quyền hoặc các quyền khác trong phạm vi đường 9 đoạn vốn vượt khỏi lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà Trung Quốc được UNCLOS cho phép. Và ở đây, điều CSIS phê phán là dù đã ít đề cập hơn (trước đây) về đường chín đoạn nhưng việc nước này tiếp tục tuyên bố có chủ quyền lịch sử đối với hầu hết các vùng biển và đáy biển ở khu vực này (Biển Đông) tiếp tục phản đối tất các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong đường 9 đoạn bất kể chúng nằm cách các thực thể mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền bao xa, tiếp tục để ngư dân của mình đánh cá trong các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Indonesia là vô pháp, không thể chấp nhận. Đặt điều này vào vị trí cuối cùng chúng tôi muốn khẳng định đây là sự bất tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài then chốt nhất, nghiêm trọng nhất dẫn đến tất cả các hoạt động bất tuân khác của Trung Quốc.
***
Coi Biển Đông là của mình, cùng với việc xâm chiếm và xây cất, mở rộng các đảo đá, Trung Quốc đã từng bước thiết lập sự kiểm soát các tầng không gian của Biển Đông.
Ngày 8/6/2016 Trung Quốc xây dựng Đài quan sát đáy biển, giúp tìm kiếm khoáng sản và phục vụ cho mục đích quân sự. Đây là đài quan sát ngầm đầu tiên của một quốc gia tại Biển Đông. Đài quan sát này, theo India Times, sẽ được quan sát liên tục theo thời gian thực, đảm bảo độ chính xác cao. Tiến thêm một bước, tháng 9/2019 Trung Quốc thiết lập hệ thống thiết bị bay không người lái (UAV) kiểm soát tầng không. Với hệ thống này, Biển Đông được Trung Quốc đặt dưới sự kiểm soát đa tầng, nghĩa là mọi hoạt động dưới mặt đất, trên mặt đất và trong khoảng không trên mặt nước biển đều không thóat khỏi "tầm nhìn" của họ. Thiết bị này còn giúp họ tìm kiếm dầu khí trong lòng biển và nhanh chóng biết được các quốc gia lân cận đang làm gì với tài nguyên ấy. Mới đây nước này còn thí nghiệm thành công thiết bị lặn tự hành có thể khảo sát ở phạm vi 2000km và sâu 2000m. Cùng với những tiền đồn, căn cứ quân sự mà Trung Quốc đã xây dựng ở Biển Đông (cho đến nay Trung Quốc có ít nhất 27 tiền đồn từ Hoàng Sa đến Trường Sa), thêm một lần Trung Quốc bắt nạt các nước trong khu vực.
Tại Biển Đông, các căn cứ quân sự (bao gồm các sân bay) đã được Trung Quốc thiết lập trên đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa), đá Subi, đá Vành Khăn, đá Chữ Thập. Radar, tên lửa còn được hiện diện ở những cơ sở nhỏ hơn. Vụ Tư Chính đã cho thấy những căn cứ này phát huy tác dụng như thế nào. Tàu Hải Dương Địa chất 8 sau một thời gian quấy rối việc thăm dò, khai thác của Việt Nam ở Bãi Tư Chính lại trở về đây tiếp nhiên liệu, phụ liệu, không phải trở về tận Hải Nam hay các cảng đất liền. Điều này đã không thể xảy ra trước khi Trung Quốc hoàn thành việc xây cất các đảo đá.
Nhưng, nếu một cuộc chiến tranh nổ ra lại khác. Theo những gì có thể thấy, các đảo nhân tạo không đủ lớn để dự trữ pháo, đạn hoặc trang thiết bị thay thế. Các căn cứ ấy cũng là các mục tiêu cố định, không có tầng bao phủ tự nhiên, càng không có khả năng cơ động chuyển vị trí. Nói tóm lại, nếu là một cuộc tấn công/phản kích mạnh, có ý đồ thì những căn cứ này dễ bị tiêu diệt. Hơn nữa, "vì tên lửa không yêu cầu dữ liệu mục tiêu theo thời gian sống nên tàu chiến và máy bay Mỹ sẽ dễ dàng trong chiến dịch tấn công các căn cứ trên các đảo nhân tạo", tờ National Interest viết ngày 17/9/2019. Tuy nhiên, trang tin này cũng cho rằng, các đảo nhân tạo là công cụ để Trung Quốc khẳng định các yêu sách chính trị về hàng hải và tài nguyên ở Biển Đông và các căn cứ quân sự đi kèm là công cụ để hù dọa các nước nhỏ yếu ven Biển Đông.
***
"Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương" cho đến nay là một khái niệm đã được thừa nhận nhưng chưa đồng nhất về một định nghĩa. Nhật, Mỹ, những nước đầu tiên đề cập đến khái niệm này đã cùng đồng ý về một "khu vực tự do và mở rộng". Và họ cũng muốn có một bộ tứ gồm Mỹ, Nhật, Australia, Ấn Độ làm hạt nhân. Tuy nhiên, Ấn Độ muốn tránh nói đến bộ tứ, cũng không đưa ra một quan điểm có ý nghĩa chính trị về khu vực này. Ngoại trưởng Jaishanka của Ấn Độ nói : "Khi khái niệm này xuất hiện, mỗi nước có cách nhìn và cách tiếp cận riêng. Họ có thể trao đổi để tìm ra những điểm trùng hợp. Với Ấn Độ, đó là một khu vực mở, bao trùm và cân bằng. Cũng không thể chia tách Ấn Độ Dương khỏi Thái Bình Dương".
ASEAN thì ban đầu có vẻ dị ứng với nó. Trước hết vì nó không xác định vai trò của ASEAN vốn vẫn coi (và được coi) mình là trung tâm. Hơn nữa nó mang ý nghĩa địa chiến lược của một tập hợp có vẻ chống lại Trung Quốc. Do đó các nước ASEAN đều dè dặt và hầu như không muốn nhắc đến. Song vì sự việc vẫn tồn tại, ngay bên cạnh ASEAN, va chạm với ASEAN vì các nước lớn đều nói đến nó nên cuối cùng, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 họp tại Bangkok, 6/2019, khối này cũng phải thông qua một văn kiện mang tên "Quan điểm ASEAN về "Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương" (AOIP).
Đây thực chất là quan điểm của Indonesia, nước lớn nhất trong khu vực. Indonesia vốn đã muốn xây dựng một trục hàng hải vắt qua Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và muốn được định vị như một cường quốc biển ở khu vực này. Đó hẳn là lý do quan trọng khi khái niệm địa chiến lược này được đưa ra. Nhưng trong khi khái niệm này có vẻ tạo ra một tập hợp chống lại Trung Quốc thì vị thế của Indonesia như đã nói trên lại không được đề cập. Đó là lý do tại sao Indonesia muốn khởi sự một định nghĩa khác về Ấn – Thái riêng cho ASEAN.
