Không bất ngờ !
Tăng trưởng GDP trong hai quý đầu năm 2023 của Việt Nam đạt mức thấp với lạm phát tăng 3,29%, theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO) mới được truyền thông Việt Nam dẫn nguồn công bố hôm 29/6/2023.
Kinh tế 6 tháng đầu năm dần hồi phục - Ảnh : Dân Trí online
"Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sáu tháng đầu năm 2023 tăng 3,72%, khá thấp so với GDP cùng kỳ giai đoạn 2011-2023, tăng trưởng GDP nửa đầu năm nay chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% của nửa đầu năm 2020", báo Tiền phong Online hôm thứ Năm đưa tin (1).
"Ngoại trừ năm 2020, mức tăng trưởng GDP sáu tháng đầu năm nay thấp hơn nhiều so với cùng kỳ nhiều năm qua. Nếu tính riêng trong quý 2 năm 2023, tăng trưởng GDP đạt 4,14% so với cùng kỳ năm trước", vẫn báo Tiền phong cho biết.
Còn theo Tạp chí điện tử về kinh tế Việt Nam, VnEconomy, trong/6/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam ước đạt 56,01 tỷ USD, tăng 3,6% so với tháng trước và giảm 14,1% so với cùng kỳ năm trước (2).
"Tính chung sáu tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 316,65 tỷ USD, giảm 15,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 12,1% ; nhập khẩu giảm 18,2%", VnEconomy dẫn nguồn từ Tổng cục Thống kê của Việt Nam cho biết thêm.
Mức tăng trưởng không cao, mục tiêu 2023 là thách thức lớn
Theo báo Tiền Phong online, giá trị giao dịch cổ phiếu, trái phiếu tại Việt Nam đã có hiện tượng ‘giảm sâu’, báo này cho biết thêm :
"Cũng theo số liệu thống kê của GSO, từ đầu năm đến nay, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 13.118 tỉ đồng/phiên, giảm 35,7% so với bình quân năm 2022.
Tương tự, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 5.596 tỉ đồng/phiên, giảm 27,2% ; khối lượng giao dịch bình quân trên thị trường chứng khoán phái sinh đạt 243.037 hợp đồng/phiên, giảm 11%".
Về lạm phát và dự phóng kinh tế Việt Nam trong quý tiếp theo, vẫn theo truyền thông Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)/6/2023 tăng 0,27% so với tháng trước, tính chung CPI bình quân sáu tháng đầu năm nay của Việt Nam đã tăng 3,29% so với cùng kỳ năm trước.
Hôm thứ Năm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, bà Nguyễn Thị Hương, được truyền thông Việt Nam dẫn lời ,đưa ra đánh giá :
"Mức tăng trưởng 3,72% trong sáu tháng đầu năm không cao, nhưng các cân đối lớn được đảm bảo, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp trong bối cảnh đối diện với nhiều khó khăn thách thức ở cả trong và ngoài nước… dự báo kinh tế - xã hội quý 3 năm nay sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Do đó, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng trong năm 2023 là thách thức rất lớn".
Giới quan sát và phân tích kinh tế Việt Nam nói gì ?
Hôm 29/6/2023, từ Hà Nội, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Quý Thọ, nhà nghiên cứu kinh tế và phân tích chính sách công của Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách & Phát triển thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư, đưa ra bình luận về các thông tin nói trên từ Tổng cục Thống kê của Việt Nam :
"Hôm nay Tổng cục Thống kê của Việt Nam công bố các số liệu thống kê chính thức về tình hình sáu tháng của Việt Nam, trong đó có dữ liệu về tăng trưởng kinh tế Việt Nam của 6 tháng này, có thể thấy rằng tình hình không được khả quan, nhưng điều này không bất ngờ lắm.
Lý do vì quý một đã tăng trưởng rất thấp rồi, và người ta cũng đã nói rằng tình hình sẽ tiếp tục khó khăn do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Hơn thế nữa, Tổng cục Thống kê cũng cho biết những dự báo về các phương án, kịch bản cho cả năm mà đã được dự đoán, nhưng rất khó khăn, bởi vì tình hình không ổn định cả trên thế giới cũng như trong nước, và triển vọng sáu tháng cuối năm tiếp tục gặp thách thức đối với tăng trưởng.
Tôi cho rằng với mức tăng trưởng GDP mà Quốc hội Việt Nam đặt ra có tính chất pháp lệnh đối với Chính phủ ở mức 6,5 cho tới 7% chắc sẽ không đạt được".
Còn từ Sài Gòn cùng ngày, kinh tế gia Bùi Kiến Thành, cựu cố vấn cho nhà nước và Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ trước đây về chiến lược và chính sách phát triển và hội nhập, đưa ra nhận xét từ góc nhìn của ông với RFA Tiếng Việt :
"Tôi thấy rằng những con số này không có gì ngạc nhiên, tình hình kinh tế Việt Nam nửa đầu năm 2023 đã bị ảnh hưởng bởi vấn đề xuất khẩu, do tình hình tiêu thụ của các nước mà Việt Nam xuất khẩu qua bị ảnh hưởng do lạm phát, suy thoái v.v., nên xuất khẩu của Việt Nam bị teo lại, điều đó không có gì đặc biệt.
Tuy nhiên, vấn đề là ở trong nước, đáng lý ra phải chuẩn bị đối mặt trước vấn đề giảm xuất khẩu mà đã biết trước rồi, nhà nước Việt Nam lẽ ra phải có những chính sách, giải pháp để tăng nhu cầu nội địa, tăng cường thị trường trong nước, điều này tôi thấy Việt Nam chưa làm được.
Một phần nữa là cần có những chương trình dự án, ví dụ như là đầu tư công, để thổi thêm sức sống vào năng lực nền kinh tế, thì đã không được thực hiện như nhà nước đã hoạch định vì nhiều lý do, ngoài ra, một số vấn đề mà lẽ ra giúp tăng trưởng được nền kinh tế nội địa, tôi lấy ví dụ như phát triển nhà ở xã hội, mà chính sách theo Bộ Xây dựng nói là sẽ ‘xây dựng 1 triệu căn hộ’, nhưng mới chỉ nói thôi, mà vẫn chưa có hành động, chính sách gì rõ ràng, khiến một việc cấp thiết mà có thể làm, thành việc không được làm, ngoài việc còn có những vấn đề thuộc về quản lý nhà nước nữa…".
Hôm 29/6, tạp chí điện tử về kinh tế Việt Nam, Vneconomy, cho biết thêm một số chi tiết về tình hình kinh tế của Việt Nam nửa đầu năm 2023, mà theo đó :
"Trong quý 2/2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 76 tỷ USD, giảm 22,3% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,2% so với quý 1/2023. Tính chung sáu tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 152,2 tỷ USD, giảm 18,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 53,22 tỷ USD, giảm 19% ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 98,98 tỷ USD, giảm 17,8%".
Còn về ‘xuất siêu’ và ‘nhập siêu’ của Việt Nam với một số thị trường quan trọng, vẫn VnEconomy dẫn nguồn từ Tổng cục Thống kê của Việt Nam, cho biết thêm :
"Trong 6 tháng đầu năm 2023, xuất siêu sang Hoa Kỳ ước đạt 37,2 tỷ USD giảm 24,9% so với cùng kỳ năm trước ; xuất siêu sang EU ước đạt 14,5 tỷ USD, giảm 9,8% ; xuất siêu sang Nhật Bản 1,2 tỷ USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 0,7 tỷ USD) ; nhập siêu từ Trung Quốc 24,5 tỷ USD, giảm 30,9% ; nhập siêu từ Hàn Quốc 13,4 tỷ USD, giảm 34,8% ; nhập siêu từ ASEAN 4 tỷ USD, giảm 39,1%".
Tuy nhiên, theo báo Tiền phong Online, có trên 34% doanh nghiệp tại Việt Nam tin tưởng là xu hướng kinh doanh sẽ tốt hơn :
"Về tình hình đăng ký doanh nghiệp, tính chung 6 tháng đầu năm 2023, cả nước có 75.900 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước ; gần 37.700 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 7,4%. Bên cạnh đó có 60.200 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn ; 31.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 28,9% ; 8.800 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 2,8%.
Kết quả khảo sát xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý 2-2023 cũng cho thấy có 27,5% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý 1 và 34,3% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng kinh doanh quý ba sẽ tốt lên", Tiền Phong Online hôm 29/6 dẫn các số liệu thống kê nhận định.
Nguồn : RFA tiếng Việt, 29/06/2023
Hai bên cứ giao dịch như vậy và không một âm thanh nào được phát ra vì điện thoại hầu như đã được bật chế độ ghi âm khi bước vào cửa công quyền giao dịch.
Năm ngoái là năm tăng trưởng cao nhất trong 12 năm của Việt Nam khi GDP chính thức công bố là 8,02%. Nhiều người nghi ngờ con số này nhưng không một ai có thể đủ năng lực kiểm chứng. Hình minh hoạ : Khu trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, nhìn từ phía quận 2 ban đêm.
Như một cơ thể đang lớn, kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng cao trong hơn 20 năm qua, nhưng giờ đây, không gian phát triển đang bị thu hẹp dần và đang trườn dần về phía bên kia sườn dốc.
Năm ngoái là năm tăng trưởng cao nhất trong 12 năm khiGDP chính thức công bố là 8,02%. Nhiều người nghi ngờ con số này nhưng không một ai có thể đủ năng lực kiểm chứng.
Được tiếp sức bằng báo cáo kiểu "bốc thuốc" đó của Tổng cục thống kê, quốc hội đã rất lạc quan đặt mục tiêu tăng trưởng cho năm 2023 là 6,5% và lạm phát là 4,5% mặc dù những di chứng của đại dịch đang bắt đầu âm thầm phát tác.
Sau năm tháng thực hiện, dựa vào một số báo cáo và phát biểu của quan chức chuyên ngành cùng với cảm nhận thực tế, chúng ta thấy kinh tế Việt Nam đang vô cùng ảm đạm và năm 2023 dự báo sẽ dần thoái trào.
"Tài sản toàn dân" đang về tay ngoại quốc
Ngày 9/5/2023 vừa qua, trong phiên thảo luận về kinh tế xã hội của Uỷ ban thường vụ quốc hội, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT đã nói rằng :"Nhiều doanh nghiệp lớn đã phải bán gần hết tài sản của mình" và theo ông Dũng thì bán chỉ được bằng 50% giá trị và khách mua toàn là người nước ngoài.
Nhìn vào danh sách những thương vụ M&A (Mua bán & Sáp nhập)lớn nhất của năm 2021-2022 ta thấy hết các hoạt động được tiến hành là ở lĩnh vực ngân hàng, bất động sản và bán lẻ. Trong đó có nhiều vụ chuyển nhượng bất động sản cho nhà đầu tư nước ngoài như : dự án Ngân Hà đã chuyển cho Gamuda Land của Malaysia, Novaland nhận được đầu tư từ quỹ Warburg Pincus …
CapitaLand Group cũng đang đàm phán với Vinhomes JSC để mua một dự án ở phía bắc thành phố Hải Phòng. Giá trị của thương vụ ước tính lên tới 1,5 tỉ USD có thể sẽ được "đốt" ở một nước không phải Việt Nam.
Chúng ta đã từng nghe nói về việc người Trung Quốc mua những vị trí đất đẹp ở Phú Quốc, Đà Nẵng và Quảng Ninh nhưng chưa bao giờ được biết đến một con số công khai.
Điều đáng lưu ý là vào giữa tháng Tư vừa qua, Việt Nam đã đạt 100 triệu người và mật độ dân số trên một km2 đã gấp đôi Trung Quốc, ở mức 300 người/1km2 trong khi Trung Quốc là 149 người/1km2.
Nạn nhân mãn không chỉ ở Trung Quốc mà chính chúng ta đang phải chia sẻ một không gian chung nhỏ hẹp ở vùng duyên hải vắng bóng cây và dày đặc bê tông cốt thép.
Điều 4 Luật đất đai năm 2013 (đang có hiệu lực) quy định"Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý". Từ ban đầu là "tài sản của nhân dân", sau một số quyết định hành chính, đã trở thành tài sản của các tập đoàn tư nhân và bây giờ đang lần lượt về tay ngoại quốc. Những hoa trái ở thấp và dễ hái đã được bỏ trọn vào túi tư nhân.
Doanh nghiệp nước ngoài nhiều và nhỏ hơn
Ngoài lĩnh vực bất động sản, một nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải có công nghiệp sản xuất. Hiện nay chúng ta không có một nền sản xuất và công nghiệp nặng đáng kể nào để có thể nêu tên.
Trước đây, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào Việt Nam với ý định là sẽ chuyển giao công nghệ, tìm kiếm những nhà thầu trong nước, thiết lập chuỗi cung ứng nội địa để giảm giá thành sản xuất.
