Nói du lịch sau Covid-19 là câu chuyện đau đầu hình như có nói bớt, nói giảm đi một chút, mà phải nói là nền kinh tế Việt Nam sẽ là câu chuyện đau đầu. Nhưng, điều này sẽ biểu hiện rõ nét nhất ở du lịch, bởi ba yếu tố : Hành xử của chính quyền, Tâm tính nhân dân và Kinh tế chết lâm sàn.
Ngành du lịch Việt Nam có chung một tâm lý là hốt vội, lùa vội để gở vốn, để thoát chết.
Ở khía cạnh thứ nhất, hành xử của chính quyền, nói ra nghe có vẻ như đang nói ngược nhưng trong các lý do chính để khách du lịch chọn đến Việt Nam, ngoài yếu tố cảnh quan đẹp, thức ăn và dịch vụ lưu trú rẻ, sống thoải mái, có lẽ yếu tố quan trọng nhất khiến người ta chọn đến Việt Nam lại là quốc gia độc tài.
Bởi không có gì thú vị hơn khi bạn đang sống ở một quốc gia tự do, dân chủ, văn minh với đầy đủ sự tiến bộ, bạn bỏ một ít tiền, mua vé để trải nghiệm đời sống, trải nghiệm lịch sử, văn hóa trên một đất nước mà ở đó, mọi ngóc ngách đều bị chi phối bởi thứ chủ nghĩa vốn đã bị thế giới văn minh vứt vào sọt rác từ rất lâu. Bạn vừa trải nghiệm cảnh quan, văn hóa, lịch sử lại vừa thực chứng một thứ chủ nghĩa vốn đã thành đồ cổ đang hiện hữu trước mặt bạn. Và trên hết, bạn được đối xử như một ông vua so với dân bản địa, bạn được bảo đảm an ninh và có vẻ như an ninh luôn ưu ái bảo vệ bạn.
Nhưng, đó chỉ là câu chuyện của ngày hôm qua, mà nói là hôm qua nhưng cũng hơi lâu rồi chứ chẳng mới mẽ gì. Bởi từ ngày ngành du lịch phát triển phì đại, lượng khách quốc tế liên tục kéo đến Việt Nam thì dường như vấn đề an ninh cho du khách không còn được coi trọng, tuy chưa có những xúc phạm, xâm hại đến khách nước ngoài quá mức nhưng cũng không ít khách du lịch cảm thấy Việt Nam không còn an toàn, an ninh bản thân bị đe dọa và bị lừa nhiều thứ, từ phòng khách sạn, dịch vụ cho đến vấn đề trộm cắp.
Cái hấp dẫn của việc chọn du lịch Việt Nam nằm ở chỗ bạn được trải nghiệm trên quốc gia độc tài, có vấn đề chính trị hết sức nhạy nhưng bạn được bảo vệ tốt. Một khi bạn không được bảo vệ, bạn chẳng còn tha thiết với việc chui đầu vào một đất nước đang ngày càng lộn xộn và nguy hiểm cho bạn. Hiện tại, du lịch Việt Nam hầu như không còn an toàn nữa. Nghĩa là chính quyền sau khi vắt cạn những gì cần vắt từ du lịch, họ bắt đầu thả lơ về an ninh cho khách tham quan.
Đáng sợ hơn nữa là sự thiếu kiểm soát, lơ là và ầu ơ của chính quyền địa phương trước các tiêu chuẩn về an toàn du lịch. Vụ việc cháy tàu trên vịnh Hạ Long nhiều lần, lật tàu, chìm tàu du lịch trên các tuyến biển, mới đây nhất lật tàu ở biển Cửa Đại, trên tuyến du lịch Hội An – Cù Lao Chàm, Quảng Nam… cho thấy tiêu chuẩn an toàn bị chính quyền địa phương bỏ quên, hiếm khi kiểm soát và khi có việc đáng tiếc thì luận điệu chung vẫn là "tuyến du lịch này an toàn, đây là trường hợp đáng tiếc, hi hữu, cá biệt…". Cái tiêu chuẩn an toàn đã bị qui đổi bằng phong bì giữa người làm du lịch và cán bộ chuyên trách đã nhanh chóng trở thành một thứ tai ương treo lơ lửng trên đầu khách du lịch khi đến Việt Nam.
Và, sự nguy hiểm càng rõ nét hơn khi nói về tâm tính đại bộ phận nhân dân. Dường như khó có nơi nào mà người ta có thể nhiệt tình hết mức, tình cảm hết mức để rồi qua loa chiếu lệ, cẩu thả hết mức đối với khách du lịch như Việt Nam. Hay nói khác đi, đại đa số người làm du lịch Việt Nam đều có cách săn đón rất nhiệt tình bề ngoài, đãi bôi cho được việc nhưg bên trong lại ngấm ngầm máu phản trắc, bội bạc.
Sự phản trắc, bội bạc này nằm trong máu huyết, trong căn tính có vẻ rất kì cục của một dân tộc. Có nghĩa là sự nhiệt tình của đại bộ phận làm dịch vụ du lịch đều có tính thực dụng và nói sâu xa hơn là tầm thường, lợi dụng niềm tin của khách hàng, thậm chí trí trá. Khi cần thì đon đả, xun xoe, khi đủ no, đủ thu nhập thì trở mặt, coi thường khách hàng, đó là mẫu số chung trong tính cách của hầu hết người làm du lịch tại Việt Nam.
Chính vì tính cách này nên có nhiều trường hợp khách du lịch đến Việt Nam từ mười năm, hai mươi năm trước rất thích thú, họ tự nhủ nhất định phải qua trở lại thăm Việt Nam bằng được khi có dịp. Thế rồi khi quay trở lại, trước sự choáng hợp về hình thức và các dịch vụ ngày càng có vẻ hiện đại này, người ta trở nên thất vọng, tiếc nuối vì đã chọn quay lại Việt Nam bởi mọi thứ đều có gì đó giả tạo, thiếu tình cảm của con người và Việt Nam trở thành cái máy chém vào túi tiền khách tự bao giờ. Dường như đi bất kì đâu cũng vậy, sự đãi bôi và xun xoe bề ngoài khi bạn dám vung tiền nhưng liền sau đó, khi lấy được tiền của bạn xong, có sự trở mặt rất rõ, hoặc giả khi biết bạn có ít tiền, thái độ của người làm du lịch trở nên tệ hại và kỳ cục.
Điều này không phải do cung quá nhiều và cầu thiếu hụt, hoàn toàn không phải vậy, bởi du lịch Việt Nam hiện tại như trăm hoa đua nở, nhà nhà làm du lịch, người người làm du lịch, người thợ làm nhang cũng biết cách thu hút khách đến chụp hình ở chỗ mình và tham gia diễn để lấy tiền của khách, người bán vé số, bán trái cây dạo, bán bánh mì hay bất kì người nào bạn bắt gặp trên đường với hình ảnh lạ, đẹp hoặc bắt mắt một chút, bạn dừng lại chụp hình, họ sẽ yêu cầu bạn trả tiền mẫu. Rất hiếm ngòi không đòi tiền hoặc không phàn nàn khi bạn chụp hình. Mọi thứ đều diễn để lấy tiền. Chính vì vậy, bạn sẽ mau chóng chán chường khi chọn du lịch tại Việt Nam.
Dường như nụ cười hồn hậu, dễ thương và ấm áp của người Việt đã vắng bóng, thay vào đó là nụ cười diễn, cười có mục đích và sẵn sàng cười cho dù tâm trạng chưa chắc đã vui. Sự mất tự nhiên này dường như diễn ra khắp mọi nơi, bởi nó có chung một động cơ : kiếm tiền, moi cho được tiền từ túi khách. Đó là chưa nói đến những làng quê vốn từng nổi tiếng với các loại trái cây, đặc sản địa phương, có vị thơm ngọt riêng, rất đặc trưng, đã lừa khách bằng những loại trái cây, đặc sản mua từ nơi khác về, không ngoại trừ trái cây và hàng hóa Trung Quốc. Điều này gây tổn thương không nhỏ đến văn hóa du lịch.
Với đặc tính, tâm tính dân tộc hết sức bi đát như vậy trong con mắt du khách nước ngoài và cả du khách trong nước, cộng thêm tình hình kinh tế bất ổn, kiệt quệ sau đại dịch Covid-19, dường như ngành du lịch Việt Nam có chung một tâm lý là hốt vội, lùa vội để gở vốn, để thoát chết. Mọi tiêu chuẩn về an toàn du lịch gần như không được chăm sóc, nạn chặt chém giá cả ở khắp mọi nơi, thậm chí hành hung khách nếu như khách lên tiếng thắc mắc về sự bất minh giá cả của quán. Văn háo du lịch xuống cấp trầm trọng.
Và đáng sợ hơn là tình hình kinh tế ngày càng đi xuống, giá xăng tăng, giá điện có nguy cơ tăng, giá gas cũng tăng, mọi thứ dịch vụ nền đều tăng như vậy khiến cho chi phí nền đội lên cao, đây là cái cớ để người ta tùy tiện nâng giá mọi thứ. Nhưng, quan trọng nhất vẫn là sự quản lý hết sức ầu ơ của cơ quan chức năng. Bởi hầu như mọi hoạt động từ lúc dịch bùng phát đến nay, tất cả những gì có liên quan đến những con cá mập kinh tế đều có gì đó bất thường, thậm chí gian manh, đạp lên đời sống, sinh mạng và sức khỏe của nhân dân để làm giàu. Điều này vô hình trung tạo ra làn sóng tiêu cực khắp đất nước, làn sóng bất chấp, sẵn sàng đạp qua lương tri để làm giàu, kiếm tiền hoặc gở vốn sau khi tốn quá nhiều loại chi phí cho quĩ đen của giới quan quyền.
Vấn đề này sẽ dẫn đến hệ lụy nền kinh tế đã kiệt quệ càng kiệt quệ hơn và sự hỗn loạn ngày càng phát triển khắp các lĩnh vực, kinh tế đang chết lâm sàn.
Nếu cả chính quyền và người dân không kịp thời chấn chỉnh tâm lý, coi lại văn hóa và tiếp tục hành xử theo kiểu thực dụng, bất chấp như hiện tại, có lẽ, một lúc nào đó, Việt Nam sẽ bị khách du lịch lắc đầu, thậm chí bĩu môi rằng "du lịch Việt Nam chỉ có chơi với dế là hợp !".
Cái lõi tâm tính dân tộc cũng như sự quản lý có trách nhiệm của chính quyền sẽ quyết định sự sống còn của ngành du lịch nói riêng và các lĩnh vực kinh tế nói chung. Thật là khó hình dung tương lai sẽ ra sao với thực trạng quá thê thảm như hiện tại !
Viết từ Sài Gòn
Nguồn : RFA, 27/02/2022 (VietTuSaiGon's blog)
Thị trường nội địa là chiếc phao cứu sinh của ngành du lịch các nước trong mùa dịch Covid-19. Việt Nam phát động chương trình "Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam". Chỉ có gần 3,8 triệu du khách quốc tế đến Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2020, giảm gần 67% so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố ngày 29/08, Việt Nam đón khoảng 163.000 du khách nước ngoài trong tháng Tám, tăng gần 17% so với tháng Bẩy, nhưng giảm 99% so với cùng kỳ năm 2019 do các chuyến bay quốc tế (trừ các chuyến bay nhân đạo) vẫn bị ngừng hoạt động từ ngày 25/03. Chỉ một số tuyến bay đến Nhật Bản và Hàn Quốc có thể được mở trở lại vào tháng Chín.
Dịch Covid-19 tác động đến ngành du lịch Việt Nam như nào, từ tháng 03 đến tháng 08/2020 ? Các công ty lữ hành đã chuyển đổi hoạt động ra sao để thích nghi ? Ngành du lịch cần cơ cấu như nào trong tương lai ? RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với ông Nguyễn Ngọc Toản, giám đốc công ty Images Travel, chuyên về "Điểm đến Đông Dương và Việt Nam", tại thành phố Hồ Chí Minh.
*****
RFI : Vào tháng 03/2020, ông đã trả lời phỏng vấn RFI tiếng Việt về khó khăn của các công ty lữ hành trong đợt dịch Covid-19. Du lịch Việt Nam hoạt động như thế nào từ thời điểm đó đến nay và có bị tác động mạnh sau đợt dịch bùng lên ở Đà Nẵng không ?
Nguyễn Ngọc Toản : Từ tháng Ba, khi mà đất nước hoàn toàn đóng cửa để chống dịch, các doanh nghiệp du lịch nhỏ gặp khó khăn, nhiều công ty đóng cửa, các công ty còn lại chuyển sang chế độ "ngủ hè, ngủ đông" để duy trì một lượng nhân viên để giữ công ty, giữ các hoạt động. Các công ty "inbound" (chuyên khách nước ngoài) chờ tầm 2-3 tháng. Tới tầm tháng Năm, tháng Sáu thì cảm thấy không ổn, hàng loạt công ty "inbound" đóng cửa. Còn các công ty chuyên khách nội địa, người ta chờ được vì tới thời điểm đó là bắt đầu chuyển qua làm nội địa. Tầm tháng Sáu, có một số công ty chuyên du khách nước ngoài chuyển sang làm nội địa. Ví dụ công ty Images Travel cũng chuyển qua làm nội địa.
Năm 2020, các em học sinh học tới giữa tháng Sáu, nên mùa du lịch nội địa cũng bắt đầu từ giữa tháng Sáu, chứ mọi năm là từ đầu tháng Sáu, cuối tháng Năm, có nghĩa là năm 2020 này bắt đầu trễ hơn. Du lịch trong nước chạy rất là mạnh. Từ khoảng 20 đến 25/06, được một tuần, du lịch nội địa phục hồi rất tốt. Đến cuối tháng Bẩy, dịch quay lại, đầu tháng Tám thì toàn bộ lại đóng cửa. Những công ty cố gắng để thay đổi sang làm, hoặc là các công ty làm nội địa, vừa mới chờ đợi để hoạt động thì lại bị đợt dịch này, coi như thất vọng lần hai. Thực sự là những cố gắng cuối cùng đó, coi như là thất bại.
RFI : Như ông nói là du lịch trong nước hoạt động rất sôi nổi từ cuối tháng Sáu và tháng Bẩy. Các công ty lữ hành và chính quyền địa phương có chiến lược như nào để thu hút du khách ? Các công ty chuyên về khách nước ngoài phải chuyển hướng như nào để thích hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách Việt ?
Nguyễn Ngọc Toản : Về câu hỏi thứ nhất, nhiều người Việt Nam đến mùa đó thì đi du lịch. Bây giờ, nhu cầu đi du lịch trở thành rất bình thường trong cuộc sống, có nghĩa là cứ hè là phải đi du lịch, có nhiều gia đình một năm phải đi hai hoặc ba lần. Người Việt đương nhiên không đi dài như người Châu Âu, họ đi ngắn hơn nhưng thành một nhu cầu không thể bỏ qua.
Các công ty chuyên về khách nước ngoài chuyển sang làm nội địa cũng có rất nhiều khó khăn. Thứ nhất, các dịch vụ không dùng giống nhau, không chung nhau. Tiếp theo, làm chương trình cũng phải làm khác đi, không giống như làm cho người Châu Âu được. Người Châu Âu không biết nhiều về Việt Nam, họ sẽ đi những điểm tham quan cơ bản, nếu thích nữa, họ sẽ đi vào xem cuộc sống của người dân Việt. Trong khi đó, người Việt biết rồi nên thiên về giải trí hơn. Có nghĩa là tour dành cho người Việt, cũng có tham quan nếu vùng đó khác với vùng họ sống, nhưng phải có thêm hoạt động giải trí và chụp hình. Những điểm nhỏ nhỏ đó tạo nên sự khác biệt cho khách Việt Nam.
Như vậy, các công ty "inbound" hầu như phải làm lại các bộ chương trình, tất nhiên vẫn lấy được một số điểm hay từ các chương trình dành cho khách Châu Âu để chuyển sang cho khách Việt Nam. Nhưng nói chung, phải đầu tư lại từ đầu để làm lại bộ sản phẩm và cũng phải đầu tư thời gian để chọn lại dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách Việt hơn. Tất nhiên là cũng sẽ cố gắng thuyết phục khách Việt dùng một số dịch vụ hay mà khách Châu Âu hay dùng, giá cả cũng không chênh lệch nhiều.
Ở Việt Nam, người ta hay mua tour lớn, đi một đoàn 40 khách. Khi chuyển qua làm du lịch nội địa, công ty cũng thuyết phục khách, nếu chi tiêu khá hơn một chút, thì có thể làm tour du lịch riêng cho gia đình, 5, 7, 8 người để có thể tận hưởng sự yên tĩnh hoặc cách du lịch có nhiều ý nghĩa hơn là đi với đoàn lớn. Nói chung là khó và phải thay đổi nhưng mà các công ty "inbound" năng động vẫn có thể làm được.
RFI :Cụ thể, công ty chuyên về khách nước ngoài, như Images Travel, đã phải quảng bá và thuyết phục khách trong nước như nào ?
Nguyễn Ngọc Toản : Bên chúng tôi, khi chuyển qua làm về khách Việt, thứ nhất đã làm lại trang web, cũng thuộc công ty Images Travel, rồi viết toàn bộ nội dung phù hợp với người Việt và các bài viết về du lịch phù hợp cho khách Việt Nam.
Về chương trình tour, công ty chọn ra một số chương trình thử nghiệm để tập trung giới thiệu phong cách du lịch của công ty Images Travel tạo ra. Ví dụ tour khám phá Tây Bắc, theo phong cách cũng pha cách khám phá cuộc sống của người Châu Âu vào. Chương trình này dành cho khác miền Nam. Người miền Nam đi Bắc thì coi như hoàn toàn là lạ, ngoài cảnh đẹp còn khám phá cuộc sống. Lúc đó công ty cố gắng thuyết phục khách đi những vùng như vậy, chứ không chỉ đơn thuần là đi thăm cảnh đẹp, chụp hình rồi đi về.
Ngược lại, tour miền Nam, công ty làm tour đi xuyên xuống vùng sâu của miền Tây, đến Cà Mau. Thay vì đi bằng xe, công ty chọn đi bằng tắc ráng (một loại ghe nhỏ) ở một số đoạn sông đẹp đi xuyên qua các làng nổi. Kiểu du lịch này, trong các tour dành cho khách Việt, lâu nay vẫn ít được đề xuất, nên công ty thuyết phục khách nên đi để trải nghiệm được cảm giác của dân địa phương khi đi tầu trên sông, vào những rừng ngập mặn, vào những khu vực hoang sơ. Cuối cùng thì cũng thuyết phục được. Nhưng đầu tiên, khi công ty giới thiệu với khách, người ta cũng nói : "Tour gì mà nghe thấy khó đi quá vậy ! Chắc cũng ít người đi lắm hả con !". Các bạn nhân viên cũng giải thích : "Tụi con muốn hướng đến một kiểu du lịch có ý nghĩa nhiều, tham quan thực sự và có nhiều trải nghiệm". Rồi họ cũng chịu, cũng thích.
Trong công ty cũng có một số bạn hướng dẫn có quen với khách Việt Nam trước đây. Qua quá trình hướng dẫn khách Âu, họ có thêm rất nhiều kiến thức sâu, nhưng cách quản lý đoàn, cách nói chuyện giao tiếp với người Việt Nam, thì họ vẫn giữ. Khi công ty chọn đảm bảo chất lượng, thì chọn những hướng dẫn viên đó, có kinh nghiệm hướng dẫn khách Việt Nam.
RFI : Với thiệt hại do dịch Covid-19 gây ra, ngành du lịch có được chính phủ hỗ trợ không ? Hướng dẫn viên du lịch mất việc làm có được trợ cấp không ?
Nguyễn Ngọc Toản : Nói chung là không có hỗ trợ gì cả, ngoài về thuế, hỗ trợ chung cho nhiều ngành chứ không chỉ riêng về du lịch, là cho đóng thuế chậm. Có nghìa là thuế năm 2020, mình làm đơn xin qua năm 2021 mới đóng, ngoài ra không có hỗ trợ gì.
Về người lao động, nói chung trong giới hướng dẫn viên, trên giấy tờ thì nghe nói là có, nhưng đòi hỏi nhiều yếu tố lắm. Ví dụ như ở thành phố Hồ Chí Minh, phó giám đốc sở Du Lịch có nói là cả thành phố chỉ có chưa tới 10 hướng dẫn viên được nhận hỗ trợ đó, còn công ty du lịch thì hoàn toàn không.
RFI :Sau đợt dịch Covid-19, ngành du lịch Việt Nam nên được cải thiện như thế nào ?