***
ASEAN đã tuyên bố trở thành một cộng đồng nhưng những gì cho thấy là một cộng đồng không thống nhất, một cộng đồng mà mỗi nước theo đuổi những tính toán, lợi ích riêng cho mình. Họ chỉ cùng thống nhất quan điểm về những vẫn đề ở xa tít tắp, không ảnh hưởng đến họ. Những vấn đề gần, thiết thực thì họ phải xem được gì, mất gì nếu phải đeo mang quan điểm với cả hội, nhất là vấn đề biển đảo.
Cũng không thể trách được gì vì ASEAN là tập hợp xã hội với những điều kiện xã hội khác nhau (Các nước Đông Dương cũng vậy. Một nhà nhân chủng học Pháp thời thuộc địa, những năm 30 của thế kỷ trước đã có một nhận xét khái quát : Người Lào chỉ thích vui chơi, nhảy múa, họ có nhiều lễ hội, một năm chỉ cần mấy tháng xuống nương ra đồng là được. Người Việt thì chỉ nhìn thấy những gì hiện ra tức thì, họ không thể nhìn xa hơn nếu có bức tường trước mặt. Còn người Khmer, bắt tay họ quay đi thì phải quay lại ngay, coi chừng… Những năm 70 có không ít bộ đội, cán bộ Việt Nam bị mất tích ở vùng Đông Bắc Campuchia trong khi thỉnh thoảng lại bắt gặp những lính Khmer đỏ vác dao trên đường).
Vấn đề biển đảo ở Biển Đông đã bao giờ có được một ý chí chung giữa các nước này ? Chưa. Sự rạn nứt bắt đầu từ năm 2010, vào cái thời điểm mà chúng tôi đã đề cập ở trên, đến năm 2012 việc này trở nên rõ ràng. Campuchia khi đó là Chủ tịch ASEAN đã công kích Việt Nam và Philippines vì phê phán quan điểm của họ. Khi Philippines kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế và giành được phán quyết thuận lợi của Tòa, tháng 7/2016, chỉ có Việt Nam bày tỏ sự hoan nghênh. Các nước ASEAN khác, tùy từng thời điểm cho đến nay đã cho thấy quan điểm của mình đối với phán quyết này nói chung là dè dặt.
Tuy nhiên, các nước ASEAN cũng tăng cường hợp tác cùng khai thác tài nguyên biển trong các khu vực chồng lấn, thể hiện một tinh thần hiểu biết. Đã có thỏa thuận chung giữa Thái Lan và Malaysia về việc mỗi bên có thể khai thác 50% sản lượng khí đốt trong khu vực này. Campuchia và Thái Lan cũng tích cực thúc đẩy việc khai thác năng lượng trong khu vực chồng lấn giữa hai nước. Trong khi đó, Việt Nam đang thảo luận với Indonesia và Malaysia về việc xác định vùng đánh cá chung trong khu vực tiếp giáp giữa ba nước, tránh tình trạng bắt giữ tàu cá của nhau hoặc gây ra các sự hiểu lầm khác.
Trung Quốc là bên tranh chấp lớn trong vấn đề Biển Đông. Họ giống như là một mình một phía với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, chính trị vượt trội. ASEAN, trong vấn đề Biển Đông, muốn là đối tác đa phương của Trung Quốc nhưng nước này kiên quyết giữ song phương, có đàm phán thương lượng thì riêng với từng nước liên quan, không làm với "một tập hợp". Nhưng Trung Quốc đã tốn công, tốn sức không ít và có sự bối rối lớn khi tìm kiếm sự ủng hộ của thế giới vào thời kỳ mà Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014 và khi Philippines – Aquino kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài. Những gì họ đã làm và đạt được trong vấn đề này là không đáng bỏ công. Trong danh sách các nước ủng hộ mà họ công bố lúc đó, hầu hết là các nước châu Phi và các quốc đảo tí xíu ở Thái Bình Dương. Không một nước lớn, không một nước phương Tây, thậm chí cũng không một nước ASEAN trong tổng cộng 70 nước mà Trung Quốc nói rằng ủng hộ họ. Nhưng điều đáng nói là trong cuộc tấn công "làm việc" vào các nước tí hon Vanuatu, Samoa, Tonga, Papua New Guinea, các nhà ngoại giao Trung Quốc cho các nước này biết họ là "nạn nhân" trong vụ tranh chấp và "Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, đặt tên và phát triển các đảo ở Biển Đông, còn Việt Nam và các nước khác mới chỉ tuyên bố chủ quyền trong năm 1970 (?) sau khi ở đây phát hiện các mỏ dầu và khí đốt". Lúng túng, tất cả xuất phát từ cách làm không chính nghĩa.
***
Dù muốn hay không, Biển Đông đã là vấn đề quốc tế bởi sự tranh chấp giữa nhiều quốc gia trong khu vực. Nó càng trở thành vấn đề quốc tế khi là một trong những đường hàng hải quan trọng nhất của thế giới.
Nước lớn gần cận với quan điểm của Việt Nam nhất có lẽ là Nhật Bản. Nhật Bản từng ủng hộ Trung Quốc khi Đặng Tiểu Bình đến Nhật, ngay trước khi Trung Quốc đánh Việt Nam 1979. Lập trường này đã có nhiều thay đổi, đặc biệt dưới thời cầm quyền của thủ tướng Abe. Quan hệ giữa hai nước ổn định, gần như là đồng minh cho đến lúc này. Nhật Bản là quốc gia cấp nhiều vốn ODA cho Việt Nam nhất và cũng đặc biệt giúp Việt Nam xây dựng các cơ sở hạ tầng. Không có dấu hiệu gì, không có lý do gì để thấy rằng quan hệ thân thiết giữa hai nước có thể bị phá vỡ.
Xét từ chiều sâu 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô/Nga là đồng minh của Việt Nam. Mối quan hệ này chưa từng đổi khác, cho dù vật đổi sao rời. Ngày nay đây là mối quan hệ có thể tin cậy của Việt Nam dù trong khi đó quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đã vượt lên, trở thành mối quan hệ mà cả hai nước này đều thề rằng tốt nhất trong lịch sử (đây không phải là quan hệ đồng minh, cũng không phải liên minh nhưng dựa vào nhau để tìm sự thống nhất trong đối chọi với Mỹ).
Trong vấn đề Biển Đông, Nga có lúc cũng nói là không quốc tế hóa sự tranh chấp trong khu vực. Nhưng nói chung, có thể thấy chính giới Nga, dư luận Nga ủng hộ Việt Nam, thông qua cách đưa tin trên các phương tiện truyền thông, hoặc các cuộc hội thảo ở Viện Hàn lâm hay trường đại học được đặc biệt tổ chức về vấn đề này. Chẳng hạn tiêu đề một bản tin của hãng TASS trong dịp xảy ra vụ Tư Chính : "Việt Nam kiên quyết đấu tranh trước bất cứ một hành vi nào xâm phạm chủ quyền" hoặc hãng này trích dẫn lời phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ : "Trung Quốc cần kiềm chế các hành động khiêu khích tại Biển Đông". Hãng Interfax của nước này còn trích dẫn cả lời phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Lorenzana chỉ trích Trung Quốc vì những hăm dọa. Đặc biệt trong "bối cảnh Tư Chính", ngày 17/7/2019 Nga công bố thư khen ngợi của Tổng thống Putin đối với giám đốc Rosneft Việt Nam BV (Công ty con của tập đoàn Rosneft) một động thái không chỉ được coi là khéo léo ủng hộ Việt Nam mà còn khẳng định quyền của Nga trong thăm dò, khai thác ở đây.