Nhưng sau hơn 20 năm, từ quy hoạch các ngành kinh tế rất đồ sộ đã dần dần chuyển thành "quy hoạch" các ngành cung ứng "nguyên phụ liệu" và rồi cuối cùng vẫn không thể đáp ứng được các yêu cầu nhỏ nhất của các nhà sản xuất.
Tỷ lệ nội địa hoá vẫn rất thấp và doanh nghiệp nước ngoài đã nhảy vào đảm nhận sản xuất luôn cả ốc vít, thùng carton, đóng gói và giao nhận hàng hoá. Hiện nay Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản… đang dần dần xây dựng hệ thống cung ứng khép kín cho những nhà máy của họ ở Việt Nam.
Số lượng doanh nghiệp do người nước ngoài làm chủ tại Việt Nam ngày càng nhiều và kích thước ngày càng bé. Đó là điều vô cùng đáng ngại khi các nước xung quanh cũng đang gồng mình giữa cuộc đua làm ăn và đã bung mình ngay trên sân khách.
Song song với đó là việc các ngành dịch vụ và bán lẻ đã và đang được chuyển nhượng cho đối tác nước ngoài : Central Retail của Thái Lan đã hoàn tất việc thâu tóm chuỗi siêu thị điện máy Nguyễn Kim, Công ty ThaiBev đã chi đến hơn năm tỷ đô để mua Sabeco và hàng loạt thương vụ khác đang được đàm phán.
Ngoài ra, các công ty hàng đầu về dịch vụ, tư vấn đào tạo, logistic hay bảo hiểm nhân thọ đều là của người nước ngoài. Không một ngành nghề dịch vụ nào có được dấu ấn đặc sắc của riêng chúng ta ngoại trừ hình ảnh đậm nét nhất là ‘làm thuê’ cho các ông chủ nước ngoài ngay trên chính quê hương mình.
Trục trặc nghiêm trọng ở hệ thống ngân hàng
Nếu như yếu kém của toàn bộ nền kinh tế là vấn đề trong suốt nhiều năm nhưng chúng ta vẫn ì ạch vượt qua thì năm nay trục trặc ở hệ thống ngân hàng là sự cố lớn nhất, có khả năng kích hoạt một cuộc khủng hoảng tồi tệ.
Bởi vì hơn 10 năm qua, ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh phát hành lòng vòng quá nhiều trái phiếu cho doanh nghiệp, như một kiểu đa cấp cắn đuôi nhau để hưởng lợi trong chính tháp ngà của mình. Khi xảy ra các vụ khủng hoảng như FLC, Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát… đã xô đẩy hàng loạt các doanh nghiệp không thể phát hành tiếp trái phiếu để trả nợ mà quay vòng tiếp.
Giờ đây tất cả các doanh nghiệp chỉ còn nhìn vào tín dụng ngân hàng nhưng thanh khoản của hệ thống ngân hàng có thể căng thẳng bất cứ lúc nào và ‘tăng xông" là điều rất dễ xảy ra. Năm nay chắc chắn càng tồi tệ hơn vì suốt một thời gian dài các doanh nghiệp đã đầu tư vào bất động sản là các tài sản không tạo ra dòng tiền để trả nợ khi đến hạn và thị trường thì đang đứng yên.
Ở cấp độ sản xuất nhỏ, các doanh nghiệprất khó tiếp cận vốn vay cho vay sản xuất vì tài chính kém minh bạch, tài sản đảm bảo thiếu, khả năng quản lý kém và lãi suất cao. Do vậy, cái gốc của nền kinh tế không được đảm bảo, như cây đang lên mà không có rễ nhỏ để nuôi thân, chỉ cần một cơn gió là đổ xuống.
Ở một chiều kích khác, chưa bao giờ vay tiền để đi nước ngoài dễ dàng như bây giờ, nó đang trở thành một xu hướng giải ngân cơ bản của các ngân hàng ở vùng nông thôn. Bởi vì thực sự đi làm thuê ở nước ngoài luôn có một khoản tiền đều đặn gửi về để trả lãi.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài đang đi vào Việt Nam, chúng ta bắt đầu rời bỏ quê hương để bán sức lao động đơn thuần ở nơi xa xôi, đây chỉ là kiểu bóc ngắn cắn dài rất mong manh.
Bộ máy "khô dầu" vì thiếu phong bì bôi trơn
Khi những trái thấp của nền kinh tế đã bị hái đi thì tương lai sẽ cần nhiều nguồn lực và khó khăn hơn rất nhiều và đòi hỏi một tư duy mới. Thế nhưng hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam bị kẹt giữa một không gian phát triển nhỏ và tầm tư duy tù túng.
Các tập đoàn lớn của Nhà nước liên tục lỗ mà vẫn được ưu ái giữ "vai trò chủ đạo" và bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế là một bộ máy toàn trị đang "khô dầu". Toàn bộ hệ thống chính quyền của Việt Nam đang bị ngưng trệ vì thiếu "phong bì" bôi trơn.
Trước đây thì ai cũng biết, là không ai có thể sống bằng lương nhưng ai cũng sống tốt vì có "lậu". Nhưng giờ đây "lò đang cháy" và tai mắt thì đầy rẫy chung quanh. Việc nhận phong bì đã trở nên kín đáo hơn và khó khăn hơn.
Trước đây người ta nổ thẳng số tiền bằng "tiếng việt" nhưng bây giờ họ viết trong lòng bàn tay rồi mở ra hoặc kín đáo ghi xuống một tờ giấy, đặt trên bàn của mình rồi xoay ngược tờ giấy lại cho người dân thấy con số. Không đồng ý thì có thể ghi lại con số hoặc tỷ lệ ăn chia khác.
Hai bên cứ giao dịch như vậy và không một âm thanh nào được phát ra vì điện thoại hầu như đã được bật chế độ ghi âm khi bước vào cửa công quyền giao dịch.
Khi "người khôn của khó", thì quan tham hơn và dân cũng gian hơn.
Văn hoá ăn chơi của các quan chức cũng đã bước sang một thời kỳ mới, bí mật và truỵ lạc hơn. Họ sẽ ra nước ngoài hoặc đến những nhà riêng được hẹn trước trong những khu vực kín đáo và "điều hàng" chứ không còn đến những nơi đông đúc như trước.
Đối với người dân thì chỉ biết vùi đầu trong những trò chơi giải trí rẻ tiền trên mạng. Một người bạn tôi cho rằng người dân đã thay đổi cả thói quen đi "nhậu", rút lui về nhà, uống nhiều hơn bằng những chai rượu có tỷ lệ cồn cao hơn và với giá rẻ hơn.
Nếu không có một tầm tư duy mới để cải tổ chính trị và mở ra những không gian phát triển kinh tế khác, chúng ta sẽ dần dần xuống dốc rồi rơi tõm vào bẫy thu nhập trung bình và năm 2023 này sẽ là dấu chỉ ban đầu.
Lê Quốc Quân
Nguồn : VOA, 05/06/2023
Chính phủ nói khác
Phó Thủ tướng chính phủ Lê Minh Khái báo cáo ngày 22/05/2023 : "Nước ta vẫn còn những hạn chế, khó khăn ; trong đó có hai chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch : Tỷ trọng công nghiệp chế biến và Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội".
Phó Thủ tướng chính phủ Lê Minh Khái báo cáo tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV về tình hình Kinh tế xã hội và Ngân sách nhà nước năm 2022 sang đầu năm 2023 ngày 22/05/2023
Ông Khái liệt kê những hạn chế gồm : "Giải ngân vốn đầu tư công và triển khai thực hiện một số chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, ba Chương trình mục tiêu quốc gia chưa đạt yêu cầu ; công tác lập quy hoạch còn chậm ; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong huy động, tiếp cận vốn, chi phí sản xuất kinh doanh tăng, thị trường sản phẩm xuất khẩu bị thu hẹp ; những bất cập tích tụ kéo dài của các thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp chưa được xử lý thực sự hiệu quả".
Bức tranh xã hội cũng ảm đạm hơn mong đợi, theo lời ông Khái thì : "Bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh mạng, trật tự an toàn xã hội, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân còn những bất cập. Việc tháo gỡ vướng mắc trong quy định pháp luật, cơ chế, chính sách, ách tắc trong thực thi công vụ cần nỗ lực hơn nữa ; kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm.
Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo".
Từ những bất cập này, Báo cáo chính phủ thừa nhận : "Tăng trưởng GDP (Gross Domestic Product, Tổng sản lượng nội địa) quý I năm 2023 (3,32%) thấp hơn cùng kỳ (5,03%) ; trong đó nhiều địa phương sản xuất công nghiệp tăng trưởng thấp, thậm chí có địa phương tăng trưởng âm so với cùng kỳ".
Trong khi đó : "Hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống của ta bị thu hẹp ; nhiều doanh nghiệp thiếu đơn hàng".
Bằng chứng suy giảm này, theo Báo cáo : "Quý I năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giảm 10%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 8,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 10,5% ; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giảm 15,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 14,7% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 16%".
Với tình hình ảm đạm này, Đại biểu quốc hội Lê Thanh Vân (Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Cà Mau) nói rõ : "Tác động của bên ngoài làm bức tranh 6 tháng đầu năm của nước ta có ảm đạm như số doanh nghiệp thành lập mới giảm, số công nhân thất nghiệp tăng. Chỉ tính trong ngày 23/5, Trung tâm dịch vụ việc làm Đồng Nai đã tiếp nhận đến 22.000 hồ sơ thất nghiệp" (Tin Quốc hội, ngày 25/05/2023).
Trong khi đó, Báo cáo chính phủ cho biết tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên trong quý I/2023 là 7,61%.
Doanh nghiệp xuống dốc
Về hoạt động của khối doanh nghiệp thì : "Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng, Ban IV) vừa gửi Thủ tướng kết quả khảo sát về khó khăn doanh nghiệp và triển vọng kinh tế cuối 2023".
Theo cuộc Khảo sát được Ban IV phối hợp cùng VnExpress (báo điện tử) thực hiện cuối tháng 4 với gần 9.560 doanh nghiệp, cho thấy : "Bức tranh kinh tế với nhiều gam màu tối. Theo đó, trên 82% doanh nghiệp cho biết dự kiến giảm quy mô, tạm dừng hoặc ngừng kinh doanh trong các tháng còn lại năm nay".
Báo cáo viết tiếp : "Trong số doanh nghiệp còn hoạt động, có hơn 71% muốn giảm trên 5% lao động (trong đó, 22% tính giảm hơn một nửa). Gần 81% đơn vị nói sẽ giảm doanh thu trên 5%, trong số này, tỷ lệ giảm trên 50% là 29,4%.
Doanh nghiệp cũng thể hiện niềm tin thấp khi hơn 81% đánh giá tiêu cực hoặc rất tiêu cực về triển vọng kinh tế trong các tháng còn lại năm nay (2023)".
Vậy đâu là nguyên nhân tụt hậu này ?
Theo lý giải điều tra của Ban IV và báo VnExpress, có bốn khó khăn lớn doanh nghiệp đang đối mặt, gồm : "Thiếu đơn hàng, khó tiếp cận vốn, thủ tục hành chính và lo ngại bị hình sự hóa trong hoạt động kinh tế". Trong khi đó, sự hỗ trợ của chính quyền địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, với 84% doanh nghiệp đánh giá ở mức "kém hiệu quả".
Tại Quốc hội, Ủy ban Kinh tế báo cáo : "Sức khỏe doanh nghiệp đang giảm sút, nền kinh tế rất khó khăn . Bốn tháng đầu năm (2023) có gần 79.000 doanh nghiệp đăng ký lập mới, quay trở lại thị trường. Bình quân mỗi tháng khoảng 19.700 doanh nghiệp lập mới, quay lại hoạt động.
Tuy nhiên, mỗi tháng cũng có 19.200 đơn vị rút lui khỏi thị trường. Nhiều doanh nghiệp đối diện áp lực trả nợ lớn nên phải chuyển nhượng, bán cổ phần với mức giá rất thấp, trong nhiều trường hợp bán cho nước ngoài".
Những khó khăn giây chuyền này khiến cho nhiều : "Doanh nghiệp thiếu đơn hàng, lao động mất việc làm tại nhiều khu công nghiệp".
Theo Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, có gần 547.000 lao động tại 1.300 doanh nghiệp bị giảm giờ làm, ngừng việc do đơn hàng giảm từ tháng 9/2022 đến 1/2023. 75% trong số này thuộc về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Invesment).
Ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, cho biết kinh tế có dấu hiệu xấu đi từ cuối năm 2022, kéo dài sang đầu năm 2023, kết quả là tăng trưởng GDP quý I chỉ tăng 3,32%.
Ông nói : "Các động lực chính của tăng trưởng như xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là sản xuất công nghiệp giảm, trên đà suy yếu. Nền kinh tế thực sự rất khó khăn".
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra kinh tế xã hội, ngày 22/5. Ảnh : Hoàng Phong
Bằng chứng kinh tế đi xuống được ông Thanh giải thích : "Một trong những nguyên nhân chính của suy giảm tăng trưởng là khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng âm 0,4% trong quý đầu năm… Số liệu tiêu thụ điện 4 tháng giảm 0,4% so với cùng kỳ, cho thấy các hoạt động sản xuất suy giảm".
