Từ đầu tháng 3/2021, lực lượng dân quân biển của Trung Quốc đã cho tàu tập trung gần tất cả các đảo tranh chấp do Philippines kiểm soát và tìm cách đe dọa các nước láng giềng ven biển, đặc biệt là Việt Nam, Philippines và Malaysia, để khẳng định yêu sách đối với các đảo trên Biển Đông. Theo thông tin từ Philippines, ước tính có hơn 200 tàu neo đậu tại Đá Ba Đầu mà Philippines khẳng định thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ. Philippines đã chính thức phản đối hành vi xâm phạm của các tàu Trung Quốc đối quyền chủ quyền cũng như quyền tài phán trên biển. Song song đó, Philippines đã triển khai các máy bay chiến đấu hạng nhẹ giám sát các tàu bất hợp pháp này.
Tàu cá Trung Quốc xếp hàng tại đá Ba Đầu (Trường Sa) hôm 27/3/2021 - Courtesy National Task Force on the West Philippine Sea
Vì Trung Quốc đã tôn tạo một số đảo nhân tạo và triển khai các thiết bị quân sự và vũ khí trên các đảo này nên việc các tàu dân quân biển Trung Quốc tập trung tại vùng biển này rõ ràng cho thấy hành vi quyết đoán của Trung Quốc cũng như đe dọa các đối thủ trong khu vực Biển Đông. Có vẻ như các tàu này hoàn toàn mới được triển khai chỉ để phục vụ chiến thuật của Trung Quốc và nhằm kiểm soát các đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Các tàu Trung Quốc neo đậu gần Cụm Sinh Tồn, vốn là ngư trường truyền thống của ngư dân Philippines. Nơi neo đậu của hơn 200 tàu Trung Quốc nằm gần 2 căn cứ của Trung Quốc và 4 đảo nhỏ hơn của Việt Nam. Một trong những vấn đề mà cộng đồng quốc tế thực sự quan tâm là việc Trung Quốc muốn mở rộng quyền kiểm soát đối với các đảo này. Sau khi kiểm soát Đá Vành Khăn vào năm 1995, Trung Quốc đang tìm kiếm các đảo khác thuộc quyền kiểm soát của các bên tranh chấp khác để mở rộng sự hiện diện trên thực tế của họ.
Nhìn từ việc Trung Quốc tôn tạo Đá Vành Khăn thành một trong những đảo nhân tạo lớn nhất (dù nước này thường nói đây là nơi trú ẩn cho ngư dân) và hiện giờ Đá Vành Khăn trở thành căn cứ quân sự chính thức, việc tàu của Trung Quốc đổ dồn về Đá Ba Đầu là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc muốn kiểm soát khu vực biển này và cả vùng không phận trên đó. Trong bối cảnh phán quyết của tòa trọng tài thường trực về Biển Đông sắp tròn 5 năm, Trung Quốc đang phủ nhận phán quyết này và đòi hỏi yêu sách đối với tất cả các vùng biển và các vùng trời trên đó. Trung Quốc luôn sử dụng "chiến thuật vùng xám" với lực lượng dân quân biển Trung Quốc, được Hải cảnh yểm trợ, tiến hành kiểm soát các vùng biển. Ngoài ra, có thể thấy rằng các kiểu chiến thuật mà Trung Quốc đang áp dụng là đe doạ, ngăn cản các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở các khu vực như Bể Nam Côn Sơn, Bãi Cỏ Rong, Đá Ba Đầu và các khu vực lân cận nằm ngoài vùng biển kiểm soát của Trung Quốc nhưng nằm trong vùng biển của các nước có yêu sách khác, bao gồm Việt Nam, Philippines và Malaysia.
Ảnh vệ tinh chụp tàu Trung Quốc đang nạo vét và xây lấp đảo nhân tạo ở đá Vành Khăn vào năm 2015. AFP
Các nước ASEAN, dưới sự chủ trì của Chủ tịch luân phiên Brunei, phải nhận thức rõ điều đó và cần triệu tập ngay cuộc họp các ngoại trưởng ASEAN để ưu tiên giải quyết các vấn đề này. Ngoài ra, cộng đồng quốc tế phải gây sức ép với Trung Quốc để tháo gỡ cuộc khủng hoảng và thực hiện các cam kết để sớm hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử (COC) vẫn đang trong giai đoạn đàm phán. Đại sứ quán Mỹ tại Manila và Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa ra nhiều tuyên bố ủng hộ Philippines. Bộ Ngoại giao Mỹ đã yêu cầu Trung Quốc rút lực lượng dân quân biển và tăng cường hỗ trợ cho Philippines. Trên thực tế, nếu các chiến thuật của Trung Quốc không được ngăn chặn thì điều đó cũng có thể mở đường cho Trung Quốc áp dụng các chiến thuật tương tự để đe dọa các nước có yêu sách khác ở Biển Đông mà trọng tâm chính là Việt Nam. Các nước như Australia, Anh, Canada và Nhật Bản đã bày tỏ sự ủng hộ đối với Philippines và tuyên bố rằng đội tàu của Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền và các vùng biển của Philippines.
Trong khi cộng đồng quốc tế im lặng đối với vấn đề can thiệp quân sự, quân đội Philippines đã tiến hành bay giám sát hàng trăm tàu Trung Quốc. Động thái này có nguy cơ làm leo thang thành một cuộc khủng hoảng lớn. Những tuyên bố của Tổng thống Philippines Duterte và Bộ trưởng Quốc phòng Delfin Lorenzana về việc triển khai lực lượng hải quân Philippines và thực hiện diễn tập quân sự có thể leo thang thành một cuộc khủng hoảng trên biển. Trong bối cảnh đó, điều quan trọng là ASEAN phải ngay lập tức đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ về các chiến thuật mà Trung Quốc áp dụng, đồng thời tuyên bố này cũng phải được các đối tác đối thoại ASEAN cũng như các nước trong nhóm "Bộ tứ" ủng hộ.
Trung Quốc đã học được một hoặc hai bài học từ sự bế tắc biên giới với Ấn Độ ở miền Đông Ladakh. Trung Quốc đã đối đầu với quân đội Ấn Độ và cuối cùng phải rút lui để giải quyết cuộc khủng hoảng. Trung Quốc đang áp dụng các chiến thuật tương tự trên Biển Đông. Do đó, cộng đồng quốc tế và các nước ASEAN cần có các biện pháp đối phó để tình hình không leo thang thành khủng hoảng. Điều cần thiết là Đại hội đồng Liên hợp quốc và Hội đồng Bảo an phải ghi nhận những diễn biến này và yêu cầu Trung Quốc tránh thái độ đối đầu kiểu đó. Trung Quốc biết rất rõ rằng Brunei, với tư cách Chủ tịch ASEAN sẽ không chỉ trích trực tiếp Trung Quốc, nhưng rõ ràng nước này sẽ phải nêu vấn đề ở cấp khu vực. Cộng đồng quốc tế cũng phải đưa hải quân đến để đảm bảo rằng Trung Quốc chấm dứt các động thái này và quay trở lại duy trì nguyên trạng.
Ngô Bang Quốc
Nguồn : RFA, 02/04/2021
Ông Nguyễn Phú Trọng thừa nhận Việt Nam đã không lên tiếng về các sự cố ở Biển Đông vì tế nhị
RFA, 24/03/2021
Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng mới đây lên tiếng thừa nhận trong nhiệm kỳ Chủ tịch nước của ông vừa qua, Việt Nam đã có lúc không thể công khai những sự cố xảy ra ở Biển Đông vì vấn đề tế nhị.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Chủ tịch nước trước Quốc hội hôm 24/3/2021 - TTXVN
Truyền thông Nhà nước Việt Nam trích lời ông Trọng đọc báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Chủ tịch nước từ 2016 đến 2021 trước Quốc hội hôm 24/3, cho biết :
"Có những việc không thể nói công khai nhưng có những thời điểm, có những sự cố xảy ra ở Biển Đông xử lý thế nào, phía tây của chúng ta thế nào, phía tây nam thế nào, quan hệ với nước bạn thế nào. Có những cái xử lý phải nói rất thật với các bạn, các đồng chí là hết sức tế nhị, hết sức khôn khéo nhưng cả hệ thống chúng ta làm rất tốt"
Trong phần nói về nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho hay, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng - An ninh, Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch nước đã tham gia chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện nhiều đề án, chiến lược quan trọng liên quan tới lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
Ông Trọng cũng nói, dù Việt Nam không công bố, nhưng Hà Nội đã xây dựng một loạt chiến lược quốc phòng, an ninh bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Nói trước Quốc hội, ông Trọng không nói cụ thể các chiến lược quốc phòng an ninh này là gì mà chỉ cho biết ông đang chỉ đạo xây dựng một số chiến lược có liên quan trực tiếp đến quốc gia, cực kỳ quan trọng. Ông nói :
"Trong bất cứ tình hình nào, chúng ta không được để bất ngờ về quốc phòng an ninh ở tất cả các hướng, cả phía đông, phía tây nam, phía bắc ; với các nước ở xa, ở gần, nước lớn, nước nhỏ"
Việt Nam hiện vẫn còn những tranh chấp với Campuchia ở biên giới Tây Nam và với Trung Quốc ở khu vực Biển Đông.
Từ khi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận chức Chủ tịch nước vào tháng 10 năm 2018 sau cái chết đột ngột của Chủ tịch Trần Đại Quang, Trung Quốc đã liên tục có các hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Các hoạt động này của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam.
Trong suốt thời gian Trung Quốc gây hấn, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gần như không lên tiếng công khai phản đối các hành động này mà chỉ có Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng.
So với hồi năm 2014 khi Trung Quốc đặt giàn khoan HD 981 vào khu vực quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp với Việt Nam, lần này, Hà Nội không lên tiếng công khai nhiều trên báo chí về các hoạt động cụ thể của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính của Việt Nam.
Philippines trước đe dọa xâm lấn lãnh thổ từ Trung Quốc
Lê Thư, RFA, 23/03/2021
Mới đây, Philippines đã lên tiếng chỉ trích hành động mang tính "gây hấn" của Trung Quốc sau khi Bắc Kinh điều hơn 200 tàu thuyền đến Biển Đông. Manila đồng thời yêu cầu Bắc Kinh rút đội tàu này ra khỏi vùng biển tranh chấp.
Các tàu của lực lượng dân quân biển Trung Quốc đã được đưa ra khỏi rạn san hô Julian Felipe dựa trên thông tin từ cuộc tuần tra hàng hải do Bộ Tư lệnh vùng Biển Tây Philippines hôm thứ Hai (22/3/2021) – Rạn san hô Julian Felipe là một rạn san hô nông lớn hình boomerang ở phía đông bắc của các bãi biển và rạn san hô Pagkakaisa (Union Reefs), nằm cách Bataraza, Palawan khoảng 175 hải lý về phía tây. (Ảnh : AFP).
Cụ thể, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Lorenzana đã yêu cầu hơn 200 tàu thuyền của Trung Quốc mà ông khẳng định là thuộc lực lượng dân quân biển của Trung Quốc phải rời khỏi rạn san hô có tên là Đá Ba Đầu (Manila gọi là Julian Felipe) thuộc quần đảo Trường Sa. Trong một tuyên bố, ông Lorenzana khẳng định : "Chúng tôi kêu gọi phía Trung Quốc ngừng hành động xâm phạm này và nhanh chóng rút tàu thuyền đang vi phạm quyền lãnh hải của chúng tôi và xâm phạm chủ quyền lãnh hải của chúng tôi". Người đứng đầu ngành quốc phòng Philippines cũng tuyên bố Manila sẽ kiên định bảo vệ quyền chủ quyền của mình. Sau đó, trên mạng xã hội Twitter, Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin cho biết Manila đã gửi công hàm ngoại giao phản đối sự hiện diện của các tàu thuyền Trung Quốc nói trên. Ông Locsin cũng viết trên Twitter : "Ngoại giao là một quả đấm thép của lực lượng vũ trang (Philippines)".
Hình vệ tinh chụp đá Ba Đầu ở quần đảo Trường Sa cho thấy tàu cá Trung Quốc tập trung tại đây vào tháng 3/2021 - Hình của Chính phủ Philippines
Lực lượng đặc nhiệm quốc gia Biển Tây Philippines, một cơ quan thuộc chính quyền Manila chịu trách nhiệm giám sát rạn san hô nói trên, cho biết họ phát hiện lực lượng tàu thuyền của Trung Quốc neo đậu thành hàng tại rạn san hô này hôm 7/3/2021. Trong một thông báo, lực lượng đặc nhiệm cho biết : "Bất chấp thời tiết thuận lợi vào thời điểm đó, tàu thuyền Trung Quốc tập trung ở rạn san hô đó không tiến hành bất kỳ hoạt động đánh cá thực sự nào và bật toàn bộ hệ thống đèn trắng suốt đêm". Thông báo cũng cho rằng sự hiện diện của lực lượng tàu thuyền này là "một mối quan ngại vì hoạt động đánh bắt cá quá mức và hủy hoại môi trường biển, cũng như có thể gây ra những rủi ro đối với hoạt động đi lại an toàn trên biển". Lực lượng đặc nhiệm thề sẽ tiếp tục thực hiện các sáng kiến một cách chủ động và mang tính ôn hòa "để bảo vệ môi trường, an ninh lượng thực và tự do hàng hải" ở Biển Đông.
Hình ảnh chụp những tàu dân quân biển của Trung Quốc ở đá Ba Đầu hôm 7/3/2021. Photo : Lực lượng Phản ứng nhanh của Chính phủ Philippines
Rạn san hô có tên là Đá Ba Đầu nói trên thuộc Bãi ngầm Union, nằm cách tỉnh Palawan, phía Tây Philippines, khoảng 175 hải lý (324km) về phía Tây. Theo quan điểm của Manila, rạn san hô này, vốn thuộc quần đảo Trường Sa (Việt Nam cũng khẳng định chủ quyền ở đây), nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. TQ thường sử dụng các tầu đánh cá như các tầu quân sự trong hoạt động lấn chiếm biển đảo tại quần đảo Trường Sa.
Trong một tuyên bố chính thức được đưa ra hôm 22/3, Đại sứ quán Trung Quốc tại Manila cho biết họ đã ghi nhận những tuyên bố của Philippines về vấn đề này, nhưng cho rằng việc triển khai 220 tàu gần Bãi Ba đầu là một "hoạt động bình thường" của tàu cá Trung Quốc.
Đây là hành động đe dọa mới nhất của Trung Quốc đối với Philippines. Mặc dù, kể từ khi lên nắm quyền, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã theo đuổi chính sách "làm thân" với Bắc Kinh. Ông Duterte đã không phản đối các hành động hung hăng của Trung Quốc, cũng không yêu cầu Bắc Kinh tuân thủ phán quyết của tòa trọng tài năm 2016. Thay vào đó, ông Duterte đã cậy nhờ Bắc Kinh hỗ trợ các khoản đầu tư và tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng của Manila. Hiện Bắc Kinh đã tặng và cam kết cung cấp thêm vaccine Covid-19 cho Manila. Ngoài ra, Duterte còn cố gắng thúc đẩy khai thác chung với Trung Quốc tại khu vực Biển Đông.
Liệu sự kiện Scarborough năm 2012 có tái diễn ?
Năm 2012 đã xảy ra sự kiện Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật "cải bắp" để giành quyền kiểm soát trên thực tế Bãi cạn Scarborough từ tay của quân đội Philippines. Chiến thuật "cải bắp" được một viên tướng Trung Quốc "khoe khoang", đó là sử dụng nhiều lớp tàu khác nhau, trong đó bao gồm : đầu tiên cho tầu cá xâm nhập (Thực chất là các tàu dân quân biển giả dạng tàu cá), vòng thứ 2 là các tàu Hải giám, Ngư chính tuần tra, giám sát, hộ tống, vòng thứ 3 là các tàu hải quân Trung Quốc. Bằng cách này, các tàu của Philippines vốn ít về số lượng và không đủ uy lực nên sẽ không thể vượt qua các lớp tàu này để tiếp cận Scarborough. Và như vậy, trên thực tế, quyền kiểm soát Bãi cạn này đã chuyển sang các tàu của Trung Quốc. Thậm chí, tướng Trương Triệu Trung của Trung Quốc còn khẳng định chiến lược này có thể được áp dụng ở các nơi khác mà không cần phải sử đụng đến chiến tranh, và chỉ cần "thời điểm thích hợp để áp dụng" mà thôi.
Hình vệ tinh chụp bãi cạn Scarborough Shoal. Photo : AMTI
Ông Trương nói thêm : "Đối với những hòn đảo nhỏ, chỉ có vài binh lính của các nước đóng quân trên đó, không có thức ăn, thậm chí là nước uống. Nếu chúng ta thực hiện chiến lược cải bắp, họ sẽ không thể gửi được thực phẩm và nước uống lên các đảo. Nếu không được cung cấp thực phẩm trong một đến hai tuần, các binh sỹ sẽ tự rời khỏi đảo. Một khi rời đi, họ sẽ không bao giờ có thể trở lại".
Với số lượng tàu cá đột biến kéo đến bao vây Đá Ba Đầu đông như vậy, rất có khả năng Trung Quốc sẽ áp dụng chiến thuật "Bắp cải" để giành quyền kiểm soát thực tế khu vực này.
Nguy cơ đối với Việt Nam
Việt Nam cũng là quốc gia tuyên bố chủ quyền với toàn bộ quần đảo Trường Sa, trong đó có Đá Ba Đầu. Việc Trung Quốc triển khai số lượng tàu dân quân biển (viết tắt tiếng Anh là PAFMM) giả dạng tàu cá như vậy tại khu vực này tạo ra đe dọa đối với các lợi ích của Việt Nam ở đây.
Các tàu dân quân biển Trung Quốc như vậy sẽ sẵn sàng được kêu gọi tham gia vào bất kỳ hoạt động nào do Trung Quốc tiến hành, sử dụng các vị trí chiến lược để nhanh chóng tiếp cận bất kỳ ngóc ngách nào của Biển Đông. Trong lịch sử, PAFMM đã đóng vai trò quan trọng trong nhiều hoạt động hàng hải, từ giám sát đến can thiệp các tàu Hải quân Hoa Kỳ qua lại cho đến các cuộc đụng độ bạo lực với phía Việt Nam. Việc đóng quân của các tàu này trên quần đảo Trường Sa phục vụ cho việc triển khai các lực lượng phụ trợ hoặc lực lượng dự bị có thể được thực hiện để khẳng định hoặc thực thi sự kiểm soát của Trung Quốc ở Biển Đông. Số lượng lớn các tàu PAFMM có thể dễ dàng cản trở hoặc ngăn chặn các tàu hải quân của các quốc gia khác trước khi chúng đạt được các mục tiêu tại các khu vực hoạt động.
Nếu Đá Ba Đầu bị mất vào tay Trung Quốc, và Trung Quốc có thể bồi lấp và quân sự hoá đá này, thì đây sẽ là một sự leo thang đáng kể và đáng lo ngại cho các quốc gia tranh chấp trên Biển Đông, đặc biệt là Việt Nam. Bởi vì Bãi ngầm Union nằm ngay khu vực trung tâm của tam giác chiến lược được hình thành bởi các căn cứ không quân và hải quân của Trung Quốc trên Đá Chữ Thập, Subi và Đá Vành Khăn. Ngoài ra, các căn cứ quân sự trên Gạc Ma, đá Gaven và đá Kennan mà Trung Quốc đang kiểm soát cũng đã vận hành các phương tiện giám sát tầm xa và chứa các thiết bị liên lạc.
Việc Trung Quốc củng cố quyền kiểm soát Đá Ba Đầu có thể làm suy yếu khả năng kiểm soát của Việt Nam đối với khu vực này. Hiện tại, Việt Nam đang kiểm soát 3 thực thể ở đây, đó là Đảo Sinh Tồn, Cô lin và Len đao. Cả ba thực thể này đều có thể bị đe dọa trực tiếp bởi sự gia tăng hiện diện và hoạt động của Trung Quốc tại Bãi Union. Việc bố trí một lực lượng PAFMM lớn tại đây là một mối đe dọa lớn đối với Việt Nam, đặc biệt khi xét đến việc Trung Quốc trước đây đã đe dọa tấn công Việt Nam bằng vũ lực khi yêu cầu chấm dứt các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam tại các lô 136.3 và 07.3.
Cho đến nay, mặc dù phía Philippines đã lên tiếng mạnh mẽ, thế nhưng vẫn chưa thấy phản ứng từ phía Việt Nam. Thậm chí ngay cả Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng chưa thấy lên tiếng, cho dù thường sự lên tiếng của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam thường rất chung chung và không ám chỉ rõ ràng điều gì.
Lê Thư
Nguồn : RFA, 23/03/2021
Mục tiêu số 1 của Trung Quốc là biến Biển Đông thành ao nhà mình, đẩy người Mỹ ra bên ngoài. Rất có thể những sự cố trên biển sẽ thường xuyên diễn ra. Hải quân Hoa Kỳ luôn chiếm thượng phong, Bắc Kinh đang dần thu ngắn khoảng cách, nhưng dù đầu tư rất nhiều vào các tàu sân bay, quân Trung Quốc không có được những kinh nghiệm nhiều thập niên như quân đội Mỹ.
Libération ghi nhận"Tập Cận Bình đặt Trung Quốc vào tư thế chiến đấu". Trong kỳ họp Quốc hội, chủ tịch Trung Quốc vừa tự ca ngợi thành tích chống Covid và xóa đói giảm nghèo, vừa nhấn mạnh đến "răn đe chiến lược" và sáng tạo về quân sự, như để thách thức Washington và "phương Tây đang suy tàn".
Tập Cận Bình đòi hỏi quân đội phải "sẵn sàng trong mọi lúc để đáp trả nhiều tình huống phức tạp và khó khăn". Chủ tịch Quân ủy Trung ương nhấn mạnh đến "răn đe chiến lược ở cấp cao" và tăng cường sáng tạo công nghệ trong lãnh vực quân sự, hiện đại hóa để quân đội Trung Quốc được xếp trong những hàng đầu trên thế giới từ nay đến 2050. Ngân sách quốc phòng được tăng 6,8% trong năm 2021, đạt 260 tỉ đô la ; cộng vào đó là những chi tiêu cho nghiên cứu tăng 7% mỗi năm trong kế hoạch 5 năm.
Những xung đột với láng giềng của Trung Quốc là không thể đếm xuể, từ cao nguyên Himalaya cho đến Biển Đông, Đài Loan, tuy nhiên Mỹ vẫn bị coi là "mối đe dọa lớn nhất cho sự phát triển và an ninh của Trung Quốc". Nhà Trắng xác nhận đang thảo luận về đối thoại cấp cao ở Alaska, một địa điểm trung lập đối với Trung Quốc, nhưng tuần này lý thuyết thống trị là "sự trỗi dậy của phương Đông và một phương Tây đang suy tàn".
Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc loan báo đã chấm dứt tình trạng cực nghèo, mà theo ông là một "phép lạ", tuy Trung Quốc định nghĩa người nghèo là có thu nhập dưới 2,3 đô la/ngày, trong khi Ngân hàng Thế giới quy định ngưỡng 5,5 đô la/ngày đối với các nước trung bình. Với "thành công" này, ông Tập đang xây dựng quyền lực cá nhân tương đương với Mao, chuẩn bị một nhiệm kỳ thứ ba và có thể trọn đời.
Trả lời phỏng vấn của Libération, chuyên gia Thomas Gomart, giám đốc Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), điểm qua những mục tiêu quân sự của Trung Quốc với nhận định "Bắc Kinh thường xuyên trắc nghiệm ý định của Mỹ".
Theo ông Gomart, với ngân sách quân sự thứ nhì thế giới, chiến lược của Trung Quốc không chỉ nhằm tiến lên ngang hàng với Hoa Kỳ như Liên Xô thời trước, mà vượt qua trong một số lãnh vực, trước hết là hải quân.
Mục tiêu số 1 là biến Biển Đông thành ao nhà của Trung Quốc và đẩy người Mỹ ra ngoài. Mục tiêu số 2 là lệ thuộc càng ít càng tốt đối với các eo biển quan trọng, đặc biệt là Malacca. Để đạt được, Bắc Kinh tăng cường sự hiện diện ngoài khơi xa và tại những điểm chiến lược có thể trở thành căn cứ quân sự như ở Djibouti. Đầu tư thứ ba là vào chiến tranh mạng, và người ta cũng đặt câu hỏi về kho vũ khí nguyên tử của Trung Quốc. Như vậy quan niệm Trung Quốc về xung đột không đơn thuần là quân sự, mà kết hợp với dân sự, trên internet, v.v…
Hồi năm 1995, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan đã chứng tỏ sự ưu việt của Mỹ, nhưng tương quan lực lượng nay đang dần nghiêng về phía Trung Quốc. Bắc Kinh hiện có hai hàng không mẫu hạm tại Biển Đông, nơi những đảo san hô bị quân sự hóa khiến việc triển khai quân của Mỹ trở nên phức tạp hơn. Từ nhiều năm qua, Trung Quốc luôn cố áp đặt ý tưởng sự hiện diện của Hải quân phương Tây trên Biển Đông là một sự bất bình thường.
Rất có thể những sự cố trên biển sẽ thường xuyên diễn ra, vì Bắc Kinh cố tình không muốn đây là vùng biển bình thường đối với Hải quân các nước khác. Hoa Kỳ luôn chiếm thế thượng phong về Hải quân. Bắc Kinh đang dần thu ngắn khoảng cách, nhưng dù đầu tư rất nhiều vào các tàu sân bay, quân Trung Quốc không có được những kinh nghiệm như quân đội Mỹ với nhiều thập niên tham gia những chiến dịch phức tạp.
Trả lời câu hỏi Trung Quốc đã thành công khi đàn áp Hồng Kông mà quốc tế chỉ phản đối một cách chừng mực, liệu sẽ dấn lên xâm lược một đất nước dân chủ và độc lập là Đài Loan hay không, chuyên gia Thomas Gormart nhận xét, Bắc Kinh thường xuyên tìm cách thử phản ứng của Mỹ. Đài Loan là "lằn ranh đỏ" với Trung Quốc, một vấn đề sống còn mà Bắc Kinh sẵn sàng chiến đấu, nhưng không có cùng tầm quan trọng đối với Washington.
Gần đây các quan chức Trung Quốc thường nhắc đến "chiếc bẫy Thucydides", nhằm nói rằng Hoa Kỳ là phía tấn công nếu Mỹ đến giúp Đài Loan, nơi nhiều người Hồng Kông đang tị nạn. Tập Cận Bình nhiều lần bày tỏ ý định giải quyết trường hợp Đài Loan, phải chăng kỷ niệm 100 thành lập Đảng cộng sản sẽ là thời điểm ? Đó sẽ là một chiến lược kiên nhẫn hay cú sốc ? Điều chưa thể biết là Mỹ sẽ đáp trả như thế nào.
Hàn Quốc luôn là đồng minh quan trọng của Mỹ, Nhật Bản đang xây dựng một Hải quân có năng lực chiến đấu thực chất. Philipppines thì đang xích lại gần Trung Quốc, còn những nước như Singapore muốn đứng ngoài. Trong lúc Bắc Kinh chẳng có bạn bè nào, Hoa Kỳ có hẳn một hệ thống đồng minh và có khả năng lay chuyển.
Chẳng hạn mới đây Mỹ muốn đưa vấn đề Trung Quốc vào chương trình nghị sự của NATO. Trên lý thuyết, Minh ước Bắc Đại Tây Dương không liên quan đến Bắc Kinh, nhưng sự hiện diện ngày càng lớn của Trung Quốc tại Châu Âu và Địa Trung Hải, dù không trực tiếp về quân sự, khiến NATO không thể không chú ý. Với nghĩa này, Châu Âu cũng trực tiếp liên quan đến những gì diễn ra trên Biển Đông.
Cũng về Trung Quốc, Le Mondeđề cập đến "Luân Đôn-Bắc Kinh, từ kỷ nguyên vàng đến nguội lạnh". Sau khi Trung Quốc bóp nghẹt tự do của Hồng Kông, chính phủ của ông Boris Johnson đã có thái độ cứng rắn hơn, trong khi phe bảo thủ của ông trước đây cố gắng xích gần lại với Bắc Kinh.
Tờ báo nhắc lại thời điểm 22/10/2015, khi màn đêm vừa buông xuống, David Cameron cùng với Tập Cận Bình cùng đối ẩm ở Plough, một quán rượu ở làng Cadsden, gần nhà nghỉ vùng quê của thủ tướng Anh. Chủ tịch Trung Quốc trong chuyến công du bốn ngày được đón tiếp như thượng khách. Anh quốc là nước G7 đầu tiên tham gia Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (AIIB), tập đoàn Trung Quốc CGN cam kết tài trợ cho dự án nhà máy điện nguyên tử Hinkley Point, và các trường đại học Anh mở rộng cửa cho hàng mấy chục ngàn sinh viên từ Hoa lục.
Sáu năm sau, Downing Street từ bỏ hẳn "kỷ nguyên vàng", đổi lấy mối quan hệ thuộc loại căng thẳng nhất trong số các quốc gia dân chủ Châu Âu với Bắc Kinh. Luân Đôn hôm 09/03 tuyên bố theo dõi chặt chẽ kết luận của Quốc hội Trung Quốc về việc sửa đổi thể thức bầu cử ở Hồng Kông. Dù rất nghiêm ngặt về nhập cư, chính quyền Johnson vào giữa năm 2020 tỏ ra hào hiệp với hàng trăm ngàn công dân Hồng Kông và đến cuối năm đã cấm sử dụng vật liệu của Hoa Vi (Huawei) trong mạng lưới 5G. Đến đầu năm nay quan hệ đôi bên lại càng tệ hại hơn : ngoại trưởng Dominic Raab hứa sẽ trừng phạt các công ty Anh liên quan đến lao động cưỡng bức ở Tân Cương, và cấm kênh truyền hình nhà nước Trung Quốc CGTN hoạt động. Gần đây nhất đại sứ Anh Caroline Wilson đăng bài bênh vực công việc của các nhà báo ngoại quốc tại Anh, kể cả khi họ chỉ trích Bắc Kinh.
Làm thế nào giải thích sự đảo ngược này ? Sophia Gaston, giám đốc British Foreign Policy Group nhận định, quan điểm của chính phủ Cameron vào 2014-2015 khá lỗi thời, lúc đó Úc và Hoa Kỳ đã bắt đầu xem xét lại mối quan hệ, do Bắc Kinh ngày càng hiếu chiến trên ở Ấn Độ-Thái Bình Dương và gia tăng giám sát người dân. Bà Theresa May, bộ trưởng Nội vụ thời đó, đã đặt vấn đề về đầu tư Trung Quốc vào nhà máy điện nguyên tử.
Bàn tay sắt của Bắc Kinh với Hồng Kông đã khiến Boris Johnson phải cứng rắn. Người Anh vẫn rất gắn bó với cựu thuộc địa này, và họ cảm thấy có trách nhiệm với vùng đất trao trả cho Trung Quốc năm 1997. Quan sát những thành công tương đối trong 20 năm, rồi chứng kiến sự đàn áp mà không làm gì được, nên Luân Đôn đã mở rộng cửa cho người Hồng Kông tị nạn. Ngoại trừ vụ cấm BBC mới đây, cho đến nay, Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ sử dụng võ mồm. Liệu Anh sẽ còn đi đến đâu với đối tác thương mại đứng hàng thứ ba ?
Đối với đa số chuyên gia, quan hệ Anh-Trung khó thể ổn định. Luân Đôn tìm kiếm một sự thăng bằng, nhưng việc này rất khó, vì Bắc Kinh tuyên bố rõ là sẽ thẳng tay trả đũa mọi xung đột ngoại giao. Anh quá nhỏ để Bắc Kinh vị nể, nhưng đủ lớn để gây rắc rối cho các quan chức Trung Quốc. Nhà Trung Quốc học Kerry Brown cho rằng chiến lược của Bắc Kinh không phải là trừng phạt mà là không đầu tư ở mức Luân Đôn mong muốn.
Về sự kiện ồn ào liên quan đến Hoàng gia Anh mới đây, Le Figarophân tích "Harry và Meghan, một thương hiệu trị giá 1 tỉ đô la". Tuy cặp vợ chồng không nhận đồng nào, số tiền từ 7 đến 9 triệu đô la của đài CBS được trả cho nhà báo nổi tiếng Oprah Winfrey, nhưng đây là cơ hội bằng vàng để quảng bá cho Archewell, công ty do họ thành lập năm 2020 tại Bervely Hills và hy vọng nhanh chóng biến nó thành cỗ máy in tiền.
Có trên 17 triệu khán giả Mỹ theo dõi cuộc phỏng vấn – bằng số khán giả của giải Emmy và Quả Cầu Vàng cộng lại. Tại Anh, chương trình thu hút 11 triệu người hiếu kỳ, và ở Pháp là 1,5 triệu. Chương trình được bán cho 70 lãnh thổ để phổ biến trên thế giới. Người phỏng vấn Winfrey là bạn bè từng dự đám cưới của Harry và Meghan, và nay là hàng xóm ở khu nhà sang trọng Montecito gần Santa Barbara ở California. Riêng "home sweet home" này của vợ chồng hoàng tử đã có giá 14,5 triệu đô la, rộng 1.300 mét vuông với hồ bơi, vườn hồng, gian phòng chứa áo lông, 15 phòng tắm…
Họ bắt đầu xây dựng đế quốc truyền thông với cơ quan Harry Walker, vốn là đại diện của những tên tuổi như Obama, Bill Clinton hay Oprah Winfrey. Harry và Meghan còn ký hợp đồng trên 100 triệu đô la với Netflix. Bắt chước chiến lược quảng bá của Obama, nhưng thù lao tham dự hội nghị của họ tối thiểu là 1 triệu đô la so với cựu tổng thống Mỹ "chỉ" 400.000 đô la, và Netflix chỉ trả cho Obama "có" 50 triệu đô. Theo Le Figaro, sở dĩ cao giá là vì câu chuyện "thần tiên" của họ thu hút, và khán giả thường xúc động trước các "nạn nhân", vai mà Meghan muốn đóng.
Nhân kỷ niệm 10 năm tai nạn nguyên tử Fukushima, các báo ra hôm nay 11/03/2021 đều dành nhiều bài vở cho chủ đề này. Trang bìa của Libération đăng hình khu vực thảm họa, chạy tựa "Mười năm sau Fukushima, nguyên tử buồn thảm", Les Echosdành trang nhất cho ngôi làng cũ kỹ nước Nhật với tựa lớn "Fukushima, thời gian ngưng đọng", cònLe Figaronhận xét "Mười năm sau Fukushima, điện nguyên tử vẫn không thể thiếu được".
Có nên xóa hẳn các nhà máy điện hạt nhân trên bản đồ thế giới ? Phe sinh thái chỉ mơ có thế, kể từ sau thảm họa Fukushima. Sự kiện xảy ra do sóng thần chứ không phải do lỗi của nhà máy điện Nhật, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc chiến giữa chống và ủng hộ điện nguyên tử. Đức nhanh chóng muốn từ bỏ nguồn năng lượng này, tại Pháp tổng thống François Hollande hứa đóng cửa nhà máy Fessenheim để làm hài lòng đảng Xanh đã ủng hộ ông khi tranh cử.
Ám ảnh mang tính lý tưởng này không địch lại với thực tiễn. Năng lượng nguyên tử mà các tiêu chí an toàn đã được nâng cao chưa từng thấy, hầu như không thải khí CO2 ; còn Đức - chuyển sang dùng than đá và khí đốt - đang nằm trong số các nước gây ô nhiễm nhất Châu Âu. Pháp đang có ưu thế độc lập năng lượng nhờ sở hữu nhiều nhà máy điện nguyên tử, khi tự ý giảm đi sức mạnh của mình, thì lợi ích quốc gia ở đâu ? Năng lượng tái tạo thì khó thể sản xuất và dự trữ đủ cho nhu cầu. Tờ báo cánh hữu đặt câu hỏi, phải chăng tình trạng như Texas – vừa rồi hết sức lao đao vì cúp điện, hay California – phải trả hóa đơn tiền điện cao ngất, là mô hình muốn áp dụng cho dân Pháp ?
Thụy My
Trung Quốc tập trận đổ bộ chiếm đảo ở quần đảo Hoàng Sa
RFA, 06/03/2021
Trung Quốc công bố đoạn phim ghi lại cuộc tập trận đổ bộ chiếm đảo của quân đội nước này, vài ngày sau các hoạt động của Mỹ ở khu vực và cuộc tập trận của Hải cảnh Đài Loan, mô phỏng một cuộc tấn công của Hoa lục vào các bãi đá ngầm của họ.
Đoạn phim từ đài CCTV về cuộc tập trận đổ bộ chiếm đảo cho thấy một số tàu đổ bộ đệm khí Type 726 "Ngựa hoang" đang rời tàu đổ bộ Type 071 và lao vào một bãi biển - Ảnh Naval News
Tờ Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc hôm 3/3 cho hay, cuộc tập trận ở vùng biển cách xa Hoa lục nhưng không cho biết rõ địa điểm, tuy nhiên tờ South China Morning Post của Hồng Kông ngày 4/3 lại cho hay địa điểm diễn ra cuộc tập trận là đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974.
Cuộc tập trận chung của Trung Quốc có hải quân, lục quân, thủy quân lục chiến và không quân cùng tham gia.
Đoạn phim từ đài CCTV cho thấy một số tàu đổ bộ đệm khí Type 726 "Ngựa hoang" đang rời tàu đổ bộ Type 071 và lao vào một bãi biển, mỗi tàu có một xe tăng chiến đấu chủ lực Type 96A và thủy quân lục chiến được vũ trang đầy đủ trên tàu.
Một tàu khu trục tên lửa dẫn đường Type 052D, một tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường Type 054A và một tàu hỗ trợ bảo vệ bờ biển, trong khi một máy bay chiến đấu Su/30MKK và một máy bay ném bom H-6K canh gác trên không.
Trong kịch bản cho cuộc tập trận tấn công, hải quân Trung Quốc đổ bộ từ tàu và trực thăng, sau đó vấp phải hỏa lực phản công mạnh trước khi đội xe tăng của lục quân cho xe tiến lên và phá hủy các công sự của đối phương.
Đoạn phim được phát sóng sau khi có tin quân đội Trung Quốc bắt đầu cuộc tập trận quân sự kéo dài một tháng ở Biển Đông vào hôm 1/3, cùng lúc Hoa Kỳ tăng cường các hoạt động do thám.
Theo tổ chức Sáng kiến Thăm dò tình hình chiến lược ở Biển Đông (SCSPI) thuộc đại học Bắc Kinh, Hoa Kỳ đã điều các máy bay bao gồm một trinh sát cơ không người lái MQ-4C, một trinh sát cơ EP/3E, một trinh sát cơ chiến lược RC-135U đến Biển Đông vào 3 ngày cuối tháng 2.
Tàu trinh sát tàu ngầm USNS Impeccable của Mỹ ngày 26/2 di chuyển xung quanh quần đảo Hoàng Sa, cũng theo SCSPI.
Việt Nam và Đài Loan đồng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa mà chính Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm từ tay của Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc hải chiến ngày 19/1/1974.
Các tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành các hoạt động "tự do hàng hải" trong khu vực, gần đây nhất là vào tháng trước.
Bộ Ngoại giao Việt Nam cho đến nay chưa lên tiếng đối với động thái mới nhất của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Nguồn : RFA, 06/03/2021
********************
Trung Quốc độc chiếm Biển Đông
RFA, 03/03/2021
Trung Quốc trong các năm gần đây liên tục điều các tàu chấp pháp, dân quân biển vào các vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng bao gồm Việt Nam, quẫy nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của các quốc gia này.
Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông – Tranh biếm họa Paresh
Vào tháng 7/2019, Việt Nam đã yêu cầu công ty Repsol của Tây Ban Nha ngừng khoan thăm dò dầu khí tại lô 136-03 ngoài khơi phía đông nam của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc
Vào tháng 3/2018, công ty PetroVietnam yêu cầu công ty Repsol của Tây Ban Nha ngưng dự án khai thác dầu ở lô 07/03 thuộc mỏ Cá Rồng Đỏ, ngoài khơi Vũng Tàu của Việt Nam do sức ép từ Bắc Kinh.
Trong năm 2019 và 2020, Trung Quốc cũng liên tục điều tàu hải cảnh và tàu khảo sát vào vùng biển của Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực Bãi Tư Chính, ngăn cản việc khai thác dầu của công ty liên doanh giữa Việt Nam và công Rosneft của Nga ở lô 06-1.
Vào giữa năm 2020, Việt Nam đã phải huỷ bỏ hợp đồng thuê giàn khoan Noble Clyde Boudreaux dự kiến sẽ hoạt động ở lô 06-1 do sức ép từ Trung Quốc.
Ngày 1/2, Luật Cảnh sát biển của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là Luật Hải cảnh mới) chính thức có hiệu lực, trong đó quy định thẩm quyền cho phép sử dụng vũ khí đối với lực lượng Hải cảnh Trung Quốc.
Điều này thu hút sự chú ý của giới truyền thông thế giới.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đón Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chiều 12/1/2019.
Nội dung cụ thể quy định trong Điều 22 Luật Hải cảnh mới viết : "Khi chủ quyền quốc gia, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc bị các cá nhân và tổ chức nước ngoài xâm phạm phi pháp hoặc khi đối diện với mối nguy cấp bách bị xâm phạm phi pháp, theo luật này và các luật liên quan khác, lực lượng Hải cảnh có quyền áp dụng tất cả biện pháp cần thiết, bao gồm cả sử dụng vũ khí, để chặn đứng hành vi xâm phạm và loại trừ mối nguy".
Như vậy, tàu tuần tra của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc có thể sử dụng vũ khí nhằm vào các tàu nước ngoài (tàu ngầm của Mỹ hoặc tàu tuần tra của của Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản).
Điều này dẫn đến lo ngại về khả năng phát sinh xung đột vũ trang trên biển.
Việc lực lượng Hải cảnh Trung Quốc có thể sử dụng vũ khí tại "vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc" có thể xem là tương ứng với tiêu chuẩn sử dụng vũ khí của thế giới.
Tuy nhiên, các điều khoản liên quan của Luật này lại không xác định rõ đâu là khu vực thuộc "quyền tài phán của Trung Quốc", đây chính là sự vi phạm luật pháp quốc tế.
Dựa trên các tuyên bố của Trung Quốc thì ta có thể thấy rằng Bắc Kinh tuyên bố quyền tài phán đối với 3 triệu km vuông không gian biển, thường được gọi là "lãnh thổ quốc gia xanh" của Trung Quốc.
Khu vực này bao gồm Vịnh Bột Hải ; một phần lớn của Hoàng Hải ; Biển Hoa Đông đến tận vùng biển phía Đông của Vùng lõm Okinawa, bao gồm các vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp với Nhật Bản ; và tất cả các vùng nước trong "Đường 9 đoạn" ở Biển Đông.
Theo tính toán riêng của Bắc Kinh, "hơn một nửa" không gian này đang bị các nước khác tranh chấp.
Dựa trên các điều khoản của luật Hải cảnh mới của Trung Quốc, chúng ta sẽ dự đoán được điều gì ?
Ở Biển Đông, bất kỳ tàu đánh cá, khảo sát hoặc nghiên cứu nào của nước ngoài bị phát hiện hoạt động ở bất kỳ đâu trong "Đường 9 đoạn", cảnh sát biển Trung Quốc sẽ được phép lên tàu và kiểm tra (Điều 18). Nếu từ chối tuân thủ, nhân viên vũ trang sẽ lên tàu để buộc họ phải làm vậy (Điều 47).
Cảnh sát biển Trung Quốc sẽ cử các đơn vị tháo dỡ các công trình trên mọi địa hình đất do Việt Nam, Philippines và Malaysia đang kiểm soát ở Quần đảo Trường Sa (Điều 20).
Ở Biển Hoa Đông, lực lượng cảnh sát biển sẽ đi đến quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và "trục xuất" mọi tàu Nhật Bản mà họ bắt gặp (Điều 17).
Ở Hoàng Hải, Biển Hoa Đông và Biển Đông, lực lượng cảnh sát biển sẽ truy đuổi các tàu do thám của Hải quân Mỹ như USNS Impeccable và các tàu khảo sát thủy văn như USNS Bowditch vì tiến hành các hoạt động "bất hợp pháp" trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc (Điều 21) .
Trung Quốc hứa hẹn với Philippines
Nhiều quốc gia đã tỏ ý lo ngại trước động thái này của Trung Quốc. Ngoại trưởng Philippines đã từng tuyên bố "đây là hành động đe doạ chiến tranh" của Bắc Kinh. Thế nhưng, Đại sứ Philippines tại Trung Quốc Jose Santiago L. Sta. Romana mới đây cho biết phía Trung Quốc khẳng định rằng, luật Hải cảnh mới sẽ không áp dụng với Philippines.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte tại Trung Quốc, ngày 29/8/2019.
Liệu có thể tin được những lời hứa như vậy của Trung Quốc ?
Nhiều chuyên gia trên thế giới đã tỏ ý nghi ngờ về những lời hứa hẹn của Trung Quốc đối với thế giới.
Khi Trung Quốc bắt đầu 3 ngày tập trận ở vịnh Bắc Bộ trên Biển Đông hồi tháng 1/2021, một số nhà quan sát dự đoán rằng Bắc Kinh đang "thử" phản ứng của chính quyền Biden.
Cùng với hoạt động tập trận, Bắc Kinh đưa ra những lời lẽ cứng rắn, ví dụ như tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Uông Văn Bân rằng "tập trận là biện pháp cần thiết để kiên quyết bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia".
Ngay cả trong bối cảnh đó, quan điểm chính thức của Trung Quốc vẫn là "cam kết thực hiện giải pháp hòa bình" trong vấn đề Biển Đông.
Những lời lẽ mà Trung Quốc sử dụng ở những thời điểm khác nhau tạo ra một sự tương phản đáng chú ý.
Ví dụ, tháng 7/2020, Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định "Trung Quốc không tìm cách trở thành cường quốc biển" và nước này "đối xử bình đẳng với các nước láng giềng và thực hiện kiềm chế tối đa".
Vậy nên hiểu những thông điệp hỗn độn này của Bắc Kinh như thế nào ? Hầu hết các chuyên gia về Trung Quốc cho rằng những phát ngôn đó thể hiện ý định của Trung Quốc, hoặc ít nhất là mong muốn của nước này. Tuy nhiên, tuyên bố nào thể hiện đúng quan điểm của Trung Quốc ?
Các chuyên gia cần đánh giá nội dung và tính đặc thù trong các tuyên bố của Trung Quốc, bên cạnh lập trường của "tác giả" tuyên bố đó hoặc người phát ngôn có liên quan.
Các bài phát biểu của giới chức Trung Quốc về Biển Đông có thể được chia thành "những bài mang tính hợp tác" và "những bài mang tính cạnh tranh" trên Biển Đông. Chủ điểm hợp tác có 2 danh mục : "hợp tác" và "giải pháp chính trị".
Chủ điểm cạnh tranh có 5 danh mục : chủ quyền, quân sự, tự do, căng thẳng và các nước ngoài khu vực/Mỹ.
Xem xét tất cả các bài phát biểu công khai của các ủy viên Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc từ khóa 2013 đến 2018 có thể thấy đặc điểm rõ nét trong thời kỳ này là : Trong các tuyên bố công khai về Biển Đông, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sử dụng nhiều diễn ngôn mang tính hợp tác nhiều hơn so với diễn ngôn cạnh tranh.
Đây có thể là tín hiệu tích cực cho ổn định khu vực khi Bắc Kinh có vẻ mong muốn sẵn sàng thỏa hiệp với các bên tranh chấp khác.
Tuy nhiên, một trong những nguyên tắc diễn giải ý từ phát ngôn là không phải tất cả các tuyên bố của lãnh đạo đều có trọng lượng như nhau vì cần phải xem xét quyền lực cá nhân, trách nhiệm giải trình và uy tín về tính trung thực.
Điều này có nghĩa là những tuyên bố của Tập Cận Bình (được xem là có "nhiều quyền lực hơn và có thẩm quyền cá nhân hơn bất kỳ nhà lãnh đạo nào thời hậu Mao") sẽ đứng hàng đầu.
Tin xấu là trong số những tuyên bố mang tính cạnh tranh, các tuyên bố của Tập Cận Bình chiếm 42,7% dù ông chỉ là một trong 39 nhà lãnh đạo trong giai đoạn này.
Có nhiều lý do không nên xem xét các tuyên bố mang tính hợp tác của Tập Cận Bình bởi ông có tiếng là thiếu trung thực.
Tháng 9/2015, phát biểu tại Nhà Trắng, Tập Cận Bình hứa sẽ không "quân sự hóa" các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã và đang xây dựng ở Biển Đông.
Tập Cận Bình tuyên bố : "Các hoạt động xây dựng liên quan mà Trung Quốc đang thực hiện không nhằm mục tiêu hoặc tác động đến bất kỳ nước nào và Trung Quốc cũng không có ý định theo đuổi quân sự hóa".
Dù ngôn từ ở thời điểm đó được coi là "mới", nhưng cam kết vẫn chưa rõ ràng. Sau đó, Tập Cận Bình không hứa sẽ ngừng nạo vét, tôn tạo đảo hoặc các hoạt động trong khu vực và cũng không nói rõ "quân sự hóa" nghĩa là gì.
Tháng 5/2019, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ khi đó là Joseph Dunford cho rằng Trung Quốc "rõ ràng… phớt lờ cam kết đó", minh chứng là "đường băng dài khoảng 3.000 km, cơ sở lưu trữ đạn dược, triển khai thường xuyên các khả năng phòng thủ tên lửa, năng lực hàng không…" trên các đảo.
Sự thật là, Trung Quốc đã quân sự hóa các đảo này để thiết lập quyền kiểm soát các đảo và vùng biển xung quanh.
Ngay cả đối với Philippines, năm 2016 khi Duterte sang thăm Trung Quốc, Tập Cận Bình hứa sẽ đầu tư và cho Philippines vay 24 tỉ USD. Tuy nhiên, thực tế thì số tiền đầu tư và cho Philippines vay rất ít ỏi so với lời hứa ban đầu.
Còn đối với Việt Nam thì sao ?
Trung Quốc cũng luôn đưa ra các lời hứa rất tốt đẹp với Việt Nam. Và thực tế, nhiều lần Việt Nam "nếm trái đắng" từ các lời hứa của lãnh đạo Trung Quốc.
Tàu cá Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm
Năm 2011, khi mới đắc cử Tổng bí thư, ông Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến sang thăm Trung Quốc và hai bên đã ký kết "Thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết tranh chấp trên biển". Hai bên còn thiết lập đường dây nóng để giải quyết các bất đồng trên biển.
Thế nhưng, năm 2014, khi Trung Quốc hạ đặt trái phép một giàn khoan khổng lồ vào ngay vùng EEZ của Việt Nam, các nỗ lực tiếp xúc ngoại giao của Việt Nam để giải quyết vấn đề này đều không thành công, đường dây nóng để giải quyết tranh chấp trên biển giữa hai bên bị "ngoài vùng phủ sóng", còn Thoả thuận về nguyên tắc cơ bản để giải quyết các tranh chấp trên biển chỉ coi như "tờ giấy lộn".
Mới đây, trong một bài viết đăng trên báo Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba viết rằng : "Trong thời gian tới, hai nước cần phát huy truyền thống hữu nghị tốt đẹp, tăng cường đoàn kết và hợp tác hơn nữa.
Việc không ngừng làm sâu sắc hơn quan hệ hữu nghị Trung Quốc – Việt Nam phù hợp với lợi ích căn bản của hai nước và nhân dân hai nước.
Hai bên cần tăng cường hợp tác cùng có lợi, đoàn kết phát triển, kiên trì theo đuổi chủ nghĩa đa phương và thương mại tự do, đẩy nhanh hợp tác kết nối giữa sáng kiến "Vành đai và Con đường" với chiến lược "Hai hành lang, một vành đai", thúc đẩy hợp tác thiết thực giai đoạn hậu Covid-19 và trên các lĩnh vực khác như : nông nghiệp công nghệ cao, thương mại điện tử, y tế công cộng….
Hai nước cần kiên trì đối thoại hiệp thương, duy trì ổn định khu vực.
Hòa bình, ổn định là tiền đề cho sự phát triển thịnh vượng. Là hai nước láng giềng, khó tránh khỏi những lúc bất đồng, hai bên cần nghiêm túc thực hiện nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo hai Đảng, hai nước, giải quyết ổn thỏa bất đồng thông qua hiệp thương hữu nghị để duy trì đại cục phát triển và hợp tác hai nước".
Thiết nghĩ, liệu có ai tin vào những lời lẽ của kẻ mà thế giới gọi là "sói đội lốt cừu" này được không ?
Hoàng Trung (tổng hợp)
Nguồn : Thoibao.de, 28/02/2021
Các cuộc tập trận của Trung Quốc ở Biển Đông vào tháng trước, và phản ứng mạnh mẽ của Mỹ, cho thấy những vùng biển tranh chấp này sẽ không sớm lắng dịu. Nếu các cuộc diễn tập quân sự là chủ yếu thì việc tranh chấp về các vị trí pháp lý cũng đang nông dần lên. Năm ngoái, cả Mỹ và Úc đều chọc giận Trung Quốc khi chính thức tuyên bố những yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông là bất hợp pháp. Các đối tượng tranh chấp khác đều hài lòng với sự thay đổi trong chính sách này, nhưng không ai công khai lên tiếng.
Tàu cá Trung Quốc (màu trắng phía xa) cập bến trước khi mạo hiểm vào Biển Đông (Artyom Ivanov / TASS qua
Tuy nhiên, vấn đề không phải là Trung Quốc đang ngang nhiên vi phạm luật pháp quốc tế - mà là họ cùng lúc tạo ra một vỏ bọc hợp pháp cho lập trường của mình.
Sự khôn ngoan thường tình là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với " hầu hết các hòn đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận của chúng ". Các tuyên bố của họ "cực đoan" và bao quát hơn so với tuyên bố của bất kỳ đối thủ nào khác. Năm 2009, Dai Bingguo, khi đó là quan chức hàng đầu của Trung Quốc, lần đầu tiên gọi Biển Đông là "lợi ích cốt lõi", một thuật ngữ thường được sử dụng cho Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Mặc dù Trung Quốc không nói cụ thể về mức độ yêu sách của mình, nhưng họ sử dụng "đường chín đoạn", "vạch xuống, đi qua Việt Nam và Philippines, rồi hướng về Indonesia, bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông", để phân định các yêu sách của mình.
Thoạt nhìn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ như đang dựa vào một lập luận lịch sử để củng cố các tuyên bố của họ - Trung Quốc đề cập đến sự giao tiếp của họ với Biển Đông từ thời Tây Hán. Do đó, câu chuyện về các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh bắt đầu từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, khi người Trung Quốc đi thuyền trên Biển Đông và khám phá ra một số đặc điểm trên đất liền trong khu vực.
Phô trương lực lượng : Sàn bay trên hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt cùng Nhóm tàu tấn công chiến lược hàng không mẫu hạm Nimitz (chấm nhỏ phía xa) của Hải quân Hoa Kỳ trên Biển Đông ngày 9/2/2021 (Ảnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ / Flickr)
Các nhà nghiên cứu đã liệt kê tỉ mỉ tính chất đáng ngờ của lịch sử này. Ngoài ra, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) không cho các bên ký kết quyền đưa ra yêu sách dựa trên di sản lịch sử, và khái niệm "yêu sách lịch sử" thiếu cơ sở rõ ràng trong luật pháp quốc tế.
Nhưng thực ra, đây không phải là cách Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với 90% Biển Đông. Việc Trung Quốc lạm dụng và áp dụng sai luật pháp quốc tế phức tạp hơn một chút. Có bốn cấp độ được xây dựng dựa vào nhau.
Thứ nhất, Trung Quốc tuyên bố họ có các quyền tương tự các quốc gia quần đảo, những quốc gia này chủ yếu được tạo thành từ các hòn đảo. Một trong những lợi thế của quy chế quần đảo là vùng nước giữa các đảo được coi là nội thủy, giống như các con sông bên trong một quốc gia. Các quốc gia khác không có quyền quá cảnh các vùng biển này nếu không được phép. Quy chế quần đảo được Liên Hiệp Quốc thông qua và chỉ có 22 quốc gia tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc không phải là một trong số những quốc gia đó.
Trung Quốc không thể phủ nhận mình là một quốc gia lục địa. Tuy vậy, họ vẫn vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh quần đảo Hoàng Sa và tuyên bố vùng biển giữa các hòn đảo là nội thủy. Bắc Kinh không công khai điều này đối với khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng phản ứng của họ trước các hoạt động của các nước khác cho thấy đó là cách diễn giải của họ. Các cuộc thảo luận của tôi với các chiến lược gia Trung Quốc cho thấy Trung Quốc có thể sẽ vạch rõ các đường cơ sở để tuyên bố chủ quyền vùng nội thủy giữa quần đảo Trường Sa, một khi họ có đủ khả năng quân sự để thực hiện. (Đây không phải là việc dễ dàng, vì vùng biển của Trường Sa có diện tích gấp 12 lần Hoàng Sa, bao gồm 160.000 đến 180.000 km vuông nước).
Sau đó, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đường cơ sở Hoàng Sa, không phải từ các đảo riêng lẻ, và ở Trường Sa, từ nhiều địa điểm mà theo luật pháp quốc tế không được hưởng quyền này, chẳng hạn như các đảo nhân tạo. Ngoài ra, cách giải thích của Trung Quốc về lãnh hải là nhà nước có độc quyền đưa ra, áp dụng và thực thi luật pháp của mình trong không gian đó và nước ngoài không thể can thiệp.
Nhưng theo UNCLOS, tất cả các tàu, dân sự hay quân sự, có quyền thoải mái đi qua lãnh hải của các quốc gia khác. Hơn nữa, vùng tiếp giáp được coi là một phần của vùng biển quốc tế, và các quốc gia không có quyền giới hạn hàng hải hay tiến hành kiểm soát vì mục đích an ninh.
Cuối cùng, Trung Quốc tuyên bố 200 hải lý tính từ cuối lãnh hải là vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, nơi họ có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự.
Bản đồ hiển thị vị trí các căn cứ của Trung Quốc ở Hải Nam và cơ sở hạ tầng các bãi đá chiếm bất hợp pháp ở Biển Đông.
Mỹ khẳng định rằng, tự do hàng hải của các tàu quân sự là một thông lệ được thiết lập và chấp nhận trên toàn cầu, được quy định trong luật pháp quốc tế. Nói khác, các quốc gia không có quyền hạn chế hàng hải hoặc thực hiện bất kỳ sự kiểm soát nào vì mục đích an ninh trong các vùng đặc quyền kinh tế.
Úc chia sẻ quan điểm này, nhưng không phải tất cả các nước đều chấp nhận cách hiểu này. Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Malaysia, Maldives, Oman và Việt Nam đồng ý với Trung Quốc rằng, tàu chiến không có quyền tự động vô tư đi lại trong lãnh hải của họ. 20 quốc gia đang phát triển khác (gồm cả Brazil, Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam) nhấn mạnh rằng, các hoạt động quân sự của một quốc gia, như giám sát và do thám, trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác là vi phạm lợi ích an ninh của các quốc gia ven biển, và do đó không được bảo vệ theo quyền tự do hàng hải.
Nói cách khác, trong khi luật pháp quốc tế có thể ủng hộ quan điểm của Hoa Kỳ và Úc về hành vi pháp lý trong các vùng đặc quyền kinh tế, các nước cần phải nỗ lực hơn nữa để củng cố rộng hơn quy phạm này.
Chỉ tính riêng 3 vị trí nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền khoảng 80% Biển Đông. Sau đó, Trung Quốc sử dụng đường chín đoạn để nuốt trọn phần lãnh thổ còn lại bằng cách tuyên bố "vùng nước lịch sử"một lần nữa - tức là Trung Quốc đã kiểm soát môi trường biển này trong lịch sử -, một quan điểm vốn không có cơ sở trong luật pháp quốc tế.
Theo Trung Quốc
- Vùng nước giữa các đảo và các đối tượng địa lý được coi là vùng nội thủy ; việc quá cảnh thương mại phải có sự cho phép của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (đã tuyên bố rõ ràng về Hoàng Sa).
- Lãnh hải 12 hải lý tính từ chu vi ngoài của các nhóm đảo ; đảo nhân tạo và hầu hết các đối tượng địa lý đều có lãnh hải.
- Có thể điều chỉnh hoạt động quân sự trong EEZ.
- Yêu sách các quyền đối với "vùng nước lịch sử" trong đường chín đoạn ; Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vẫn chưa làm rõ đầy đủ vị trí.
Theo luật pháp quốc tế
- Chỉ rất ít quốc đảo được coi là quần đảo và có quyền coi các đảo như một nhóm ; không áp dụng cho các đảo SCS (South China Sea islands) đang tranh chấp.
- Lãnh hải được đo từ từng đối tượng địa lý đã được công nhận hợp pháp ; hầu hết các tính năng mà Cộng hòa nhân dân Trung Hoa yêu sách không đáp ứng tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế.
- Chỉ có thể điều chỉnh hoạt động kinh tế ở đó.
- "Vùng nước lịch sử" có ý nghĩa là không rõ ràng, không có cơ sở pháp lý, không có quyền.
Mỹ đã thực hiện các bước để thách thức cơ sở pháp lý sai lầm trong các tuyên bố của Trung Quốc. Đây là mục đích chính đằng sau các hoạt động tự do hàng hải hay còn gọi là FONOPS. Thông qua hành động, Mỹ cho thấy họ không chấp nhận quan điểm của Trung Quốc khi quốc gia này tuyên bố các khu vực không phải là vùng biển quốc tế mà là vùng nội thủy hoặc lãnh hải. Trong các trường hợp khác, Mỹ đưa ra tín hiệu không chấp nhận một khu vực nằm trong EEZ của Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc không có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự ở đó.
Nhưng việc chống phá các tuyên bố pháp lý sai lầm của Trung Quốc đòi hỏi nhiều hơn các hoạt động quân sự và những tuyên bố gay gắt. Năm 2016, Tòa án La Haye đã phán quyết rằng, yêu sách về các quyền lịch sử ở Biển Đông của Trung Quốc thiếu cơ sở pháp lý, các hành động của Trung Quốc trong khu vực vi phạm quyền của Philippines và các đối tượng ở Trường Sa không được hưởng các đặc quyền kinh tế hoặc vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, việc Washington liên tục từ chối phê chuẩn UNCLOS khiến hiệu quả chung trong việc đẩy lùi Bắc Kinh bằng công cụ pháp lý của chính phủ bị suy yếu. Ngoài ra, Washington đã lãng phí cơ hội giúp Philippines thực thi phán quyết năm 2016 của Tòa án Quốc tế theo hướng có lợi cho mình, khiến việc thách thức Bắc Kinh trên cơ sở pháp lý đối với các nguyên đơn khác càng kém sức hấp dẫn.
Mỹ không nên phạm sai lầm tương tự hai lần. Họ nên hỗ trợ các nguyên đơn có thể đang muốn khởi kiện Trung Quốc (Việt Nam hiện đang xem xét việc này). Sau đó, khi tòa án đưa ra phán quyết mới chống lại Trung Quốc, Mỹ nên dẫn đầu trách nhiệm thực thi phán quyết.
Trung Quốc đang sử dụng tất cả các công cụ của chính phủ để giành quyền kiểm soát tuyến đường thủy chiến lược quan trọng này. Mỹ và các đồng minh cũng nên làm như vậy.
Oriana Skylar Mastro
Nguyên tác : How China is bending the rules in the South China Sea, The Interpreter, 17/02/2021
Hoàng Thủy Ngữ chuyển ngữ
(19/02/2021)
Tác giả Johannes L. Kurz đã có bài phân tích "Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và cách biến thành lãnh thổ Trung Quốc một cách lịch sử vào năm 1975", được đăng trên ấn phẩm Tập 3 có tiêu đề "Quan điểm Xuyên văn hóa về Trung Quốc Hiện đại" do Barbara Mittler và Natascha Gentz biên soạn, của Tạp chí "Trung Quốc và Thế giới – Thế giới và Trung Quốc".
Bài viết phân tích và phản biện các quan điểm nêu trong một những tài liệu sớm nhất của Trung Quốc khẳng định quan điểm chính thức về chủ quyền của họ đối với quần đảo ở Biển Đông do tác giả "Shi Dizu" xuất bản năm 1975 là những bằng chứng lịch sử không đáng thuyết phục và không thể sử dụng được trong việc bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển này. Nghiencuubiendong xin đăng tải lược dịch bài viết của Johannes L. Kurz
Đảo Itu Aba (Ba Bình) thuộc quyền quản lý của Đài Loan - Ảnh minh họa
"Biển Nam Trung Hoa và cách biến thành lãnh thổ Trung Quốc một cách lịch sử vào năm 1975
Giới thiệu
Sau khi Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát quần đảo Tây Sa (hay theo cách gọi của Việt Nam là Hoàng Sa) vào tháng 1 năm 1974, ngay lập tức vào tháng 3 và tháng 4 cùng năm, Bảo tàng Quảng Đông và Cục Văn Hóa Đặc khu hành chính Hải Nam đã cho các nhà nghiên cứu đến khảo sát khu vực này. Họ đã tìm thấy một số bằng chứng cổ vật như đồng xu, đồ gốm sứ Trung Quốc, và nhật ký hải trình của ngư dân Hải Nam ; và dựa vào đó cho rằng "Quần đảo Hoàng Sa từ xa xưa đã là lãnh thổ linh thiêng của Trung Quốc".
Sau các cuộc khảo sát đó, trên báo chí của Hồng Kông cũng đã xuất hiện ba bài viết khẳng định lại các yêu sách lịch sử của Trung Quốc. Hai bài viết đầu muốn khẳng định sự chiếm hữu liên tục của Trung Quốc tại các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa sẽ biến các quần đảo này thành lãnh thổ của Trung Quốc. Bài thứ ba tập trung vào lịch sử thế kỷ 19-20 để lập luận rằng quần đảo Hoàng Sa từ lâu đã thuộc về Trung Quốc. Sự kiện Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa có thể chính là động lực cho các tác giả viết những bài đó.
Biển Đông trong các tài liệu cận đại : Bài viết của "Shi Dizu" năm 1975
Vào năm 1956, Shao Xunzheng (Thiệu Tuần Chính), nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Lịch sử số 3 của Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc, đã giải thích trên tờ Nhân dân nhật báo rằng các thiết chế trên biển xuất hiện trong các tài liệu cận đại của Trung Quốc chính là các nhóm đảo ở biển Biển Đông. Qua điều tra các tài liệu lịch sử, Shao đã cho thấy Trung Quốc đã biết về quần đảo Hoàng Sa kể từ năm 1292 đến thời hiện đại. Quần đảo Hoàng Sa đã được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau qua các thời kỳ.
Gần 20 năm sau, vào năm 1975, bài viết của "Shi Dizu" (là bút danh của 1 nhóm thành viên thuộc Nhóm nghiên cứu Địa lý Lịch sử nằm trong Viện Địa lý Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc) đã cung cấp bằng chứng "mang tính lịch sử hơn" về quyền lực của Trung Quốc ở biển Biển Đông, nhằm bác bỏ phản đối của chính quyền miền Nam Việt Nam về hiện diện của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa. Bài viết lập luận đanh thép rằng Trung Quốc từ trước đến nay vẫn luôn có thẩm quyền không thể chối cãi được đối với các khu vực yêu sách của mình. Số lượng khu vực yêu sách và tài liệu được sử dụng cũng nhiều hơn trước. Về nguyên do, vào năm 1975, Trung Quốc tự tin rằng sự chiếm đóng thực tế của mình không thể bị thách thức bằng quân sự. Hơn nữa, việc sử dụng yêu sách lịch sử đồng nghĩa với việc các quốc gia Đông Nam Á không thể thách thức được Trung Quốc, vì bản thân các quốc gia này cũng không có đủ bằng chứng. Các bộ quy tắc chung về biển (như UNCLOS 1982) lúc này vẫn chưa được hình thành.
Những tài liệu "Shi Dizu" sử dụng đều nhằm ủng hộ phỏng đoán rằng Trung Quốc đã biết về các đảo ở biển Biển Đông hơn một nghìn năm, và được các học giả Trung Quốc trích dẫn lại thường xuyên. Tuy nhiên "Shi Dizu" nhìn chung chỉ tổng hợp việc đặt tên sớm các đảo và các hành động khai phá, chăn nuôi qua các thời kỳ, chứ không đưa ra bằng chứng. Đôi lúc cũng có tài liệu lịch sử được trích lại, nhưng không ghi rõ nguồn ở đâu. Ngay cả những thiết chế quan trọng trong yêu sách của Trung Quốc ở biển Biển Đông cũng theo nguyên tắc "đã được đặt tên rồi thì coi như là của mình". Những nguồn mà "Shi Dizu" tham khảo bao gồm các bản ghi chép chính thức và không chính thức, bản đồ, ghi chép, và cả báo chí.
Trung Quốc khẳng định quan điểm chính thức về chủ quyền của họ đối với quần đảo ở Biển Đông - Dân quân biển từ đảo Hải Nam ra quân tràn xuống Biển Đông - Ảnh minh họa
Nguồn tài liệu mà "Shi Dizu" dựa vào để củng cố yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông
Để minh chứng cho việc chính quyền Trung Quốc trước đây có quản lý hành chính đối với các đảo ở Biển Đông, cuốn "Shi Dizu" dựa vào nhiều nguồn tài liệu từ Trung Hoa cổ nhằm củng cố cho ba lập luận chính bao gồm : (i) "Phát hiện địa lý từ lâu trong lịch sử" ("Geographical discovery with a long history") ; (ii) "Sự phát triển liên tục" (Continuous diligent development) ; và (iii) "các chính quyền xưa đã có quản lý hành chính đối với các đảo ở Biển Đông" (Administrative jurisdiction of past governments over the South China Sea Islands). Tuy nhiên, các bằng chứng này đều chưa đủ thuyết phục để làm cơ sở cho lập luận của Trung Quốc tại Biển Đông.
Thứ nhất, các dẫn chứng do "Shi Dizu" đưa ra không đủ để chứng minh có "phát hiện địa lý từ lâu trong lịch sử". Bằng chứng ghi lại cho thấy tàu thuyền đi từ Tây Nam sang vùng Đông Bắc đã gặp phải đá và bãi ngầm từ dưới biển rất mơ hồ, có thể là các chuyến hải trình của người dân các nước Đông Nam Á, chứ không phải của Trung Quốc. Hơn nữa, minh chứng Trung Quốc từ lâu có sự quản lý hành chính đối với Biển Đông như "Shi Dizu" đưa ra chỉ miêu tả hải trình đi lại khó khăn, không tạo thành chứng cớ thuyết phục về có sự tuần tra. Các bằng chứng từ nguồn lịch sử và hải đồ mà "Shi Dizu" lấy dẫn chứng chỉ cho thấy cảnh báo tàu thuyền Trung Quốc tránh các vật cản (các bãi ngầm, bãi cạn…) ở Biển Đông, không cho thấy sự đi lại qua các thực thể này. Qua đó, những ghi chép này có lẽ cảnh báo người dân Trung Quốc về nguy hiểm khi vượt biển, chứ không thể minh chứng cho sự phát hiện ban đầu của Trung Quốc đối với các đảo và thực thể ở Biển Đông.
Trung Quốc cũng chủ đích sử dụng từ ngữ để đánh lạc hướng dư luận thế giới bằng cách sử dụng từ "zhanghai qitou" (涨海崎头) và dịch sang tiếng Anh là "large boulders" mà mang nghĩa bao gồm tất cả các thực thể như "đảo, bãi cạn, đá… ở Biển Đông bao gồm cả ở Hoàng Sa và Trường Sa", không phân biệt bãi cạn nổi, chìm hay nửa nổi nửa chìm. Việc này khiến độc giả nước ngoài cảm thấy yêu sách của Trung Quốc là đúng đắn và nếu không có kiến thức về ngôn ngữ thì khó có thể lập luận lại được. Hơn nữa, học giả Trung Quốc đánh tráo khái niệm bằng cách biến khái niệm về các thuật ngữ như "đá" thành "đụn cát, bãi cạn…", "tàu thuyền nước ngoài" thành "tàu thuyền tuần tra", hay từ "zhanghai" (涨海) thành "Biển Đông". Từ đó, họ lập luận rằng các ghi chép lịch sử cho thấy Trung Quốc có tuần tra và quản lý hành chính các đảo, thực thể ở Biển Đông. Trên thực tế, thuật ngữ "zhanghai" không nhất thiết là đề cập tới một vùng biển cụ thể, mà có thể là một khu vực biển không xác định nào đó trải rộng từ Quảng Đông tới Ấn Độ Dương.
Thứ hai, về lập luận sự phát triển liên tục (continuous diligent developments), tác giả bác bỏ bằng chứng do cuốn "Shi Dizu" đưa ra về việc người Trung Quốc đã ở trên các đảo ở Biển Đông từ thời nhà Đường (bằng chứng về di tích trồng một số cây dừa, một số di tích nhà ở). Tuy nhiên, các bằng chứng này quá ít ỏi và khó có thể cho thấy có sự trồng trọt trên các đảo ở Biển Đông. Thậm chí, các bằng chứng này có khả năng là miêu tả thiệt hại do bão gây ra trên đảo Hải Nam (không tìm thấy các bằng chứng cho thấy bão ảnh hưởng tới các vùng khác ngoại trừ Hải Nam).
Thứ ba, các bằng chứng đưa ra trong cuốn "Shi Dizu" không thể minh chứng cho sự kiểm soát hành chính của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông. Cuốn "Shi Dizu" đưa ra bằng chứng từ thời nhà Tống bao gồm "Yudi jisheng" (ghi chép về các nơi nổi tiếng), "Wujing zongyao" (các yếu tố về quân sự cổ đại) – đề cập tới các bãi chìm ở Hoàng Sa, và "Yangfang jiyao" (Tổng kết về Phòng thủ trên biển) – nói tới bản đồ "Zhisheng haiyang zongtu" (Bản đồ tổng hợp về các tỉnh trên biển) mà đề cập tới toàn bộ các đảo Biển Đông. Tuy nhiên, bản đồ "Zhisheng haiyang zongtu" thực ra chỉ miêu tả về "ten-thousand-miles sandbank" (các bãi cạn cách hàng chục nghìn dặm) từ tỉnh Hải Nam, chứ không phải miêu tả toàn bộ các đảo và thực thể ở Biển Đông. Hơn nữa, các bằng chứng trên không thể giúp xác định chính xác vị trí của các đá và bãi cạn tại Biển Đông. Trên thực tế, các thủy thủ không thể xác định vị trí của các thực thể hay các bãi cạn này do nó phần lớn thời gian là chìm dưới biển.
Tổng kết
Vào năm 1974, cách làm của Trung Quốc là dùng sức mạnh quân sự giành quyền kiểm soát lãnh thổ, rồi sau đó nhờ các học giả và nhà báo lục lại những tư liệu cận đại làm bằng chứng cho quyền "lịch sử" của họ. Tuy nhiên những bằng chứng này không quan trọng trong con mắt của các cơ quan, tổ chức ngoài Trung Quốc.
Cấu trúc và cách lập luận trong bài báo của "Shi Dizu" đã trở thành một mô hình quen thuộc, như có thể thấy trong tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc năm 2000. Tầm quan trọng của bài báo được thừa nhận vào năm 2009, và sau đó bài báo được coi là một phần bằng chứng lịch sử chống lại yêu sách của Việt Nam và Philippines tại biển Biển Đông.
Tuy nhiên, sau hơn 4 thập kỷ, những nhà báo và nhà nghiên cứu Trung Quốc vẫn chỉ đi theo lối mòn : Viết về chủ đề cũ, dùng những phương pháp cũ và tham khảo từ nguồn cũ. Lý do là vì nếu chỉ dựa trên cơ sở các tài liệu cận đại không rõ ràng, yêu sách của Trung Quốc sẽ yếu. Vậy nên Trung Quốc muốn có càng nhiều người khẳng định lại những gì mình đã nói, để cho thấy cơ sở của mình là đáng tin cậy. Những bài viết về quyền lịch sử của Trung Quốc không hướng đến đối tượng ngoài nước, mà thay vào đó là nhóm học giả, công chúng trong nước chưa ủng hộ yêu sách của mình.
Trong tranh chấp đảo Điếu Ngư, Trung Quốc cũng sử dụng cách làm tương tự. Tuy nhiên, vì đây là tranh chấp với Nhật Bản – một cường quốc kinh tế khu vực, Trung Quốc đã phải chuyển hướng sang sử dụng luật quốc tế thay vì sức mạnh quân sự.
Thái độ của Trung Quốc về cải tạo lại các nhóm đảo vẫn nhất quán với các luận điểm và yêu sách chủ quyền, tuy nhiên vẫn không đủ sức thuyết phục những người phản đối về mặt luật pháp.
Johannes L. Kurz
Nguyên tác : The South China Sea and how It Turned into "Historically" Chinese Territory in 1975, Volume 3 : Transcultural Perspectives on Modern China, in China and the World – the World and China, Edited by Barbara Mittler, Joachim & Natascha Gentz and Catherine Vance Yeh,
Hồ Hạnh (tóm dịch)
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 21/12/2020
Cheng Li, Nghiên cứu quốc tế, 18/11/2020
Việc cài đặt lại quan hệ Mỹ-Trung sẽ không hề dễ dàng.
Chưa bao giờ Bắc Kinh lại quan tâm đặc biệt đến kết quả của một cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ như cuộc bầu cử lần này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng sự cạnh tranh sẽ định hình quan hệ Mỹ-Trung trong tương lai dù cho ai là ông chủ tiếp theo của Nhà Trắng. Tuy vậy, họ cũng tin rằng chiến thắng của cựu Phó Tổng thống Joe Biden trước Tổng thống đương nhiệm Donald Trump sẽ tạo ra cơ hội để tạm ngừng, hoặc ít ra là làm chậm lại, việc tiến đến quan hệ đối đầu đang rất đáng báo động giữa hai nước.
Kênh truyền thông nhà nước CCTV phát sóng về Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ Joe Biden tại Bắc Kinh, Trung Quốc, hồi trung tuần tháng 11/2020
Quan hệ giữa hai nước đã xấu đi với tốc độ đáng kinh ngạc dưới nhiệm kỳ tổng thống của ông Trump. Chiến tranh thương mại là ví dụ dễ thấy nhất của sự bất hòa, nhưng những căng thẳng mang tính chiến lược lớn hơn cũng làm nguy cơ xung đột tăng cao hơn. Nhiều quan chức cấp cao của Đảng cộng sản Trung Quốc bị sốc trước hàng loạt lời lẽ quy trách nhiệm, những bình luận phân biệt chủng tộc công khai, các chính sách tách rời kinh tế hai nước, cũng như luận điệu ủng hộ sự thay đổi chế độ ở Trung Quốc của chính quyền Trump.
Không có gì ngạc nhiên khi sự nhẹ nhõm và lạc quan là tâm trạng phổ biến trên mạng xã hội Trung Quốc sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ mặc dù quan điểm về Trump trong công chúng là không giống nhau. Một tấm ảnh lan truyền rộng rãi trên Internet đã thể hiện sự ủng hộ của công chúng đối với nhiệm kỳ tổng thống của Biden khi đổi tên Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (Forbidden City) thành "For-Biden City" (tạm dịch : Tòa thành của Biden).
Nhưng tâm trạng lạc quan có thể thay đổi nhanh chóng. Chỉ bốn năm trước, Trung Quốc nhận được tin Trump đắc cử với sự nhiệt tình tương tự. Nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Trump, với xuất thân doanh nhân, sẽ là người dễ làm việc cùng hơn. Thực tế cho thấy đó chỉ là một mơ tưởng. Giới hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc tỏ ra nghi ngờ nhưng đồng thời cũng lạc quan một cách thận trọng về một mối quan hệ tốt hơn với chính quyền Biden. Tuy nhiên, nhiều yếu tố định hình chính sách đối với Trung Quốc của chính quyền Trump vẫn còn tồn tại và việc "cài đặt lại" quan hệ giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới sẽ không hề dễ dàng.
Vấn đề với chính quyền Trump
Trong những cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường tránh thể hiện sự ủng hộ đối với một ứng viên cụ thể. Quan điểm chính thống lâu đời là "Trung Quốc không bao giờ can thiệp vào công việc nội bộ của Hoa Kỳ". Tuy vậy ban lãnh đạo Trung Quốc nhìn chung bi quan về triển vọng cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ chừng nào Trump còn tại vị. Mặc dù một số nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc tin rằng sự hỗn loạn cùng kiểu "thùng rỗng kêu to" của một nhiệm kỳ Trump nữa sẽ càng làm Trung Quốc lớn mạnh hơn, nhưng họ cũng đã chứng kiến các chính sách đối ngoại không thể đoán trước của Tổng thống Mỹ đẩy cả hai nước ngày càng tiến tới xung đột như thế nào.
Trung Quốc đặc biệt quan ngại các hành động của chính quyền Trump đối với Đài Loan. Với việc Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Đi lại với Đài Loan năm 2018 và Đạo luật Đài Bắc năm 2019 (Taipei Act) – các đạo luật nhằm tăng cường quan hệ Mỹ – Đài được Trump ký thành luật – Bắc Kinh lo ngại rằng Washington đang tiến dần tới việc công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập. Những hành động và lời lẽ của chính quyền Mỹ trong vấn đề này đã làm gia tăng ác cảm đối với Trump trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc và thúc đẩy các quan chức này tìm tới một cách tiếp cận đối đầu hơn với Hoa Kỳ.
Bắc Kinh tin rằng chính quyền Trump muốn đánh bại Trung Quốc giống như cách mà Hoa Kỳ đã đánh bại Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh. Một số quan chức của chính quyền Trump, trong đó có Ngoại trưởng Michael Pompeo và cố vấn thương mại cấp cao Peter Navarro, thậm chí đã kêu gọi thay đổi chế độ ở Trung Quốc. Do đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc không hề ảo tưởng về khả năng chung sống hòa thuận và yên bình với chính quyền nhiệm kỳ hai của Trump. Trong một sự kiện vào tháng 10 ở Bắc Kinh kỷ niệm 70 năm Chiến tranh Triều Tiên, ông Tập đã thúc giục quân đội Trung Quốc chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc xung đột có thể xảy ra với Hoa Kỳ. Theo cách nói của ông ấy, Trung Quốc sẽ "sử dụng chiến tranh để ngăn chặn chiến tranh".
Triển vọng với chính quyền Biden
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rằng sự thù địch của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc không chỉ giới hạn trong chính quyền Trump. Cả đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ đều lên án Bắc Kinh một cách gay gắt và ủng hộ việc đưa các chuỗi cung ứng của Mỹ rời khỏi Trung Quốc. Nhưng đồng thời, nhiều quan chức Trung Quốc không tin rằng có sự nhất trí trong chiến lược chống Trung Quốc ở Washington. Một tình tiết đáng chú ý trong buổi tranh luận giữa hai ứng viên phó tổng thống đã thu hút sự quan tâm của Bắc Kinh khi cả Phó Tổng thống đương nhiệm Mike Pence và Thượng nghị sĩ California Kamala Harris đều không thể đưa ra câu trả lời rõ ràng về việc Hoa Kỳ coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh (competitor), kình địch (rival) hay kẻ thù (enemy). Điều đó dường như cho thấy rõ việc thiếu một khuôn khổ chiến lược cho quan hệ Mỹ-Trung ở Washington.
Biden cũng thường mô tả chính sách đối với Trung Quốc của chính quyền Trump là thất bại, một dấu hiệu cho các quan chức Trung Quốc thấy rằng chính quyền kế nhiệm sẽ không áp dụng tất cả các quan điểm đối đầu của chính quyền Trump, bao gồm cả mục tiêu tách rời kinh tế hai nước. Các nhà phân tích trong cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc cũng lạc quan khi nhận thấy nhóm hoạch định chính sách đối ngoại của Biden có nhiều chuyên gia dày dạn kinh nghiệm và nổi tiếng về phong cách ngoại giao có lý trí (sensible).
Ở cả Trung Quốc và Hoa Kỳ, người ta đã chứng kiến mối quan hệ làm việc lâu dài và thân thiện giữa Biden và Tập trong thời gian Biden làm phó tổng thống và Tập làm phó chủ tịch Trung Quốc. Theo Daniel Russel, một cựu quan chức cấp cao trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống Barack Obama, Biden và Tập đã gặp nhau ít nhất tám lần và dành khoảng 25 giờ cho các cuộc gặp riêng trong vòng 18 tháng từ năm 2011 đến 2012. Trong các cuộc tranh luận tổng thống, Biden đã chỉ trích gay gắt ông Tập và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tuy vậy các quan chức Trung Quốc hiểu rằng những lời lẽ đó chỉ để lấy lòng người dân trong nước, không phải là dấu hiệu báo trước về chính sách đối ngoại của Biden.
Nói rộng hơn, các nhà quan sát Hoa Kỳ của Trung Quốc đã nhận ra quan điểm lâu đời của họ có từ thời Tổng thống Richard Nixon rằng đảng Cộng hòa thân thiện và dễ làm việc hơn đảng Dân chủ đã không còn đúng nữa. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc chỉ ra rằng tất cả 15 thành viên quốc hội của Ban Đặc nhiệm về Trung Quốc (China Task Force), một nhóm nổi tiếng về cách tiếp cận diều hâu đối với Bắc Kinh, đều là đảng viên Cộng hòa ; 229 thành viên Đảng Dân chủ tại Hạ viện đã bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết của Quốc hội hồi tháng 9 lên án mọi hình thức phân biệt đối xử với người Trung Quốc nhưng chỉ có 14 thành viên Đảng Cộng hòa ủng hộ nghị quyết (164 người phản đối) ; và nhiều cuộc thăm dò dư luận Hoa Kỳ cho thấy đảng Cộng hòa thù địch với Trung Quốc nhiều hơn so với đảng Dân chủ.
Thiết lập lại quan hệ giữa hai nước như thế nào ?
Nhưng ngay cả khi Bắc Kinh mong muốn được làm việc với chính quyền Hoa Kỳ thuộc đảng Dân chủ hơn, thì việc cài đặt lại một cách đáng kể quan hệ song phương cũng sẽ rất khó khăn. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có xu hướng cho rằng sự xấu đi trong quan hệ Mỹ-Trung hoàn toàn là do chính quyền Trump muốn kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Không có sự thừa nhận nào ở Bắc Kinh về những lo ngại chính đáng của Hoa Kỳ liên quan đến các hoạt động kinh tế và công nghệ không công bằng của Trung Quốc cũng như các hành vi gây hấn của nước này ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Về phía Hoa Kỳ, sự chỉ trích Đảng Cộng sản Trung Quốc từ các đảng viên Cộng hòa trong chính quyền Trump và trong Quốc hội, cùng thái độ thù địch của công chúng đối với Trung Quốc, đặt ra một rào cản lớn cho nỗ lực thiết lập lại quan hệ hữu nghị giữa hai nước của chính quyền mới. Khả năng Thượng viện vẫn do đảng Cộng hòa kiểm soát sau cuộc bầu cử khiến việc đảo ngược tiến trình càng trở nên khó khăn hơn.
Các quan chức Trung Quốc hiểu rằng sự chia rẽ chính trị nghiêm trọng bộc lộ trong kết quả bầu cử với việc xã hội Hoa Kỳ phân cực mạnh sẽ buộc Biden phải xoa dịu những căng thẳng trong nước và có thể khiến ông không có đủ hậu thuẫn chính trị để thay đổi hoàn toàn chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng lo ngại rằng trong nỗ lực thu hẹp sự cách biệt đảng phái, chính quyền Biden có thể coi chính sách hiếu chiến với Trung Quốc như một phương tiện để tìm điểm đồng với đảng Cộng hòa. Nếu vậy, đối đầu giữa hai nước có thể vẫn tiếp tục, thậm chí là gia tăng, thay vì hướng tới sự cân bằng giữa hợp tác và cạnh tranh một cách ổn định hơn.
Chính quyền Biden chắc chắn sẽ tiếp tục nêu lên những quan ngại về các hành vi xâm phạm nhân quyền của Trung Quốc ở Hồng Kông, Tây Tạng và Tân Cương. Thậm chí, Biden có thể còn gây áp lực lớn hơn, kết hợp chúng với một sứ mệnh đạo đức rộng lớn hơn nhằm bảo vệ quyền con người cũng như đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại quê nhà. Ông có thể sẽ làm tốt hơn Trump trong việc khai thác quyền lực mềm của Mỹ nhằm phục vụ cho mục đích tiếp cận người dân Trung Quốc của chính quyền Hoa Kỳ. Tất nhiên, việc Bắc Kinh sẽ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế về những vấn đề này là rất khó ; Chính quyền Trung Quốc coi tình trạng bất ổn ở các khu vực ngoại vi là mối đe dọa đối với chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và sự ổn định của đất nước. Và do vậy, hành động của Bắc Kinh trong những khu vực bất ổn này sẽ không phải là chủ đề thích hợp để đàm phán.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đang cân nhắc tất cả những kịch bản khả dĩ này về chính sách của Biden đối với Trung Quốc và dường như đang cố gắng "đặt cược nước đôi" về chính quyền Mỹ sắp tới. Một mặt, Bắc Kinh sẽ mong muốn tái hợp tác với Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực. Trong suốt 8 năm cầm quyền của Obama, có tới 105 cuộc đối thoại song phương do chính phủ tài trợ về các chủ đề bao gồm vai trò lãnh đạo của phụ nữ, giáo dục mầm non, thám hiểm không gian, tội phạm mạng và biến đổi khí hậu. Trong hai năm đầu tiên cầm quyền, chính quyền Trump đã thu hẹp các kênh đối thoại đó thành bốn kênh và sau đó ngưng hoàn toàn.
Để phù hợp với chính sách đối ngoại của Biden, Trung Quốc sẽ đặc biệt quan tâm đến việc hợp tác trong các vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu (đặc biệt là cuộc chiến chung chống lại COVID-19), biến đổi khí hậu, không phổ biến vũ khí hạt nhân, chống khủng bố, an ninh mạng cũng như ổn định kinh tế và tài chính toàn cầu. Mùa hè vừa qua, Yang Jiechi (Dương Khiết Trì), một trong những nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc, đã vạch ra các chủ đề này như những lĩnh vực mà Mỹ và Trung Quốc có thể phối hợp và hợp tác chặt chẽ. Ngoài ra, ông cũng nhìn thấy triển vọng hợp tác với Hoa Kỳ trong việc giải quyết các thách thức địa chính trị ở Afghanistan, Bán đảo Triều Tiên và khu vực Trung Đông.
Tuy nhiên, cùng lúc đó Bắc Kinh tin rằng sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc, việc kiểm soát thành công đại dịch COVID-19 ở trong nước, chính trị- xã hội tương đối ổn định cùng với ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng sẽ giúp Trung Quốc có thêm đòn bẩy trong mối quan hệ song phương. Ban lãnh đạo Trung Quốc có thể đáp ứng các yêu cầu của Hoa Kỳ trong một số lĩnh vực nhất định, nhưng họ có thể vẫn sẽ kiên quyết và không khoan nhượng với bất kỳ thứ gì động đến những điều mà họ tuyên bố là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc : yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan và đảm bảo sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Triển vọng hòa giải
Một điều chắc chắn là căng thẳng với Trung Quốc vẫn tiếp tục tồn tại khi chính quyền Biden hoạch định các lĩnh vực sẽ hợp tác và các lĩnh vực sẽ cạnh tranh với Bắc Kinh. Tuy vậy một số học giả có ảnh hưởng ở Trung Quốc vẫn nhìn thấy triển vọng về một mối quan hệ hiệu quả hơn đằng sau chiến thắng của Biden. Shi Yinhong (Thời Ánh Hồng), giáo sư nghiên cứu về Mỹ tại Đại học Nhân dân Trung Quốc và là cố vấn cho chính phủ Trung Quốc, gần đây cho rằng Biden sẽ mang lại sự ổn định và khả năng dự đoán được về những chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo quan điểm của ông, cơ hội để ngăn chặn căng thẳng kiểu "ăn miếng trả miếng" leo thang với chính quyền Biden sẽ rất ngắn ngủi. Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trên trường quốc tế và môi trường chính trị trong nước đầy biến động ở Hoa Kỳ sẽ khiến mối quan hệ song phương trở nên khó hàn gắn hơn. Ông cho rằng cả Bắc Kinh lẫn Washington đều không nên bỏ lỡ cơ hội quý giá có được trong những tháng tới để đánh giá những sai lầm trong quá khứ và cài đặt lại quan hệ. Ông Shi có quan điểm phần nào khác với quan điểm của Đảng khi mong muốn rũ bỏ "tư duy có tổng bằng 0" (phần lợi của bên này luôn tương đương với phần mất của bên kia – ND), phản ánh thiện chí mà nhiều trí thức cũng như người dân Trung Quốc dành cho Hoa Kỳ và đặc biệt là cho chính quyền sắp kế nhiệm của ông Biden. Thời gian sẽ trả lời liệu những quan điểm trên có giúp định hình những quyết định của ban lãnh đạo Trung Quốc hay không.
Cheng Li
Nguyên tác : "Biden’s Election Raises Hopes and Doubts in Beijing", Forreign Affairs, 13/11/2020.
Nguyễn Thanh Hải dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 18/11/2020
******************
Nguyễn Duy, Thoibao.de, 18/11/2020
Kết quả xem như ngã ngũ, tổng thống Trump đã không còn lý do gì để phủ nhận chiến thắng của Joe Biden nữa. Tất cả các bang đều đã được kiểm và chứng cứ trong vấn đề kiện cáo của tổng thống Trump cũng bị tòa án bác bỏ gần hết. Ngày 20/1/2021 sẽ là ngày tổng thống đắc cử Joe Biden chính thức trở thành tổng thống của hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Dù muốn hay không ông Joe Biden cũng phải xử lý những gì mà người tiền nhiệm Donald Trump đã để lại. Từ vấn đề quốc nội cho đến quan hệ quốc tế, Joe Biden cần phải chỉnh sửa lại rất nhiều. Vậy việc mà Joe Biden sẽ chỉnh sửa khi lên làm tổng thống là gì ? Chính sách đối ngoại mà người dân Mỹ và thế giới quan tâm nhất, đó là mối quan hệ với Trung Quốc. Đây là đối thủ đang đe dọa vị trí siêu cường của Hoa Kỳ nhiều nhất nên nó là chiến lược mà Joe Biden phải ưu tiên hàng đầu.
Ông Joe Biden trong vai trò phó tổng thống Hoa kỳ tổ chức tiệc trưa cho Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình vào ngày 25/9/2015
Phải nói rằng chiến thắng của ông Joe Biden đặt ra một thách thức mới cho Trung Quốc. Chính sách của tổng thống Trump đối với Trung Quốc thực sự đã làm cho suy nghĩ của người dân và các chuyên gia về kinh tế – chính trị ở Trung Quốc đánh giá rất khác nhau. Người dân cho rằng Bắc Kinh sẽ mừng khi không còn thấy Donald Trump. Vì chính Trump là người đánh Trung Cộng mạnh nhất trong 4 năm qua như gây chiến tranh thương mại, áp dụng các biện pháp trừng phạt nặng và lên án Trung Quốc đã gây ra dịch virus corona.
Thế nhưng một số nhà phân tích cho rằng lãnh đạo Trung Quốc có thể đang âm thầm thất vọng lúc này. Không phải bởi vì họ yêu mến ông Trump, mà vì viễn cảnh ông Trump trong Nhà Trắng thêm bốn năm nữa hứa hẹn một phần thưởng lớn hơn cho Trung Quốc. Ông ta chia rẽ trong nước, bị cô lập ở nước ngoài – ông Trump đối với Bắc Kinh dường như là hiện hình của quyền lực Mỹ suy giảm mà Trung Quốc hy vọng và mong đợi lâu nay.
Tất nhiên, Trung Quốc có thể tìm được lợi thế trong việc ông Joe Biden sẵn sàng tìm kiếm hợp tác trong những vấn đề lớn như biến đổi khí hậu. Nhưng ông cũng hứa hẹn sẽ làm việc để sửa chữa mối quan hệ với các đồng minh Mỹ, đây là giải pháp hữu hiệu trong việc kiềm chế tham vọng quyền lực của Trung Quốc so với cách làm một mình một kiểu của Trump.
Chính sách của Biden với quốc gia đông dân số 2 thế giới như thế nào ?
Từ thời Barack Obama, nước Mỹ đã xoay trục sang Châu Á. Và tất nhiên hai cường quốc đông dân nhất thế giới được Mỹ để ý đến đầu tiên. Việc Mỹ cạnh tranh với Trung Quốc thì rõ ràng ai cũng biết. Nhưng với Ấn Độ thì Mỹ chưa đến mức phải cạnh tranh mà Mỹ chỉ xem Ấn là đối tác lớn. Đối tác về kinh tế để các công ty Mỹ chuyển từ Trung Quốc sang Ấn Độ nếu chiến tranh thương mại Mỹ – Trung vẫn tiếp tục. Nói chung, Ấn Độ là giải pháp dự phòng cho Mỹ khi Mỹ và Trung Quốc có mối quan hệ không tốt.
Gốc gác xuất thân của bà Kamala Harris sẽ khiến Ấn Độ tự hào, nhưng ông Narendra Modi có lẽ sẽ tiếp đón ông Biden lạnh nhạt hơn so với người tiền nhiệm. Ấn Độ từ lâu nay là một đối tác quan trọng của Hoa Kỳ – và điều này nhìn chung sẽ không thay đổi dưới thời ông Biden. Quốc gia đông dân nhất Nam Á này sẽ tiếp tục là một đồng minh then chốt trong chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc và chống chủ nghĩa khủng bố toàn cầu. Và chắc chắn bà phó tổng thống Kamala Harris sẽ là cầu nối quan trọng để hai nước đi đến ký kết những hiệp ước quan trọng cả về kinh tế lẫn quân sự.
Thulasendrapuram, ngôi làng quê ở Ấn Độ của thân mẫu Phó Tổng thống đắc cử Kamala Harris
Ông Donald Trump đã tránh việc chỉ trích các chính sách đối nội gây tranh cãi của ông thủ tướng Modi, cho nên giữa 2 vị nguyên thủ này có một tình cảm nhất định. Đây được xem là hành động tế nhị hiếm hoi mà tổng thống Donald Trump giành cho đối tác. Với Joe Biden thì rõ ràng ông Modi phải dè chừng vì ông này khác tính ông Trump rất nhiều. Vậy nên sự kết nối cá nhân giữa ông Biden và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi có lẽ sẽ có những điểm tế nhị cần phải vượt qua.
Người ta tưởng ông Donald Trump ăn nói thẳng thừng vì ông hay dùng Twitter để giao tiếp hằng ngày đã cho công chúng thấy được tính khí của ông, nhưng thực chất thì giới chuyên môn đánh giá ông Biden lại thẳng thừng hơn cả ông Donald Trump. Điều này trái ngược với vẻ bề ngoài của ông, bình thường thấy ông Joe Biden rất điềm đạm.
Trang web của ông Joe Biden kêu gọi khôi phục lại quyền của mọi người tại Kashmir, chỉ trích Luật Đăng ký Công dân và Luật Sửa đổi Quốc tịch, hai luật đã làm dấy lên các cuộc biểu tình phản đối rộng khắp. Dù rằng chưa chính thức làm tổng thống nhưng ông Modi đã cảm thấy lo ngại về quan điểm của ông Joe Biden. Phó tổng thống đắc cử Kamala Harris – người mang một nửa dòng máu Ấn Độ – cũng đã lớn tiếng nói về một số chính sách mang tính chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ của chính phủ. Mẹ của bà Kamala Harris được sinh ra và lớn lên tại thành phố Chennai, giờ đây con gái của một phụ nữ Ấn đang sắp trở thành người đứng thứ hai tại Nhà Trắng là thời điểm làm dâng cao lòng niềm tự hào quốc gia của người dân Ấn Độ. Chính vì thế khó khăn được hy vọng là hóa giải dễ dàng.
Vấn đề bán đảo Triều Tiên
Có một điều ai cũng biết là Bắc Hàn có cảm tình với tổng thống Donald Trump hơn là với ông Joe Biden. Bắc Hàn từng gọi ông Joe Biden là "chó điên", nhưng nay ông Kim Jong-un sẽ có những tính toán thận trọng trước khi tìm cách khiêu khích tân Tổng thống Hoa Kỳ. Bản tính của Kim Jong-un là vậy, không ngán ai và với con người tỏ ra kiên nhẫn như tổng thống Donald Trump mà đàm phán với ông chủ tịch Bắc Hàn còn không đi đến kết quả gì thì với ông Joe Biden không biết thế nào. Kim Jong-un chưa bao giờ biết nhường nhịn ai, và với tân tổng thống Joe Biden thì có thể nói, ông ta cũng đang chuẩn bị cách đối phó với vị tân tổng thống Mỹ này.
Trong nhiệm kỳ 4 năm của ông Doanld Trump đã có 3 cuộc gặp Kim Jong-un trong đó có một cuộc gặp tại Việt Nam. Đây là điều mà chưa một tổng thống nào trước đó làm được. Liệu rằng ông Joe Biden có tiếp bước ông Donald Trump thực hiện nhiều cuộc gặp gỡ hơn không ?
Theo giới chuyên gia dự đoán thì vấn đề ngoại giao giữa Bắc Hàn và Mỹ sẽ không mặn nồng như thời ông Donald Trump nữa. Có thể ông Joe Biden sẽ cứng rắn với Bắc Hàn hơn người tiền nhiệm.
Tổng thống Donald Trump và chủ Tịch Kim Jong-un ở Hà nội
Có thể nói, cuộc họp giữa Doanald Trump và Kim Jong-un là vô tiền khoáng hậu giữa hai nhà lãnh đạo và những diễn tiến sau đó đã tạo nên những hình ảnh cực kỳ ấn tượng trong sử sách. Tuy nhiên, về mặt nội dung, hai bên hầu như không đạt được gì, cũng không có gì được ký kết sau đó. Chẳng có bên nào đạt được điều họ muốn từ các cuộc đàm phán này : Bắc Hàn vẫn tiếp tục xây dựng kho vũ khí hạt nhân, và Hoa Kỳ vẫn tiếp tục áp các lệnh trừng phạt khắc nghiệt.
Có lẽ rút ra bài học từ thời ông Trump nên ông Joe Biden đã có ý đòi Bắc Hàn phải chứng tỏ rằng họ sẵn lòng từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân của mình trước khi ông có bất kỳ cuộc họp nào với ông Kim Jong-un. Nhiều nhà phân tích tin rằng trừ phi nhóm của ông Biden chủ động đưa ra sáng kiến thương thảo với Bình Nhưỡng trong thời gian rất sớm, những ngày cái "lửa giận" sẽ trở lại.
Ông Kim có lẽ sẽ muốn thu hút sự chú ý của Washington với việc quay trở lại thực hiện các vụ thử hạt nhân tầm xa, nhưng ông sẽ không muốn làm gia tăng căng thẳng tới mức quốc gia vốn đã rất đói nghèo này sẽ bị thêm các lệnh trừng phạt nữa.
Seoul có lẽ đã lúc này lúc khác gặp khó khăn với ông Trump, nhưng Tổng thống Moon rất muốn kết thúc cuộc chiến đã kéo dài 70 năm trên bán đảo Triều Tiên, và ông đã ca ngợi ông Trump về việc "can đảm" gặp gỡ với ông Kim. Miền Nam sẽ theo dõi chặt chẽ xem liệu có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy ông Biden có sẵn lòng thực hiện điều tương tự hay không.
Với đồng minh lâu đời Anh Quốc
Boris Johnson chúc mừng Tổng thống đắc cử Joe Biden giành chiến thắng trong cuộc Bầu cử
"Mối quan hệ đặc biệt" giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc là mối quan hệ than thiết lâu đời. Từ nhiều đời tổng thống, 2 quốc gia này luôn sát cánh bên nhau về các vấn đề lớn trên thế giới. Vậy nên dự đoán là quan hệ giữ Mỹ và Anh Quốc cũng sẽ như truyền thống chứ không có gì thay đổi, bởi cho dù thay đổi cũng không thể thay đổi nhiều.
Quay ngược về thời điểm năm 2016, khi đó ông Donald Trump thắng cuộc đua vào Nhà Trắng và nước Anh bỏ phiếu rời khỏi EU, cả ông Joe Biden và Tổng thống Barack Obama, đều không giấu diếm gì về việc họ muốn có một kết quả khác đối với kỳ trưng cầu dân ý của Anh. Và thực sự ở điểm này, tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama đã có mối quan hệ lạnh nhạt với chính phủ Đảng Bảo Thủ của bà Teresa May.
Theo giới phân tích thì những chính sách gần đây của chính phủ thủ tướng Boris Jonhson trong vấn đề với Brexit đã không diễn ra như mong muốn của các gương mặt chủ chốt phe Dân, trong đó có vị tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hai ông Joe Biden và Boris Johnson vẫn có với nhau một số điểm chung. Hai quốc gia mà họ dẫn dắt rốt cuộc là có mối quan hệ dài hạn, sâu sắc trong lĩnh vực ngoại giao, chưa kể còn các mối quan hệ thân thiết trong những lĩnh vực khác như an ninh và tình báo.
Quan hệ với Putin
Điện Kremlin nổi tiếng về Tình Báo, cho nên họ có khả năng nghe ngóng rất nhạy. Vậy nên khi Joe Biden gần đây gọi Nga là "mối đe dọa lớn nhất" đối với Mỹ, họ nghe câu đó rất rõ ở Moscow. Việc làm này của ông Joe Biden hoàn toàn trái ngược với Donald Trump trước đây, khi ông Trump khen ngợi Putin là tổng thống tài năng. Có thể ông Trump chỉ khen xã giao, nhưng trong lời khen đó cũng cho thất thái độ của Donald Trump với nước Ngà là rất rõ ràng. So với nhiều tổng thống khác Donald Trump thân thiện với nước Nga hơn.
Điện Kremlin cũng có trí nhớ rất tốt. Năm 2011, Phó tổng thống Joe Biden được cho là từng nói nếu ông là Putin, ông sẽ chẳng tranh cử tổng thống lần nữa. Điều đó sẽ rất tồi tệ cho cả ông Putin và nước Nga. Tổng thống Putin vẫn chưa quên vụ đó. Đây là câu ám chỉ Putin là nhà độc tài.
Moscow lo ngại một nhiệm kỳ của ông Biden có nghĩa sẽ có thêm áp lực và trừng phạt từ Washington. Với một người theo đảng Dân chủ trong Nhà Trắng, có thể sẽ đến lúc trả thù cho sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử Mỹ 2016 ?
Nhưng với điện Kremlin, cũng có thể có cái may. Các nhà quan sát tình hình Nga dự đoán chính quyền Biden cuối cùng sẽ dễ đoán được hơn đội của Trump. Điều đó có thể khiến việc đạt được thỏa thuận về những vấn đề cấp bách trở nên dễ dàng hơn, như hiệp ước New Start – một hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân Mỹ – Nga sắp hết hạn vào tháng Hai tới. Nếu làm được điều này, ông Biden sẽ ghi điểm trước dân Mỹ trong vấn đề quan hệ quốc tế với cường quốc quân sự lớn thứ 2 thế giới này.
Thực ra Joe Biden đã có 8 năm làm phó tổng thống. Khi đắc cử ông sẽ biết đưa ra chiến lược như thế nào để đảm bảo cho quyền lợi nước Mỹ. Sẽ hứa hẹn một nhiệm kỳ tương tự như 2 nhiệm kỳ mà Obama đã thực hiện trước đây. Và dự đoán có thể Joe Biden sẽ làm tốt hơn.
Nguyễn Duy (Tổng hợp)
Nguồn : Thoibao.de, 18/11/2020
********************
Chính sách đối ngoại của chính phủ Biden và vấn đề Biển Đông
VOA, 18/11/2020
Từ khi giành được hơn 270 phiếu đại cử tri, Tổng thống tân cử Joe Biden đã tiếp xúc với lãnh đạo các nước đồng minh, cam kết hàn gắn các quan hệ đối tác đã bị sứt mẻ trong mấy năm qua, đồng thời tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ đối với các hiệp định an ninh hỗ tương từng bị đặt nghi vấn dưới quyền Tổng thống Trump.
Tổng thống Trump, Tổng thống tân cử Biden và chính sách đối với Trung Quốc
Trong 4 năm dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Trump, các đồng minh của Mỹ trong khu vực hay lo lắng, không biết liệu nhà lãnh đạo tính khí khó đoán của Mỹ có sẽ tôn trọng những cam kết của Hoa Kỳ hay không ?
Sau khi trấn an lãnh đạo các nước Châu Âu rằng "Mỹ đã trở về", ông Biden điện đàm với Thủ tướng Úc Scott Morrison, Tổng thống Hàn quốc Moon Jae-in và Thủ Tướng Nhật Bản Yoshihide Suga, 3 nhà lãnh đạo Châu Á đã gọi điện chúc mừng ông, bất chấp Tổng thống Trump chưa công nhận thất cử.
Các giới chức Nhật cho biết trong cuộc điện đàm, Thủ tướng Suga cảnh báo về "tình hình an ninh chung quanh khu vực đang ngày càng nghiêm trọng hơn". Đáp lại, Tổng thống tân cử Joe Biden tái khẳng định "cam kết của Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Nhật Bản", thực thi các trách vụ của Mỹ theo hiệp định an ninh đã ký cách đây nhiều thập niên, ban chuyển tiếp của ông Biden cho biết.
Trong một động thái có phần chắc sẽ gây phẫn nộ ở Bắc Kinh, ông Biden xác nhận cam kết an ninh của Mỹ bao trùm quần đảo Senkakus, một quần đảo không người ở mà cả Nhật Bản và Trung Quốc đều tuyên bố là thuộc chủ quyền của mình.
Trong một cuộc điện đàm riêng với Tổng thống Hàn quốc Moon Jae-in, ông Biden mô tả liên minh Mỹ-Hàn là "nền tảng của an ninh và thịnh vượng" trong khu vực, và ông cam kết sẽ hợp tác để giải quyết "những thách thức chung", đặc biệt là vấn đề Triều Tiên, và biến đổi khí hậu.
Trong khi đó Tổng thống Trump nhiều lần cho biết ông đang cân nhắc giải pháp rút quân ra khỏi Nhật Bản và Hàn quốc, nơi đồn trú của hơn 20.000 binh sĩ và nhân viên quân sự Mỹ mà mục đích là để răn đe một cuộc tấn công quân sự từ miền Bắc.
Văn phòng Tổng thống Hàn quốc cho biết ông Moon và ông Biden đồng ý sẽ gặp nhau "trong thời hạn sớm nhất có thể" sau lễ nhậm chức tổng thống.
Trong cuộc điện đàm với Thủ tướng Úc, ông Biden được Thủ tướng Scott Morrison mời đi thăm Úc trong năm tới để đánh dấu 70 năm hiệp định an ninh Úc-Mỹ.
Ông Biden lưu ý về tầm quan trọng của việc "đương đầu với biến đổi khí hậu" điều mà chính quyền bảo thủ của Úc dường như chưa đặt lên hàng ưu tiên cao, bất chấp nước này đã ký Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Thủ tướng Úc miêu tả cuộc điện đàm giữa hai nhà lãnh đạo là "nồng ấm".
Trong cương vị thành viên của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ trong nhiều thập niên, ông Biden đã đi thăm nhiều nước và gặp gỡ nhiều nhà lãnh đạo trên khắp thế giới.
Trong cương vị phó tổng thống Mỹ dưới thời Obama, ông Biden đã bỏ nhiều công sức để cổ vũ cho Hoa Kỳ như một "cường quốc Thái Bình Dương".
Các nước còn lại đạt được thỏa thuận TPP không có Mỹ
Nhưng sau khi nhiệm kỳ Tổng thống của ông Obama kết thúc, chính sách xoay trục sang Châu á của ông, và các nỗ lực kiên trì nhằm xây dựng một liên minh tại các hội nghị khu vực như ASEAN, APEC và hội nghị thượng đỉnh Đông Á… được thay thế bằng một mối quan hệ có tính thực dụng. Tổng thống Trump cũng rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), đạt được sau 8 năm thương thuyết gay go và nhắm cô lập Trung Quốc về mặt kinh tế, mở đường cho Bắc Kinh vận động để đạt Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) không có Hoa Kỳ, vừa được ký kết cách đây vài ngày.
Tổng thống Trump còn gây lo ngại cho các đồng minh ở Châu Á khi ông liên tục leo thang các tranh chấp thương mại với Trung Quốc, xích lại gần nhà độc tài Kim Jong-un của Triều Tiên, và công khai bàn tới khả năng Mỹ rút quân ra khỏi khu vực.
‘Joe Biden cũng sẽ cứng rắn với Trung Quốc, không kém Tổng thống Trump’
Trang mạng Intellasia trích lời ông Wu Shicun, người đứng đầu Viện nghiên cứu quốc gia về Biển Đông của Trung Quốc, nhận định rằng ông Biden "sẽ có hướng tiếp cận khác với Tổng thống Donald Trump".
"Ông Biden sẽ chú ý nhiều hơn tới vấn đề Biển Đông, nhưng các chính sách của ông cân bằng hơn và có tính kiềm chế hơn".
Các cuộc tuần tra đã khởi sự dưới thời Tổng thống Obama nhưng trở nên thường xuyên hơn dưới thời Tổng thống Trump khi nhà lãnh đạo Mỹ giao nhiều quyền hạn hơn cho Ngũ Giác Đài để linh động lập kế hoạch tiến hành các cuộc tuần tra của hải quân để khẳng định quyền tự do đi lại trong các vùng biển tranh chấp. Ông Wu dự đoán các cuộc tuần tra để khẳng định quyền tự do hàng hải như thế sẽ ít thường xuyên hơn dưới một chính phủ Biden, vì các hoạt động tuần tra tác động tới các quan hệ song phương và làm tăng căng thẳng Mỹ-Trung.
Về phần Trung Quốc, Bắc Kinh dự kiến các quan hệ với Washington dưới sự lãnh đạo của ông Biden sẽ ổn định hơn, dễ đoán hơn, không thay đổi thất thường và đột ngột như với ông Trump, tuy vậy các quan hệ với Washington sẽ không thay đổi đáng kể, về một số vấn đề quan trọng. Financial Times trích lời các nhà phân tích và cố vấn chính phủ Trung Quốc nhận định :
"Sẽ không có thay đổi đáng kể dưới quyền ông Biden về các vấn đề gai góc như Đài Loan, Hong Kong, Biển Đông, Tân Cương, Tây Tạng và tình hình tôn giáo và nhân quyền", theo ông Shi Hong, giáo sự đại học Renmin ở Bắc Kinh và là cố vấn Quốc vụ viện về các vấn đề đối ngoại. "Nhưng ông Biden tính khí không thất thường như ông Trump, ông ăn nói lịch sự hơn, dễ đoán hơn giúp ổn định chính sách của Washington đối với Trung Quốc.
Financial Times dẫn lời một chuyên gia về các vấn đề Mỹ tại Học viện Khoa học Xã hội ở Bắc Kinh, ông Lu Xiang, giải thích sự khác biệt giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ :
"Biden coi Trung Quốc là một nước cạnh tranh, trong khi ông Trump coi Trung Quốc là một đối thủ. Các quan hệ giữa hai nước cạnh tranh được dựa trên các quy định, luật lệ".
Vấn đề Biển Đông
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore, nói thành phần nhân sự do ông Biden chọn vào các chức vụ chính trong Bộ Quốc phòng sẽ ảnh hưởng tới các quan hệ với Bắc Kinh tại Biển Đông, nhưng bất kể họ là ai, Tiến sĩ Hiệp nói thêm, "căng thẳng trong khu vực khó có thể tan biến trong một sớm một chiều".
Trong số những người có triển vọng được chọn ra lãnh đạo Bộ Quốc phòng có bà Michele Flournoy, từng là thứ trưởng quốc phòng về chính sách dưới thời Tổng thống Obama. Bà là người chủ trương phải cứng rắn với Trung Quốc.
"Biển Đông đã trở thành một chiến trường quan trọng cho cuộc đối đầu chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nơi mà Hoa Kỳ có thể huy động các nước trong khu vực chống lại Bắc Kinh, và dùng các tuyên bố chủ quyền quá tham lam của Trung Quốc để tập hợp các đồng minh".
Tiến sĩ Hiệp nhận định :
"Vì vậy dưới một chính phủ Biden, Hoa Kỳ và các đồng minh có phần chắc sẽ tiếp tục duy trì, và ngay cả tăng cường, sự hiện diện của họ ở Biển Đông".
Tại một cuộc họp trực tuyến với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á hôm thứ Năm tuần trước, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nói đẩy mạnh các quan hệ với 10 nước ASEAN là một trong các ưu tiên của Bắc Kinh. Ông Lý kêu gọi đẩy nhanh cuộc đàm phán về một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Ông đề nghị một thời hạn 3 năm để tạo bộ quy tắc đó.
Ông Wu nói chính sách của Washington bác bỏ phần lớn những yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông, tình hình xáo trộn chính trị ở Malaysia, thay đổi thành phần lãnh đạo ở các cấp cao nhất có thể xảy ra ở Việt Nam và ở Philippines trong 2 năm tới có thể phức tạp hóa thêm tiến trình đàm phán.
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp nói bất chấp những trở ngại đó, Bắc Kinh vẫn nóng lòng muốn hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Đào sâu thêm sự thù nghịch Mỹ-Trung có thể khuyến khích Trung Quốc đẩy nhanh tiến trình đàm phán", ông nói.
"Mặt khác, nó có thể khiến Washington tăng hậu thuẫn cho các nước để kháng cự lại các yêu sách của Trung Quốc, như nên loại các nước ‘ngoài khu vực’ (như Hoa Kỳ), ngăn cấm các cuộc diễn tập quân sự hay các hoạt động kinh tế trên Biển Đông".
Tờ South China Morning Post trích lời các chuyên gia nói một chính phủ Joe Biden có phần chắc cũng cứng rắn không kém chính quyền Donald Trump liên quan tới các bất đồng giữa Washington và Bắc Kinh như vấn đề Biển Đông.
Tờ báo dẫn lời Giáo sư Jay Batongbacal, Viện trưởng Viện Hàng hải và Luật biển của Đại học Philippines, nói : "Xét quá trình của ông Biden là một nhà lập pháp lão thành, chúng ta sẽ chứng kiến sự tăng cường hợp tác đa phương nhằm tăng sức ép để giải quyết các vấn đề trên toàn cầu".
Chuyên gia về Đông Nam Á, Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales, nói rằng dưới quyền Tổng thống Biden, các nước trong khu vực sẽ ít bị áp lực hơn phải chọn phe giữa căng thẳng Mỹ-Trung.
Giáo sư Thayer nói liên minh Mỹ-Nhật-Hàn sẽ bớt đối đầu và hài hòa hơn dưới một chính phủ Biden. Mặt khác, Giáo sư Thayer lưu ý rằng lập trường của Tổng thống tân cử Joe Biden đối với Trung Quốc đã trở nên cứng rắn hơn trong thập niên qua. Ông Biden đặt nặng vấn đề nhân quyền hơn trong các quan hệ song phương. Trong chiến dịch vận động, ông Biden đã đả kích các hành động của Bắc Kinh ở Hong Kong, miêu tả chính sách của Trung Quốc đối với các nhóm thiểu số Hồi giáo ở Tân Cương là "vô lương tâm", và còn gọi Chủ tịch Tập Cận Bình là "côn đồ" trong một cuộc tranh luận với ứng cử viên Bernie Sanders hồi tháng Hai năm nay.
"Ông ta (Tập) là một kẻ côn đồ, thực tế là ông ta đã đẩy 1 triệu người Uighur vào các trại cải tạo, có nghĩa là các trại tập trung".
Ông Biden cho biết đã có lần ông nói thẳng với ông Tập rằng Hoa Kỳ sẽ thách thức "vùng cấm bay" của Trung Quốc trên Biển Đông, ông tuyên bố : "Chúng tôi sẽ điều máy bay thả bom B-1 bay qua vùng cấm bay", và ông nói thêm : "Chúng tôi sẽ khẳng định rõ, rất rõ, rằng tất cả các bên phải tuân thủ các quy định chung. Chấm hết, chấm hết, chấm hết".
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, các quan hệ với Trung Quốc không phải là ưu tiên số Một của tân chính phủ Biden. Một nhà phân tích Trung Quốc không cho biết danh tính nói với FT :
"Trong bối cảnh hiện nay, những vấn đề trước mắt đối với tân chính phủ Biden là các vấn đề đối nội, khởi sự với nỗ lực đối phó với dịch Covid-19, kế đến là vấn đề kinh tế và cấu trúc hạ tầng". Nhưng một khi các vấn đề này tạm ổn, thì các quan hệ với Bắc Kinh sẽ được nâng lên hàng ưu tiên cao nhất.
Nguồn : VOA, 18/11/2020
************************
Ông Biden ‘sẽ tập hợp đồng minh đối phó Trung Quốc’ ?
VOA, 18/11/2020
Chính quyền của Tổng thống đắc cử Mỹ Joe Biden sẽ có sự phối hợp chặt chẽ với các đồng minh để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc và tìm cách đưa nước này tuân theo những luật lệ của thế giới, một nhà quan sát chính trị từ Canada nhận định với VOA.
Ông Biden tiếp ông Tập Cận Bình đến thăm Washington hồi năm 2015 khi ông Biden làm phó tổng thống
Khác với chính sách của Tổng thống đương nhiệm Donald Trump ‘Nước Mỹ trên hết’ và tìm cách rút Mỹ ra khỏi các định chế quốc tế, ông Joe Biden tuyên bố nước Mỹ sẽ quay trở lại vũ đài quốc tế.
"Khi tôi nói chuyện với các nhà lãnh đạo nước ngoài, tôi đã bảo họ : Nước Mỹ sẽ quay trở lại. Chúng tôi sẽ quay trở lại cuộc chơi", ông Joe Biden viết trên Twitter vào tối ngày 10/11 sau khi ông điện đàm với các nhà lãnh đạo Anh, Pháp, Đức.
‘Mỹ cần đồng minh’
Nhận định về vấn đề này, Giáo sư-luật sư Vũ Đức Khanh từ Canada, chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế, nói ông ‘tin tưởng ông Joe Biden có thể tập hợp các đồng minh và tiếng nói của thế giới để kêu gọi mọi người tuân theo khuôn khổ luật pháp quốc tế’.
Ông phân tích dù cho nước Mỹ mạnh đến đâu cũng ‘không thể nào đánh bật Trung Quốc ngay cả trên vấn đề kinh tế thương mại nếu không có sự phối hợp của các nước đồng minh’.
Luật sư Khanh dẫn chứng thậm chí vào lúc các nước phương Tây mạnh và Trung Quốc suy yếu như vào đầu thế kỷ 20 thì cũng phải cần ‘liên minh tám nước mới tấn công vào kinh thành Bắc Kinh của triều đình Mãn Thanh’.
Chỉ ra việc các đồng minh trụ cột của Mỹ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc vừa ký kết tham gia gia vào khối thương mại tự do với Trung Quốc có tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế Khu vực Toàn diện (RCEP), ông Khanh nói : "Có thể các nước đồng minh này không còn tin tưởng Mỹ nữa chăng nên mới đi đến bước đó ?"
Ông nhận xét khối RCEP sẽ giúp Bắc Kinh gia tăng ảnh hưởng lên các nước trong khu vực trong khi ‘nước Mỹ đang vật lộn với các vấn đề trong nước, chưa hàn gắn được với các đồng minh Châu Âu và chưa củng cố được trục tứ giác với Nhật, Ấn và Úc’.
Về phía Canada, nhà quan sát này cho biết nước này đã ‘chìa tay ra đón nhận chính quyền của ông Biden’ với việc mới đây Quốc hội Canada đã ra một nghị quyết được sự đồng thuận của tất cả các đảng để mời ông Joe Biden đến phát biểu trước Quốc hội.
Theo quan sát của ông thì trong bối cảnh thế giới hiện nay, ‘con đường duy nhất để đưa Trung Quốc vào quỹ đạo là cần có sự đồng thuận của các quốc gia trên thế giới’ vì ‘Trung Quốc sẽ không khoanh tay chịu trận’.
‘Hợp tác để đấu tranh’
"Chính quyền Biden với những nhân sự của họ và với lý tưởng mà họ theo đuổi mấy trăm năm qua thì không có chuyện họ quỳ lụy trước Trung Quốc", nhà phân tích này nhận định.
"Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đều thấy được hiểm họa từ Trung Quốc và có chính sách đồng thuận với nhau là bằng mọi giá phải kiềm chế và đưa Trung Quốc vào khuôn khổ, vào trật tự thế giới mới", ông diễn giải.
Giáo sư luật bán thời gian tại Đại học Ottawa cho rằng ‘không phải hành xử theo kiểu ăn to nói lớn mới là mạnh, là hiệu quả,’ đồng thời dự đoán rằng chính quyền của ông Joe Biden sẽ không chọn cách đối đầu với Trung Quốc – ‘sẽ không dựng lên bức tường như thời Chiến tranh Lạnh’ – mà sẽ hợp tác với Bắc Kinh để đưa họ vào quỹ đạo luật chơi của thế giới.
"Sự mềm dẻo của Đảng Dân chủ dựa trên sức mạnh của Hoa Kỳ trên 250 năm mà có, đó là sức mạnh từ giá trị của người Mỹ", ông Khanh nhận xét.
‘Cần điều chỉnh TPP’
Theo luật sư Vũ Đức Khanh, mặc dù trong bốn năm qua, chính quyền ông Donald Trump có những hành động mạnh trên Biển Đông nhưng Bắc Kinh vẫn tiếp tục sự lấn lướt chẳng hạn như củng cố các thực thể đã xây dựng, quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của các nước trong đó có sự đối đầu với Việt Nam ở Bãi Tư Chính.
"Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng ở Biển Đông. Họ chỉ nhượng bộ trước sức ép của cộng đồng quốc tế", ông nói và bày tỏ tiếc nuối trước việc Mỹ đã từ bỏ Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP mà chính quyền của ông Barack Obama đã mất 7 năm đàm phán.
"TPP là một thế trận để kiềm hãm Trung Quốc và đưa Trung Quốc vào trật tự và luật pháp quốc tế", ông nói và cho biết TPP cũng là một cơ chế tạo sự thịnh vượng chung cho những nước tham gia và từ đó mới gắn kết cùng với Mỹ đối phó Trung Quốc.
"Ông Trump đã bất chấp sự vận động vào phút chót của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe rằng Mỹ nên ở lại TPP mà dứt khoát rút khỏi TPP", ông Khanh chỉ trích và cho rằng hành động này ‘đã giáng một đòn mạnh vào thế giới tự do’.
Dù ông Biden từng nằm trong chính quyền ông Barack Obama nhưng cũng ‘khó mà quay trở lại TPP như trước,’ ông Khanh nói và bày tỏ hy vọng "Ông ấy sẽ xem lại đoạn đường đã qua và tìm cách điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình mới".
Về mối quan hệ Washington-Hà Nội dưới thời Biden, luật sư Vũ Đức Khanh nói ông ‘tin chính quyền Biden sẽ trân quý mối quan hệ Mỹ-Việt được phát triển trong 4 năm qua và sẽ tăng tốc mối quan hệ đó để làm sao Việt Nam vẫn là bạn của Mỹ để cùng các nước khác gìn giữ hòa bình và ổn định trong khu vực’.
‘Tiếp cận kiềm chế hơn’
Tờ South China Morning Post nhận định rằng dưới thời ông Joe Biden, Biển Đông sẽ vẫn là
‘điểm nóng tiềm tàng’ trong quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh nhưng Washington sẽ có cách tiếp cận ‘kiềm chế hơn’.
"Ông ấy có khả năng quan tâm nhiều hơn đến Biển Đông nhưng các chính sách của ông ấy sẽ cân bằng hơn và kiềm chế hơn", ông Wu Shicun, người đứng đầu Viện Nghiên cứu Biển Đông Quốc gia, vốn tư vấn cho chính phủ Trung Quốc, được SCMP dẫn lời nói.
Một thay đổi có thể xảy ra là Hải quân Hoa Kỳ sẽ ít tổ chức các cuộc tuần tra vì tự do hàng hải hơn ở Biển Đông, ông Wu nhận định.
Các cuộc tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông là một nội dung trong các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Barack Obama, nhưng đã trở nên thường xuyên hơn dưới thời ông Donald Trump, vốn cho phép Ngũ Giác Đài linh hoạt hơn trong việc lên kế hoạch tuần tra tại các vùng biển tranh chấp.
Mỹ đã có tám cuộc tuần tra vì tự do hàng hải trong năm nay, bằng với năm 2019, nhưng tăng so với sáu vào năm 2018 và bốn mỗi năm trong ba năm trước đó.
Ông Lê Hồng Hiệp, một học giả tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á Yusof Ishak ở Singapore, cho rằng ai được ông Biden chọn cho các vị trí trong Bộ Quốc phòng sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ của Washington với Bắc Kinh về Biển Đông.
Trong số những tên tuổi hàng đầu cho vị trí Bộ trưởng Quốc phòng hiện nay là bà Michele Flournoy, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng dưới thời ông Obama và được biết đến với lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc.
"Biển Đông đã trở thành chiến trường quan trọng cho cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, nơi Mỹ có thể huy động các nước trong khu vực chống lại Bắc Kinh, dùng yêu sách lãnh thổ quá đáng của Trung Quốc như lời hiệu triệu sự ủng hộ", ông Hiệp nói với SCMP.
"Như vậy, dưới thời ông Biden, Mỹ và các đồng minh có khả năng sẽ tiếp tục duy trì hoặc thậm chí tăng cường can dự của họ ở Biển Đông", ông Hiệp dự đoán.
Nguồn : VOA, 18/11/2020
***********************
Biden sẽ không đảo ngược cuộc chiến thương mại của Trump chống Trung Quốc ?
VOA, 18/11/2020
Việc Tổng thống Trump công kích Trung Quốc mạnh mẽ chưa đem lại nhiều lợi ích kinh tế lâu dài, nhưng đạt được một thành công cơ bản : Từ nay, bất cứ chính quyền nào của Mỹ cũng không thể nương nhẹ với Trung Quốc, đối thủ lớn nhất của Mỹ, theo một bài báo hôm 18/11 trên trang web của đài National Public Radio (NPR).
Tổng thống đắc cử Joe Biden nói về khôi phục kinh tế hôm 16/11/2020 ở Wilmington, Delaware. (AP Photo/Andrew Harnik)
NPR điểm lại rằng trong nghị trình thương mại "Nước Mỹ trên hết" của mình, ông Trump đặt trọng tâm vào việc đối đầu với Trung Quốc, tung ra các cuộc tấn công ráo riết vào các chính sách của Bắc Kinh và châm ngòi một cuộc chiến thương mại với việc áp thuế vào 2/3 hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trong thời gian tới, mặc dù Tổng thống đắc cử Joe Biden có thể sẽ nói với giọng điệu lịch sự hơn, song khó có chuyện ông sẽ nhẹ tay với Trung Quốc vì thái độ của nước Mỹ đã thay đổi theo hướng tiêu cực trong những năm gần đây khi xét đến thương mại và các hiệp định lớn tầm cỡ toàn cầu, bài báo của đài NPR cho biết.
Đồng thời, vẫn theo NPR, cả hai chính đảng lớn nhất của Mỹ đều ngờ vực Trung Quốc, đặc biệt là chính những người theo đường lối tiến bộ đã bầu cho ông Biden càng có thái độ như vậy.
"Tôi nghĩ những tuyên bố rực lửa liên tục mà Tổng thống Trump tung ra nói về Trung Quốc làm cho bất cứ chính quyền nào cũng không thể thay đổi đường hướng ngay lập tức khi họ lên nắm quyền", Chad Brown, nghiên cứu sinh cao cấp tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson nói với NPR.
Các chuyên gia ghi nhận rằng ông Trump đã thành công trong việc chuyển hướng cuộc tranh luận về Trung Quốc với việc ông liên tục cáo buộc Bắc Kinh có những chính sách "hung ác" làm rút ruột các ngành công nghiệp của nước Mỹ.
Một yếu tố khác, theo ý kiến của Arthur Dong, giáo sư Trường Kinh doanh McDonough thuộc Đại học Georgetown, đăng trên NPR, là tình trạng mất việc làm và các hãng xưởng đóng cửa kéo dài nhiều năm làm cho công chúng có cái nhìn khắt khe hơn về thương mại, đặc biệt là ở các bang có sức nặng đối với bầu cử như Pennsylvania, Ohio và Michigan.
"Tôi nghĩ ông Biden ý thức được về điều đó", giáo sư Dong nói.
Ứng cử viên Joe Biden chụp ảnh selfie với ủng hộ viên tại cuộc mít tinh với công đoàn ngành điiện, 20/7/2019, ở Las Vegas. (AP Photo/John Locher)
Các tổ chức công đoàn và các nhóm cánh tả đã góp phần bầu cho ông Biden cũng có thái độ thù địch đối với Trung Quốc. Bên cạnh đó, họ coi việc đảng Dân chủ ủng hộ cho một số hiệp định trước đây, trong đó có NAFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ), là một sự phản bội.
Vì vậy, Waleed Shahid, phát ngôn viên của nhóm Justice Democrats theo đường lối tiến bộ, đưa ra nhận định với NPR : "Tôi nghĩ đảng Dân chủ thời những năm 1990 không còn phù hợp với các khu vực bầu cử ngày nay và nền kinh tế ngày nay. Tôi hy vọng rằng Joe Biden bổ nhiệm nhân sự là những người hiểu được điều đó".
Áp lực từ cả hai phía tả-hữu như vậy có nghĩa là ít có khả năng ông Biden sẽ đảo ngược các mức thuế quan mà ông Trump đã áp.
Nhưng ông Biden có ít lựa chọn tốt để gây sức ép với Trung Quốc. Một trong những điều làm trói tay ông Biden là cảm tình trên thế giới dành cho nước Mỹ dưới thời ông Trump đã thay đổi.
Trong giai đoạn tranh cử, ông Biden chỉ trích việc ông Trump có chính sách đơn phương trong đương đầu với Trung Quốc. Theo ông Biden, Mỹ cần có đồng minh là Châu Á và Châu Âu để buộc Bắc Kinh tuân theo luật lệ thương mại.
Nhưng nói dễ hơn làm, theo NPR. Chính quyền của Tổng thống Obama thiết kế ra Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) để lập ra đại liên minh 12 nước ở vành đai Thái Bình Dương nhắm đến kiềm chế Trung Quốc.
Nhưng ông Trump đã vứt bỏ TPP ngay khi ông nắm quyền. Còn ông Biden nói ông sẽ không ủng hộ nó nếu không có những cải thiện lớn về việc bảo vệ môi trường và lao động.
Trong khi đó, thế giới vẫn tiến về phía trước mà không cần có Mỹ. Hôm 15/11, Trung Quốc, Việt Nam và 14 nước khác đã ký một hiệp định kinh tế của họ, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).
Ngoài ra, ông Biden còn vướng một rào cản nữa khi ông nỗ lực lãnh đạo các nước khác kiềm chế Trung Quốc.
Wendy Cutler, cựu Quyền Phó Đại diện Thương mại Mỹ, nói với NPR rằng ông Trump đụng độ trong lĩnh vực thương mại không chỉ với Trung Quốc mà cả các nước bạn như Canada và Mexico, làm các đồng minh chủ chốt tức giận và gây tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Mỹ ở nước ngoài.
Do vậy, "các đồng minh và đối tác rất không tin tưởng Mỹ, cụ thể là về thương mại. Và nói thẳng ra, các nước ngày càng chán chường về Mỹ", Cutler nói.
Nhưng trở ngại lớn nhất đối với việc Mỹ kiềm chế Trung Quốc là ông Biden phải dành ưu tiên cao nhất cho việc hồi phục kinh tế Mỹ từ suy thoái do đại dịch, phải gác lại các vấn đề khác, Cutler nhận định với NPR.
Chính quyền của Tổng thống Trump được ghi nhận đã tạo bước ngoặt trong đương đầu với Trung Quốc về thương mại.
Một bài báo gần đây của tạp chí Forbes cũng chỉ ra rằng ban vận động bầu cử của ông Biden từng đánh tín hiệu rằng ông Biden – nay là tổng thống đắc cử - sẽ ưu tiên làm việc về gói cứu trợ mới để xử lý đại dịch và đầu tư trong nước, trước khi xét đến các thỏa thuận thương mại mới.
Về câu hỏi liệu ông Biden có chuyển hướng những động thái thương mại mà ông Trump đã làm hay không, tạp chí Forbes cho rằng có thể có, nhưng sẽ phải sau một thời gian.
Còn trong giai đoạn đầu, chính quyền tương lai của ông Biden sẽ hàn gắn các quan hệ với các đồng minh để tạo ra một mặt trận thống nhất trong cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, vẫn theo Forbes.
Khi còn tranh cử, hồi tháng 9, cố vấn thương mại Tony Blinken của ông Biden nói rằng ông sẽ không loại trừ việc áp thêm thuế, nhưng sẽ "sử dụng thuế quan khi cần và phải có chiến lược và có kế hoạch", bài báo của Forbes cho hay.
Forbes chỉ ra rằng hiện chưa rõ ông Biden sẽ cứng rắn đến mức nào với Trung Quốc, song kế hoạch "Chế tạo tại Hoa Kỳ" của ông - có nhiều điểm giống với kế hoạch "Nước Mỹ trên hết" của ông Trump" - hứa hẹn có "các hành động chấp pháp mạnh mẽ về thương mại" để bảo vệ chống lại các hành xử bất công của Trung Quốc hay bất cứ nước nào khác "tìm cách chơi xấu nền chế tạo của Mỹ".
Điểm sáng của chính quyền Biden sắp tới, theo Forbes, là tính chất lường trước được. Những thay đổi về chính sách thương mại của ông Biden sẽ ít có khả năng làm các nhà đầu tư bất ngờ, và cũng ít có khả năng là ông sẽ thay đổi ý định hay đưa ra những tuyên bố hoặc lời đe dọa bất chợt giống người tiền nhiệm Donald Trump, Forbes tiên liệu.
Nguồn : VOA, 18/11/2020
Biển Hoa Đông : Bắc Kinh đặt tên 50 thực thể ngầm trong vùng tranh chấp với Nhật (RFI, 25/06/2020)
Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post hôm nay, 25/06/2020, Trung Quốc thông báo đặt một loạt tên mới cho các thực thể ngầm trong vùng biển Hoa Đông, đang có tranh chấp chủ quyền với Nhật.
Một khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Ảnh chụp năm 2012. © Reuters
Trang mạng bộ Tài Nguyên Trung Quốc tối 23/06, đăng thông báo về tên gọi mới cho 50 thực thể ngầm, bao gồm các đảo chìm, đảo nổi và bãi ngầm. Theo thông báo, mục đích của việc đặt lại tên gọi này là để "chuẩn hóa tên gọi địa hình bản đồ".
Các thực thể được đặt tên mới nằm trong quần đảo mà Trung Quốc gọi là "Điếu Ngư", Nhật gọi là "Senkaku". Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản tranh chấp chủ quyền đối với chuỗi đảo không có người ở, nhưng nằm giữa vùng biển giàu tài nguyên. Đây là điểm nóng trong quan hệ Trung-Nhật.
Theo nhật báo Hồng Kông, quyết định trên được đưa ra sau khi Bắc Kinh cảnh báo sẽ trả đũa việc chính quyền thành phố Ishigaki của Nhật hôm 22/06 thông qua quyết định đặt tên lại cho một nhóm đảo trên biển Hoa Đông, trong đó có cả quần đảo Senkaku. Hội đồng thành phố đã thay đổi tên gọi "vùng hành chính phía nam" của Nhật thành "vùng Tonochiro Senkaku", quản lý cả quần đảo Senkaku. Động thái này của chính quyền Nhật bị cả Trung Quốc và Đài Loan nhìn nhận như là ý đồ xác quyết chủ quyền với các đảo Senkaku, theo tên gọi của Nhật.
Ngay hôm thứ Hai tuần này, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng phản ứng. Theo Bắc Kinh, việc thay đổi tên gọi địa phương nói trên của Nhật là "thách thức nghiêm trọng với chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc", đồng thời cảnh báo sẽ trả đũa hành động mà Bắc Kinh gọi là "bất hợp pháp".
Hôm Thứ Ba, bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Taro Kono thông báo đã phát hiện một tàu ngầm Trung Quốc gần một đảo ở phía tây nam Nhật hồi tuần trước.
Tranh chấp chủ quyền quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, cách đảo Okinawa khoảng 200 km về phía tây nam, dấy lên từ cuối năm 2012, khi chính quyền Tokyo quyết định chuyển quyền quản lý quần đảo này, từ tư nhân sang Nhà nước.
Trong một động thái khác, theo AFP, hôm nay, 25/06/2020, Tokyo khẳng định hủy bỏ việc triển khai hệ thống phòng thủ chống tên lửa Mỹ Aegis Ashore trên lãnh thổ Nhật. Quyết định được bộ trưởng Quốc Phòng Nhật thông báo trong cuộc họp với đảng cầm quyền Tự Do Dân Chủ. Dự án trị giá 4,2 tỷ đô la trên đã được chính phủ Shinzo Abe thông qua năm 2017.
Anh Vũ
*******************
Việt Nam và Nhật Bản lên tiếng quan ngại về tình hình Biển Đông (RFA, 25/06/2020)
Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh, bày tỏ quan ngại về những diễn biến gần đây tại Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Taro Kono trong một họp báo ở Tokyo hôm 11/9/2019 -Reuters
Phát biểu về vấn đề Biển Đông như vừa nêu của ông Phạm Bình Minh được đưa ra tại cuộc họp trực tuyến Hội nghị Cộng đồng Chính trị- An ninh ASEAN lần thứ 21 diễn ra vào ngày 24 tháng 6. Cuộc họp có sự tham dự của bộ trưởng ngoại giao 10 nước ASEAN và Tổng thư ký ASEAN.
Tại cuộc họp, ông Phạm Bình Minh cho rằng các nước cần phát huy tinh thần trách nhiệm, đối thoại và hợp tác vì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông.
Cũng tin liên quan tình hình Biển Đông, Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản, ông Taro Kono, cho rằng hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông hiện nay là ‘đáng báo động’.
Vào ngày 23 tháng 6 vừa qua, hai tàu huấn luyện của Nhật Bản là JS Kashima và JS Shimayuki đã có cuộc diễn tập với tàu tác chiến cận bờ của Hải quân Hoa Kỳ, USS Gabrirlle Giffords, tại Biển Đông.
Động thái này chứng tỏ quan ngại của Nhật Bản về tình hình tại Biển Đông mà căng thẳng được nói do Trung Quốc gây nên.
********************
Thư ngỏ kêu gọi các lãnh đạo giải quyết quan ngại về nhân quyền tại thượng đỉnh ASEAN 36 (RFA, 25/06/2020)
Các lãnh đạo tham dự hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 phải giải quyết quan ngại về vấn đề nhân quyền trong đợt dịch Covid-19.
Một người đàn ông đi qua tấm biển cổ động cho Thượng đỉnh ASEAN 36 ở Hà Nội hôm 25/6/2020 AFP
Đây là yêu cầu được nêu ra trong thư ngỏ ký bởi Chủ tịch Các Nghị Viên ASEAN về Nhân quyền, Charles Santiago, gửi đến Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, và đồng gửi đến thủ tướng của 9 nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á còn lại.
Thư ngỏ được gửi đi nhân tuần diễn ra hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 mà Việt Nam năm nay là chủ tịch luân phiên. Theo đó, những nghị viên thuộc mạng lưới khu vực Đông Nam Á cam kết cổ xúy và bảo vệ nhân quyền, thúc giục các lãnh đạo ASEAN phải bảo đảm đặt nhân quyền là trọng tâm cho công tác ứng phó dịch Covid-19 và hậu quả của dịch này.
Theo thư ngỏ, khu vực ASEAN trong khi nên được khen ngợi về thành công trong công tác ngăn chặn dịch Covid-19, tuy nhiên lại để lộ ra những yếu kém lớn và bất nhất trong hệ thống điều hành. Khu vực ASEAN không bảo vệ được những người rơi vào hoàn cảnh bị tổn thương nhất ; đặc biệt là những công nhân nhập cư và người tỵ nạn.
Đợt dịch Covid-19 cũng là lúc gia tăng những hạn chế về quyền tự do biểu đạt và giọng điệu hận thù đối với những nhóm bị gạt ra bên lề xã hội.
Thư ngỏ cho rằng dịp họp cấp cao ASEAN 36 trong tuần này dưới sự chủ trì của Thủ tướng Việt Nam, Nguyễn Xuân Phúc, là cơ hội để khối ASEAN có thể học hỏi và trưởng thành qua thời kỳ đầy thử thách hiện nay, bằng cách bảo đảm rằng từ thời điểm này trở đi, các chính sách của khu vực không loại trừ bất cứ ai và cổ xúy cho một xã hội công bằng hơn, bình đẳng hơn và bền vững hơn.
Trong cuộc phỏng vấn với BBC, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ Việt Nam khẳng định bốn kịch bản Trung Quốc có thể làm nếu bị Việt Nam kiện ra tòa quốc tế do ông Ngô Sỹ Tồn (Wu Shicun), Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông (National Institute for South China Sea Studies - NISCSS) công bố mới đây chỉ mang "tính chất hăm dọa, kích động, và không có gì mới" bởi "trong thực tế Trung Quốc đã làm những điều này từ lâu".
Tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi bị tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tại Hoàng Sa ngày 2/4
Trong kịch bản một, Trung Quốc dọa sẽ công bố hệ thống đường cơ sở ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ gọi là Nam Sa.
Trên thực tế, Trung Quốc đã làm điều này từ 1996, khi họ nối tất cả các điểm ngoài cùng của các thực thể thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, để tạo thành đường cơ sở, như là một quốc gia quần đảo. Đây là việc Trung Quốc giải thích và áp dụng hoàn toàn sai Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982).
Nhiều học giả đã phân tích về hành động sai trái này. Đặc biệt trong công hàm của phái đoàn thường trực của Việt gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vừa qua cũng khẳng định quan điểm của UNCLOS 1982, quy định rằng không thể nối tất cả các điểm của các thực thể ở ngoài cùng quần đảo Hoàng Sa để biến nó thành một đường cơ sở, như là một quốc gia quần đảo.
Ông Trục cho rằng Trung Quốc đang làm tương tự với quần đảo Trường Sa. Sở dĩ họ chưa công bố đường cơ sở ở đây là do bị lên án rất nhiều, cho nên họ đang tính toán. Họ cũng đang tính toán để mở rộng, chiếm đóng thêm một số bãi cạn nằm ngoài quần đảo Trường Sa, gần thềm lục địa đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia và Philippines.
Đây là việc cố tình giải thích, áp dụng sai công ước để hiện thực hiện yêu sách đường chín đoạn phi pháp. Bây giờ họ chỉ nhắc lại chuyện cũ này, nó không có giá trị gì về mặt luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, ông Trục nhận định đây là kịch bản mà Trung Quốc có khả năng làm được nhất bởi việc công bố đường cơ sở của quần đảo Nam Sa sẽ góp phần thực thi sách lược mà Trung Quốc gọi là Tứ Sa, biện minh cho yêu sách đường lưỡi bò phi pháp.
Đối với kịch bản hai, Trung Quốc đe dọa đẩy mạnh việc ngăn cấm, đánh đập, giam cầm các ngư dân Việt Nam hoạt động trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Điều này họ cũng làm lâu rồi. Năm nào Trung Quốc cũng công bố quyết định cấm đánh bắt cá, năm nào cũng đốt tàu, bắt giam, đánh đập ngư dân Việt Nam.
Quốc tế cũng đã đánh giá đây là hành động "cướp biển" mang tính chất nhà nước. Và Trung Quốc sẽ tiếp tục làm điều này chừng nào họ đạt được tham vọng khống chế, độc chiếm Biển Đông, chứ không cần chờ đến lúc Việt Nam kiện.
Tuy nhiên, theo ông Trục, việc Trung Quốc ngăn chặn hoạt động bảo vệ, quản lý của các lực lượng của Việt Nam trên các thực thể thuộc chủ quyền của Việt Nam trong tình hình hiện nay hoàn toàn không phải là việc đơn giản bởi Việt Nam đang nỗ lực hợp tác cùng các quốc gia khác để tăng cường sức phòng thủ và sức chiến đấu của mình.
Khi chạm đến lãnh thổ thiêng liêng thì theo truyền thống của người Việt Nam "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Dù kiềm chế xung đột, nhưng nếu lãnh thổ bị xâm phạm, thì chắc chắn người Việt Nam sẽ cầm súng đứng lên bảo vệ và chiến đấu đến phút cuối cùng. Do đó Trung Quốc không dễ dàng làm được điều này.
Đối với kịch bản ba, Trung Quốc dọa tăng cường ngăn cản Việt Nam quân sự hóa ở Trường Sa. Việc họ nói Việt Nam quân sự hóa là hoàn toàn bịa đặt. Trung Quốc mới chính là nước đang quân sự hóa trên Biển Đông.
VN có mặt ở đó, trên 21 vị trí trên quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, và có các lực lượng quân đội, khoa học kỹ thuật, nhân sự để quản lý và bảo vệ chủ quyền của mình trên các thực thể đó là điều rất bình thường mà Việt Nam vẫn làm từ trước đến nay để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Từ lâu Trung Quốc đã uy hiếp Việt Nam, thậm chí dùng vũ lực để đánh chiếm, gây ra thảm họa cho người Việt Nam trong lúc đang làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Hoàng Sa, như vụ Gạc Ma.
Trung Quốc sẽ tiếp tục các hành động này, nhưng trong bối cảnh hiện nay khi nhiều nước trên thế giới đã lên tiếng phản đối, Trung Quốc sẽ phải cân nhắc ít nhiều trước khi hành động.
Đối với kịch bản thứ tư, Trung Quốc dọa triển khai khai thác dầu khí ở Bãi Tư Chính. Trên thực tế Trung Quốc đã thực hiện rồi, nhưng mà làm không được.
Nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc ngang nhiên hoạt động ở khu vực bãi Tư Chính
Năm ngoái Trung Quốc đưa tàu địa chất Hải Dương vào hoạt động ở Bãi Tư Chính hơn một tháng để thăm dò điều kiện nhằm tiến hành khai thác ở đây.
Trung Quốc đã làm việc này nhiều lần và cho tới nay Việt Nam vẫn đứng vững ở đó, vẫn tiến hành thăm dò khai thác dầu khí và vẫn bảo vệ được các quyền hợp pháp của mình trong khu vực này.
Trong bối dịch bệnh Covid-19 hiện nay, dù Trung Quốc đang tính toán để "đục nước béo cò", "mượn gió bẻ măng", nhưng những nước khác trong khu vực, cả kể những nước trước đây mềm mỏng với Trung Quốc như Malaysia, Philippines, Indonesia nay cũng có những tiếng nói phản đối mạnh mẽ Trung Quốc và ủng hộ lập trường của Việt Nam.
Các nước mạnh trên thế giới như Mỹ, EU, Ấn Độ, Nhật Bản đều lên tiếng phản đối Trung Quốc và kêu gọi cộng đồng quốc tế thượng tôn pháp luật. Nếu Trung Quốc tiếp tục các hành động trắng trợn này thì nhân loại sẽ không để yên. Vì vậy, ông Trục nhấn mạnh dù Trung Quốc đe dọa, hung hăng, nhưng có làm được không còn là câu chuyện khác.
Cũng theo ông Trục, tại thời điểm này, Việt Nam chưa nên kiện Trung Quốc về Biển Đông.
Tàu ngầm lớp Kilo 636 của Nga được giao cho Việt Nam
Ông phân tích : "Cái có thể kiện hiện nay là như Philippines đã làm, kiện Trung Quốc về việc áp dụng sai công ước UNCLOS 1982. Nhưng nên nhớ rằng dù có phán quyết của tòa án, việc thực thi phán quyết lại không triển khai được do cơ chế thi hành án của các cơ quan tài phán quốc tế hiện nay phải thông qua Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc là thành viên thường trực, có quyền phủ quyết.
Nghĩa là, thắng kiện thì được lợi về chính trị, ngoại giao, pháp lý, dư luận, và kết quả thắng đó sẽ trở thành một thực tiễn trong luật pháp quốc tế để người ta căn cứ vào đó đấu tranh để bảo vệ công lý. Nhưng như đã nói, việc thi hành phán quyết trên thực tế là không có. Do đó Việt Nam phải tính. Việc tập hợp ý kiến của các chuyên gia, luật sư, dư luận để cùng nhau có tiếng nói thống nhất là rất cần thiết".
Vị chuyên gia cho rằng thời điểm nay Việt Nam cần tập hợp thêm dư luận để đấu tranh ngoại giao, tăng cường đoàn kết để duy trì công ước UNCLOS 1982.
Ông nói : "Trước việc Trung Quốc bất chấp tất cả để thực hiện các hành vi phi pháp thì trước mắt tự bản thân Việt Nam phải đoàn kết, đánh giá bản chất các sự kiện một cách bình tĩnh, khoa học chứ không phải trên cơ sở duy ý chí. Muốn như vậy phải thể hiện rõ ràng lập trường pháp lý của mình để bạn bè quốc tế đồng tình ủng hộ. Tôi nghĩ vừa rồi Việt Nam đã làm được một số điều trong các việc này, do đó nhận được sự ủng hộ của nhiều nước trên thế giới.
Tiềm lực quốc phòng của Việt Nam ngày càng được cải thiện hơn. Việt Nam đủ sức tự vệ trước hành động phi pháp của các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc".
Hiện nay, Trung Quốc đang đứng trước muôn vàn khó khăn, bế tắc từ đối nội cho đến đối ngoại.
Trong nước, đại dịch Viêm phổi Vũ Hán đã khiến hàng chục triệu người mất việc ở Trung Quốc, gây áp lực lên mạng lưới phúc lợi xã hội chắp vá và tạo ra thách thức lớn cho Bắc Kinh. Kinh tế giảm 6,8% trong quý đầu tiên và hiện tại là cuộc khủng hoảng thất nghiệp đã bộc lộ những vấn đề sâu sắc trong sự phát triển và phân phối tài sản ở Trung Quốc. Sau bốn thập kỷ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nhiều người lao động giờ đây thấy mình phải hoàn toàn tự lo cho bản thân hoặc sống dựa vào tiền tiết kiệm của gia đình. Trong khi đó năm 2020 được dự kiến sẽ là một cột mốc quan trọng, với mục tiêu quốc gia này sẽ trở thành "một xã hội thịnh vượng toàn diện" vào cuối năm, được thể hiện ở quy mô nền kinh tế tăng gấp đôi so với năm 2010, cùng với việc xóa đói giảm nghèo đã được thực hiện thắng lợi. Kế hoạch 2020 của ông Tập đã bị virus Vũ Hán làm cho phá sản, lời hứa của ông trước 1,4 tỷ người dân Trung Quốc sẽ trở thành lời hứa suông và hoàng đế Tập sẽ trở thành kẻ thất hứa.
Chưa kể khu vực phía nam Trung Quốc nhiều ngày liên tiếp mưa lớn gây lũ lụt, 24 tỉnh thành như Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quý Châu, Trùng Khánh, v.v, liên tiếp có thông tin về thảm họa, ít nhất 8,512 triệu người bị ảnh hưởng, 138.000 căn nhà bị hư hại. Chính quyền đưa ra cảnh báo, lũ lụt năm nay là trận lụt lớn nhất kể từ năm 1949 đến nay, nhất là lượng mưa lớn ở khu vực thượng du đập Tam Hiệp, sẽ gây ra thách thức nghiêm trọng đối với con đập khổng lồ này.
Thêm vào đó, thủ đô Bắc Kinh lại chứng kiến sự bùng phát dịch bắt đầu từ ngày 11/6 và đến nay đã xuất hiện hơn 200 ca nhiễm mới, đồng thời dịch bệnh cũng lan ra nhiều tỉnh thành khác. Chính quyền Bắc Kinh đã phải thừa nhận tình hình dịch bệnh tại thủ đô gay go và phức tạp, công tác phòng và kiểm soát dịch bệnh đang trong trạng thời điểm quan trọng.
Về đối ngoại, trong khi xung đột biên giới với Ấn Độ ngày một leo thang dẫn đến cuộc đối đầu lớn nhất giữa quân đội hai nước kể từ năm 1967 thì mới đây, Indonesia từ chối đàm phán với Trung Quốc về Biển Đông. Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi hôm 18/6 tuyên bố lập trường của nước này là dựa theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển (UNCLOS) năm 1982, không có tuyên bố chủ quyền chồng lấn với Trung Quốc ở Biển Đông nên "không có lý do để đàm phán". Bà Retno đưa ra tuyên bố này sau khi Trung Quốc ngày 02/6 gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc, mời Indonesia đàm phán về cái gọi là "những tuyên bố chồng lấn về các quyền và lợi ích" ở Biển Đông.
Siêu cường thế giới Hoa Kì thì không hề có dấu hiệu xuống thang với Trung Quốc khi mối quan hệ giữa hai nước đang ở mức xấu nhất kể từ khi bình thường hóa quan hệ.
Tại Hội nghị thượng đỉnh dân chủ Copenhagen 2020 được tổ chức trực tuyền ngày 19/6 vừa qua, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã tung ra một loạt chỉ trích nhắm vào Trung Quốc. Ông phát biểu : "Quân đội Trung Quốc đã làm gia tăng căng thẳng biên giới với Ấn Độ, nền dân chủ đông dân nhất thế giới. Họ đang quân sự hóa Biển Đông và tuyên bố chủ quyền phi pháp tại đó, đe dọa các tuyến đường biển sống còn".
Tại Hội nghị thượng đỉnh dân chủ Copenhagen 2020, ông Pompeo cũng cáo buộc Trung Quốc có hành vi "lưu manh" với các nước láng giềng.
Ngoại trưởng Pompeo nói : "Trung Quốc cũng đã nói dối về đại dịch Covid-19 và để cho lây lan ra toàn thế giới. Trong lúc đó, Trung Quốc gây sức ép lên Tổ chức Y tế thế giới (WHO) để hỗ trợ chiến dịch che đậy của họ. Hàng trăm ngàn người đã chết và nền kinh tế toàn cầu đã bị phá hủy một phần lớn".
Tại sự kiện trên, ông Pompeo nhận định : "Châu Âu đang đối mặt với ‘thách thức Trung Quốc ’, giống như nước Mỹ và những người bạn ở Nam Mỹ, Châu Phi, Trung Đông, Châu Á đang đối mặt".
Nhà lãnh đạo ngoại giao Mỹ cũng cáo buộc Trung Quốc đang "thúc đẩy các thông tin sai lệch và các chiến dịch mạng hiểm độc" nhắm vào chính phủ các nước và để chia rẽ quan hệ giữa Mỹ với Châu Âu.
Hải Yến (Hà Nội)
Nguồn : Thoibao.de, 23/06/2020