Tại cuộc hội đàm với tổng thống Putin (Sochi, ngày 6/9/2018) trong khi Tổng thống Nga nói rằng Moscow muốn thắt chặt hơn nữa quan hệ an ninh và quốc phòng với Hà Nội thì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết Việt Nam xem Nga là một trong những đối tác quan trọng và đáng tin cậy nhất.
Chính sách "ba không" của Việt Nam trong quan hệ quốc tế (Sách trắng quốc phòng 2019 mới xuất bản nêu "bốn không"), đặc biệt với các nước lớn, thế giới đã rõ. Nhưng trong bối cảnh ngày càng phức tạp, cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, chính sách này cần được điều chỉnh. Một liên minh liên kết với một nước mạnh, có thể làm chỗ dựa cho Việt Nam, tại sao không ?
Một liên minh có điều kiện, không nhất thiết phải là đồng minh. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam có thể sẵn sàng với quốc gia nào và quốc gia nào có thể sẵn sàng cùng Việt Nam ? Vấn đề không đơn giản bởi tính tự giác phải đến từ hai phía.
Có thể thấy một điều Mỹ là một nước lớn và là quốc gia duy nhất đã phản đối đích danh Trung Quốc trong các sự kiện ở bãi Tư Chính. Mỹ cũng có lợi ích to lớn ở Biển Đông. Nhưng chỉ những điều ấy thôi chưa đủ, sự liên minh liên kết phải được dựa trên sự tin cậy. Và nếu được như thế, chắc chắn đó là sự hợp tác chiến lược. Trên tờ Bloombeng 17/11/2019, tác giả J. Starviridis đã viết : "Mặc dù không phải là đồng minh như Thái Lan, Philippines, Mỹ và Việt Nam cần có một khuôn khổ hợp tác chính thức về an ninh".
Mỹ từng là kẻ thù của Việt Nam và giữa hai nước là một cuộc chiến tranh khốc liệt nhất. Không có kẻ thù nào là vĩnh viễn, cũng như không có bạn bè nào vĩnh viễn, người Trung Quốc đã nói vậy và họ có thể là tấm gương về việc này. Trung Quốc từng ủng hộ Pôn Pốt – Ieng Sary, ủng hộ chế độ diệt chủng quyết liệt chống lại Heng Samrin – HunXen và gọi chế độ ở Phnom Penh hiện nay là tay sai của Việt Nam. Bây giờ thế nào ? Trung Quốc không hề xấu hổ khi tuyên bố Hun Sen là người bạn thân thiết nhất của họ. Cả hai đều biết vì sao lại như vậy, vì sao lại cần phải như vậy.
Việt Nam cũng không bao giờ muốn là kẻ thù của Trung Quốc. Hơn nữa dòng chính trong lịch sử cận đại giữa hai nước là ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, tình thế quy định và đặt tên sự việc.
***
Trở lại vấn đề Tư Chính
Đầu tháng 7/2019 Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa chất 8 tới phía đông bắc bãi Tư Chính, làm cái việc mà họ gọi là khảo sát đáy biển khu vực này. Theo như họ cho biết, họ đã "khảo sát" 10 lô dầu khí trong một vùng biển rộng 35.000 km2 hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Đã có lúc Hải Dương 8 chỉ cách Phan Thiết 185km, hoặc Ninh Thuận 155km, xâm nhập sâu vào EEZ của Việt Nam.
Đi theo tàu này, có nhiều tàu hải cảnh hộ tống, thậm chí cao điểm có lúc có tới tám chục tàu hải cảnh và tàu dân quân Trung Quốc bao quanh và cản trở, xua đuổi tàu Cảnh sát biển Việt Nam. Những tàu này còn dấn thêm một bước là quấy rối gần lô 06-01, nơi Rosneft Việt Nam đã hoạt động khai thác trong nhiều năm qua. Đây cũng là nơi mà hai tập đoàn BP và Conoco Philips từ đầu những năm 2000 đã triển khai dẫn khí đốt vào đất liền Việt Nam, đáp ứng một phần năng lượng cho nhà máy điện. Hiện tại khí từ mỏ Lan Đỏ chiếm tới 1/10 tổng nhu cầu năng lượng của Việt Nam và đang do Rosneft Việt Nam khai thác. Cần nói rằng xa bờ hơn một chút là các lô 07-03 và 136-03 cũng trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, là nơi vào các năm 2017 và 2018, Trung Quốc đã gây sức ép buộc công ty Repsol của Tây Ban Nha phải rời đi.
Hoạt động của các tàu hải cảnh này không đơn thuần là bao bọc, che chắn cho Hải Dương 8 mà còn nhuốm màu bạo lực. Chẳng hạn ngay từ đầu, ngày 2/7, các tàu hải cảnh đã di chuyển với tốc độ cao trong một cự ly gần giữa hai tàu Việt Nam hay giữa tàu Việt Nam với giàn khoan. Sau đó, trong thời gian căng thẳng nhất, họ lại tiến hành đâm va và phun nước vào các tàu Việt Nam bảo vệ giàn khoan, giống như các hoạt động của họ trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014.
Ngoài mục đích tranh chấp chủ quyền với Việt Nam, hoạt động của Hải Dương Địa chất 8 còn mục đích gây sức ép với Nga (có lẽ đây là mục đích chính ?), nước đang có công ty Rosneft hoạt động trong khu vực theo thỏa thuận giữa hai chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga trước đó, theo cách mà Trung Quốc từng gây sức ép với Repsol của Tây Ban Nha. Như đã đề cập, ngay trong dịp này, Nga đã công khai thư khen ngợi của Tổng thống Putin đối với Giám đốc Rosneft Việt Nam BV, công ty đang hoạt động thăm dò ở đây, một phản ứng rõ ràng đối với Trung Quốc. Về phía mình, ngay từ đầu, phản ứng của Việt Nam là mạnh mẽ. Ngày 12/7 Thủ tướng Việt Nam đã đến trụ sở cảnh sát biển và trực tiếp đàm thoại, động viên lực lượng này đang làm nhiệm vụ ở bãi Tư Chính. Suốt trong quá trình tàu Hải Dương Địa chất 8 và các tàu hải cảnh gây rối, Cảnh sát biển Việt Nam đã kiên quyết không rời vị trí, đáp trả ngoan cường các hành động có tính chất vũ lực của họ.