Nguyễn Ngọc Toản : Thực ra nói ngành du lịch thì cũng lớn lắm, khó nói chính xác. Nếu nói riêng, thì tách riêng ngành lữ hành, rồi ngành khách sạn, đương nhiên ngành khách sạn và ngành nhà hàng liên quan đến du lịch phải chờ đợi vào lữ hành mang khách về.
Nói cải tổ thì khó lắm vì thực ra ngành lữ hành hoạt động dựa trên cơ sở hạ tầng tốt. Khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới đến Việt Nam, yếu tố quan trọng nhất là cơ sở hạ tầng tốt thì họ tới, ngoài thiên nhiên ra. Nếu mà nói làm gì để vực dậy kinh tế du lịch, bản thân ngành du lịch cũng không làm được gì nhiều lắm. Có thể, ví dụ công tác quảng bá, hoặc làm phim, làm hình ảnh để quảng cáo về du lịch Việt Nam, vậy là hết rồi, chứ còn không thể làm gì hơn được.
Điều mà chúng tôi cần là hy vọng Nhà nước có thể cải thiện về giao thông đường thủy, giao thông đường không. Các hãng hàng không phải đưa khách về, giá phải tốt. Ở trong nước, Nhà nước phải lập được trật tự công cộng, vệ sinh công cộng phải tốt, bảo vệ môi trường tốt. Theo đó mà các doanh nghiệp lữ hành hoặc doanh nghiệp phụ trách tham quan du lịch, dịch vụ có thể làm tốt hơn và ngành lữ hành, dựa vào đấy, để có những sản phẩm tốt để bán. Chứ còn bản thân ngành du lịch không làm được gì nhiều, ngoài quảng bá.
RFI :Vậy theo ông, cần tiến hành chiến lược quảng bá đó như thế nào ?
Nguyễn Ngọc Toản : Hiện nay, Việt Nam có ít chi phí cho chiến lược quảng bá. Thực ra tự làm là chính, tức là ở các nước như Pháp, cũng toàn là bên văn hóa với bên du lịch của công ty qua tự làm và xoay sở, chứ không có nhiều kinh phí để làm các chiến lược dài hạn về quảng cáo. Ví dụ Madagascar, người ta quảng cáo khắp nơi, Rwanda quảng cáo ở các câu lạc bộ bóng đá.
Về mặt kinh phí, Việt Nam không có, và nếu muốn, phải tăng kinh phí. Sau đó phải giao cho các công ty của nước sở tại làm cho các thị trường khác nhau. Ví dụ, nếu làm ở Hàn Quốc, phải thuê một công ty quảng cáo tại Hàn Quốc làm cả chiến dịch luôn. Đúng là mình biết văn hóa của mình, nhưng khi giới thiệu theo kiểu của mình thì không phù hợp với cách đọc, cách tiếp cận của người địa phương, nên không hiệu quả.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Ngọc Toản, giám đốc công ty Images Travel, tại thành phố Hồ Chí Minh.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 07/09/2020
Rối rắm số nhà và tên đường tại Thành phố Hồ Chí Minh ! (RFA, 05/06/2020)
Đặt tên đường tùy tiện, phi lý !
Con đường Đinh Tiên Hoàng ở Thành phố Hồ Chí Minh dài hơn 2 km, bắt đầu từ đoạn giao với đường Lê Duẩn, quận 1, chạy qua cầu Bông và điểm cuối là đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh. Nay một đoạn đường này từ cầu Bông đến Phan Đăng Lưu được đề xuất đổi thành Lê Văn Duyệt - tên gọi trước năm 1975. Đề xuất này khiến câu chuyện về tên đường và số nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh lại một lần nữa nóng lên.
Con đường trước chợ Bến Thành, Sài Gòn. AFP
Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Trung Hoa, ủy viên thường trực Hội đồng đặt tên đường Thành phố Hồ Chí Minh nói với RFA về việc này :
"Ông Lê Văn Duyệt có cái đúng mà cũng có cái sai. Cái đúng là ổng đã theo Nguyễn Ánh nhưng cái sai là ổng chống lại nhà Tây Sơn. Nhưng ổng lại là người có công với đất Sài Gòn nên người ta đề nghị khôi phục lại.
Nói chung là nhân vật nào cũng có ưu điểm và khuyết điểm cho nên phải xem xét từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn như Phan Thanh Giản cũng có khuyết điểm và ưu điểm nên họ đề nghị bỏ. Có nơi đã bỏ nhưng có nơi chưa bỏ. Còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được và chưa biết bao giờ xong".
Ngày 2/7/1976, Quốc hội ra Nghị quyết chính thức đổi tên Sài Gòn - Gia Định thành thành phố Hồ Chí Minh. Theo sau đó là hàng loạt con đường bị đổi tên khiến người dân Sài Gòn tiếc nuối, như đường Công Lý đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa ; đường Tự Do thành đường Đồng Khởi ; đường Cộng Hòa thành Nguyễn Văn Cừ…
Đặc biệt con đường mang tên Alexandre de Rhodes từ năm 1955 bị đổi thành đường Thái Văn Lung vào năm 1985, nhưng khoảng 10 năm sau đó lại được phục hồi tên Alexandre de Rhodes đến ngày nay.
Trước 1975, tên đường ở Sài Gòn được đặt theo cụm giúp người dân dễ nhớ. Ví dụ ở quận 3, tập trung tên các danh nhân văn hóa, nhà thơ như Ngô Thời Nhiệm, Lê Quý Đôn, Tú Xương, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm…
Hoặc khu Tân Định, quận 1 tập trung danh tướng nhà Trần như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Khắc (Khát) Chân…
Sau 1975, các con đường được đổi tên không theo nguyên tắc nào, thậm chí viết sai cả tên các danh nhân như Lê Thánh Tông thành Lê Thánh Tôn ; Đông Kinh Nghĩa Thục bị cắt ngắn thành Nghĩa Thục ; Võ Duy Dương thành Nguyễn Duy Dương…
Các nhà sử học và khoa học thống kê toàn thành phố hiện có 38 tên đường viết sai tên danh nhân cần phải sửa lại.
Theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Trung Hoa, hiện có nhiều cái rất vô lý nhưng chưa có điều kiện đổi lại vì còn nhiều khúc mắc trong Hội đồng đặt tên đường, ví dụ như mỗi người một ý. Người bảo có công, kẻ bảo có tội. Có khi chính những người trong hội đồng tư vấn không có khả năng, trình độ hiểu biết về những nhân vật lịch sử. Ông nói thêm :
"Có hàng ngàn con đường nên đây là vấn đề rất lớn. Thành phố đã lập ủy ban nhưng mấy chục năm nay cũng chưa xong vì còn nhiều "vấn đề" lắm. Cả tên đường và số nhà. Số nhà thì lộn xộn quá rồi. Tên đường thì còn một số trường hợp không đúng và vô lý nhưng chưa sửa được.
Vô lý nhiều cái lắm. Ví dụ như theo quy định thì chiều dài đường là 200 mét thì mới đổi. Họ lên danh sách rồi nhưng chưa có điều kiện để đổi.
Đổi thì nhanh thôi nhưng vấn đề là phải tìm tiểu sử nhân vật sẽ lấy đặt tên đường. Có nhiều nhân vật còn sống mà tưởng đã chết. Nguyên tắc thì chết rồi mới đặt được. Có khi người ta không có điều kiện điều tra".
Trong một lần trao đổi với truyền thông trong nước về tình trạng đặt tên đường ở Thành phố Hồ Chí Minh thiếu hệ thống, TS Nguyễn Khắc Thuần, ủy viên thường trực Hội đồng tên đường nói rằng, việc đặt lại toàn bộ tên đường không tốn nhiều thời gian nếu đừng bày vẽ họp lên họp xuống. Chỉ giao cho một người soạn thảo và trình cơ quan có thẩm quyền thông qua để ra quyết định là quá đủ.
Dân khổ vì tên đường và số nhà
Để giải quyết hậu quả của việc đặt, đổi tên đường ‘vô tội vạ’ sau 1975, các cơ quan chức năng đau đầu đã đành, người dân cũng khổ không kém.
Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu đô thị và phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh hiện có hơn 1.600 con đường mang tên tạm và hàng trăm con đường mang tên ‘vô nghĩa’. Bên cạnh đó có những con đường trùng tên, chỉ khác quận. Nhà trùng số trên một con đường.
Hiện có hai con đường mang tên Nguyễn Đình Chiểu ở quận 1 và quận Phú Nhuận ; hai con đường mang tên Phan Văn Trị ở quận 5 và Gò Vấp. Hay những con đường mang tên tuy khác nhau nhưng chỉ là một, như đường Nguyễn Huệ ở quận 1 và đường Quang Trung ở Gò Vấp ; đường Đinh Tiên Hoàng và đường Đinh Bộ Lĩnh ở quận Bình Thạnh ; đường Đề Thám ở quận 1 và đường Hoàng Hoa Thám ở quận Bình Thạnh…
Anh Tâm Thái Hòa, chủ nhà sách Khai Tâm ở quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nêu ý kiến của anh về việc đánh số nhà :
"Rất nhiều đường có số nhà đang lẻ nhảy qua chẵn rồi ngược lại. Nó loạn xà ngầu hết, nhất là những quận ở xa trung tâm thành phố như quận Gò Vấp, quận 12. Tìm số nhà rất khó. Nó cứ chồng chéo lên, làm như họ không nghĩ ra được con số hay sao đó !"
Ngoài những hạn chế trên, nhiều con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh được đặt những cái tên mà người dân không biết họ là ai. Một trong những nguyên nhân được nêu ra là do lấy tên các Mẹ Việt Nam anh hùng để đặt.
Nhà báo Đỗ Cao Cường nhận định rằng, tư duy lãnh đạo ở Việt Nam có hạn nên tạo ra một đất nước bát nháo về mọi mặt. Việc đặt tên đường hay đánh số nhà là hậu quả của tư duy cộng sản. Ông phân tích :
"Số nhà hay tên đường là những do con cháu sinh sau đẻ muộn của thời cộng sản ngồi nghĩ. Thích ai thì dùng đặt tên đường, tên phố. Có những ông mà lịch sử chẳng biết là ai. Làm thế là họ không tôn trọng lịch sử hoặc không nghiên cứu kỹ về lịch sử. Cần tôn trọng cả lịch sử của Việt Nam Cộng Hòa thì mới hợp lý".
Từ năm 1998, Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra những yêu cầu trong việc đặt mới và sửa đổi những tên đường bất hợp lý như tên không có ý nghĩa, sai tên danh nhân, đặt trùng tên đường.
Cách đây vài năm, Thành phố Hồ Chí Minh đã giao Trung tâm Nghiên cứu đô thị và phát triển phối hợp cùng Sở Văn hóa - Thể thao thành phố thực hiện đề án "Công tác đặt, đổi tên đường, công trình công cộng tại Thành phố Hồ Chí Minh - Khảo sát thực trạng và giải pháp đến năm 2020". Đề án đã quy tụ hàng chục nhà khoa học, nhà nghiên cứu có uy tín cùng tham gia khảo sát và nghiên cứu công phu. Đến nay đề án vẫn chưa triển khai thực hiện.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 05/06/2020
******************
Người dân Thành phố Hồ Chí Minh có mong chờ nhà hát, sân vận động như lời lãnh đạo ? (RFA, 05/06/2020)
"Thành phố Hồ Chí Minh cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ xây dựng các công trình nhà hát, sân vận động để nhiều người dân có cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội. Đừng để người dân Thành phố Hồ Chí Minh chờ nhà hát, sân vận động quá lâu".
Bà Phạm Phương Thảo, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và hình ảnh Thủ Thiêm chụp từ trên cao /RFA Edited - Ảnh minh họa
Đó là phát biểu của bà Phạm Phương Thảo, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhân dân (HĐND) Thành phố Hồ Chí Minh, tại buổi tọa đàm về công tác xây dựng phát triển thành phố, do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hôm 4 tháng 6 năm 2020.
Bà Phạm Phương Thảo cho rằng, các thiết chế văn hóa phục vụ nhu cầu tinh thần người dân vẫn chưa tương xứng, mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, năng suất lao động cao gấp 2,7 lần cả nước.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do liên quan vấn đề này, nhà báo độc lập Sương Quỳnh từ thành phố Hồ Chí Minh, nhận định :
"Để nâng cao dân trí và cuộc sống của nhân dân, thì nhà hát và sân vận động là những nơi truyền đạt văn hóa, giải trí tốt. Nhưng phải xét theo hoàn cảnh nào ? Thực tế đây là một xã hội, thì phải cân nhắc người dân cần gì trước tiên. Trong một thành phố mà cuộc sống người dân đang khốn khổ, đang bị kẹt xe, đang bị ngập nước, thì xây nhà hát đó, xân vận động đó phục vụ cho ai, khi người dân không có điều kiện để đến những nơi đó, người dân cũng không có thời gian khi cuộc sống người ta quá khốn khổ. Vậy thì trước tiên, muốn người dân đến nhà hát hay sân vận động, thì đời sống người dân phải được nâng cao trước đã, họ phải thoát ra được sự mưu sinh hàng ngày, họ phải có cuộc sống được bình an, ấm no, thì họ mới nghĩ đến nơi để họ cảm nhận được văn hóa".
Tuy nhiên theo nhà báo Sương Quỳnh, trước tiên 'văn hóa' đó phải thật sự mang lại giá trị. Chứ xây nhà hát mà suốt ngày cứ hát những kịch bản như ‘Hồ Chí Minh muôn năm’, rồi 'đảng ta luôn luôn vĩ đại', trong khi cuộc sống người ta lầm than như thế, thì người ta có đến những nơi đó để xem, để nghe những bản nhạc, luôn luôn chỉ để tuyên truyền cho đảng và nhà nước ? Bà nói tiếp :
"Nếu Bà Phạm Phương Thào nói người dân cần thiết nhà hát và sân vận động, thì tôi nghĩ rằng người dân chưa cần thiết. Có thể giới trẻ cũng cần thiết, nhưng sự cần thiết đó phải có cốt lõi là một nền văn hóa thật sự, đề cao nhân phẩm con người, đề cao sự yêu thương, đề cao sự bác ái... thì hãy đưa văn hóa đó cho người dân. Vấn đề là niềm tin, chính quyền có trung thực trong văn hóa không ? Nếu họ cứ xây dựng nền văn hóa tuyên truyền cho đảng, cho nhà nước, thì liệu có ai cần không ? Khi cuộc sống người dân cần lắm sự mưu sinh... hãy an dân đã rồi mới nghĩ đến mấy chuyện đó".
Sài Gòn hiện có 5 nhà hát lớn gồm : Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà hát Bến Thành, Nhà hát Hòa Bình, Nhà hát thuộc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà hát Quân đội ở quận Tân Bình... Ngoài 5 nhà hát này, Sài Gòn còn có khoảng hơn 20 nhà hát, sân khấu khác... Tuy nhiên ngay cả những nơi nổi tiếng như Sân khấu kịch Idecaf hay sân khấu kịch Hồng Vân đều phải bù lỗ để hoạt động do yêu nghề.
Một người dân ở Sài Gòn không muốn nêu tên nói với Đài Á Châu Tự Do :
"Theo tôi nghĩ không nên làm, bây giờ mở nhà hát thì ai vô đó mà coi ? Nhưng mà mấy ổng nghĩ nước ngoài vô phải có cái nhà hát lớn… để mà cho có bộ mặt đó mà. Tui nghĩ đơn giản vậy thôi, nhưng mấy ổng không nghĩ người dân đang khó khăn, đang khổ".
Sân vận động Quân khu 7, ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh / AFP - Ảnh minh họa
Tình cảnh các sân vận động tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay còn được nói ‘thê thảm’ hơn, trừ các sân bóng nhỏ có khách đến chơi bóng, còn các sân vận động có sức chứa hàng ngàn khán giả thường rất ít thu hút người dân dù có đội bóng của địa phương mình thi đấu.
Trả lời Đài Á Châu Tự Do, anh Nguyễn Đình Đệ, một người dân ở Quận 2, Sài Gòn, cho biết ý kiến của mình :
"Hoàn toàn không cần thiết, sân vận động Thống Nhất mở đèn lên không có người coi mà, không có khán giả. Có bằng chứng sự thật luôn, câu lạc bộ thành phố Hồ Chí Minh trong giải quốc gia, đá trên sân Thống Nhất vắng khách, không có khách... thì xây sân vọng động làm gì ? Xây nhà hát làm gì ? Trong khi bà con quận 2 còn rất nhiều khó khăn, còn sống trong khu ổ chuột, giờ này chưa được nhận đất, chưa được nhận nhà... Làm kiều đó làm chi vậy ? Tôi đại diện cho bà con Thủ Thiêm, không đồng tình việc xây nhà hát và sân vận động, việc này không cần thiết, dùng quỹ đất đó để đền bù cho bà con, dùng ngân sách để lo cho bào con Thành phố Hồ Chí Minh còn rất nghèo, rất đông".
Đây không phải là lần đầu tiên vấn đề này được nêu lên, vào tháng 10 năm 2018, khi Thành phố Hồ Chí Minh đòi xây Nhà hát Giao hưởng nhạc vũ kịch với vốn đầu tư lên đến 1.500 tỉ đồng, trong khi người dân phản đối, thì Bà Chủ tịch Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thị Quyết Tâm đã cho rằng "Đây là dự án tầm vóc thế kỉ, được người dân thành phố chờ đợi từ rất lâu".
Anh Nguyễn Đình Đệ, cũng là người bị cưỡng chế đất sai luật ở Thủ Thiêm, cho biết thêm :
"Riêng nói bà con Thủ Thiêm thì chắc chắn Bà con phản đối, thí dụ như nhà hát Thủ Thiêm, sao mình không dùng số tiền đó để lo cho bà con quận 2. Ở thành phố này sau dịch Covid-19, đến giờ này nhiều người không nhận một đồng hỗ trợ nào, nhiều tình cảnh còn tang thương lắm... Tôi và bà con Thủ Thiêm phản đối chuyện thành phố xây nhà hát ở quận 2. Còn rất nhiều việc cần phải lo cho dân, đặc biệc là người dân Thủ Thiêm. Theo tôi, xây lên chẳng có ích gì hết".
Theo Sở Văn hóa Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, thời gian thực hiện dự án Nhà hát giao hưởng ở Thủ Thiêm là từ năm 2019 đến 2022. Trong đó năm 2019 - 2020, tổ chức thi tuyển thiết kế kiến trúc công trình và hoàn thành các thủ tục cần thiết để khởi công theo đúng quy định.
Mục sư Nguyễn Hồng Quang, cũng là người bị cưỡng chế đất tại Thủ Thiêm, khi trả lời Đài Á Châu Tự Do trước đây, nói :
"Chúng tôi không chống bất cứ một công trình văn hóa nghệ thuật nào tại Thủ Thiêm. Trái lại, chúng tôi hoan nghênh việc đó vì thành phố cũng cần, quy hoạch cũng cần. Nhưng trung tâm này, nhà hát này ở thời điểm nào ? Trên phần đất của ai ? Đó là vấn đề chúng tôi đặt ra, và đền bù như thế nào cho người dân ?"
Gần 20 năm qua, nhiều hộ dân tại Thủ Thiêm bị di dời mà không được bồi thường một cách hợp ký, chưa kể trong đó rất nhiều người bị cưỡng chế lấy nhà mà không được đền bù. Người dân Thủ Thiêm đã nhiều lần khiếu lại từ cấp thành phố đến trung ương, nhận nhiều lời hứa hẹn của các vị lãnh đạo. Tuy nhiên hiện nay họ vẫn chưa nhận được đền bù một cách thỏa đáng.
Cố Thứ trưởng Bộ Xây dựng, Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, khi trả lời Đài Á Châu Tự Do trước đây từng cho rằng thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn nhất Việt Nam, cho nên Nhà hát nhạc vũ kịch giao hưởng lớn hay một quảng trường cho xứng đáng thì cũng là cần thiết. Những những việc ấy Việt Nam nên có trong tương lai, khi mức sống của nhân dân đã lên cao hơn hiện nay. Hay ít ra cũng phải là nước thu nhập trung bình ở lớp trên, chứ hiện nay Việt Nam đang là nước thu nhập trung bình ở lớp dưới thấp.
********************
Dự trữ quốc gia Việt Nam trong ngành nông nghiệp còn nhiều bất cập ! (RFA, 04/06/2020)
Theo quy định tại Luật Dự trữ quốc gia, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn được giao quản lý các nhóm mặt hàng gồm : Hạt giống cây trồng ; thuốc bảo vệ thực vật ; hóa chất khử khuẩn, khử trùng, thuốc phòng, chống dịch bệnh vật nuôi... Tuy nhiên, hơn 10 năm qua, thuốc bảo vệ thực vật dự trữ quốc gia hầu như không được các địa phương đề nghị hỗ trợ, dẫn đến tồn kho nhiều, gây lãng phí ngân sách rất lớn. Tồn kho dự trữ quốc gia mặt hàng này hiện gần 258 tấn, với giá trị khoảng 42 tỷ đồng.
Một người nông dân đang phun thuốc bảo vệ lúa, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP
Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh loại bỏ thuốc bảo vệ thực vật ra khỏi Danh mục hàng dự trữ quốc gia.
Bà N., một nông dân trồng lúa ở An Giang nói với Đài Á Châu Tự Do về nhu cầu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật khi trồng lúa của gia đình bà :
"Thuốc trừ sâu thì có hết trơn... chứ không có khó kiếm... cũng dễ... tại vì lúa khi mình mần... thì cần thuốc... phải có... Giá cả thì có lên, mùa rồi thì tám mấy... chín mấy... Mùa này thì một trăm mười mấy..".
Lý do được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đưa ra với báo chí trong nước là, việc dự trữ thuốc bảo vệ thực vật hạn chế và không linh hoạt trong công tác chống dịch, vì sinh vật gây hại cây trồng có những diễn biến bất thường, phát sinh những sinh vật gây hại mới...
Ngoài ra, thuốc bảo vệ thực vật là hóa chất độc hại, có thời gian sử dụng ngắn, khoảng từ 2 đến 3 năm, nên phải thường xuyên kiểm tra và luân chuyển hàng năm, dẫn đến phát sinh chi phí và tốn kém cho ngân sách nhà nước.
Để tìm hiểu thêm Đài Á Châu Tự Do liên lạc một của hàng bán thuốc bảo vệ thực vật và phân bón ở Hậu Giang, và được nhân viên cửa hàng cho biết thực tế việc các doanh nghiệp nhập khẩu cung cấp sản phẩm cho các cửa hàng bán lẻ :
"Hiện nay trên thế giới có thuốc gì mới nhất thì các doanh nghiệp đều có nhập về để kinh doanh. Các doanh nghiệp này có hệ thống cung ứng rất nhanh. Ngay cả khi dịch Covid-19 đang xảy ra, các doanh nghiệp cũng có lượng dự trữ của chính bản thân các doanh nghiệp. Khi cần thì chỉ trong vòng khoảng mấy ngày thì họ có thể sản xuất ra ngay lập tức thuốc đó để bán ra thị trường".
Theo Pháp lệnh Dự trữ quốc gia, nguồn dự trữ quốc gia về thuốc bảo vệ thực vật, thuốc, vaccine cho gia súc, các loại hạt giống cũng được xuất cấp kịp thời, giúp địa phương ngăn ngừa sớm, dập dịch hiệu quả, bảo đảm ổn định sản xuất. Do đó cũng có ý kiến cho rằng, cần phân tích kỹ việc loại bỏ hẳn thuốc bảo vệ thực vật ra khỏi danh mục hàng dự trữ quốc gia.
Trả lời Đài Á Châu Tự Do liên quan vấn đề này, Giáo sư Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, cho biết :
"Mình đang chuyển hướng sử dụng phân vi sinh, là phân sinh học... để khôi phục nguyên trạng cơ cấu đất. Cho nên mình không cần phải dự trữ thuốc bảo vệ thực vật nhiều như hồi xưa, để nông dân thấy họ phải chuyển. Vì nếu không chuyển thì nguyên liệu nông dân làm ra không hợp với tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu gạo và nông sản của mình".
Một người nông dân đang pha thuốc bảo vệ lúa - Ảnh minh họa chụp trước đây. AFP
Theo Giáo sư Võ Tòng Xuân, đó là cách khuyến khích bà con nông dân không nên dùng các phân bón, thuốc từ nguồn hóa thạch. Tức phân thuốc hóa học, mà dần dần chuyển sang các loại phân sinh học mà hiện nay các nước phát triển đang dùng.
Tuy nhiên, Giáo sư Võ Tòng Xuân cho rằng, cũng có những loại thuốc bảo vệ thực vật cần dự trữ để bảo đảm việc sản xuất lúa của bà con nông dân :
"Có thể chỉ dự trữ các loại thật sự cần thiết như thuốc diệt cỏ, kích thích lá phát triển nhanh, rể phát triển nhanh. Những loại này thì hiện nay không phải là hóa chất mà là thuốc, khuyến khích cây trồng phát triển, mình sẽ làm nhiều cái đó. Mấy chất này là mấy chất trích ra từ than bùn, rong biển, những chất xanh. Ví dụ như chất mangan, chất magnesium... Đây là những chất cây trồng rất cần nhưng phân bón hữu cơ không có, thì những thứ đó cần dự trữ".
Đây không phải là lần đầu tiên, vấn đề dự trữ quốc gia liên quan sản xuất nông nghiệp được nói đến, vào tháng 3 năm 2020, việc dự trữ gạo quốc gia khi xảy ra dịch Covid-19 đã gây ra nhiều hệ lụy. Thứ nhất, vì việc quy hoạch số lượng không chính xác dẫn đến cấm xuất khẩu gạo khi giá đang cao, làm thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, cũng như bà con nông dân không được hưởng lợi khi giá lúa cao.
Đến khi chính phủ cho xuất khẩu lại hạn chế mặt hàng gạo, thì lại nảy sinh tiêu cực trong việc doanh nghiệp bỏ ngang thầu dự trữ quốc gia đã trúng trước đó, để lấy gạo xuất khẩu. Việc mở tờ khai xuất khẩu lúc nửa đêm, cũng bị lên án cho rằng có tiêu cực trong việc phân bổ quota không công bằng.
Trả lời Đài Á Châu Tự Do liên quan vấn đề này, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nói :
"Có một trục trặc là một số doanh nghiệp bỏ, không tham gia vào đấu thầu mà họ đã đăng ký trước đó với cơ quan dự trữ lương thực. Vì vậy, nếu mà việc mua dự trữ lương thực theo cơ chế thị trường như mọi hình thức mua bán khác, thì phải theo hợp đồng. Tức là doanh nghiệp có quyền đăng ký và cũng có quyền ngừng không thực hiện nữa, vì họ đã đặt cọc và chịu mất cọc. Còn nếu quy định bắt buộc phải tuân thủ (trách nhiệm quốc gia), thì cũng phải ràng buộc trước trong hợp đồng.
Nếu không, theo Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, thì phải dùng các biện pháp kích thích khác, chẳng hạn nếu như bán cho cơ quan dự trữ thì mới được xuất khẩu. Hoặc là ưu tiên cho doanh nghiệp đã bán cho quỹ dự trữ thì sẽ được tạo thuận lợi hay giảm chi phí trong xuất khẩu. Những chuyện đó phải được quy định rõ ràng trong hợp đồng. Nói chung theo ông, trách nhiệm quốc gia thì phải làm tách biệt ra với quan hệ thị trường.
Giáo sư Võ Tòng Xuân chia sẻ kinh nghiệm của mình trong vấn đề này :
"Ngày xưa bất cập lắm, doanh nghiệp nhà nước đứng ra mua tạm trữ để nông dân có tiền thanh toán. Vì 10 người nông dân thì hết 9 người không có tiền để dành, tới vụ mùa phải vay tiền... Cho nên khi thu hoạch thì cần bán ngay để lấy tiền trả nợ, nếu không sẽ bị tăng lãi. Các doanh nghiệp nhà nước khi đã làm giảm giá lúa thì các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn sợ không giám mua, vì đang tạm dừng xuất khẩu. Vì vậy chỉ có doanh nghiệp nhà nước mua tạm trữ, nhưng lại để xuất khẩu... Tới khi giá lúa cao trở lại thì họ sẽ hưởng lợi cái đó, còn nông dân không hưởng gì".
Giáo sư Võ Tòng Xuân cho rằng, chính phủ phải làm sao không để tái diễn những chính sách bất cập chỉ làm lợi cho các công ty quốc doanh mà lại gây thiệt hại cho nông dân.
*****************
Loay hoay vực dậy ngành du lịch Việt Nam sau dịch Covid-19 ! (RFA, 04/06/2020)
Loay hoay đến bất cập !
Ông Nguyễn Lê Phúc, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch trong cuộc họp sáng 4/6 đã thu hồi văn bản số 167 đề nghị các hãng hàng không cung cấp 400 vé máy bay miễn phí cho đoàn công tác kích cầu du lịch nội địa. Đề nghị được đưa ra do phản ứng mạnh từ phía dư luận.
Khách du lịch người ở Việt Nam - Ảnh minh họa. AFP
Văn bản 167 do Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu ký ngày 2/6 vừa qua và gửi đến 3 hãng hàng không trong nước, cụ thể yêu cầu Vietnam Airlines cung cấp 200 vé máy bay, Vietjet Air 100 vé và Bamboo Airways 100 vé .
Phát biểu trong cuộc họp báo, ông Nguyễn Lê Phúc cho rằng bản chất văn bản này để triển khai cụ thể các nội dung đã được thống nhất giữa Tổng cục Du lịch với các hãng hàng không. Điều này đã được các hãng hàng không thống nhất và cũng xuất phát từ áp lực sớm đẩy nhanh thị trường du lịch nội địa từ tháng 6 đến tháng 12/2020.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Lê Quang Tùng trong sáng 4/6 đã ký văn bản yêu cầu Tổng cục Du lịch phải tiến hành thu hồi văn bản về việc triển khai chương trình kích cầu nội địa. Đồng thời làm rõ trách nhiệm của cá nhân liên quan và báo cáo Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch trước ngày 6/6.
Tính hợp lý của yêu cầu
Trao đổi với RFA vào tối ngày 4/6, Phó giáo sư – Tiến sĩ Phạm Trung Lương, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu du lịch thuộc Tổng cục Du lịch cho hay sự hợp tác giữa ngành du lịch và ngành hàng không là sự hợp tác truyền thống và có lợi cả hai bên, đặc biệt trong mùa phục hồi tác động của Covid-19. Tuy nhiên ông nhận định việc đề nghị hay còn gọi là "xin" 400 vé thì Tổng cục Du lịch đã tạo ra những thiếu sót nhất định.
"Thứ nhất là trong lúc dịch bênh ngay ngành hàng không cũng là doanh nghiệp và người ta cũng đang rất khó khăn thì việc tạo thêm áp lực dù chỉ là nhỏ thôi nhưng cũng làm cho doanh nghiệp đó khó khăn hơn. Việc này phải cân nhắc rất kỹ trước khi đặt vấn đề. Mặc dù hai bên cũng đã có kế hoạch hợp tác với nhau trong việc xúc tiến phục hồi du lịch sau tác động Covid-19.
Thứ hai là sau khi có đề xuất đề nghị để người ta xem xét hỗ trợ mình thì mình phải có kế hoạch chi tiết rõ ràng, minh bạch. Nghĩa là trong kế hoạch đó chúng tôi đi đến những đâu, làm gì để có những bước ngoặc tích cực trong việc phục hồi thị trường và sau khi trừ đi chi phí mà nhà nước đã cung cấp cho Tổng cục Du lịch trong công tác thường xuyên nhưng vẫn còn thiếu bao nhiêu vé. Như vậy nghe hợp lý hơn chứ bây giờ người ta có thể đặt câu hỏi vì sao 400 vé mà không phải 500 hay 300 vé ? Cái đó thiếu căn cứ, một kế hoạch mang tính cụ thể, minh bạch. Điều đó làm cho người dân có suy nghĩ tiêu cực về vấn đề này".
Dưới góc nhìn cá nhân, một phi công không muốn nêu tên hiện đang công tác tại một hãng hàng không nội địa nhận xét rằng việc ‘xin’ ngay lúc này chưa hợp lý :
"Lúc này là thời điểm ngành hàng không đang gặp rất nhiều khó khăn, là ngành bị thiệt hại nhiêu nhất. Việc Tổng cục Du lịch xin lượng vé nhiều như vậy thì cũng ảnh hưởng đến nguồn thu của hãng hàng không".
Còn ông Nguyễn Văn Mỹ, chủ tịch Hội Đồng Thành Viên Công Ty Du Lịch Lửa Việt lại cho rằng cần phải có cách nhìn nội dung Văn bản 167 từ nhiều phía :
"Việc này ở Việt Nam rất thường, thậm chí người được ‘xin’ họ sẵn sàng cho, hoặc không ‘xin’ thì họ vẫn tìm cách cho chứ ở các nước phát triển thì việc này không bình thường".
Thực trạng ngành du lịch và hàng không sau mùa dịch
Dịch bệnh hô hấp do coronavirus gây ra đã ảnh hưởng lên các ngành, nghề trên toàn thế giới, kể cả Việt Nam.
Nhân viên công ty hàng không xịt thuốc sát trung trong may bay - Ảnh minh họa. AFP
Nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, chính phủ Hà Nội đã cho giãn cách xã hội trên cả nước. Đây là hành động được đánh giá là đúng đắn để giảm thiểu tỉ lệ nhiễm bệnh, tuy nhiên đã ảnh hưởng không ít đến nền kinh tế.
Sau thời gian giãn cách xã hội, các ngành nghề đang từng bước hoạt động trở lại, nhưng vẫn còn rất nhiều trở ngại.
Nói rõ hơn về những khó khăn doanh nghiệp du lịch hiện nay đang phải đối đầu, ông Nguyễn Văn Mỹ lập luận rằng để đủ điều kiện du lịch thì người dân phải có tiền, nhưng sự ngưng trệ việc làm trong thời gian qua khiến người lao động không thể đi làm, không kiếm được thu nhập thì nhu cầu du lịch sẽ không được quan tâm đến.
Dù vậy, tình hình du lịch dường như bắt đầu hồi phục từng bước :
"Bắt đầu có đoàn nhưng chắc phải mất thời gian khá dài, chắc khoảng 6 tháng may ra mới có thể hoạt động lại bình thường. Hiện nay thì các công ty (du lịch) gần như hoạt động lại nhưng số lượng nhân viên thu hẹp vì không có việc làm. Nhiều dịch vụ lưu trú, nhà hàng, khách sạn vẫn đóng cửa vì nếu mở cửa mà khách ít có khi còn căng thẳng hơn đóng cửa, chi phí không đủ vận hành nên bài toán hiện nay vẫn rất khó khăn. Xu thế của khách hiện nay vì tình hình kinh tế khó khăn nên họ phải chọn tour ngắn, nếu họ có xe thì tự đi, chọn phương án tiết kiệm tối đa chi phí".
Bên cạnh đó, các khách sạn đã bắt đầu tự tổ chức tour, những công ty lữ hành nước ngoài cũng tham gia thị trường du lịch nội địa cũng góp phần tăng sự cạnh tranh trong ngành.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Mỹ cũng cho rằng đây là khó khăn chung của toàn ngành du lịch hiện nay chứ không riêng gì những công ty lữ hành.
Trong khi đó, tình hình của ngành hàng không cũng không khá gì hơn, theo lời người phi công nói với chúng tôi :
"Sau mùa dịch thì khó khăn trước mắt là do khách vẫn còn ái ngại việc đi lại sẽ bị lây nhiễm bệnh, lượng khách đi lại chủ yếu là trong nước, nội địa, chuyến bay chưa hoạt động lại bình thường, tần suất hoạt động khoảng chừng 70% so với lúc trước. Đối với người trong ngành thì khó khăn là khi chuyến bay giảm thì công việc giảm kéo theo thu nhập giảm".
Trước thực tế vừa nêu, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Trung Lương cho rằng việc thúc đẩy du lịch và hàng không cùng hợp tác phát triển sau những thiệt hại do tác động Covid-19 gây ra là chuyện nên làm.
Bên cạnh đó, việc để xảy ra những sai sót trong quá trình làm việc là chuyện không thể tránh khỏi nhưng ông thấy rằng lẽ ra Tổng cục Du lịch cần phải xem xét lại những bài học trước đây :
"Tổng cục trước đó đã có những văn bản ban hành ra rồi phải rút lại thì lẽ ra phải hết sức rút kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước khi ban hành các văn bản. Đây là sự việc đáng tiếc, tôi cho rằng về bản chất thì không có gì nghiêm trọng lắm nhưng cách làm như vậy cần nghiêm túc rút kinh nghiệm cho việc này".
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Du lịch được báo trong nước loan tin ngày 6/5 vừa qua, chỉ trong ba tháng tính từ tháng 2-4/2020, ngành du lịch Việt Nam đã thiệt hại khoảng 7,7 tỉ USD.
Trong báo cáo gửi Thủ tướng mới đây của của Cục Hàng không Việt Nam thuộc Bộ Giao thông – Vận tải có ước tính thiệt hại ban đầu do dịch Covid-19 gây ra đối với các hãng hàng không trong nước là khoảng hơn 30.000 tỉ đồng. Trong đó, chỉ riêng Vietnam Airlines, hãng hàng không lớn nhất nước được ước tính doanh thu có thể bị giảm 2,1 tỷ USD trong năm 2020.
Miễn dịch cộng đồng ở Việt Nam ?
Mai Lan, VNTB, 16/03/2020
Khi nhiều người trong một khu vực tiêm vắc-xin, ít người bị ốm hơn. Từ đó, ít vi trùng lây lan từ người sang người hơn. Khái niệm này được gọi là miễn dịch cộng đồng.
Một kịch bản do Hiệp Hội các bệnh viện Mỹ họp ngày 26/2 đưa ra một dự báo để các thành viên tiên liệu mà đối phó với dịch, kịch bản đó sẽ là : 96 triệu người trong số 330 triệu người dân Mỹ dính bệnh, 4,8 triệu người cần nằm bệnh viện, và 480 ngàn người tử vong (1).
Miễn dịch cộng đồng là gì ?
Chuyên viên dịch tễ, ông Nguyễn Trung Nghĩa, nói rằng tại Mỹ, cứ tới mỗi mùa cúm, các quan chức y tế đều thúc giục mọi người từ 6 tuổi trở lên đi tiêm vắc-xin ngừa cúm. Nguyên nhân chính khiến các bác sĩ muốn càng nhiều người tiêm vắc-xin ngừa cúm càng tốt nằm ở chỗ : Nó giúp bảo vệ cộng đồng, chứ không chỉ riêng bạn. Nguy cơ đối với gia đình bạn, đồng nghiệp của bạn và tất cả những người quanh bạn đều được cắt giảm. Khi nhiều người trong một khu vực tiêm vắc-xin, ít người bị ốm hơn. Từ đó, ít vi trùng lây lan từ người sang người hơn. Khái niệm này được gọi là miễn dịch cộng đồng.
Để có miễn dịch cộng đồng và bảo vệ nhiều người khỏi bệnh tật, tại bất kỳ khu vực nào cần có một lượng lớn dân số được tiêm vắc-xin. Thuật ngữ chuyên ngành gọi đây là "ngưỡng".
Theo Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (U.S. CDC) định nghĩa miễn dịch cộng đồng (tên tiếng Anh là Community immunity), là tình trạng trong đó có một tỷ lệ nhất định người dân có miễn dịch với một số bệnh truyền nhiễm thông qua tiêm chủng và/hoặc đã mắc bệnh này trước đó, nhằm phòng tránh các bệnh lây từ người sang người.
Bàn luận về quan điểm này, bác sĩ Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm - Thần kinh, bệnh viện Nhi Đồng I, Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích : Muốn có được miễn dịch cộng đồng thì số người nhiễm bệnh sẽ rất lớn. Nghĩa là số người mắc bệnh gần như ở tất cả mọi người.
Nếu chủ động làm miễn dịch cộng đồng nhanh bằng cách để lây nhiễm tự nhiên sẽ rất nguy hiểm, và phải trả giá rất lớn bằng tính mạng của con người. Khi đó số lượng người mắc bệnh sẽ là rất lớn. Ở một số nhóm cơ địa đặc biệt như người già, miễn dịch kém, bệnh lý nền… nếu mắc bệnh sẽ rất nặng. Số lượng bệnh nhân mắc bệnh quá nhiều thì chúng ta sẽ không có thời gian chạy để cứu người nặng.
Ví dụ đơn giản, 10 người mắc bệnh có 4 người già, nhưng nếu nhân số người mắc lên 1.000 người thì sẽ có 400 người già mắc. Khi đó nhóm người này không đủ sức khỏe để tạo miễn dịch và có thể tử vong.
Sai lầm từ con số ‘đầu vào’ ?
"Thực tế quan điểm miễn dịch cộng đồng dựa trên một nhận định sai lầm, là số tử vong phía ngoài Trung Quốc chỉ ở mức 0,2%, hay bệnh Covid-19 chỉ là một bệnh nhẹ như cúm, nên thay vì phòng chống, có thể sống chung với bệnh được và từ đó có miễn dịch cộng đồng". Giáo sư Tiến sĩ Lê Thị Hương - Viện trưởng Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội, nhận định.
Giáo sư Tiến sĩ Lê Thị Hương làm phép tính : Khi để mặc cho dân tự nhiễm, nếu may mắn, chỉ 0,2% tử vong, vậy số tử vong tại Việt Nam là bao nhiêu với 90 triệu dân và 70% mắc ?. Số tử vong ở tỷ lệ 0,2% cũng đã lên tới con số là 126.000 người. Ai sẽ chấp nhận là 1 trong số 126 ngàn người đó ?
"Thêm nữa, đấy là khi không hề có quá tải y tế. Nếu quá tải y tế như Ý, số tử vong sẽ là 4-7% chứ không phải 0,2% và số chết sẽ là 5-9 triệu người. Ai sẽ chấp nhận là 1 trong số 5 triệu người đó. Chưa nói sẽ rất nhiều bác sĩ tử vong. Và đây mới chỉ là số lý thuyết. Trong số 50 bệnh nhân đã và đang nằm viện, cũng đã có 10 người triệu chứng nặng (20%). Nếu không có can thiệp y tế rất bài bản, chắc chắn đã có người tử vong, nếu số mắc là hàng loạt, bao nhiêu cái chết sẽ không thể tránh nổi ? Đó không phải là vấn đề rủi ro ý tế nữa, đó là vô nhân đạo, là vô đạo đức trong triết lý về phòng chống dịch". Giáo sư Tiến sĩ Lê Thị Hương biện giải.
Trong một trao đổi với báo chí, Giáo sư Tiến sĩ Lê Thị Hương có đưa ra thông tin đáng chú ý như sau về tiên liệu khả năng tử vong : "Hiện tại cũng đã có những trường hợp bệnh tiến triển khá nặng trong số 50 bệnh nhân đã và đang điều trị" (!?).
"Miễn dịch cộng đồng có thể tạo từ từ để đảm bảo an toàn, không có người tử vong. Sớm muộn chúng ta cũng có sẽ có miễn dịch cộng đồng với loại virus này. Tuy nhiên, làm cho nó lây nhiễm càng chậm sẽ càng tốt. Việc chúng ta cần phải làm là tiếp tục ngăn chặn dịch bệnh, làm việc một cách quyết liệt hơn, không được lơ là. Dịch bệnh có thể kéo dài nhưng, kéo dài tới đâu chúng ta cũng phải theo sát tới đó không thể để dịch bùng phát trên diện rộng". Bác sĩ Trương Hữu Khanh, nhấn mạnh.
Mai Lan
Nguồn : VNTB, 16/03/2020
******************
Chữa cúm virus corona cho ngành du lịch Việt Nam
Nguyễn Ngọc Toản, RFI, 16/03/2020
Như bao ngành nghề khác, du lịch Việt Nam bị tác động mạnh vì dịch virus corona (Covid-19). Hy vọng hết dịch bỗng bị dội gáo nước lạnh với nhiều trường hợp nhiễm mới trong cộng đồng từ ngày 06/03/2020 cùng với số người được yêu cầu cách ly trải trên nhiều tỉnh.
Bãi biển ở Đà Nẵng vắng bóng khách du lịch vì virus corona, ngày 06/03/2020. Reuters/Kham
Ngành du lịch có nguy cơ bị tác động trực tiếp từ ba yếu tố chính : khủng hoảng thiên tai, sự bất ổn chính trị hay đại dịch y tế toàn cầu. Nếu ngành du lịch bị tác động, hàng loạt lĩnh vực liên quan khác cũng bị thiệt hại theo, như hàng không, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ địa phương…, do du lịch là một lĩnh vực kinh tế tổng hợp của nhiều ngành, theo nhận định với trang Forbes Việt Nam (10/02/2020) của ông Nguyễn Quốc Kỳ, tổng giám đốc công ty lữ hành Vietravel.
Cụ thể, ngành du lịch hiện bị tác động như thế nào ? Đâu là hướng tái cơ cấu sau dịch Covid-19 ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Toản, giám đốc công ty lữ hành Images Travel, chuyên về "Điểm đến Đông Dương và Việt Nam", tại thành phố Hồ Chí Minh.
*****
RFI : Từ khi xuất hiện virus corona tại Việt Nam, đã có nhiều trường hợp tours bị hủy chưa ?
Nguyễn Ngọc Toản : Trong nước, đương nhiên là hủy vì Nhà nước siết chặt các hoạt động dành cho khách Việt Nam, tức là những hoạt động vui chơi lễ hội. Có nghĩa là du lịch, đi thăm quan thì được, nhưng mà vui chơi, lễ hội, tụ tập đông người thì không được. Trong khi đó, du lịch trong nước, thường là du lịch đi theo kiểu công ty, vui chơi, tổ chức vui chơi hội họp nhiều hơn là đi du lịch vì người Việt biết Việt Nam rồi. Vì các hoạt động chính bị hủy hết luôn, nên các công ty làm thị trường khách nội địa, coi như là không hoạt động luôn. Từ tháng Hai, sau Tết, là ngưng luôn.
Về khách nước ngoài, tùy theo thị trường. Ngay sau Tết, thị trường đầu tiên là khách Trung Quốc coi như là "đứt" vì Nhà nước siết chặt các biện pháp đối với khách Trung Quốc, chỉ mở cửa biên giới cho hàng hóa, chứ không nhận du khách, bắt đầu là từ tỉnh Hồ Bắc, sau đó là toàn bộ Trung Quốc. Nếu mà nhận, thì chỉ theo kiểu nhận rồi cho vào cách ly 14 ngày. Đối với khách du lịch thì không ai chấp nhận cách ly 14 ngày nên đương nhiên là hủy toàn bộ.
Đầu tiên Trung Quốc, tiếp theo thì tùy vào diễn biến của virus corona đến đâu thì Nhà nước cấm đến đó và thị trường cứ theo như thế. Sau đó là tới Nhật Bản, tự nhiên người ta sợ, người ta không dám đi, tại vì lúc đó Việt Nam có nhiều ca nên người Nhật Bản sợ không vào. Bây giờ đến Hàn Quốc và Iran, thì ngược lại, nghĩa là Việt Nam không nhận nữa. Cho nên các thị trường cứ nối đuôi nhau như vậy đó !
RFI : Công ty Images Travel chuyên về "Điểm đến Đông Dương và Việt Nam". Vậy công ty gặp những khó khăn gì trong giai đoạn này ?
Nguyễn Ngọc Toản : Tháng Hai, tức là tháng ngay sau Tết, thì bình thường. Công ty chỉ bị hủy một chút thôi, dưới 5%. Tháng Ba thì hủy khoảng hơn 10%, chắc khoảng tầm 15-20%, khó tính chính xác vì người ta hủy, rồi người ta chuyển đi tháng khác chẳng hạn, hoặc là người ta chưa đặt, thì không đặt nữa, nên cũng không biết là có tính vào hay không, nhưng cứ tính là giảm. Tháng Tư thì căng hơn. Từ tháng Ba, sau khi Việt Nam thực hiện cách ly (xã Sơn Lôi), bên Pháp người ta sợ, người ta cứ tưởng mình giống như Vũ Hán, nên người ta không dám đặt tháng Tư. Hoặc là nếu họ đặt tháng Tư, thì họ cũng hủy luôn, chắc hủy tầm 30%.
RFI : Đối với những tours vẫn được duy trì, công ty Images Travel, cũng như các công ty lữ hành khác, có phải thay đổi lịch trình điểm thăm quan không ? Và có gặp khó khăn trong vấn đề này không ? Công ty đưa ra những biện pháp phòng ngừa như nào đối với khách ?
Nguyễn Ngọc Toản : Hoàn toàn không, vì nói chung, trong nước là an toàn. Các nguy cơ bị cách ly hết, ví dụ như xã Sơn Lôi từng bị cách ly. Theo báo chí và thông tin, khi người ta đọc, cứ tưởng là rất nguy hiểm nhưng thực ra, khi cách ly thì an toàn hơn nhiều, các mối nguy không ra ngoài xã hội.
Mọi người đi du lịch, không gặp khó khăn gì hết, mà thậm chí còn tốt hơn trước nữa, thăm quan thích hơn vì khách thấy thoải mái hơn, không có khách Trung Quốc. Tháng này (tháng Ba) không có khách Hàn Quốc luôn, còn tuyệt vời hơn, đi chơi như được lại về ngày xưa yên bình. Khách Pháp rất thích như thế !
RFI : Liệu đợt dịch Covid-19 này có là cơ hội để du lịch Việt Nam cơ cấu và đa dạng hóa đối tượng du khách và mở rộng hơn sang các nước khác, thay vì phần đông là du khách Trung Quốc như hiện nay ?
Nguyễn Ngọc Toản : Cái này là Nhà nước cũng mong muốn dữ lắm. Các doanh nghiệp cũng muốn dữ lắm. Hôm đi họp ở Sở Du Lịch (thành phố Hồ Chí Minh), các doanh nghiệp thích lắm. Nhưng vấn đề không phải là mình thích thì mình làm được. Ví dụ mình muốn làm khách Châu Âu nhưng mà khả năng trong nước, như trong ngành khách sạn, họ không được đào tạo để đón khách Âu. Hoặc là các đường bay hiện nay cũng không có nhiều. Muốn làm khách Âu cũng khó, không phải muốn là làm được.
Lúc bắt đầu dịch, mình không nhận được khách Úc. Ngay lập tức, trong nước đã bắt đầu nghĩ đến và tiến hành ngay các phương án lâu dài để thay đổi cơ cấu nguồn khách. Sở Du Lịch đã đề nghị các doanh nghiệp tập trung lo về thay đổi cơ cấu nguồn khách. Nhưng tạm thời chưa nói đến việc làm như thế nào.
RFI : Như vừa rồi ông nói, trong tháng Hai, Ba và Tư, số lượng khách hủy tour khá nhiều, vậy sau mùa dịch tầm tháng Năm, tháng Sáu chẳng hạn, và từ giờ đến cuối năm, liệu có thể bù lại một phần nào đó thất thu do thời gian dịch này không ?
Nguyễn Ngọc Toản : Đặc thù của dòng khách Âu-Mỹ là mùa hè họ không đi Việt Nam nhiều tại vì bên Châu Âu, trời đẹp, họ không cần đi Việt Nam. Cho nên, mùa du lịch đầu năm, tháng Năm cũng đã bị hủy nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm với doanh nghiệp làm thị trường Âu-Mỹ, vì nếu không có dịch, cũng có rất ít khách.
Vấn đề của doanh nghiệp đón khác Châu Âu là từ tháng Tám trở đi mới là vấn đề lớn. Có nghĩa là nếu trong vòng hai tháng, bên Châu Âu không giải quyết được dịch, để tháng Sáu mà mua tour cuối năm, thì có khi không kịp, vì người Pháp, người Đức hay mua tour rất sớm, có khi mua trước cả 7-8 tháng. Nếu đến tháng Bẩy, Châu Âu mới giập được dịch thì tháng Bẩy họ sẽ mua tour cho tháng Một, hoặc là tháng Hai,/3/2021, chứ còn 2020 thì sẽ quá muộn. Ít có khách nào mua tour tầm ba tháng trước. Người Châu Âu là như vậy !
Bây giờ, các thị trường khách Châu Á là mất trắng. Từ tháng Ba đến cuối năm, các doanh nghiệp có nguy cơ mất 100%. Về phần thị trường khách Châu Âu, mất 30% là chắc chắn rồi, còn mất 50% hay 70% thì tùy vào diễn biến sắp tới vào tháng Ba này, vào khả năng giập dịch như thế nào.
RFI : Vậy các công ty lữ hành có sáng kiến gì để giúp Nhà nước khôi phục ngành du lịch không ?
Nguyễn Ngọc Toản : Về câu hỏi các doanh nghiệp, trong những ngày căng thẳng nhất của Châu Âu, có sáng kiến hay ý tưởng gì để phục hồi thị trường, để góp ý với Nhà nước, thì thực ra bây giờ, doanh nghiệp bây giờ không cần thiết phải nói về phát triển nữa. Tức là bây giờ, doanh nghiệp tập trung ủng hộ Nhà nước để giải quyết xong dịch bệnh trong nước để hình ảnh đất nước Việt Nam trở về như trước, nghĩa là hoàn toàn không có dịch bệnh. Đó mới là cách lâu dài nhất, chứ không còn cách nào khác, không còn biện pháp nào gọi là "kích cầu" hay "khuyến mãi". Bây giờ chỉ còn mỗi tập trung vào ủng hộ mọi chính sách của Nhà nước để giải quyết xong dịch bệnh.
*****
Du lịch Việt Nam mất 5 tỷ đô la nếu dịch kéo dài sang quý II
Tại Việt Nam, tổng thu từ khách du lịch trong năm 2019 đạt 726 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2018, theo trang VnEconomy (30/12/2019). Việt Nam đón ba nguồn khách chính : khách Trung Quốc, khách quốc tế đến Châu Á cũng như Đông Nam Á và khách du lịch nội địa. Năm 2019, trong tổng số 18 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam (tăng 16,2% so với năm 2018), đã có hơn 5,8 triệu khách Trung Quốc, chiếm 32%.
Do dịch Covid-19, "Nha Trang - Khánh Hòa dự kiến chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do tỷ trọng khách Trung Quốc lớn nhất, chiếm 70% tổng số khách quốc tế năm 2019", theo nhận định của ông Mauro Gasparotti, giám đốc Savills Hotels Châu Á-Thái Bình Dương với Forbes Việt Nam.
Tình hình dịch bùng phát tại Trung Quốc, hiện đang lan ra trên khắp thế giới, khiến ngành du lịch Việt Nam khó có thể thực hiện được hy vọng hồi phục trong nửa cuối năm 2020, cũng như mục tiêu phấn đấu đón khoảng 20,5 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2020. Theo ước tính của bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, nếu dịch Covid-19 kết thúc trong quý I, ngành lịch có thể sẽ bị thiệt hại khoảng 2,3 tỷ đô la, nhưng nếu dịch kéo dài đến hết quý II, thiệt hại sẽ là 5 tỷ đô la.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 16/03/2020
Ngành du lịch Việt Nam mới chỉ kinh doanh của trời cho ! (RFA, 27/12/2019)
Mạng báo Viettimes, cơ quan của Hội Truyền thông số Việt Nam vào tháng 1 năm nay có bài liệt kê bãi biển Mỹ Khê ở Đà Nẵng là 1 trong 10 bãi biển đẹp nhất hành tinh Trái Đất.
Vịnh Hạ Long tại Quảng Ninh. AFP
Thực tế này là không thể chối cãi đối với nhiều người cả trong và ngoài nước. Ngoài ra, một số bãi khác dọc theo đường bờ biển dài đến cả gần 3 ngàn kilomet của Việt Nam cũng là những nơi được cho là tắm lý tưởng !
Tuy nhiên hiện nay nhiều người đang quan ngại về tình trạng những nơi đó bị ô nhiễm bởi rác thải, nước bẩn, hàng quán xô bồ, chèo kéo bán hàng…
Tại Vịnh Hạ Long, nhiều người cũng quan ngại về tình trạng ô nhiễm Vịnh bởi rác thải, dầu nhớt từ các tàu chở khách rò rỉ ra, và cả nạn khắc tên trên tường hang động, thạch nhũ...
Nhiều cơ quan quản lý địa phương lúng túng trong việc đề ra phương án phát triển hài hòa giữa du lịch và bảo tồn di sản, cảnh quan địa phương… Liệu hoạt động khai thác du lịch có mạng lại hiệu quả như mong đợi không, hay chỉ chạy theo số lượng mà quên công tác bảo tồn. Hình ảnh được ví von là ‘con gà đẻ trứng vàng’ không được nuôi đúng cách mà thậm chí còn giết thịt để ăn.
Ông Nguyễn Văn Mỹ, giám đốc công ty du lịch Lửa Việt và cũng là một chuyên gia trong lĩnh vực này, vào ngày 27/12/2019 thừa nhận rằng mặc dù ngành du lịch Việt nam có nhiểu nỗ lực ; nhưng để đáp ứng được như mong đợi thì chắc phải còn khá lâu.
"Nhiều cái khó như là hệ thống giao thông Việt Nam chưa được đồng bộ, họ vẫn đang nỗ lực nhưng không thể một sớm một chiều được. Điều đáng lo nhất là việc chủ nhà của mình này thì mình có biết nhắc nhỏ bảo vệ cái đó hay không, có những lúc mình dễ dãi trong quản lý nên phê duyệt các dự án tác động đến môi trường, có những thứ do quản lý lỏng lẻo nên người ta vi phạm xong thì báo chí mới phát hiện đưa lên thì cái đó mới là điều đáng lo ngại".
Một hướng dẫn viên du lịch không muốn nêu danh tính từ Sài Gòn nhận định, vấn đề cách quản lý du lịch của Việt Nam cho đến bây giờ chưa có một cách quản lý thật sự hiệu quả.
"Tất nhiên nó cũng có những cái chệch choạc. Thật ra mình cũng không kiểm soát được nhất là tại những điểm có nhiều du khách Trung Quốc thế nào nó cũng xảy ra nhiều chuyện ngoài ý muốn. Thật ra họ không quản lý được vì không có hạn chế được lượng khách du lịch tại một điểm du lịch, ví dụ một ngày cả ngàn khách dồn về đó thì tất nhiên địa điểm đó bị vấn đề liền thôi. Quản lý du lịch mình rất là yếu kém, ngay cả những ngôn ngữ khó hay ít người thì họ lại để cho trưởng đoàn tự thuyết minh luôn, họ muốn nói gì họ nói không kiểm soát được mặc dù trên nguyên tắc điều đó cấm. Ví dụ trưởng đoàn Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga họ dẫn khách đi họ muốn nói gì họ nói mà thôi. Nguyên tắc khi khách du lịch vào Việt Nam bắt buộc phải có phiên dịch người địa phương nhưng họ đối phó bằng cách thuê một hướng dẫn "câm" ngồi trên xe để trưởng đoàn họ muốn làm gì làm".
Việt Nam mang vẻ đẹp cả 4 mùa và nhiều cảnh quan kỳ vĩ
Theo số liệu mới đây của Tổng cục Du lịch - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, ngành du lịch Việt Nam trong năm 2019 đã phục vụ 85 triệu du khách nội địa với tổng mức thu về đạt hơn 720.000 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2018. Mục tiêu trong năm 2020, toàn ngành du lịch Việt Nam phấn đấu đón hơn 20 triệu khách quốc tế, phục vụ 90 triệu khách du lịch nội địa và tổng thu từ khách du lịch đạt hơn 830.000 tỷ đồng.
Anh hướng dẫn viên du lịch cho rằng, bao giờ cơ quan chức năng cũng đặt ra một hướng đi, khi nói thì rất là hay nhưng khi làm thì lại không thực hiện được.
"…ngay cả việc họ báo cáo lượng khách du lịch tới Việt Nam cũng chưa chắc là đúng bởi vì cứ hộ chiếu nước ngoài qua cửa khẩu là thành khách du lịch trong khi dân Trung Quốc họ vô làm công nhân một đống nhưng họ vẫn tính là khách du lịch, họ không phân biệt được đâu là khách du lịch hay làm việc. Đa phần các hãng xưởng đầu tư tại khu vực miền Trung rất là nhiều, họ thâu nhận người Trung Quốc vào làm việc với visa du lịch nên tổng cục du lịch coi như đó là khách du lịch".
Còn theo ông Nguyễn Văn Mỹ, bản thân người trong ngành du lịch như ông luôn mong muốn số lượng du khách ngày càng tăng hơn nữa nhưng điều ông quan tâm nhất không phải là số lượng khách bao nhiêu mà là doanh thu lợi nhuận mang lại cho ngành du lịch mới là điều quan trọng.
"Đối với lượng 18 triệu khách thì tôi nghĩ cũng xấp xỉ khoảng 5 triệu là khách Trung Quốc nhưng mà khách Trung Quốc đi bằng máy bay còn đỡ chứ khách Trung Quốc mà họ đi đường bộ thì họ không xài tiền bao nhiêu đâu. Thứ hai là lượng khách Tây ba lô, Châu phi họ qua Việt Nam họ cũng không xài bao nhiêu, đôi khi họ còn làm chuyện này chuyện khác mình càng mệt hơn. Thứ Ba là lượng khách khá lớn là người Việt từ nước ngoài về thăm gia đình nên chưa chắc họ ở khách sạn nên lượng khách chỉ là tương đối mà thôi. Vấn đề tiếp theo là doanh thu bao nhiêu, chi phí đầu người trên mỗi khách sẽ thu lợi nhuận bao nhiêu, cho đất nước bao nhiêu thì đó mới là điều quan trọng nhất".
Năm 2018, lần đầu tiên trong bảng xếp hạng khu vực du lịch Châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam được xếp thứ 8 về số lượng khách du lịch tức 15,5 triệu du khách nhưng doanh thu lại không lọt vào top 10.
Ông Nguyễn Văn Mỹ nhận định, rõ ràng lượng khách chưa tương xứng với doanh thu. Anh hướng dẫn viên du lịnh nhắc lại rằng cơ quan chức năng thường nói du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn ; thế nhưng trong thực tế không được ưu tiên ; thiếu chính sách cụ thể để du lịch phát triển, cất cánh. Tiềm năng du lịch Việt Nam rất lớn nhưng không thể làm được vì không có đường lối chính sách vạch ra đúng đắn để phát triển, đến nay ngành du lịch Việt Nam vẫn kinh doanh dựa trên ‘vốn tự có’ chứ không tạo được giá trị gia tăng.
Nguồn : RFA, 27/12/2019
****************
Ông Nguyễn Phú Trọng, Khá ‘Bảnh’ được tìm kiếm nhiều nhất Việt Nam (VOA, 26/12/2019 )
Nguyên thủ Việt Nam 75 tuổi và thanh niên 26 tuổi mà báo chí trong nước nói là "giang hồ mạng" cùng lọt vào danh sách các nhân vật được người Việt tìm kiếm nhiều nhất trong năm 2019 của Google. Đây là năm thứ hai liên tiếp ông Trọng lọt vào danh sách này.
Tổng bí thư/Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đứng đầu danh sách 5 người được tìm kiếm nhiều nhất ở Việt Nam, trong khi Khá "Bảnh", một YouTuber từng có gần 2 triệu người theo dõi, đứng ở vị trí thứ hai sau cố thi sĩ Xuân Quỳnh, vốn được Google vinh danh hồi tháng Mười bằng việc đưa hình ảnh chân dung của bà lên trang chủ.
Theo các nội dung tìm kiếm thịnh hành trong năm 2019 được Google thống kê, người Việt tìm thông tin về ông Trọng nhiều nhất là giữa tháng Tư, khi mạng xã hội tràn ngập các tin tức chưa được kiểm chứng về tình hình sức khỏe của ông sau chuyến thăm tỉnh Kiên Giang.
Các cụm từ tìm kiếm liên quan được sử dụng nhiều gồm "tình hình sức khỏe Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng", "Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhập viện", "Bệnh viện Chợ Rẫy", "hôn mê" hay "tai biến mạch máu não".
Trước các thông tin đồn đoán khi đó, nhất là ý kiến trên tờ "The Diplomat" về điều được cho là "cuộc khủng hoảng kế nhiệm", giáo sư Carl Thayer, nhà nghiên cứu lâu năm về chính trường Việt Nam, hôm 22/4 cho rằng "quả bóng hiện nằm trên sân của Việt Nam nhằm ngăn chặn đồn đoán và thông báo về tình trạng sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng".
"Giả sử những đồn đoán về bệnh tình của ông Trọng là đúng, điều quan trọng là phải biết được Tổng bí thư Trọng đã bị nặng đến mức nào. Nếu ông chỉ bị nhẹ, thì có lẽ còn quá sớm để bắt đầu suy đoán về một cuộc khủng hoảng kế nhiệm", ông Thayer đánh giá. "Chúng ta cần phải chờ xem liệu ông có hồi phục sau một thời gian nghỉ dưỡng và có thể tiếp tục làm việc, dù khối lượng công việc có thể giảm đi nhiều".
Ít lâu sau đó, Việt Nam lần đầu tiên lên tiếng về sức khỏe của nguyên thủ 75 tuổi, khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói rằng "do cường độ làm việc cao, thời tiết thay đổi đã ảnh hưởng đến sức khỏe của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng" và rằng "ông sẽ sớm trở lại làm việc bình thường".
Lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, vốn là người khai mào chiến dịch chống tham nhũng mà nhiều người gọi là "chiến dịch đốt lò", mới được nhắc tới trong vụ xử MobiFone mua AVG, khi bị cáo Nguyễn Bắc Son, cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, ngỏ lời "xin lỗi" ông Trọng vì "những sai phạm đặc biệt nghiêm trọng của mình", trong đó có vụ "nhận hối lộ 3 triệu đôla".
Trong khi đó, Khá "Bảnh", người báo chí Việt Nam gọi là "giang hồ mạng" hay "giang hồ sống ảo", cũng nằm trong danh sách các nhân vật được tìm kiếm nhiều nhất năm 2019 của Google cùng với ông Trọng.
Những cụm được người dùng Internet Việt sử dụng để tìm thông tin liên quan tới thanh niên 26 tuổi có tên thật là Ngô Bá Khá gồm "Khá ‘Bảnh’ đi tù mấy năm ?", "Khá ‘Bảnh’ đốt xe", "Khá ‘Bảnh’ lên VTV1" hay "Khá ‘Bảnh’ giờ ra sao ?"
Báo chí trong nước mới đây đưa tin rằng Khá "Bảnh" hôm 9/12 đã nộp đơn kháng án sau khi bị tòa sơ thẩm tuyên 10 năm và 6 tháng tù giam về các tội "Tổ chức đánh bạc" và "Đánh bạc" hồi giữa tháng 11.
Các hình ảnh và video về vụ xử này cho thấy rằng nhiều thanh niên đứng bên ngoài tòa án ở tỉnh Bắc Ninh vẫy gọi "anh ơi", "Khá ơi" hay "giữ sức khỏe nhé" khi nhân vật này được giải tới nơi xét xử.
Mới đây, theo Tiền Phong, Phó Tổng biên tập của nhật báo này, ông Phùng Công Sưởng, đã nêu trường hợp Khá "Bảnh" tại Đại hội toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam với câu hỏi ngỏ : "Tại sao một trường hợp như Khá "Bảnh", vi phạm pháp luật, tội phạm, lại được hàng nghìn thanh niên cổ vũ ?"
Tin cho hay, lãnh đạo tờ báo với cơ quan chủ quản là Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cũng "đồng thời đặt dấu hỏi về vai trò của Hội Liên hiệp Thanh niên ở địa phương ở đâu, để tương tác, giúp thanh niên nhận ra như thế nào là đúng, là sai, là vi phạm pháp luật".
Ngoài ông Nguyễn Phú Trọng, cố thi sĩ Xuân Quỳnh và Khá "Bảnh", danh sách top 5 các nhân vật được tìm kiếm nhiều nhất ở Việt Nam năm 2019 còn có ca sĩ Hàn Quốc Seungri về cáo buộc "môi giới mại dâm" và "đánh bạc" cũng như lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong Un liên quan tới cuộc họp thượng đỉnh với Tổng thống Mỹ Donald Trump ở Hà Nội hồi tháng Hai.
Trong danh sách tìm kiếm thịnh hành, Google cũng liệt kê "những câu hỏi nổi bật" trong năm 2019, trong đó có : "cà khịa là gì ?", "văn hóa giao thông là gì ?" hay "đường lưỡi bò là gì ?"
Viễn Đông
***************
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng : khiếu nại về đất đai vẫn còn rất bức xúc (RFA, 27/12/2019)
Khu đất Vườn Rau Lộc Hưng tại Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh sau khi bị cưỡng chế vào ngày 4 và 8/1/2019. Courtesy of Citizen
"Tình trạng khiếu nại về đất đai vẫn còn rất bức xúc, tuy có giảm nhưng chủ yếu là các vụ việc tồn đọng phức tạp, kéo dài, hồ sơ không đầy đủ".
Đây là phát biểu của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng trong Hội nghị tổng kết công tác năm 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020 của Bộ Tài nguyên - Môi trường diễn ra sáng ngày 27/12.
Theo truyền thông trong nước, phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho rằng trong năm vừa qua, ngành Tài nguyên và Môi trường đã đạt được nhiều kết quả quan trọng dù phải đối mặt với sức nóng của vấn đề đất đai, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên.
Cụ thể, ngành Tài nguyên – Môi trường đã tập trung nguồn lực xây dựng các dự án luật, chủ động triển khai giải quyết những vấn đề liên quan chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt triển khai nghị quyết của Chính phủ về phát triển bền vững khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Việc quản lý tài nguyên, đất đai đi vào nề nếp, cơ cấu sử dụng đất chuyển dịch phù hợp, hiệu quả, giúp thu ngân sách từ đất tăng lên. Tính đến ngày 25/12/2019, nguồn thu từ đất đạt gần 173 ngàn tỷ đồng, chiếm khoảng 11% trong tổng thu ngân sách nội địa.
Tuy nhiên, ông Trịnh Đình Dũng cũng thẳng thắn cho rằng việc quản lý, sử dụng khai thác các nguồn tài nguyên ở một số địa phương còn lãng phí, thất thoát, thậm chí có nơi còn rất nghiêm trọng, nhất là vấn đề đất đai.
Ngoài ra, công tác bảo vệ tài nguyên nước cũng chưa được các địa phương quan tâm đúng mức.
Vì vậy, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường trong năm 2020 tới đây cần thực hiện một số nhiệm vụ như tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến lĩnh vực tài nguyên môi trường, đặc biệt là Luật Đất đai. Trong đó, tập trung sửa đổi một số điểm vướng mắc, gây cản trở cho quá trình phát triển, cũng như gây thất thoát các nguồn tài nguyên.
Ông Dũng đặc biệt nhấn mạnh đến việc phải xác định rõ giá trị của đất khi sửa Luật Đất đai vì đây là vấn đề đang vướng mắc rất lớn.
Vẫn theo Phó Thủ tướng, hiện tại Việt Nam không có nguồn lực để giải phóng mặt bằng nên hầu hết địa phương đều không thực hiện đấu giá đất trong những năm vừa qua. Do đó, cần phải làm rõ việc đấu giá, đấu thầu đất như thế nào cho phù hợp để dù chưa giải phóng mặt bằng nhưng vẫn có thể đấu thầu được.
Bên cạnh đó, ông Dũng cho rằng Bộ Tài nguyên – Môi trường cần tập trung để sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường, phải hành động quyết liệt hơn nữa trong các giải pháp bảo vệ ô nhiễm môi trường, không chỉ ở các đô thị, khu công nghiệp mà cả ở vùng nông thôn.
Du lịch Việt và khủng hoảng nguồn nhân lực (RFA, 17/04/2019)
"Đào tạo Nguồn nhân lực du lịch" là chủ đề được đưa ra trong một diễn đàn thảo luận tại hội trường Thống Nhất ở thành phố Hồ Chí vào trung tuần tháng 4 vừa qua. Hoạt động này do Đại học Hoa Sen và Sở Du lịch thành phố phối hợp tổ chức.
Người dân Hà Nội xếp hàng mua vé máy bay giá rẻ trong một đợt khuyến mãi của Việt Nam Airlines tại Hội chợ Du lịch Quốc tế ngày 15 tháng tư năm 2016. AFP photo
Bên cạnh sự hiện diện của thủ tướng chính phủ và viên chức các ban ngành liên quan, còn có lãnh đạo các công ty du lịch, chuyên gia cùng đại diện các trường đào tạo ngành nghề du lịch.
Tại diễn đàn nhiều tiêu chí được đưa ra như đổi mới ngành du lịch, , phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chính sách của Nhà nước và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực, liên kết các cơ sở đào tạo nhằm phát huy nguồn nhân lực trong tương lai, biến du lịch thành ngành kinh tế mũi nhon…
Tuy nhiên đào tạo nguồn nhân lực được cho là ý kiến chủ đạo trong diễn đàn, vào khi tình hình thực tế phản ảnh qua báo chí cho thấy nhân lực trong ngành du lịch Việt Nam từ trong ra đến ngoài không những thiếu mà còn chưa thể đáp ứng được nhu cầu đang tăng của thị trường .
Ông Nguyễn Quốc Kỳ, tổng giám đốc Viettravel doanh nghiệp du lịch lớn trong thành phố, phát biểu rằng tình trạng thiếu nhân lực ngành du lịch là vấn đề kéo dài lâu nay chứ không đợi tới giờ. Nguồn nhân lực nói tới ở đây, ông Nguyễn Quốc Kỳ nhấn mạnh, chính là số lượng ứng viên nộp hồ sơ khá đông nhưng nhưng ít người hội đủ tiêu chuẩn đáp ứng thực tế, chưa kể một khâu quan trọng khác là kỹ năng ngoại ngữ của ứng viên rất kém, dẫn đến chuyện khách đi thì đông mà người phục vụ đi theo thì rất ít.
Năm 2018, ông Nguyễn Quốc Kỳ trình bày tiếp, Viettravel đón 912.000 lượt khách. Hướng tới của 2019 là 1 triệu 100, ông nói, nhưng để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng này Viettravel cần thêm khoảng 300 nhân viên nữa mà thực tế đã chứng minh là rất khó tuyển cho đủ.
Số liệu từ Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh cho thấy gần phân nửa hướng dẫn viên du lịch không thông thạo ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hàn. Đây là trở ngại rất lớn cho ngành du lịch thành phố trong việc tiếp cận những thị trường tiềm năng, đại diện Sở Du lịch nhấn mạnh như vậy.
Không chỉ phía Nam mà khu vực phía Bắc, dù có trường đào tạo hướng dẫn viên du lịch, cũng lâm vào cảnh thiếu nhân sự một cách trầm trọng. Cô Giang, đang điều hành công ty du lịch TTB Tour ở Hà Nội, cho biết lúc cần thì chính cô cũng phải đi theo đoàn trong tư cách hướng dẫn viên du lịch :
Thứ nhất là thị trường tiếng, nhìn chung tour guide mà giỏi ngôn ngữ rất là hiếm. Thứ hai nữa là trách nhiệm của họ không cao, đạo đức nghề nghiệp của hướng dẫn viên thì xuống cấp.Họ không hết trách nhiệm không đam mê với công việc.
Ngoài việc không đào sâu kiến thức, họ nói theo bài bản thôi chứ không chịu mở rộng kiến thức. Khách bây giờ đặt rất nhiều câu hỏi thì mình nên mở rộng tầm nhìn ra. Nhưng mà số lượng tour guide như thế rất hiếm, có thể nói là khan hiếm vô cùng.
Thường thì một học viên ngành du lịch khi ra trường và được TTB Tour nhận thì công ty này phải đào tạo nghiệp vụ cho họ trong vòng một hay hai năm, nhưng :
Khi các bạn cứng việc rồi thì lại bay cao hơn, thường là như thế.
Những chuyện như vừa nói không có gì mới là khẳng định tiếp theo của ông Trần Long, tổng giám đốc Công Ty Truyển Thông Du lịch Việt ở thành phố Hồ CHí Minh :
Không phải chúng ta không có người. Mỗi một năm ra trường rất nhiều ngàn, nhân sự học du lịch ra có những lãnh vực như làm dịch vụ, buồng, bàn, bar hay kinh doanh đều có hết, nhưng cơ bản là chúng ta chưa tập trung đào tạo sâu về mặt chuyên môn cũng như chất lượng nghiệp vụ cho nguồn nhân sự, đâm ra nguồn nhân sự mà ra trường là chưa đáp ứng nổi nhu cầu thực tế của thị trường hiện nay.
Du khách nước ngoài mặc áo dài Việt Nam tại Hà Nội hôm 20/10/2018. AFP
Dưới mắt ông Trần Long, các trường đào tạo hướng dẫn viên du lịch từ Trung cấp, Cao đẳng đến Đại học một năm đào tạo được rất nhiều, tuy nhiên giữa nhà trường và những đơn vị sử dụng lao động, tức sử dụng nguồn nhân lực, chưa phối hợp với nhau một cách chặc chẽ và chưa có một tiếng nói chung,chưa có một kế hoạch cụ thể mà gần như là chạy theo phong trào :
Trong khi đó du lịch cần sự nắm bắt, người làm du lịch phải có cái tố chất, cái năng khiếu từ hình thức từ giọng nói hay cung cách. Tôi nghĩ những yếu tố ấy không đơn giản mà ngay từ đầu vào, tức là tuyển sinh, mình cũng chưa chú trọng.
Bây giờ một hướng dẫn viên mà ăn nói thì ngọng hoặc hình thức nó kém quá thì khó thu hút du khách. Hay những người phục vụ mà không có một nụ cười, chuyên môn lại không cao, không nhanh nhẹn chẳng hạn, thì du lịch chúng ta sẽ luôn đi sau các nước phát triển về nguồn nhân lực.
Theo số liệu của Tổng Cục Thống , được ông Trần Long nói đến ở đây, thì hiện Việt Nam có trên dưới 25.000 hướng dẫn viên du lịch được cấp thẻ :
Tôi cho rằng 25.000 hướng dẫn viên du lịch này trình độ các bạn không đến nỗi tệ, nhưng về kỹ năng nghề, rồi cái văn hóa của mỗi công ty, cái cảm nhận và trách nhiệm thì hướng dẫn viên mình cần phải được đào tạo được nâng cao hơn nữa thì mới đạt được cái cơ bản.
Những trường phía Bắc thì đào tạo kiến thức có thể sâu hơn một chút, nhưng về kỹ năng thì ở phía Nam tốt hơn ở phía Bắc. Tôi nghĩ chúng ta cần thanh lọc lại, check lại, kiểm tra lại thường xuyên một năm một lần. Làm sao để mỗi cá nhân làm du lịch hiểu chúng ta đang làm cái gì mà tự học hỏi nâng cấp mình lên.
Bớt kêu ca và thay bằng việc làm cụ , đừng mãi lập lại cái điệp khúc rằng nguồn nhân lực Việt Nam thiếu và yếu trầm trong, ai cũng biết nhưng không ai có biện pháp giải quyết. Đó là góp ý của ông Nguyễn Văn Mỹ, thành viên Hội đồng quản trị công ty du lịch Lữ hành Lửa Việt :
Tôi có đăng ký phát biểu trong diễn đàn và tôi có bảo rằng làm sao mà bớt kêu ca đi, chuyện đó ai cũng biết rồi. Tôi chứng minh rằng nếu có thì thiếu cục bộ. Tôi dẫn chứng theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê thì năm 2018 Việt Nam còn trên 200.000 cử nhân và thạc sĩ thất nghiệp. Bản thân tôi có trực tiếp tham gia giảng dạy, tôi biết có những đại học có những lớp chuyên ngành du lịch, các em học xong đi làm chưa tới 10%, một sự lãng phí ghê gớm.
Vấn đề ở đây, ông Nguyễn Văn Mỹ phân tích tiếp, sinh viên thì học theo phong trào, cứ chọn ngành nghề có vẻ kêu như Quản Trị Du lịch chẳng hạn, trong khi thị trường cần những ngành cụ thể, thí dụ lữ hành thì cần hướng dẫn viên, cần thiết kế tour, cần điều hành tour. Nhà hàng khách sạn thì cần buồng, cần bar, cần pha chế, cần bếp… chứ không cần cái quản trị chung chung mà từ chỗ đó nảy sinh cái thừa và cái thiếu :
Và tôi cho rằng nếu thực sự có thiếu cục bộ đi chăng nữa thì có 200.000 tốt nghiệp cử nhân và cao đẳng và thạc sĩ, nếu cần thì đào tạo nghiệp vụ rồi chuyển qua thì không thể thiếu được.
Chính sách và thu nhập của ngành du lịch của Việt Nam không hấp dẫn cho nên người ta không làm đúng ngành nghế :
Trường Đại học Hoa Sen là đơn vị chủ trì hội thảo còn thay mặt diễn đàn để kiến nghị nhà nước giảm thuế cho các trường đại học, hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia đào tạo nguồn nhân lực. Tôi cho rằng những ý kiến này không khả thi, thậm chí rất khó thực hiện trong điều kiện hiện nay. Các doanh nghiệp cứ chê rằng nhà trường đào tạo không thực tế, Đúng. Nhưng nếu vậy thì doanyh nghiệp phải vào nhà trường để phối hợp đào tạo, mời sinh viên về để thực tập bởi đó là dịp tuyển chọn người tốt nhất.
Đây là mô hình đào tạo, một sự kết nối chặt chẽ giữa Sinh Viên-Nhà Trường-Doanh Nghiệp, qua đó vai trò sinh viên được chú ý và được đề cao hơn, ông Nguyễn Văn Mỹ khẳng định.
Được biết trong khuôn khổ diễn đàn Nguồn Nhân Lực Du lịch Việt Nam 2019, có 8 trường đào tạo sẽ ngồi lại với nhau để ký một văn bản liên kết đào tạo.
Giám đốc Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh, ông Bùi Tá Hoàng Vũ, bày tỏ niềm hy vọng diễn đàn không chỉ giúp ngành du lịch thành phố tìm giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn giúp thành phố trở thành trung tâm đào tạo nhân lực du lịch cao cho cả nước.
Thanh Trúc
****************
Đặt lại vấn đề kỷ luật cán bộ hưu trí và công chức suốt đời (RFA, 17/04/2019)
Trong Dự Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức vừa được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng 17/4 có hai đề xuất đáng chú ý là kỷ luật quan chức đã nghỉ hưu và bỏ ‘viên chức suốt đời’.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân phát biểu tại phiên họp thứ 33, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi trình bày Tờ trình về dự án Luật Cán bộ, công chức hôm 17/4/2019. Courtesy moha.gov.vn
Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc khi trao đổi với chúng tôi hôm 17/4 nhận định :
"Đây là nội dung của việc sửa đổi Luật công chức mà dự kiến trong kỳ họp thứ 7 này sẽ đưa ra bàn. Hai nội dung mà anh vừa nói (kỷ luật quan chức đã nghỉ hưu và bỏ ‘viên chức suốt đời’) thì tôi nghĩ đối với người ở các quốc gia khác thì chuyện ấy cũng là đương nhiên thôi, nhưng rõ ràng ở Việt Nam đã được phát hiện từ lâu mà chúng ta chưa điều chỉnh lại".
Phát biểu tại phiên họp thứ 33, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi trình bày Tờ trình về dự án Luật Cán bộ, công chức, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết, theo dự thảo luật cán bộ, công chức mới đưa ra, có bổ sung vào khoản 5 vào điều 78 của luật hiện hành quy định, nếu cán bộ sau khi nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát hiện có vi phạm và đã bị xử lý kỷ luật về Đảng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu 1 trong 3 hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo hoặc xóa tư cách, chức vụ đã đảm nhiệm…
Điều khoản này trước đây từng được bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Lê Vĩnh Tân, khi trả lời chất vấn của các đại biểu quốc hội nhìn nhận việc kỷ luật hành chính đối với ông cựu bộ trưởng công thương Vũ Huy Hoàng là vấn đề khó vì chưa có tiền lệ.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 17/4/2019, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Chánh văn phòng Quốc hội Việt Nam, nhận định :
"Có lẽ người ta đưa ra biên bản đó vì người ta muốn xử lý chức vụ, thời kỳ đang làm việc, đang tại chức. Vừa qua có trường hợp ông Bộ trưởng đã nghỉ hưu rồi vẫn xử lý cách chức trong thời kỳ ông ấy đang làm, cái sửa đổi lần này có lẽ người ta muốn nhắm đến hướng đó. Còn sai phạm về hình sự, hành chánh thì thời hiệu không phân biệt là cán bộ công chức hay người dân thường. Còn nếu có chức có quyền thì người ta sẽ xử lý cái chức trong thời kỳ mình sai phạm… Vừa qua đảng và nhà nước có cách chức một số người đã nghỉ hưu, mà vẫn cách chức trong thời kỳ đang làm. Có lẽ bây giờ người ta hợp thức hóa vấn đề đó".
Xin được nhắc lại, cựu Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng, đã bị cách chức bí thư Ban cán sự đảng giai đoạn 2011-2016 do có những sai phạm bổ nhiệm trong thời gian giữ chức vụ này. Và bị tước tư cách quyền bộ trưởng.
Luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng, bây giờ đưa vấn đề này ra để nhấn mạnh, những người đã nghỉ hưu không phải đã hạ cánh an toàn. Nếu sai phạm còn thời hiệu xử lý thì pháp luật không hạn chế. Theo ông, việc sửa đổi này thực tế cũng phù hợp với pháp luật, vì hành vi sai phạm còn thời hiệu.
Theo Luật sư Trần Quốc Thuận, về nguyên tắc, xử lý hành chánh hay hình sự có thời hiệu, tùy sai phạm nặng nhẹ, thời hiệu sẽ là 6 tháng, 1 năm, 5 năm, 10 năm hay 15 năm… khi sai phạm còn thời hiệu thì vẫn phải xử lý.
Ông Dương Trung Quốc nhận định :
"Về hưu thì người ta cho là hạ cách an toàn, chỉ lãnh lương hưu chứ không chịu trách nhiệm về những việc mình đã làm trong quá khứ, mà đâu phải sự việc gì cũng được phát hiện. Điều này tạo ra sự vô trách nhiệm đối với những việc mình làm, mình chỉ cần vượt qua thời kỳ đó là mình thoát. Điều này không có ở các nước khác, ngay cả lãnh đạo cấp cao như thủ tướng, tổng thống nếu sau này phát hiện sai phạm vẫn bị xử lý. Vì vậy rõ ràng đó là một yếu tố chúng ta thấy cần đưa vào luật".
Ảnh minh họa : Công chức làm việc Courtesy dongnai.gov.vn
Ông Dương Trung Quốc cho rằng, đây là một xu thế phù hợp, để nâng cao trách nhiệm của công chức khi còn đương nhiệm. Và rõ ràng nó không tạo an toàn cho bất kỳ ai, làm những việc làm sai trái, sai pháp luật, nhất là liên quan đến công quỹ của nhà nước.
Theo ông Lê Văn Cuông, nguyên Phó trưởng đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Thanh Hóa, trước đây có quy định khi chuyển công tác hay về hưu, thì những khuyết điểm trước đó có thể không được đề cập, không được xử lý. Chính điều này theo ông làm cho một bộ phận cán bộ công chức, cứ gần về hưu hoặc có hướng chuyển công tác, đã không nghiêm túc thực hiện trách nhiệm công vụ của mình, lợi dụng thời gian quá độ này để làm những điều pháp luật không cho phép. Ông nói tiếp :
"Vấn đề này làm xáo trộn trận tự xã hội và mất công bằng giữa những người nghiêm túc và những người lợi dụng sơ hở của pháp luật để tranh thủ làm chuyến tàu vét hoặc là tư duy nhiệm kỳ, để thực hiện ý đồ cá nhân hay tư lợi. Cho nên dư luận rất bất bình".
Cũng trong Dự Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức vừa được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội lần này việc bỏ ‘viên chức suốt đời’ cũng được nhắc đến.
Theo Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc, cái gọi là ‘viên chức suốt đời’ có lẽ là nối dài của việc người ta coi công chức là làm cách mạng :
"Tôi nhớ cách đây không lâu, khi khai lý lịch công chức thì có phần quá trình hoạt động cách mạng. Như vậy làm công chức không hoàn toàn là công việc của người làm công ăn lương trong bộ máy nhà nước. Có lẽ vì thế nó dẫn đến tình trạng cứ vào được biên chế coi như yên tâm, cứ chờ thăng tiến, trừ những trường hợp vướng sai lầm lớn mới bị kỷ luật. Nên đã tạo ra đội ngũ công chức mà sức ì rất lớn, sức phấn đấu không có, năng suất thấp. Nên người ta thấy điều này cần phải thay đổi trong luật".
Còn ông Lê Văn Cuông thì cho rằng, đây là một vấn đề rất tế nhị, liên quan đến cả một thể chế :
"Nó là một vấn đề rất tế nhị, liên quan đến cả một thể chế, trước đây khi tuyển dụng thì người ta chỉ an bài cho đến khi về hưu. Vấn đề thay đổi hay xử lý một cán bộ vi phạm cũng rất là khó, kể cả vấn đề ngồi chơi xơi nước, hiếm khi thay đổi các quy định pháp luật, hay cũng khó khăn để xử lý các trường hợp này. Cho nên nó làm trì trệ sự phát triển của xã hội và bất bình trong dư luận".
Ông Cuông cho rằng lần này, vấn đề bỏ "viên chức suốt đời" được cụ thể hóa bằng luật sẽ có tác dụng rất tốt, sẽ ngăn ngừa được tình trạng cố chạy chọt để có được một vé công chức.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, mọi người đều như nhau, có tội thì phải chịu tội, vi phạm thì phải bị xử lý, đó là điều đương nhiên, ai cũng tán thành.
Tuy nhiên ông Dương Trung Quốc lại cho rằng, tầng lớp công chức có vị thế riêng trong đời sống xã hội Việt Nam :
"Tầng lớp công chức có vị thế riêng trong đời sống xã hội Việt Nam, lý thuyết thì ai cũng bình đẳng trước pháp luật, nhưng rõ ràng công chức liên quan đến công việc nằm trong hệ thống của nhà nước".
Trong lúc dự luật đang thảo luận chứ chưa thông qua thì ông Dương Trung Quốc cũng dẫn chứng một số ý kiến cần suy nghĩ :
"Ở Việt Nam, đối với một công chức nắm chức vụ nào đó thì thường khi có sai sót gì thì họ luôn luôn đổ cho lịch sử, hoàn cảnh lúc đó dẫn đến sai sót đó… hay trách nhiệm tập thể… cả chi bộ đã thống nhất với nhau rồi… Nhưng chúng tôi là người dân hay nói ‘trách nhiệm tập thể nhưng tài khoản thì cá nhân’, lợi ích riêng tư thì bỏ túi được".
Cho nên ông Dương Trung Quốc cho rằng, vì vậy vấn đề này thường không giải quyết một cách dứt điểm được.
Trung Khang
******************
Thể chế và lợi ích nhóm : Nguyên do trì hoãn sửa đổi Luật Đất đai ? (RFA, 17/04/2019)
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai lại một lần nữa bị rút khỏi chương trình nghị sự tại kỳ họp Quốc hội vào tháng 5 tới. Như vậy là qua hai lần sửa đổi, luật vẫn quy định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý".
Cảnh sát chống bạo động đụng độ với người dân trong một vụ cưỡng chế đất ở tỉnh Nam Định, Hà Nội ngày 9 tháng 5 năm 2012. Reuters
Luật Đất đai của Việt Nam lần đầu tiên được ban hành ngày 8 tháng 1 năm 1988 do Chủ tịch Hội đồng nhà nước lúc đó là ông Võ Chí Công ký, sau đó được thay thế bằng Luật Đất đai năm 1993, có hiệu lực từ giữa tháng 10 cùng năm. Luật Đất đai năm 1993 đã được sửa đổi 2 lần vào năm 2003 và năm 2013.
Bà Cấn Thị Thêu, người phụ nữ Dương Nội từng bị tù vì lên tiếng đấu tranh về đất đai cho rằng Luật Đất đai cũ điều kiện có các quan chức cướp đất, chiếm đất của dân trên toàn lãnh thổ Việt Nam :
"Luật Đất đai cũ là một luật gây rất nhiều oan sai, tạo điều kiện có các quan chức cướp đất, chiếm đất của dân trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Luật này còn tồn tại ngày nào thì bà con còn đau thương ngày nấy, còn khổ ngày nấy. Hôm nay bà con cũng lên tiếng với ban tiếp dân của trung ương là phải mau chóng sửa đổi Luật Đất đai để bảo đảm quyền lợi của dân, chứ bây giờ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý thì họ cứ nhân danh Nhà nước thích cướp của ai thì cướp, thích thu của ai thì thu rồi tự định ra mức giá bồi thường, hỗ trợ gần như là cướp trắng của người dân.
Ví dụ đất Dương Nội có chỗ họ bán hàng trăm triệu một mét vuông nhưng họ trả cho dân có 201.600 đồng một mét vuông".
Chuyện thu hồi đất của dân rồi bồi thường với giá rẻ mạt gây ra là sóng phản đối, biểu tình khắp nơi từ Bắc tới Nam hàng chục năm qua.
Vụ biểu tình ở Tây Nguyên đòi đất, đòi tự do tôn giáo năm 2004 với gần 10.000 người tham gia đồng loạt ở các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai và Đắk Nông.
Đến năm 2012, nông dân các huyện Văn Giang, Hưng Yên, Dương Nội, Hà Đông, và xã Vân Hà huyện Đông Anh đã kéo về tập trung trước trụ sở tiếp dân của Mặt trận tổ quốc ở số 46, Tràng Thi, Hà Nội biểu tình khiếu kiện đất đai bị nhà cầm quyền địa phương trưng thu.
Tháng 10 năm 2016, hơn 60 hộ dân thuộc Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm biểu tình trước Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng và Quốc hội đòi hỏi quyền lợi khi đất đai của họ bị trưng thu và đền bù với giá rẻ mạt.
Mọi chuyện chưa được giải quyết thì xảy ra vụ cưỡng phá hàng trăm căn nhà tại vườn rau Lộc Hưng, TP.HCM ngay trước Tết Nguyên đán 2019.
Tại phiên thảo luận của Quốc hội về kinh tế - xã hội chiều ngày 25 tháng 5 năm 2018, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ Cương - Phó chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại nhấn mạnh "Không thể cứ kéo dài mãi tình trạng thu hồi hàng nghìn mét vuông đất, dù chỉ là đất ruộng, thậm chí đất không thể canh tác được, nhưng sau khi được đền bù thì người dân không mua nổi một suất đất hay một căn chung cư của chính dự án để sinh sống".
6666666666666666
Người dân Nam Định phản đối cưỡng chế đất bị cảnh sát cơ động đàn áp hôm 9/5/2012. Reuters
Năm 2013, cùng với đợt sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội Việt Nam đưa ra dự thảo sửa đổi về Luật Đất đai với những tranh luận sôi nổi về việc đất đai thuộc sở hữu của ai, và thu hồi đất đai như thế nào. Luật Đất đai sửa đổi chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2014.
Trao đổi với RFA vào thời điểm đó, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Tư vấn kinh tế cho Thủ tướng Chính phủ nhận định rằng, muốn phát triển kinh tế và ổn định xã hội thì nên chấp nhận hình thức đa sở hữu, bao gồm phần của Nhà nước, phần của tư nhân, của doanh nghiệp, đoàn thể, hoặc tôn giáo. Bà nói thêm :
"Tôi rất tiếc về việc cho đến bản dự thảo hiện nay Nhà nước vẫn còn muốn thiên về hướng duy trì quyền sở hữu Nhà nước về đất đai. Tôi ở trong số những người có đề xuất khi tiến tới sửa đổi Luật Đất đai, theo đó nên công nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau".
Cho đến bây giờ Nhà nước Việt Nam vẫn quyết tâm duy trì đất đai là sở hữu toàn dân như một cách khẳng định quyền sở hữu này thuộc về Nhà nước cho dù người dân mong muốn cải cách. Thêm vào đó, luật này một lần nữa không được xem xét vào kỳ họp Quốc hội sắp tới. Bà Cấn Thị Thêu nêu ý kiến về việc này :
"Chính phủ Việt Nam là một chính phủ tham nhũng và không vì dân, cho nên nếu trì hoãn sửa đổi Luật Đất đai ngày nào thì họ còn có cơ hội cướp đất của dân ngày nấy".
Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc, một luật sư hỗ trợ pháp lý cho người dân Lộc Hưng ở Sài Gòn cho rằng chương trình xây dựng luật do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết và việc thay đổi lịch trình thảo luận và thông qua các dự án luật là chuyện thường xảy ra, và ông đưa ra nhận định :
"Đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai bị lùi lại giữa lúc tình hình đất đai trong nước đang nóng khiến cho dư luận đặt vấn đề liệu sự chậm trễ có liên quan gì đến "nhóm lợi ích" đang thao túng nguồn tài nguyên đất đai hay không ?
Theo chúng tôi, trong tình hình hiện nay Quốc hội cần nỗ lực và khẩn trương hoàn thiện Luật Đất đai, một đạo luật đặc biệt quan trọng chi phối toàn bộ đời sống xã hội, khắc phục nhiều điều khoản bất hợp lý, thậm chí gây ra bất công, phát sinh môi trường thuận lợi cho tham nhũng, gia tăng khiếu kiện, tạo mầm mống bất ổn xã hội...
Tuy nhiên, hoàn thiện Luật Đất đai ở Việt Nam là chuyện quá khó khăn, thậm chí là không thể, bởi nó vướng đến yếu tố thể chế và thiết chế xã hội, đến tương quan lực lượng chống tham nhũng và tham nhũng... Chính vì thế, Luật Đất đai là đạo luật được sửa đổi và bổ sung nhiều lần nhưng cũng là đạo luật có nhiều lỗ hổng và bất cập".
Theo số liệu Tổng Cục Quản Lý Đất Đai thuộc Bộ Tài Nguyên - Môi trường thì năm 2016 có hơn 2.000 vụ khiếu kiện đất đai ; năm 2017 có trên 3.500 đơn khiếu nại về đất đai.
Tại buổi báo cáo trước Quốc hội công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018, Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Minh Khái nêu rõ các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người chủ yếu thuộc lĩnh vực đất đai, trong đó có những vụ việc đã được nhiều cơ quan giải quyết nhưng công dân không đồng ý, tiếp tục khiếu nại với thái độ bức xúc.
Diễm Thi
Tuần trước, báo chí Việt Nam đồng loạt chọn câu chuyện mà bà Hà Bích Liên, một tiến sĩ làm việc tại Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, kể tại tọa đàm "Công tác quản lý nhà nước về du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh - 25 năm thành công và thách thức", do Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, làm "điểm nhấn".
Tọa đàm "Công tác quản lý nhà nước về du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh - 25 năm thành công và thách thức" sáng 16/08/2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh
Theo đó, hồi trung tuần tháng 4 vừa qua, tàu Ovation of The Seas với thủy thủ đoàn 1.600 người, chở theo 4.000 du khách ngoại quốc đến Thành phố Hồ Chí Minh nhưng chẳng ai lên được bờ vì lúc đó các tàu chở hàng đậu kín cảng Phú Mỹ, tàu Ovation of The Seas không có chỗ thả neo.
Bà Liên kể thêm rằng, tình trạng không có bến để các tàu du lịch loại cực lớn (cruise) đưa du khách đến thăm thú Sài Gòn cũng là nguyên nhân khiến tàu Voyager of the Seas, chở 2.800 du khách gạt Sài Gòn ra khỏi hải trình vào đầu tháng 9 tới. Tương tự, tàu Ovation of The Seas, chở theo 4.800 du khách khác cũng đã hủy kế hoạch ghé Sài Gòn vào đầu tháng 10 tới. Bà Liên nhấn mạnh, đó là lý do nhiều công ty lữ hành mất khách, các cơ sở cung cấp đủ loại dịch vụ ở Thành phố Hồ Chí Minh, kể cả chính quyền thành phố này bỏ lỡ những nguồn thu lớn.
Bà Liên dẫn Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam - ưu tiên phát triển du lịch, trong đó có du lịch đường biển – như một công cụ hỗ trợ để nhấn mạnh, đó là chuyện "không thể chấp nhận được". Các cruise thường chở từ 3.000 đến 5.000 du khách, chủ yếu là du khách từ Châu Âu, mức chi tiêu trung bình khoảng 100 Mỹ kim/người chẳng khác gì cơ hội hái ra tiền, thành ra không thể ngồi chờ tới khi xây dựng xong cảng chuyên dụng cho cruise, hệ thống công quyền tại Thành phố Hồ Chí Minh phải hành động ngay lập tức, trước khi các hãng kinh doanh du lịch đường biển bỏ đi.
Tiếp lời bà Liên, ông Bùi Tá Hoàng Vũ, Giám đốc Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, giải thích, sở dĩ chủ các cảng hiện có ở thành phố này không mặn mà với cruise vì phí thu được từ các cruise (30.000 Mỹ kim/lần neo đậu) chỉ chừng 1/7 phí thu từ các tàu chở hàng (230.000 Mỹ kim/lần neo đậu). Ông Vũ tiết lộ, bởi cảng chuyên dụng cho các cruise là một "vấn đề cẩn giải quyết" nên Thành phố Hồ Chí Minh sẽ xây dựng "đô thị lấn biển Cần Giờ" với những cảng đủ khả năng đón các tàu siêu trường, siêu trọng (1).
Tọa đàm "Công tác quản lý nhà nước về du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh - 25 năm thành công và thách thức", với câu chuyện hàng chục ngàn du khách ngoại quốc không có chỗ lên bờ chắc chắn sẽ còn được lập đi, lập lại nhiều lần để minh họa cho chủ trương xây dựng "đô thị lấn biển Cần Giờ" của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh hồi cuối năm trước, được ví von như "siêu dự án du lịch – nghỉ dưỡng". Đến giờ, người ta chỉ biết diện tích "đô thị lấn biển Cần Giờ" khoảng 2.870 héc ta, trong đó khoảng 1.140 héc ta là lấn biển. Tổng chi phí cho "đô thị lấn biển Cần Giờ" chưa được công bố nhưng chắc chắn sẽ là hàng trăm ngàn tỉ (2). Trước mắt, chỉ tính riêng chi phí xây dựng cầu Cần Giờ (một trong những cây cầu thuộc dự án "đô thị lấn biển Cần Giờ"), chi phí đã là 5.300 tỉ (3).
Rõ ràng du lịch là một lĩnh vực đóng góp đáng kể cho tăng trưởng nhưng có cần "ưu tiên phát triển du lịch" trên khắp Việt Nam bằng mọi giá như Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam định hướng qua Nghị quyết 08 ? Đôi cánh của các cruise có quan trọng tới mức dứt khoát phải kiếm… một cặp, không có là… "không thể chấp nhận được" ?...
***
Cách nay bốn tháng, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên thế giới rúng động trước phản ứng dữ dội của những cư dân Venice.
Cho dù rất quan tâm hay chẳng màng đến chuyện đi đó, đi đây, ít có ai thuộc nhóm chưa bao giờ nghe nhắc đến Venice. Quần đảo với 118 đảo to, nhỏ, nối với nhau bằng 409 cây cầu nằm ở Đông Bắc nước Ý thu hút khách thập phương không chỉ vì sự cổ kính mà còn vì nét độc đáo được tạo ra từ hệ thống kênh rạch chằng chịt của nó. Du lịch gắn với Venice từ thế kỷ 18 đến giờ nhưng cư dân Venice không những không vui mà còn căm thù du lịch, oán giận du khách.
Hồi cuối tháng 4 vừa qua, dân chúng Venice đổ ra đường, giật tung, phá sập hệ thống hàng rào mà cảnh sát Venice sử dụng để kiểm soát – hạn chế du khách vào khu vực trung tâm. Sở dĩ dân chúng Venice trở thành cuồng nộ vì giải pháp mà ông Luigi Brugnaro - Thị trưởng Venice - đề ra bị họ cho là… ba rọi, không thể cứu được Venice đang hấp hối. Họ đòi Venice phải là chỗ dành riêng cho cư dân Venice, họ không muốn Venice thành túi chứa du khách từ khắp nơi đổ về nữa (4).
Với cư dân Venice, du lịch là đại họa. Năm ngoái, mỗi ngày, khoảng 60.000 du khách đổ vào khu vực chỉ có 55.000 dân này và mười năm vừa qua, chính du lịch đã lộn ngược mọi thứ từ trong ra ngoài. Du lịch không chỉ gây ra đủ loại tác hại nghiêm trọng cho cả môi trường tự nhiên lẫn sinh hoạt xã hội mà còn đẩy vật giá ở Venice tăng vọt, càng ngày vượt càng xa tầm với của cư dân Venice thành ra đã có rất nhiều người ngậm ngùi lìa bỏ nơi họ sinh ra, trưởng thành, từng tưởng có thể gắn bó đến hết đời.
Tuy có tới 30 triệu du khách/năm nhưng từ 2016 đến nay Venice mấp mé bên bờ vực phá sản do chi tiêu quá mức, đầu tiên là để thu hút du lịch, kế đó là khắc phục những hậu quả do chính du lịch tạo ra mà nguồn thu từ du lịch không thể nào bù đắp được. Từng tỏ ra hết sức tự hào vì luôn được các công ty kinh doanh du lịch đường biển tô vẽ như một vết son nhưng năm 2013, chính quyền Venice cấm tất cả các cruise có trọng tải từ 40.000 tấn trở lên đến Venice. Sau đó, một Tòa án của Ý tuyên bố hủy lệnh cấm này vì vi phạm luật pháp hiện hành nhưng nhiều công ty kinh doanh du lịch đường biển loan báo sẽ ngưng đưa các cruise "siêu trường, siêu trọng" đến Venice để bày tỏ sự đồng cảm với những bất tiện mà cư dân Venice phải gánh chịu do du lịch nói chung và các cruise nói riêng, cho đến khi Venice tìm được giải pháp hữu hiệu để có thể tự bảo vệ chính nó từ những tác động bất lợi của du lịch (5).
UNESCO từng xác định Venice là "di sản văn hóa thế giới". Năm ngoái, cũng UNESCO đưa Venice vào danh sách những "di sản văn hóa thế giới" đang đối diện với nguy cơ bị hủy diệt. Cần lưu ý rằng, trước kia, trong danh sách vừa kể chỉ có tên những "di sản văn hóa thế giới" tọa lạc tại các quốc gia đang bị chiến tranh tàn phá !
Du lịch phát triển kéo theo nhiều vấn nạn và những vấn nạn ấy càng ngày càng nghiêm trọng. Không phải tự nhiên mà giới nghiên cứu khoa học xã hội cảnh báo về đến "bẫy du lịch". Không phải tự nhiên mà ở Châu Âu, hết Hy Lạp rồi tới Croatia ấn định số lượng du khách được phép đến đảo Santorini và Dubrovnik hàng năm. Hy Lạp hay Croatia cùng giải thích, đó là phương thức duy nhất để bảo vệ những danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa của họ không bị du lịch hủy diệt (6).
***
Nếu đặt cảnh báo của Tiến sĩ Hà Bích Liên, hứa hẹn của ông Bùi Tá Hoàng Vũ, kế hoạch phát triển "đô thị lấn biển Cần Giờ" của Thành ủy, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh bên cạnh những vấn nạn nan giải của Venice hẳn sẽ thấy những bức xúc, trăn trở, đòi hỏi phải có ngay giải pháp để sớm rước những cruise "siêu trường, siêu trọng" từ khắp nơi trên thế giới vào Sài Gòn vì chúng mang theo vài ba ngàn du khách/chuyến, mỗi du khách có thể chi tiêu tới… 100 Mỹ kim là một dạng "có mắt như mù", "điếc không sợ súng".
Từ khi Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, du lịch trở thành lĩnh vực được dành cho đủ thứ ưu tiên để phát triển bằng mọi giá, có bao nhiêu khu vực ở Việt Nam đã và sẽ tan hoang ? Nếu so sánh thật sòng phẳng lợi - hại, được – mất giữa kinh tế - văn hóa – xã hội, kể cả chính trị ở quá khứ - hiện tại - tương lai, rồi cộng, trừ, nhân, chia thật rõ ràng, chính xác thì các kế hoạch thúc đẩy du lịch, những đổi thay ở Phú Quốc (Kiên Giang), Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Nam, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Quảng Ninh, dự tính thành lập ba đặc khu… là yên tâm hay đáng lo ?
Đến nay, tiền thu về từ chủ trương phát triển du lịch bằng mọi giá có đủ để bù cho những cảnh quan tự nhiên bị hủy diệt, bờ biển bị bao chiếm, hết chục ngàn gia đình ngư dân này đến trăm ngàn gia đình nông dân khác bị bứng khỏi nơi chôn nhau, cắt rốn, vài ba thế hệ hoang mang, bất bình vì mất sinh kế ?... Những cá nhân vạch ra đường lối, công bố chủ trương, hoạch định chính sách dường như chỉ nhìn thấy sự lấp lánh của kim ngân, không nhận ra và cũng chẳng học được gì bổ ích từ thiên hạ nên chỉ bươn bả xúm vào "phát triển du lịch".
Giữa năm ngoái, tờ Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí Minh đăng tâm sự của ông Trần Đức Tài – cư dân Đà Lạt. Ông Tài kể một câu chuyện liên quan tới du lịch ở Barcelona – Tây Ban Nha (7) và đem câu chuyện ấy so với Đà Lạt của ông.
Tuy Đà Lạt cũng có nhiều cư dân không sống nhờ du lịch và chính họ tạo ra hồn, cốt riêng để thành phố này phát triển du lịch, song phát triển du lịch theo kiểu bằng mọi giá đã triệt tiêu bản sắc văn hoá bản địa độc đáo – vốn tạo ra sức quyến rũ của Đà Lạt. Ông Tài than, dân Đà Lạt đã bị loại trừ ngay tại thành phố nơi họ sống. Chẳng hạn những quán cà phê hay quán phục vụ điểm tâm giờ không còn chỗ cho cư dân nào ngồi vì du khách đã chiếm hết. Đi chơi, du khách có thừa thời gian nhưng cư dân không thể đợi chờ vì họ còn phải đi làm, đi học cho đúng giờ. Kẹt xe giờ trở thành chuyện bình thường ở khu vực trung tâm Đà Lạt vì đường quá hẹp và lượng xe hơi, xe buýt chở khách du lịch quá đông. Đà Lạt vẫn mát lạnh nhưng đã hết bình yên (8).
Du lịch đã được Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam xác định là một trong những "mũi nhọn" của nền kinh tế. "Mũi nhọn" đó đang đâm thủng "phát triển bền vững" và vết tóac càng ngày càng rộng.
Trân Văn
Nguồn : VOA, 22/08/2018
Chú thích :
(5) https://en.wikipedia.org/wiki/Venice
(7) Năm 2015, sau khi trở thành Thị trưởng Barcelona, ông Ada Colau ra lệnh ngưng cấp giấy phép xây dựng khách sạn ở trung tâm thành phố. Đến đầu năm 2017, dù du lịch chiếm 12% GDP, chính quyền Barcelona vẫn đóng cửa tất cả các cơ sở lưu trú ở khu vực trung tâm, nâng phí ở các bãi đậu xe dành cho xe chở khách du lịch để hạn chế du khách. Tại sao vậy ? Tại vì du lịch đã tạo ra một gánh quá nặng mà dân chúng địa phương không kham nổi và chính quyền thành phố này hiểu rằng, đầu tiên, Barcelona phải là nơi giúp cư dân của nó sống, làm việc ổn định. Barcelona không thể vứt bỏ điều đó để trở thành khu giải trí phục vụ du khách quốc tế.
(8) https://www.phunuonline.com.vn/thoi-su/goc-nhin/nguoi-dan-da-lat-la-nhung-ai-102705/
Trong phiên họp tổ Quốc hội ngày 24 tháng 10, khi nhắc đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đưa ý kiến cho rằng "Thà tăng 1 triệu du khách còn hơn hút thêm 1 triệu tấn dầu".
Hàng trăm con diều được thả lên tại Festival diều quốc tế năm 2017 tổ chức ở biển Tam Thanh, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. AP
Định hướng chiến lược của vị Phó Thủ tướng đề nghị được kinh tế gia Ngô Trí Long hiểu là "tiến hành đẩy mạnh tăng trưởng theo cải cách cơ cấu".
"Cái ý tưởng này thể hiện là Việt Nam cũng theo một xu hướng chung là phải tái cơ cấu là làm sao tăng trưởng chất lượng dịch vụ, làm sao tăng trưởng phần giá trị gia tăng, chứ tăng trưởng theo số lượng, ví dụ như tăng trưởng do khai thác dầu, xây dựng nhiều tượng đài, cổng chào hay xây những cái không trực tiếp phục vụ sản xuất thì cái đó cũng không phản ảnh đúng chất lượng tăng trưởng".
Với những con số thống kê cụ thể được đưa ra như khai thác dầu thô năm 2017 chỉ đạt 13,28 triệu tấn, giảm 3 triệu tấn so với năm 2016 và giảm 4,54 triệu tấn so với năm 2015, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng Việt Nam đang đối mặt với sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế, vì theo ông cứ 1 triệu tấn dầu thô giảm thì GDP giảm 0,25%, 3 triệu tấn là giảm 0,75%.
Khách du lịch ở Việt Nam - Ảnh minh họa (AFP)
Giải thích rõ thêm tình trạng này, kinh tế gia Ngô Trí Long cho biết thời gian trước đây, khi nền kinh tế nước nhà không đạt được đến chỉ tiêu của Quốc hội đề ra, thì những người lãnh đạo trước hay dùng phương pháp khai thác khoáng sản nhiều hơn để bù đắp sự thiếu hụt của tăng trưởng.
"Nhưng năm 2017, quí I tăng thấp nhất so với quí I của nhiều năm. Quí II cũng rất thấp nên người ta bảo nhau rằng phải chăng chỉ nên khai thác tài nguyên để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng hay không ?"
Và câu trả lời của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ là "Thà tăng 1 triệu du khách còn hơn hút thêm 1 triệu tấn dầu".
Ngược lại với sự sụt giảm của ngành công nghiệp khai khoáng, theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, dịch vụ du lịch 9 tháng đầu năm 2017 đã đóng góp 3,2% điểm tăng trưởng trong 6,7% tăng trưởng GDP.
Nhưng theo kinh tế gia Ngô Trí Long, những con số này chưa có sự kiểm chứng. Ông nói thêm, các đại biểu quốc hội đã đề nghị phải làm rõ sự tăng trưởng này về mặt chất lượng như thế nào ?
Đó cũng là ghi nhận của ông Nguyễn Văn Mỹ, Chủ tịch Công ty Lửa Việt tour. Trước tiên, ông cho rằng định hướng của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ có thể hiện "sự chuyển động trong suy nghĩ của những nhà lãnh đạo".
"Đặc biệt từ lúc Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lên, có lẽ ông Phúc trước đây từng là giám đốc Sở Du lịch tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng nên ông hiểu vấn đề du lịch tương đối kỹ hơn cùng với xu thế chung của các nước".
Tuy nhiên theo ông Mỹ, làm thế nào để đạt được con số 1 triệu khách du lịch hoặc nhiều hơn nữa mới chính là vấn đề quan trọng trong dẫn đến hiệu quả của sự tăng trưởng đúng nghĩa, hay nói cách khác phát triển kinh tế bền vững. Nếu không có giải pháp, chiến lược rõ ràng, thích hợp thì định hướng của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề ra "cũng chỉ mang tính tương đối, khái quát và biểu tượng".
Ông Nguyễn Văn Mỹ đặt câu hỏi về số liệu cụ thể 1 triệu tấn dầu sẽ mang đến bao nhiêu tiền so với 1 triệu khách du lịch ? Ngoài ra, ông Mỹ bày tỏ sự lo ngại về khả năng thực thi trong cơ cấu nhân sự.
"Mình cần phải phân biệt nói là một chuyện, làm được hay không là một chuyện khác. Ví dụ, chính phủ Việt Nam từng tuyên bố rằng không chấp nhận phát triển kinh tế bằng mọi giá để đánh đổi môi trường. Nhưng thực tế có khi chứng minh ngược lại. Nên có khi lãnh đạo nói thế nhưng bên dưới không làm thì sao ?
Cho nên, cách tăng trưởng 1 triệu khách chỉ là 1 cách nói khái quát và hình tượng".
Câu hỏi thực tế được ông Nguyễn Văn Mỹ đặt ra là 1 triệu khách du lịch ấy là ai ? Có thật sự mang đến sự tăng trưởng cho du lịch Việt Nam nói riêng là kinh tế Việt Nam nói chung hay không ?
"Một triệu khách Tây balo thì thu được bao nhiêu ? 1 triệu khách Trung Quốc đi đường thì đâu có mua gì toàn hàng của họ ? Mua làm chi ? Mua bánh đậu xanh mang về thì chẳng ăn thua. Có khi tiền mình thu được chưa chắc đã đủ trang trải các chi phí vận hành, giữ vệ sinh, bảo vệ an ninh trật tự…
Cho nên cách nói 1 triệu khách chỉ là cách nói hơi biểu tượng".
Hoàn toàn đồng ý với nhận định của ông Chủ tịch công ty Lửa Việt tour, kinh tế gia Ngô Trí Long khẳng định "tăng trưởng thì phải đảm bảo tăng trưởng về mặt chất lượng, nếu chỉ số lượng thì chưa đánh giá được".
"Chất lượng mới là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng phát triển bền vững để tránh bị tụt hậu của nền kinh tế. Chất lượng của tăng trưởng thể hiện rất nhiều vấn đề"
Hàng loạt những vấn đề được kinh tế gia Ngô Trí Long nêu ra như chỉ tiêu tăng năng suất lao động xã hội ; chất lượng, hiệu quả ; xã hội không có sự phân hoá ; không ảnh hưởng đến môi trường, hoặc chất lượng tăng trưởng phải đảm bảo được tiếng nói dân chủ…
Mặc dù rất hoan nghênh và vui mừng với lựa chọn tăng trưởng kinh tế do Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đưa ra, nhưng ông Nguyễn Văn Mỹ vẫn thấy rằng cần phải có những số liệu về tăng trưởng cụ thể hơn, ví dụ như số liệu báo cáo về tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận từ du lịch để biết chỗ nào cần khắc phục và phát huy.
Bên cạnh đó, một vấn đề mang tính kinh tế chiến lược mà ông cho rằng cần phải làm rõ.
"Khách tăng thì mình phải tìm ra nguyên nhân tại sao tăng và công đó thuộc về ai ? Khách giảm thì mình phải tìm ra nguyên nhân tại sao giảm, và lỗi này thuộc về ai ?
Ở Việt Nam, tăng thì khen, mà chả biết khen ai ? Rồi lúc xuống thì cũng chả biết trách nhiệm thuộc về ai cả ? Một khi mình không rõ nguyên nhân thì phát triển bền vững rất khó vì nó sẽ trồi sụt bất thường".
Đưa ra nhận định cá nhân ở góc cạnh vĩ mô hơn, kinh tế gia Ngô Trí Long kết luận rằng bối cảnh Việt Nam hiện nay, tăng trưởng về số lượng nhưng phải hết sức coi trọng về chất lượng, và đặc biệt là những ngành, lĩnh vực, có hiệu quả.
Cũng dựa theo đó, một số chuyên gia nhận xét rằng, định hướng chiến lược tăng trưởng của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ có vẻ như vẫn còn thiếu những yếu tố khác để có thể giúp đẩy mạnh mức tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam.
Cát Linh, RFA
*******************
Mạng Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng (SCMP) vào ngày 23 tháng 10 loan tin dẫn lời của bí thư thành phố Tam Sa, đơn vị quản lý hành chánh khu vực các đảo và vùng nước tại Biển Đông do Trung Quốc lập nên trên đảo Phú Lâm, cho biết kể từ đầu năm 2017 đến nay có 59 đoàn du khách Hoa Lục ra tham quan quần đảo Hoàng Sa.
Khách du lịch Trung Quốc chụp hình kỷ niệm với quốc kỳ Trung Quốc ở đảo Toàn Phú thuộc quần đảo Hoàng Sa hôm 14/9/2014 - AP
Phát biểu của vị bí thư thành phố Tam Sa đưa ra bên lề Đại hội đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 ở Bắc Kinh. Con số 59 đoàn du khách đi thăm Hoàng Sa như thế còn được cho biết tăng 20% cả về số đoàn và số du khách so với năm 2016.
Tính từ năm 2013 khi tour du lịch biển đầu tiên được tổ chức đi Hoàng Sa, số du khách đến tham quan địa danh này đến nay tổng cộng hơn 39 ngàn người. Mỗi tour bốn ngày- ba đêm đưa du khách đến các đảo Áp Công (Yagong), Toàn Phú (Quanfu) và Ngân Tự (Yinyu). Hai hoạt động dành cho khách tham quan Hoàng Sa là lễ thượng kỳ và xem các tài liệu tuyên truyền về lòng yêu nước.
Ngoài hai hoạt động như vừa nêu là tham dự lễ chào cờ và xem tài liệu tuyên truyền cho lòng ái quốc, du khách Hoa Lục còn được lặn biển, thăm các làng chài địa phương.
Tàu đưa du khách đi Hoàng Sa khởi hành từ thành phố Tam Á trên đảo Hải Nam và khi kết thúc tua cũng tại Tam Á, Hải Nam.
Bí thư Thiên Tường của đơn vị hành chánh Tam Sa còn nói rõ tua du lịch Tây Sa ( từ mà Trung Quốc gọi Hoàng Sa) càng ngày càng trở nên phổ biến đối với giới du khách Hoa Lục. Đây cũng là điểm thu hút mới của ‘nền công nghiệp không khói’ tỉnh Hải Nam.
Mạng Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng dẫn lời của một nhân viên lữ hành tại thành phố Tam Á khi chào bán tour đi Hoàng Sa rằng nước ở đó rất sạch mà hiếm nơi nào khác ở Hoa Lục có được. Người này xác nhận năm nay tour đi Hoàng Sa bán chạy hơn năm ngoái. Tuy nhiên, người nhân viên lữ hành này bày tỏ sự lo ngại không rõ về khả năng phát triển thị trường trong năm tới bởi tất cả phụ thuộc vào chính sách của nhà nước Trung Quốc.
Chính sách đưa du khách người Hoa Lục đến thăm những đảo do Trung Quốc quản lý tại Biển Đông được giới chuyên gia dự báo trước đây. Theo các nhà quan sát thì chính sách này nằm trong chiến lược dài hạn của Bắc Kinh trong việc độc chiếm Biển Đông.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên Giới Chính Phủ Việt Nam, trong một lần nói chuyện với Đài Á Châu Tự Do trong năm 2017, nhắc lại ý đồ của Bắc Kinh đối với khu vực Biển Đông :
"Có thể thấy rằng Trung Quốc là nước luôn tìm mọi cách để thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông theo yêu sách đường 9 đoạn, mà chúng ta gọi là đường lưỡi bò. Họ bằng mọi thủ thuật, mọi thủ đoạn đề làm bằng được điều đó.
Như các bạn đều biết không chỉ đối với Việt Nam họ đánh chiếm Hoàng Sa và đánh chiếm một số thực thể tại Trường Sa ; mà đối với Philippines họ chiếm quyền kiểm soát tại Bãi cạn Scaborough. Ai cũng biết họ sử dụng mọi thủ thuật, thủ đoạn về quân sự, ngoại giao, gây sức ép về kinh tế…Không chỉ Việt Nam thấy mà ai cũng thấy, thế giới cũng thấy".
Trung Quốc tự vạch ra đường đứt khúc 9 đoạn và tuyên bố chủ quyền gần đến 90% tại khu vực có tuyến đường biển quan trọng từ Ấn Độ Dương ở phía nam qua Thái Bình Dương lên đến Bắc Á.
Vào tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc tế (PCA) ở La Haye ra phán quyết cho vụ Philippines kiện Trung Quốc về đường đứt khúc 9 đoạn. PCA tuyên rằng đường đứt khúc để tuyên bố chủ quyền như thế không có giá trị cả về mặt lịch sử cũng như pháp lý.
Trước thời điểm có phán quyết của PCA về đường đứt khúc 9 đoạn, Bắc Kinh cho gấp rút bồi lấp, cải tạo 7 bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Trên những đảo nhân tạo đó, Bắc Kinh tiến hành xây dựng những cơ sở hạ tầng mà theo hình ảnh vệ tinh ghi nhận được gồm các đường băng, nhà chứa máy bay, các công trình kiên cố…
Thực tế cho thấy Trung Quốc làm thay đổi hiện trạng những thực thể đang tranh chấp giữa Bắc Kinh và các nước khác trong khu vực. Điều này được qui định trong Tuyên Bố Ứng Xử của Các Bên tại Biển Đông (DOC) mà Bắc Kinh và các nước ASEAN ký kết vào năm 2002.
Vừa tháng 8 qua, ASEAN và Trung Quốc đạt được thống nhất về dự thảo khung Bản Quy Tắc Ứng Xử của Các Bên tại Biển Đông (COC). Đây là bước từng được đề ra từ khi ký kết DOC và các bên kỳ vọng COC mang tính ràng buộc hơn DOC.
Bấy lâu nay Trung Quốc chỉ muốn đàm phán song phương với các nước có tranh chấp chủ quyền lãnh hải tại khu vực Biển Đông mà thôi ; tuy nhiên vấn đề như tiến sĩ Trần Công Trục cho biết thì cả thế giới đều quan tâm và biết rõ nên Trung Quốc gần đây dường như có thay đổi chiến thuật.
Đề nghị hợp tác trong khai thác tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông được đưa ra và mới nhất là chuyện diễn tập chung tại khu vực ‘nóng’ này.
Tin tức vào ngày 24 tháng 10 cho biết Trung Quốc và 10 nước thuộc Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm tới có thể tiến hành diễn tập hải quân chung theo như đề nghị từ Bắc Kinh.
Mặc dù chi tiết cụ thể của hoạt động diễn tập chung như thế chưa được công bố ; nhưng giới quan sát đều dự đoán chắc chắn sẽ gồm những hoạt động dẫn đường, phát tín hiệu, cứu hộ- cứu nạn.
Người đứng đầu nhóm chuyên nghiên cứu toàn cầu sự vụ thuộc Đại học Yale-NUS của Singapore, thì nói hoạt động diễn tập hải quân chung Trung Quốc- ASEAN hẳn sẽ đưa vào thi hành Bộ Qui Tắc Ứng xử Trong những trường hợp đối đầu không lường trước trên biển (CUES) mà các bên đạt được vào năm 2014.
Một số nước như Singapore thì cho rằng đó là cách thức để xây dựng lòng tin giữa các bên trong khu vực. Tuy vậy, thực tế cho thấy Trung Quốc đã thành công phần nào trong chiến lược ‘tằm ăn dâu’ của họ tại khu vực Biển Đông, sau khi biến quần đảo Hoàng Sa và một số thực thể tại Trường Sa là nơi phải có phép của Trung Quốc mới được đặt chân đến. Đơn cử như tua du lịch biển Hoàng Sa chỉ dành riêng cho công dân Hoa Lục mà thôi.
Khách Nga rộn ràng quay lại, người Việt giang tay đón (Đất Việt, 03/01/2017)
Việc du khách Nga quay trở lại không chỉ là tin vui cho Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn là yếu tố thúc đẩy ngành du lịch chủ động và phát triển mạnh hơn.
Tăng sức cạnh tranh điểm đến
Ngày 30/12, Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với một số đơn vị liên quan đón 280 khách du lịch Nga bằng máy bay riêng (charter flight) của tập đoàn Pegas Touristik, một trong những đơn vị tiên phong đưa khách Nga vào Việt Nam.
Trước thông tin trên, trao đổi với Đất Việt, ngày 30/12, ông Lã Quốc Khánh, Phó Giám đốc Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, đây là chuyến thuê bao đầu tiên đưa du khách Nga đến thành phố sau 2 năm tạm ngưng (từ 28/10/2014).
Nói cụ thể thêm, ông Khánh cho hay : "Tập đoàn Pegas quay trở lại là vì họ đã giải quyết được mối quan hệ giữa Nga - Thổ Nhĩ Kỳ một cách hữu hảo. Trước đây, tập đoàn Pegas bị Nga chặn lại việc phát triển, giờ khi giải quyết xong nội bộ, thì họ quay trở lại Việt Nam bằng các chuyên cơ.
Trước khi khách Nga quay trở lại đây, thì chúng tôi đã bàn với bên Pegas các hình thức liên kết điểm đến. Trước đây, khách đến Thành phố Hồ Chí Minh rồi lại trung chuyển qua Mũi Né, Phan Thiết. Giờ chúng tôi đưa ra 2 hành trình mới, đó là bến Thành phố Hồ Chí Minh đi Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh ra Phú Quốc.
Du khách Nga quay trở lại Thành phố Hồ Chí Minh bằng máy bay thuê bao
Như vậy, khi đến Thành phố Hồ Chí Minh, du khách sẽ có thể đi ra 3 điểm mới, từ đó hình thành ra những sản phẩm du lịch, sẽ kéo dài thêm thời gian lưu trú, tăng được thêm chi tiêu của khách. Đây là một tín hiệu tích cực, giúp cho các địa phương có được sự chủ động trong việc kết hợp với nhau.
Nhất là sau đợt hợp tác giữa Thành phố Hồ Chí Minh - Kiên Giang trong chương trình năm du lịch quốc gia, chúng tôi phát hiện, du khách Nga rất thích khu vực này. Cùng với đó, chúng tôi đưa ra chương trình du lịch mới đi đến vùng biển Hồ Cốc, suối tắm khoáng nước nóng ở Bình Châu (Vũng Tàu).
Trước đây chúng tôi thúc đẩy chương trình này cho khách Trung Quốc, năm nay chúng tôi thúc đẩy cho du khách Nga. Nghĩa là phải đa dạng thêm các chương trình du lịch tham quan trong việc liên kết với địa phương khác, tăng sự hấp dẫn".
Bên cạnh đó, theo ông Khánh, lượng khách Nga thời gian qua đến Thành phố Hồ Chí Minh giảm vô cùng nhiều, họ đến các địa phương nhiều hơn là đến thành phố. Đầu tiên họ đến Thành phố Hồ Chí Minh là chính, nhưng sau đó họ lại đi thẳng đến các tỉnh như Khánh Hòa, Mũi Né.
Hơn nữa, lượng khách đến Thành phố Hồ Chí Minh - là do Tập đoàn Pegas thúc đẩy là chính, còn các hãng bay khác cũng làm nhưng số lượng không nhiều, đến bây giờ, Nga - Thổ Nhĩ Kì đã giải quyết xong, Pegas quay trở lại, khi đã có cơ hội thì chúng ta phải nắm bắt xu hướng thì mới thúc đẩy lại hợp tác này.
"Chúng tôi luôn xác định, Nha Trang vẫn có sự hấp dẫn của riêng mình nên Thành phố Hồ Chí Minh sẽ gây dựng hình ảnh đến đây sẽ có mua sắm, giải trí, đó là sức cạnh tranh của điểm đến. Hướng của chúng tôi là đa dạng điểm đến, sản phẩm du lịch để thu hút du khách.
Bên cạnh việc thu hút du khách Nga, chúng tôi cũng đang xúc tiến quảng bá để thu hút cả du khách Ấn Độ và Indonesia, hai thị trường rất tiềm năng, mới có đường bay, nhưng phải phát triển thêm thông tin, hiện công tác xúc tiến, quảng bá còn ít.
Nếu làm được thì đây sẽ là 2 thị trường tiềm năng cho ngành du lịch Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng", ông Khánh cho biết thêm.
Đà Nẵng hứa hẹn nhiều tin vui
Cũng là một địa phương được Pegas hứa hẹn có thêm nhiều chuyến bay thẳng đưa du khách Nga đến đây, trao đổi với Đất Việt, ông Trần Chí Cường - Phó Giám đốc Sở Du lịch Thành phố Đà Nẵng cho biết : "Nếu thực sự thị trường khách Nga quay lại và đến Đà Nẵng thì quá tốt, là dấu hiệu mừng với Đà Nẵng, vì chúng tôi luôn xác định Nga là thị trường tiềm năng, triển vọng, trong phát triển du lịch.
Mấy năm qua Đà Nẵng cũng có hoạt động xúc tiến tại thị trường này, nhưng đặc thù có nhiều sự khác biệt, Nga cũng có nhiều biến động, nên chưa thuận lợi cho chúng tôi khai thác.
Nếu có dịp này thì đúng là cơ hội rất lớn cho Đà Nẵng đưa vị thế của mình đến thị trường Nga, thu hút thị trường này. Hơn nữa, Pegas vẫn có quan hệ với Đà Nẵng trước đây, đã từng có vài chuyến bay thẳng, cũng đã làm việc, giờ thì tiếp tục xúc tiến".
Mặt khác, theo ông Cường, việc chuẩn bị cho thị trường Nga lâu nay ĐN đã có những bước làm đầu tiên, vì biết Nga là thị trường trọng điểm, trọng tâm, nên đã chuẩn bị cho những cuộc khảo sát thị trường, chuẩn bị một số sản phẩm, để lưu trú khách đến.
Cái băn khoăn, lo nhất của ĐN vẫn là vấn đề nguồn nhân lực, nếu lượng khách đến tương đối, vài ba ngàn khách trong 1 tháng có thể đáp ứng được, còn nếu hơn thì phải tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển nhân lực cho thị trường này, vì đặc thù thị trường này là không nói tiếng Anh".
Theo ông Cường, thời gian qua, do vấn đề khủng hoảng chính trị, kinh tế của Nga nên họ ít đến Việt Nam, còn Việt Nam vẫn được Nga đánh giá là thị trường họ quan tâm.
Đặc biệt, máy bay thuê chuyến mới chỉ là bước đầu cho thị trường khách quen trở lại, tạo cho Đà Nẵng tiếp cận với thị trường này, còn về lâu dài thì Đà Nẵng muốn xúc tiến các đường bay thường kỳ, sẽ khai thác tốt hơn, còn theo chuyến độ ổn định không cao.
"Đảm bảo phát triển bền vững vẫn là mục tiêu được Đà Nẵng lâu nay vẫn làm, đa dạng thị trường, không bỏ trứng vào 1 giỏ, vì du lịch chịu tác động bởi chính trị, kinh tế, môi trường, đa dạng sẽ không bị thụ động.
Các năm tiếp theo, chúng tôi sẽ mở rộng thêm không chỉ Nga mà Úc, Ấn Độ, Châu Âu và Trung Đông", ông Cường khẳng định.
Châu An
*******************
Khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam tăng mạnh : mừng hay lo ? (BBC, 02/01/2017)
Trung Quốc có lượng khách du lịch đến Việt Nam lớn nhất trong năm 2016
Theo con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam, lượng khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam trong năm 2016 đạt gần 2,7 triệu người, tăng hơn 51% so với năm 2015 và chiếm khoảng 37% tổng lượng khách đến du lịch Việt Nam.
Lượng khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam ngày càng tăng làm tăng nguồn thu cho du lịch Việt Nam, nhưng cũng gây nhiều hệ lụy khó lường cho những người hoạt động trong ngành du lịch.
Hướng dẫn viên Trung Quốc 'nói sai sự thật'
Tờ South China Morning Post (SCMP) trích lời ông Nguyễn Hữu Tuấn, trưởng phòng kinh doanh công ty Du lịch In-Out Tour có văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh nói : "Gần đây, một số hướng dẫn viên người Hoa không được cấp phép đã cho khách những thông tin không đúng về các cuộc tranh chấp lãnh thổ và biển đảo. Hướng dẫn viên Trung Quốc đã xuyên tạc sự thật, gây lo lắng cho người dân và chính phủ Việt Nam".
Theo báo này, nhiều hướng dẫn viên du lịch Trung Quốc "chui" nói với khách trong đoàn của họ rằng dù Việt Nam không còn là lãnh thổ Trung Quốc và đã giành độc lập, nước này vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc và cống nạp cho Trung Quốc.
Nhiều hướng dẫn viên Trung Quốc bị cáo buộc xuyên tạc lịch sử địa lý Việt Nam, chẳng hạn như nói rằng bãi biển Mỹ Khê thực ra là thuộc về Trung Quốc.
Báo này trích lời ông Trần Trà, Chủ tịch Câu lạc bộ Hướng dẫn viên du lịch Đà Nẵng, nói : "Theo luật, người nước ngoài không được làm hướng dẫn viên ở nước chúng tôi". Lúc đầu, nhiều hướng dẫn viên Việt Nam rất vui vì đông khách Trung Quốc đến Việt Nam vào đầu năm 2016. Họ nghĩ họ sẽ "có thêm cơ hội để kiếm tiền và cải thiện mức sống".
Nhưng thực tế lại không phải như vậy. Họ đã mất mối làm ăn vì "các công ty du lịch Trung Quốc đã cho trưởng đoàn người Trung Quốc làm hướng dẫn viên", ông Trà được báo SCMP dẫn lời.
Bãi biển Nha Trang, một điểm đến ưa thích của khách du lịch Trung Quốc
Một số hướng dẫn viên Trung Quốc bị cáo buộc kể với đoàn của họ là Việt Nam ghét Trung Quốc, và không nên tin vào những điều hướng dẫn viên Việt Nam nói. Một số người còn bị cáo buộc nói với khách bằng tiếng địa phương Trung Quốc để hướng dẫn người Việt nói tiếng Quan Thoại hay tiếng Quảng Đông không hiểu họ nói gì, tờ báo này viết.
Báo Infonet trích lời ông Huỳnh Tấn Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Thành phố Đà Nẵng, nói hồi tháng Sáu 2016, "hơn 100 hướng dẫn viên du lịch tiếng Trung của Đà Nẵng gần như ... biểu tình vì họ rất phẫn uất". Ông Vinh cho biết nhiều đoàn khách Trung Quốc đến Đà Nẵng không sử dụng hướng dẫn viên người Việt Nam.
Hồi tháng Bảy, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã trục xuất bốn hướng dẫn viên Trung Quốc hoạt động trái phép. Những hướng dẫn viên này bị phạt khoảng 4.200 USD còn công ty lữ hành thuê họ bị tịch thu giấy phép hoạt động và phạt khoảng 560 USD. Cũng trong tháng này, tỉnh Khánh Hòa đã trục xuất 66 người Trung Quốc hoạt động trái phép trong ngành du lịch.
Khách du lịch Trung Quốc được cho là có một số nét đặc thù và nhiều khách Trung Quốc gây phản cảm ở Việt Nam. Hồi tháng Sáu, một khách Trung Quốc đã đốt tiền Việt Nam ở một quán bar tại Đà Nẵng. Hồi tháng Năm, một số khách Trung Quốc bị cáo buộc đã đe dọa nhân viên Sân bay quốc tế Cam Ranh gần Nha Trang.
Nguồn thu cho kinh tế địa phương
Mặc dù có hệ lụy, nhiều người Việt Nam ghi nhận sức mua của khách du lịch Trung Quốc. Như lời ông Tuấn ở công ty In-Out Tour nói : "thực ra ngày càng nhiều khách du lịch Trung Quốc sang Việt Nam đang thúc đẩy ngành du lịch và kinh tế địa phương".
Đà Nẵng và Nha Trang giờ đây là điểm đến yêu thích của nhiều người Trung Quốc. Chính quyền các thành phố này tìm cách đáp ứng nhu cầu của du khách Trung Quốc tốt hơn.
Ông Trần Chí Cường, Phó giám đốc Sở Du lịch Đà Nẵng, nói với tờ SCMP rằng khách du lịch Trung Quốc ức chế vì thiếu hướng dẫn viên tiếng Trung người Việt Nam. Vì vậy, Sở du lịch Đà Nẵng đang đào tạo thêm nhiều hướng dẫn viên tiếng Trung để đáp ứng nhu cầu này.
Trong một tin có liên quan khác, hãng hàng không VietJet chuẩn bị mở đường bay hàng tuần từ Trịnh Châu đi Đà Nẵng vào ngày 12/1/2017.
************************
Khách Trung Quốc đến Việt Nam đông chưa từng có (VnEconomy, 30/12/2016)
Lần đầu tiên Việt Nam đón trên 10 triệu lượt khách quốc tế, gấp hai lần con số của năm 2010...
Khách du lịch Trung Quốc và tổng số khách quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 2012 -2016 - Đơn vị : triệu người.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 12 ước tính đạt 897.300 lượt người, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung cả năm 2016, khách quốc tế đến Việt Nam ước tính đạt 10,01 triệu lượt người, tăng 26% so với năm trước, tương ứng tăng hơn 2 triệu lượt khách.
Trong đó, khách từ châu Á đạt 7,26 triệu lượt người, chiếm 72,5% và tăng 30,6% so với năm trước.
Đặc biệt, khách từ Trung Quốc đạt 2,7 triệu lượt người, tăng 51,4%, chiếm số lượng lớn nhất trong cơ cấu khách quốc tế đến Việt Nam.
Đây là mức tăng kỷ lục của khách từ Trung Quốc từ trước đến nay.
Năm ngoái, tỷ lệ khách du lịch Trung Quốc tới Việt Nam từng sụt giảm đang kể, khi chỉ có 1,7 triệu lượt, giảm hơn 200.000 người so với 2014.
Dữ liệu của Tổng cục Thống kê trong vòng 5 năm trở lại đây cho thấy, mỗi năm lượng khách du lịch Trung Quốc tới Việt Nam đều chiếm từ 20 - 25% tổng lượng khách quốc tế. Đây là nhóm du khách tới Việt Nam đông đảo nhất.
Cũng trong năm nay, khách đến Việt Nam từ châu Âu đạt 1,6 triệu lượt người, tăng 18,2% so với năm trước.
Khách từ châu Mỹ đạt 735.100 lượt người, tăng 13,5% so với năm 2015, trong đó khách đến từ Mỹ đạt 552.700 lượt người, tăng 12,5%.
Khách từ châu Úc đạt 368.300 lượt người, tăng 7,9%. Khách đến từ châu Phi đạt 28.500 lượt người, tăng 5,2% so với năm 2015.
"Trong năm 2016, với các chính sách, nỗ lực thu hút khách du lịch được triển khai như miễn thị thực cho công dân 5 nước Tây Âu, tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, ứng dụng công nghệ mạng e-marketing, triển khai chương trình quảng bá du lịch trên truyền hình, phương tiện truyền thông, đại chúng, lần đầu tiên Việt Nam đón trên 10 triệu lượt khách quốc tế, gấp hai lần lượng khách quốc tế đến nước ta năm 2010", Tổng cục Thống kê cho biết.
Kiều Châu