Ông Thanh nói : "Với những khó khăn hiện tại, khó có đột phá về tăng trưởng GDP trong quý II".
Với kết luận bi quan này, hiển nhiên dự đoán lạc quan mức tăng trưởng kinh tế năm 2023 vẫn có thể đạt từ 6 đến 6,5% của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là không thực tế.
Phạm Trần
(30/05/2023)
Việt Nam : mô hình kinh tế ‘bộc lộ áp lực lớn’, nhưng chỉ đổi mới kinh tế là chưa đủ
Mặc dù thành tích đạt được qua một số chỉ tiêu của điều hành kinh tế vĩ mô mà Việt Nam tự đánh giá là đáp ứng, đặc biệt sau ba năm chống chọi với đại dịch Covid-19, có ý kiến từ giới nghiên cứu chính sách quản lý kinh tế và quản trị quốc gia cho rằng mô hình kinh tế của Việt Nam đã ‘bộ lộ áp lực lớn’ là tiền đề để có những thay đổi.
Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 ở Công ty Gang thép Thái Nguyên còn lại đống sắt hỏng. Courtesy Tổ Quốc
"Điều tôi muốn nhấn mạnh là, khó khăn rõ ràng tạo ra tâm lý ức chế cho doanh nghiệp. Nhìn vào sự thật, không phải do điều hành của Chính phủ, mà là mô hình kinh tế bắt đầu bộc lộ áp lực lớn phải đổi thay", Tiến sĩ Vũ Minh Khương, Phó Giáo sư đang giảng dạy tại Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Singapore), được Báo điện tử của Chính phủ Việt Nam trích lời, thừa nhận tình hình trong một cuộc tọa đàm liên quan ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam, được cổng thông tin của Chính phủ Việt Nam tổ chức hôm Chủ nhật 28/5/2023, với sự tham gia của đại diện hai bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính ở cấp Thứ trưởng, của học giả và Đại biểu Quốc hội.
"Ta (Việt Nam) đang bước vào giai đoạn mới tăng trưởng, đòi hỏi đột phá mới về tư duy cũng như ý thức xây dựng quốc gia hiện đại trong 2-3 thập kỷ tới… Đây là bài toán chung của cả xã hội, không chỉ Quốc hội, Chính phủ ; bài toán tổng hợp, bài toán đổi mới mô hình tăng trưởng toàn diện, không chỉ đơn thuần đổi mới, bỏ tập tính cũ, chuẩn bị tập tính mới Ta đã có 40 năm đổi mới rồi, cần những đột phá trong thời gian tới", vẫn theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Vũ Minh Khương, được Báo Chính phủ của Việt Nam dẫn lời hôm Chủ nhật.
Nhân dịp này, từ Sài Gòn, ông Bùi Kiến Thành, cựu cố vấn về kinh tế, phát triển và hội nhập của ban lãnh đạo Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ trước đây, đưa ra một số nhận định trên quan điểm riêng của ông với Đài Á Châu Tự Do về điều mà ông cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần phải làm gì để thực sự có sự cải tổ, đổi mới tận gốc rễ, cân bằng, toàn diện, hầu dĩ đem lại phồn vinh, ổn định cho sự phát triển lành mạnh, ổn định, văn minh được kỳ vọng, trông đợi của đất nước.
Điều này, qua cuộc trả lời phỏng vấn với RFA tiếng Việt mà quý vị theo dõi sau đây, theo kinh tế gia này không chỉ dừng ở một số giải pháp kỹ thuật, hay tình thế trong điều hành thường nhật, niên khóa nền kinh tế vĩ mô, hoặc sử dụng một số đòn bẩy, công cụ kỹ thuật nhất định trên thị trường tài chính, vốn v.v…, mà thay vào đó cần có đổi mới tư duy, đổi mới tư tưởng có tính ‘cách mạng’ sau 37 năm tính từ Đại hội VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, vốn được biết đến như Đại hội của ‘mở cửa’ và ‘đổi mới’, ‘ tự cứu mình, trước khi trời cứu’ của gần bốn chục năm về trước.
‘Đổi mới tư duy, vứt bỏ cách hiểu cũ từ thế kỷ 17, 18’
Bùi Kiến Thành : Những từ ngữ mà các nhà lãnh đạo của đảng và nhà nước Việt Nam hiện vẫn sử dụng, nói rằng khu vực kinh tế quốc doanh là chủ đạo này khác, trên thực tế gọi là ‘arrière-garde’, từ ngữ chỉ sự đoạn hậu trong những cuộc tháo chạy với hy vọng chặn lại tạm thời những sự đổ vỡ mà thôi. Thế còn, nếu Việt Nam muốn đi tới một nền kinh tế phát triển và một nhà nước dân chủ chân chính, thì có một điều chúng ta có thể nói ngay như thế này rằng về vấn đề kinh tế, nhà nước chỉ làm những gì mà tự nhân dân không thể làm được, còn tất cả những việc khác là kinh tế nhân dân. Vì vậy tất cả những gì nhà nước Việt Nam hiện nay đang quản lý mà có thể tư nhân hóa được, không nhất thiết phải nhà nước quản lý nữa, thì theo tôi nên nhanh chóng mà tư nhân hóa đi. Tức là tôi nhắc lại rằng nhà nước chỉ làm những việc nhân dân tự mình không làm được, còn khi nhân dân làm được, thì nhà nước sẽ chuyển thành phần, lĩnh vực kinh tế đó cho nhân dân làm.
Do đó không phải việc của nhà nước là làm kinh tế, mà nhà nước chỉ quản lý, để cho nhân dân làm kinh tế, nhà nước tạo điều kiện, tạo chính sách cho nhân dân làm kinh tế, chứ nhà nước không có trách nhiệm làm kinh tế theo lối cũ tới nay. Ý tôi muốn nói như ở bên Anh quốc, đã có lúc một số lĩnh vực như là điện, hay là xe lửa, tạm thời có lúc nhà nước chưa trao lại cho nhân dân, để chờ cho nhân dân làm được và có thể có điều kiện quản lý, thì lúc đó nhà nước rút lui, giao lại những lĩnh vực đó cho nhân dân làm.
Như vậy, nói cách khác, tôi nhấn mạnh rằng nhà nước làm quản lý nhà nước, chứ không phải nhà nước quản lý doanh nghiệp. Vì vậy, những gì ở Việt Nam mà là doanh nghiệp nhà nước bây giờ, thì từ từ nhà nước tạo điều kiện cho nhân dân làm, còn những gì tạm thời nhân dân chưa làm được, thì nhà nước tạm thời quản lý.
Như thế chính sách lớn, quản lý lớn là chúng ta phải có một định hướng như vậy, nhờ đó sẽ thấy nền kinh tế sẽ tiến mạnh hơn lên rất nhiều, chứ đừng nói mãi rằng kinh tế nhà nước là chủ đạo, rồi nhân dân chỉ là thứ yếu, dù có nói hình thức rằng tư nhân là ‘quan trọng’, cái đó là chuyện cũ rích của thế kỷ 17, 18 rồi, và Việt Nam đã bước qua khỏi lý luận đó từ dấu mốc của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6 rồi, với nghị quyết của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khi đó, mặc dù còn trong hoàn cảnh nhiều hạn chế khi đó mà tôi sẽ nói thêm khi có dịp, đã nói kinh tế Việt Nam là kinh tế nhiều thành phần, mà phải hiểu tinh thần của nó là kinh tế của Việt Nam là kinh tế của ‘quốc dân’, chứ không phải là của ‘quốc doanh’, vai trò của nhà nước không phải là đi làm kinh tế.
Đổi mới kinh tế có cần cân bằng hài hòa với đổi mới chính trị ?
RFA : Liệu Việt Nam có thể chỉ cần đổi mới về mặt kinh tế thôi, mà không cần phải đổi mới gì về mặt chính trị, trong đó có đổi mới thể chế, chế độ chính trị - xã hội, xét từ thời điểm hiện nay ?
Bùi Kiến Thành : Ở nước nào cũng vậy, tiến tới dần dần thì cần có sự thay đổi, ví dụ trong thời kỳ những năm 1980, Việt Nam đang ngồi trên một chiếc tàu mà cần phải bẻ lái qua một đường hướng khác. Khi đó Việt Nam cẩn thận để không làm cho chiếc tàu đó ‘bị lật’, nhưng đường hướng, chiều hướng là phải thay đổi, vì vậy từ ngữ dùng trong nghị quyết của Đại hội đảng 6 đó rất thận trọng. Nhưng không phải vì thận trọng như thế mà lại giao toàn quyền cho các nhà lãnh đạo chính trị cho tới 100 năm nữa, tới 1.000 năm nữa phải giữ thể chế độc tài của một chế độ chuyên chính vô sản.
Bởi vì từ Đại hội đảng 6 đó, Việt Nam đã từ bỏ chuyên chính vô sản ‘dictature de prolétariat’ để qua một nền kinh tế thị trường, như vậy chúng ta thấy rằng từ nền kinh tế có thể kéo theo vấn đề về thể chế chính trị. Không thể nào mà anh độc quyền, độc đoán, độc tài trong một chế độ kinh tế tự do phát triển được, chiều hướng là anh phải dần dần thay đổi để thích nghi với nền kinh tế tự do, để hội nhập toàn phần với thế giới.
Mà muốn hội nhập với thế giới, không thể nào anh đứng riêng ra với lại những Cuba, Triều Tiên, hay Trung Quốc, để mà duy trì một chủ nghĩa độc đoán được, anh không còn có thể làm một chế độ chuyên chính vô sản nữa, anh phải tiến tới một chế độ dân chủ, mà trong đó chính Nghị quyết đại hội đảng 6 đã mở đường để nói rõ ràng rằng Việt Nam phải đi tới một chế độ dân chủ, công bằng văn minh, chứ không phải là một chế độ độc đoán, độc tài, toàn trị, Việt Nam không thể tiếp tục mãi như thế nữa.
Tất nhiên cần có thời gian để làm, nhưng định hướng thấy là rõ ràng, rằng đó là một chế độ ở Việt Nam không thể nào duy trì được 100 năm nữa trong một chế độ độc tài vô sản được, vì chuyện đó là chuyện đã qua rồi, Đại hội 6 đã hủy bỏ rồi, không còn nhà nước chuyên chính vô sản nữa, mà tiến tới một nhà nước do dân, vì dân, mà chính Việt Nam đã tuyên bố rõ ràng rằng đó là một nhà nước pháp quyền, chứ không phải là một nhà nước độc tài. Vì vậy Việt Nam phải cẩn thận trong những vấn đề chúng ta làm, và phải thấy rõ chủ trương mà các nhà lãnh đạo đã chấp nhận từ năm 1986 cho đến bây giờ và chúng ta phải thấy rằng con đường Việt Nam đi là tiến tới một nền dân chủ, tự do, công bằng, văn minh, dựa trên luật pháp và là một nhà nước pháp quyền.
RFA : Ban lãnh đạo của Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay có nên quá lo sợ về chuyện mà ở trên ông có dùng từ nói là ‘lật thuyền’, ‘lật tàu’, hay là trái lại, tự tin trao lại những quyền và quyền lực vốn dĩ phải luôn thuộc về nhân dân cho nhân dân ?
Bùi Kiến Thành : Thực sự ra nhiều quyền, hàng loạt quyền đã được ghi rõ trong Hiến pháp của Việt Nam, chứ không phải là không được ghi. Hiến pháp Việt Nam nói rõ Việt Nam là một nước dân chủ, chứ không phải là một nước quân chủ, hay là một nước độc tài. Vì vậy cho nên Việt Nam phải xác quyết rằng Việt Nam muốn đi đến thành một nước dân chủ, và chúng ta phải tạo ra những bước để đi đến đó, chứ đừng quá chậm chạp, vì Việt Nam cần phải hội nhập thế giới, và nếu chậm chạp thì sẽ bị thiệt hại trong vấn đề quan hệ với thế giới bên ngoài.
Vì vậy tôi nhận xét rằng nhà nước Việt Nam hiện nay, cũng như lãnh đạo Việt Nam không nên sợ sệt, mà sợ cũng không thể tránh được. Vì như thể mặt trời đã lên rồi, anh không thể nào níu cho mặt trời đừng lên được. Khi Rạng đông thì mặt trời sẽ lên, hết giờ Tý thì đến giờ Ngọ, quy luật của Tạo hóa là như thế và anh đã chấp nhận Việt Nam là một nước dân chủ, hội nhập với thế giới dựa trên pháp quyền, và quyền hạn của toàn dân được dân chủ v.v…, anh đã nói như thế, thì anh phải cố gắng làm. Không có việc sợ, mà sợ cái gì ?
Cuộc đời của anh làm quan được mấy chục năm, đâu có phải là đảng phái của anh làm việc, hoạt động được một trăm năm, thậm chí những chế độ được biết tiếng trên thế giới từ trước đến nay đều không thoát khỏi những quy luật, nhà Hán được 600 năm rồi cũng suy vi là vì thế nào, nhà Đường phát triển được mấy trăm năm rồi suy vi là sao ? Triều đại đang hưng thì phải cố gắng mà làm cho tốt hơn, chứ đừng để nó thối nát, suy vi, bại vong rồi khi đó mới níu kéo, rồi khóc lóc, vì vậy trách nhiệm của lãnh đạo là phải ‘nhất ngôn hưng bang’ để làm cho đất nước hưng thịnh lên, chứ không phải vì quyền lợi của đảng của mình mà níu kéo cả một đất nước xuống, nhận đầu của con Rồng xuống sình lầy chỉ vì quyền hạn hay quyền lực nhất thời của mình.
Nhìn vào đó thì biết được đâu là ý chí của người có lòng yêu nước, hay có trách nhiệm đối với đất nước và nhân dân ; Yêu nước, có trách nhiệm thì phải làm tất cả những gì có thể để làm cho đất nước vươn lên, cho nhân dân phồn vinh, hạnh phúc, làm tất cả những gì cho đất nước hội nhập với thế giới hiện đại, văn minh một cách mạnh mẽ, không thể vì quyền lợi nhất thời của đảng của anh, của nhóm các anh, mà kìm hãm con Rồng Việt Nam lại một cách phi lý.
Trên đây là ý kiến phát biểu trên quan điểm cá nhân của ông Bùi Kiến Thành với Đài Á Châu Tự Do hôm 29/5/2023, nhân dịp Quốc hội Việt Nam khóa 15 đang nhóm họp phiên họp thứ năm thảo luận nhiều vấn đề liên quan lập pháp và kinh tế - xã hội, đồng thời đang có một số ý kiến được thảo luận xung quanh ổn định nền kinh tế vĩ mô của quốc gia này, do cơ quan truyền thông của Chính phủ Việt Nam tổ chức. Mời quý vị đón theo dõi phần tiếp theo ý kiến của ông Bùi Kiến Thành, theo đó ông đề cập một số khía cạnh được cho là trở ngại về tư tưởng, tư duy, triết lý, não trạng, tâm lý v.v… lâu nay mà ông coi như những biểu hiện của chứng ‘ung thư’ khiến cản trở việc Việt Nam lâu nay tiến tới một cuộc đổi mới triệt để, mạnh mẽ đáng có không chỉ về kinh tế, mà còn về khía cạnh thể chế, chế độ chính trị - xã hội tổng thể ; và đề cập hướng giải pháp giải quyết vấn đề, hay tháo bỏ khối ‘ung thư’ ấy, giúp Việt Nam sớm đi đúng hướng, từ góc nhìn và quan niệm riêng của ông.
Ông Bùi Kiến Thành là chuyên gia kinh tế, tài chính, ông nguyên là Đại Diện Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam tại New York, nguyên Trợ lý cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nguyên Chủ tịch Tổng Giám đốc Công ty Bảo Hiểm Quốc Tế Mỹ (AIU), nguyên Chủ tịch Hiệp Hội Bảo Hiểm Việt Nam, Chủ tịch sáng lập Công ty Bình Điện VABCO (nay là PINACO). Ông từng cố vấn cho Lãnh đạo Đảng cộng sảnVN và chính phủ Việt Nam xây dựng chính sách Đổi Mới, cố vấn cho chính phủ Việt Nam về các vấn đề phát triển kinh tế, tài chính ; giải tỏa cấm vận Mỹ, thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ ; cố vấn cơ sở pháp lý Chủ quyền Việt Nam trên thềm lục địa Biển Đông ; Tư vấn xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn, Hội nhập kinh tế thế giới ; Chỉnh đốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Phát huy Nhà nước Pháp Quyền. Hiện nay, ông đang nghiên cứu đề án xây dựng "Thành phố Hồ Chí Minh thành Trung tâm tài chính quốc tế".
Quốc Phương thực hiện
Tham khảo :
Quốc hội khai mạc bàn về việc tháo gỡ "điểm nghẽn" cho nền kinh tế : liệu có thành công ?
Trên báo Thanh Niên Online ra ngày 23/5/2023 vừa qua, có bài viết "Tháo "điểm nghẽn", gỡ khó cho nền kinh tế" của hai tác giả Mai Hà và Lê Hiệp, tổng hợp ý kiến phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội, báo cáo của Phó Thủ tướng, báo cáo của Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh…
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự phiên khai mạc kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV - Ảnh Phạm Quang Vinh
Nội dung cơ bản của bài viết, ngoài một số thành tích nêu ra, đã khái quát tương đối đúng những khó khăn, vướng mắc của nền kinh tế. Đó là : nhiều địa phương tăng trưởng âm, doanh nghiệp không hấp thụ được vốn, cử tri lo doanh nghiệp thua lỗ sẽ rời khỏi thị trường…
Đi vào nguyên nhân, cũng đáng khen cho Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã chỉ rõ nguyên nhân : "Ủy ban kinh tế đánh giá nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế trong thời gian vừa qua là do tác động, ảnh hưởng nặng nề của các yếu tố bất lợi từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập từ nội tại nền kinh tế tích tụ trong thời gian dài chưa được xử lý dứt điểm. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, công chức ở trung ương và địa phương còn né tránh, đùn đẩy công việc, thiếu trách nhiệm gây ách tắc, trì trệ trong giải quyết công việc, chậm phản ứng chính sách đối với các biến động của nền kinh tế".
Về phần giải pháp, Ủy ban kinh tế của Quốc hội cũng đề xuất chính phủ nhiều giải pháp về ổn định kinh tế vĩ mô, kết hợp chính sách tiền tệ và tài khóa. Đặc biệt, Chính phủ cần chủ động xem xét tiếp tục hạ lãi suất điều hành nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, đồng thời tăng cường quản lý, giám sát các thị trường tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản… Đẩy nhanh tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và các quy hoạch chuyên ngành, nhất là quy hoạch năng lượng. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, khắc phục tình trạng né tránh trách nhiệm trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức. Ủy ban kinh tế cũng lưu ý Chính phủ tháo gỡ ngay các khó khăn, vướng mắc đối với các quy định về phòng cháy, chữa cháy ; tiếp tục giải quyết dứt điểm vấn đề kiểm định xe cơ giới ; xử lý những bất cập trong việc tư vấn đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, bán chéo bảo hiểm…
Có thể nói, từ khâu xác định thực trạng nền kinh tế, tới nguyên nhân và giải pháp không có chỗ nào sai cả. Nhưng cuối cùng, việc thực hiện vẫn không được, hoặc phần lớn là được về mặt hình thức, còn thực chất vẫn không giải quyết được vấn đề. Vậy vấn đề ở đây là gì ?
Trước hết, nguyên nhân khách quan "tác động, ảnh hưởng nặng nề của các yếu tố bất lợi từ bên ngoài" ý nói đại dịch Covid-19 trong mấy năm qua là hoàn toàn đúng. Nhưng đây là yếu tố khách quan chung, của tất cả các nền kinh tế chứ không chỉ Việt Nam.
"Những hạn chế bất cập từ nội tại nền kinh tế tích tụ trong thời gian dài chưa được xử lý dứt điểm" đó là những hạn chế bất cập gì ? Và trong giải pháp lần này có xử lý dứt điểm hay không ? Như vậy, có thể nói, đây là những yếu tố lớn cản trở nền kinh tế phát triển đã tồn tại nhiều năm nhưng không được nêu ra để giải quyết.
Đối với những khó khăn của nền kinh tế, các giải pháp muốn có được hiệu quả cần tuyệt đối tuân thủ ba yêu cầu, đó là kịp thời, triệt để và đồng bộ. Chúng ta thử áp dụng vào những chính sách của nhà nước đã thực hiện để xem chúng có đáp ứng được ba tiêu chuẩn này hay không ?
Ngày 14/2/2023, mấy trăm chủ đầu tư kinh doanh karaoke tại Hà Nội đã cùng nhau ký vào đơn kiến nghị khẩn cấp gửi các cấp thành phố, trung ương sau việc thực hiện quy định về phòng cháy chữa cháy, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các cơ sơ kinh doanh Karaoke. Trước đó, các nhà hàng karaoke đã ngừng hoạt động từ 3-5 tháng do chưa bảo đảm quy định phòng cháy chữa cháy… đầu tháng 3 năm 2023, có 36 nhà đầu tư điện điện gió và điện mặt trời đã cùng ký văn bản kiến nghị Thủ tướng về những bất cập trong cơ chế giá phát điện khiến các nhà máy điện này đã đầu tư xong nhưng không thể bán điện cho EVN. Vấn đề phòng cháy chữa cháy đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm, bằng chứng là trong báo cáo khai mạc Quốc hội vừa qua còn đề cập yêu cầu thực hiện dứt điểm. Vấn đề điện gió và điện mặt trời, mới đây ngày 20/5 có 15 nhà máy điện gió và điện mặt trời được bộ công thương thống nhất mức giá tạm thời, tức là có thể bán điện cho nhà nước. Và chúng ta chú ý, chỉ là 15/37 nhà đầu tư được mua điện… như vậy là việc thực hiện chính sách hoàn toàn không kịp thời và không triệt để.
Vấn đề kiểm định xe cơ giới, một trong số các yêu cầu nêu ra trong kỳ họp quốc hội lần này, đã trải qua hơn nửa năm, bắt đầu từ những trung tâm đầu tiên mà cán bộ bị khởi tố, bắt giam, dẫn tới việc đình trệ trong việc kiểm định xe cộ mà tới nay vẫn chưa giải quyết được triệt để. Đối với yêu cầu đồng bộ trong chính sách và các giải pháp, chúng ta không nên nhắc tới vì ở Việt Nam đó là vẫn đề vượt tầm của các bộ ngành và chính phủ.
Như vậy, dù biết rõ các nguyên nhân và giải pháp, nhưng Việt Nam vẫn không thể thực hiện được các giải pháp nêu ra, đó là vì các bộ ngành và chính phủ không thể thực hiện được các yêu cầu kịp thời, triệt để và đồng bộ. Không thực hiện được các yêu cầu này đồng nghĩa với việc các giải pháp và chính sách không còn hiệu quả.
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA, 24/05/2023
Khoan bàn ai đúng – ai sai, chỉ cần đối chiếu tuyên bố của ông Trọng và nhận định của ông Huệ về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam ắt sẽ thấy rõ ràng mâu thuẫn giữa tuyên bố và nhận định của cả hai.
Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội, cho biết : 'Mức tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn so với mục tiêu đề ra' (Pháp Luật online, 22/05/2023)
Chỉ trong vòng năm ngày, kinh tế - xã hội Việt Nam đột nhiên rơi từ trên "đỉnh" xuống "đáy". "Đỉnh" do ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam dựng lên hôm 17/5/2023. Còn "đáy" do ông Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác lập vào ngày hôm nay (22/5/2023).
***
Tuần trước, khi tuyên bố bế mạc Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương (Ban chấp hành trung ương) Đảng cộng sản Việt Nam khóa 13, ông Trọng tuyên bố như thế này về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam :Về kinh tế - xã hội, cơ bản thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ, vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.
Theo ông Trọng, "thành tựu" này là nhờ Ban chấp hành trung ương đảng khóa 13 :Ban hành và chỉ đạo tổ chức rất thành công các hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở toàn bộ sáu vùng kinh tế - xã hội, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đại hội lần thứ XIII về phát triển vùng - vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quan trọng, cả về lý luận và thực tiễn trong việc phát triển nhanh, bền vững.
Ông Trọng còn nhấn mạnh :Nửa đầu nhiệm kỳ khóa XIII, với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần "tiền hô hậu ủng", "nhất hô bá ứng", "trên dưới đồng lòng", "dọc ngang thông suốt", Ban chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII. Đảng ta, đất nước ta vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực (1).
Tuy nhiên hôm nay, khi ngỏ lời khai mạc Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa 15, ông Vương Đình Huệ lại đưa ra những nhận định hoàn toàn khác :Mức tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn so với mục tiêu đề ra, một số địa phương có mức tăng trưởng âm hoặc thấp so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất, nhập khẩu, sản xuất của nhiều ngành công nghiệp chủ lực giảm hoặc tăng thấp.Trong khi đó, một số điểm nghẽn của các thị trường chưa được tháo gỡ hiệu quả và nhiều doanh nghiệp còn khó khăn, một số doanh nghiệp phải cắt giảm quy mô hoặc dừng hoạt động ; kinh tế vĩ mô tiềm ẩn nhiều rủi ro. Áp lực tỉ giá, lãi suất tăng cao ; nguy cơ nợ xấu gia tăng(2)...
Cứ như phát biểu khai mạc Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa 15 của Chủ tịch Quốc hội thì kinh tế - xã hội Việt Nam đang đối diện với nhiều vấn nạn nghiêm trọng, thành ra ông Huệ đề nghị :Quốc hội tập trung phân tích cụ thể, đánh giá khách quan, sát thực, toàn diện, thẳng thắn về kết quả đạt được, hạn chế, khó khăn, nhất là trong việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng cả năm... Làm rõ trách nhiệm, nguyên nhân khách quan, chủ quan cả trong công tác tổ chức thực hiện và những vấn đề liên quan đến chính sách, thể chế, pháp luật. Cùng với đó, phân tích, dự báo những khó khăn hạn chế của nội tại nền kinh tế sát với tình hình thời gian tới.Từ đó, đề xuất giải pháp thiết thực, kịp thời, nhất là có giải pháp hữu hiệu để chấn chỉnh, khắc phục ngay tình trạng kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, góp phần hoàn thành các mục tiêu năm 2023, tạo tiền đề thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội cho cả giai đoạn 2021-2025.
***
Kinh tế - xã hội của một quốc gia khác với... game show – không thể lôi lên trên đỉnh rồi vài ngày sau cho rớt xuống đáy và ngược lại để... lôi kéo người xem. Trên thực tế, hệ thống tư pháp của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khởi tố - truy tố - phạt tù rất nhiều cá nhân bị cho là "chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam" vì "làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, hoặc có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, hoặc gây chiến tranh tâm lý". Thực tế cho thấy những cá nhân này bị trừng phạt chỉ vì cung cấp thông tin hay công bố những nhận định không đúng với ý chí của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoan bàn ai đúng – ai sai, chỉ cần đối chiếu tuyên bố của ông Trọng và nhận định của ông Huệ về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam ắt sẽ thấy rõ ràng mâu thuẫn giữa tuyên bố và nhận định của cả hai đang "gây hoang mang trong nhân dân" vì ý chí của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thể trái ngược nhau đến mức kỳ quái như vậy. Chưa kể, xét về tính chất, bởi mâu thuẫn này khiến công chúng có lý do để nghi ngại về hệ thống chính trị tại Việt Nam nên đó chính là một kiểu "chiến tranh tâm lý".
Mâu thuẫn vừa đề cập chính là dấu hiệu cho thấy, hoặc ông Trọng, hoặc ông Huệ đã "phát tán thông tin có nội dung bịa đặt, phỉ báng chính quyền nhân dân" và vì vai trò, vị trí của cả hai nên bất kể là ai thì đó cũng là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" theo Điều 117 của Bộ Luật Hình sự hiện hành. Chờ xem pháp chế xã hội chủ nghĩa có đủ nghiêm minh để sẵn sàng xem xét, xác định ông nào phải trách nhiệm hình sự vì đã "tuyên truyền chống nhà nước" theo hướng ông Trọng vẫn xiển dương là "không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai ; không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào" chăng ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 23/05/2023
Chú thích
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sắp bị đe dọa bởi các doanh nghiệp Mỹ ?
Hàn Lam, VNTB, 20/03/2023
Tuần này, từ 21-23/3, Việt Nam sẽ đón hơn 50 doanh nghiệp Mỹ thuộc nhiều lĩnh vực quốc phòng, dược phẩm, công nghệ… đến tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh.
Trong tháng 12/2022, các nhà sản xuất hàng không vũ trụ Boeing, Lockheed Martin và Bell đã đàm phán với phía Việt Nam về khả năng bán máy bay trực thăng và máy bay không người lái.
Doanh nghiệp Mỹ muốn gì ở Việt Nam ?
Ông Vũ Tú Thành, đại diện của Hội đồng Kinh doanh Mỹ – ASEAN tại Việt Nam cho biết : "Đây là phái đoàn lớn nhất từ trước đến nay đến Việt Nam", và lưu ý rằng cơ quan này đã tổ chức các sự kiện này trong ba thập kỷ.
Phần lớn các công ty tham gia phái đoàn kinh doanh đã có hoạt động kinh doanh hoặc sản xuất tại Việt Nam và có kế hoạch mở rộng, bao gồm Apple, Coca-Cola và PepsiCo, ông Thành cho biết.
Theo ông Thành, một số công ty đang đặc biệt quan tâm đến Việt Nam với vai trò là một trung tâm sản xuất và cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng ngày càng giàu có khi GDP tại đây đạt hơn 8% vào năm 2022. Trong số đó có SpaceX được cho là đang tìm cách bán dịch vụ internet vệ tinh của mình cho Việt Nam và các nước trong khu vực.
Phái đoàn cũng sẽ bao gồm các công ty bán dẫn, gã khổng lồ dược phẩm Pfizer và Johnson & Johnson, nhà sản xuất thiết bị y tế Abbott, công ty tài chính Visa và Citibank, các công ty internet và điện toán đám mây Meta và Amazon Web Services.
Trước đó, tại triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam tổ chức vào tháng 12/2022, các nhà sản xuất hàng không vũ trụ Boeing, Lockheed Martin và Bell đã đàm phán với phía Việt Nam về khả năng bán máy bay trực thăng và máy bay không người lái.
Sau gần 28 năm chính thức tuyên bố bình thường hóa, thiết lập quan hệ ngoại giao, kể từ năm 1995 cho đến nay, hàng loạt các công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ đã đến Việt Nam để đặt nền móng đầu tiên cho cơ hội phát triển dài hạn như Pepsico, Coca-Cola, Intel, P&G, Procter & Gamble (P&G), General Electric (GE)… Tính đến 20/12/2022, tổng vốn đầu tư từ Mỹ vào Việt Nam đạt 11,42 tỷ USD với 1.216 dự án, Mỹ hiện xếp thứ 11 trong danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam.
FDI của Mỹ chủ yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn, có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối thuận lợi. Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, các tỉnh, thành phố nhận vốn đầu tư từ Mỹ nhiều nhất gồm : Bà Rịa – Vũng Tàu (45,8%), Thành phố Hồ Chí Minh (12,4%), Bình Dương (9%).
Xét về lĩnh vực đầu tư, vốn đầu tư của Mỹ tập trung chủ yếu vào các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống (42,5%) ; công nghiệp chế biến, chế tạo (32%), cấp nước và xử lý chất thải (5,2%).
Thời gian gần đây, các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ tiếp tục thể hiện sự quan tâm, đầu tư lớn vào thị trường Việt Nam. Trong đó, Intel thông báo bổ sung đầu tư gần 500 triệu USD vào nhà máy tại Thành phố Hồ Chí Minh ; đối tác sản xuất chính của Apple (Foxconn) bổ sung đầu tư 270 triệu USD tại Bắc Giang…
Đặc biệt, tại lễ công bố Báo cáo thường niên vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2022 do Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài (VAFIE) tổ chức mới đây, ông John Rockhold, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham) cho biết, nhà đầu tư Hoa Kỳ rất quan tâm đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực tăng trưởng xanh.
Theo Chủ tịch Amcham, hiện có hàng nghìn tỷ USD từ các nhà đầu tư Hoa Kỳ đang chờ đợi chảy vào các lĩnh vực năng lượng xanh, logistics, cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong năm 2023 sẽ gặp thách thức không nhỏ.
Doanh nghiệp Mỹ liệu có đe dọa "thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa" ?
Theo Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), với những tín hiệu tích cực ngay từ đầu năm, thu hút FDI năm 2023 có thể đạt từ 36-38 tỷ USD, trong đó, vốn giải ngân đạt khoảng 22-23 tỷ USD. Tuy nhiên, theo nhận định của ông Nguyễn Văn Toàn, Phó chủ tịch VAFIE, việc thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong năm 2023 sẽ gặp thách thức không nhỏ.
Cụ thể, khi Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu (EU) thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA), Việt Nam đã kỳ vọng thu hút được nguồn vốn lớn, chất lượng cao từ các nước này. Song, trên thực tế, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine diễn ra phức tạp đã ảnh hưởng đến các doanh nghiệp của các nước khi muốn đầu tư ra nước ngoài. Vì vậy, để thu hút FDI từ EU và Mỹ là rất khó khăn trong thời gian qua cũng như thời gian tới.
Cũng theo ông Toàn, ở khu vực Châu Á, thậm chí là trên toàn cầu, Trung Quốc là địa điểm đầu tư và sản xuất hấp dẫn. Do đó, khi Trung Quốc mở cửa trở lại, vốn sẽ chảy vào thị trường này, hạn chế vào Việt Nam và các nền kinh tế khác trong khu vực.
Không chỉ cạnh tranh với Trung Quốc, theo ông Hong Sun, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (Korcham), Việt Nam đang phải chịu sự cạnh tranh đến từ nhiều nước như Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Lào và Campuchia.
Theo đó, các doanh nghiệp Hàn Quốc không chỉ đầu tư vào Việt Nam mà còn đầu tư vào rất nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tại khu vực Đông Nam Á, ngoài việc ưu đãi về thuế, doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư công nghệ cao còn được chiết khấu 50% đầu tư cơ sở vật chất.
"Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư hàng tỷ USD cho máy móc thiết bị thì đây là một chính sách rất hấp dẫn", đại diện doanh nghiệp Hàn Quốc nêu rõ.
Đáng chú ý, gần đây một dự án từ Hàn Quốc hơn 10 tỷ USD đã nghiên cứu đầu tư vào một trong các nước Đông Nam Á. Tuy vậy, sau khi lựa chọn, họ đã không lựa chọn vào Việt Nam – đây là điều rất đáng tiếc.
"Luật đầu tư của Việt Nam cũng đã được sửa một lần nhưng vẫn chưa đủ hấp dẫn thu hút đầu tư quy mô lớn. Chúng tôi kỳ vọng Chính phủ cùng các cơ quan liên quan cần nghiên cứu những chính sách mới, những ưu đãi hấp dẫn hơn để có thể cạnh tranh với các chính sách của các quốc gia khác", ông Hong Sun đề nghị.
Một nhà báo lên tiếng cảnh báo rằng các doanh nghiệp đến từ Mỹ, khi họ quyết định bỏ vốn vào Việt Nam, rất có thể họ sẽ "lobby" để thay đổi cách quản trị được gọi là "định hướng xã hội chủ nghĩa" đối với nền kinh tế thị trường. Điều này sẽ đi ngược lại với những tuyên bố của người đứng đầu Đảng, đe dọa việc tìm kiếm để đi lên con đường xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đưa vào nghị quyết.
Hàn Lam
Nguồn : VNTB, 20/03/2023
**************************
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang vào hồi bế tắc…
Hàn Lam, VNTB, 16/03/2023
Kinh tế Việt Nam hiện đang gặp khủng hoảng trên thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường xăng dầu ; khủng hoảng y tế, giáo dục ; khủng hoảng dịch vụ kiểm định xe cơ giới
Kết quả khảo sát của Hiệp hội doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đến cuối tháng 2/2023 cho thấy 83% số doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
Có lẽ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cần bình tâm xem lại những dữ liệu lâu nay để ông chấp bút viết sách về kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa…
Sở dĩ phải coi lại, bởi vì nền kinh tế được định hướng đó tại Việt Nam mà ông là tác giả, đang vào hồi cùng cực.
Hệ lụy của chủ nghĩa giáo điều
Trong cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bao gồm các nội dung : Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam ; vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; chủ thể trong nền kinh tế ; phân phối và giải quyết các vấn đề xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Theo Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì, "mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta, là lựa chọn tất yếu khách quan, khoa học và thực tiễn. Đó là sự lựa chọn kết hợp giá trị, tinh hoa nhân loại với đặc điểm và bản chất ưu việt riêng có của chế độ chính trị.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam, được hình thành từ quá trình đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước.
Đây là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên những nhận thức sâu sắc về tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là chính Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động.
Quá trình hình thành tư duy toàn diện về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình tìm tòi, nghiên cứu để phát triển nhận thức, đồng thời là quá trình đúc rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn của đất nước. Đó là quá trình phát triển nhận thức từ thấp đến cao, từ chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện" (dừng trích nhận định của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng).
Thực tế diễn ra ở Việt Nam ra sao ?
Kết quả khảo sát của Hiệp hội doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đến cuối tháng 2/2023 cho thấy 83% số doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Trong đó, các khó khăn chủ yếu bao gồm lãi suất cao và biến động tỷ giá mạnh, thị trường bị thu hẹp, khó tiếp cận vốn, thủ tục vay vốn phức tạp, mất nhiều thời gian, hàng tồn kho nhiều, giá nguyên liệu đầu vào tăng, chi phí nhân công tăng.
Trước những khó khăn nói trên, doanh nghiệp đang kinh doanh cầm chừng, tái cấu trúc ngành nghề kinh doanh, cố duy trì ở mức có thể nhất để hy vọng vượt qua. Nhiều doanh nghiệp cho biết, họ huỷ bỏ các kế hoạch đầu tư mới hay mở rộng sản xuất kinh doanh.
"Năm 2022 được coi là một năm thành công của kinh tế Việt Nam với tăng trưởng cao, lạm phát thấp, vậy mà thị trường chứng khoán biến động và suy giảm mạnh ; từ đỉnh cao đầu năm với khoảng 1.520 điểm đã "rơi" xuống vực sâu giữa tháng 11/2022 còn hơn 900 điểm.
Kết quả là, năm 2022 thị trường chứng khoán Việt Nam đã giảm, mất khoảng 34% ; tức hơn 1/3 vốn hoá thị trường. Phần lớn công ty niêm yết đã bị giảm giá trị vốn hoá, hàng triệu nhà đầu tư thua lỗ, mất khoản thu nhập lớn.
Diễn biến hai tháng đầu năm 2023 cho thấy thị trường vẫn còn dao động mạnh. Hiện thị trường dao động khoảng trên 1000 điểm và chưa có dấu hiệu phục hồi vững chắc.
Thị trường trái phiếu phát triển nhanh chóng giai đoạn 2017 – 2021 với lượng phát hành tăng liên tục hàng năm ; đạt đỉnh vào năm 2021. Sang năm 2022, thị trường suy giảm mạnh với lượng phát hành chỉ bằng 39% lượng phát hành năm 2022 (giảm 61%).
Đáng lưu ý, kể từ tháng 11/2022 lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành mới, phát hành riêng lẻ gần như không có. Trái phiếu doanh nghiệp như một kênh huy động vốn đã bị đứt gãy và không thể tiếp tục sử dụng ; người đầu tư mất niềm tin ; thị trường mất thanh khoản nghiêm trọng.
Điều đáng lưu ý, số trái phiếu đáo hạn trong năm 2023 là khá cao, gần 303 nghìn tỷ đồng, tương đương 12,6 tỷ đô la Mỹ. Tổng giá trị trái phiếu đáo hạn trong 2023 – 2025 khoảng 697 nghìn tỷ đồng, tương đương 29 tỷ đô la Mỹ.
Trong bối cảnh, thị trường chứng khoán đóng băng, khô cạn thanh khoản ; tín dụng ngân hàng bị khống chế và khó tiếp cận ; phát hành mới trái phiếu doanh nghiệp cũng không khả thi, thì việc hoàn thành nghĩa vụ trả các khoản nợ nói trên đúng hạn đối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp bất động sản là thách thức khó vượt qua.
Khó khăn của một số doanh nghiệp bất động sản sẽ có nguy cơ tác động dây chuyền đến hệ thống tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại có liên quan.
Cần phải khơi thông lại thị trường trái phiếu doanh nghiệp để tránh rủi ro đối với thị trường tài chính và giảm áp lực đối với phát triển kinh tế xã hội năm nay và các năm tiếp theo" – ông Nguyễn Đình Cung, cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, thẳng thắn nhận xét.
Thay lời kết
Nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đang cố gắng ‘vun tròn’, theo như lời của ông Nguyễn Đình Cung thì đang chứng kiến những điều rất kỳ lạ.
Đó là sự sụt giảm nhanh và mạnh nhất thế giới của thị trường chứng khoán. Sự đứt gãy và mất thanh khoản nghiêm trọng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Sự đứt gãy nghiêm trọng và kéo dài chưa từng có của thị trường xăng dầu.
Bên cạnh đó, sự đứt gãy kéo dài về cung cấp thiết bị và vật tư y tế làm giảm sút nghiêm trọng số lượng và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ đối với người dân. Cuộc khủng hoảng dịch vụ kiểm định xe cơ giới và nhiều sự việc tương tự khác ở các địa phương.
Điều đáng nói, cách ứng xử và xử lý vấn đề của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Lẽ ra các cơ quan này cần phối hợp với nhau và tránh tình trạng không có cơ quan và cá nhân nào chịu trách nhiệm. Các cơ quan nhà nước phản ứng rất chậm trễ trước những quy định pháp luật quá bất hợp lý, không thể áp dụng trong nhiều công việc quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.
Câu hỏi không thể tránh né đang đặt ra với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng : vậy thì những lý thuyết hàn lâm mà tác giả cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", đã phạm sai lầm ở đâu, liệu sai lầm đó có mang tính hệ thống hay khôn g?
Vì rõ ràng ở đây sự hoài nghi có cơ sở từ việc tác giả không phải là một nhà kinh tế lý thuyết, lẫn thực hành trong quản trị.
Hàn Lam
Nguồn : VNTB, 16/03/2023
Hiện nay việc dự báo kinh tế rất khó khăn mà chủ yếu do vấn đề số liệu bất thường.
Sản xuất công nghiệp trong tháng 11/2022 tăng trưởng thấp.
Bức tranh vân cẩu
"Hiện nay có nhiều đánh giá khác nhau về kinh tế, nhưng tôi cho rằng, cần đánh giá đúng thực trạng nền kinh tế và doanh nghiệp đang rất khó khăn để có giải pháp đúng, trúng và hiệu quả.
Nhiều doanh nghiệp thu hẹp quy mô vì mất hợp đồng, người lao động mất việc làm, doanh nghiệp đang khó khăn về vốn mà chúng ta không đánh giá đúng là tai họa" – ông Nguyễn Đình Cung, cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, nhận xét.
Ông Nguyễn Đình Cung cho rằng chúng ta đang có quá nhiều mâu thuẫn cần phải nhìn nhận. Và quan trọng hơn là không tiếp tục che giấu đối với các nhà lãnh đạo chính trị cấp cao nhất như Tổng bí thư chẳng hạn.
"Nền kinh tế khi mở cửa lại sau đại dịch Covid đang đối diện với hàng loạt mâu thuẫn. Lạm phát ở Việt Nam thấp nhất thế giới, nhưng lãi suất lại cao bậc nhất thế giới. Kinh tế thực tốt, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng thị trường tài chính giảm sâu, chao đảo và đứt gãy, tín dụng khô cạn, nhà đầu tư rời bỏ thị trường và thị trường bất động sản đóng băng.
Tăng trưởng kinh tế cao nhất trong hai mươi năm qua, nhưng doanh nghiệp thiếu việc làm, công nhân mất việc hoặc giảm việc làm, giảm thu nhập. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tăng trưởng năng suất lao động cộng với tăng trưởng số lao động trong nền kinh tế là điều rất kỳ dị.
Bên cạnh đó, tôi cho rằng, hiện nay việc dự báo kinh tế rất khó khăn mà chủ yếu do vấn đề số liệu.
Xin lấy ví dụ về tương quan tăng trưởng GDP và tiêu thụ năng lượng của Việt Nam. Suốt từ 2013-2021, tăng trưởng tiêu thụ năng lượng luôn cao hơn 1,5 – 2 lần tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, logic này bị phá vỡ năm 2022 khi tăng trưởng kinh tế đạt 8,02% trong khi tăng trưởng tiêu thụ năng lượng chỉ còn 7,05%.
Hơn nữa, về logic tính toán mà nói, chỉ có các ngành tăng hơn 8%, tỷ trọng của ngành đó mới tăng lên, và ngược lại. Tuy vậy, năm 2022 so với 2021 dịch vụ tăng 10%, tỷ trọng lại giảm từ 42,2% xuống còn 41,3%. Trong khi đó, công nghiệp tăng 7,8%, cơ cấu lại tăng từ 36,5% lên 38,3% ; Xây dựng chỉ tăng 8,2% nhưng cơ cấu tăng từ 4,5% lên 6,2% ; Lưu trú ăn uống tăng 40,6% nhưng cơ cấu không đổi (2,3%). Đây là những tính toán rất khó thuyết phục, thể hiện những số liệu bất thường" – ông Nguyễn Đình Cung biện giải.
Nhiều công ty cắt giảm lao động vì sản xuất kinh doanh khó khăn.
Đừng tô hồng để cổ động chính trị nữa
Vẫn theo ông Nguyễn Đình Cung thì, "Phải nói thật lòng là rất khó dự báo trên nền tảng số liệu như vậy !".
Bởi ở đây trước hết, cần xem xét thực tế là các nước phát triển, những bạn hàng lớn của Việt Nam trong năm 2023 xấu hơn nhiều so với 2022, và 2024 dự báo không tốt hơn đáng kể so với 2023.
"Chỉ số sản xuất công nghiệp liên tục giảm từ tháng 9/2022 đến nay mà phần lớn nguyên nhân do giảm cầu nhập khẩu từ bên ngoài. Tôi cho rằng, xu hướng này vẫn tiếp tục và không có cải thiện nhiều dù có hy vọng sẽ tốt lên từ quý II-2023" – ông Nguyễn Đình Cung dự báo.
Tư cách cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, ông Nguyễn Đình Cung đề xuất chính sách tiền tệ và quản lý thị trường tài chính cần linh hoạt hơn ; không xảy ra tình trạng thiếu thanh khoản trong nền kinh tế. Tuy nhiên, lãi suất tín dụng cơ bản vẫn ở mức cao ; tiếp cận vốn đối với các doanh nghiệp vẫn khó khăn.
"Điều hành kinh tế vĩ mô hy vọng sẽ trôi chảy hơn, thận trọng hơn ; sử dụng công cụ thị trường nhiều hơn là các mệnh lệnh can thiệp hành chính. Tôi hy vọng không sử dụng thanh kiểm tra là công cụ hàng đầu đối với doanh nghiệp.
Điều đáng báo động, lâu nay không có cải cách đáng kể nào về môi trường kinh doanh, thậm chí, các rào cản pháp luật đối với đầu tư kinh doanh có thể gia tăng hơn bớt bỏ. Tôi muốn cảnh báo, đến giờ hầu như không có cơ quan nào đồng hành cùng doanh nghiệp trong giải quyết các khó khăn, vướng mắc đối với đầu tư kinh doanh" – ông Nguyễn Đình Cung nhấn mạnh như vậy về thực trạng của môi trường làm ăn tại Việt Nam.
Thới Bình
Nguồn : VNTB, 14/03/2023
Lời đầu tiên, các ý kiến trong bài viết chủ yếu được lấy từ cuốn ‘Kinh tế học về Tiền, Ngân hàng và Thị trường tài chính’ của tác giả Frederic Mishkin (The Economics of Money, Banking and Financial Markets) xuất bản năm 1986. Mọi ý kiến phản biện vui lòng phản biện trực tiếp tác giả cuốn sách bằng các nghiên cứu khoa học. Người viết bài không có trách nhiệm giải trình những yêu cầu về vấn đề mang tính xác thực. Một lưu ý khác là tất cả những ý kiến thảo luận trong bài viết này mang tính lý thuyết để giải thích những vấn đề của bất động sản tại Việt Nam, mọi sự trùng hợp đều là do tính thực nghiệm của lý thuyết và lý luận của người viết.
Tiếp nối bài viết ‘Bất động sản và vận mệnh của Đảng cộng sản Việt Nam’ của tác giả Quốc Bảo đăng trên website Thông Luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên ngày 20/3/2023, bài viết này hi vọng cung cấp một số kiến thức kinh tế mang tính đại chúng (phổ cập) nhằm cung cấp một góc nhìn rõ ràng hơn về căn bệnh kinh tế tại Việt Nam.
1. Kim tự tháp Ponzi
Vào những năm 1920, Charles Ponzi đã gây ra vụ lừa đảo kinh tế tai tiếng nhất nước Mỹ thời bấy giờ đến mức mô hình lừa đảo được đặt theo tên của ông. Cách thức hoạt động của mô hình Ponzi giống với cách mà người Việt Nam hay gọi là “lừa đảo đa cấp”, trong đó một người hoặc tổ chức vận động những người dân và nhà đầu tư mang tiền về cho họ với lời hứa lợi suất cao trong thời gian ngắn nhất, nhưng thực tế công việc hằng ngày của những người đứng đầu không phải là tập hợp nguồn tiền đó để đi đầu tư vào các hoạt động mang lại lợi nhuận mà sẽ cố gắng “chiêu dụ” càng nhiều người mới càng tốt và dùng tiền của người mới để trả cho các nhà góp vốn cũ.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, người ta nhận thấy rằng những ngân hàng không còn đảm bảo khả năng thanh khoản nữa sẽ vô tình hoặc cố ý dùng cách làm của kim tự tháp Ponzi với hy vọng kéo dài đời sống ngân hàng nhưng trớ trêu thay, càng nhúng sâu càng khó thoát, mô hình Ponzi từ khi sinh ra đã định sẵn số phận sẽ phải sụp đổ khi sức nặng của kim tự tháp quá lớn.
Cụ thể hơn, các ngân hàng Mỹ lúc đó đã có một cải tiến mới giúp hoạt động kinh doanh bất động sản trở nên sầm uất: chứng khoán hóa nợ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần vốn vay, họ sẽ huy động từ nhiều kênh và ngân hàng là một trong số đó, tâm lý của các nhà quản lý doanh nghiệp vào thời điểm trước cuộc khủng hoảng rất lạc quan, họ nghĩ rằng thay vì huy động bằng cổ phiếu, nợ sẽ là đòn bẩy tuyệt vời để nâng cao thu nhập của doanh nghiệp và họ vay ngân hàng số tiền lớn.
Các ngân hàng Mỹ lúc đó cũng thấy tín hiệu thị trường rất lạc quan và họ thấy rằng việc chờ khoản nợ đáo hạn sẽ gây ra chi phí cơ hội không đáng có, họ ‘chứng khoán hóa’ các khoản nợ doanh nghiệp và đem đi bán để lấy tiền cho vay tiếp, vòng lặp đó liên tục được lặp đi lặp lại cho đến khi nhu cầu nhà ờ đã bão hòa và cung nhà ở thì quá thừa, kết quả là giá bất động sản giảm. Một cơn bão nổi lên, các nhà đầu tư hoảng loạn rút vốn tại các doanh nghiệp và công ty tài chính, ngân hàng thì ngắc ngoải vì không thu hồi được nợ và để duy trì hoạt động ngân hàng, họ phải dùng “chiêu lừa đảo Ponzi” (lấy tiền gửi của người đến sau để trả tiền cho người gửi tiền trước), vòng xoáy khủng hoảng thanh khoản chưa giải quyết được hết thì lại gặp vòng xoáy Ponzi kéo theo hàng loạt doanh nghiệp, ngân hàng và nhà đầu tư phá sản, giá cổ phiếu của các công ty được đánh giá là có triển vọng tốt nhất tụt thảm hại chỉ sau vài giờ cuộc khủng hoảng được kích hoạt. Cho đến bây giờ, hai quốc gia đam mê GDP là Việt Nam và Trung Quốc vẫn chấp nhận chơi trò chơi rủi ro này để bây giờ nhận hậu quả giống nhau – nền kinh tế yếu về công nghiệp phụ trợ và phụ thuộc nặng vào ngành xây dựng.
Cho đến bây giờ, hai quốc gia đam mê GDP là Việt Nam và Trung Quốc vẫn chấp nhận chơi trò chơi rủi ro này để bây giờ nhận hậu quả giống nhau – nền kinh tế yếu về công nghiệp phụ trợ và phụ thuộc nặng vào ngành xây dựng.
2. Bảo lãnh – một cách dùng từ gian trá
Những người có nghiên cứu ngành tài chính đều hiểu rằng các nhà môi giới sẽ được hưởng mức phí hoa hồng tỷ lệ thuận với số chứng khoán họ đã chào bán được cho nhà đầu tư vì thế các nhà môi giới có xu hướng phóng đại tiềm năng của chứng khoán đó với những lời hứa hẹn về tỷ suất sinh lợi cao hơn lãi suất ngân hàng. Thủ thuật thuyết phục khách hàng thiếu hiểu biết rất đơn giản: “bảo lãnh + chênh lệnh lãi suất = lùa gà”, chữ “bảo lãnh” thường được nhà đầu tư Việt Nam hiểu là “bảo lãnh thanh toán” chứ không phải là “bảo lãnh phát hành” nên đã tạo điều kiện cho nhà môi giới dắt mũi. Do đó việc các ngân hàng (thường đóng vai trò nhà môi giới, bên trung gian phát hành chứng khoán) từ chối nhận trách nhiệm và thanh toán số tiền vốn cho các nhà đầu tư là chuyện bình thường vì họ không bảo lãnh thanh toán nhưng xét về khía cạnh đạo đức thì họ đã lợi dụng uy tín của bản thân để “lùa” các nhà đầu tư vào những dự án dưới chuẩn của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp tốt sẽ có đủ điều kiện để phát hành chứng khoán trên sàn giao dịch nhưng một doanh nghiệp đang hoạt động không hiệu quả thì họ không có khả năng huy động vốn như vậy nên con đường họ buộc phải đi là huy động trực tiếp từ nhà đầu tư qua môi giới là các định chế tài chính. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam không thể niêm yết trên sàn chứng khoán được nữa vì khoản thua lỗ do giá bất động sản đóng băng khiến bản báo cảo tài chính và bản cáo bạch của họ kém hấp dẫn trong mắt Ủy ban chứng khoán nhà nước. Các doanh nghiệp bất động sản cũng không thể huy động vốn từ ngân hàng vì chính ngân hàng đang là chủ nợ của họ và cũng là con nợ của các ngân hàng khác nên rất khát thanh khoản. Họ cũng không thể huy động vốn bằng cách bán bớt tài sản cố định dài hạn của doanh nghiệp vì nền kinh tế đang chậm lại, việc mua bán các tài sản có tính thanh khoản thấp như vậy không khả thi và trong khi đó thời kỳ “lùa gà” chấm dứt sau sự sụp đổ của Vạn Thịnh Phát.
Kết quả họ cầu cứu chính phủ cứu họ vào ngày 17/2/2023, kết luận của 'Hội nghị trực tuyến toàn quốc tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững' mang tính chung chung, nặng về chỉ thị và quan trọng nhất là vẫn muốn cứu những kẻ hút máu nền kinh tế. Giải pháp an toàn và lâu dài đó là để sụp đổ các tập đoàn bất động sản một cách từ từ trong khi đó phải chú trọng đến ngành sản xuất nhưng tiếc thay, người Việt vẫn thích tư duy “không làm mà vẫn có ăn”.
3. Hiệu ứng domino
Khi một ngân hàng gặp vấn đề thanh khoản (đến mức dùng cả dự trữ bắt buộc) như trường hợp của SCB thì hệ thống ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng vì:
Thứ nhất là các ngân hàng thương mại nợ nhau với lãi suất qua đêm để giải quyết nhu cầu thanh toán trong một ngày, khi một ngân hàng khủng hoảng, những ngân hàng khác cũng gặp vấn đề thanh khoản ngắn hạn trong ngày.
Thứ hai, việc không thu hồi được các khoản nợ xấu sẽ khiến ngân hàng thương mại sử dụng “mô hình Ponzi” để giải quyết nhu cầu thanh khoản, làm tăng tính trầm trọng của vấn đề. Đặc biệt nếu ngân hàng này dùng khoản tiền gửi của người dân để trả nợ cho các định chế tài chính khác.
Thứ ba, khi một ngân hàng đang khủng hoảng tăng lãi suất để cứu vãn tình thế (trường hợp nó tăng lãi suất cao hơn hẳn các ngân hàng thương mại khác là vì nó đang dùng lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương có nghĩa là nó đã bị ngân hàng trung ương tiếp quản), nó buộc các ngân hàng khác cũng phải tăng lãi suất để giữ vững tính thanh khoản, điều này sẽ rất tệ trong một nền kinh tế ảm đạm vì lãi suất tăng cao nghĩa là các doanh nghiệp không thể mở rộng sản xuất được nữa.
Thứ tư việc một ngân hàng khủng hoảng sẽ khiến người dân đổ xô nhau đi rút tiền nhưng không chỉ rút tiền tại ngân hàng khủng hoảng, tâm lý bầy đàn sẽ khiến mọi người rút tiền ở cả những ngân hàng khác vì họ cảm thấy bị đe dọa khi gửi tiền tại ngân hàng và muốn chuyển sang kênh trú ẩn an toàn hơn là vàng, ngoại tệ.
Thứ năm, ngân hàng trung ương nếu cứ phải in tiền để cứu các ngân hàng thương mại thì lạm phát sẽ vượt mức kiểm soát và kết quả là sự sụp đổ của cả nền kinh tế lẫn chế độ chính trị.
Thường các ngân hàng thương mại khi gặp khủng hoảng sẽ được xử lý theo hai bước: ngân hàng trung ương mua lại giấy tờ có giá trị của ngân hàng thương mại (trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, ngân phiếu…) và tái cấp vốn (ngân hàng trung ương tiếp quản với giá 0 đồng cùng khoản nợ của ngân hàng thương mại và đổ thêm tiền vào ngân hàng thương đó). Cách làm này chỉ phổ biến tại các quốc gia mà chính quyền ít có sự tín nhiệm của dân chúng. Làm sao có thể ngủ ngon trong khi tiền của bản thân sẽ không được hoàn trả lại khi một ngân hàng sụp đổ và nhà nước nói “nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm trước quyết định đầu tư”? Một nhà nước như vậy là một nhà nước vô dụng vì chí ít nếu không thể hoàn trả được tiền mà nhà đầu tư đã mất, nhà nước đó phải tạo ra một thị trường tiệm cận với thị trường hoàn hảo nhất có thể để mọi thông tin đầu tư được công khai minh bạch và ai cũng có thể tiếp cận với nguồn thông tin đó thì nhà nước mới có quyền từ chối chịu trách nhiệm.
Tiếp theo hãy xem xét hiệu ứng domino có ảnh hưởng tới tài chính của các doanh nghiệp như thế nào.
Khi một doanh nghiệp gặp khủng hoảng và có nguy cơ phá sản, điều đầu tiên mà ngân hàng làm đó là siết nợ để “chuồn” trước, còn các công ty tài chính quản lý các quỹ đầu tư chứa danh mục đầu tư bao gồm các loại chứng khoán của doanh nghiệp khủng hoảng đó, họ sẽ cố cân bằng lại danh mục bằng cách bán tháo (nếu nhà đầu tư từ chối thực hiện việc nộp tiền sau lệnh “call margin”), sau khi bán hết các loại chứng khoán của doanh nghiệp khủng hoảng nhưng vẫn không thu hồi đủ số vốn, các quỹ đầu tư sẽ tiếp tục bán tháo các loại chứng khoán của các doanh nghiệp khác dẫn đến sự sụt giảm giá chứng khoán trên thị trường, kết quả những doanh nghiệp đang hoạt động tốt vẫn có thể bị “bay màu” nếu giá chứng khoán rớt quá thảm do các quỹ đã bán tháo chứng khoán của nó.
Hiện tại khoảng hơn 70% nợ mà Vietcombank đang nắm giữ là bất động sản – một tài sản có tính thanh khoản thấp trong thời điểm khó khăn hiện nay và để xử lý cục nợ này, Vietcombank đã đem đi đấu giá kể cả khi có những khoản nợ mà công ty đã mất khả năng thanh khoản. Để tránh bị nhầm lẫn, cần phân biệt với “phát mại”, phát mại là hành động của ngân hàng bán các tài sản đảm bảo của doanh nghiệp khi doanh nghiệp không trả được nợ. Ở trường hợp của Vietcombank thì tệ hơn, các doanh nghiệp không còn tài sản đảm bảo để trả nợ nên ngân hàng phải đi bán nợ của doanh nghiệp.
Việc bán nợ bản chất không vi phạm pháp luật, cái làm nên “thương hiệu” của Việt Nam là hạn chế thông tin nên nhiều khi việc đẩy nợ như vậy sẽ gây thiệt hại cho bên mua lại nợ, đương nhiên có một số quý độc giả sẽ thấy khó hiểu vì họ chỉ cần biết số nợ nhưng các nhà phân tích tài chính cần nhiều hơn thế, họ cần biết những thông tin nội bộ của công ty đang trên bờ vực phá sản như cấu trúc quản lý, thông tin các dự án, dòng tiền của công ty, lợi suất của mỗi dự án, chính sách chi trả cổ tức…Một doanh nghiệp có vòng quay bán hàng thấp thì không còn lý do gì để cứu nữa và đó chính là trường hợp của các công ty bất động sản.
Khoảng nửa năm trước, tình trạng thiếu hụt xăng dầu trở nên sôi nổi và đề tài bàn luận lúc đó là “tiền đâu”? Thực chất lúc đó tiền không thiếu, tiền rất nhiều trong nền kinh tế nhưng vì các vụ tai tiếng của bất động sản và ngân hàng nên tiền không chạy vào nền kinh tế nữa mà ứ đọng trong các hộ gia đình vì họ lo sợ nền kinh tế sẽ xấu và muốn tiết kiệm tiền.
4. Khát nhưng no
Khoảng nửa năm trước, tình trạng thiếu hụt xăng dầu trở nên sôi nổi và đề tài bàn luận lúc đó là “tiền đâu”? Thực chất lúc đó tiền không thiếu, tiền rất nhiều trong nền kinh tế nhưng vì các vụ tai tiếng của bất động sản và ngân hàng nên tiền không chạy vào nền kinh tế nữa mà ứ đọng trong các hộ gia đình vì họ lo sợ nền kinh tế sẽ xấu và muốn tiết kiệm tiền. Ngân hàng nhà nước có 2 cách chính để hút VND (Việt Nam Đồng) ngược trở về phía họ: bán ngoại tệ mua lại VND, bán trái phiếu và các loại giấy tờ có lãi suất phi rủi ro bởi lẽ nếu bơm tiền vào nền kinh tế một lần nữa để cứu thị trường bất động sản và tài chính thì lạm phát sẽ tăng lên vì tiền vẫn còn trong túi các hộ gia đình.
Sự không sẵn sàng của các định chế tài chính trong vấn đề cấp vốn cho các doanh nghiệp trước tình hình nền kinh tế khó khăn sẽ buộc ngân hàng nhà nước hạ lãi suất dự trữ vượt mức (các ngân hàng thương mại sẽ phải đóng thêm phí nếu gửi tiền vào ngân hàng nhà nước với lãi suất dự trữ âm nên việc hạ lãi suất này kích thích các ngân hàng thương mại tăng cường cho vay bên ngoài hơn là gửi lại tiền về cho ngân hàng nhà nước).
Chúng ta có thể hiểu rằng lúc đó thị trường thừa tiền nhưng tiền không ở trong các doanh nghiệp mà ở trong các hộ gia đình nên nền kinh tế Việt Nam khi ấy “vừa khát vốn nhưng cũng vừa no tiền” vì dòng vốn không được dẫn dắt đến nơi nó cần. Lúc đó ngân hàng nhà nước Việt Nam muốn đứng ngoài cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng trên thế giới bằng cách bán ngoại tệ để ổn định tỷ giá hối đoái nhưng họ không đủ nguồn lực để chơi sát ván và kết quả họ phải tăng lãi suất bằng phương pháp nâng lãi suất trần là lãi suất chiết khấu và điều này làm tăng lo ngại lạm phát trong tương lai (hiệu ứng Fisher) và vì thế mọi người đổ xô đi mua các mặt hàng trong hiện tại để tránh đồng tiền mất giá trong tương lai (chúng ta có thể thấy người dân xếp hàng mua xăng trong thời điểm đó), một vòng xoáy như thế có thể khiến lạm phát kỳ vọng trở thành lạm phát thật sự và nó khiến đồng tiền bị mất giá nhanh hơn. Vấn đề bán trái phiếu và các giấy tờ có lãi suất phi rủi ro tôi không bàn đến vì bản chất của chính phủ Việt Nam không giống như các đảng cầm quyền khác. Kết quả thì ngân hàng nhà nước lúng túng, lúc thì bơm tiền ra lúc thì hút tiền vào và nhiều người nói vui là ngân hàng nhà nước “vừa uống nước vừa bài tiết nước”.
Giải pháp thực chất rất đơn giản: tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp xuất – nhập khẩu, thông qua hai kênh này thì việc điều chỉnh tỷ giá sẽ diễn ra theo quy luật cung cầu mà vốn thì đến đúng nơi nó cần để phát triển kinh tế. Tuy nhiên với đầu óc lợi ích nhóm của các cơ quan chính phủ, điều đó sẽ không xảy ra. Một mở ngoặc cần lưu ý là ban đầu tôi có nói hộ gia đình tăng tiết kiệm nhưng sau đó lại tăng chi tiêu thì có nhiều người sẽ cảm thấy khó hiểu, thực ra vẫn có trường hợp tăng chi tiêu để tiết kiệm, cụ thể hơn là mua vàng để tránh trường hợp đồng tiền mất giá quá nhanh và nên nhớ rằng tiền bản chất của nó chỉ là giấy xác nhận ngân hàng nợ công sức lao động của người dân chứ không đơn thuần là tài sản nên tăng chi tiêu trong thời điểm hiện tại khi lạm phát kỳ vọng có thể tăng là tiết kiệm sức lao động ở thời điểm hiện tại chứ không phải là tiết kiệm tiền.
5. Phá luật
Khi các ông lớn bất động sản không còn khả năng trả nợ nhưng họ vẫn không muốn phá sản thì họ sẽ làm gì? Phá luật – cách đơn giản nhất để thay đổi thế giới theo ý mình thích. Novaland của ông chủ Bùi Thành Nhơn là ví dụ sinh động cho vấn đề này. Doanh nghiệp này không thể thanh toán được đúng hạn những trái phiếu mà họ đã phát hành và “yêu cầu” chính phủ phải cứu họ vì chính lỗi lầm của họ. Bộ tài chính đòi chính phủ cho phép các doanh nghiệp được trả nợ bằng tài sản khác và được giãn nợ hai năm còn bên quốc hội thì đòi chính phủ chỉ đạo các chính quyền địa phương nhanh chóng giải quyết thủ tục hành chánh (câu từ mỹ miều hơn nằm ở nghị quyết 69/2022 của quốc hội, nói thẳng ra ông Vương Đình Huệ đòi ông Phạm Minh Chính ra lệnh các chính quyền địa phương nhanh cấp sổ đỏ cho các dự án bất động sản) lập luận chung của hai cơ quan này là nếu không cứu ngành bất động sản, để bất động sản đóng băng thì nền kinh tế không phát triển.
Chính phủ và chính quyền địa phương đã làm gì sai? Họ chẳng làm gì sai cả, họ chỉ thi hành đúng luật khi từ chối cấp sổ đỏ cho các doanh nghiệp muốn bán trước nhà ở dự án khi chưa xây dựng hoặc sắp hoàn thành (mô hình này tương tự như của các doanh nghiệp Trung Quốc để giải quyết nguồn vốn cần để thực hiện dự án và nó sụp đổ theo mồ chôn của tập đoàn Evergrande). Cách làm này có những rủi ro tiềm ẩn mà lớn nhất là rủi ro đạo đức, thử tưởng tượng bạn trả tiền trước cho một thợ xây, thợ xây đó sẽ có xu hướng làm chậm tiến độ xây dựng để đòi bạn trả thêm các phụ phí phát sinh khi dự án kéo dài. Đó là những gì đã xảy ra với các doanh nghiệp bất động sản tại Trung Quốc, khi các nhà đầu tư vào nhà ở trở nên mất kiên nhẫn và chấp nhận chịu phạt hơn là tiếp tục đưa tiền cho một dự án mà họ không biết là đến bao giờ mới nhận được. Đương nhiên cách làm này không có gì là phạm phát cả, vấn đề nằm ở chỗ Novaland không cung cấp đủ hồ sơ để thực hiện đánh giá và thẩm định dự án Aqua City cho VPComBank và VPComBank từ chối cấp tín dụng cho Novaland trong khi chính quyền tỉnh Đồng Nai thì từ chối cấp sổ hồng. Nay để cứu “đám cướp” với lập luận “cứu nền kinh tế” thì nó sẽ tạo ra tiền lệ để những đám cướp khác “giãy đành đạch vì chính lỗi lầm của mình” như Chí Phèo trước chính phủ. Khi nền dân chủ được tổ chức lệch lạc như đại diện ủy quyền, các nhóm lợi ích sẽ có khả năng khuynh đảo chính sách và sinh hoạt chính trị của nhà nước. Về vấn đề đại diện ủy quyền và đại diện độc lập – các nghị viên có phải nghe lời cử tri không, tôi sẽ có bài viết trong tương lai.
Lời cuối cùng tôi xin cáo lỗi với độc giả khi chậm ra chuỗi bài viết “Công pháp Quốc tế nào dành cho Ukraine” vì bản thân tôi không chuyên về công pháp quốc tế và bản thân cũng bận chuyện cá nhân. Việc viết những bài viết cần dẫn chứng như chuỗi bài viết mà tôi đề cập là quá sức nhưng nếu là những chủ đề mà tôi đã có kiến thức sẵn như bài viết này thì tôi có thể viết mà không cần tham khảo quá nhiều. Kính mong độc giả lượng thứ cho sự chậm trễ này, có lẽ chúng ta sẽ gặp lại nhau trong chuỗi bài viết về Ukraine trong một dịp nào đó khi chế độ Putin sụp đổ và Trung Quốc khốn đốn. Dân chủ tự do nhất định sẽ thắng lợi trước các chế độ độc tài, những giá trị văn minh một lần nữa lại được xiển dương và hãy hi vọng làn sóng dân chủ thứ Tư sẽ để lại di sản quý giá cho thế hệ con cháu của chúng ta.
Thiên Cầm
(25/2/2023)
Đối với không ít người lao động, đặc biệt là những người làm việc trong lĩnh vực dịch vụ du lịch hay hàng không, cho đến giờ, dù Việt Nam đã mở cửa trở lại sau Covid, thu nhập của họ vẫn bị cắt giảm hơn một nửa để bù vào những gì mà các doanh nghiệp đã phải trả cho họ trong suốt thời gian đình trệ vì đại dịch.
Một người bán hàng rong tại Hà Nội dịp cận Tết
Anh Nguyễn Thành Trung, một nhân viên làm việc trong lĩnh vực cung cấp hàng hoá miễn thuế ở sân bay Nội Bài, Hà Nội, cho biết hiện thu nhập hàng tháng của anh chỉ hơn 10 triệu đồng trong khi người vợ làm cùng ở sân bay trong suốt hơn 3 năm qua không có thu nhập nên đời sống gia đình vô cùng khó khăn.
"Lương của tôi đến giờ vẫn bị cắt 60%, tôi đã hồi lại lương đâu. Nhưng mình phải chấp nhận vì trong suốt hơn 2 năm người ta vẫn trả lương cho mình, dù là có cắt đi như thế nhưng vẫn trả đều vì người ta vẫn muốn giữ mình. Còn bà xã nhà tôi thì vẫn đang nghỉ không lương nhưng cũng xác định là nghỉ luôn công ty cũ rồi."
Ra Tết, vợ chồng anh hy vọng đời sống kinh tế khấm khá hơn và người vợ nghỉ ở nhà mở một cửa tiệm nhỏ bán một số loại hàng hoá nhập khẩu từ các đầu mối quen biết. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện tại thì việc bán buôn cũng vô cùng ế ẩm.
"Thật ra những dân thành phố như Hà Nội thì họ vẫn có tiền để chi tiêu trong việc ăn uống, nhưng đối với các chi phí khác thì họ cũng thắt lưng buộc bụng và hạn chế hơn rồi," anh Trung chia sẻ.
Bà Nguyễn Thu Hương có chồng là giám đốc một công ty chuyên nhập khẩu thiết bị y tế tại Hà Nội. Bà cho biết trước chiến dịch ‘đốt lò‘ của ông Nguyễn Phú Trọng, các hoạt động kinh doanh-cung cấp thiết bị y tế và dược phẩm trong nước ngày càng khó khăn, không lãnh đạo bệnh viện công nào còn muốn liên doanh, đầu tư máy móc vì sợ sai phạm.
"Ông ấy liên doanh với cả bệnh viện. Kiểu như ông ấy bỏ tiền mua máy mang vào bệnh viện thì được chia đôi lợi nhuận. Nhưng bây giờ thì không làm được như thế nữa bởi vì bệnh viện họ không còn dám nhận. Giám đốc bệnh viện không dám nhận bởi vì cái tiền chia đôi đấy không biết ghi vào đâu… Nói chung quy chế kiểu gì nên giờ mang máy về thành đống sắt vụn, trong khi bệnh nhân thì không có máy mà dùng."
Bà Hương nói thậm chí việc nhập khẩu thuốc chữa bệnh cũng đang đình trệ vì những lãnh đạo mới trong Bộ Y Tế cũng không dám ký giấy phép.
Trước tình cảnh hoạt động kinh doanh của công ty sẽ còn khó khăn kéo dài, gia đình bà Hương chỉ còn biết hạn chế mọi khoản chi tiêu để chờ cho đến khi những ngày khó khăn này qua đi.
"Tất nhiên là nó sẽ bị hạn chế một số vấn đề. Ví dụ như quan hệ xã hội chẳng hạn, mình phải hạn chế đi. Ngày xưa làm ăn được thì xông xênh khao người này người kia. Còn bây giờ thì thôi, mình phải sống với những gì mình có thôi," bà Hương than thở.
Anh N.T.P, một nhà báo làm việc lâu năm cho một số cơ quan báo chí trung ương ở Hà Nội, cho biết cái Tết vừa rồi ảm đạm vì những khó khăn trong đời sống kinh tế - xã hội nhưng ra Tết tình hình cũng không sáng sủa gì hơn và khó khăn sẽ còn kéo dài.
"Tôi thấy còn ảm đạm lâu. Doanh nghiệp thì khó khăn, bất động sản thì đóng băng rồi. Còn nhìn vào các nhà hàng và khách sạn thì có khách khứa gì mấy đâu," anh P cho biết.
Cơ quan báo chí nơi anh công tác không còn thu hút được quảng cáo từ các doanh nghiệp như trước, mà giờ chủ yếu chỉ trông vào tiền ngân sách, nên thu nhập của nhân viên tòa soạn cũng bị giảm sút. Để đối phó với tình hình khó khăn, anh P phải nhận thêm công việc tay trái. Tuy vậy, đây cũng không phải là giải pháp khi mà vợ anh tiếp tục thất nghiệp, mọi chi tiêu đều trông vào đồng lương và ít tiền nhuận bút hàng tháng của anh.
"Tôi thì đang ký hợp đồng với hãng phim truyền hình để làm một bộ phim truyền hình. Nhưng kéo dài mà mất thời gian quá. Một tập thì ông cứ phải viết từ 5.000 cho tới 6.000 chữ mà từng đấy thì cũng chỉ được nhuận bút từ 5 đến 6 triệu. Thu nhập đấy thì chỉ bằng viết báo vặt thôi. Chả đáng bao nhiêu cả," anh P than thở và cho biết giờ anh phải đành chấp nhận hạn chế tối đa các khoản chi chứ thực sự cũng chẳng biết xoay vào đâu nữa.
Nguyễn Lại
Nguồn : VOA, 24/02/2023