Chính phủ Việt Nam thông qua giao thiệp của Bộ Ngoại giao đã kiên quyết, liên tục phản đối việc xâm phạm chủ quyền Việt Nam của phía Trung Quốc.
Điều quan trọng là mặc dù mọi cản trở từ phía Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình ở khu vực này.
Một điều đáng lưu tâm khác là việc Trung Quốc đã thách thức gần như cùng lúc đối với chủ quyền các nước ASEAN (trước đó là đối với Malaysia và Philippines) thêm một lần cho thấy các nước này cần phải có sự đoàn kết, cần phải có một tiếng nói chung hơn bao giờ hết. Chính trong dịp này, cuối tháng 8/2019 thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã có cuộc thăm viếng Việt Nam. Trong tuyên bố chung, hai bên đã nhấn mạnh vấn đề Biển Đông phải được giải quyết bằng hòa bình, thông qua các tiến trình pháp lý, không đe dọa sử dụng vũ lực, và phải tuân thủ Công ước luật biển của Liên hợp quốc 1982. Trong cuộc đi thăm một nước ASEAN khác ngay sau đó, từ kinh nghiệm xử lý các khoản vay nợ của nước mình sau khi trở lại làm Thủ tướng, ông Mahathir đã nói : "Hãy trân trọng giá trị của độc lập tự chủ, một khi vay nợ (và khó trả) thì sẽ không còn độc lập tự chủ nữa". Ông Thủ tướng cũng nói rằng, nếu để nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ cũng có nghĩa là để mất chủ quyền, "nhưng những can thiệp khẩn thiết như trường hợp Khmer Đỏ trước đây lại khác". Có lẽ ông muốn nhắc đến hành động hy sinh giúp đỡ Campuchia của Việt Nam mà đến nay cũng vẫn còn những ý kiến khác trong khu vực ? "Để ngăn các cường quốc can thiệp, các nước ASEAN phải đoàn kết thành một khối vững chắc", ông kết luận.
***
Tính đến 2016, Việt Nam đã ký kết 13 thỏa thuận đối tác chiến lược và 11 đối tác toàn diện với các nước. Có ba nước là đối tác chiến lược toàn diện là Trung Quốc (2008), Nga (2012) và Ấn Độ (2016). Nhưng thực tế đã không như vậy trong quan hệ với Trung Quốc.
Đối tác chiến lược toàn diện trước hết là sự hợp tác, tin cậy trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng, quan hệ hai nước Việt Nam – Trung Quốc có sự hợp tác tin cậy đó không ? Cần nhìn vào sự thật qua bốn chục năm nay : Không. Tháng giêng năm 2017, hai Bộ trưởng Quốc phòng hai nước, trước sự chứng kiến của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã ký tại Bắc Kinh "Tuyên bố tầm nhìn chung về sự hợp tác quốc phòng đến năm 2025", một văn bản mà dư luận tin rằng "chỉ có giá trị về mặt chính trị", tuyên truyền.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước hết là quan hệ láng giềng gần gũi, nhiều tương đồng về lịch sử, văn hóa. Nhưng quan hệ gần gũi, láng giềng ấy là quan hệ giữa một nước lớn và một nước nhỏ và bởi vậy, Việt Nam đã phải hứng chịu một ngàn năm thuộc Bắc. Cuối cùng trong thế kỷ XX Việt Nam cũng trở thành một nước hoàn toàn tự do và độc lập. Nhưng những di sản bất lợi của một ngàn năm ấy phải giải quyết đã không hề dễ dàng. Sau một thập kỷ chiến tranh và xung đột giữa hai nước – thập kỷ 80 của thế kỷ XX – phải mất thêm một thập kỷ nữa hai nước mới có thể đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ. Phải mất 6 vòng đàm phán cấp chính phủ, 16 cuộc hội đàm của nhóm làm việc chung và nhiều cuộc gặp cấp chuyên gia khác, đến sát ngày cuối cùng của thập kỷ 90, hai nước Việt Nam và Trung Quốc mới ký được Hiệp ước Biên giới trên bộ và đến ngày 25/12/2000, cũng sau 10 vòng đàm phán cấp chính phủ, 18 cuộc hội đàm của Nhóm làm việc chung hai nước mới ký được Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Nhưng như ta đã biết, tất cả những điều đó chưa phải là kết thúc.
***
Người Trung Quốc hiện nay đang có cái nhìn như thế nào về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ?
Nhiều tác giả, bao gồm cả những học giả và không học giả Trung Quốc đã có những bài viết về Việt Nam hoặc về quan hệ Việt – Trung. Không ít những bài như "Cơ hội của Việt Nam trong chuỗi ngành nghề toàn cầu" (www.dunjiaodu.com, ngày 27/6/2019), nói về sự phát triển kinh tế của Việt Nam với những số liệu và phân tích khá xác đáng, những dự báo có cơ sở, những thiếu hụt cần phải vượt qua và những kết quả có thể hy vọng. Hay, mặc dù chịu sự kiểm duyệt nặng nề, một số học giả Trung Quốc vẫn đưa ra những ý kiến khách quan về "Nam Sa" (Trường Sa) về "đường chín đoạn" như Trần Khắc Kỷ, Lý Lệnh Hoa. Nhưng nói chung các bài viết thường thiên về phê phán, dạy dỗ, thậm chí xuyên tạc và thậm chí nữa, nói lấy được. Một nữ nghiên cứu viên của Viện khoa học xã hội Quảng Tây bảo rằng, Trung Quốc đất rộng, người đông, vì thế (?) không thể chấp nhận một vùng biển nhỏ hẹp. Một học giả ở Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới (Bắc Kinh) mà tôi tôn trọng, cũng bảo rằng từ Việt Nam đi đến Philippines phải vượt qua "đường biên" với Trung Quốc (ý nói đường 9 đoạn) (?) Đặc biệt vừa qua, ông Trương Minh Lượng, nghiên cứu viên Đại học Ký Nam (Quảng Đông) có bài : "Ngoại giao Việt Nam làm phức tạp hóa vấn đề Biển Đông" – đăng trên tạp chí Đông Nam Á (Trung Quốc). Bài viết khá dài và loanh quanh chữ nghĩa không có sức để bình luận, chỉ xin hỏi lại ông Trương hai điều. Một, ông bảo nhà cầm quyền Việt Nam phải dung túng chủ nghĩa dân tộc (ý muốn nói là chống Trung Quốc) để bù đắp sự thiếu hụt tính hợp pháp của họ. Thiếu hụt tính hợp pháp ở chỗ nào thưa ông ? Thứ hai, điều này mới quan trọng, mới là bản chất của điều ông muốn nói. Ông bảo cuộc chiến Việt Nam – Campuchia cuối những năm 70 thế kỷ XX thực tế là cuộc chiến ba bên với bên thứ ba là Trung Quốc (hay thật !). Và bây giờ theo ông, tình huống ba bên ấy lại xuất hiện y chang, quan hệ Trung Quốc – Campuchia ngày càng ấm lên và quan hệ của Việt Nam với hai nước này ngày càng lạnh nhạt, thậm chí quan hệ Việt Nam – Campuchia đã đạt đến mức căng thẳng với hai nguyên nhân là Trung Quốc đã viện trợ ào ào cho Campuchia và người Campuchia thì "căm ghét" Việt Nam chẳng khác gì trước đây ? Ông Trương khẳng định : điều này là chắc chắn. Và ám chỉ : Cơ hội bùng phát cuộc chiến tranh tương tự cuối những năm 1970 đã sẵn sàng, và Việt Nam đang lo ngại.
