Đảng cộng sản Việt Nam bước vào Đại hội lần thứ 13 vào tháng Một năm 2021 với số đảng viên đông kỷ lục.
Lế kết nạp đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh - Hình minh họa.
Vào đầu năm nay, số đảng viên ở Việt Nam được cho là ở con số 5,2 triệu, tăng khoảng 150.000 so với năm trước đó. Với đà tăng này, số đảng viên cộng sản sẽ tiến tới gần 5,4 triệu vào đầu năm 2021.
Con số đảng viên tại các đại hội 12, 11 và 10 lần lượt là 4,5 triệu, 3,6 triệu và 3,1 triệu.
Đây là những con số khổng lồ nếu đem so với số đảng viên ở những quốc gia dân chủ, chẳng hạn nền dân chủ già đời tại Anh.
Đảng Bảo thủ đương quyền của Thủ tướng Boris Johnsonchỉ có 180.000 đảng viên. Đảng đối lập chính, Đảng Lao động, có số đảng viên gần gấp ba, chủ yếu nhờ cựu lãnh đạo Jeremy Corbyn có đường lối cực tả khá gần gũi với xu hướng xã hội chủ nghĩa.
Và chuyện lãnh đạo Đảng Lao động ở Anh kéo thêm được nhiều trăm ngàn đảng viên mới nhưng vẫn thất cử cả ba lần kể từ năm 2010 cho thấy không phải cứ tăng số đảng viên có nghĩa là tăng sự ủng hộ của dân chúng nói chung.
Cử tri tại nhiều nước tư bản không thích các chính sách nằm ở hai thái cực cho dù đó là cực tả hay cực hữu. Họ thường ủng hộ các chính sách chung dung. Chính sách cực tả của cựu lãnh đạo Jeremy Corbyn trong đó có quốc hữu hóa một số doanh nghiệp và tăng thuế khiến Đảng Lao động có kết quả bầu cử tệ hại nhất kể từ thập niên 1930 trong lần bầu cử năm ngoái. Kết quả thảm hại đó cũng khiến ông Corbyn phải từ chức.
Không phải tự nhiên mà Đảng cộng sản không muốn đá bóng với bất kỳ đối thủ nào khác trên sân chính trị. Số lượng đảng viên trên 5 triệu không đảm bảo họ sẽ chiến thắng nếu đối thủ cạnh tranh có những chính sách được lòng dân hơn.
Nhưng chuyện chấp nhận bỏ độc quyền làm kinh tế của nhà nước từ gần 40 năm nay nhưng vẫn khư khư ôm độc quyền chính trị cho thấy hai điều.
Thứ nhất đó là tiêu chuẩn kép khi công nhận rằng có cạnh tranh sẽ có tiến bộ nhưng lại nói điều đó không áp dụng duy nhất trong một lĩnh vực đó là chính trị.
Thứ hai nó cho thấy tư duy lạc hậu, như hồi xưa, hơn 100 năm trước, có người thấy đèn điện mới hỏi ‘sao lại treo đèn ngược thế kia’. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực chính trị thực sự là đổi mới trong công nghệ cai trị, dù về bản chất nó vẫn là cai trị. Độc quyền chính trị là bóng đêm trong khi sự tham gia của nhiều xu hướng và đảng phái khác nhau là ánh sáng buộc lực lượng cai trị phải làm việc minh bạch. Bóng đêm độc quyền khiến các quan như Đinh La Thăng hay Nguyễn Đức Chung dễ bề thao túng quyền lực để phục vụ cho thân hữu. Những phường ưa thích bóng đêm nhìn chung thường là đạo tặc hay ít nhất là những kẻ có nhiều thứ để che giấu.
Vài tháng trước khi Đại hội 13 diễn ra,Phạm Đoan Trang, một người bạn Facebook của tôi và người tôi từng nhiều lần hỏi chuyện, đã bị bắt. Tôi thường không quan tâm tới lý do chính thức chính quyền đưa ra khi bắt các nhà hoạt động vì nó là cách nói mơ hồ và võ đoán để giấu nhẹm đi lý do chính – họ sợ bị lột trần truồng trên vũ đài chính trị. Nó hoàn toàn hợp với tư duy thích bóng đêm, thích đi đêm của đảng độc quyền. Bất cứ ai lật mặt nạ của chính quyền đều sẽ phải trả giá.
Không phải không có những nhà lãnh đạo phương Tây sẵn sàng trả thù các nhà chỉ trích nếu họ có thể làm vậy. Chỉ có điều báo chí sẽ nhìn ngó, các quan toà sẽ bác bỏ những vụ kiện trả thù và quốc hội sẽ lên tiếng đòi công lý cho những công dân thực hiện quyền con người theo hiến pháp.
Còn ở Việt Nam thì sao ? Đảng bảo im là báo chí im. Đảng bảo kết án là toà kết án. Đảng bảo gật là các ông bà nghị, hầu hết là đảng viên, sẽ gật ngoan như cừu gặm cỏ.
Thế nhưng mới tháng trướcTổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn dẫn lời Pavel Korchagin trong Thép Đã Tôi Thế Đấy để khuyên bảo các đảng viên : "Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí ; để khỏi phải hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, mang tai, mang tiếng, mọi người khinh bỉ ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay, có thể tự hào rằng : Ta đã sống có ích, đã mang tất cả đời ta, tất cả sức ta hiến dâng cho sự nghiệp cao quý nhất trên đời…"
Quả là nói vậy nhưng hành động không hề như vậy. Và nó phần nào giải thích cho việc Việt Nam nằm trong 20 nước hàng đầu về dân số nhưng về mặt phát triển thường nằm gần cuối top 100.
Nguyễn Hùng
Nguồn : VOA, 15/12/2020
Câu hỏi luôn quan trọng với chế độ đảng toàn trị, không những vì chức vụ tổng bí thư là người có quyền lực tuyệt đối trong chế độ hay nhân sự là công việc nội bộ của đảng, mà còn là vì việc chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ lãnh đạo đang dần có những thay đổi sâu sắc trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường. Bài viết chỉ ra mặc dù các chuẩn mực được quy ước để hạn chế tha hoá quyền lực, nhưng sự chuyển giao quyền lực tổng bí thư luôn là vấn đề qua các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt trước nhiệm kỳ 12. Chỉnh đốn đảng và chống tham nhũng "không vùng cấm" theo hướng tập quyền cao hơn liệu có cải thiện sự chuyển giao quyền lực cho Đại hội 13 sắp tới hay không và thúc đẩy tiếp tục cải cách như thế nào vẫn là câu hỏi cần được làm rõ.
Reuters
Trong chế độ phong kiến, vua, chúa được nối ngôi theo huyết thống. Các triều đại vận hành theo chu kỳ thịnh suy, nhưng trong mỗi triều đại cách thức vẫn là "cha truyền con nối". Chế độ tư bản chủ nghĩa thay thế chế độ phong kiến bởi phương thức sản xuất tiến bộ hơn với động lực thị trường. Chế độ dân chủ với tam quyền phân lập được thiết lập trong các nước phát triển phương Tây và hầu hết các quốc gia mới nổi và đang phát triển cũng đang trong quá trình chuyển đổi dân chủ với các mức độ khác nhau.
Sau cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 mô hình Xô Viết với chế độ đảng cộng sản ra đời và tồn tại đến năm 1990. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã sụp đổ. Các nước Trung Quốc, Việt Nam vẫn duy trì chế độ chính trị như vậy nhưng thực hiện chính sách "cải cách và mở cửa" để chuyển nền kinh tế sang thị trường. Về định hướng là "xã hội chủ nghĩa", nhưng về thực chất các chế độ này cũng không thể tránh được xu hướng chuyển đổi dân chủ. Đó chính là quá trình thể chế hoá chế độ.
Các lãnh tụ cách mạng, "thế hệ khai quốc công thần", thường nắm quyền bính suốt đời cho đến chết, Như I. Stalin ở Liên Xô cũ, Mao Trạch Đông ở Trung Quốc… Nạn sùng bái cá nhân, tranh giành quyền lực đã xảy ra sau đó. Bởi vậy các tiêu chuẩn chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ lãnh đạo đảng dần được thiết lập, rõ ràng nhất là giới hạn nhiệm kỳ và độ tuổi đối với mỗi cấp lãnh đạo. Ngoài ra, vấn đề năng lực, kỹ trị, người tài cũng được chú trọng nhằm hạn chế tính bè phái vốn đóng một phần vai trò trong việc chuyển giao quyền lực.
Các chuẩn mực trong "công tác cán bộ" cần thiết để kiểm soát tha hoá quyền lực. Bởi vậy, việc phá vỡ hai nguyên tắc chuyển giao quyền lực nêu trên là nguyên nhân quan trọng gây nên sự mất ổn định thậm chí là "bất ổn" chế độ.
Quá trình chuyển giao quyền lực từ sau Đại hội "Đổi mới" năm 1986 đến trước Đại hội 11 năm 2011 được quan sát là tương đối "suôn sẻ". Sau khi cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người cầm quyền nhiều năm nhất, qua đời, quá trình chuyển giao quyền lực dần theo chuẩn mực, trong đó nhấn mạnh tuổi và nhiệm kỳ. Cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tại Đại hội 6 (1986-1991) đến Đại hội 11 khi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nắm quyền nhiệm kỳ thứ nhất (2011-2016).
Có hai điểm mà các nhà phân tích chính trị lưu ý. Một là, có "trục trặc" ở Đại hội 8 khi cố Tổng bí thư Đỗ Mười nắm quyền tại Đại hội 7 (1991 -1996) và tiếp tục kéo dài hơn 1 năm, đến 12/1997 tại Đại hội 8 (1996- 2001), sau đó ông được thay thế bởi cố Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Sự "trục trặc" là trường hợp quá tuổi theo quy định và được giải thích để giữ ổn định khi "sàng lọc" người kế vị ; Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo với Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành trung ương là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định chức vụ Tổng bí thư.
"Kịch tính" chuyển giao quyền lực được quan sát là thời gian trước và trong Đại hội 12. Đảng nhận định "sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống của bộ phận không nhỏ lãnh đạo đảng viên" đe doạ sự tồn vong của chế độ. Nhà báo Huy Đức trên Facebook của mình đã khái quát về ba thế hệ lãnh đạo, rằng thế hệ các bậc "công thần khai chế độ" là những người có khát vọng, không "tủn mủn" vật chất và biết chuẩn bị một thế hệ kế tục "con đường" của mình ; Thế hệ "kế tục sự nghiệp" cầm quyền trong bối cảnh "Liên Xô sụp đổ", "khí chất kẻ sỹ" vẫn giúp họ đặt khát vọng dân tộc cao hơn lợi ích cá nhân, nhưng đã nhìn thấy "sự lầm than" chủ yếu vì "lỗi hệ thống" và "giáo điều" ; Thế hệ thứ ba cầm quyền vào thời điểm "quyền lực rất có màu", "tự tha hoá mình về mặt con người" và "làm vô hiệu các nỗ lực cải cách thể chế của những người tiền nhiệm".
Sự "gần gũi" với "thị trường" và thiếu cơ chế giám sát quyền lực khiến các nhà "kỹ trị", quan chức chính phủ trực tiếp điều hành chính sách đã dễ dàng bị cám dỗ bởi vật chất. Sự suy thoái của "một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên" là một trong những nguyên nhân gây chia rẽ trong tập thể lãnh đạo, hình thành bè phái với một bên là "phe đảng", các nhà chính trị, hoạch định tư tưởng và đường lối.
Phá vỡ chuẩn mực chuyển giao quyền lực, "các trường hợp đặc biệt" được thoả thuận bởi nguyên tắc tập thể lãnh đạo, trong đó vị trí tổng bí thư cần phải được đề cử theo Quyết định 224/TW năm 2014 về quy chế bầu cử trong đảng, mà "ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử ; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị". Điều này đã giúp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nắm quyền ở nhiệm kỳ thứ hai (2016-2020).
Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng. Hình AFP
Ông Tổng bí thư tập trung chỉnh đốn nội bộ đảng và với tư cách Trưởng ban phòng chống tham nhũng trực tiếp chỉ đạo chiến dịch chống tham nhũng "không vùng cấm". Một Hội nghị tổng kết công tác phòng chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội 12 đến nay được tổ chức ngày 12/12 tại Hà Nội. Riêng từ đầu nhiệm đến nay, hơn 87.000 đảng viên trong tổng số hơn 131.000 bị kỷ luật, trong đó có trên 3.200 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng, và đáng chú ý là hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý gồm 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng ; 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị ; hơn 30 sĩ quan cấp tướng… bị kỷ luật và xử lý hình sự.
Tuy nhiên, ngoài ông Đinh La Thăng đã bị kết án 30 năm tù vì vi phạm pháp luật, mới đây, "sự kiện" hai ủy viên Bộ Chính trị đương nhiệm, hai nhà "kỹ trị", nguyên Phó thủ tướng và nguyên Thống đốc ngân hàng, đã bị kỷ luật "cảnh cáo" vì những vi phạm khuyết điểm từ nhiệm kỳ Đại hội 11 (2011-2016) đặt dấu chấm hết cho "quan lộ" của họ theo Chỉ thị 35-CT/TW năm 2019, và đã làm dấy lên suy đoán rằng việc chuyển giao quyền lực tổng bí thư vẫn còn "khó khăn" với nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Các "trường hợp đặc biệt", đề cử tổng bí thư và cơ cấu dàn lãnh đạo mới… cũng vẫn cần sự đồng thuận của tập thể Bộ Chính trị hiện thời. Ý kiến cá nhân Tổng bí thư là quan trọng, nhưng việc cân bằng các yếu tố khác luôn được đặt ra. Có hai người được nói đến bao gồm :
- Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với chính sách thúc đẩy động lực thị trường để tăng trưởng kinh tế đồng thời với cải cách thể chế, điều hành phòng, chống đại dịch COVID-19 thành công và vượt qua thảm hoạ bão lũ miền Trung vừa qua.
- Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, nguyên Viện trưởng Viện kiểm sát, được kỳ vọng "đẩy lùi tham nhũng" trong nhiệm kỳ tới và đang đứng đầu danh sách "các trường hợp đặc biệt" quá tuổi để đề cử chức vụ tổng bí thư. Nhưng sự phân chia các vị trí quyền lực khác là cơ sở và "truyền thống" cho sự đồng thuận tập thể.
Hội nghị trung ương 14 được tổ chức hôm nay 14/12/2020, trước thềm Đại hội 13 liệu có là cuối cùng của nhiệm kỳ tuỳ thuộc vào sự đồng thuận theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo những nội dung quan trọng liên quan đến nhân sự cấp cao, trong đó việc "đề cử" chức vụ tổng bí thư. Hơn thế, câu hỏi lớn được đặt ra vì sao trong thời kỳ Đổi mới, qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, kể cả Đại hội 13 này, việc chuyển giao quyền lực vẫn luôn gặp khó khăn ?
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 14/12/2020
Tiếp tục cải cách thể chế là thông điệp chủ yếu trong các văn kiện trình Đại hội 13, trong đó có hai nội dung căn bản : thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường và chỉnh đốn Đảng bằng cách tập trung quyền lực cao hơn. Từ góc nhìn thể chế, đây là quá trình chuyển đổi dân chủ. Nó được thể hiện qua sự thể chế hóa, nghĩa là xây dựng thể chế thị trường và chế độ trong quá trình phát triển quốc gia. Mục đích bài viết nhằm làm rõ sự tác động qua lại của hai yếu tố trên ở Việt Nam, từ đó kết luận rằng việc tập trung quyền lực đảng nói chung cũng như trường hợp chỉnh đốn nội bộ và chống tham nhũng, là cản trở cải cách thể chế thị trường.
Reuters
Phát triển kinh tế thị trường luôn gắn liền với chuyển đổi dân chủ. Đó là quá trình thay đổi mọi mặt trong xã hội dẫn đến thay thế những cấu trúc xã hội độc đoán, tập trung quyền lực vào số ít người bằng một hệ thống mà người dân có thể kiểm soát quyền lực, tham gia xây dựng xã hội tự do, bình đẳng. Có nhiều hình thức chuyển đổi dân chủ tuỳ thuộc vào thể chế ở mỗi quốc gia, nhưng luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế thị trường, bởi vậy nó mang xu hướng tất yếu hiện nay trên thế giới.
Thị trường tạo động lực cho chủ nghĩa tư bản phát triển đồng thời cũng sản sinh chế độ dân chủ với thể chế tam quyền phân lập dần hoàn thiện trong thế giới phương Tây phát triển.
Các Mác cho rằng chủ nghĩa tư bản "tự đào mồ chôn mình" và bị thay thế bởi chủ nghĩa cộng sản, phương thức sản xuất cao hơn. Tuy nhiên, con đường đến xã hội đó bằng cách mạng chuyên chế và mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã là thử nghiệm. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây ở Đông Âu đang chuyển đổi hoà bình từ bên trên "kiến trúc thượng tầng" sang chế độ dân chủ.
Quá trình chuyển đổi dân chủ cũng thành công tại các quốc gia được gọi là "các con hổ Châu Á", như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… bằng sự kết hợp cả từ bên dưới, nhu cầu dân chủ của người dân và bên trên, sự thay đổi chế độ để đáp ứng, được diễn ra đồng thời với tăng trưởng kinh tế nhanh trong bối cảnh mở rộng thị trường toàn cầu.
Chính sách cải cách và mở cửa thực dụng ở Trung Quốc đã khuyến khích kinh tế thị trường giúp tăng trưởng nhanh, đảm bảo tính chính danh cho chế độ đảng cộng sản. Tuy nhiên, "tính thích nghi, tính tinh vi, tính tự trị" đang bị "lung lay" bởi sự tập trung quyền lực dẫn đến cai trị độc đoán. Chuyển đổi dân chủ đang bị thách thức nghiêm trọng.
Hình ảnh các lãnh tụ cộng sản trên đường phố Hà Nội : Hồ Chí Minh, Karl Marx, Lenin. Reuters
Tương đồng về chế độ chính trị Trung Quốc và Việt Nam có những "điểm chung" cơ bản về chuyển đổi dân chủ, đó là việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thị trường nhưng vẫn giữ chế độ đảng toàn trị. Tuy nhiên, sự khác biệt về các yếu tố lịch sử, kinh tế và xã hội được phản ánh trong hoạch định và thực thi chính sách, tận dụng thời cơ cho phát triển.
Trong Dự thảo báo cáo chính trị khẳng định : "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Bỏ qua những tranh cãi về chính trị, có thể chia sẻ ý kiến rằng xã hội chủ nghĩa còn ở xa, "định hướng" tới tương lai bất định, còn thị trường đang hiện hữu ngày càng rõ trước mặt trong thực tế chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường.
Các nhà nghiên cứu đã "tìm kiếm" mô hình xã hội chủ nghĩa dân chủ ở các nước phát triển Bắc Âu, như Thuỵ Điển hay Đan Mạch, tuy nhiên nhận định chung đó vẫn là mô hình tư bản chủ nghĩa phát triển với nhà nước phúc lợi rộng rãi trong khi các phương tiện sản xuất được sở hữu chủ yếu bởi tư nhân, tài nguyên được phân bổ đến người dùng thông qua thị trường, chứ không phải bởi kế hoạch của chính phủ hay cộng đồng.
Nay kinh tế thị trường trong "mô hình kinh tế tổng quát" được nhận thức lại rằng không phải là từ khâu phân phối phúc lợi, mà về khía cạnh thể chế như các quy luật và nguyên tắc vận hành để Việt Nam có thể trở thành bộ phận của thị trường quốc tế.
Quá trình chuyển đổi gắn liền với việc thể chế hoá, nghĩa là xây dựng và hoàn thiện thể chế nói chung, trong đó thể chế kinh tế thị trường là ưu tiên.
Trước Đại hội 12 thể chế kinh tế thị trường đã được chú ý, tuy nhiên còn bị níu kéo nặng nề bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Sự sai lầm của chính sách tăng trưởng nóng vội dựa vào các tập đoàn nhà nước, được coi là những "quả đấm thép" của nền kinh tế đã dẫn đến "sự bất ổn kinh tế vĩ mô", mà thực ra là khủng hoảng, kéo dài khoảng một thập kỷ, mà hậu quả thiệt hại to lớn đến nay chưa khắc phục xong. Trong nhiệm kỳ khóa 12, từ năm 2016 đến nay, chính sách kinh tế thực dụng với "Chính phủ kiến tạo" đã "né" được ý thức hệ giáo điều, tạo môi trường khuyến khích khởi nghiệp và hoạt động kinh doanh dần trở về với quỹ đạo thị trường.
Việc thể chế hóa thị trường đã có "chuyển biến". Chương trình xây dựng pháp luật luôn "dày đặc" tại các khóa họp của Quốc hội, và các đại biểu quốc hội đã "chất vấn" thẳng hơn, và được dư luận đánh giá. Hơn thế, tại nghị trường kỳ họp thứ 10 Khóa 14 hơn 60% đại biểu Quốc hội khóa 14 "thấy chưa cần thiết có Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự cơ sở" và 66,74% không đồng ý "chuyển sát hạch bằng lái xe sang Bộ Công an"… Tuy nhiên, công tác lập pháp vẫn gặp nhiều thách thức bởi nhiều lý do, trong đó tình trạng lợi ích nhóm, "quyền anh, quyền tôi" trong xây dựng pháp luật như ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gần đây đã cảnh báo. Ngoài ra, tình hình "nợ đọng các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh" là nghiêm trọng và kéo dài…
Khủng hoảng kinh tế kéo theo "bất ổn" về thể chế chính trị và xã hội, và Đảng cầm quyền đã "tự cảnh báo" về nguy cơ tồn vong chế độ. "Nhà nước tư bản thân hữu" đã hình thành với mạng lưới các nhóm lợi ích, trong đó sự tham gia của "bộ phận không nhỏ" quan chức suy thoái về đạo đức lối sống. Tình trạng tham nhũng rộng khắp và nặng nề. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ngày 25/11/2020 đã nói : "Chưa đầy một nhiệm kỳ, hơn 100 cán bộ cấp chiến lược bị xử lý kỷ luật. Trong tất cả những tội lỗi, khiếm khuyết thì điều căn bản nhất tôi nhìn thấy đều có sự khiếm khuyết về đạo đức".
Trong quá trình Đổi mới nhiều tiêu chuẩn chuyển giao quyền lực, trong đó có giới hạn về tuổi, giữa các thế hệ lãnh đạo đã được thiết lập về tuyển dụng, phân quyền, sử dụng cán bộ lãnh đạo đã dựa vào thành tích, năng lực kỹ trị để tránh bè phái… Trong khủng hoảng những chuẩn mực trên phải nhường chỗ cho các hiện tượng "mua quan, bán chức", "cả họ làm quan", "thái tử đỏ", "bổ nhiệm thần tốc", "hoàng hôn nhiệm kỳ", "các trường hợp đặc biệt"…
Từ đầu nhiệm kỳ 12 Đảng đã coi chỉnh đốn nội bộ là trọng tâm. Đồng thời với tăng cường chống tham nhũng "không vùng cấm" các chỉ thị, quy định của Đảng được ban hành theo hướng tập trung quyền lực. Đơn cử, Quyết định số 244-QĐ/TW năm 2014 về việc ban hành quy chế bầu cử trong đảng, trong đó việc đề cử, ứng cử là do cấp uỷ đảng quyết định. Thí dụ, Điều 13 của quyết định có ghi : "3- Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử ; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị".
Thực tế chỉ ra rằng việc tập trung quyền lực đảng kìm hãm chuyển đổi dân chủ. Sở hữu toàn dân - nền tảng của chế độ XHCN, là thách thức đối với quá trình tư hữu hoá, cổ phần hóa doanh nghiệp và "tự chủ hoá" đơn vị sự nghiệp công ; Thị trường lao động bị chia cắt khi bộ máy nhà nước luôn phình to, hiệu lực thấp nhưng lại thu hút đa số nhân lực bằng cấp cao ; Khái niệm dân chủ XHCN khác biệt với các giá trị phổ quát về dân chủ và nhân quyền, là cản trở thể chế hóa các quyền hiến định của công dân như quyền biểu đạt và hội họp…
Tóm lại, chỉnh đốn đảng bằng cách chống tham nhũng và giáo dục đạo đức cho cán bộ lãnh đạo có thể chỉ là giải pháp tạm thời khi thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường. Bởi vậy cải cách thể chế được khẳng định trong văn kiện Đại hội 13 là sẽ vẫn tiếp tục.
Phạm Quý Thọ (Hà Nội)
Nguồn : RFA, 07/19/2020
Ở Việt Nam, mặc dù lâu nay chúng ta tuy không thừa nhận, và không tổ chức Nhà nước theo nguyên lý tam quyền phân lập, mà đặc trưng là các quyền đối trọng và kiểm soát lