Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Vì vẫn không thể nào thôi bị ám ảnh bởi câu chuyện Đồng Tâm, ngồi đọc lại bài viết từ tháng Tư 2017. Tướng Hùng (và ngay cả Tướng Chung - nghe nói) đã thành người ngoài cuộc trong bi kịch sáng 9-1. Nhưng tôi vẫn muốn mọi người nghĩ tiếp câu chuyện đất đai, không của riêng ai, này :

Nêu Đồng Tâm là quê hương của tướng Chung, tướng Hùng

Trương Huy San, 19/04/2017

Trên văn bản, người dân Đồng Tâm bị coi là những người "chiếm đất quân sự", đang "sử dụng đất quốc phòng tại sân bay Miếu Môn" (Thông báo 162/TB-UBND, ngày 16/5/2016). Rồi, hôm qua, 18/4/2017 - báo chí lạnh lùng coi họ là những người "gây rối trật tự công cộng".

dat1

Trên văn bản, người dân Đồng Tâm bị coi là những người "chiếm đất quân sự", đang "sử dụng đất quốc phòng tại sân bay Miếu Môn" (Thông báo 162/TB-UBND, ngày 16/5/2016) - Ảnh minh họa

Nhưng, trên đất có dân. Dân không phải là những con số khô khốc xuất hiện trong các văn bản. Hầu hết người dân thuộc 14 hộ có đất bị lấy giao cho Viettel này đã sống ở Đồng Tâm lâu đời. Kể cả thời bị đưa vào hợp tác xã, họ vẫn liên tục an cư, canh tác trên mảnh đất ấy cho đến khi Viettel cắm bảng gọi đó là "khu đất quân sự".

Dù ngày 14/4/1980, Phó thủ tướng Đỗ Mười ký quyết định 113/TTg "duyệt cấp cho Bộ Quốc phòng 208 hecta thuộc xã Trần Phú, Nông trường Lương Mỹ", xây dựng đợt I sân bay Miếu Môn. Nhưng, từ đó đến nay, chẳng có cái sân bay nào được xây ở đây cả. Cho tới trước khi có "Dự án", Bộ Quốc phòng "chưa hề thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho các hộ đang sử dụng đất" ở đó và cho tới ngày 1/12/2014, cả Bộ Quốc phòng lẫn tỉnh Hà Sơn Bình trước đây, lẫn Hà Tây và Hà Nội về sau, "chưa có văn bản nào xác định ranh giới khu đất này".

Trên thực tế, ở đây, cũng có một đơn vị quân đội, Lữ đoàn 28 (nhận bàn giao từ Bộ Tư lệnh Công binh từ năm 1989). Về mặt nội bộ thì năm 1992, Lữ 28 có tiến hành lập sơ đồ khu đất. Nhưng, mãi tới năm 2014, đơn vị này mới có văn bản gửi Sở Tài nguyên và môi trường Hà Nội xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 236,7 hecta, nhiều hơn 28,7 hecta so với diện tích mà năm 1980 Thủ tướng cấp. Ngày 27-3-2015, Bộ Tổng Tham mưu mới thu hồi 50,03 hecta đất thuộc khu này từ Lữ 28 để giao cho Viettel.

Cả về pháp lý và thực tế, phần lớn khu đất 236,7 hecta này, chưa từng được làm thủ tục hợp lệ (theo Luật Đất Đai năm 1993) và chưa từng được Bộ Quốc phòng sử dụng đúng mục đích mà quyết định 113/TTg giao. Lẽ ra, năm 2014, khi vùng này bắt đầu đô thị hóa (sau 6 năm nhập vào Hà Nội), Chính phủ nên thu hồi để cân nhắc sử dụng phần tài nguyên quốc gia đó sao cho hiệu quả nhất. Nếu "Dự án A1" mà Viettel đang tiến hành thực sự vì "mục đích quốc phòng" thì, trước hết, Chính phủ cũng nên cân nhắc chọn một chỗ trống dọc đường HCM thay vì đẩy quân đội vào thế "tranh" với dân bờ xôi, ruộng mật.

Nếu phần tài nguyên quốc gia đó được khai thác sao cho hữu ích nhất trong giai đoạn phát triển thời bình của đất nước thì, thay vì Quân đội hay các nhà kinh doanh địa ốc, trước hết, những cư dân ở đây phải được hưởng lợi từ nguồn tài nguyên đó. Gia đình họ đã chịu đựng "quy hoạch treo" 37 năm, nay, khi đất tăng giá tại sao họ lại trở thành người ngoài cuộc.

Hãy nghe câu chuyện thực dân Pháp và hãng Shell ứng xử với nông dân ở Nhà Bè hồi đầu thế kỷ (Tư liệu của nhà báo Mai Bá Kiếm (Ba Kiem Mai ), hậu duệ của người trong cuộc) :

Năm 1911, hãng Shell (tập đoàn Anh - Hà Lan) đến Nhà Bè đầu tư Cảng và kho chứa xăng dầu. Chính quyền Pháp thay vì đứng ra đền bù đất rồi giao cho Shell mà để cho Shell thương lượng trực tiếp với 3 chủ đất tại đây, thuê 100 mẫu, thời hạn 99 năm. Lúc bấy giờ, 3 chủ đất đang cho cả trăm tá điền thuê với mức 10 giạ lúa/1.000m2/năm). Shell đàm phán giá thuê cao gấp 5 lần, lại được lãnh tiền hàng tháng qua Cheque.

Chủ đất rất mừng, nhưng Dân luật Giản Yếu 1883 do người Pháp áp dụng ở Nam kỳ sau khi áp đặt chế độ thuộc Pháp lên vùng đất này đã trao cho các tá điền quyền tiên mãi (được ưu tiên mua cùng giá, mà chủ đất định bán cho người khác hoặc được ưu tiên thuê cùng giá mà chủ đất định cho người khác thuê với giá cao hơn). Tuy tá điền không thuê nổi theo giá Shell thuê nhưng họ có quyền không ký giấy khước từ thuê đất.

Không có đủ giấy khước từ của tá điền, thì chủ đất không thể ký hợp đồng với Shell. Do đó, chủ đất phải thương lượng cho tá điền được hưởng tiền thuê đất mấy năm đầu mà hãng Shell trả, để tá điền chịu ký tờ khước từ thuê đất. Bỗng nhiên, tá điền có một cục tiền, có nhiều tá điền đi vô vùng sâu mua ruộng để làm chủ. Có nhiều tá điền - như ông nội nhà báo Mai Bá Kiếm (cụ Mai Bá Điền 1885 - 1979) - vừa lãnh được một cục tiền vừa xin được vào hãng Shell làm.

14 hộ dân thuộc xã Đồng Tâm không phải là "tá điền". Có 4 hộ đã "sử dụng đất" trước khi khu vực này bị Thủ tướng giao cho Bộ Quốc phòng, phần lớn còn lại đã sử dụng đất trước khi Luật Đất Đai 1993 có hiệu lực (15-10-1993). Có một trường hợp, ông Nguyễn Văn Thúy, mua lại nhà đất của 4 hộ công nhân có nguồn gốc là "tài sản thanh lý của công ty vôi đá Miếu Môn (ngày 30-8-2001). Cho dù phần có giá trị nhất ở đây là 25 nghìn mét vuông khuôn viên, nhưng biên bản thanh lý lại chỉ ghi mấy nhà xưởng rách nát chứ không ghi đất.

Nhưng, Bộ Quốc phòng chỉ làm việc với Chính quyền. Các chủ đất thực sự đã không được coi là chủ thể của các vòng đàm phán. Mức đền bù mà họ được ấn định là : đất ở 2,2 triệu/m2 (được công nhận tối đa 300 m2) ; đất vườn, ao hồ 1,54 triệu/m2 (tối đa 180m2) ; đất trồng cây hàng năm và cây nông nghiệp 108 nghìn đồng/m2 [Khi đền bù, Viettel có tăng mức công nhận đất ở lên gấp 5 lần]. Riêng trường hợp ông Thúy không được đền bù phần đất (25 nghìn m2).

Nếu không bị quy hoạch, cho dù nguồn gốc thế nào thì theo Luật Đất Đai hiện hành, 14 hộ nông dân này cũng sẽ được ưu tiên công nhận quyền sử dụng đất (kể cả ông Thúy rồi cũng sẽ được "thủ đắc theo thời hiệu" - ông và 4 hộ công nhân đã canh tác đất ấy 16 năm qua).

Chưa có nhà nghiên cứu nào tìm xem, có bao nhiêu người dân Thủ Thiêm đang ở trong khu Sala ; có bao nhiêu người dân Tân Thuận đang ở trong khu Phú Mỹ Hưng ; bao nhiều người dân Văn Giang đang ở trong Ecopark... Và, nếu các ông chủ Phú Mỹ Hưng, Ecopark, Sala... phải thương lượng trực tiếp với các chủ đất, có thể tiến trình xây dựng các thành phố ấy sẽ không nhanh như thế nhưng chính quyền sẽ tránh được xung đột trực tiếp với dân ; các khoản chênh lệch địa tô sẽ được ăn chia giữa các nhà đầu tư và nông dân (nông dân có thể nhận tiền mặt hoặc cổ phần từ các khu đô thị này) ; và, lợi nhuận mà các đại gia thu được chưa chắc đã thấp hơn vì họ chia sẻ công bằng với nông dân thay vì chi không thể hạch toán được với các quan tham nhũng.

Từ đất nông nghiệp mà muốn xây nhà thì chi phí duy nhất mà con người phải bỏ ra là san lấp. Chỉ vì một quyết định hành chánh (cho đổi mục đích sử dụng) mà giá đất có thể tăng hơn 20 lần (từ 108 nghìn đồng lên 2,2 triệu đồng/m2) thì "nhóm lợi ích" và bọn tham nhũng không xâu xé "chênh lêch địa tô" mới lạ. Nhà nước có thể giữ quyền quy hoạch đất nông nghiệp để bảo đảm an ninh lương thực. Nhưng khi chuyển đổi quy hoạch, khoản "chênh lệch địa tô" đó phải thuộc về nông dân chứ không phải là các nhóm lợi ích. Nhà nước sẽ chỉ hưởng lợi nhờ giá tính thuế chuyển quyền sử dụng đất tăng lên.

An ninh, quốc phòng là "lợi ích quốc gia" và lợi ích của 90 triệu dân, không thể chỉ có 14 hộ dân chịu thiệt. Ngay cả khi Nhà nước "trưng mua" đất của dân cho "mục đích quốc phòng" thì vẫn phải theo đúng giá thị trường. Tôi nghĩ, các nhà lãnh đạo Hà Nội và Viettel biết giá đất ở Đồng Tâm chắc chắn không phải là 2,2 triệu/m2, đừng nói là 108 nghìn vì bị quy là đất nông nghiệp. Viettel (đơn vị chi tiền đền bù) nên đàm phán lại với dân nếu dứt khoát cần đất ở đó. Bộ Quốc phòng và Hà Nội nếu muốn sử dụng tiếp gần 180 hecta còn lại thì cũng nên đàm phán với dân theo nguyên tắc này.

Cả Tướng Chung lẫn Tướng Hùng và các vị trong Thường vụ Hà Nội nên bình tâm. Chỉ cần đặt tình huống, 14 hộ bị thu hồi đất ở Đồng Tâm không phải là gia đình ông Căng, ông Tứ, ông Toán, bà Nguyệt, ông Thùy... mà là nhà mình thì sao. Cụ Kình cũng từng là lãnh đạo địa phương như quý vị đấy thôi. Đừng nghĩ quý vị sẽ là ngoại lệ khi các khoản "chênh lệch địa tô" được các thế hệ đi sau mang ra chia chác.

Huy Đức

Nguồn : osinhuyduc, 12/01/2020

Published in Diễn đàn
samedi, 11 janvier 2020 01:41

Quả bom Đoàn Văn Vươn

Khi lực lượng cưỡng chế huyện Tiên Lãng đến khu đầm, anh Vươn cho nổ trái mìn tự tạo cài dưới một bình gas. Bình gas không nổ. Nhưng, trái mìn tự tạo vẫn gây tiếng vang như một quả bom, "quả bom Đoàn Văn Vươn". Vụ nổ không chỉ gây rúng động nhân tâm mà còn giúp nhìn thấy căn nguyên các xung đột về đất đai. Quyền sở hữu nói là của "toàn dân", trên thực tế, rất dễ rơi vào tay đám "cường hào mới".

bom1

Sau cái bắt tay với cán bộ trại giam, anh em ông Vươn trở về quê vực dậy đầm tôm - Ảnh minh họa

Sự tùy tiện của Nhà nước huyện

Quyết định giao bổ sung 19,5 ha đất nuôi trồng thủy sản cho ông Đoàn Văn Vươn, ký ngày 9/4/1997, ghi thời hạn sử dụng là 14 năm tính từ ngày 14/10/1993. Theo báo Thanh Niên, ở thời điểm ấy, chính quyền huyện Tiên Lãng đã quy định thời hạn giao đất cho nhiều cá nhân, hộ gia đình rất tùy tiện : có người được giao 4 năm ; có người 10 năm... Tuy thời điểm này chưa có các nghị định hướng dẫn chi tiết việc thi hành, nhưng Luật Đất đai năm 1993 đã nói rõ thời hạn giao đất nuôi trồng thủy sản cho hộ gia đình và cá nhân là 20 năm.

Theo Nghị định ngày 28/08/1999, nếu chính quyền Tiên Lãng không tùy tiện thì gia đình ông Vươn có quyền sử dụng phần đất này cho đến ngày 9/4/2017, tính từ ngày ông được huyện ký giao ; tối thiểu cũng phải đến ngày 15/10/2013, nếu huyện "ăn gian" tính theo ngày Luật Đất đai có hiệu lực. Vấn đề là, cho dù đất được giao của gia đình ông Vươn hết hạn thì có phải là đương nhiên bị thu hồi để giao cho người khác như cách mà Tiên Lãng đã làm. Luật Đất đai 2003 quy định hạn điền cho loại đất nuôi trồng thủy sản là 3 hecta và với phần đất vượt hạn mức của ông Vươn có thể áp dụng Điều 35 để cho ông tiếp tục thuê như quy định đối với đất đai nông nghiệp.

Sở hữu toàn dân

Tuy dịch từ Hiến pháp 1936 của Liên xô, Hiến pháp 1959 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn chưa "quốc hữu hóa đất đai". Cho dù, từ thập niên 1960s ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970s ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức bị coi là thuộc "sở hữu toàn dân" kể từ Hiến pháp 1980.

Theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc : "Trong bản dự thảo Hiến pháp 1980 do Chủ tịch Trường Chinh trình Bộ Chính trị vẫn đề nghị duy trì đa hình thức sở hữu, trên cơ sở khuyến khích 5 thành phần kinh tế. Theo tôi biết thì Bộ Nông nghiệp và Ban Nông nghiệp Trung ương cũng không đồng ý quốc hữu hóa". Nhưng, ngày 10-9-1980, trong một bài nói chuyện trước Ban chấp hành Trung ương có tựa đề, "Hiến pháp mới, Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa", Tổng bí thư Lê Duẩn nói : "Nhân đây, tôi nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân. Đề ra như vậy hoàn toàn đúng với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội". Ông Nguyễn Đình Lộc, thành viên Ban thư ký của Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp 1980, thừa nhận : "Khi đó, uy tín Lê Duẩn bao trùm. Mặt khác, nhiều người cũng không hình dung được bản chất của sở hữu toàn dân là quốc hữu hóa".

Tuy chấp nhận quốc hữu hóa đất đai nhưng theo ông Tôn Gia Huyên, lúc bấy giờ là Vụ phó vụ Quản lý Đất đai, ông Trường Chinh chủ trương giữ nguyên hiện trạng chứ không tịch thu ruộng đất như điều mà Lenin đã làm với kulax ở Nga sau năm 1917. Ông Trường Chinh yêu cầu ghi vào Điều 20 của Hiến pháp 1980 : "Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật".

Khi Hiến pháp 1992 bắt đầu được soạn thảo, theo ông Phan Văn Khải : "Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tôi muốn sửa Hiến pháp theo hướng, trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân nhưng không thành công, chúng tôi đành phải tìm ra khái niệm, trao 5 quyền cho người sử dụng đất". Trong Đại hội Đảng lần thứ VII, vòng I, nhiều nhà lãnh đạo địa phương đã lên tiếng ủng hộ "đa sở hữu hóa đất đai". Nhưng, ở cấp cao, theo Trưởng ban Biên tập Hiến pháp 1992, ông Nguyễn Đình Lộc : "Không ai có đủ dũng cảm đứng lên đòi bỏ sở hữu toàn dân, vì đó là một vấn đề nhạy cảm, đụng đến chủ nghĩa xã hội. Khi chuẩn bị bài phát biểu về Hiến pháp cho Tổng bí thư Đỗ Mười, tôi có trình bày, nhưng ông Đỗ Mười nghiêng về sở hữu toàn dân. Ông tin vào điều ông Lê Duẩn nói, sở hữu toàn dân là quan hệ sản xuất tiên tiến. Ông Đỗ Mười tin, trước sau gì ta cũng tới đó nên cứ để vậy".

Các nhà làm luật

Luật Đất đai 1993 đã trao cho người dân 5 quyền : sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê quyền sử dụng đất. Nhưng, so với Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 1993 có một điểm lùi. Hiến pháp ghi : "Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài". Trong khi Luật chỉ giao đất cho cá nhân và chỉ giao có thời hạn. Ông Tôn Gia Huyên giải thích : "Thời hạn giao đất thực chất chỉ là ý chí chính trị, là sợi chỉ cuối cùng để phân biệt giữa sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước". Là ranh giới để trấn an những người vẫn còn tin, Việt Nam tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhưng, cái ranh giới tưởng có giá trị trấn an ấy đã lại rất mù mờ, mù mờ ngay trong đầu chính các nhà lập pháp. Tháng 7/1993, sau bốn buổi thảo luận trên Hội trường về Luật Đất đai, các đại biểu miền Nam đề nghị "giao đất lâu dài" như Hiến pháp 1992, trong khi các đại biểu miền Bắc và miền Trung lại tán thành giao đất có thời hạn ; thậm chí có đại biểu còn đòi rút ngắn thời hạn giao đất xuống còn từ 10-15 năm. Trong tính toán của nhiều người, giao đất có thời hạn nghĩa là sau đó Nhà nước có thể lấy lại để giao cho người khác. Đại biểu Đặng Quốc Tiến, Bắc Thái, nói : "Đất ít, người đông, giao có thời hạn thì sẽ bảo đảm cho công tác điều chỉnh đất đai khi có biến động nhân khẩu". Ông Nguyễn Bá Thanh, khi ấy là Chủ tịch Thành phố Đà Nẵng, đã rất hăng : "Đi nghĩa vụ quân sự 2 năm thì kêu dài, giao đất 20 năm thì bảo ngắn".

Khi Luật Đất đại 1993 được đưa ra sửa đổi, Chính phủ đề nghị nâng thời hạn giao đất nông nghiệp từ 20 năm lên 50 năm. Trong hai ngày 14 và 16/11/1998, nhiều đại biểu cũng đã phản ứng, thậm chí còn có phần gay gắt. Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Đại Thắng, Đại Lộc (Quảng Nam) ông Trần Văn Mai nói : "Số nông dân chưa có đất đang trông chờ cho hết thời điểm 20 năm, bây giờ đã được 5 năm, còn 15 năm nữa họ sẽ được chia đất. Nếu bây giờ ta tăng thời hạn lên 50 năm sẽ là một sự hụt hẫng lớn của nhân dân với Đảng". Theo cách hiểu của ông Trần Văn Mai : "Hoặc hết hạn 20 năm, hoặc người sử dụng đất chết, chúng ta sẽ thu hồi cấp lại cho những nhân khẩu phát sinh". Nhưng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, ông Nguyễn Đức Hoan đã phát biểu : "Đừng lo cho 20 năm sau không có đất để phân phối lại. Bây giờ ở ta 80% dân số làm nông nghiệp. Không lẽ 20 năm sau cũng 80% ?". Chủ tịch Hội nông dân tỉnh Đồng Tháp ông Trương Minh Thái cho rằng : "Đừng nghĩ chúng ta chỉ có thể điều phối ruộng đất ở nông thôn bằng cách thu hồi rồi chia lại. Chúng ta đã giao cho người dân năm quyền, họ có thể để thừa kế, hoặc sang nhượng cho người chưa có đất".

Đất dân Quyền quan

Năm quyền của người sử dụng đất sau đó được "pháp điển hóa" trong Bộ Luật Dân sự 1995 như các quyền dân sự. Quyền sở hữu, tuy "trá hình" này, vẫn là cơ sở pháp lý để hình thành thị trường địa ốc. Và trong giai đoạn đầu, nhờ tư vấn của World Bank, thị trường đã được điều hành bằng công cụ thuế. Cho dù do thuế suất quá cao, Luật Thuế Chuyển quyền sử dụng đất, ngay lúc ấy, đã khiến nhà đất đóng băng nhưng sử dụng công cụ thuế chính là thừa nhận giá trị các giao dịch dân sự liên quan tới đất đai. Tuy nhiên, chính quyền các cấp có vẻ như không mấy mặn mà với vai trò đứng ngoài. Các giao dịch, đặc biệt là mua bán đất đai đã bị hành chánh hóa : Nhà nước thu hồi đất của người bán rồi giao đất cho người mua. Thay vì thu thuế chuyển quyền, người mua phải đóng tiền sử dụng đất, đặt người có đất trong tình thế phải trả tiền hai lần.

Đỉnh cao của sai lầm về chính sách là Pháp lệnh 14/10/1994 và Nghị định 18, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đó. Theo Nghị định 18, các tổ chức không còn được giao đất có đủ các quyền như Hiến pháp 1992. Những doanh nhân tiên phong như Tăng Minh Phụng, Liên Khui Thìn, Trần Quang Vinh… đã vay hàng ngàn tỷ đồng để mua đất, sau Nghị định 18 phải chuyển những lô đất ấy thành đất thuê và chỉ được thế chấp ngân hàng theo giá trị số tiền thuê đã trả cho nhà nước. Khi bị bắt, cũng nhân danh "đất đai thuộc sở hữu toàn dân", Hội đồng thẩm định do Nhà nước lập ra đã tính, có những mét vuông đất, giá không bằng que kem. Đất biệt thự đường Trần Phú, Vũng Tàu, mà chỉ được Tòa công nhận giá ba-trăm-đồng/m2. Khoản chênh lệch giữa giá thực mua và giá của Tòa được coi là thất thoát để buộc tội các doanh nhân này lừa đảo.

Trong tù, có lúc Minh Phụng nói với Luật sư Nguyễn Minh Tâm : "Xin luật sư hãy nhìn vào mắt em để xem em có phải là người lừa đảo ?". Ngày 12/7/1999, khi nghe Luật sư Tâm nhắc lại câu này Minh Phụng đã bật khóc trước Tòa. Cũng đầu tư vào đất đai cùng một phương thức tuy khác quy mô, nhưng, thái độ của Nhà nước với giá đất đã biến ông Lê Văn Kiểm, Huy Hoàng, thành anh hùng và tử hình ông Tăng Minh Phụng.

Danh chính ngôn thuận

Đầu tháng 12/2011, Chính quyền Đà Nẵng nơi ông Nguyễn Bá Thanh là Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân đã đề nghị cho tư nhân sở hữu đất đai. Sau 20 năm lãnh đạo một địa phương, có lẽ ông Nguyễn Bá Thanh nhìn thấy, quyền sở hữu trá hình đã đặt đất đai của người dân vào tay chính quyền cấp huyện với quá nhiều rủi ro. Điều 38, Luật Đất đai 2003, nói : Nhà nước chỉ thu hồi đất khi "cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế" (khoản 7). Nhưng, tại khoản 10 cũng của Điều 38, Luật lại mở ra khả năng : Nhà nước thu hồi những phần đất "không được gia hạn khi hết thời hạn". Chính quyền cấp huyện được Luật giao quyền giao đất và thu hồi đất của cá nhân và hộ gia đình. Nếu chính quyền Tiên Lãng áp dụng điều 67, tiếp tục giao đất cho ông Vươn, thì đã không có gì xảy ra, nhưng họ đã đẩy ông vào khoản 10, Điều 38 : Thu hồi đất vì "không được gia hạn" khi thời hạn giao đất của ông đã hết.

Sau "trái bom Đoàn Văn Vươn", chúng ta biết, khu đất đầm mà anh có không phải là đất được nhà nước giao mà là đất do gia đình anh phải lấn biển, khai hoang. Suốt 5 năm "trầm mình dưới nước từ mờ sáng tới tận tối khuya", biết bao lần bị bão biển cuốn phăng để đắp được một bờ kè dài hai cây số, tạo nên bãi bồi màu mỡ và một khu đầm nuôi tôm cá rộng gần 40 hecta. Cũng nơi đây, anh Vươn mất một đứa con gái 8 tuổi vì khi cha mẹ mải làm con gái của anh đã rơi xuống cống. Đừng nói chuyện thu hồi, lẽ ra chính quyền Tiên Lãng phải xấu hổ khi ký quyết định giao cho anh Vươn phần đất của chính anh, phần đất mà anh Vươn đã phải gắn bó suốt 20 năm, đã đổ cả mồ hôi và máu.

Nếu như, quyền sở hữu về đất đai của người dân được công nhận, thì cách khai hoang, lấn biển của gia đình anh Vươn phải được coi như một hình thức thụ đắc ruộng đất mà từ xa xưa cha ông ta đã áp dụng cho người dân để ngày nay Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến Mũi Cà Mau. Nếu như quyền sở hữu về đất đai của người dân được công nhận, Chính quyền không thể hành chính hóa các giao dịch dân sự liên quan đến đất đai. Các đại gia không thể thậm thụt với đám cường hào thu hồi những mảnh đất của dân mà họ mua không được.

Nhưng đó là câu chuyện có thể được thảo luận trong quá trình sửa đổi Hiến pháp. Người dân đang dõi theo thái độ của Chính phủ, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước trường hợp Đoàn Văn Vươn.

Theo cách giải thích của Giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca thì đất ông Vươn nằm trong vùng quy hoạch xây dựng một sân bay quốc tế. Nếu thu hồi bây giờ hoặc chuyển thành thuê thì mai này nhà nước không phải bồi thường cho ông Vươn. Đỗ Hữu Ca nói : "Với công trình đặc biệt quan trọng như thế thì đền bù sẽ rất lớn. Ông Vươn cố giữ lại như thế để lấy đền bù khi dự án được triển khai". Có thể Đỗ Hữu Ca là một công chức mẫn cán chứ không phải là "cụ Bá". Nhưng, lo quyền lợi của nhà nước sao không tính quyền lợi của dân, không tính máu và mồ hôi 20 năm của gia đình anh Vươn. Chắc Đỗ Hữu Ca không nghĩ, anh em, bà con ông và chỉ vài năm nữa chính ông cũng là dân.

Đỗ Hữu Ca có lẽ không nhớ chuyện anh rể của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sáng 17/4/2009, bị "áp giải ra khỏi hiện trường" khi chính quyền huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tiến hành cưỡng chế thu hồi hơn 185 hecta cao su của ông để làm khu công nghiệp. Ông đã không đồng ý cho giải tỏa, mặc dù, 185 hecta cao su này ông có được nhàn hạ hơn so với công sức khai hoang, lấn sóng của anh Vươn và mức đền bù thì cao hơn gấp 20 lần giá vốn. Nhắc lại câu chuyện này để thấy, bất luận là ai, khi phải đối diện với tấc đất của mình thì mới thấy của đau, con xót.

Dù sao thì hành động chống người thi hành công vụ của anh Đoàn Văn Vươn cũng phải được đưa ra xét xử. Nhưng, thông điệp mà các địa phương chờ đợi không phải là những năm tù cho anh mà là thái độ của nhà nước với chính quyền Tiên Lãng. Từ năm 2013, ruộng đất của nông dân bắt đầu lần lượt hết hạn giao đất. Nếu như quyết định của Chủ tịch Tiên Lãng Lê Văn Hiền không bị coi là sai, hơn 500 chủ tịch huyện trên cả nước có thể noi gương thu hồi đất đáo hạn của nông dân để… giao, thì không biết điều gì sẽ xảy ra. Đừng chậm trễ và đừng để "quả bom Đoàn Văn Vươn" lại nổ.

Huy Đức

Nguồn : Osinhuyduc, 10/01/2020

Published in Diễn đàn
mardi, 24 décembre 2019 23:52

Xin thận trọng với Bùi Chu

Nhà thờ Bùi Chu rõ ràng đã xuống cấp rất nghiêm trọng ; thánh đường không còn đủ an toàn để che chở giáo dân hành lễ bên trong. Nhưng, trong khuôn viên mênh mông của Tòa Giáo phận, chỉ có Nhà thờ chánh tòa xây từ 1885 này là có giá trị di sản (cho dù có được nhà nước công nhận hay không). Các khối bê tông khác, bao gồm cả Chủng viện đều được xây cất rất nặng nề.

buichu1

Cho dù nhu cầu tín ngưỡng cũng cấp thiết như nhu cầu bảo tồn di sản. Nhưng, vẫn mong các cha thận trọng khi chạm tay vào một biểu tượng mang tính lịch sử, đánh dấu kỷ nguyên công giáo xuất hiện trên mảnh đất này.

Tòa nhà chắc chắn chỉ còn giữ được một phần. Nhưng đấy là phần "rường cột" nhất. Một phần mặt trước cũng có thể tháo dỡ. Mái và trần cũng có thể tháo dỡ. Nhưng hai hàng cột chắc như lim (hình 5) mà thay thì có thế gỗ sưa vào cũng chỉ làm mất đi giá trị.

buichu6

Hãy nhìn những cột gỗ đen trũi đứng vững trên trụ đá chạm trổ tinh tế và nền gạch men mát rượi, từng đỡ biết bao bàn chân trong suốt hơn 130 năm qua (hình 6). Hãy nhìn chân móng của hai tòa tháp... Liệu rồi có thứ bê tông cốt thép nào vững chãi và để lại nhiều cảm xúc như thế…

buichu2

Chúa ở trong lòng các người. Xin các cha hãy dặn các chân chiên nhẫn nại ; đợi tìm một giải pháp mới để tu sửa công trình vô giá này. Một giải pháp vừa có tính kế thừa di sản vừa có sự tham gia của những tiến bộ về vật tư, kỹ thuật... để nhà thờ Bùi Chu không bị tức tưởi hạ giải toàn phần. Để giáo phận vừa có một nơi đàng hoàng cho giáo dân hành lễ, vừa chứng tỏ sự xứng đáng được giữ lại những gì mà các thánh tử đạo đã mang tới Bùi Chu.

buichu3

Trưởng đoàn đàm phán BTA (Việt - Mỹ) Nguyễn Đình Lương và nhà báo Quốc Phong.

Trong thời đại buôn thần bán thánh này, tôi vẫn tin các tu sĩ công giáo ít bị ảnh hưởng bởi thời cuộc, cả sự xuống cấp về đạo đức lẫn khả năng cảm thụ văn hóa, hơn.

Huy Đức

Nguồn : fcaebook : osinhuyduc, 20/12/2019

 

buichu5

buichu7

buichu8

buichu9

buichu4

Published in Diễn đàn
lundi, 12 août 2019 23:23

Nhìn Tư Chính nhớ "Thành Đô"

Bình thường hóa, kết thúc 10 năm chiến tranh Biên giới là cần thiết. Nhưng, đó phải là công việc giữa hai quốc gia (bằng các đại diện chính danh của hai nhà nước). Mơ hồ về Trung Quốc, tưởng những kẻ nuôi tham vọng Đại Hán này vẫn còn coi trọng "Ý thức hệ" là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sai lầm ngớ ngẩn khi đề xuất "giải pháp đỏ" (làm ngay chính Hun Sen cũng giận dữ) ; khi nhanh nhảu xỏ chân vào 16 gông vàng...

thanhdo1

Ngày 9/11/1993 tại Đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh, Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân tổ chức lễ đón, chào mừng Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh

[Hãy nghe Lê Đức Anh nói với Giang Trạch Dân trong lần gặp đầu tiên : "Bây giờ Trung Quốc hơn một tỷ dân, đang tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là viện trợ to lớn nhất, không thể đánh giá hết được..."]

Hơn mười năm sau đó, Bắc Kinh để yên Biển Đông, vừa vuốt ve trong các cuộc gặp cấp cao, vừa du côn trong quá trình phân giới cắm mốc ; sau khi có được phần hơn ở 1509, Thác Bản Giốc, Điểm Nối Ray, Bãi Tục Lãm... chúng bắt đâu gây hấn ở Biển Đông (2006), xây căn cứ Gạc Ma và giờ đây là làm trò "xã hội đen" ở Tư Chính.

Huy Đức

Nguồn : fb Osinhuyduc, 12/08/2019

PS : Thành Đô chỉ bàn giải pháp chính trị cho CPC và bình thường hóa Trung Quốc - Việt Nam trên nền ý thức hệ chứ không bàn gì khác (tôi viết thêm vì có nhiều suy diễn không căn cứ).

*****************

Phút gặp riêng giữa Đại tướng Lê Đức Anh và ông Giang Trạch Dân

VietnamNet, 24/04/2019

Đại tướng Lê Đức Anh viết trong hồi ký : Trước khi hội đàm, có ít phút gặp riêng giữa Tổng bí thư Giang Trạch Dân và tôi. Đồng chí Giang Trạch Dân nêu một vấn đề khá "hóc búa".

thanhdo2

Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Giang Trạch Dân tiếp Đại tướng Lê Đức Anh - ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam tại Bắc Kinh, Trung Quốc tháng 7/1991. Ảnh tư liệu

VietNamNet giới thiệu các trích đoạn của chương 11 : "Tham gia lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" trong hồi ký "Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng" của Đại tướng Lê Đức Anh.

--------------------

...Cuối tháng 7/1991, Bộ Chính trị cử tôi làm phái viên của Bộ Chính trị sang bàn bạc những vấn đề cụ thể về việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Cùng đi với tôi có đồng chí Hồng Hà, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương. Sáng ngày 28/7, chúng tôi bắt đầu khởi hành. Trên đường đi Bắc Kinh, chúng tôi dừng chân ở Nam Ninh, thủ phủ khu tự trị dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây...

...Sau khi ăn cơm trưa ở Quảng Tây, chúng tôi đi máy bay lên Bắc Kinh. Ra sân bay Bắc Kinh đón chúng tôi có đồng chí Chu Lương, ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Trung Quốc, nữ đồng chí Chu Sĩ Cầm, Cục trưởng Cục 2 Châu Á và một số cán bộ Ban Đối ngoại. Đồng chí Chu Lương chủ yếu giới thiệu về cải cách kinh tế của Trung Quốc những năm vừa qua. 

Sáng hôm sau (29/7) từ 9 giờ đến 12 giờ, đồng chí Kiều Thạch, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc làm việc với chúng tôi tại Đại lễ đường. Cùng dự, về phía Trung Quốc còn có các đồng chí : Chu Lương và Chu Thiện Khanh, Trưởng và Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ; Chu Sĩ Cầm, Trịnh Quốc Tài là Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục 2 Châu Á, Ban Đối ngoại ; Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam ; Từ Đôn Tín, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc hội đàm này để chuẩn bị cho cuộc hội kiến chính thức với Tổng bí thư Giang Trạch Dân sau đó.

Sáng ngày 30/7, đồng chí Chu Thiện Khanh và một số cán bộ Ban Đối ngoại Trung Quốc đưa chúng tôi tới thăm xã Tứ Quý Thanh (tức bốn mùa xanh) ở ngoại ô Bắc Kinh. Buổi chiều, Thủ tướng Lý Bằng tiếp đoàn chúng tôi tại Tử Quang Cáo trong Trung Nam Hải.

Cuộc hội kiến chính thức diễn ra tại Trung Nam Hải vào buổi chiều ngày 31/7/1991, phía Trung Quốc do Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Giang Trạch Dân làm trưởng đoàn. Trước khi hội đàm, có ít phút gặp riêng giữa Tổng bí thư Giang Trạch Dân và tôi, có hai phiên dịch của hai Ban Đối ngoại Trung ương Việt Nam và Trung Quốc. Đồng chí Giang Trạch Dân nêu một vấn đề khá "hóc búa" :

- Tới đây lãnh đạo cấp cao hai nước gặp nhau sẽ mở lại trang sử tốt đẹp quan hệ Trung - Việt. Nhưng có một vấn đề quan trọng phải bàn riêng, vì ra họp chung khó nói. Tôi ở địa phương mới lên làm Tổng bí thư. Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử mới biết Nam Sa (tức Trường Sa) là của Trung Quốc.

Nghe vậy tôi liền nói :

- Tôi cũng như đồng chí, tôi ở chiến trường mới về Trung ương, có dịp nghiên cứu lịch sử, địa lý và pháp lý thì thấy Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ chúng ta nên cử các cơ quan chức năng nghiên cứu và xác định cụ thể.

Nghe vậy, đồng chí Giang Trạch Dân không nói gì nữa, chỉ cười thôi. Rồi ông bảo :

- Tới giờ rồi, mời đồng chí ra hội đàm !

Nói chung cuộc hội đàm đạt kết quả tốt, mọi vấn đề đặt ra đều được hai bên thỏa thuận, nhất trí. Trung Quốc cũng thấy rằng quan hệ hữu nghị với Việt Nam để phát triển là một nhu cầu của cải cách, mở cửa của họ. Họ đang có nhu cầu phát triển, ta cũng có nhu cầu bình thường hóa quan hệ để ổn định và phát triển.

Tôi còn nhớ một số đoạn trong lời phát biểu của hai trưởng đoàn tại cuộc hội đàm này. Đồng chí Tổng bí thư Giang Trạch Dân đứng dậy trịnh trọng nói :

- Tôi nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà. Hôm nay, được dịp quen biết đồng chí Lê Đức Anh - phái viên đặc biệt của Việt Nam, chúng tôi rất phấn khởi. Đồng chí đã hội đàm rất tốt với đồng chí Kiều Thạch và đồng chí Lý Bằng. Một giờ sáng nay, tôi mới ở địa phương về đến Bắc Kinh. Theo tập quán của chúng tôi, xin mời đồng chí nói trước

Tôi đứng lên nói :

- Tôi rất phấn khởi được gặp đồng chí Tổng bí thư - Chủ tịch nước. Tôi biết đồng chí rất bận, nhưng vẫn dành thì giờ tiếp chúng tôi. Cảm ơn đồng chí. Chúng tôi rất phấn khởi thấy được thành tựu 10 năm cải cách của các đồng chí. Điều đó cổ vũ rất lớn đối với Đảng và nhân dân Việt Nam chúng tôi. Về công việc, chúng tôi đã thông báo kết quả Đại hội 7. Hôm qua, tôi đã nêu tất cả những ý này với đồng chí Kiều Thạch và đồng chí Lý Bằng. Hôm nay, gặp đồng chí Tổng bí thư, xin đề nghị đồng chí cho ý kiến về việc đoàn cấp cao Đảng và Nhà nước Việt Nam do đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc sẽ được thực hiện trong năm 1991 này.

Từ nay đến khi có cuộc gặp cấp cao đó, đề nghị đồng chí Tổng bí thư chỉ đạo các ban gặp nhau trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước hết, chúng tôi mời đoàn Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sang làm việc với Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tôi đề nghị các đoàn thể, các hội hữu nghị Việt - Trung và Trung - Việt trao đổi kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Tôi có mấy ý kiến như thế, mong đồng chí cho ý kiến.

Đồng chí Giang Trạch Dân nói :

- Hôm qua tôi đã đọc thư đồng chí Đỗ Mười gửi cho chúng tôi. Hôm nay tôi xin nói thẳng thắn. Sáng nay tôi gặp đồng chí Lý Bằng, đồng chí Kiều Thạch và nhiều đồng chí ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khác, chúng tôi đã bàn với nhau và chúng tôi hoan nghênh đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Nhà nước Việt Nam do đồng chí Đỗ Mười dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc năm nay. Tôi rất đồng ý với ý kiến của đồng chí Lê Đức Anh, các cơ quan của hai Đảng qua lại trao đổi ý kiến với nhau. Ban Đối ngoại Trung Quốc sang thăm Việt Nam trước. Hôm qua đồng chí Lý Bằng đã trao đổi ý kiến với các đồng chí rất tốt. Ý kiến chúng ta nhất trí với nhau. Tình hình thế giới bây giờ rất phức tạp. Tôi biết đồng chí Lê Đức Anh hiểu biết hơn tôi về quân sự. Đồng chí là Bộ trưởng Quốc phòng, tôi là Chủ tịch Quân ủy Trung ương... Tôi giữ chức Tổng bí thư từ ngày 24/6/1989, từ đó đến nay, tôi không ngờ tình hình Đông Âu biến động và Liên Xô rối ren đến như vậy.

Chúng ta là những người cộng sản, phải thực sự cầu thị. Hiện nay chủ nghĩa xã hội đang thoái trào. Tình hình ngày nay khác tình hình khi nước chúng tôi giải phóng và khi nước các đồng chí được giải phóng. Nhưng chúng ta là những nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải khẳng định chủ nghĩa xã hội sẽ thắng lợi. Chúng ta phải thấy đây là quá trình đấu tranh hết sức gian khổ. Cho nên chúng ta là hai nước láng giềng, hai Đảng Cộng sản cầm quyền, không có lý do gì không xây dựng quan hệ láng giềng hữu hảo với nhau.

Từ sự đột biến ở Đông Âu và qua 25 tháng tôi công tác ở Trung ương, tôi nhận thức được rằng kiên trì chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng. Các nước phương Tây lúc nào cũng muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội khỏi trái đất này. Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân Trung Quốc đánh đổ chính quyền Quốc dân Đảng, giành chính quyền. Chúng tôi xây dựng đất nước, không bao lâu, chúng tôi phải chống Mỹ viện Triều. Cho nên phương Tây, nhất là Mỹ qua hai lần đọ sức bằng phương thức chiến tranh, chúng không xóa được chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Họ dùng biện pháp "diễn biến hòa bình" của Ngoại trưởng Mỹ Dulles (Đalét), để đối phó với chủ nghĩa xã hội, đối phó với bức màn sắt - như Nixon đã viết cuốn 1999 - chiến thắng không cần chiến tranh...

Đối với âm mưu lật đổ, chúng có pháp bảo : dùng chế độ đa đảng để lật đổ Đảng Cộng sản. Chúng tôi rất cảnh giác chế độ đa đảng. Về mặt này chúng tôi kiên quyết chống hoạt động đa đảng. Quả thật như thế, Yeltsin (Enxin) vừa lên làm Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nga liền thủ tiêu các cơ sở đảng ở cơ quan, xí nghiệp. Yeltsin đã từng là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô.

Nghe tin này, như người Trung Quốc nói "Xúc mục kinh tâm" - Những điều trông thấy khiến ta giật mình. Hiện nay các nước phương Tây muốn dùng chiêu bài dân chủ, tự do, nhân quyền để thực hiện "diễn biến hòa bình". Mỗi năm chúng tôi triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc một lần. Tôi đã dự hội nghị đó hai lần. Quan điểm của tôi là, Đại hội đại biểu nhân dân là của dân, không đi theo con đường nghị viện kiểu phương Tây. Chúng tôi cũng có tám đảng nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, không cho phép có đảng đối lập... Chúng tôi bây giờ hết sức cảnh giác với tư tưởng luân phiên nắm chính quyền. Điều đáng sợ không phải là có tồn tại hay không tồn tại vấn đề đó mà là ở chỗ Đảng có kiên quyết chống tư tưởng đó, có cảnh giác với âm mưu đó hay không. Nếu biết cảnh giác, có biện pháp, thì không sợ gì cả...

Tôi nhận thức được quân đội nhân dân phải tuyệt đối đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quân đội là cây súng, hình thái ý thức là cây bút. Với tư cách quân đội, đồng chí Lê Đức Anh lâu năm hơn tôi. Tôi vừa đi hơn 20 tỉnh và thành phố trong tổng số 30 tỉnh, thành. Tôi đã đi 18 quân khu. Trước đây tôi chưa được bầu làm Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Sau khi được bầu tôi thường xuyên đi thăm các quân khu. Đồng chí Lê Đức Anh hiểu tầm quan trọng của cây súng hơn tôi. Cây bút cũng rất quan trọng.

Về tuyên truyền quả thật phải không ngừng cải tiến phương pháp tuyên truyền. Mục đích của tuyên truyền là đi sâu vào lòng người. Nếu ta chỉ theo cách cũ cứng nhắc là không được. Tuyên truyền phải sống động, hoạt bát, không thế sẽ không có kết quả tốt. Về phương thức, về công tác tư tưởng, phải tính đến sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Hiện nay ti vi rất phổ biến ở thành phố. Hằng ngày dân chúng cứ nghe, nhìn, rồi qua tai, mắt, nếu chúng ta không có năng lực phân tích thì dân chúng sẽ hấp thụ những điều dở...

Tài trợ

Chúng ta chống tư sản không chỉ chống văn hóa màu vàng. Phải chống cả tự do hóa tư sản. Đứng về góc độ phiên dịch chắc khó diễn đạt hết hàm ý của nội dung này. Nội dung chống này bao gồm việc chống lại tất cả những tư tưởng chống chủ nghĩa cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội, chống những sự thối tha đồi trụy của tư sản.

Còn đối với những kỹ thuật tiên tiến, cách quản lý khoa học, văn hóa ưu tú của tư sản chúng ta lại phải học tập. Chúng tôi có chuyển hướng cải cách mở cửa, khuyến khích nước ngoài đầu tư nhưng phải tôn trọng pháp luật... Trên đây tôi đã giới thiệu tóm tắt nhận thức của cá nhân. Tôi tin rằng chuyến đi thăm của đồng chí thúc đẩy việc tiến tới bình thường hóa quan hệ hai Đảng, hai nước. Qua đồng chí, xin gửi lời thăm tốt đẹp tới đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười, các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng và các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi rất phấn khởi được gặp đồng chí. Hôm nay là bước mở đầu tốt đẹp của chúng ta.

Cuộc đàm đạo được nối tiếp trong buổi chiêu đãi ngay tối hôm đó tại Trung Nam Hải. Đồng chí Giang Trạch Dân nói tiếp :

- Fucik (Phu xích) viết trong tác phẩm Viết dưới giá treo cổ có một câu nói tôi mãi mãi không quên : "Nhân dân ơi ! Tôi yêu nhân dân, nhưng nhân dân đừng quên cảnh giác !". Ý này rất hay, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Tôi hiểu rằng kinh nghiệm của đồng chí Lê Đức Anh rất phong phú. Các nước phương Tây bắt đầu tính toán đến vấn đề rất nghiêm trọng đối với chúng ta là vấn đề giáo dục thanh niên. Thanh niên dễ tiếp thu văn minh phương Tây. Tiếp thu kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của phương Tây, chúng ta không phản đối. Tôi thường xuyên có quan điểm tiếp thu những văn hóa ưu tú phương Tây. Nhưng phải làm cho thanh niên thấy nhân dân ta đã từng bị áp bức của các cường quốc...

Bắt đầu từ năm nay, chương trình giáo dục cấp I của chúng tôi có phần giáo dục tình hình đất nước, có phần lịch sử cận đại, vì thế hệ chúng tôi sớm muộn cũng đi gặp Các Mác, nên chính quyền sau này rơi vào tay ai không thể không suy nghĩ. Tôi xin nói thẳng với đồng chí và nói nhiều vì lần đầu gặp đồng chí nhưng cảm thấy như người bạn lâu năm.

Tôi nói :

- Khi ở chiến trường, tôi thấy rõ sự giúp đỡ của Trung Quốc. Tất nhiên có cả Liên Xô. Sự giúp đỡ của Trung Quốc cụ thể, thiết thực như : súng B40, lương khô, mũ cối, giày, dép, quần áo, thuốc xoa chống muỗi, chống vắt, v.v., rồi giúp cả tiền chuyển vào chiến trường để mua gạo... Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các đồng chí đã viện trợ toàn diện cho Việt Nam.

- Đó là việc cần làm - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.

- Bây giờ Trung Quốc hơn một tỷ dân, đang tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là viện trợ to lớn nhất, không thể đánh giá hết được - Tôi nói.

- Tôi nghe thông báo về Đại hội 7, thấy các đồng chí kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tự đáy lòng tôi thấy rất phấn khởi - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.

- Về quốc tế, đồng chí nói gọn, đủ, tôi rất phấn khởi trước lập trường quan điểm của đồng chí, điều đó làm tăng niềm tin ở tương lai xã hội chủ nghĩa đối với chúng tôi. Trong thời điểm này, Trung Quốc đóng vai trò cực kỳ to lớn trước sự tồn vong, còn hay mất của chủ nghĩa xã hội, của phong trào độc lập dân tộc trên thế giới. Đó là nhận thức sâu sắc của chúng tôi. Về phía Việt Nam, chúng tôi kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên không cần lập mặt trận chống ai, nhưng Trung Quốc ổn định, vững, là niềm cổ vũ lớn cho phong trào cộng sản quốc tế - Tôi nói.

- Quan hệ quốc tế với quốc gia, chúng tôi theo năm nguyên tắc chung sống hòa bình, mấu chốt nhất là không can thiệp vào nội bộ của nhau. Còn giải quyết quan hệ Đảng với Đảng, chúng tôi theo bốn nguyên tắc, mấu chốt cũng là không can thiệp vào nội bộ nhau. Người ta ai cũng mong muốn người trong họ hàng của mình tốt lên. Láng giềng cũng muốn láng giềng của mình tốt hơn. Như tôi đã nói, trước tình hình quốc tế hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang thoái trào, những nhà nước do Đảng Cộng sản cầm quyền không còn bao nhiêu, nên tôi hết sức tán thưởng đường lối Đại hội 7 của Việt Nam... Đối với chúng ta phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng. Trong kinh tế, sở hữu nhiều thành phần nhưng phải lấy công hữu làm cơ sở. Đó là những điều tâm huyết của tôi. Lần đầu tiên được gặp đồng chí, tôi rất thú vị - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.

- Lần đầu tiên được gặp đồng chí Tổng bí thư Giang Trạch Dân, tôi thấy rất thân tình. Những lời từ đáy lòng đồng chí nói ra được thể hiện cụ thể ở những nơi tôi đến tham quan : xã Tứ Quý Thanh, công ty gang thép Thủ Đô,... - Tôi nói.

- Đồng chí lớn tuổi hơn tôi, làm việc lâu năm hơn tôi, kinh nghiệm phong phú hơn tôi - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.

- Chúng tôi ở nước nhỏ, tầm nhìn hạn chế trong phạm vi độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia - Tôi khiêm tốn nói.

Đồng chí Giang Trạch Dân cười, vui vẻ nói :

- Trung Quốc có câu nói "Con chim chích tuy nhỏ, nhưng gan mật đều có". Tôi chủ trương bố trí cho cán bộ công tác cơ sở rồi mới điều lên trên, như vậy mới tốt... Chúng tôi phải quyết tâm phát triển kinh tế. Nhưng điều đó hoàn toàn không phải do một mình chúng tôi quyết định được. Chúng tôi phải hết sức cố gắng. Trời không chiều ý người nên chúng ta phải chuẩn bị đầy đủ mọi mặt, như thế tốt hơn chỉ nghĩ tới một mặt.

Tối hôm nay, tôi rất phấn khởi được làm quen và được tâm sự nhiều với đồng chí, một lần lạ, lần sau quen. Chuyến đi của đồng chí là một chuyến đi tốt, "bon voyage" - Đồng chí Giang Trạch Dân nói tiếng Pháp.

Chúng tôi trở về Việt Nam. Ngày 3/8/1991, tại cuộc họp Bộ Chính trị, sau khi tôi báo cáo kết quả chuyến đi Trung Quốc, các thành viên dự họp phát biểu sôi nổi và thống nhất đánh giá chuyến đi đạt kết quả tốt và nhất trí mấy việc cần làm là :

- Thông báo kết quả chuyến đi này với Lào và Campuchia. Thông báo về chuyến đi trong nội bộ Đảng và báo cáo với Quốc hội.

- Triển khai các công việc cần thiết trước mắt, nhất là các cơ quan chức năng như Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương và Thủ tướng Chính phủ để xúc tiến các bước trong tiến trình thực hiện bình thường hóa quan hệ Việt - Trung.

Tiếp đó là những cuộc tiếp xúc, trao đổi giữa hai Ban Đối ngoại Trung ương của hai Đảng, giữa Bộ Ngoại giao hai nước và giữa Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy.

Tháng 11/1991, nhận lời mời của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc Lý Bằng, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 5 đến 10. Sau lễ đón tiếp và hội đàm, hai bên ra Thông cáo chung và ký Hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước Trung - Việt trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa bình, đồng thời ký kết quan hệ bình thường giữa hai Đảng, mở đầu trang sử mới trong quan hệ giữa hai Đảng, hai nước sau hơn 10 năm trắc trở.

Năm 1988, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Quốc phòng đã ....

Đại tướng Lê Đức Anh

******************

Lời hứa của tướng Lê Đức Anh ở Trường Sa lớn

VietnamNet, 07/05/1988

Năm 1988, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Quốc phòng đã dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988) do Quân chủng Hải quân tổ chức tại đảo Trường Sa lớn. Đại tướng đã có bài phát biểu quan trọng :

"Cùng với các lực lượng, các đơn vị của Hải quân nhân dân Việt Nam, hôm nay, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức mít tinh kỷ niệm lần thứ 33 ngày truyền thống vinh quang của Quân chủng (7/5/1955-7/5/1988) trên quần đảo Trường Sa, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Thay mặt Bộ Quốc phòng, tôi chuyển tới các đồng chí cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân lời chúc sức khỏe.

Hải quân ta ra đời trong hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt, vượt qua mọi khó khăn, thử thách bằng sức lao động thông minh và sáng tạo, từ những chiếc thuyền gỗ có gắn máy mà đi lên, Hải quân ta đã tích cực trên các mặt trận chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.

thanhdo3

Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Quốc phòng đã dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988) do Quân chủng Hải quân tổ chức tại đảo Trường Sa lớn.

Từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Hải quân nhân dân ta đã nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết chiến, quyết thắng và đã lập nhiều chiến công oanh liệt. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, Hải quân nhân dân ta còn có nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng là đưa cán bộ, súng đạn vào miền Nam bằng loại tàu đi biển do Hải quân tự thiết kế. Loại tàu nhỏ này đã vượt biển khơi đi qua vùng biển dưới sự kiểm soát của không quân và hải quân thuộc Hạm đội 7 của Mỹ, của hạm đội tuần tiễu của quân đội ngụy Sài Gòn.

Nhưng Hải quân nhân dân ta vừa làm nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, chống lại sự phong tỏa của địch, đồng thời vận chuyển được hàng vạn tấn hàng hóa, vũ khí, đạn dược và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần xứng đáng giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta.

Nhân dịp kỉ niệm ngày truyền thống của Quân chủng, tôi nhắc lại điều đó để nói lên tinh thần dũng cảm và sự thông minh sáng tạo của cán bộ Hải quân ta trong thời kỳ đánh Mỹ. Đó là sự thông minh và dũng cảm tuyệt vời, nó được nối tiếp mãi cho đến ngày nay và mãi mãi đến các thế hệ mai sau. Thông minh dũng cảm là sức mạnh. Niềm tin là sức mạnh. Đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là sức mạnh.

Mở đầu thời kỳ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trước một tên đầu sỏ hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc ; Đảng ta đã có một vũ khí cực mạnh, đó là niềm tin, niềm tin ở chính nghĩa độc lập tự do, niềm tin ở sức mạnh của nhân dân khi đã quyết tâm thì sẽ sáng tạo muôn vàn cách đấu tranh để giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Chính niềm tin sắt đá đó đã động viên và đoàn kết toàn dân tộc nhất tề đứng dậy đấu tranh với đế quốc cực mạnh và đã từng bước thu hút sự chú ý và sự ủng hộ của loài người tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới đã góp phần quan trọng giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Đoàn kết dân tộc, đoàn kết với bạn bè quốc tế, đó là sức mạnh, đó là đại nghĩa, đó là lẽ sống của cách mạng Việt Nam, của nhân dân Việt Nam.

Với mối quan hệ giữa ta và Trung Quốc : Trong những năm 50 và những năm 60 quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và hiệu quả. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình.

Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Năm 1976, Đoàn đại biểu cao cấp của Đảng và Nhà nước ta đi thăm và cảm ơn các nước và bầu bạn trên thế giới đã ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ. Tới Trung Quốc, các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta đã cảm ơn sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc đối với sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, thì người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ đã nói : Trung Quốc cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam chống Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân với Trung Quốc".

Nói tóm lại cả hai nước đã giúp đỡ lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, với tinh thần anh em sâu đậm. Chúng ta đinh ninh rằng tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ xóa nhòa, đi đến xóa hẳn trong ký ức của dân tộc Việt Nam những tội lỗi mà các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm đô hộ.

Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thật sự trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế.

Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam dù chế độ xã hội khác nhau qua các thời đại, xu hướng chính trị khác nhau, tôn giáo khác nhau, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ đều một lòng, một dạ kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt - Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta.

Hôm nay kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ đại diện các Tổng cục, các quân chủng, đại diện tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta".

VietNamNet

Published in Diễn đàn

Chỉ sau một ngày thẩm vấn, dân chúng đủ thấy rõ rằng, CNC không phải là "công ty bình phong" cho C50 mà C50 - Cục cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao - là bình phong cho CNC. Tội phạm (đánh bạc nghìn tỷ) cũng không diễn ra bởi sự tha hóa của các cá nhân đơn lẻ. Nó được "báo cáo", "bút phê" từ người lãnh đạo cao nhất của Ngành lúc đó.

cobac1

Một số bị can trong vụ án đường dây đánh bạc nghìn tỷ. Đồ họa

Điều mà nếu như "cả hệ thống chính trị" suy nghĩ một cách có trách nhiệm sẽ phải rất giật mình là, chính nhà tổ chức sới bạc nghìn tỷ Nguyễn Văn Dương đồng thời lại là người lên "kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ quốc gia về tội phạm mạng".

Kế hoạch này đã được thông qua hoặc "bút phê" từ Cục trưởng Nguyễn Thanh Hóa, cho tới Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát Phan Văn Vĩnh... và cả Bộ trưởng Trần Đại Quang. Nếu không có thay đổi nhân sự và phương thức lãnh đạo ở Bộ Công an ngay sau đó (5/2016), thì rất có khả năng, những tên tội phạm như Dương, Hóa... giờ đây đang kiểm soát không gian mạng mà chúng ta đang sống.

Đại tướng Trần Đại Quang từng viết sách về an ninh mạng và ông chính là người đưa ra sáng kiến làm luật an ninh mạng. Luật cũng được Bộ soạn thảo ngay trong thời gian "sới bạc nghìn tỷ" đang ung dung gây án ngay trong trụ sở của Cục phòng chống tội phạm "trên mạng". Rất nhiều nhà lãnh đạo tới giờ này vẫn còn nghĩ mục tiêu chính của luật này là để bảo vệ các cuộc tấn công trên mạng và đặc biệt là để bảo vệ chế độ.

Trong dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng, Bộ Công an đang thiết kế cho mình quyền quyết định việc can thiệp vào công nghệ, dữ liệu, văn phòng... của các doanh nghiệp hoạt động trên nền tảng internet. Không rõ, Bộ không hề học bài học của vụ CNC hay rút ra bài học lợi ích nếu có quyền "vừa đánh trống, vừa thổi còi" như vụ CNC.

Rõ ràng, nếu Bộ Công an tuân thủ luật pháp ; nếu CNC không núp bóng Bộ Công an mà phải làm thủ tục trước ở Bộ Thông tin và truyền thông và Ngân hàng Nhà nước thì liệu CNC có thể vận hành 2 cổng game và các cổng thanh toán khác. Nếu Bộ Công an tập trung vai trò chống tội phạm thì dù Bộ Thông tin và truyền thông hay Ngân hàng nhà nước có cấp phép cho CNC hoạt động, thì liệu CNC có trót lọt ngay từ khi công ty này thanh toán những ván bài đầu tiên.

Bỏ tù tướng Vĩnh, tướng Hóa là cần thiết nhưng nếu Bộ Công an không sửa ngay từ gốc, xác lập trách nhiệm chính với tổ quốc, với nhân dân là giữ gìn an ninh thì trong tương lai không chỉ có một bộ đôi "Hóa - Vĩnh".

Khi thông qua nghị định hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng, Bộ Tư Pháp và các bộ cần phải rà soát kỹ. Quy phạm nào, thủ tục nào nằm trong phạm vi hành chính nhà nước thì không đặt vào tay Bộ Công an, để cơ quan này không vướng víu quyền lợi với tội phạm khi phải phòng và chống chúng.

Huy Đức

Nguồn : Osinhuyduc, 20/11/2018

Published in Diễn đàn

Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có thể sẽ đi vào lịch sử nếu như Nghị quyết 112 có hiệu lực trên thực tế. Cũng như việc bãi bỏ hàng nghìn điều kiện kinh doanh, Nghị quyết này là một trong những hành động thiết thực dân cần chứ không phải là những tuyên bố cải cách to tát nói rồi để đấy. Tuy nhiên, Dự luật An ninh mạng có thể sẽ nhận chìm uy tín chính trị của ông (và cả Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân), đặc biệt, là uy tín trước cộng đồng quốc tế.

anninh0

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân - Ảnh minh họa

Chủ quyền quốc gia và tự do của người dân

Không có gì quá ngạc nhiên khi một số nhà báo, trí thức... ngạc nhiên khi Google, Facebook... chưa phản ứng Dự luật đòi Google, Facebook... phải đặt máy chủ ở Việt Nam mà người trong nước đã nêu ý kiến. Các bạn trí thức này đã tư duy trên nền tảng chủ quyền quốc gia truyền thống, họ ý kiến trên tâm thế "Nhà nước" (cho dù tôi biết nhiều người không phải là người nhà nước) chứ không trên tâm thế của những người dân được hưởng lợi từ Google, Facebook...

Nếu như, điều kiện đặt máy chủ tại Việt Nam đối với Google, Facebook... chủ yếu đặt họ trước các bài toán kinh doanh khi phải bỏ thêm tiền lắp đặt thêm các "server", thì đối với người Việt Nam là vấn đề tự do. Chính quyền sẽ dễ dàng gây sức ép với các nhà cung cấp dịch vụ như email, youtube, Facebook... buộc áp dụng điều 9, điều 10 của Dự thảo gỡ bỏ các bài viết của người dân khi họ đặt máy chủ tại Việt Nam thay vì tại Hongkong hay Singapore như hiện nay.

Theo Dự thảo và theo tuyên bố mới đây của Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thì mối quan tâm ưu tiên của Dự luật này không phải là để bảo vệ các cơ sở dữ liệu liên quan đến an ninh quốc gia và bí mật cá nhân của người dân (đặc biệt là sau khi có "cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư") mà là những thông tin "tuyên truyền chống chế độ".

Mạng xã hội chỉ là công cụ, nó cũng như con dao, thái rau hay gây án là tùy người dùng. Bộ Luật Hình sự có đủ tội danh để chính quyền bắt bớ những ai trái ý.

Chỉ có vài quốc gia còn hình sự hóa quyền chỉ trích chính quyền của người dân và Việt Nam là một trong số ít đang có quá nhiều điều luật để buộc tội những hành vi mà ở các quốc gia tiến bộ coi là quyền tự do của dân chúng (ngôn luận và bày tỏ chính kiến). Lẽ ra, chính quyền Việt Nam đã phải đủ trưởng thành để nhận thức rằng, chính mình đã mạnh lên rất nhiều, bộ máy đã bớt nhũng nhiễu đi rất nhiều kể từ khi có internet và người dân có thể dùng Mạng xã hội để lên tiếng.

Chủ quyền quốc gia liệu còn ý nghĩa gì không khi mà trong đó người dân được sống với ít tự do hơn. Chính Hồ Chí Minh - người sáng lập ra chế độ này - cũng đã tuyên bố, "Nước có độc lập mà dân không có tự do thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa". Một khi buộc được các nhà cung cấp dịch vụ đặt máy chủ trong nước, đắc chí vì thấy họ phải tuân theo điều mà vài người tưởng là chủ quyền quốc gia, quyền tự do của người dân sẽ bị can thiệp. Chỉ chiếu theo các tiêu chí của Hồ Chí Minh thôi, đã thấy đòi hỏi chủ quyền kiểu đó là vô nghĩa.

Có hai Bộ công an ?

Trong hai năm đầu của mình, Bộ trưởng Tô Lâm đã làm được rất nhiều việc, cả về chống tham nhũng trong hệ thống và cải cách trong ngành. Nghị quyết 112 rõ ràng mang đậm dấu ấn của ông. Nếu Nghị quyết này triển khai thành công theo hướng - người dân không bị đặt trong tình trạng "bất hợp pháp" chỉ vì thiếu các thủ tục hành chánh và không còn bị cảnh sát khu vực đe dọa quyền tự do đi lại & tự do cư trú chỉ vì thiếu tờ KT3 hay tờ hộ khẩu - thì ông Tô Lâm và ông Trần Tuấn Anh có thể được coi là hai thành viên tiên phong cải cách của Nội các ; việc làm của hai ông cho dân chúng lờ mờ thấy nội hàm của "Chính phủ kiến tạo".

Nhưng, Nghị quyết 112 & Dự luật An ninh mạng tuy cùng xuất phát từ Bộ Công An đã cho thấy hai cách tiếp cận khác xa nhau. Một bên Bộ sẵn sàng từ bỏ quyền lực, một bên Bộ lại thể hiện cách tiếp cận như thời Việt Nam chưa có internet. Nếu những điều luật đi ngược lại xu thế của thời đại trong Dự luật An ninh mạng thành hiện thực, rất khó để tin rằng, hiện chỉ có một Bộ Công an của ông Tô Lâm.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân

Cho dù có mấy Bộ Công an thì Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc & Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Nếu người dân không còn công cụ để giám sát bộ máy thì những nỗ lực bãi bỏ hộ khẩu, giấy phép con, điều kiện kinh doanh... sẽ dần dần bị vô hiệu hóa bởi chính những quan chức (mặc sức) tha hóa nằm trong bộ máy.

Nghiêm trọng hơn, nếu ông bà cho phá vỡ các cam kết quốc tế của những người tiền nhiệm - không buộc nhà cung cấp các dịch vụ mạng phải đặt máy chủ tại Việt Nam - thì không những uy tín chính trị của ông bà trên trường quốc tế sẽ bị thách thức mà ông bà có thể sẽ trở thành những nhà lãnh đạo đầu tiên của Đảng cộng sản để lọt một đạo luật thắt chặt không gian tự do nhất kể từ khi Việt Nam đổi mới.

Huy Đức

Nguồn : FB Truong Huy San, 07/11/2018

****************

Bộ luật tước đi quyền ẩn danh của dân chúng lại được Quốc hội bỏ phiếu ẩn danh

Các tướng Công an tuyên bố trước diễn đàn, bên hành lang Quốc hội và trong họp báo Chính phủ : "18 quốc gia trên thế giới đã có văn bản luật quy định các doanh nghiệp nước ngoài phải lưu trữ dữ liệu quan trọng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, như Mỹ, Canada, Trung Quốc…". Họ không nghiên cứu hay họ không chịu hiểu. Rất tiếc là rất nhiều cơ quan quyền lực, rất nhiều nhân vật chịu trách nhiệm ban hành chính sách đã tin vào những tuyên bố này.

Chính phủ cần phải biết sự thật. Trước khi thông qua 2 nghị định hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng, các thành viên Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nên đọc kỹ bài viết này và lắng nghe thêm ý kiến từ các chuyên gia và những người lo lắng cho tương lai đất nước.

Trong trường hợp link bị chặn, các bạn đọc bài dưới đây :

Theo VnExpress, trong cuộc họp báo ngày 3/11/2018, thiếu tướng Lương Tam Quang – Chánh văn phòng Bộ Công an đã nói :

[...] có 18 quốc gia trên thế giới đã có văn bản luật quy định các doanh nghiệp nước ngoài phải lưu trữ dữ liệu quan trọng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, như Mỹ, Canada, Trung Quốc.

Ngày 25/5, quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân của Liên Hiệp Châu Âu cũng chính thức có hiệu lực, cho phép cá nhân kiểm soát dữ liệu của mình khi tham gia các diễn đàn, mạng xã hội. Các công ty phải cam kết không chuyển dữ liệu cá nhân cho bên thứ 3 ; nếu bị phát hiện sẽ bị phạt 20 triệu euro hay 4% doanh số toàn cầu.

Về con số 18 quốc gia tôi đã phân tích trong bài về dự thảo 03/10/2018, chỉ nhắc lại ở đây là ông Quang nhắc đến "dữ liệu quan trọng" nên chắc ông cũng đã tìm hiểu để thấy rằng Mỹ chỉ yêu cầu lưu trữ dữ liệu tài chính và thuế, còn Canada chỉ yêu cầu lưu trữ dữ liệu của những tổ chức hành chính công như trường học công, bệnh viện công hay cơ quan nhà nước (nguồn). Giả sử như người Mỹ hay người Canda sử dụng Zalo, chính phủ Mỹ và chính phủ Canada không yêu cầu Zalo phải lưu dữ liệu ở Mỹ hay Canada. Do đó tôi thấy thật khó hiểu khi ông Quang đem hai quốc gia này ra làm ví dụ.

Đến khi ông Quang nhắc đến General Data Protection Regulation (GDPR) của Châu Âu tôi chuyển từ khó hiểu sang khó ở. GDPR không giống gì với Luật An ninh mạng Việt Nam, đặt hai bộ Luật này vào cùng một câu giống như ăn hủ tíu mà cho mắm tôm.

Thứ nhất, luật An ninh mạng Việt Nam yêu cầu các công ty phải lưu dữ liệu ở Việt Nam, nhưng GDPR không bắt buộc phải lưu dữ liệu ở Châu Âu, miễn sao dữ liệu được lưu ở một quốc gia đạt tiêu chuẩn an toàn dữ liệu.

Hiện tại có 13 quốc gia nằm trong danh sách này, trong đó có Mỹ, nếu bên nhận dữ liệu đảm bảo được tiêu chuẩn Privacy Shield. Các công ty công nghệ lớn của Mỹ như Amazon, Facebook, Google, Microsoft, v.v. đều đạt chuẩn Privacy Shield. Tóm lại, Châu Âu không yêu cầu các công ty này phải lưu dữ liệu ở Châu Âu, mà họ có thể lưu ở Mỹ hoặc ở các nước khác đạt chuẩn. Ở Việt Nam đến cái bồn cầu còn theo tiêu chuẩn Châu Âu, vậy mà Luật An ninh mạng lại không theo.

Thứ hai, GDPR không có bất kỳ điều luật nào yêu cầu các công ty phải cung cấp dữ liệu của người dân Châu Âu cho Nghị viện Châu Âu hay chính phủ các nước thành viên, vì bảo vệ riêng tư của người dân, trước tiên, là không chuyển dữ liệu cho chính phủ, nếu không có lệnh của tòa án.

Trách nhiệm của chính phủ là giúp người dân bảo vệ dữ liệu, nhưng dữ liệu vẫn thuộc sở hữu của người dân, chứ chính phủ không có quyền tự ý quốc hữu hóa dữ liệu của dân chúng. Trong khi GDPR yêu cầu các công ty phải có trách nhiệm bảo vệ dữ liệu của người dân Châu Âu và cung cấp công cụ để người dân kiểm soát dữ liệu của chính họ, Luật An ninh mạng Việt Nam yêu cầu các công ty phải cung cấp dữ liệu cho Bộ Công an, mà không có sự kiểm soát của tòa án hay bất kỳ thể chế độc lập nào.

Thứ ba, Luật An ninh mạng và dự thảo 31/10/2018 tước đi quyền ẩn danh trên Internet, tức là cản trở người dân tự bảo vệ và thực thi quyền riêng tư, vì ẩn danh chính là cách bảo vệ riêng tư tốt nhất. Các công nghệ riêng tư phổ biến như Tor hay VPN chẳng làm gì khác ngoài việc che dấu danh tính của người dùng.

Thay vì giúp người dân che dấu danh tính khi sử dụng Internet, Bộ Công an lại bắt buộc người dân phải tiết lộ danh tính, yêu cầu những công ty Internet phải thu thập, xác minh và cung cấp cho Bộ Công an họ tên, ngày tháng năm sinh cho đến số chứng minh thư, số thẻ tín dụng, tình trạng sức khỏe, v.v.

Thử tưởng tượng mỗi khi đi ăn hủ tíu bà bán hủ tíu yêu cầu bạn phải cung cấp đầy đủ họ tên, địa chỉ, số chứng minh thư, sau đó bả chuyển qua cho Bộ Công an khi họ yêu cầu. Rõ ràng chuyện này không thể xảy ra ở ngoài đời. Vậy cơ sở pháp lý nào cho phép Bộ Công an bắt buộc người dân phải khai báo danh tính khi tham gia Internet ?

Về mặt kỹ thuật, mạng Internet không hề yêu cầu chúng ta phải dùng danh tính thật. Bản chất của Internet là ẩn danh. Ai cũng có thể vào blog này hoặc email cho tôi mà không cần phải báo cho tôi biết họ là ai. Tiết lộ danh tính hay không là một lựa chọn của người dân, chính phủ không có quyền ép buộc.

Tôi đoán chính phủ muốn biết danh tính của người dùng Internet để dễ bắt tội phạm. Nhưng có lẽ nào vì những trang blog không do dân chúng tạo ra như Chân Dung Quyền Lực hay Quan Làm Báo mà phải hi sinh riêng tư của tất cả dân chúng và cả hệ thống chính trị ?

Dân chúng lên tiếng phê phán chính quyền và các quan chức là phúc chứ không phải họa. Sợ là sợ dân giàu và giỏi bỏ đi hết, chứ sợ gì chuyện người ta bức xúc. Phàm đã là quan chức chính phủ, tức đã là người của công chúng, hãy để cho công luận quyết định công và tội. Cây ngay không sợ chết đứng, nếu có ai đó nói sai về mình, thay vì dùng quyền lực để bịt miệng người ta, hãy để công chúng lên tiếng bảo vệ. Người dân luôn biết rõ ai làm được việc cho họ, đừng sợ làm tốt mà người ta không biết đến.

Cuối cùng, còn gì mỉa mai và cay đắng bằng khi bộ luật tước đi quyền ẩn danh của dân chúng lại được Quốc hội bỏ phiếu ẩn danh. Ngoại trừ lác đác vài ba vị đại biểu đã lên tiếng, cho đến nay dân chúng hoàn toàn không biết ai đã bỏ phiếu thuận, ai đã bỏ phiếu chống Luật An ninh mạng.

Đất nước mình lạ quá phải không em ? Những người quyền cao chức trọng cần phải tuyệt đối rõ ràng minh bạch lại được quyền ẩn danh hèn nhát, còn người dân thấp cổ bé họng lại sắp bị tước đi cả cái quyền lẩn mình vào đám đông để tự vệ trước cường quyền.

Truong Huy San, 07/11/2018
Published in Diễn đàn

Gần 4 năm sau Đại hội 12, có thể cho rằng đây là lần thứ hai Huy Đức tung ra một bài viết có trọng lượng với quan điểm vận động sự ủng hộ cho ‘người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam’.

huyduc1

Blogger Huy Đức

Ngày 30/9 năm 2018 và trùng với một tin tức ngoài lề cho biết Bộ Chính trị rốt cuộc đã họp bàn về các phương án nhân sự cho cái ghế chủ tịch nước, Huy Đức đã đưa lên facebook của blogger này bài ‘Nhất thể hóa’, với lời mào đầu :

"Nhất thể hóa tạo tính chính danh cho người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam. Từ thay đổi tưởng chỉ "cấu thành hình thức" này, trong quá trình vận hành, chắc chắn sẽ làm xuất hiện nhiều tình huống, gợi ý cho Việt Nam cải cách. Cho dù vẫn một đảng, về mặt lý thuyết, Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới một nền cộng hòa bán tổng thống". 

Đáng chú ý, bài PR ‘nhất thể hóa’ hiện ra cùng lúc với một tin tức ngoài lề cho biết kết quả ‘tôi không bất ngờ’ dành cho Nguyễn Phú Trọng, còn vai trò ‘quyền chủ tịch nước’ của ủy viên trung ương Đặng Thị Ngọc Thịnh có lẽ chỉ có được tuổi thọ vỏn vẹn một tháng.

Buổi sáng 28/9, trong một cuộc họp báo của Ban Tuyên giáo Trung ương để thông tin về ‘Hội nghị Trung ương 8, khóa XII diễn ra vào tuần tới’, cái cách thông báo của quan chức Lê Quang Vĩnh - Phó chánh Văn phòng Trung ương Đảng - về "Với sự phân công này, các quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước được thực hiện bình thường, đầy đủ" (phân công bà Đặng Thị Ngọc Thịnh là quyền Chủ tịch nước) chắc chắn là ẩn số đáng mổ xẻ nhất trong phương trình mang tên ‘Ai sẽ làm chủ tịch nước’.

Trong khi đó, lại có thông tin cho biết kịch bản ‘hợp nhất chủ tịch nước và tổng bí thư’ đang chiếm ưu thế. Thậm chí thông tin này còn dự đoán chính ông Nguyễn Phú Trọng, chứ chẳng phải ai khác, sẽ ngồi vào ghế chủ tịch nước.

Tại Hội nghị trung ương 8, nếu xuất hiện hiện tượng một số cựu thần, quan chức và ‘quần chúng nhân dân’ đồng loạt xướng lên quan điểm cần ‘nhất thể hóa’ hai chức danh chủ tịch nước và tổng bí thư với lý do chủ yếu ‘có lợi cho dân tộc và nhân dân’, có thể cho rằng Quyền chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh chỉ là phương án ‘nghi binh’ trong một kịch bản tổ chức một chiến dịch PR cho ông Nguyễn Phú Trọng chính thức trở thành bản sao của Tập Cận Bình - nhân vật chủ tịch nước kiêm tổng bí thư của đảng Cộng sản Trung Quốc.

Đã thành một thói quen, không ít người quan tâm đến biến động chính trị trong nội bộ đảng và chiến dịch được tuyên truyền là "chống tham nhũng" của Tổng bí thư Trọng ngày càng dựa vào những tin tức, dù được thể hiện rõ ràng hay mơ hồ lấp lửng, của Huy Đức để nhận định và dự đoán về tương quan chính trị cùng những biến động, biến cố có thể xảy ra trong tương lai gần. Đặc biệt là về "ai sắp bị bắt" hay "ai sắp chết"…

Với lợi thế có được nhiều tin tức nội bộ và thâm cung bí sử, Huy Đức đã trở thành một cây bút tín hiệu ghê gớm. Vào giữa năm 2017, chỉ một dòng status lấp lửng của cây bút quá thâm này về số phận đại gia Trần Bắc Hà đã khiến thị trường chứng khoán Việt Nam suýt rơi vào hoảng loạn và lao dốc khiến mất đi 2 tỷ USD vốn hóa.

Gần 4 năm sau Đại hội 12, có thể cho rằng đây là lần thứ hai Huy Đức tung ra một bài viết có trọng lượng với quan điểm vận động sự ủng hộ cho ‘người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam’, dù trong bài viết này không hề nhắc đến cái tên Tổng bí thư Trọng - người đã chiếm thế thượng phong sau khi tái cử tổng bí thư tại đại hội 12, được tụng ca thành ‘Người đốt lò vĩ đại’ và ‘Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’ sau vụ chỉ đạo bắt Ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng vào cuối năm 2017, và trong thực tế đã mất sạch đối thủ chia sẻ trách nhiệm ‘thống lĩnh các lực lượng vũ trang’ sau cái chết của Trần Đại Quang.

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 01/10/2018

********************

Nhất thể hóa

Huy Đức, 30/09/2018

Tôi không bình luận nhân sự cụ thể. Nhưng nếu quyết định để Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước lần này trở thành tiền lệ thì cũng rất có ý nghĩa. Ít nhất "biên chế" sẽ chỉ còn là Bộ Tam thay vì Bộ Tứ.

Newly re-elected Vietnam Communist Party Secretary General Nguyen Phu Trong (C) claps with Politburo members Tran Dai Quang (2nd L), Nguyen Xuan Phuc (2nd R), Nguyen Thi Kim Ngan (R) and Dinh The Huynh (L) as they pose with the VCP's new 200-member centra

Bộ Tứ trước kia. Ảnh minh họa

Nhất thể hóa tạo tính chính danh cho người đang thực sự nắm quyền lực tối cao ở Việt Nam. Từ thay đổi tưởng chỉ "cấu thành hình thức" này, trong quá trình vận hành, chắc chắn sẽ làm xuất hiện nhiều tình huống, gợi ý cho Việt Nam cải cách. Cho dù vẫn một đảng, về mặt lý thuyết, Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới một nền cộng hòa bán tổng thống.

Chủ tịch – nên là chức danh duy nhất được coi là nguyên thủ – thống lĩnh lực lượng vũ trang và đại diện Nhà nước trong các hoạt động đối ngoại. Đây là cái ghế mà chỉ ai thực sự là một chính trị gia hàng đầu mới nên ngồi vào.

huyduc3

Nguyễn Phú Trọng và Trần Quốc Vượng đang chuẩn bị cái gì đây ? Ảnh : VOV

Trong khi đó, Thủ tướng chỉ nên là một nhà kỹ trị. Vai trò của Thủ tướng là thiết lập được một nền hành chính công chuyên nghiệp và đưa ra được các công cụ hành pháp kịp thời để phát triển kinh tế – xã hội. Không nên làm Thủ tướng mất thời gian vào các cuộc họp bàn chuyện bắt bớ hay các buổi tiếp tân hình thức.

Tuy nhiên, nếu các chính sách của ông và nội các kinh tế có dấu hiệu phục vụ cho lợi ích nhóm thì ông và các thành viên mà ông chọn có thể phải đối diện với các cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm hay thậm chí bị bắt bớ. Vì, cơ quan điều tra có một vị trí độc lập hơn với "nội các".

Tháng 9/1997, khi chuẩn bị rời nhiệm sở, ông Võ Văn Kiệt nói về người kế nhiệm, "Thủ tướng Phan Văn Khải là một nhà kinh tế hàng đầu của đất nước". Trong khi ông Phan Văn Khải thừa nhận, "Về bản lĩnh chính trị tôi không thể nào so sách với đồng chí Võ Văn Kiệt".

Cho dù bị trì hãm trong cái kiềng "Tam Nhân", ông Kiệt đã hành động như một nguyên thủ và ông Khải thực sự là người đứng đầu "nội các kinh tế". Ông Khải là một nhà kỹ trị. Chính phủ của ông rất khác với Chính phủ Võ Văn Kiệt và càng rất khác với Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Và, cho dù dưới thời một Tổng bí thư như Tướng Lê Khả Phiêu hay như Nông Đức Mạnh, ông Khải vẫn điều hành "nội các kinh tế" (phần mà ông có thực quyền) một cách mực thước và để lại các di sản rất là quan trọng.

Đừng sợ tập trung quyền lực vào một người. Nếu tôn trọng các nhánh quyền lực nhà nước theo thẩm quyền được ghi trong Hiến pháp thì không ai có thể lạm quyền dù họ là nguyên thủ. Nước cũng chỉ nên có một "vua". Ai cũng muốn đứng đầu. Ai cũng làm chính trị mà thiếu một người kỹ trị thì chính trường rất dễ thành đất "quần ngư tranh thực" ; thị trường chỉ là chợ đen ; hành chính rối ren và xã hội không thể nào ổn định.

Con đường để một quốc gia đi đến thịnh vượng còn rất dài. Nhưng với những gì vừa diễn ra chiều nay, nếu không phải để tập trung quyền lực mà nhằm mở ra một hướng đi thì thời gian không lúc nào là quá trễ để bàn một lộ trình đáng hy vọng hơn cho đất nước.

Huy Đức

Nguồn : FB Huy Đức, 30/09/2018

Published in Diễn đàn
mercredi, 08 août 2018 23:55

Quyền lực và Bộ công an

Nói "Cách Mạng" thì hơi đao to búa lớn vì lần cải tổ này vẫn mang nhiều tính cơ học hơn là dựa trên những nền tảng khoa học về quyền lực.

bca1

Quyền lực và Bộ Công an - Ảnh minh họa

Tuy nhiên, sáng nay, khi ngồi với các sĩ quan công an cao cấp nghỉ hưu, nghe nói về "ý nghĩa kinh tế" của những "thư mời, giấy triệu tập…" mới thấy việc bỏ bớt 6 tổng cục, 60 cục và 300 phòng, giảm được cho doanh nghiệp và các cơ quan đơn vị những cái gánh nặng thế nào.

Một sĩ quan D3 (Học viện An ninh) kể : Khi làm cuốn sách tưởng niệm cố bộ trưởng Bùi Thiện Ngộ, Thủ tướng Phan Văn Khải viết bài, nhắc chuyện Nhà nước từng đề nghị phong đại tướng cho ông Ba Ngộ nhưng ông từ chối vì cho rằng, "chỉ những người cầm quân trong chiến tranh mới xứng danh đại tướng". Ông Ba Ngộ và người kế nhiệm ông, ông Lê Minh Hương, chỉ nhận quân hàm thượng tướng.

Nhưng, những người chủ biên cuốn sách đã phải cắt câu nói này của Thủ tướng vì Bộ trưởng lúc đó của họ "chỉ nhận quân hàm đại tướng mà thôi" [Trong lịch sử Bộ Công an có hai đại tướng là dân "tay ngang", Mai Chí Thọ và Lê Hồng Anh].

"Ghế" trong ngành công an chủ yếu được "đóng" trong hai nhiệm kỳ vừa qua. Mầm mống của những vụ "đánh bạc nghìn tỷ" hay "Vũ Nhôm" đều được nuôi dưỡng từ hai nhiệm kỳ tướng tá "đông như quân Nguyên" đó.

Mạng xã hội vẫn nhầm lẫn là Vũ Nhôm điều khiển được các tướng. Vũ Nhôm là công cụ chứ không phải là kẻ chủ mưu. Tội danh chính xác nhất cho Vũ Nhôm phải là "người tiêu thụ tài sản do người khác ăn cắp của công (nhà, đất) mà có".

Đây không phải nhiệm kỳ đầu tiên có tướng tá công an bị tống giam, nhưng đây là nhiệm kỳ đầu tiên mà các tướng không phải bị tống giam vì xung đột nội bộ ngành. Khối u đã có từ trước và nay mới bị "phẫu thuật".

Sở dĩ các tướng có thể phạm tội trắng trợn như vậy là vì đã có thời, quyền lực của Bộ Công an là một thành trì. Chính trị gia thường ở trong tay các tướng chứ không phải các tướng đứng dưới các chính trị gia.

Dẹp bỏ các đầu mối, xử lý tội phạm trong ngành là cần thiết. Nhưng, cả bộ máy công an và chức năng của nó còn phải được tiếp tục kiện toàn. Một khi, vẫn có ngành nào đó, hay nhà lãnh đạo nào đó, nắm giữ quyền lực tuyệt đối, khi đó sự tha hoá của hệ thống vẫn có nguy cơ tuyệt đối.

Huy Đức

Nguồn : fb.osinhuyduc, 08/08/2018

Published in Diễn đàn

Trong lịch sử hơn 20 năm có internet (1997-2018) chưa bao giờ lợi ích quốc gia, dân tộc và tự do của người dân bị đe dọa lớn như những gì đang được chuẩn bị trong dự luật An ninh mạng.

kethu1

Ngoài Prineville ở bang Oregon, Facebook hiện có bốn trung tâm dữ liệu khổng lồ ở Hoa Kỳ, hai ở Châu Âu và hai ở Châu Á

Điều đáng lo ngại là, Chính phủ và các đại biểu quốc hội chưa nhận thấy nguy cơ tự cô lập mình với phần còn lại của thế giới ; nguy cơ đi ngược lại những nỗ lực của Chính phủ và chống lại sự tiến bộ của người dân, nếu thông qua dự luật.

Khi thương thảo lại để ký CPTPP thay thế TPP, Việt Nam đã đồng ý từ cấp tối cao, không buộc các công ty cung cấp dịch vụ internet đặt máy chủ, lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam. Dự luật này lách bằng cách đòi "lưu trữ tại Việt Nam các dữ liệu cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam" (Google, Facebook… vẫn đang có máy chủ đặt tại Việt Nam nhưng đó là lựa chọn của họ thay vì bắt buộc).

Có cách nào để không đặt máy chủ mà lưu trữ được dữ liệu tại Việt Nam ? Đòi hỏi này nếu Quốc hội bị qua mặt và thông qua sẽ trở thành vấn đề danh dự của một quốc gia trước những điều mình cam kết chứ không còn là những 'mẹo vặt' ở tầm 'trinh thám An Nam' nữa.

'Địa phương hóa dữ liệu' ?

Điều đáng nói là, khi buộc các nhà cung cấp dịch vụ internet như Facebook, Google… mở văn phòng đại diện hay để dữ liệu tại Việt Nam (địa phương hóa dữ liệu) theo cách mà dự thảo này thiết kế có rất ít ý nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia từ không gian mạng. Các quy phạm dường như chỉ nhắm tới mục đích cao nhất là gỡ những bài viết trên Blog hay trên Facebook. Các hậu quả mà quốc gia phải gánh chịu do những đòi hỏi này gây ra không hề được cân nhắc.

Theo tính toán của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Chính trị Châu Âu (ECIPE), 'địa phương hóa dữ liệu' - một biện pháp rất ít quốc gia áp dụng - sẽ khiến cho GDP của Việt Nam sụt giảm 1,7% ; đầu tư nước ngoài giảm 3,1% (so với việc không yêu cầu mở văn phòng hay đặt máy chủ tại Việt Nam như hiện nay).

Chính phủ và các nhà làm luật cần tránh rơi vào cái bẫy tư duy thiển cận rằng, chi phí thực thi chỉ do Google, Facebook hay Amazon… gánh chịu. Trong tình huống phải làm vậy, gánh nặng chi phí tăng thêm sẽ bị phân bổ đến toàn bộ các doanh nghiệp Việt Nam chứ không phải các doanh nghiệp trên gánh một mình. Các lập luận cho rằng, các doanh nghiệp nêu trên "kinh doanh nhưng không đóng thuế, không làm tăng GDP cho đất nước trong nhiều năm qua" - như tài liệu gửi cho các đại biểu là những lập luận thiển cận.

Càng nhiều người dân có thể tham gia mạng xã hội, trao đổi thông tin đầu tư, kinh doanh, tiếp cận với thương mại điện tử của các doanh nghiệp công nghệ, sẽ tạo ra ảnh hưởng lan toả, tác động tích cực đến kinh tế, đặc biệt là xuất nhập khẩu.

Theo một báo cáo mà cơ quan An ninh soạn thảo cung cấp cho các đại biểu quốc hội thì chính sách an ninh mạng của Trung Quốc, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ… đặc biệt là Trung Quốc, được tham khảo nhiều nhất trong dự luật này. Tuy nhiên, ngay cả những quốc gia thù địch nhất với internet đó cũng không trao cho cơ quan công an quá nhiều quyền như Dự luật mà Quốc hội Việt Nam đang thảo luận.

Dự luật định trao cho "lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và truyền thông" có quyền yêu cầu chặn 'share', xóa các thông tin mà 'lực lượng' này cho rằng là "tuyên tuyền chống nhà nước" và "yêu cầu các nhà mạng ngưng cung cấp dịch vụ viễn thông, internet cho người có các bài viết đó".

Chỉ có tòa án mới có quyền tuyên bố hành vi nào là "tuyên truyền chống nhà nước". Nếu Việt Nam có tính tới yêu cầu buộc gỡ các "fake news" (tin giả) trên mạng xã hội thì cũng chỉ nên tiến hành sau khi có phán quyết của Tòa. Nếu để cho các quan chức của Bộ Công an và Bộ Thông tin đưa ra các phán quyết đó thì trong thời gian vừa qua, những sai phạm ở Bộ Thông tin (trong vụ MobiFone-AVG), ở Bộ Công an (trong vụ Vũ Nhôm, vụ các tướng chủ mưu đánh bạc…) liệu nhân dân có cơ hội mà bàn đến.

Quyền tự do cá nhân bị đe dọa ?

Đặc biệt, dự luật không những không bảo đảm an ninh mà còn đe dọa quyền tự do cá nhân của người dân khi yêu cầu các công ty dịch vụ internet "cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản".

Người dân không chỉ có nhu cầu được bảo vệ khỏi các mối đe dọa từ các thế lực thù địch mà còn cần được bảo vệ khỏi các mối đe dọa từ sự lạm quyền của những người thi hành công vụ. Quyền tự do cá nhân, quyền riêng tư chỉ có thể bị can thiệp khi có trát của toà. Không có một đất nước có luật pháp nào, cảnh sát lại được trao cho quyền đó.

Nên nhớ là có không ít thông tin cá nhân, người dân đã tự nguyện cung cấp khi mua vé máy bay, đặt khách sạn… chứ không chỉ khi mở tài khoản trên mạng xã hội. Những thông tin này đều được lưu giữ ở nước cung cấp dịch vụ. Vấn đề là, chưa chắc người dân - ở những quốc gia như Việt Nam - lại bị đe dọa hơn khi những thông tin của mình được lưu giữ bằng các 'cơ quan chức năng' trong nước.

Hình ảnh ông chủ Facebook, Mark Zuckenburg, phải ra điều trần trước Quốc hội Mỹ đang được sử dụng sai lệch (trong một văn bản gửi đại biểu). Mark bị nghi để lộ 87 triệu tài khoản Facebook cho Cambridge Analytica sử dụng vào các mục tiêu chính trị và thương mại [cũng như cách mà Vinaphone, Viettel… cung cấp số điện thoại cho các đại lý bán đất nền, căn hộ và bảo hiểm…] chứ không phải như cách mà các nhà dự thảo luật đang âm mưu. Nếu Mark cũng học theo FPT cung cấp dữ liệu người dùng (một số bloggers) cho cơ quan an ninh thì không cần tới Quốc hội, Mark đã nhận ngay sự tẩy chay của người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới.

Nếu thực sự muốn bảo vệ dữ liệu, muốn tham khảo những kinh nghiệm tốt về bảo vệ người dùng, cơ quan soạn thảo không thể bỏ qua những yêu cầu bảo vệ người dùng như phải có sự đồng thuận khi thu thập dữ liệu (consent required for data collection), chấp nhận của người dùng khi chuyển, trao dữ liệu cho bên thứ ba (consent required fort transfer to third party) hay quyền được kiểm soát dữ liệu cá nhân (right to review)…. mà các nước Châu Âu hay Singapore đang áp dụng.

Tôi sẽ nói về những quy định trao rất nhiều quyền can thiệp của công an vào các công ty kinh doanh trên nền tảng internet, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp, trong một bài viết khác.

Phản ứng của Chính phủ ?

Rất lạ là chưa thấy Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có phản ứng gì. Hình như cơ quan tham mưu của ông hoàn toàn không nhận ra dự luật đang tạo ra các khoảng trống để giấy phép con, điều kiện kinh doanh, các loại thanh kiểm tra và nhũng nhiễu xuất hiện. Biết bao nỗ lực của Chính phủ từ đầu nhiệm kỳ chỉ cải thiện được rất ít môi trường kinh doanh. Trong khi, cách làm luật thế này đang khiến cho những cố gắng vừa qua của Thủ tướng đổ xuống sông, xuống biển.

Năm 1997, khi bắt đầu có internet, Chính phủ khi đó đã rất dè chừng khi - trong Nghị định 21 - chủ trương, "quản lý được tới đâu thì phát triển tới đó". Nhưng tới năm 2000, thì chính Bộ Chính trị đã phá vỡ nguyên tắc này, bằng cách đưa vào Chỉ thị 58, "nhu cầu phát triển internet tới đâu thì năng lực quản lý của các ngành phải theo kịp sự phát triển tới đó".

Bộ Chính trị hiện thời cũng không đòi các công ty dịch vụ internet phải đặt máy chủ trong nước, cơ quan soạn thảo đưa ra dự luật thế này là đã trái với ý chí của cơ quan lãnh đạo tối cao, Quốc hội cũng không nên 'bảo hoàng' hơn Bộ Chính trị.

Phải thừa nhận rằng, không phải là không có những tội phạm sử dụng internet để thực hiện các hành vi phạm tội. Nhưng, không ai đe dọa sự tồn vong của chế độ bằng chính những tên tham nhũng đang nắm quyền trong chế độ. Chưa chắc những 'Quan Làm Báo', 'Chân Dung Quyền Lực'… là do 'các thế lực thù địch' với chế độ vận hành.

Không chỉ mang lại biết bao tiện ích về kinh tế, internet đã giúp cho người dân thực hiện được những quyền tự do mà báo chí nhà nước không thể cung cấp. Tuy điều đó có làm cho bọn tham nhũng khó chịu nhưng đồng thời cũng mang lại cho chính quyền một gương mặt sáng sủa hơn.

Dự luật này không hề mang lại lợi ích gì cho nước cho dân, cả chính trị và kinh tế, mà chỉ giúp cho bọn tham nhũng đang bị truy đuổi hơn hai năm qua có khả năng 'lật cờ', trỗi dậy. Cho dù đã có nhiều cải cách, Việt Nam vẫn đang được thế giới xếp vào hàng các quốc gia có rất ít tự do. Đừng đi tiếp xuống đáy bằng việc thông qua dự luật này. Đừng để Việt Nam trở thành kẻ thù của những giá trị mà loài người đang coi là tiến bộ.

Huy Đức

Nguồn : BBC, 25/05/2018

Tác giả là một cây bút tự do ở Việt Nam.

Published in Diễn đàn

Đừng trách báo chí hai hôm nay không nói một lời về Thủ Thiêm. Họ đã đưa được những tiếng nói oan khiên lên mặt báo và giờ đây là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta đã có dữ liệu để "share" và lên tiếng.

nhieuloc0

Bà Trần Thị Mỹ, cử tri Quận 2 – Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh : Báo PLTP

"Tôi phải nói ! Anh biết không, tôi phải nói bởi tôi già sắp chết rồi" – nhiều bạn bị ám ảnh bởi câu nói này của cụ bà Trần Thị Mỹ, 77 tuổi.

Tất nhiên là tôi vẫn mong có những tổng biên tập trừng mắt với Tuyên giáo như cụ bà Trần Thị Mỹ đã làm và nói với họ rằng, "Chúng tôi phải nói ! Các anh biết không, vì chúng tôi im lặng mà hàng vạn người dân Thủ Thiêm đã phải tha phương trong khi rất có thể bọn tham nhũng đã chia chác nhau hàng ngàn tỷ. Các anh cứ nhìn tài sản nhà ông Hai Nhật, Tất Thành Cang… và cả một ông tưởng là thanh liêm như ông Ba Đua, mà xem."

Nhưng, đó không phải là một điều dễ dàng trong thể chế này. Thế hệ chúng tôi đã từng bảo vệ đất cho dân từ những năm cuối thập niên 1980s, đầu 1990s. Nhưng, chúng tôi cũng nhiều lần phải dở dang công việc.

Hôm nay, tôi nghe nói Thành ủy sẽ họp. Trước khi bàn về Thủ Thiêm, tôi muốn nhắc lại cho các vị một câu chuyện giải tỏa đền bù ở Dự án Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Trên con kênh nước đen này cũng có hàng vạn người dân sống đời tăm tối. Phần lớn họ tự dựng lều, sống trên mặt kênh thối um, có người đã sống ở đây từ cuối thập niên 1960s. Chẳng ai có mảnh giấy dắt cạp quần nào cả. Nhưng, không ai bị "giải tỏa trắng".

Thành phố đưa giải pháp cho các công ty kinh doanh và quản lý nhà các quận, nổi bật hồi đó là những giám đốc Quách Văn Hân, Lê Phụng Thiều… Cách bờ kênh không xa mọc lên rất nhiều chung cư từ Tân Bình tới quận Nhất. Mỗi hộ cắm lều trên con kênh nước đen, được "bồi thường" một khoản tiền đủ mua một căn hộ.

Chủ nhà mà tôi mua lại, năm 1996, được bồi thường 34 triệu, đủ mua một căn hộ gần 60m2 trong một chung cư mà "nếu hắt hơi cả Bình Thạnh, Phú Nhuận và quận Nhất (Đa Kao) cùng nghe thấy".

Khi tôi mới về đây, 2006, đi từ tầng trệt lên lầu II, tầm 10 giờ đêm, thể nào cũng gặp vài trường hợp vạ vật vì say rượu hay phê thuốc. Nhà thơ Đỗ Trung Quân mỗi lần sang chơi thường bắt gặp rất nhiều ánh mắt lườm nguýt. Các bạn ở đây rất ít đọc thơ, nhìn một cha râu ria, nặng 37kg, tưởng sang giành mối thuốc.

Thế mà tôi đã sống ở đây được 12 năm. Nhiều cư dân "gốc" đã chuyển đi. Có người bán nhà ra Hóc Môn, quận 12 ; nhiều người ở lại đã đổi đời. Những thay đổi đó là hợp lẽ. Tại sao Nhiêu Lộc bây giờ đã có "đò trăng", kênh đen đã có cá lội… mà những phúc lợi ấy lại không phải dành cho cả những cư dân từng ở đó.

Tất nhiên, cái gốc vẫn là chính sách, đặc biệt là chính sách chung về đất đai. Cũng trong thập niên 1990s, nhất là những năm đầu 1990-1993, các cư dân ở Nhà Bè đã bị thu hồi đất với giá rẻ mạt để làm Khu chế xuất Tân Thuận và khu đô thị Phú Mỹ Hưng.

Có thể những người từng đuổi dân ở Thủ Thiêm cũng nói, "Không có biện pháp mạnh làm sao có một khu đô thị đẹp như Phú Mỹ Hưng". Vấn đề là ai đang ở trong những khu nhà tiện nghi ở Phú Mỹ Hưng hay Thủ Thiêm…. Có ai biết người dân Nhà Bè bị lấy đất gần 30 năm trước bây giờ đi đâu. Phải chăng họ xứng đáng hy sinh để cho bọn vô lại giàu lên và chúng ta có thể tung tẩy dưới những vòm me ngây thơ, vô tội.

Huy Đức

Nguồn : fb.osinhuyduc, 13/05/2018

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 3