Xin hỏi ông : Trung Quốc trước đây ủng hộ Khmer Đỏ (Lãnh đạo cao cấp nhất Trung Quốc từng nói Khmer Đỏ là chế độ giết người, nhưng Trung Quốc ủng hộ vì Khmer Đỏ đánh Việt Nam) ; và từng tuyên bố chế độ Hun Sen – Heng Samrin là tay sai của Việt Nam nhưng Trung Quốc hiện nay lại ra sức viện trợ cho họ như ông nói, coi họ là những người bạn lý tưởng nhất. Vậy là sao ? Còn về việc Việt Nam giúp đỡ Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot và nhân dân Camphuchia đánh giá điều đó như thế nào ông có thể tìm đọc bài phát biểu của ông Hun Sen ngày 4/10/2019, trong lần thăm Việt Nam mới đây.
***
Như đã đề cập, Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc về kinh tế và công nghệ. Từng nói đến "thoát Trung" nhưng bây giờ càng dính chặt hơn. Người Việt Nam là như vậy, không có cái gì kiên quyết cả (trừ việc cả nước ra đường phải đội mũ bảo hiểm, một sự thành công đáng ngạc nhiên). Báo chí đưa tin trong 7 tháng đầu năm 2019 Việt Nam nhập khẩu 42,5 tỷ đô la hàng hóa từ Trung Quốc, tăng gần 20%, cả máy móc, thiết bị lẫn nguyên liệu, phụ liệu. Không có một nước nào mà nền kinh tế phụ thuộc nhập khẩu từ nước láng giềng cao như Việt Nam (và xuất khẩu cũng vậy, dù rằng thâm hụt. 70% nông sản xuất khẩu là sang Trung Quốc). Số liệu thống kê về xuất nhập khẩu hàng năm của phía Trung Quốc thực tế cao hơn Việt Nam nhiều (trung bình khoảng 15% vì họ nắm chắc hoạt động của đường tiểu ngạch). Thấy nguy cơ nhưng nói xong để đấy, như chỉ nhìn thấy bức tường trước mặt. Không ai quan tâm tại sao, hoặc lờ đi vì không giải quyết nổi. Vấn đề là chính Trung Quốc cố tình tạo ra một thị trường buôn lậu và tiểu ngạch nhộn nhịp qua nhiều ngách biên giới khó kiểm soát. Khó kiểm soát nhưng không phải không biết (hoặc chỉ nhìn thấy "bức tường"). Cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại, ông Lê Minh Triết, gần đây đã phải nói "Nhà nước Việt Nam đã không làm tròn trách nhiệm". Tôi không muốn dùng đến khái niệm "thoát Trung". Nói vậy giống như đang chịu đựng một sự kìm kẹp. Mà nguyên nhân của chuyện này chủ yếu và trước hết là do chúng ta. Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc nhưng với dân số gần trăm triệu người thì lại là nước lớn trong ASEAN, là tấm gương (phản chiếu chứ chưa phải để soi) mà các nước nhìn vào.
Vấn đề thứ nhất, buôn lậu và tiểu ngạch. Trung Quốc dung túng thì hoàn toàn có thể "bóp" vào, bằng thuế, bằng khối lượng, bằng chất lượng do họ quy định và vân vân. Người hứng chịu sẽ là nông dân và những người buôn bán tiểu ngạch, cũng có nghĩa là chính phủ, chưa nói vô vàn rủi ro trong làm ăn tiểu ngạch qua biên giới. Việt Nam phải chủ động và kiểm soát nó, khó khăn nhưng có thể kiểm soát.
Vấn đề thứ hai : Tiềm tàng nguy cơ lớn Trung Quốc trả đũa. Nước này có thói quen không quân tử là dùng biện pháp kinh tế – thương mại để trả đũa những vấn đề không liên quan, như đã từng làm với Philippines, Na Uy, Hàn Quốc… Cách ứng phó của Việt Nam là không để chỉ khi thấy nguy cấp thì mới đề cập đến như một vấn đề chiến lược, qua rồi thì "cho qua". Việt Nam cũng không được để những nguyên liệu thiết yếu cho sản xuất chỉ đến từ một hướng, chỉ đến từ Trung Quốc. Ở đây chính là vai trò của nhà nước, của chính phủ. Phải có kế hoạch ngay từ khi nguy cơ ấy tiềm tàng. Kế hoạch này phải có lộ trình, kiểm điểm theo lộ trình. Có đắng cay, có sút giảm (thậm chí nặng nề) nhất thời cũng phải chấp nhận. Coi như một cuộc chiến, mà cuộc chiến thì không thể thất bại.
Phần II
Trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, nhất là qua vụ việc ở bãi Tư Chính, cách ứng xử của Nhà nước Việt Nam như vậy là chưa đủ
Dư luận trong nước cho rằng trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, nhất là qua vụ việc ở bãi Tư Chính, cách ứng xử của Nhà nước Việt Nam như vậy là chưa đủ, chưa được, còn quá dè dặt. Người ta nhìn vào kết quả : Trung Quốc vẫn thế, vẫn ra vào ngang nhiên. Tôi đồng ý phần nào quan điểm này. Người dân cần ủng hộ Chính phủ, nhưng không có nghĩa vụ ủng hộ vô điều kiện. Người dân cũng có quyền thảo luận với Chính phủ một cách lý trí nhưng không để tình cảm lấn át, thiếu hiểu biết, càng không thể đại ngôn, lớn lời, bài bác vô lối.
Trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia có quan hệ sâu rộng nhất với Trung Quốc, trên mọi lĩnh vực. Cùng với Myanmar và Lào, Việt Nam có đường biên giới trên bộ khá dài với Trung Quốc. Việt Nam cùng có biên giới trên biển quan trọng với nước này, không nói về đường 9 đoạn. Việt Nam cũng sở hữu hệ thống Mekong-Lan Thương với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lục địa. Việt Nam cũng là nước có quan hệ kinh tế – thương mại lớn nhất với Trung Quốc.
Để thấy rằng những tính chất bất khả kháng của Việt Nam trong mối quan hệ này và cũng để thấy rằng Việt Nam phải ở hàng đầu trong cách ứng xử với Trung Quốc. Theo cách mà Jay Batongbacan nói về vai trò của Philippines trong phán quyết của Tòa Trọng tài (đã nêu ở trên), ta cũng có thể bảo : Nếu Việt Nam không quan tâm đến vai trò hàng đầu của mình thì không một nước nào trong hoặc ngoài khu vực có thẩm quyền (cả về mặt đạo đức lẫn pháp lý) nắm giữ vai trò ấy.
Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần có sự hợp tác cao hơn với Mỹ, một liên minh liên kết hoặc đối tác chiến lược chẳng hạn. Người viết cũng đã nêu ra khả năng này là có thể, với điều kiện cả hai phía đều tự giác nhìn thấy và vì cộng đồng lợi ích. Bài phát biểu của Phó tổng thống Mỹ M.Pence ngày 24/10/2019 có phần quan trọng nói về Biển Đông đã được dư luận Mỹ đánh giá cao. Trong khi Giáo sư A. Erickson thuộc Trường Hải chiến Mỹ cho rằng Phó Tổng thống Pence "xứng đáng trong vai trò quan chức Mỹ cao cấp nhất công khai vạch trần ý đồ của lực lượng dân quân biển Trung Quốc" và ông D.J. Grossman, một chuyên gia từ Trung tâm Rand Corporation phát biểu : "Chưa một nước nào đứng lên bảo vệ Việt Nam như vậy" thì vẫn cần phải hỏi : Còn Tổng thống Mỹ thì sao ? Ông D. Trump chưa một lần lên tiếng mạnh mẽ về vấn đề này, chưa nói đến hành động. "Nước Mỹ trước hết", và ông đã bỏ rơi đồng minh người Kurd cho Thổ Nhĩ Kỳ ? Có thể đặt cược vào một Tổng thống vừa dân túy vừa bất nhất như vậy ?
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là một quan hệ láng giềng vĩnh viễn. Trong mối quan hệ đó có lịch sử, văn hóa, có tình hữu nghị không thể một sớm một chiều bỏ qua. Chưa nói đến những ràng buộc như đã đề cập. Nhưng cũng không thể xem nhẹ chủ quyền dân tộc nếu bị xâm phạm. Đấy là thế khó của nhà nước mà cũng là nơi quyền lực và sự sáng suốt phải được chứng tỏ. Dư luận nhân dân có quyền đòi hỏi chính phủ phải làm nhiều hơn, làm tốt hơn việc bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trong ba mối quan hệ/ràng buộc đang có với Trung Quốc thì Biển Đông nằm ở trung tâm còn kinh tế và hệ thống sông Mekong-Lan Thương rất có thể trở thành công cụ của một bên như đã nói. Không khó để nhìn ra sự "khôn ngoan" của đối phương nhưng chưa thấy Việt Nam có một đối sách thật sự ở tầm chiến lược. Nói "thoát Trung" để bây giờ càng "dính" chặt hơn ?. Về hệ thống Mekong – Lan Thương cũng vậy. Trung Quốc trữ một lượng nước lớn ở thượng nguồn bằng một loạt con đập nhưng nhiều con đập không để làm thủy điện. Để làm gì ? Người ta có quyền đặt câu hỏi về vấn đề này, nhất là từ lâu Trung Quốc đã có ý định tìm cách cung cấp nước cho vùng khô hạn phía đông và phí bắc của mình. Cơ chế hợp tác Lan Thương – Mekong (LMC) không cho thấy mục đích rõ ràng, dù nó nằm dưới ngọn cờ "cộng đồng chung vận mệnh" với rất nhiều tiêu ngữ bóng bẩy. Hầu như Bắc Kinh chưa đưa ra cam kết nào đối với yêu cầu quản lý và ổn định dòng chảy, đảm bảo cung cấp nước và phù sa cho hạ lưu, giữ vững hệ sinh thái. Tóm lại, vấn đề quản lý tài nguyên nước đã hoàn toàn bị bỏ qua ; trong khi ở thượng lưu, chỉ với 11 con đập, Trung Quốc trữ tới 50% lượng nước của Mekong – Lan Thương vào mùa khô hạn !
Biển Đông là nơi tập trung những vấn đề chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đáng tiếc đó lại là những vấn đề tiêu cực, trái với điều Trung Quốc thường rêu rao là tình hình khu vực này ổn định (ngay cả khi xảy ra sự việc ở bãi Tư Chính nửa cuối năm 2019). Không thể hy vọng giải quyết cơ bản hoặc một lần khi các mâu thuẫn diễn ra đã mấy chục năm mà vẫn đang ngày thêm trầm trọng. Nhưng đã đến lúc yêu cầu các bên nhìn thẳng vào vấn đề với tinh thần hợp tác, không lảng tránh.
Thứ nhất, vấn đề COC-Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông. Tại cuộc họp thượng định giữa ASEAN và Trung Quốc ở Bangkok mới đây, "đã nổ ra tranh cãi gay gắt giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông" (AP, ngày 2/11/2019), theo đó Trung Quốc trở mặt yêu cầu khối các nước ASEAN không được để Việt Nam phá hoại (?) tiến trình đàm phán COC. Việt Nam phá hoại COC ? Thật không đấy ? Quá ngang ngược và hài hước khi biến mình từ tội đồ trì hoãn COC vụt trở thành ông chủ sáng giá, lúc nào cũng muốn làm ông kẹ ! Tuy nhiên Việt Nam cần nắm lấy cơ hội, buộc nước lớn này phải đàm phán thực chất trên cơ sở kiến nghị của tất cả 11 bên, đặc biệt với các nước có dự phần Biển Đông.
Thứ hai, vấn đề "đường 9 đoạn". Gần đây phía Trung Quốc đã giảm thiểu phát ngôn chính thức từ phía nhà nước về đường 9 đoạn. Giáo sư Robert Beckman từ Đại học Quốc gia Singapore ngày 6/1/2020 cho rằng Trung Quốc đang từ bỏ yêu sách đường 9 đoạn và thay thế nó bằng yêu sách chủ quyền đối với 4 cụm đảo (Hoàng Sa, Trường Sa, Pratas/Đông Sa và Macclesfield/Tây Sa) mà họ cho rằng có cơ sở pháp lý vững hơn (Nội sự đổi thay này càng cho thấy thế yếu cùng lòng tham khó bỏ của Trung Quốc). Tôi tin là Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm được cơ sở pháp lý cho đường 9 đoạn để giải thích cho chính người Trung Quốc (chưa nói quốc tế) như tuyên bố hùng hồn (rồi bỏ mặc đấy) của ông Ngô Sĩ Tồn nhiều năm về trước.
Bác bỏ đường 9 đoạn không chỉ căn cứ vào tính pháp lý mà luật biển UNCLOS 1982 của Liên hợp quốc đã xác nhận mà còn căn cứ vào tính mơ hồ mà Trung Quốc tuyên bố sau khi công dân của họ vẽ ra con đường này. Tuyệt đối không thể vồ lấy mà nói đấy là biên giới biển, biên giới quốc gia.
Thứ ba, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chẳng những nói đây là đất của tổ tiên từ đời nhà Hán mà có lúc còn bảo, Trịnh Hòa thời Minh trong các lần xuất dương đã tuyên chiếm các đảo này. Nhà báo Bertil Lintner trên trang Asia Times ngày 15/11/2019 vạch rõ, Trịnh Hòa thậm chí chưa đi qua Biển Đông. Trong danh mục 700 điểm ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương mà ông này ghi lại, bao gồm cả những nơi rất xa xôi như Adaman, Nicobar và Maldives, chẳng có một địa điểm nào thuộc về Biển Đông. Phải có những người lãnh đạo biết rằng cấp dưới đã báo cáo sai sự thật và phải có những cấp dưới có lương tâm chứ ? Mà dù chủ quyền thuộc về ai – thuộc về Việt Nam cũng vậy thì như phán quyết của Tòa trọng tài, "không một cấu trúc nào ở Trường Sa có thể tạo ra các vùng biển mở rộng"
Thứ tư, phải thừa nhận rằng, mặc dù Trung Quốc là nước lớn có tiềm lực quân sự hùng mạnh, hầu như không có công ty, tập đoàn khai thác dầu khí quốc tế nào vì lợi ích kinh tế chấp nhận lời mời chào của họ vào thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng mà Trung Quốc gọi là Vạn An (bãi Tư Chính) cũng như trong phạm vi đường 9 đoạn, ngoại trừ tập đoàn năng lượng Crestone (Mỹ) năm 1992. Nhưng trước sự phản đối của Việt Nam, tập đoàn này sau đó đã rút lui và Việt Nam đã xây dựng thêm 3 nhà giàn ở đây để khẳng định chủ quyền. Cho đến nay, không một công ty nước ngoài nào còn có mặt theo lời kêu gọi của Trung Quốc. Thất bại đó có thể là lý do chủ yếu khiến Trung Quốc đã luôn yêu cầu COC phải có điều khoản ràng buộc "không hợp tác khai thác tài nguyên với các nước ngoài khu vực".
Thứ năm, sự ủng hộ của quốc tế. Sự ủng hộ này gần như tuyệt đối khi các nước khẳng định mọi cách làm của Việt Nam đều dựa trên trật tự và quy tắc quốc tế, trong đó bao gồm Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS), cũng như quyền bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình. Trong vụ việc liên quan đến bãi Tư Chính vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã nhiều lần lên tiếng phê phán Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam. Nhiều nước trong khu vực như Nhật, Ấn, Úc,… cũng đã lên tiếng với những cách khác nhau. Dư luận truyền thông, báo chí ủng hộ Việt Nam khá mạnh mẽ. Không một quốc gia nào lên tiếng bênh vực Trung Quốc.
Tuy nhiên, phản ứng nói chung là tiêu cực từ các quốc gia trong ASEAN/Đông Nam Á là điều đáng chú ý. Vì nguyên tắc đồng thuận, ASEAN đã không ra được tuyên bố chung dù rằng các nước ven Biển Đông, cách này hay cách khác đều từng bị Trung Quốc xâm phạm, gây hấn. Theo thiển ý của tôi, có thể sắp xếp các quốc gia này theo trật tự gần với quan điểm của Việt Nam là : Lào, Malaysia (dưới thời Thủ tướng vừa từ nhiệm Mahathir Mohamad), Philippines, Indonesia, Brunei…và Campuchia ! Vâng, trật tự này có thể gây ngạc nhiên với nhiều người nhưng là một sự thật. Tại cuộc gặp thượng định ASEAN đầu tháng 11/2019, khi Việt Nam yêu cầu đưa vào tuyên bố chung một cụm từ đề cập đến hành vi xâm lấn của Trung Quốc thì Campuchia phản đối. Nên coi việc này như thế nào ? Có lẽ "lợi ích quốc gia" trên hết là điều mà người Việt Nam cũng cần thích ứng, hơn nữa việc tương tự đã có tiền lệ (2012).
Thứ sáu, thế giới đánh giá ra sao trước những phản ứng của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông ? Với cả dư luận chính giới và truyền thông, Việt Nam được đánh giá cao khi phản ứng tích cực trước những lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhiều nhất và liên tục. Tờ Straits Times (Singapore) viết : Hà Nội phản ứng mạnh nhất trong số các quốc gia tuyên bố chủ quyền. Hãng RFI dẫn Asia Times nhận định Việt Nam hầu như là quốc gia duy nhất trong cuộc chiến chống lại nỗ lực của Bắc Kinh nhằm kiểm soát Biển Đông, với ba mặt liên kết : ngoại giao ; thăm dò, khai thác ; giảm phụ thuộc kinh tế. Trên cơ sở "sự nhạy bén chiến lược" và "tính kiên trì đặc trưng". Trang The Diplomat (Nhật) đánh giá phản ứng của Việt Nam là "rất bình tĩnh và kiềm chế". Quan sát một cách tinh tế, trang này cũng tổng kết phản ứng của Việt Nam bao gồm năm thành phần : một, triển khai lực lượng để khẳng định chủ quyền và giám sát hòa bình ; hai, tiếp cận qua đường ngoại giao và các cách thức có thể bày tỏ sự phản đối, yêu cầu đối phương rút lực lượng phi pháp ; ba, khẳng định sự tuân thủ triệt để luật pháp và trật tự quốc tế ; bốn, kêu gọi sự hỗ trợ của quốc tế ; năm, kiểm soát chặt chẽ việc đưa tin, ngăn chặn mọi hành vi bạo lực.
Việt Nam đã trở thành Ủy viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 và chính thức tiếp nhận cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức, nhất là trong cương vị Chủ tịch ASEAN. Tiếp quản và xây dựng khối các quốc gia này như thế nào, chúng tôi cho rằng tiêu ngữ và cũng là chủ đề mà thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu lên : "Một ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng" là đúng đắn và hợp lý.
Có thể hiểu "gắn kết" cũng là đoàn kết nhưng khái niệm này vừa chặt chẽ lại vừa mở hơn, thiết thực hơn, là cái có thể đạt được và hợp lý trong tình hình bên trong, bên ngoài ASEAN hiện nay. Còn "chủ động thích ứng" lại càng mở, không ai có thể bắt bẻ.
Sáu vấn đề mà chúng tôi vừa nêu trên hy vọng là những dữ kiện, những cơ sở để đề ra đối sách.
Dù thế nào Việt Nam phải làm tốt cương vị mới được trao. Chúng ta đã có kinh nghiệm của mười năm trước và cả kinh nghiệm của các quốc gia khác khi giữ cương vị này, và….không có cơ hội thứ hai tương tự.
Chúng tôi đã đề cập đến thực tế về sự thiếu đoàn kết của ASEAN, chỉ có thể tìm được sự đồng thuận không đồng lòng. Hơn bất kỳ khối quốc gia nào khác, điều đó đến không phải từ sự khác biệt thể chế chính trị mà khi mở rộng khối thập kỷ 90 những nước sáng lập ASEAN đã băn khoăn, mà là từ lợi ích của mỗi quốc gia trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Một tờ báo có đông đảo bạn đọc khu vực với tiêu đề : "Biển Đông : Thử thách lớn nhất của Việt Nam trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2020" trong khi nêu lên sự quan ngại ấy đã biểu dương "gắn kết và chủ động thích ứng" là đặc biệt phù hợp trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. "Hà Nội được kỳ vọng tạo nên lực đòn bẩy cho chương trình nghị sự hòa bình của khu vực".
Vấn đề đầu tiên và xuyên suốt trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN của Việt Nam là tạo nên sự gắn kết khu vực. Việt Nam đánh giá cao khối ASEAN. Đầu những năm 90 thế kỷ trước, khi Việt Nam đặt vấn đề tham gia ASEAN, một Thứ trưởng Ngoại giao trong nước đã nhận định : "Điều bất lợi đối với một nước có quy mô trung bình như Việt Nam là sống bên cạnh một nước lớn mà không có bạn bè. Nhưng điều có lợi đối với chúng ta là có một ASEAN". Tại Hội nghị ADMM vừa tổ chức ở Bangkok, tân Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Prabowo Subianto đã phát biểu : "ASEAN không được chia rẽ và phân cực".Tờ The Straits Times cũng viết trong số đã dẫn : "Thách thức mà Trung Quốc đặt ra đối với chủ quyền và quyền tài phán trên biển của Philippines và Malaysia ở Biển Đông về thực chất tương tự như những gì mà Việt Nam đã trải qua". Thật vậy, cương vị Chủ tịch sẽ giúp Việt Nam có quan hệ chặt chẽ hơn, "gắn kết" hơn với ASEAN để tìm ra những cách thức "chủ động thích ứng". Không ồn ào nhưng kiên quyết, Việt Nam phải bắt tay vào trả lời các câu hỏi, các thách thức ngay từ đầu nhiệm kỳ Chủ tịch. Nếu chỉ xử lý mỗi khi có sự cố (như cách làm hiện nay) là bất an, mạo hiểm. Chúng ta giữ quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, một quan hệ được dệt nên từ lịch sử nhưng không để cục to, cục lớn (đại cục) ghè chân mình.
Bị bắt nạt, chèn lấn quá lâu đã đến lúc Việt Nam cần chứng tỏ bản lĩnh. Đã đến lúc Việt Nam cần xem việc đưa sự xâm phạm thô bạo của Trung Quốc ra Tòa trọng tài. Tại Hội thảo mới nhất về Biển Đông tổ chức tại Hà Nội ngày 6/11/2019 – được cho là cuộc Hội thảo lớn nhất về vấn đề này, với gần một phần ba là đại biểu quốc tế và có mặt hai trong số năm thẩm phán của Tòa trọng tài trong vụ kiện của Philippines, vấn đề khởi kiện đã nhận được sự tán đồng cao của dư luận. Cũng phải để Trung Quốc hiểu rằng đây là một việc phải làm, vì sự lành mạnh hóa quan hệ quốc tế. Không quan trọng việc Trung Quốc có tham gia hay không. Hiệu ứng chắc chắn sẽ mạnh hơn rất nhiều nếu thêm một lần phán quyết của Tòa Trọng tài được tuyên bố theo luật pháp quốc tế.
Gần đây, trên các tạp chí "Nghiên cứu Đông Nam Á" (11/2019), "Nghiên cứu an ninh biển châu Á – Thái Bình Dương" (11 – 12/2019) của Trung Quốc có một số bài viết đề cập đến Biển Đông, kêu gọi Việt Nam, Philippines và Asean nói chung, hợp tác cùng khai thác các nguồn lợi ở khu vực này,trước hết là dầu khí. Không có gì mới. Vẫn là những luận điểm xung quanh việc các nước đang gần cạn nguồn cung trong khi Trung Quốc có tiềm lực kỹ thuật, công nghệ, tiềm lực tài chính mạnh. Có bài vẫn lên giọng đe dọa "Nếu Việt Nam mạo hiểm tiến vào đường 9 đoạn thì chắc chắn sẽ có sự đối đầu ở Biển Đông". Cần phải khẳng định thêm một lần : Con đường được nước lớn Trung Quốc vẽ vào bất chấp luật pháp quốc tế ấy là căn nguyên cho tất cả, làm sao có thể "khai thác chung" trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ? Tôi nghĩ rằng, bất cứ quốc gia nào đủ năng lực – láng giềng càng tốt – thừa nhận chủ quyền của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và đảm bảo được vấn đề an ninh thì đều có thể được mời vào thăm dò, khai thác. Xét cho cùng, chủ quyền và tài nguyên là một.
Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc. Cả về diện tích, dân số cũng như tiềm lực kinh tế, quốc phòng, Việt Nam ở một vị trí cách xa so với láng giềng phương Bắc. Câu chuyện nước nhỏ Việt Nam bắt nạt nước lớn Trung Quốc là một câu chuyện hoang đường. Việt Nam cũng không đòi hỏi nước lớn Trung Quốc phải nhường nhịn nước nhỏ Việt Nam. Việt Nam chỉ muốn Trung Quốc hành xử như một nước lớn đáng kính trọng. Tất nhiên Việt Nam muốn duy trì tình hữu nghị với Trung Quốc, nhưng để duy trì tình hữu nghị ấy mà phải đánh đổi lợi ích của dân tộc là điều không thể. Cũng không thể nói như một nhà ngoại giao Trung Quốc rằng, để xảy ra tình trạng như vừa qua là vì Trung Quốc coi Biển Đông là câu chuyện nhỏ còn Việt Nam lại coi là chuyện lớn. Để giải quyết vấn đề Biển Đông, hãy chân thành làm việc dựa trên chuẩn luật pháp quốc tế và một sự hiểu biết lẫn nhau.
Chúng tôi xin đề xuất một bước tiến nhỏ : Trong khi bảo lưu quan điểm của mình, hai nước Việt Nam và Trung Quốc cần đàm phán về vấn đề quần đảo Hoàng Sa/Tây Sa. Và trước hết là một sự thỏa thuận để ngư dân Việt Nam được tiếp tục truyền thống đánh cá như hàng ngàn năm nay trong quần đảo này./.
Vũ Cao Phan
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 08/03/2020
[1] Cho đến nay, đã có nhiều cơ chế hợp tác được thiết lập như Ủy ban sông Mekong, Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady – Chaophraya – Mekong (ACMECS), Sáng kiến tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) của Ngân hàng Phát triển Châu Á, Sáng kiến hạ lưu sông Mekong của Mỹ, Hợp tác Mekong – Nhật Bản, Hợp tác Mekong – Ganga (Ấn Độ), Đối tác Mekong – Hàn Quốc và Hợp tác phát triển lưu vực Mekong của ASEAN…
————-
Tiến sĩ Vũ Cao Phan là Viện trưởng Viện Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học Bình Dương, nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc.