Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc vào ngày 29/11/2018 thì dân số Việt Nam đạt đến con số 96.880.388 người, đưa Việt Nam thành nước đông dân thứ 14 trên toàn cầu. Trước đây vào năm 2012, ước tính đưa ra thì dân số Việt Nam vào năm 2018 là khoảng 91.500.000 người.

gia0

Tỷ lệ người già tăng vọt là do tuổi thọ trung bình của người Việt đã tăng từ 60 tuổi năm 1970 lên 76,6 tuổi hiện nay.

Trang danso.org thống kê chỉ sau 48 năm, độ tuổi trung bình của người dân Việt Nam tăng đáng kể, từ 18 tuổi vào năm 1970 lên 31 tuổi vào năm 2018 với tuổi thọ trung bình hiện nay là 76,6 tuổi.

Điều đó cho thấy dân số Việt Nam đang già đi nhanh chóng và dĩ nhiên việc chăm sóc phúc lợi cho người già là một vấn đề khó khăn khi mà Việt Nam vẫn còn trong nhóm những nước đang phát triển.

Dân số già nhanh

Một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ người già tăng vọt như vậy là do tuổi thọ trung bình của người Việt đã tăng từ 60 tuổi năm 1970 lên 76,6 tuổi hiện nay. Bên cạnh đó là tỷ lệ sinh giảm do chính sách hai con được thực hiện tại Việt Nam lần đầu năm 1960 ở miền Bắc là lần hai vào năm 1990 trên cả nước.

Tiến sĩ xã hội học Trịnh Hòa Bình nhận định Việt Nam không tận dụng được kỷ nguyên dân số vàng vì chuyển rất nhanh từ dân số trẻ sang dân số già, và người già Việt Nam hiện vẫn tự bươn chải kiếm sống :

"Người ta thường nói người già là kho trí thức của nhân loại, trí khôn của xã hội, nhưng thực tế hiện nay thì cũng chả tận dụng được mấy đâu. Người già ở Việt Nam, những người có trí thức, có kỹ năng lao động thì hầu hết họ tự bươn chải. Lương chính thức của xã hội Việt Nam thấp nên người già đến tuổi nghỉ hưu họ vẫn làm".

Theo ông thì không phải ngẫu nhiên mà thời gian gần đây hệ thống truyền thông cũng như chủ trương chính sách tầm vĩ mô đang nói rất nhiều đến chuyện nới rộng độ tuổi lao động cũng như tìm cách sử dụng sức lao động của người già.

"Ở đây người ta đang nhắm đến một bài toán giải được rất nhiều việc : Nhà nước bớt được gánh nặng trong khi người già thì đằng nào họ cũng tổ chức sản xuất, lao động với kinh nghiệm của họ. Thứ ba nữa là tính chung trong nỗ lực giảm thiểu lực lượng nằm trong biên chế cứng của nhà nước thì đây là quyết sách hay để trên thực tế đóng góp một phần quan trọng trong an sinh xã hội nói chung".

Trợ cấp cho người già

Hôm 8/11/2018, tuần báo The Economist có bài viết dịch ra tiếng Việt là "Việt Nam đang già trước khi giàu". Bài viết nhận định xu hướng phát triển dân số của một số các quốc gia châu Á cũng diễn ra tương tự, chỉ khác là Việt Nam không phải là quốc gia có thu nhập bình quân cao tương tự.

222222222222222222

Một người già ở miền Bắc Việt Nam. AP

Bài báo nêu ví dụ khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên mức cao nhất ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc thì GDP bình quân đầu người của các quốc gia này lần lượt là 32.585 USD, 31.718 USD và 9.526 USD. Còn Việt Nam khi đạt tới đỉnh tương tự vào năm 2013 thì GDP chỉ có 5.024 USD. Vậy chính quyền có thể lo liệu cho hàng triệu người già hay không, Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình nhận xét :

"Thực ra ở Việt Nam chưa có mô hình Nhà nước phúc lợi mà cái này vẫn nằm chung với an sinh xã hội có tính chất truyền thống lịch sử, tức là cộng đồng cùng lo.

Nội lực của Việt Nam thì cũng chẳng dồi dào nên việc trợ cấp, trợ giúp của nhà nước đối với người già không phải không có nhưng rất khiêm tốn, ít ỏi như đến 80 tuổi thì hàng tháng được một khoản tiền hai, ba trăm nghìn.

Có nghĩa là những khoản trợ giúp có nhưng không đáng kể và không mấy ý nghĩa. Trên thực tế ở Việt Nam sử dụng hình thức kêu gọi sự trợ giúp của cộng đồng nhiều hơn là với tính chất chính thống của chế độ".

Điều này cũng từng được Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận định với RFA rằng mạng lưới an sinh xã hội của Việt Nam với khả năng tài chính hiện nay thì không có cách nào có thể bù đắp được.

"Nếu nhìn thực trạng chung thì vấn đề an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay là một gánh nặng hay một món nợ lớn mà cả nhà nước và nền kinh tế đang phải gánh chịu".

"Trên thực tế, nhu cầu của xã hội đối với vấn đề an sinh xã hội luôn lớn hơn khả năng thực tế mà nhà nước có thể đáp ứng. Nhưng nhà nước cũng đã chấp nhận cung cấp bảo hiểm cho các người nghèo để đảm bảo cho họ khi đau ốm thì cũng có thể đến bệnh viện để chữa trị".

Hiện nay, chỉ có những người rất nghèo và người từ 80 tuổi được nhà nước trợ cấp một khoản tiền nhỏ mỗi tháng. Bên cạnh đó họ cũng có một khoản bảo hiểm y tế. Cô Tuyết hiện ở Sài Gòn có bà mẹ già trên 80 tuổi cho chúng tôi biết mẹ cô không có một khoản tiết kiệm nào, con cái lo mọi chi phí, tiền nhà nước cấp hàng tháng không đủ để ăn sáng :

"Em không mua bảo hiểm gì cho má hết mà được nhà nước cấp cho những người lớn tuổi từ 80 tuổi trở lên mỗi tháng được 270 ngàn. 270 ngàn thì không thể đủ sống vì mỗi sáng ăn tiết kiệm lắm cũng hết 15 ngàn, tức một tháng hết 450 ngàn rồi, chưa tính ba bữa cơm trong ngày. Tết thì họ "lì xì" thêm một tháng. Và khi có bịnh hoạn hay nằm bệnh viện thì nhà nước chi trả 80%, mình chịu 20%".

Tương lai sẽ ra sao ?

Theo The Economist thì ở Việt Nam hiện nay, lớp người trên 60 tuổi đang chiếm tỷ lệ khoảng 12% dân số, và tỷ lệ này được dự báo sẽ tăng lên mức 21% vào năm 2040, một trong những tỷ lệ tăng nhanh nhất trên thế giới.

3333333333333333

Một người già chạy xe ôm kiếm sống. Ảnh chụp tại Hà Nội hôm 16/5/2018. AFP

Với cái nhìn có phần lạc quan, bà Thúy Quỳnh, Giám đốc bộ phận chăm sóc khách hàng của công ty Bảo hiểm nhân thọ Generali Việt Nam cho rằng giới trẻ Việt Nam lâu nay đã biết tích lũy bằng cách mua các sản phẩm bảo hiểm đóng phí từ lúc còn trẻ, đến khi về hưu lấy ra sử dụng, và số khách đó hiện nay rất nhiều.

"Hiện tại ở Việt Nam có 18 công ty bảo hiểm, đa số những người còn trẻ và làm ăn tốt đều mua bảo hiểm để tích lũy để về già họ có khoản tiền đó họ chi tiêu.

Bây giờ nếu mình làm nhà nước hay nước ngoài thì đều có bảo hiểm xã hội. Đó là tiền hưu trí, của nhà nước. Nếu họ muốn lãnh số tiền cao hơn thì họ mua bảo hiểm. Bây giờ người dân họ ý thức được chuyện đó nên số người mua bảo hiểm khá cao".

Bà nói thêm rằng với những người già ở độ tuổi 70, 80 hiện nay thì họ chỉ có những khoản tích lũy riêng chứ không có tiền hưu và bảo hiểm xã hội nếu trước đây họ không làm cho nhà nước, vì mấy chục năm trước đây họ không tích lũy bằng bảo hiểm nhân thọ như sau này. Còn sau này thì người già sẽ có cuộc sống khác bây giờ. Bà nói thêm :

"Còn từ thế hệ 7x trở về sau thì đã tốt hơn vì họ có tiền bảo hiểm xã hội, có hợp đồng bảo hiểm nên em nghĩ không đến 20 năm nữa đâu mà chỉ chừng 5, 10 năm nữa thì tiền khi họ về hưu đảm bảo cho cuộc sống của họ tốt hơn bây giờ nhiều".

Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình cho rằng hiện nay rất khó để biết người già có hài lòng với cuộc sống hay không thì thực tế nhà nước cũng không có một số liệu hay nghiên cứu nào gần đây để chỉ ra chỉ số hạnh phúc của người già, nhưng ông nhận định rằng người Việt Nam là một dân tộc lạc quan nên nếu có những nghiên cứu đó mà hời hợt thì chỉ số lạc quan hạnh phúc cũng không hề thấp.

Ông nói rằng nếu mà nhìn thẳng vào bức tranh xã hội Việt Nam thì xã hội vẫn đang trong sự chuyển đổi và đối diện rất nhiều thách thức cho người già Việt Nam. Nếu tính thu nhập bình quân thì nói chung bức tranh không sáng sủa, lạc quan nhưng cũng không đến nỗi khó khăn lắm.

Diễm Thi

Nguồn : RFA, 30/11/2018

Published in Diễn đàn

Tập Cận Bình thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết, Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.

 

Khi nhận định về Trung Quốc các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung Quốc là một thế giới hay một đế quốc – hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Quốc- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Quốc vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.

Cho đến nay thực trạng Trung Quốc đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.

supdo1

Kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.

Kinh tế Trung Quốc hết thuốc chữa

Hãy nói ngay về lớp vải điều đó. Trong gần ba thập niên Trung Quốc đã gây kinh ngạc cho thế giới vì tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống 8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính thức của Trung Quốc dĩ nhiên là không chính xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Quốc đã tràn ngập các thị trường thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các cao ốc đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản Trung Quốc đầu tư vào mọi quốc gia, từ Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung Quốc tỏa rộng. Có những dự đoán theo đó Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ trong một tương lai gần. Nhưng rồi bắt đầu có những ngờ vực.

supdo2

Con rồng kinh tế Trung Quốc còn phun châu khạc lửa được bao lâu khi những chỉ số thực sự về kinh tế và tài chính được phơi bày ?

Năm 2001 có cuốn sách The Coming Collapse of China (sự sụp đổ sắp tới của Trung Quốc) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè đã tóm lược cho tôi cuốn sách này ; nó sai vì phạm một trong hai sai lầm cơ bản đã được nói ở đầu bài này nghĩa là lý luận về Trung Quốc như một quốc gia. Dần dần quan điểm của các quan sát viên về Trung Quốc thay đổi hẳn. Mới đầu người ta tự hỏi liệu Trung Quốc có thể lâm vào khủng hoảng không ? Rồi Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào ? Và bây giờ câu hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ còn che đậy được tình trạng suy thoái bao lâu nữa và lúc đó tương lai Trung Quốc sẽ ra sao ?

Tất cả những đèn báo động đều đã đỏ rực. Nợ công của Trung Quốc được ước lượng bởi mọi định chế thẩm định (rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một cách nghiêm trọng. Nhưng con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì không bao gồm những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong xã hội Trung Quốc. Thí dụ như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lãi xuất ưu đãi rồi cho các công ty nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lãi xuất cao, hay phần lớn các chính quyền địa phương không khai đúng số nợ.

Kinh tế Trung Quốc dựa trên xuất khẩu nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng hoảng 2008. Trong năm 2014 vừa qua ngoại thương Trung Quốc đã sụt 11% (xuất khẩu giảm 3,3%, nhập khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn là 7,3%. Nhưng làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể tăng trưởng 7,3 % trong khi ngoại thương suy sụp ? Công ty tham vấn Lombard Street Research của Anh vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền Trung Quốc nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn cho biết tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn này cũng không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các công ty sản xuất rồi bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản xuất, và khi sản phẩm đã hư hỏng cũng không khai v.v.

Một chỉ số đo lường lòng tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán SSE của Trung Quốc lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày nay hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục hồi được mức độ của năm 2007, các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức 2007, nhưng chỉ số SSE của Trung Quốc vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000. Lòng tin vào tương lai của kinh tế Trung Quốc còn thể hiện qua một con số khác. Kết quả của một cuộc thăm dò của Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia Trung Quốc đã hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Quốc đang tháo chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ đang theo dõi sự kiện rất nhiều phụ nữ Trung Quốc giầu có sang Mỹ sinh đẻ để con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lại Trung Quốc tươi sáng tại sao những người được ưu đãi nhất lại bỏ đi ? Trong mọi tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài các doanh nhân Trung Quốc không còn giấu giếm nữa. Họ nói thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải sản xuất theo kế hoạch.

Nhưng kế hoạch nào ? Từ năm 2008 trong khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng thì Trung Quốc đã có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành xây dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu thì càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây giờ nó không còn giải pháp. Năm 2013 khi mới lên cầm quyền Tập Cận Bình ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lãi xuất và kiểm soát tín dụng. Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp -đúng trên nguyên tắc- này trước nguy cơ sụp đổ tức khắc ; không những thế chính quyền Bắc Kinh còn phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty. Sự kiện này chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không có thuốc chữa, sự sụp đổ chỉ còn là một vấn đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần vì ngay cả biện pháp bơm tiền cũng không còn hiệu quả nhất thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền mà không được, hiện nay đại đa số các công ty từ chối vay vì không biết dùng tiền để làm gì.

Một sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không cứu vãn được. Giải pháp tự nhiên khi mô hình hướng ngoại không còn theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó là điều Trung Quốc đã làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế Trung Quốc nguy ngập hơn. Từ năm 2010 Trung Quốc đã liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa không hề gia tăng vì người công nhân Trung Quốc chỉ dùng khoản lợi tức mới có để tiết kiệm, phòng hờ khi đau ốm. Tuy vậy biện pháp tăng lương công nhân này đã có tác dụng làm tăng giá thành và khiến hàng hóa Trung Quốc khó bán trên các thị trường thế giới. Sự sút giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. Trung Quốc hiện đã mất gần hết các thị trường tại Châu Âu.

Chừng nào kinh tế Trung Quốc sẽ thực sự sụp đổ ? Câu trả lời là : khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng họ có sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung Quốc "có sụp cũng còn lâu" chủ yếu là ở chỗ Trung Quốc vẫn còn khoảng 2.000 tỷ USD công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ EUR công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù số tiền này chẳng là bao so với số nợ công của Trung Quốc –ít nhất 30.000 tỷ USD- nhưng nó đem lại ảo tưởng là Trung Quốc vẫn còn giầu có vì vẫn còn tiền cho Mỹ và Châu Âu vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng là họ sẽ tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển nhiên đối với mọi người.

Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt

Nhưng kinh tế suy thoái không phải mối nguy lớn nhất của Trung Quốc. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không khí tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn thở được nữa ; nước vừa rất thiếu vừa nhiễm độc.

supdo3

80% nguồn nước ở Trung Quốc bị ô nhiễm - Ảnh Daxue Conseil

Một nghiên cứu phối hợp của bốn trường đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Thanh Hoa (Trung Quốc) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh khủng : tuổi thọ trung bình của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía Bắc đã giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi trường ô nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên báo China Daily, tờ báo tiếng Anh của chính quyền Trung Quốc, một nghiên cứu theo đó gần một nửa số sông của Trung Quốc đã hết nước.

Tháng 3-2013 một nghiên cứu công phu -từ năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và Viện Quốc Gia Thống Kê của chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ : Trung Quốc chỉ còn 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã biến mất. Mỗi con sông còn lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km vuông. Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến 2012 tình trạng thiếu nước đã xấu đi nhiều thay vì được cải thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400 thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ lòng đất lên. Kết luận của nghiên cứu này là thay vì gia tăng cung cấp nước từ nay chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân chúng tiết kiệm nước. Tình trạng xuống cấp nguy ngập của môi trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do chính sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trường.

Cần lưu ý là bảo vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn "sẻ núi lấp sông". Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.

supdo4

Một xe đổ rác của sở rác thị xã thản nhiên đổ rác xuống sông Nộ Giang - Ảnh Nguyễn Gia Kiểng

Vài năm trước tôi đọc một bài phóng sự trên báo Le Monde nói về một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang, nghĩa là dòng sông giận dữ, chảy từ Trung Quốc sang Myanmar. Lý do khiến người ta đặt tên như vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày nay con sông này còn có một lý do chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành nơi đổ rác chính thức của các thị xã chung quanh. Chính quyền địa phương xây rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của các thị xã có thể đổ rác xuống sông một cách an toàn. Mỗi ngày hàng trăm tấn rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở thành một vấn đề của Myanmar.

Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi không nhìn thấy mặt trời dù biết nó ở ngay trên đầu mình vì đang giữa trưa và trời rất nóng. Không khí đục ngầu vì khói từ các nhà máy không xử lý khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ bao lâu rồi anh không còn nhìn thấy mặt trời nữa. Anh ta không nhớ. Năm 2000 lượng nước trung bình của mỗi người Trung Quốc chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Bây giờ tình trạng còn bi đát hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu xuống 30m mới tìm được nguồn nước, bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean. Một đất nước trước hết là đất và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí và nước đã ô nhiễm đến nỗi không thở được và uống được thì cũng chẳng còn gì để nói. Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều người muốn rời Trung Quốc bằng mọi giá. Họ sợ chết.

Một chế độ tuyệt vọng

Mối nguy nghiêm trọng thứ hai, cũng nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị. Các quan sát viên theo dõi tình hình Trung Quốc đều đồng ý rằng đàng sau chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung quyền hành về trung ương và về tay ông. Tham nhũng chỉ là lý cớ. Chính Tập Cận Bình cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản trị giá trên 200 triệu USD ? Không khác gì thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ ra rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán.

Chủ nghĩa Mác-Lenin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi. Các tỉnh cũng không thể chịu đựng mãi ách thống trị của trục Bắc Kinh - Thượng Hải và sự chênh lệch giữa các vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước một cuộc chiến tranh giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế đã có xung đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng một tỉnh, để tranh giành những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.

supdo5

Nông dân Quảng Đông biểu tình chống chính sách cưỡng chiếm đất canh tác của họ bởi các tập đoàn bất động sản Trung Quốc (21/12/2011)

Cần nhắc lại để nhấn mạnh rằng Trung Quốc là một thiên hạ chứ không phải là một nước, lòng yêu nước đối với một người Trung Quốc chủ yếu là một tình cảm địa phương. Không cứ gì các sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở Côn Minh hoàn toàn không nhìn những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các tỉnh Trung Quốc còn lỏng lẻo hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu, đôi khi còn mang những thù hận chưa được hóa giải của quá khứ. Trong suốt dòng lịch sử dài của nó, sự thống nhất của Trung Quốc đã chỉ được duy trì bằng bạo lực và tàn sát. Thí dụ như giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung Quốc hầu như không có. Chính vì thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Mãn Châu đã có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên, Thanh sau cùng đã cáo chung vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là những ách thống trị ngoại bang.

Bế tắc chính trị của chế độ cộng sản Trung Quốc cũng đã chứng tỏ không có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền Hồ Cẩm Đào đã muốn nới lỏng dần dần những quyền con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về dân chủ trong trật tự nhưng trong những năm cuối, nhất là từ năm 2011 trở đi, ông đã phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn áp. Năm 2013 Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng. Tập Cận Bình thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đã tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.

supdo6

Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng.

Nhưng việc phải làm đó là gì ? Đó chính là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và truyền thông đã thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế trong ba thập niên qua cũng đã cho người Trung Quốc thêm sức mạnh. Họ đã hiểu rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và ngày càng có thêm khả năng để đòi hỏi những quyền đó. Nhưng vấn đề là Trung Quốc không thể tồn tại với lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ vì các vùng của Trung Quốc quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đã trở thành ghê tởm. Trên trang Web www.ninecommentaries.com do phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng 11-2014 hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Số người ly khai hiện đã lên quá 200 triệu.

Lịch sử Trung Quốc nói chung là sự lặp lại của cùng một kịch bản, một kịch bản chưa thay đổi vì thể chế chính trị vẫn còn là một thể chế tập trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau : một chính quyền được dựng lên trong hoàn cảnh xã hội tan hoang và kiệt quệ ; chính quyền thành công trong những năm đầu và xã hội dần dần hồi sinh ; xã hội càng hồi sinh thì nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền càng cần tăng cường bộ máy cai trị ; bộ máy quan liêu vì thế tiếp tục phình ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền lực chính trị ; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần và tích lũy mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc xung đột làm xã hội suy kiệt ; và kịch bản bắt đầu lại từ số không. Kịch bản này hiện đã tới màn cuối dưới chế độ cộng sản. Tập Cận Bình đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực lượng mới. Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là "nhất quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lâp" ông ta chỉ nhắc lại một ám ảnh của quan thày Bắc Kinh.

Phải lo ngại cái gì ?

Chế độ cộng sản Trung Quốc còn trụ được bao lâu nữa ?

Như đã nói ở đầu bài này, đừng nên quên rằng Trung Quốc không phải là một quốc gia mà là một thế giới, một thiên hạ hay một đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như sự tàn lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói chung và của Trung Quốc nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có thể nhanh hơn rất nhiều.

Càng nhanh hơn vì một lý do khác. Chế độ cộng sản Trung Quốc tồn tại từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn dựa trên hai hợp đồng bất thành văn miễn cưỡng.

Hợp đồng thứ nhất là nhân dân chịu đựng chế độ toàn trị, và cả sự tàn phá của môi trường, với điều kiện là Đảng Cộng Sản duy trì được một mức tăng trưởng kinh tế cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra đã hiểu thỏa hiệp này khi ông nói rằng nếu mức tăng trưởng xuống dưới 8% thì sẽ có bạo loạn. Hợp đồng này ngày nay đã chấm dứt vì kinh tế suy thoái. Hợp đồng thứ hai là quần chúng Trung Quốc chịu đựng bất công xã hội để cho một thiểu số làm giầu với thỏa hiệp ngầm là như thế họ sẽ có thêm vốn để gia tăng đầu tư thúc đẩy kinh tế. Hợp đồng này đã bị phản bội khi những người giầu có bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản. Sự phẫn nộ có thể bùng nổ rất dữ dội.

Có cần lo sợ sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự tan vỡ gần như chắc chắn của Trung Quốc không ? Mối nguy thường được nói tới là chính quyền Bắc Kinh có thể gây hấn với bên ngoài để kêu gọi đoàn kết dân tộc và làm dịu những mâu thuẫn bên trong. Nhiều người đang lo âu trước việc Trung Quốc xây những phi trường trên những đảo nhân tạo tại Biển Đông. Nhưng sự lo ngại này không cần có. Nó là do cách nhìn Trung Quốc như một quốc gia thay vì một đế quốc. Thực tế cho thấy các đế quốc chỉ gây hấn trong những giai đoạn cường thịnh, trái lại rất nhu nhược đối với bên ngoài trong những giai đoạn cuối trào, để dồn sức đương đầu với những khó khăn bên trong. Trung Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Trong những lúc suy vi các hoàng đế Trung Quốc không những không xâm chiếm các biên quốc mà còn phải cống hiến những quý phi, có khi cả những công chúa, cho các vua các nước nhỏ chung quanh để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ chỉ là một trong rất nhiều thí dụ. Việt Nam và thế giới sẽ không phải lo ngại một sự gây hấn nào.

Cũng không cần lo ngại cho người Trung Quốc. Trung Quốc có phân chia thành bốn hay năm nước thì đó cũng vẫn là những nước lớn bậc nhất thế giới, nhưng đồng điệu hơn và hợp lý hơn Trung Quốc hiện nay. Điều mà chúng ta có thể chúc cho người Trung Quốc là những thay đổi cần thiết sẽ diễn ra trong hòa bình.

Thiên triều sụp đổ

Câu hỏi bao giờ chế độ cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ không đặt ra, hoặc đặt ra một cách rất khác, đối với chế độ cộng sản Việt Nam. Đối với một chư hầu, một đế quốc coi như đã sụp đổ khi không còn là một chỗ dựa nữa. Đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam chế độ cộng sản Trung Quốc coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với những khó khăn nội bộ để có thể hỗ trợ cho chế độ cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh lo cho mình cũng chưa xong còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam và Triều Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây. Nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại rất cần bám lấy Trung Quốc.

Trong cuộc tiếp xúc ngày 26/6/2014 tại Sài Gòn, ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không cải chính lời phát biểu của chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm theo đó Trung Quốc thỏa thuận viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ USD và cho vay 100 tỷ USD. Chế độ cộng sản Việt Nam rất cần yểm trợ tài chính này bởi vì do hậu quả của bất tài và tham nhũng kinh tế Việt Nam thực ra đang ở trong tình trạng phá sản. Theo phát biểu của chính ông Trương Tấn Sang tháng 11-2014 tại quốc hội thì tình trạng kinh tế Việt Nam "rất không thoải mái". Ba phần tư số thu ngân sách (khoảng 30 tỷ USD năm 2014, giảm nhiều so với năm 2013) được dùng để trả lương, phần còn lại không đủ để trả nợ. Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.

Một điều cần được nhìn thật rõ là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ là một đảng tự lập. Nó luôn luôn dựa vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra đời như một phân bộ của Đệ Tam Quốc Tế, nó đã tranh đấu, rồi cầm quyền, với sự bảo trợ của Liên Xô hoặc Trung Quốc hoặc cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Giữa thập niên 1980 khi Liên Xô suy yếu và không còn bảo trợ được nữa nó đã vội vã bỏ ngay lập trường thù địch để xin được phục tùng Trung Quốc. Trái với một nhận định hời hợt không phải Bắc Kinh cố thu phục Hà Nội mà chính Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để được lệ thuộc Trung Quốc. Trong mấy năm gần đây khi Liên Bang Nga có vẻ mạnh lên ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga. Văn hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một văn hóa chư hầu.

Tất cả những tính toán và kỳ vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước Nga của Putin đã bại sụi sau cuộc phiêu lưu Ukraine. Đến lượt Trung Quốc cũng chao đảo và sắp sụp đổ. Rất có thể là chính Bắc Kinh đã nói với Hà Nội là hãy tìm những nguồn hỗ trợ khác vì họ không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có thể giải thích những chuyến công du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam gần đây, kể cả chuyến đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những chuyến thăm viếng này đều do sáng kiến của Hà Nội.

Lịch sử không phải chỉ sắp sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt Nam đều phải sáng suốt để tránh những ngộ nhận tai hại. Những thành viên bộ chính trị và ban bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể thù ghét nhau vì tranh giành quyền lực và quyền lợi nhưng họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào Trung Quốc để duy trì chế độ độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều đồng ý rằng "đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" và tất cả đều đồng ý chẳng thà mất nước chứ không mất đảng. Không có một ngoại lệ nào cả. Nhưng bây giờ họ không còn chọn lựa nào khác là đi với Mỹ ("Mỹ" phải được hiểu là các nước dân chủ) vì họ không dựa vào Trung Quốc được nữa. Chiến lược của họ trong lúc này chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của chế độ và làm mất thêm thời giờ của nước ta trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ nhận nào cả.

Mọi ưu tư của chúng ta phải dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ nguyên dân chủ một cách nhanh chóng nhất trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để chúng ta có thể lập tức cùng nắm tay nhau chinh phục tương lai.

Nguyễn Gia Kiểng

(04/2015)

Additional Info

  • Author Nguyễn Gia Kiểng
Published in Quan điểm
jeudi, 13 décembre 2018 06:17

Thử nhận diện bài toán Trung Quốc

Có những trường hợp phải lùi xa để nhìn rõ và một vấn đề chỉ có giải đáp nếu được nhìn như là thành phần của một vấn đề lớn hơn. Bài toán Trung Quốc đối với Việt Nam là một trong những trường hợp này.

Ngày nay nghĩ đến Trung Quốc chúng ta nghĩ ngay đến Hoàng Sa và Trường Sa với một tâm sự đau nhức và bất lực. Chúng ta không hy vọng gì lấy lại hai quần đảo này mà còn có nguy cơ mất thêm. Nhưng vấn đề không giản đơn như thế và rất có thể là cũng may mà nó không giản đơn như thế.

baitoan1

Hai Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt - Trung chứng kiến tuần tra liên hợp tại mốc 1117 (Ảnh Biên Phòng, 30/03/2016)

Chúng ta chưa biết rõ đã thực sự mất những gì. Chính quyền cộng sản Việt Nam không công bố bản đồ biên giới theo thỏa ước phân định biên giới trên đất liền tháng 12-1999 để chúng ta có thể so sánh với bản đồ của hiệp ước 1887, văn kiện qui định biên giới giữa hai nước trước đó. Chắc chắn là chúng ta mất nhiều hơn những gì chính quyền nhìn nhận. Ông Lê Công Phụng, người đặc trách vấn đề biên giới nói rằng trong những vùng tranh chấp (khoàng 272 km2) hai bên đã thỏa thuận chia đôi. Điều này có thể đúng, vấn đề là có những vùng đã mất hẳn và không còn được coi là "vùng có tranh chấp". Cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc (Nhà xuất bản Sự Thật) và nhiều tài liệu tình cờ được công bố cho thấy những vùng này nhiều lắm. Có những vùng các sắc tộc biên giới trước đây thuộc Việt Nam bị Trung Quốc mua chuộc và tự nhận là người Trung Quốc và cũng có những vùng Trung Quốc đã đánh chiếm và sáp nhập.

Một câu hỏi lớn cần được đặt ra : tại sao chính quyền cộng sản Việt Nam lại phải ký hiệp ước biên giới 1999 trên đất và vô lý hơn nữa là hiệp ước 2000 về Vịnh Bắc Bộ trong đó chúng ta thiệt hại nặng ? Tại sao nếu không đòi lại được những gì đã mất lại không giữ nguyên tình trạng pháp lý cũ ? Tại sao phải chính thức hóa những mất mát ?

Nói rằng ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã bán nước, dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Quốc là nói một cách giận dữ, và những gì nói trong cơn giận thường quá đáng và sai. Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chắc chắn là có trách nhiệm nặng, rất nặng. Cũng có khả năng họ bị đã mua chuộc, nhưng đây không thể là lý do chính. Không một chính quyền nào, dù tồi tệ đến đâu, lại muốn mất đất cả. Lời tuyên bố của ông Lê Công Phụng theo đó "càng để lâu càng khó khăn hơn" cần được lưu ý.

Càng đáng được lưu ý vì hiện nay chính Việt Nam muốn cắm mốc biên giới cho thật nhanh trong khi Trung Quốc viện đủ lý cớ để trì hoãn. Như vậy việc nhanh chóng ổn định biên giới theo hiệp ước 1999 cần thiết cho Việt Nam chứ không phải cho Trung Quốc. Điều này phải được hiểu là vùng đất của ta giáp biên giới phía Bắc đang bị đe dọa nặng và sẽ ngày càng mất thêm nếu biên giới không được cụ thể hóa ngay tức khắc. Không ý thức được điều này thì chúng ta sẽ không thể hiểu nổi sự vô lý cùng cực của hiệp ước phân định lãnh hải Vịnh Bắc Bộ năm 2000 trong đó Việt Nam không những đã từ bỏ hết những ưu đãi của hiệp ước 1887 mà còn phải chấp nhận những bất công mới. Hơn 10.000 Km2 bị mất trắng cho Trung Quốc một cách vô lý. Nếu không ký kết gì hết thì hiệp ước 1887 vẫn còn là văn kiện pháp lý duy nhất. Mặt biển không thể bị chiếm đóng và sáp nhập như đất liền, Trung Quốc chỉ có thể vi phạm nhưng hải phận vẫn là của ta trên pháp lý, và Trung Quốc cũng không có khả năng bất chấp công pháp quốc tế và sự lên án của thế giới. Như vậy phải hiểu rằng chính quyền cộng sản Việt Nam đã chỉ ký hiệp ước phân định lãnh hải Vịnh Bắc Bộ như là cái giá phải trả để Trung Quốc chấp nhận ký hiệp ước phân định biên giới trên đất liền, và Hà Nội muốn ký cho bằng được hiệp ước biên giới trên đất liền để giới hạn những mất mát. Mối nguy mất thêm đất phải rất lớn mới có thể khiến chính quyền cộng sản Việt Nam chấp nhận một hy sinh to lớn như vậy. Điểm này nhiều người chống chế độ cộng sản hoặc không hiểu hoặc không muốn hiểu.

Núi phải có chân. Núi thuộc về kẻ ở chân núi. Biên giới Việt Trung dài 1.350 km và là một vách núi dầy gần 100 km nằm bên phía nước ta. Chính vách núi này đã giúp chúng ta tồn tại được như một dân tộc độc lập trong khi các dân tộc Bách Việt ở phía Bắc bị sáp nhập và Hán hóa. Nếu mất những vùng sát chân núi, và trên thực tế chúng ta đã mất nhiều vùng sát chân núi, thì trên thực tế chúng ta cũng mất luôn những ngọn núi gần kề, nghĩa là mất nhiều, rất nhiều. Phải hiểu sự hốt hoảng của chính quyền cộng sản Việt Nam.

Nếu chỉ giới hạn trong quan tâm bảo toàn lãnh thổ thì trong quan hệ Việt Trung chúng ta cũng có hai loại vấn đề khác nhau, trước mắt và dài hạn. Trước mắt là làm thế nào để đừng mất thêm nữa, về lâu về dài là tìm ra một phương thức để triệt tiêu những mất mát đã phải chịu đựng, để những vùng đã mất nếu không chính thức được tái hội nhập vào lãnh thổ Việt Nam thì cũng không còn thực sự là những mất mát.

baitoan2

Biên giới Việt Trung dài 1.350 km và là một vách núi dầy gần 100 km nằm bên phía nước ta - Ảnh vùng đồi núi Lạng Sơn

Muốn không mất thêm đất thì phải hiểu tại sao chúng ta đã mất đất.

Không nên chối cãi một sự thực là chúng ta chậm tiến hơn người Trung Quốc. Gần một thế kỷ Pháp thuộc tuy có rút ngắn khoảng cách nhưng chưa khiến ta bắt kịp người Trung Quốc, bằng cớ là những người Trung Quốc nghèo khổ phải rời quê hương sang Việt Nam lập nghiệp đã nắm gần hết kinh tế Việt Nam dù họ chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Từ sau thế chiến II khoảng cách giữa Trung Quốc và chúng ta, nhất là miền Bắc nước ta, lại còn dài ra một cách bi thảm. Trung Quốc có hòa bình từ 1949 trong khi chúng ta bị chiến tranh tàn phá cho dến năm 1975, tiếp theo đó là hơn mười năm đập phá thẳng tay để xây dựng mô hình Liên Xô, năm 1988 còn có nạn đói làm nhiều người chết.

Miền Bắc, ngoại trừ là một trại lính, bị kiệt quệ hoàn toàn. Giữa hai nước quá cách biệt về mức độ phát triển như thế áp lực bành trướng là tự nhiên, chưa kể là chính quyền miền Bắc lại theo đuổi một chủ nghĩa quốc tế, coi Trung Quốc là nước anh ruột, bỏ ngỏ biên giới phía Bắc và dồn tất cả mọi ưu tư để chinh phục miền Nam và tiêu diệt những mầm mống chống đối trong nước. Cũng ông Lê Công Phụng trong một bài phỏng vấn dành cho báo chí trong nước đã nói rằng có những mốc biên giới biết chắc là đã bị dời sâu vào trong lãnh thổ Việt Nam nhưng không biết từ bao giờ, khi hỏi dân địa phương thì họ nói rằng cột mốc đã ở đó từ lâu rồi ! Cẩu thả đến thế là cùng !

Giữa lúc đó thì Trung Quốc lại ở vào cao điểm của một cuộc chuyển hóa lớn với trọng lượng kinh tế và chính trị chuyển dần về phía Nam, làm gia tăng áp lực Nam tiến. Trong lịch sử chúng ta đã giữ được độc lập nhờ vách núi và cũng nhờ ở xa trung tâm quyền lực của Trung Quốc, Tây An hoặc Bắc Kinh. Từ thế kỷ 20 sự dời đổi trung tâm quyền lực của Trung Quốc đã rất rõ rệt. Trước thế kỷ 20 mọi dòng vua Trung Quốc đều xuất phát từ phía Bắc và đóng đô ở phía Bắc. Từ cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 tất cả các lãnh tụ Trung Quốc dù là Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, Giang Trạch Dân đều là những người phía Nam sông Dương Tử. Hồ Cẩm Đào là một ngoại lệ nhưng cũng không phải là người phương Bắc mà thuộc miền Tây, tỉnh Tứ Xuyên. Còn trọng lượng kinh tế thì đã dời hẳn về phía Nam. Trọng lượng của vùng Hoa Nam sẽ còn tiếp tục gia tăng bởi vì miền Bắc đang cằn cỗi dần và bị sa mạc hóa. Áp lực Nam tiến gia tăng là tự nhiên, nhất là văn hóa Trung Quốc vẫn còn là văn hóa nông dân thèm đất.

Cũng không phải chỉ có thế. Trung Quốc bắt đầu mở cửa kinh tế từ thập niên 1970 với cuộc thăm viếng của Nixon và tuyên ngôn Thương Hải, Việt Nam chỉ đổi mới từ 1987 và chỉ ra khỏi vũng lầy Campuchia từ 1991. Đã tụt hậu mà lại khởi hành sau và còn chạy chậm hơn cho nên sự thua kém ngày càng bi đát. Trong một cuộc gặp gỡ tình cờ tại Bắc Kinh một nhóm chuyên gia Việt Nam đã nói với tôi người ta mười mình chưa được một. Đó mới chỉ là so sánh về trình độ, về phẩm. Nếu kể cả lượng thì so sánh lực lượng có thể chỉ là 1 chọi 30, nghĩa là trứng chọi đá. Sức mạnh áp đảo đó khiến Trung Quốc có khả năng thu hút hơn hẳn Việt Nam đối với các dân tộc vùng biên giới và họ đã tận dụng thế thượng phong này.

baitoan3

Đời sống trẻ em sắc tộc thiểu số Vân Nam còn rất thấp so với trẻ em thành thị - Ảnh minh họa

Với một so sánh lực lượng quá chênh lệch như vậy và với một ý đồ bành trướng đã quá rõ rệt của Trung Quốc chúng ta không có hy vọng nào giữ vững được biên giới phía Bắc nếu chúng ta cũng theo mô hình Trung Quốc và chỉ là một ấn bản mờ nhạt của Trung Quốc. Chúng ta chỉ có hy vọng thoát hiểm nếu song song với nỗ lực phát triển miền núi phía Bắc chúng ta đem lại cho các dân tộc vùng biên giới điều mà Trung Quốc không có : một cách tổ chức xã hội khác trong đó tự do, dân chủ, đa nguyên, liên đới, phẩm giá con người được lấy làm những giá trị nền tảng.

Đồng thời chúng ta cũng phải đem vấn đề ra trước thế giới, vận dụng tối đa công pháp quốc tế và hậu thuẫn của các nước dân chủ. Chắc chắn chúng ta sẽ được hỗ trợ mạnh mẽ bởi vì Trung Quốc đang là mối lo âu của cả thế giới. Trung Quốc đang mạnh lên về cả kinh tế lẫn quân sự trong khi không dân chủ hóa, hơn nữa còn nâng đỡ các chế độ độc tài bạo ngược và xuất hiện như là nước lãnh đạo của cả một liên minh chống dân chủ trên thế giới trong một cuộc chiến tranh lạnh mới. Hậu thuẫn này sẽ có hiệu lực quyết định bởi vì Trung Quốc vẫn còn rất yếu so với các nước dân chủ và cũng lệ thuộc nặng nề vào thị trường của các nước này. Nhưng muốn được các nước dân chủ tận tình yểm trợ thì Việt Nam cũng phải là một nước dân chủ.

Quan trọng hơn hết là chúng ta phải có đoàn kết dân tộc để giữ nước, nhưng chúng ta chỉ có đoàn kết dân tộc nếu cùng với một cố gắng dân chủ hóa thành thực và quả quyết chúng ta thực hiện được hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận thù do chiến tranh, tham nhũng và các chính sách phân biệt đối xử, độc quyền độc tôn để lại.

Tuy những bài học lịch sử chỉ có giá trị tương đối nhưng chúng ta cũng vẫn phải rút ra và suy ngẫm. Ngoài những xâm thực ở biên giới đã có ba lần Trung Quốc trắng trợn dùng quân đội xâm chiếm nước ta, năm 1974 đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1979 tấn công vào các tỉnh phía Bắc và năm 1988 đánh chiếm Trường Sa. Cả ba lần xâm chiếm đều có chung một đặc điểm : chúng ta chia rẽ, kiệt quệ và cô lâp. Bài học lịch sử mà chúng ta có thể rút ra là muốn giữ được vẹn toàn bờ cõi trước áp lực của Trung Quốc thì phải tranh thủ được cảm tình của thế giới và phải có đoàn kết dân tộc.

Muốn như thế chỉ có một con đường : dân chủ hóa và thực hiện hòa giải dân tộc.

Và vì đe dọa đang đặt ra một cách cấp bách, hiện tượng xâm thực dưới nhiều hình thức đang tiếp diễn hàng ngày, chúng ta cũng phải khẩn cấp thực hiện dân chủ và hòa giải dân tộc.

baitoan4

Chúng ta chỉ có đoàn kết dân tộc nếu thực hiện được hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận thù do chiến tranh, tham nhũng và các chính sách phân biệt đối xử, độc quyền độc tôn để lại.

Dĩ nhiên câu hỏi đặt ra ngay trong lúc này -khi chế độ độc tài cộng sản vẫn còn đó, dân chủ chưa tới và hòa giải dân tộc chưa được thực hiện- thì chúng ta có thể và phải làm gì ?

Ngay trong lúc này điều phải làm, và cần làm ngay, là tách rời hai vấn đề chống chính sách bành trướng của Trung Quốc và chống chế độ độc tài cộng sản. Phải nói rõ : không phải chúng ta tạm ngưng chống độc tài để tập trung đương đầu với chính sách bành trướng của Bắc Kinh. Chúng ta vẫn đẩy mạnh tối đa cả hai cuộc đấu tranh nhưng không lẫn lộn hai mặt trận. Trên mặt trận giữ nước mọi người Việt Nam phải cùng một phe. Lẫn lộn hai cuộc đấu tranh này không những tai hại cho đất nước mà còn là một sự dại dột đối với chính những người dân chủ.

Các cuộc biểu tình chống việc Trung Quốc sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa đã do Đảng cộng sản, hay ít nhất là một bộ phận của Đảng cộng sản, khởi động, nhưng đã bị cấm ngay sau đó vì, ngoài lý do Hà Nội sợ Bắc Kinh, chúng đã nhanh chóng trở thành cơ hội để tố giác Đảng cộng sản và cũng có khả năng trở thành những cuộc biểu tình chống cộng. Thật là đáng tiếc bởi vì chúng ta đã bỏ lỡ một dịp để đưa vấn đề ra trước dư luận thế gìới.

Tại nước ngoài, trong một cuộc mít tinh vào thời điểm đó, tôi đã chứng kiến một diễn giả tuyên bố một cách hùng hồn rằng mục tiêu duy nhất của cuộc đấu tranh đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa là để lật đổ chế độ cộng sản và được một tràng pháo tay hoan hô. Không phải người chống cộng nào cũng là người dân chủ nhưng nếu diễn giả này là một người dân chủ thì ông ta là một người dân chủ vô trách nhiệm và rất khờ khạo. Tội của Đảng Cộng Sản Việt Nam không phải là đã dụng tâm bán đất hay dâng đất cho Trung Quốc mà là đã làm mất đất và đã để xẩy ra nông nỗi này. Trách nhiệm của Đảng cộng sản là rất lớn, rất nghiêm trọng và không thể tha thứ nhưng nói quá đáng chỉ phản tác dụng. Nếu ngăn chặn Trung Quốc xâm lấn trở thành một đồng thuận dân tộc thì số phận của đảng và chế độ cộng sản kể như đả giải quyết xong. Đưa vấn đề biên giới ra trước công pháp quốc tế và dư luận thế giới, thay vì thương thuyết song phương dấm dúi trong thế yếu như hiện nay, là điều cần cho quyền lợi đất nước nhưng cũng là điều rất nhức nhối cho Đảng cộng sản, phải khuyến khích nó trong chiều hương này, ít nhất bằng cách không lợi dụng cuộc đấu tranh bảo vệ lãnh thổ cho mục đích chính trị quốc nội.

Trong một tương lai xa hơn tình hình có thể rất thuận lợi nếu chúng ta có được những người cầm quyền biết nhìn xa và biết thích nghi với tình thế. Thế giới đang trải qua một cuộc chuyển hóa lớn và vùng Đông Á còn chuyển hóa một cách trọng đại hơn bởi vì tại đây còn có nhiều điều chưa hợp lý và không thể tiếp tục tồn tại lâu dài. Nhiều biên giới quốc gia có thể sẽ mờ nhạt đi. Nhiều khối hợp tác sẽ hình thành giữa các quốc gia hoặc giữa một số vùng của các quốc gia trên cơ sở gần gũi nhau về địa lý, ngôn ngữ, văn hóa và bổ túc cho nhau về kinh tế. Với thời gian các khối hợp tác này sẽ trở thành những liên bang trên thực tế. Cũng có những quốc gia không thuộc hẳn vào một khối nào trong một thời gian dài và sẽ là gạch nối giữa các khối. Và cũng có những nước và vùng mà chúng ta chưa thể dự đoán tương lai vào lúc này. Điều chắc chắn là Trung Quốc không thể tồn tại dưới hình thức hiện nay. Nó vốn đã có quá nhiều xung đột lịch sử và mâu thuẫn văn hóa. Cho tới nay ly khai là khuynh hướng thường trực, sự thống nhất đã chỉ được duy trì bằng một vũ khí duy nhất mà ngày nay chính quyền Bắc Kinh không còn sử dụng được nữa : tàn sát.

Trong hơn ba thập niên qua Trung Quốc lại đã lao vào một mô thức kinh tế nguy hiểm, có hiệu quả cao nhất thời nhưng rất tệ hại cho tương lai, đó là mô thức tăng trưởng bất chấp con người, môi trường và liên đới xã hội. Mối liên hệ vốn đã không mạnh giữa một số tỉnh thực ra không còn gì trên thực tế. Trong một thời gian có thể dài, Trung Quốc có thể vẫn tồn tại trong biên giới chính trị hiện nay nhưng biên giới chính trị này sẽ mất dần ý nghĩa và tầm quan trọng. Ngược lại, những quan hệ kinh tế và văn hóa sẽ dần dần tạo ra những liên minh mới. Ngay trong lúc này tỉnh Quảng Đông đã có nhiều quan hệ với Đài Loan hơn là với Bắc Kinh, quan hệ kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc trên thực tế chỉ là những quan hệ với các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Hồng Kông.

Trong cái nhìn này một số khối hợp tác sẽ hình thành trong và chung quanh Trung Quốc :

Khối 1 gồm hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, Việt Nam, Lào và Campuchia. Trong một tương lai xa hơn khối này có thể gồm cả tỉnh Quý Châu.

Khối 2 gồm Đài Loan, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Hồng Kông, Hải Nam.

Khối 3 gồm một số lớn các tỉnh phía Bắc Trung Quốc chung quanh Bắc Kinh.

Trong khối 1 Việt Nam có vai trò trung tâm gần như tự nhiên với vị trí thuận lợi và dân số đông đảo nhất, gần một nửa dân số toàn khối. Việt Nam cũng có những ưu thế khác : bờ biển dài và tốt, kinh nghiêm tiếp xúc với các nước phương Tây, thông thạo ngoai ngữ. Tiếng Việt, dù còn cần được cải thiện, cũng là một lợi khí lớn vì dễ học. Chúng ta cũng là một nước ít ảnh hưởng tôn giáo, đó cũng là một điểm mạnh. Một khi khối này đã thành hình, đã có sự lưu thông tự do của người và hàng hóa trong nội bộ khối, thì vấn đề biên giới phía Bắc không còn đặt ra nữa.

Khối 2 trong suốt thế kỷ 21 chắc chắn sẽ là khối mạnh nhất cả về kinh tế lẫn văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhưng sẽ không là một đe dọa cho ai bởi vì sẽ là một khối văn minh, không còn văn hóa giành dân lấn đất. Những căng thẳng trên biển Đông sẽ tan biến dần và cũng có thể đạt tới một thỏa hiệp hợp tình hợp lý cho Hoàng Sa và Trường Sa.

Điều ngược đời là nếu chỉ muốn lấy lại Hoàng Sa và Trường Sa thôi thì chúng ta hoàn toàn tuyệt vọng nhưng nếu chúng ta dám nhìn xa hơn thì vấn đề lại dễ hơn nhiều. Sự hình thành của khối 1 gần như là một diễn biến tự nhiên. Hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây có nhiều quan hệ văn hóa và lịch sử với Việt Nam và chưa hẳn hội nhập vào Trung Quốc, mới cách đây hơn một thế kỷ họ đã chiến đấu rất dữ dội để giành độc lập và đã chỉ bị khuất phục bằng bạo lực sau khi không còn chiến binh và quá phân nửa dân chúng bị tàn sát ; (theo một số tài liệu 90% dân số tỉnh Quý Châu đã bị tàn sát trong cuộc chiến này). Khát vọng độc lập, hay ít ra được thực sự tự trị còn rất lớn. Cũng phải nhấn mạnh rằng sự hình thành khối này, cũng như các khối khác, không phải là một sự xâm lược đối với Trung Quốc mà chỉ là một tiến trình tự nhiên do hợp tác văn hóa và kinh tế. Vả lại hiện nay Vân Nam đã có nhiều khu tự trị, Quảng Tây đã là một tỉnh tự trị trên nguyên tắc.

Cũng không nên quá lo sợ Trung Quốc mà đi đến thái độ thù địch. Người Trung Quốc, và người Hán nói riêng, về bản chất là một dân tộc hiền hòa dễ mến. Dưới những thái độ và ngôn ngữ có thể gây hiểu lầm họ thực ra không kỳ thị chủng tộc, không có tinh thần quốc gia mạnh và cũng không nhiều tự hào dân tộc. Các dân tộc nhỏ như Mông Cổ và Mãn Thanh đã có thể cai trị Trung Quốc mà hầu như không bị chống đối. Các triều đại Nguyên và Thanh đã sụp đổ vì thối nát và bất lực chứ không phải vì là kẻ thống trị nước ngoài. Trong văn hóa và tâm lý của chính nó, Trung Quốc không được nhìn như một nước mà như thiên hạ, nghĩa là thế giới, hay không là gì cả.

Tóm lại, dù là nhu cầu trước mắt –ngăn chặn sự xâm thực- hay là đòi hỏi trong tương lai dài hạn –vượt qua những mất mát và vươn tới một không gian thăng tiến lớn rộng- thì lời giải của bài toán Trung Quốc vẫn là phải hòa giải dân tộc, phải dân chủ hóa, phải là một chế độ dân chủ đúng nghĩa và phải có những người cầm quyền lương thiện và sáng suốt.

Không thể khác vì phong trào toàn cầu hóa đang đặt ra cho mọi quốc gia và cho chính khái niêm quốc gia những thử thách rất lớn. Sẽ chỉ còn lại sau cuộc chuyển hóa vĩ đại này những quốc gia được quan niệm như là một không gian liên đới và như sự chấp nhận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Nói cách khác những quốc gia thực sự dân chủ và đa nguyên, được cai trị một cách lương thiện, khiêm tốn và thông minh.

Nguyễn Gia Kiểng

(08/2008)

Additional Info

  • Author Nguyễn Gia Kiểng
Published in Quan điểm

Việt Nam phản ứng trước cáo buộc là "tội phạm có tổ chức" (RFA, 24/06/2018)

Ngày 24/6, trang web của đài Tiếng nói Việt Nam dẫn lời của ông Hồ Minh Tuấn, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa Czech cho biết, phát biểu của Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện Cộng hòa Czech là "hoàn toàn không phù hợp với sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống giữa hai nước những năm qua".

bicao1

Ông Lubomir Zaoralek, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Czech - AFP

Cũng theo VOV, Đại sứ quán Việt Nam tại Czech đang xem xét ý kiến phản đối phát biểu của ông Zaoralek thông qua kênh ngoại giao chính thức.

Hôm 21/6/2018, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Cộng hòa Czech cho rằng, "Việt Nam là tội phạm có tổ chức và trở thành mối đe dọa an ninh quốc gia hàng đầu".

Trang Vietinfo.eu, một trang tin tức của cộng đồng người Việt sinh sống tại Châu Âu thuật lại những chỉ trích gay gắt của cựu Ngoại trưởng Czech trong khuôn khổ bàn luận về vấn đề ngân sách tài chính năm 2017 của ngành ngoại giao nước này.

Theo ông Zaoralek, visa cho sinh viên Việt Nam vào Czech là công cụ để đưa tội phạm vào nước này. Ông cũng nói rằng các băng nhóm Trung Quốc và Việt Nam đang sản xuất chất gây nghiện Pervitin để bán vào Đức và Czech.

Hôm 13/6 vừa qua, hãng tin AFP trích thông tn từ cảnh sát Czech cho biết cảnh sát nước này đã phá vỡ một đường dây buôn ma tuý gồm 60 người do 3 người Việt Nam cầm đầu, một người trong số này hoạt động tại Czech, hai người còn lại hoạt động ở các nước khác. Những người này hiện đã bị truy tố và nếu bị kết án thì có thể sẽ phải đối mặt với án tù từ 10 đến 18 năm.

******************

Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Czech khẳng định Việt Nam là tổ chức tội phạm ! (Vietinfo, 23/06/2018)

Phiên họp ngày 21 tháng Sáu 2018 của Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Cộng hòa Czech đã được nghe những ngôn từ chỉ trích cực kỳ gay gắt nhằm vào Việt Nam. Chủ tịch Ủy ban, cựu Ngoại trưởng Lubomír Zaorálek (ČSSD) khẳng định, rằng Việt Nam là tổ chức tội phạm và đã trở thành mối đe dọa an ninh hàng đầu.

czech2

Viên cựu Ngoại trưởng đã tuyên bố như vậy trong khuôn khổ bàn luận về vấn đề ngân sách tài chính năm ngoái của ngành ngoại giao, sau khi thư ký nhà nước Miloslav Stašek mô tả cho các nghị sĩ tình hình cấp thị thực nhập cảnh Cộng hòa Czech tại một số quốc gia. Miloslav Stašek lưu ý, là tình hình phức tạp vẫn tiếp tục diễn ra ở Việt Nam và đề tài này cần tranh luận chuyên môn.

Để phản ứng, nữ dân biểu ODS Zuzana Majerová Zahradníková cung cấp thông tin, rằng mới đây đã có chuyến thăm Việt Nam cùng Ủy ban Giáo dục và từ đó tới nay nhận được nhiều phản ánh về các trường hợp gặp khó khăn khi nhận thị thực Czech. Các ý kiến phản ánh mô tả là không thể liên lạc điện thoại được với Đại sứ quán Czech, hay chuyện thị thực trở thành món hàng buôn bán, toàn bộ thủ tục xử lý thiếu minh bạch. Thậm chí theo Zuzana Majerová Zahradníková, một công dân đã quyết định trực tiếp đến lãnh sự Czech, nhưng đã bị công an điệu cổ ra.

"Chúng tôi đã lưu ý đặc biệt tới vấn đề này, cả Hội đồng An ninh Quốc gia cũng quan tâm đến", Lubomír Zaorálek nói đồng thời bổ xung, rằng Việt Nam đã trở thành mối đe dọa an ninh hàng đầu tới an ninh quốc gia. "Việt Nam đơn giản là tổ chức tội phạm. Khi tôi có mặt ở Hà Nội và Sài Gòn, những người Việt Nam, những người Việt bình thường đã xin lỗi tôi, là đã đưa sang Cộng hòa Czech mức độ tội phạm như thế với hình thức như vậy", cựu Ngoại trưởng chia sẻ.

czech3

Đại sứ Việt Nam tại Czech, Hồ Minh Tuấn sẽ phản ứng ra sao với cáo buộc này ?

Theo Lubomír Zaorálek, trở ngại lớn nhất trong mối quan hệ giữa Cộng hòa Czech với láng giềng Đức là vấn đề ma túy và các băng đảng Trung Quốc hay Việt Nam sản xuất ra. "Cơ cấu ấy đã quá lớn. Và thiệt hại gây ra cho Cộng hòa Czech đã tới mức độ, lên tới hàng chục tỉ, tôi vẫn nhớ, là cả (cựu bộ trưởng Tài chính và hiện đang là thủ tướng) Andrej Babiš cũng đã phát hoảng, khi nhìn thấy mức độ thiệt hại gây ra cho Cộng hòa Czech", Lubomír Zaorálek mô tả. Lubomír Zaorálek cho biết, là những thông tin này chưa bao giờ được công khai toàn bộ mà chỉ được đưa ra tại Hội đồng An ninh Quốc gia. Lubomír Zaorálek khẳng định phía Việt Nam không đủ khả năng làm bất cứ điều gì để giải quyết vấn đề.

Trong thảo luận, nữ dân biểu Zuzana Majerová Zahradníková cũng kêu gọi nên hỗ trợ hình thức thịc thực du học. Nhưng cả ý kiến này cũng bị Lubomír Zaorálek kịch liệt bác bỏ. Bởi theo chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Czech, thì chính loại thị thực du học là thức công cụ tối ưu nhất để đưa tội phạm vào Cộng hòa Czech.

Cựu Ngoại trưởng Cộng hòa Czech cũng bác bỏ cáo buộc, rằng các nhân viên cơ quan đại diện ngoại giao Czech dính líu vào những thủ đoạn chạy thị thực bất hợp pháp. "Tôi bác bỏ mọi đồn đoán, là các nhân viên của chúng ta cũng dính líu", Lubomír Zaorálek khẳng định và cho biết, là bộ Ngoại giao cũng đã nhờ cả các cơ quan tình báo hỗ trợ xác minh.

Thảo luận của Ủy ban Đối ngoại ngày 21 tháng Sáu 2018 cuối cùng đưa đến kết luận, là vấn đề cấp thị thực và cả mối quan hệ với Việt Nam sẽ được tổ chức tọa đàm đặc biệt. Như đã biết, mới đây Quốc hội Cộng hòa Czech đã phê chuẩn hai hiệp định với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là hiệp định hợp tác chống tội phạm và hiệp định dẫn độ tù nhân.

Về nhân vật Lubomír Zaorálek, thì trong khuôn khổ đàm phán thành lập liên minh cầm quyền mới giữa ČSSD và ANO với sự ủng hộ gián tiếp của những người Cộng sản, thì ứng cử viên ghế Ngoại trưởng Miroslav Poche mà ČSSD đưa ra gặp phải phản ứng kịch liệt nhất là từ Phủ Tổng thống. Mặc dù có gây ra bất đồng trong nội bộ đảng, nhưng cái tên Lubomír Zaorálek lại được nhắc đến như một trong những khả năng thay thế Miroslav Poche.

Nhưng dù sao mặc lòng, những khẳng định rõ ràng hiện nay của chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Cộng hòa Czech Lubomír Zaorálek về Việt Nam như vậy cũng cần được phía Việt Nam quan tâm ít nhất trên bình diện ngoại giao và có phản ứng phù hợp.

David Nguyen 

ČTK, info.cz - ©Vietinfo

Published in Việt Nam
dimanche, 10 décembre 2017 21:51

Việt Nam, đất nước sợ Nhân Quyền

Trước khi sang thăm Việt Nam và dự APEC, thủ tướng Canada Trudeau viết lên twitter nhắc đến việc thúc đẩy nhân quyền khi đến Việt Nam, nhưng báo chí Việt Nam dưới sự kiểm soát của đảng đã bỏ đi 4 từ "thúc đẩy nhân quyền" khi đăng lại bài viết của ông ta.

Trong hầu hết các hội nghị quốc tế có Việt Nam tham gia thì việc đấu tranh không đưa vấn đề nhân quyền vào chương trình nghị sự được xem là thắng lợi lớn về ngoại giao của Việt Nam.

so1

Ở Việt Nam, cá nhân hay tổ chức xã hội nào nói đến quyền làm người, tuyên truyền cho mọi người hiểu biết cơ bản về quyền làm người đều bị đàn áp, bắt bớ và nhốt tù

Chính vì sự sợ hãi nhân quyền như vậy mà ở Việt Nam, cá nhân hay tổ chức xã hội nào nói đến quyền làm người, tuyên truyền cho mọi người hiểu biết cơ bản về quyền làm người đều bị đàn áp, bắt bớ và nhốt tù.

Mới đây nhất, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga phải đi tù 9,10 năm chỉ vì vận động và đấu tranh cho nhân quyền. Trước đó Trần Huỳnh Duy Thức, Lê công định, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Thanh Nghiên, Lê Thị Công Nhân, …cũng bị đi tù vì quyền nói lên chính kiến của mình. Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương… bị đi tù vì muốn giúp công nhân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Trương Duy Nhất và nhiều blogger khác đi tù vì tranh đấu cho quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí khi đứng ra hoạt động báo chí độc lập.

Nóng nhất hiện nay là hàng loạt những hội viên của hội Anh Em Dân Chủ (AEDC) bị bắt bớ khắp mọi nơi. Mở đầu là luật sư Nguyễn Văn Đài và trợ lý Lê Thu Hà bị bắt theo điều 258.

Luật sư Đài là sáng lập viên hội AEDC, một hội dân sự công khai trên mạng xã hội với mục tiêu được xác định rõ ràng và công khai là "cùng nhau chia sẻ những khó khăn, gian khổ cũng như cùng nhau chia sẻ những niềm vui, hạnh phúc. Giúp nhau cùng tiến bộ trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền con người và vận động xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ, công bằng và văn minh".

Luật sư Đài bị bắt ngay sau khi anh có cuộc tiếp xúc trao đổi với một nhóm hội viên trẻ về quyền con người.

Sau hơn một năm điều tra vẫn chưa có kết luận gì theo điều 258 với LS Đài và trợ lý Lê Thu Hà, thì bỗng dưng cơ quan điều tra nâng vụ án lên theo điều 79 gọi là "tổ chức lật đổ chính quyền" để mở rộng bắt bớ hàng loạt hội viên công khai khác của hội AEDC.

Hoạt động phổ biến tuyên truyền về quyền con người cho người dân hiểu biết về quyền con người mà là hoạt động lật đổ chính quyền hay sao ? Giả định rằng hội AEDC có nhận tiền tài trợ từ các tổ chức nhân quyền quốc tế, các tổ chức NGO để chi phí cho hoạt động phổ biến nhân quyền thì cũng chẳng có cơ sở để kết luận đó là hoạt động "lật đổ chính quyền".

Chẳng cần dùng đến những từ đao to búa lớn là nhà nước- của- dân- do- dân- vì -dân, chỉ đơn thuần là nhà nước của con người thì tại sao kiến thức cơ bản về quyền làm con người bị bưng bít.

Hầu hết các quốc gia văn minh tiến bộ đều đưa kiến thức về nhân quyền vào chương trình giảng dạy cho học sinh từ lớp vỡ lòng. Trẻ em mẫu giáo đã được dạy cho biết quyền bảo vệ thân thể, không ai có quyền làm đau đớn mình và mình không có quyền làm đau đớn người khác qua các hành động cấu, đánh, cắn, véo bạn bè.

Chương trình giáo dục Việt Nam không hề có nội dung về nhân quyền. Nhà nước không những tránh né chuyện nhân quyền mà còn chủ trương cho phép các cơ quan của mình vi phạm nhân quyền. Bắt bớ, hành hung, canh gác, khóa cửa, giam lỏng, ngăn chận đi lại, cấm xuất cảnh… những công dân hoạt động xã hội, tôn giáo được xem như chuyện đương nhiên và cần thiết phải làm.

Tổ chức nhà nước vi phạm nhân quyền đối với công dân được thì giữa công dân với công dân xâm phạm quyền con người của nhau được. Chuyện đó đang diễn ra phổ biến và ngày càng trở nên trầm trọng trong xã hội Việt Nam.

Cha mẹ bạo hành con cái, con cái bạo hành cha mẹ già, thầy cô giáo bạo hành học sinh, học sinh đánh lại thầy cô giáo, bảo mẫu hành hạ trẻ em, công an đánh chết dân trong đồn, học sinh bạo hành lẫn nhau rồi còn quay clip tung lên mạng để sỉ nhục nạn nhân đến tận cùng…Những hành vi ấy sẽ được hạn chế tối đa nếu như từ mấy chục năm qua nhà trường đưa nội dung quyền con người vào chương trình giảng dạy thay vì chủ nghĩa Mác Lê nin với cốt lõi đấu tranh giai cấp bằng bạo lực.

Gieo nhân nào gặt quả đó. Những cô cậu học trò mấy chục năm trước, nay làm cán bộ, làm công an, làm giáo viên, làm bảo mẫu, làm bố mẹ kể cả bố mẹ ghẻ… sẽ không bạo hành người khác nếu như từ hồi đi học được giảng dạy kỹ về quyền con người. Người không có hiểu biết cơ bản về quyền làm người chắc chắn sẽ vi phạm quyền con người.

Nhà cầm quyền thay vì bắt bớ, đàn áp những cá nhân hay tổ chức xã hội dân sự hoạt động phổ biến nhân quyền ra toàn xã hội thì nên tuyên dương và cảm ơn họ, hay ít nhất cứ để yên cho họ làm.

Nhà nước của con người mà quyền làm người không được tôn trọng thì nhà nước đó không phải của con người.

10/12/2017, ngày Quốc Tế Nhân Quyền

Huỳnh Ngọc Chênh

Nguồn : Tiếng Dân, 10/12/2017

Published in Diễn đàn

Từ khi nối lại bang giao với Mỹ, Trung Quốc đã phát triển, tiến bộ vượt bực về hết mọi mặt : quân sự, kinh tế, tài chính nhờ vào kỹ thuật, tiền bạc, thị trường Mỹ.

lat1

Live Design Show của công ty Trung Quốc tại Las Vegas, Hoa Kỳ : Nhờ quan hệ với Mỹ, Trung Quốc nay vươn lên thành nền kinh tế hàng đầu thế giới

Cho nên ngày nay Trung Quốc đã mạnh đủ để lật ngược thế cờ, ra mặt đối đầu với Hoa Kỳ.

Việc Trung Quốc thay đổi từ hòa bình sang tấn công như thế nào thì mọi người đều đã biết và chúng ta hiện còn đang chứng kiến từng ngày.

Song song với cường độ gây hấn của Trung Quốc là nhịp tăng tốc chiến lược xoay trục của Mỹ.

Và khi Mỹ xoay về Biển Đông thì Việt Nam lại trở về chỗ đứng lịch sử : đó là địa điểm chiến lược quan trọng nhất tại khu vực này.

Đầu thập niên 2000 Trung Quốc đã có những hành động ra mặt khiêu khích Mỹ, bắt đầu với việc tuyên bố chủ quyền về khu vực khí đốt gần đảo Natura phía đông bắc Sumatra (Nam Dương) và tranh chấp với Nhật về quần đảo Senkaku ở Đông hải.

Từ thời điểm đó tới nay đã có tới bốn tổng thống Mỹ liên tục chính thức thăm viếng Việt Nam.

Sự khác nhau là hai tổng thống Clinton và Obama đã tới Hà Nội vào năm thứ tám, năm cuối cùng của nhiệm kỳ hai (Clinton : 16/11/2000 và Obama : 20/5/2016). TT Bush tới vào năm thứ sáu (17/11/2006).

Lần này, Tổng thống Trump chính thức công du nội trong 11 tháng kể từ khi dọn vào Tòa Bạch Ốc.

Việt Nam lại là nước đầu tiên trong nhóm quốc gia ở Biển Đông trên lộ trình của ông. Sự sắp xếp về thời điểm thăm viếng, và thứ tự trước sau trong các chuyến đi của một lãnh đạo luôn có một ý nghĩa sâu xa về chính sách ngoại giao.

Mục đích công du của Trump tại Việt Nam

222222222222222222222

Tổng thống Trump (giữa) nêu ra một số nét chính về đường lối Châu Á của chính phủ Mỹ trong chuyến thăm Đông Nam Á vừa qua

Trong chuyến đi này, khác với muc đích thăm viếng Trung Quốc, Nhật, Nam Hàn, Philippines, ông tới Việt Nam không phải để thuyết pháp về 'mậu dịch công bằng đối với Mỹ," hay chống lại hiểm họa Bắc Hàn, hay chỉ để bán vũ khí, mục đích chính là về chiến lược.

Tại hội trường APEC, ông nói đến ý nghĩa của giấc mơ này là để "tất cả có thể cùng nhau phát triển thịnh vượng trong tự do và hòa bình".

Nhưng mọi người đều biết rằng "cùng nhau phát triển thịnh vượng" thì dễ nhưng "trong tự do và hòa bình" thì khó.

Khó là vì Trung Quốc gây hấn gia tăng ngày một nhanh. Cho nên, quyền lợi hỗ tương quan trọng nhất đối với Việt Nam và Mỹ là ngăn chận sự bành trường mau lẹ của Trung Quốc.

333333333333333333333333

Thương hiệu Trump được Trung Quốc phê duyệt cho đăng ký

Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2016, ông Obama khéo léo thúc đẩy Việt Nam qua việc nhắc lại câu thơ của Lý Thường Kiệt, rằng : "Sông núi nước Nam vua Nam ở".

Nhưng trong chuyến công du này thì ông Trump - con người bộc trực, nghĩ sao nói vậy - đã nhắc thẳng đến Hai Bà Trưng từng đánh đuổi Trung Quốc từ gần 2000 năm trước.

Ông nói : "Hai Bà Trưng đã đánh thức tinh thần của người dân vùng đất này. Đó là lần đầu tiên người dân Việt Nam đứng lên đấu tranh cho sự độc lập và niềm tự hào của các bạn".

Trong một hội trường gồm lãnh đạo của cả 21 thành viên và ngay trước mặt ông Tập Cận Bình mà nhắc đến như vậy thì cũng không phải là chỉ để nói bâng quơ.

Chắc cố vấn của ông Trump cũng đã cho ông xem hồ sơ của Tòa Bạch Ốc (9/7/1971) ghi lại lời Thủ tướng Chu Ân Lai nói về Hai Bà Trưng :

"Hai nghìn năm trước đây, Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam, và Trung Quốc đã bị đánh bại. Lại bị đánh bại bởi hai người đàn bà, hai nữ tướng".

Ông Trump ưu ái Việt Nam ?

Tờ Forbes (12/11/2017) vừa có bài nhận xét rằng Việt Nam là nước có lợi nhiều nhất trong chuyến đi vừa qua của Tổng thống Trump.

Đó là vì Việt Nam nhận được cả hai cái YES từ ông Trump. Tờ này cho rằng : Việt Nam muốn hai điều - một là Mỹ thực sự quan tâm đến sự lo ngại của Việt Nam về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông ; và hai là Mỹ tiếp tục ngoại thương tự do đối với Việt Nam mặc dù đã rút khỏi TPP, vì ngoại thương chiếm tới 89% tổng sản xuất GDP của nước này (201 tỷ USD, năm 2016).

Forbes biện luận : về điểm thứ nhất, trước chuyến công du, ông Trump đã cho chiến hạm đi xuyên qua biển, sát cạnh những hòn đảo Trung Quốc đang xây dựng hoặc tranh chấp với Việt Nam.

Ngày Chủ Nhật, ngay trước chuyến thăm Hà Nội của ông Tập Cận Bình, ông Trump lại đề nghị có thể giúp làm trung gian hay trọng tài về tranh chấp Biển Đông.

Ông Trump đề nghị như vậy dù đã biết rõ rằng Trung Quốc luôn chống lại vấn đề trọng tài do một trung gian thứ ba chứ đừng nói tới Mỹ.

44444444444444444444

Hình hàng không mẫu hạm Mỹ thăm Hong Kong

Thật vậy, ngày 13/11/2017 báo South China Morning Post từ Hồng Kông đã bình luận rằng việc ông Trump đề xuất làm trung gian tranh chấp Biển Đông sẽ khiến Bắc Kinh khó chịu và phủ bóng xuống quan hệ của ông Trump với ông Tập.

Nhưng sở dĩ ông Trump cứ đề nghị như vậy là "để cho thấy rằng Mỹ thừa nhận sự lo lắng của Việt Nam và tối thiểu là không phải là không đứng về phía Việt Nam".

Về điểm thứ hai, dù ông Trump tấn công các nước rất nặng nề (nhất là Trung Quốc) tại APEC về mậu dịch bất công đối với Mỹ, nhưng tại Hà Nội ông đã nhân nhượng, chỉ nói rằng sẽ chờ mong để tiến tới thương mại hai chiều một cách "công bình và hỗ tương" (fair and reciprocal), và kêu gọi phải "minh bạch hơn" (more transparent).

Đây là mặc dù cán cân thương mại Mỹ - Việt càng ngày càng thâm thụt đối với Mỹ : nguyên 9 tháng đầu của năm 2017 đã lên tới gần 29 tỷ so với 32 tỷ USD của cả năm 2016 và 31 tỷ, năm 2015.

Liệu Việt Nam có được thuyết phục hay không ?

Ngoài áp lực nặng nề của Trung Quốc, lại còn vấn đề khả tín của Hoa Kỳ. Chắc rằng Việt Nam cũng đã có câu hỏi : làm sao chúng tôi tin được rằng các ông sẽ không bỏ rơi chúng tôi như các ông đã tháo chạy khỏi Miền Nam ?

Đây là vấn đề nhức nhối nhất cho nước Mỹ không những đối với Việt Nam mà còn đối với các quốc gia khác trong vùng.

Để trả lời phần nào câu hỏi này thì Tổng thống Obama đã xác nhận :

"Khi đến Việt Nam, tôi ý thức được quá khứ, ý thức được lịch sử khó khăn, nhưng mặt khác cũng hướng đến tương lai, đến sự thịnh vượng, đến những mục tiêu an ninh và ổn định để hai nước có thể thúc đẩy lẫn nhau".

Rồi một cách tế nhị, như để cam kết sự chung thủy, ông trích Nguyễn Du trong Truyện Kiều :

"Rằng trăm năm cũng từ đây.

Của tin gọi một chút này làm ghi"

Tổng thống Trump thì không mấy văn hoa, cho nên ông nói thẳng rằng sự xích lại gần nhau là dựa trên nền tảng của quyền lợi hỗ tương của cả hai nước.

Phát biểu ở Hà Nội, ông nói : "Chúng ta đã gắn kết dần với nhau để tìm được những mục tiêu chung, những lợi ích chung. Và đó là điều đang diễn ra. Chúng tôi tới đây hôm nay để tái khẳng định những gắn kết đó".

Thông cáo chung cũng nhắc lại việc "mở rộng quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước trên cơ sở …các lợi ích và mong muốn chung".

Ta có thể giải thích rộng ra rằng thông điệp của cả ông Obama lẫn ông Trump là :

"Quyền lợi quan trọng nhất của cả hai bên Việt - Mỹ là ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc. Mà tham vọng này thì từ đây sẽ không bao giờ chấm dứt, cho nên chúng tôi sẽ không bao giờ làm cái lầm lỡ thứ hai là ôm ông Trung Quốc vào lòng (và bỏ rơi Việt Nam nữa). Đầu thập kỷ 1970 chúng tôi ôm Trung Quốc mà không e ngại vì lúc ấy nước này còn đứng vào hàng nghèo nhất thế giới, chưa mạnh về quân sự : năm 1969 xuýt nữa còn bị Liên Xô tấn công nguyên tử nếu không có sự can thiệp của Mỹ".

Thật vậy, tất cả cũng chỉ là vấn đề quyền lợi : chẳng có bạn bè vĩnh viễn (và cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn) mà chỉ có quyền lợi vĩnh viễn, như Lord Palmerston, Thủ tướng Anh đã từng nhấn mạnh.

Về quyền lợi thì phía Việt Nam cũng đã biết rõ hai điều : thứ nhất, từ Thế Chiến II, không một nước nào từ Âu tới Á đã giàu mạnh lên được mà không phải nhờ Mỹ ; và thứ hai, chỉ có Mỹ mới đối lại được với Trung Quốc.

Mở ra hướng đi mới cho Việt Nam

55555555555555555555555

Một quán ở Đà Nẵng trang trí bằng hình ông Trump và các biểu tượng của Hoa Kỳ như Tượng Thần Tự do

Khi đặt Việt Nam vào trung tâm của khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, một khu vực mà chắc chắn ông Trump sẽ tập trung để phát triển, ông đã gián tiếp mở ra một lối đi mới cho Việt Nam.

Đó là dù bị kẹt giữa hai cường quốc, nước này cũng vẫn có cách để xích lại gần Mỹ. Ngoài việc tiến thẳng tới quan hệ đối tác chiến lược lại còn một lối đi vòng : đó là khi Việt Nam nối tay chặt chẽ hơn với Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Hàn, Philippines, Úc thì cũng là gián tiếp nối tay chặt hơn với Mỹ, vì 'bạn của bạn tôi là bạn của tôi.'

Mới nghe thì cho rằng khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương chỉ là viễn tượng của một khu kinh tế, thương mại tự do và mở rộng - như chính ông Trump nói - nhưng rất có thể là nó còn có một ý nghĩa sâu xa hơn - một chủ đề chúng tôi sẽ đề cập tới trong một dịp khác.

Để đáp lại thịnh tình của Tổng thống Trump trong chuyến công du kỳ này, thì Việt Nam cũng đã có ba hành động tượng trưng :

1. Về kinh tế : ký hợp đồng 12 tỷ USD mua sản phẩm của Mỹ ;

2. Về quân sự : "hoan nghênh hàng không mẫu hạm Mỹ lần đầu tiên tới thăm một hải cảng (Cam Ranh) của Việt Nam trong năm 2018" và "khẳng định kế hoạch hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ trong giai đoạn 2018-2020". (ông Trump nhấn mạnh sẽ bắt đầu ngay việc sửa soạn chiến thuật này).

3. Về chính trị, ngoại giao : đã sắp xếp mời ông Trump đến Hà Nội, dự yến tiệc, phát biểu, ra thông cáo chung một ngày trước khi ông Tập tới, dù đón tiếp ông Tập long trọng hơn ông Trump nhiều.

Điểm thứ 2 và 3 : nghe thì đơn giản nhưng là những điểm rất nhạy cảm đối với ông Tập.

Để biết rõ hơn liệu Tổng thống Trump có thành công ở Việt Nam hay không, ta phải theo dõi những hành động có thực chất của cả hai bên trong những ngày tháng sắp tới.

Nguyễn Tiến Hưng

Nguồn : BBC, 20/11/2017

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh Tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh Nhảy vào (2016).

Published in Diễn đàn

Tập Cận Bình dẫn Trung Quốc đi về đâu ?

Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn cố bám vào Trung Quốc ?

Trái ngược với cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11/2016, người Việt Nam trên toàn thế giới (chứ không riêng gì ở Mỹ) chia thành hai phe, người ủng hộ bà Hillary Clinton, người ủng hộ Donald Trump, tranh cãi nhau kịch liệt, không ai chịu nhường ai, bất phân thắng bại, kể cả sau khi có kết quả là ông Trump đắc cử. Thế nhưng trong Đại hội 19 của Đảng cộng sản Trung Quốc vừa kết thúc hôm 24/10/2017 thì hầu như không mấy người Việt Nam quan tâm.

xi0

Qua Đại hội 19, Tập Cận Bình để lộ quyết tâm lãnh đạo một mình một nước Trung Quốc rộng lớn

Điều đáng nói nhất là không chỉ người người dân Việt Nam không quan tâm đến đại hội 19 của Trung Quốc mà ngay cả Đảng cộng sản Việt Nam, là tổ chức gắn liền vận mệnh của mình vào Trung Quốc cũng không thấy nói gì nhiều ngoài một vài bài báo dịch từ báo Trung Quốc. Tại sao lại có chuyện lạ như vậy ?

Chúng ta có thể điểm sơ qua một vài điểm "bất thường" của đại hội này.

1. Trung Quốc đã tỏ ra ôn hòa một cách ngạc nhiên

Trái với bản tính hung hăng vốn có (nhất là với các nước có đường biên giới chung với Trung Quốc), trong đại hội này Tập Cận Bình nói rằng "Trung Quốc trở thành hùng cường không đe dọa bất kỳ quốc gia nào".

Ông Tập không nhắc gì đến chuyện gây hấn với các nước khác ngoài tuyên bố "đừng có ai tin rằng Trung Quốc sẽ bỏ qua một tấc đất chủ quyền của mình, chúng ta sẽ không dung thứ cho bất cứ ai, bằng cách nào, vào thời điểm nào, muốn tách một tấc đất ra khỏi Trung Quốc". Thực chất của câu nói này chỉ là để ve vãn tinh thần dân tộc của người Trung Quốc mà thôi, thực tế là nó đã làm cho hình ảnh của Trung Quốc xấu đi trong con mắt các quốc gia láng giềng.

Giọng điệu của ông Tập hoàn toàn mềm mỏng với thế giới và với Mỹ. Thông điệp của ông có thể giải nghĩa là "thế giới hãy để chúng tôi được yên để chúng tôi tiếp tục cai trị Trung Quốc" !

Đảng cộng sản Việt Nam và không ít người dân Việt Nam vẫn run sợ trước một Trung Quốc đầy sức mạnh. Thật sự Trung Quốc không mạnh như chúng ta nghĩ. Một nước mạnh là một nước đầy tự tin để chinh phục thế giới chứ không phải co cụm lại để cố thủ.

Nhiều người Việt lo rằng Trung Quốc sẽ "thôn tín" Việt Nam vào năm 2020 ! Sẽ không có chuyện đó ! Giả sử ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam có đem dâng Việt Nam cho Trung Quốc thì Trung Quốc cũng sẽ không nhận. Riêng nội bộ Trung Quốc, nhất là các vùng bị sát nhập vào Trung Quốc bằng vũ lực trước đây như Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông… cũng đủ làm đau đầu chính quyền Trung Quốc và họ đã phải duy trì một lực lượng an ninh đồ sộ để kiểm soát các khu vực này. Họ không dại gì để ôm thêm một vùng đất mới là Việt Nam, một quốc gia láng giềng có truyền thống chống đối Trung Quốc suốt hơn 2000 năm qua.

Tuy nhiên nhu cầu khống chế Việt Nam để Việt Nam nằm trong quĩ đạo của Trung Quốc là hiện hữu và có thật. Trung Quốc rất muốn kiềm chế Việt Nam thông qua Đảng cộng sản Việt Nam, họ muốn biến Việt Nam thành một bãi rác, theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

2. Trung Quốc đang nguy ngập

Đúng như tác giả Bùi Quang Vơm nhận định qua bài viết "Tư tưởng của Tập Cận Bình có gì khác thường không ?" (1), chính Đảng cộng sản Trung Quốc đã chọn và đặt ông Tập Cận Bình lên ngôi Hoàng đế chứ không phải ông Tập chinh phục (hoặc khuất phục) được Đảng cộng sản Trung Quốc như nhiều người nghĩ. Sự việc này thú nhận rằng Trung Quốc đang nguy ngập và bối rối. Có lẽ một sự phân rã Trung Quốc đang bắt đầu. Đảng cộng sản Trung Quốc trong cơn tuyệt vọng đã lấy quyết định đặt sự ổn định lên trên tất cả. Và để làm được điều đó thì họ phải cho ông Tập và ban lãnh đạo đảng cộng sản một thứ uy quyền tuyệt đối để có thể ổn định được nội bộ.

Chúng ta đừng quên rằng Trung Quốc là một đế quốc hơn là một quốc gia. Thế nào là một đế quốc ? Đế quốc là một nhóm nhiều quốc gia, bị/được một quốc gia mạnh nhất lãnh đạo (khống chế). Như vậy Đảng cộng sản Trung Quốc là nhân tố chính để khống chế (hay trói buộc) các vùng/miền khác nhau của Trung Quốc lại với nhau. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng/miền của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng, khoảng 300 triệu người dân Trung Quốc sống ở vùng duyên hải có đời sống sung túc khác xa với gần một tỉ người sống sâu trong đại lục. Hố ngăn cách giàu nghèo càng lớn thì bất mãn xã hội càng gia tăng và đến một lúc nào đó các mâu thuẫn này lên đến đỉnh điểm thì cách mạng sẽ nổ ra và đây là các cuộc "cách mạng đường phố" vô cùng nguy hiểm, nó sẽ phá hủy tình tự dân tộc và gây ra một sự đổ vỡ kinh hoàng.

Khi phải co cụm lại để tự vệ thì điều đó chứng tỏ Trung Quốc đang có nguy cơ hỗn loạn. Tản quyền là một nét đậm của thế giới dân chủ. Mỹ, Đức, Áo, Thụy Sĩ… đã chọn lựa mô hình liên bang nhằm trao nhiều quyền tự quyết hơn cho các vùng miền và họ đã thành công. Trung Quốc đang phải làm điều ngược lại.

"Tư tưởng của Tập Cận Bình" là đảng cộng sản phải kiểm soát tất cả, từ kinh tế, chính trị đến quân sự… Đây là một bước thụt lùi vĩ đại so với thời Đặng Tiểu Bình. Đặng là người có chủ trương tách dần đảng ra khỏi chính quyền. Thành tựu của Tập trong 5 năm qua là phục hồi tư tưởng và văn hóa Khổng giáo bằng cách dựng lên hàng trăm Viện Khổng Tử trên khắp thế giới cộng thêm việc khôi phục lại Con đường tơ lụa trên biển và trên đất liền, với tên gọi mới "Một vành đai, một con đường" (Nhất đái nhất lộ). Cả hai chương trình này đã, đang và sẽ bị phá sản, vì Bắc Kinh đang đổ ra không biết bao nhiêu ngàn tỷ USD để xây dựng nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn tất. Bánh xe của lịch sử là tiến về phía trước chứ không phải quay ngược lại quá khứ.

Khi Trung Quốc quyết tâm đặt sự ổn định lên trên hết thì điều này đồng nghĩa với việc chấm hết các quyền tự do và dân chủ. Ổn định và sáng tạo là hai điều mâu thuẫn với nhau. Sáng tạo, sáng kiến và phát minh chỉ có thể hình thành và nuôi dưỡng trong một xã hội tự do, dân chủ và cởi mở. Một xã hội khép kín và thiếu tự do sẽ không có đất sống cho sự sáng tạo.

3. Ô nhiễm môi trường đã vượt ngưỡng báo động

Vấn đề nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc hiện nay đó là thể chế chính trị lạc hậu và nạn ô nhiễm môi trường. Trung Quốc đã đặt mục tiêu phát triển kinh tế bằng mọi giá bất chấp sự xuống cấp của môi trường.

Thiên nhiên và môi trường Trung Quốc đang bị hủy hoại từng ngày từng giờ. Một ví dụ là Trung Quốc đã đầu tư hàng trăm tỉ đôla Mỹ để sản xuất các tấm pano điện mặt trời nhưng không thể dùng được vì mặt trời tại Trung Quốc đã bị khói các nhà máy nhiệt than che khuất. Người Trung Quốc không còn nhìn thấy mặt trời. Họ cũng không thể hít thở không khí trong lành. Nhiều công ty đóng chai không khí sạch để bán cho người Trung Quốc đang ăn nên làm ra ở đất này. Nhiều nơi tại Trung Quốc thì "ngày cũng biến thành đêm" (2), (3).

Trung Quốc đã quyết định đóng cửa các nhà máy điện nhiệt than và các nhà máy khai thác bô-xít, luyện kim (bằng cách tống chúng sang Việt Nam)… Tuy nhiên mọi sự vẫn không thể dừng lại vì tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trường vẫn là "quyết tâm chính trị" sống còn với Đảng cộng sản Trung Quốc. Sắp tới đây, không chỉ người giàu Trung Quốc tìm cách chạy ra nước ngoài mà ngay cả những người thuộc tầng lớp trung lưu cũng tìm cách tháo thân. Nhiều người Trung Quốc đã lùng mua bất động sản tại Việt Nam, Lào, Campuchia để sau này sinh sống cũng vì lẽ đó.

4. Không có các con số về sự tăng trưởng

Bản báo cáo chính trị của ông Tập đạt kỷ lục vì kéo dài hơn ba tiếng rưỡi đồng hồ nhưng lại không hề nhắc đến các con số về sự tăng trưởng trong 5 năm qua. Đảng cộng sản Trung Quốc không có gì để nói về điều đó dù rằng các báo cáo của họ luôn được thổi phồng và che đậy. Hai công ty kiểm định tài chính có uy tín trên thế giới là Moody’s và S&P (Standard & Poor) đều hạ bậc tín nhiệm của Trung Quốc từ "ổn định" xuống "tiêu cực" (vào tháng 9/2017), trước đại hội 19 hơn một tháng (4).

Theo số liệu của Bloomberg, tổng nợ của Trung Quốc, bao gồm nợ của các ngân hàng và doanh nghiệp, nợ của các hộ gia đình và nợ công, hiện ở mức khoảng 260% GDP. Dòng tiền của các nhà đầu tư quốc tế lẫn các doanh nhân Trung Quốc đang ồ ạt tháo chạy khỏi Trung Quốc mới là con số chuẩn xác về tình hình sức khỏe của kinh tế Trung Quốc.

Một tin đáng chú ý là tân thủ tướng New Zealand vừa đắc cử đã công bố lệnh cấm người nước ngoài mua nhà tại đảo quốc này, trong đó chủ yếu là nhằm vào đa số  khách hàng từ Trung Quốc (5).

"Giấc mơ Trung Hoa" mà ông Tập cố vẽ ra hình như không thuyết phục được dòng người bỏ đất nước ra đi. Đáng nói là những người ra đi đều thuộc tầng lớp trung lưu trở lên. Họ mang theo tiền của và cả trí tuệ chứ họ không đi tay không.

5. Không có kế hoạch về bảo hiểm xã hội

Đối phó với dân số ngày càng già đi và cùng với đó là chương trình "an sinh xã hội" là bài toán đau đầu cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Trung Quốc không là ngoại lệ. Chúng ta đừng quên rằng Trung Quốc đã tạo ra được một "phép màu kinh tế" thời gian qua là nhờ vào khối "nô lệ" hơn một tỉ người dân. Trung Quốc (và cả Việt Nam) đang báo động về tình trạng giảm sút dân số. Mới đây ông bí thư Nguyễn Thiện Nhân phải kêu gọi chị em phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh hãy đẻ nhiều hơn nữa "vì thành phố, vì đất nước" (6).

Trung Quốc là một quốc gia phụ thuộc vào xuất khẩu. Để nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững thì việc phát triển thị trường nội địa phải được chú trọng. Trung Quốc hiểu điều này nhưng lại không thực hiện được vì người dân Trung Quốc vẫn tiết kiệm để đề phòng rủi ro như ốm đau bệnh tật hay thất nghiệp. Người dân chỉ mạnh tay chi tiêu khi họ có niềm tin vào tương lai tức là khi hệ thống an sinh xã hội có thể đảm bảo cho cuộc sống về già của họ. "Giấc mơ Trung Hoa" của ông Tập lại không đả động gì đến điều đó.

Vì sao đến giờ này Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn cố bám vào Trung Quốc ?

Tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và "khái niệm về quốc gia" trên thế giới đang bị xét lại một cách gay gắt. Tình yêu đó phải là hai chiều. Cuộc trưng cầu dân ý, tách khỏi Tây Ba Nha của vùng Catalunia là một ví dụ. Người dân vùng này đòi tự trị chỉ vì lý do kinh tế chứ không phải vì bị đàn áp hay mất tự do. Họ giàu có hơn các vùng khác của Tây Ba Nha và họ không muốn chia sẻ sự sung túc của họ. Một lý do đó là tình tự dân tộc của họ đã bị bào mòn dưới thời cai trị của chế độ độc tài Franco và 4 năm nội chiến…

xi3

Quốc gia Việt Nam phải được định nghĩa như một tình cảm, một không gian liên đới và là một dự án tương lai chung - Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên 

Trong "Dự án chính trị" Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên định nghĩa về quốc gia như sau : "Quốc gia là một tình cảm, một không gian liên đới và là một dự án tương lai chung". Nếu thiếu một trong ba thứ đó thì người dân trong các quốc gia sẽ không có lý do để yêu nước và nỗ lực cống hiến, hy sinh vì tổ quốc. Người Việt Nam chỉ có mỗi "tình cảm" với đất nước Việt Nam vì đó là quê hương, là nơi "chôn nhau cắt rốn" chứ họ không hề có "sự liên đới" hay "một dự án tương lai chung" nào. Vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi người dân Việt Nam (hay Trung Quốc) không yêu nước và không gắn bó với tổ quốc kể cả tầng lớp tinh hoa hay giới lãnh đạo.  

Chúng ta cũng cần biết một điều rằng, người dân trong các tỉnh của Trung Quốc không coi người tỉnh khác như là đồng bào. Trong suốt dòng lịch sử, sự thống nhất của Trung Quốc đã chỉ được duy trì bằng bạo lực. Trung Quốc không có tinh thần dân tộc, chính vì thế mà các nước nhỏ như Mông Cổ và Mãn Thanh đã có thể thống trị Trung Quốc trong hàng trăm năm mà không bị coi như ngoại xâm.

Điều đáng ngạc nhiên và cần nói nhất đó là trong lúc Trung Quốc đang bối rối và nguy ngập thì Đảng cộng sản Việt Nam vẫn lấy quyết định tiếp tục lệ thuộc một cách mù quáng vào Trung Quốc để duy trì sự tồn tại của chế độ. Trung Quốc không mạnh như ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam tưởng. Bất cứ lúc nào Trung Quốc cũng có thể vỡ ra thành nhiều quốc gia nhỏ. Trung Quốc chỉ là một bức tường giấy mong manh nên họ rất lo sợ dân các nước láng giềng có dân chủ. Tuy thế Trung Quốc cũng phải bỏ rơi Bắc Triều Tiên, một đồng minh thân cận, ít nhất cũng là trên mặt ngôn ngữ và dư luận quốc tế. Trung Quốc và cả Nga đều không muốn bị nhìn nhận như là các quốc gia bao che cho một nhà nước khủng bố.

Đảng cộng sản Việt Nam vẫn cố gắng bơi ngược dòng lịch sử và nguy hiểm nhất là họ vẫn tiếp tục khiêu khích người dân Việt Nam bằng việc tăng cường đàn áp bắt bớ các tiếng nói bất đồng chính kiến. Một sinh viên, học giỏi và xuất sắc trong mọi mặt nhưng vì "ngây thơ" muốn giúp đảng chống tham nhũng nên phải nhận một bản án 6 năm tù giam và 4 năm quản chế, đó là Phan Kim Khánh (Đại học Thái Nguyên). Chính quyền vẫn tiếp tục cưỡng chế thu hồi đất đai của người dân khắp nơi và đặc biệt nhất là việc dùng "Hội Cờ Đỏ" như kiểu Hồng Vệ binh bên Trung Quốc để đe dọa và tấn công giáo dân ở Nghệ An.

Trong lúc Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đang cố gắng kêu gọi hòa giải dân tộc và xiển dương tinh thần bất bạo động thì Đảng cộng sản Việt Nam lại tiếp tục nuôi dưỡng và khoét sâu lòng hận thù giữa các thành phần dân tộc bằng bạo lực. Những hành động mù quáng này sẽ khiến công cuộc hòa giải dân tộc sau này gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu viễn kiến và thiếu những con người có tấm lòng, ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam sẽ dẫn dắt đất nước và dân tộc Việt Nam đi vào đêm đen.

Nếu trí thức Việt Nam vẫn không chịu tỉnh thức và ủng hộ cho các tổ chức đối lập dân chủ để làm đối trọng, kiềm chế sự "tác yêu tác quái" của Đảng cộng sản Việt Nam, và nếu những đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam có tấm lòng và ưu tư với đất nước không chịu "xuất đầu lộ diện" để bắt tay với các tổ chức đối lập đứng đắn, cùng tìm một giải pháp mới thay thế cho giải pháp cộng sản thì đất nước Việt Nam sẽ không có tương lai.

Việt Hoàng

(31/10/2017)

(1) https://www.thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/4450-t-t-ng-c-a-t-p-can-binh-co-gi-khac-th-ng-khong

(2) http://nld.com.vn/khoa-hoc/o-nhiem-toi-muc-ngay-bien-thanh-dem-o-trung-quoc-20170103165607431.htm

(3) http://dantri.com.vn/the-gioi/o-nhiem-khong-khi-o-trung-quoc-vuot-quy-chuan-cua-who-100-lan-20161220143211871.htm

(4) http://vneconomy.vn/the-gioi/sp-ha-diem-tin-nhiem-trung-quoc-lan-dau-tien-sau-18-nam-20170922092957496.htm

(5) http://www.bbc.com/vietnamese/business-41754134

(6) http://dantri.com.vn/su-kien/bi-thu-nguyen-thien-nhan-tha-thiet-mong-phu-nu-tphcm-nang-ty-suat-sinh-20170704153925591.htm

Additional Info

  • Author Việt Hoàng
Published in Quan điểm
lundi, 09 octobre 2017 21:33

Trump hay không Trump tại APEC 25

Trump hay không Trump tại APEC 25 không quan trọng cho quan hệ Việt Mỹ

APEC không liên quan nhiều đến quan hệ Việt- Mỹ

Việc chuẩn bị cho hội nghị APEC lần thứ 25 đã bắt đầu từ tháng 12 năm 2016 đến nay, qua nhiều cuộc họp khác nhau, trong đó có cuộc họp của các bộ trưởng thương mại của các thành viên APEC diễn ra vào tháng Năm, 2017, ba cuộc họp dành cho các viên chức cao cấp diễn ra vào tháng Ba, tháng Năm, và tháng Tám. Tất cả các cuộc họp này đều diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam.

apec1

Các Bộ trưởng thương mại APEC gặp nhau vào tháng Năm, 2017 để chuận bị hội nghị APEC vào tháng 11, 2017.  AFP

Theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, hiện sống ở Hà Nội thì trong những cuộc họp đó Việt Nam cũng đã có đưa ra nhiều sáng kiến, dù hiện nay chưa được tiết lộ, nhưng sẽ được bàn đến khi hội nghị APEC khai mạc vào tháng 11 tới đây.

Một sự kiện được mọi người trông đợi nữa là sự có mặt của Tổng thống mới của nước Mỹ là ông Donald Trump, tại Đà Nẵng trong những ngày diễn ra hội nghị. Tuy nhiên ông Bùi Kiến Thành cho rằng chuyện này không có gì quan trọng :

"Sự tham gia của Tổng thống Mỹ, một quốc gia thành viên của APEC, một diễn đàn để trao đổi những sáng kiến của nhau thôi, chứ không phải là một cuộc họp đi đến những quyết định song phương hay đa phương gì, những việc có sự thỏa thuận. Vì vậy sự hiện diện của ông Donald Trump trong diễn đàn này thì cũng hạn chế thôi, không có cái gì thật sự gọi là mới mẻ trong quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ. Việc đấy sẽ được giải quyết trong khung cảnh khác".

Tuy nhiên ông Bùi Kiến Thành lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng trong việc lựa chọn thành phố Đà Nẵng để tiến hành đăng cai tổ chức hội nghị APEC lần thứ 25 :

"Thành phố Đà Nẵng là một thành phố rất đặc biệt. Đối với Việt Nam nó có một không khí mới, nó không phải là Hà Nội đông đúc, kẹt xe đủ thứ kiểu, nó cũng không phải là Thành phố Hồ Chí Minh rộn ràng, đối với Việt Nam nó là một thành phố có bộ mặt mới của nước Việt Nam trong thời đổi mới phát triển. Đây cũng là một sự lựa chọn hợp lý".

Trong thời gian hơn 10 năm nay Thành phố Đà Nẵng được xem là nơi phát triển cơ sở hạ tầng khá tốt, không gặp phải những vấn đề xấu về môi trường và giao thông như hai thành phố lớn khác là Hà Nội và Sài Gòn. Tuy nhiên ngay trước khi diễn ra Hội nghị APEC tại Đà Nẵng, vào đầu tháng 10, 2017, đã có một sự thay đổi lớn về lãnh đạo của thành phố Đà Nẵng, người đứng đầu của thành ủy của đảng cộng sản tại Đà Nẵng là ông Nguyễn Xuân Anh bị cách chức, người đứng đầu Ủy ban nhân dân là ông Huỳnh Đức Thơ bị cảnh cáo, và đương kim Bộ trưởng Giao thông- Vận Tải Trương Quang Nghĩa được điều về thay thế cho ông Nguyễn Xuân Anh.

Nhưng ông Bùi Kiến Thành cho rằng những việc đó không có liên quan gì đến việc Hội nghị APEC lần thứ 25 được tổ chức tại Đà Nẵng :

"Tôi thấy không có liên quan gì. Không phải Thành phố Đà Đẵng tổ chức mà chỉ có vai trò hỗ trợ thôi. Việc tổ chức diễn đàn này là việc của trung ương làm. Cho nên là sự đổi thay của lãnh đạo Đà Nẵng không có ảnh hưởng gì đến trọng tâm của việc tổ chức diễn đàn này".

Cơ hội kinh tế nhưng còn phụ thuộc nhiều vấn đề khác

Một doanh nhân ở Đà Nẵng là ông Trần Văn Lĩnh, Tổng Giám đốc, kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ phần thương mại và thủy sản Thuận Phước nói với chúng tôi rằng Hội nghi APEC tại Đà Nẵng là một cơ hội cho các doanh nhân Việt Nam :

"Thông qua hội nghị APEC, tôi nghĩ doanh nhân Việt Nam, vốn ít có những cơ hội gặp gỡ những doanh nhân lớn trên thế giới, đây là dịp để họ tận mặt nhìn thấy được mình, và mình thấy được họ".

Công ty Thuận Phát của ông Lĩnh có xuất khẩu nhiều mặt hàng hải sản vào thị trường Mỹ. Ông nói rằng sản phẩm của công ty ông có mặt ở các siêu thị lớn của Mỹ như Costco, Walmart, nhưng có khi phải qua nhiều người trung gian, vậy Hội nghi APEC là nơi mà ông có thể gặp trực tiếp những khách hàng của ông ở Mỹ để loại đi lớp trung gian này.

Ông Lĩnh cũng có nói tới sự đáng tiếc là hiện nay Việt Nam không được công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị trường nên các sản phẩm hải sản của Việt Nam bị Mỹ đánh thuế chống phá giá, mặc dù theo ông là những người nuôi thủy sản ở Việt Nam không hề được trợ cấp gì của nhà nước cũng như giá của thủy sản Việt Nam bán ở Mỹ có khi còn cao hơn thủy sản của một số nước khác.

"Trên đấu trường kinh tế thế giới mạnh được yếu thua hiện nay, mình là một quốc gia yếu, làm sao mà mình có thể chống lại sự áp đặt của một nền kinh tế lớn nhất toàn cầu được. Mình phải chịu thôi, còn sắp tới đây nó có như thế nào thì còn tùy nhiều chuyện lắm".

Theo ông, những vụ kiện chống hàng hóa Việt Nam lệ thuộc vào rất nhiều vấn đề, trong đó có cả chính trị, ông lấy ví dụ như các nước Philippines, Indonesia không hề bị áp thuế chống phá giá, mặt dù giá tôm của các nước này có khi còn thấp hơn cả giá tôm của Việt Nam trên thị trường Mỹ. Một vấn đề nữa mà theo ông Lĩnh, đã ảnh hưởng đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ trong thời gian qua là khuynh hướng hướng vào bên trong của nước Mỹ dưới thời ông Donald Trump.

Khi được hỏi là liệu giới doanh nghiệp cũng như quan chức Việt Nam có lợi dụng diễn đàn APEC để thương lượng giành lại sự công bằng cho sản phẩm của Việt Nam hay không, ông nói :

"Cũng không phải dễ, ngay cả APEC như thế này cũng không dễ. Thời gian thì không nhiều, mà thế giới thì có rất nhiều chuyện để cần bàn, chứ đâu phải chuyện hai bên, mà họ bàn đa phương chứ đâu phải song phương. Mà ngay như song phương thì giữa Việt Nam và Mỹ cũng có rất nhiều chuyện để bàn. Tất nhiên vấn đề này sẽ được biết đến, tuy nhiên tôi không tin là nó có thể được giải quyết bây giờ".

Chuyên gia Bùi Kiến Thành thì nói với chúng tôi rằng có thể sẽ có những cuộc gặp gỡ giữa hai nước Việt và Mỹ bên lề Hội nghi APEC 25, nhưng không phải để giải quyết một điều gì cụ thể ngay lúc này mà để khởi đầu những bước đi trong tương lai.

Kính Hòa

Nguồn : RFA, 09/10/2017

Published in Diễn đàn

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương thăm bãi Bạch Đằng (RFA, 06/10/2017)

Đô đốc Scott H. Swift, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, đến thăm di tích lịch sử Bạch Đằng vào sáng ngày 6 tháng 10. Trong buổi viếng thăm này, Đô đốc Scott H. Swift phát biểu với truyền thông rằng Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn để đánh bại quân xâm lược và các tướng lãnh đã sử dụng những chiến thuật tài tình để giữ gìn nền độc lập tự do.

xoay1

Đô đốc Scott Swiff, tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, tại cuộc họp báo ở căn cứ quân sự Changi, Singapore ngày 22 tháng 8 năm 2017. Roslan RAHMAN / AFP

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ còn nói chuyến thăm của ông đến Việt Nam là một biểu hiện của mối quan hệ ngày càng thắt chặt giữa quân đội Mỹ và Việt Nam. Đô đốc Scott H. Swift nhấn mạnh hiện Việt Nam và Mỹ phải đối mặt với những thách thức và quyền lợi chung. Vấn đề quan trọng nhất là các quốc gia cùng duy trì sự ổn định, hòa bình trong khu vực.

Đô đốc Scott H. Swift có mặt tại Việt Nam vào tối ngày 4 tháng 10 và sẽ có buổi làm với Bộ Quốc Phòng Việt Nam.

Đô đốc Scott H. Swift nhắc lại hàng không mẫu hạm của Mỹ sẽ đến Việt Nam trong một thời điểm thích hợp.

Di tích Bạch Đằng Giang ở cửa sông Bạch Đằng cách thành phố Hải Phòng chừng 20 kilomet. Đây là địa danh gắn với 3 trận thủy chiến trong lịch sử chống xâm lược của Việt Nam.

Trận thứ nhất vào năm 938, Ngô Quyền cho đóng cọc đánh bạn 2 vạn thủy quân Nam Hán do Hoàng Tháo dẫn đầu.

Năm 981, vua Lê Đại Hành đánh bại quân Tống cũng tại địa danh này.

Lần thứ ba vào năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh bại 5 vạn quân Nguyên Mông.

Theo thông cáo của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Đô đốc Scott H. Swift và Đô đốc Harry Harris, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương (PACOM) đã gặp gỡ và làm việc với Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, ông Phạm Quang Vinh trong chuyến thăm 3 ngày của ông này đến Bang Hawaii, từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 9.

Thông cáo nói rõ ông Phạm Quang Vinh bày tỏ với các vị tướng lãnh của Hoa Kỳ rằng Việt Nam mong muốn hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả Bản ghi nhớ về thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng (2011) và Tuyên bố Tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng (2015) cũng như tiếp tục hợp tác trong nhiều hoạt động như an ninh hàng hải, cứu hộ cứu nạn trên biển…

Ông Phạm Quang Vinh cũng nhắc lại Việt Nam tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Mỹ trong việc giải quyết hậu quả chiến tranh, bao gồm tẩy độc dioxin, rà phá bom mìn và tìm kiếm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh.

Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương (PACOM), Đô đốc Harry Harris trong buổi gặp gỡ với Đại sứ Việt Nam tại Mỹ nói rằng Hoa Kỳ mong muốn tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực, trong đó có ASEAN trên tinh thần hợp tác và phát triển, giải quyết hòa bình và tranh chấp theo luật pháp quốc tế.

Trong chuyến thăm đến Hawaii, ông Đại sứ Việt Nam Phạm Quang Vinh cũng đã đến thăm tàu Cảnh sát biển 8020 là chiếc tàu tuần tra đang có đợt tập huấn mà Hoa Kỳ bàn giao cho Cảnh sát biển Việt Nam hồi tháng 5 vừa qua.

*****************

Đô đốc Swift, đại sứ Mỹ Osius kính trọng nỗ lực độc lập của Việt Nam (VOA, 06/10/2017)

lnh Hm đi Thái Bình Dương M Scott Swift và đi s Ted Osius hôm 6/10 bày t lòng kính trng v n lc bo v đc lp, ch quyn ca Vit Nam trong quá kh.

xoay2

lnh hm đi Thái Bình Dương M Swift, Đi s M Osius thăm bãi cc Bch Đng, Hi Phòng, 6/10

Trên trang Facebook chính thức ca mình, Đi s M ti Vit Nam viết ông và Đô đốc Swift đã thăm khu di tích bãi cọc Bch Đng Hi Phòng đ tìm hiu thêm v lch s Vit Nam và t lòng kính trng đi vi nhng v anh hùng vĩ đi đã gi nn đc lp và ch quyn ca đt nước.

Trang tin hàng đầu VnExpress ca Vit Nam dn li Đô đc Swift nói ông "rất phn khi" v s tăng cường hp tác gia Hi quân Vit Nam và Hi quân M. Ông khng đnh : "Quan h này s xuyên sut qua các đi chính quyn và lãnh đo ca mi nước. Đây là mi quan h được phát trin t nhiên, bi chúng ta đang đi mt vi nhng mi lo ngi và đe da chung, cũng như s bt n trong khu vc".

Đô đốc M cũng cam kết tiếp tc hp tác cht ch vi Vit Nam đ tăng cường n đnh khu vc, nhm đem li s phn thnh cho Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung, VnExpress trích lời ông cho hay.

Đại s M nói vi các phóng viên rng vic tìm hiu quá kh Vit Nam là "vô cùng quan trng", theo trang Zing News. Ông Osius ca ngi Vit Nam đã s dng "nhng chiến lược khôn ngoan" đ nhiu ln đánh bi các k thù hùng mnh hơn.

Phát biểu ti khu di tích Bạch Đng, đi s M nói tinh thn yêu nước và quyết tâm ca nhân dân Vit Nam được phn ánh rt rõ qua các công trình k nim lch s và th hin sng đng, mnh m trong người dân ngày nay.

Tinh thần y, theo li v đi s, gi cho ông nh đến bài thơ Nam quốc sơn hà ca danh tướng Lý Thường Kit. Đi s M Ted Osius đã đc bài thơ bng tiếng Vit ti khu di tích. Video ghi hình ông đc thơ đã được chia s nhiu trên mng.

Published in Việt Nam

Nội các Tổng thống Trump vừa loan báo hôm kia (thứ năm) chương trình công du các nước Châu Á vào đầu tháng mười một, gồm các nước Nhật, Nam Hàn và Trung Quốc. Chuyến đi này ông Trump "có thể" ghé Việt Nam, nhân Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác kinh tế các quốc gia Châu Á - Thái bình dương (APEC).

conco1

Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 14/9 tuyên bố có thể ghé thăm Việt Nam để dự Hội nghị Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC)

Chữ "có thể" tôi đặt trong dấu ngoặc, nhằm nhấn mạnh là Trump có thể không ghé Việt Nam.

Đồng thời vấn đề Liên Hiệp Quốc, 100 quốc gia (bao gồm Anh và Đức) đã đồng ý ký tên ủng hộ sáng kiến của Hoa Kỳ nhằm cải tổ lại tổ chức Liên Hiệp Quốc sao cho tổ chức này hoạt động hữu hiệu hơn. Theo báo chí thì thứ hai tới ông Trump sẽ đọc diễn văn trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc để công bố sáng kiến này.

Hai sự kiện đều phát xuất từ Hoa Kỳ, xem ra không quan hệ gì với nhau. Nhưng theo tôi, đó là những dấu hiệu mạnh mẽ mà các lãnh đạo cộng sản Việt Nam cần phải "sáng suốt giải mã".

Việt Nam vẫn chưa nằm trong "lịch" của ông Trump, mặc dầu Hội nghị thượng đỉnh APEC tổ chức ở Việt Nam. Điều này cho thấy Việt Nam (và APEC) "không là cây đinh gì" với Mỹ.

APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation ) là một "diễn đàn" kinh tế của các nước Châu Á có tiếp giáp với Thái Bình Dương. Tổ chức kinh tế này đã không còn quan trọng đối với Mỹ.

Từ thời Tổng thống Obama, với chủ trương "xoay trục sang Châu Á", diễn đàn APEC được thay thế bằng Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình dương (TPP), trong đó Trung Quốc bị loại ra và vai trò Việt Nam đươc xem là "trung tâm".

Trump đắc cử tổng thống, cái nhìn mới của Mỹ về "trật tự thế giới" đã làm đảo lộn, hay ít ra làm thay đổi, cách "đối xử" của Mỹ với các đối tác truyền thống. TPP đơn thuần bị dẹp bỏ. Vai trò (con cờ) Việt Nam (đối với Mỹ) trở nên bất định.

Mối quan tâm hàng đầu của ông Trump hiện nay là các vụ thử bom nguyên tử (và nhiệt nguyên tử) cùng với các vụ bắn hỏa tiễn (liên lục địa ?) của Bắc Hàn.

Cá nhân tôi không nghĩ rằng Bắc Hàn đơn phương (không có sự trợ giúp kỹ thuật bên ngoài) lại có thể phát triển "đột biến", trong vòng vài tháng thử nghiệm thành công từ bom nguyên tử sang bom nhiệt hạch (thermonucleaire).

Cũng vậy, không thể vài tháng mà Bắc Hàn chế ngự kỹ thuật phóng hỏa tiễn, từ mức độ "chiến thuật" (dưới 1000km) sang "chiến lược" (trên 3.000km) như vậy.

Những vận động của Mỹ ở Liên Hiệp Quốc (nhằm cải tổ lại tổ chức này) cùng với các các biện pháp (trừng phạt kinh tế) của nước này đối với Nga và Trung Quốc, hai đại cường có chung biên giới với Bắc Hàn, có thể đã thúc đẩy Nga và Trung Quốc giúp Bắc Hàn (về kỹ thuật) để thục hiện các thử nghiệm nguyên tử và hỏa tiễn, nhằm "đối trọng" với các chính sách của Mỹ.

Đối với Nga, (vụ Crimée) hay vụ "lùm xùm" can thiệp vào nội bộ Mỹ trong cuộc bầu của tổng thống vừa rồi, có thể sẽ làm cho quan hệ hai bên "đông lạnh" kéo dài.

Đối với Trung Quốc, vấn đề không đơn thuần, vì tư tưởng chủ đạo của Trump khi ra ứng cử là "ngăn chặn" sự trỗi dậy "không" hòa bình của Trung Quốc.

Từ thời chiến tranh lạnh, tổ chức Liên Hiệp Quốc chỉ là "phương tiện" để phe cộng sản, do Liên Xô đứng đầu, tuyên truyền cho mục tiêu nhuộm đỏ địa cầu.

Sau khi khối cộng sản sụp đổ, cơ quan Liên Hiệp Quốc lại trở thành diễn đàn để các bên "diễn trò hề", (như các nước nổi tiếng vi phạm nhân quyền thì trở thanh chủ tịch ủy ban nhân quyền của Liên Hiệp Quốc), hoặc là các nghị quyết cù nhây "trừng phạt" Bắc hàn hiện nay.

Chủ trương cải tổ Liên Hiệp Quốc của Trump là đúng, bởi vì một mình Hoa Kỳ đã gánh phần lớn ngân sách điều hành của Liên Hiệp Quốc. (Nếu cần, Hoa Kỳ có thể không chi tiền nữa để cho Liên Hiệp Quốc sụp).

Trở lại "con cờ" Việt Nam. Chưa bao giờ Việt Nam "cô đơn" như lúc này.

Có giả thuyết đề nghị rằng, để giảm bớt sự hung hãn của Kim Jong-un, Hoa Kỳ cần trao đổi Biển Đông (phần của Việt Nam) cho Trung Quốc. Có như vậy Trung Quốc mới làm áp lực hữu hiệu lên Kim Jong-un.

Dĩ nhiên Việt Nam có trở thành "vật" để các đại cường trao đổi hay không là do thái độ của lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Nhưng vấn đề cốt lõi vẫn là "tiềm năng thực sự" của Kim Jong-un.

Ta thấy Trump càng gáy trên mạng thì Kim Jong-un càng làm mạnh trên thực tế. Lằn mức đỏ của Mỹ đặt ra cho Bắc Hàn, từ việc không được nghiên cứu vũ khí nguyên tử thời Clinton, sau đó lùi về mức "thử nghiệm bom nguyên tử" dưới thời Obama.

Nhưng dưới thời Trump, chỉ vài tháng mà "lằn mức đỏ" lùi về ở mức phòng thủ Guam. Vừa với bom nhiệt hạch, vừa với hỏa tiễn "liên lục địa".

"Phải có cái gì chống lưng" nên Kim Jong-un mới hung hăng làm mạnh như vậy.

Ta không thể loại trừ Trung Quốc (hay Nga) cho Kim jong Un "mượn" vài trái bom nhiệt hạch cùng với vài giàn hỏa tiễn "quá đát" để thử nghiệm. Quá đát, bởi vì cường độ "bom nhiệt hạch" "còn tốt" mạnh hàng chục, hàng trăm lần hơn trái bom (mà Bắc Hàn) vừa thử. Hỏa tiễn "liên lục địa" còn "tốt" cũng vậy, tầm bay (tối thiếu) là 5.000 km.

Cái "dỏm" của Bắc Hàn đổi lấy cái "thực" ở Biển Đông, Trung Quốc thắng lớn trong ván bài bịp bợm.

Vì vậy Việt Nam có trở thành "con cờ" hay vật để người ta trao đổi hay không là do tầm của lãnh đạo.

Xét lại lịch sử cận đại, Việt Nam "cầm ngọn cờ đầu" không biết bao nhiêu lần. Đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc. Việt Nam là "mũi nhọn, đạo quân vô sản tiền phong" vùng Đông Nam Á. Việt Nam "tiền đồn thế giới tự do"... Đất nước tan hoang là do lãnh đạo "muốn đi đầu", mà thục tế là "con cờ" của bàn cờ thế giới.

Mà "tầm nhìn" của lãnh đạo bây giờ là đang loay hoay tìm cách nào "đốt nóng lò". Đọc các bài viết "nổi lửa lên em" của nhà báo Huy Đức, coi bộ vụ "đốt lò" còn kéo dài.

Ối thây kệ. Biển Đông vào tay cộng sản Việt Nam hay vào tay ai khác, kết quả là người dân vẫn là "trai thì làm nô, gái thì làm đỉ".

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb.nhantuan.truong, 16/09/2017

Published in Diễn đàn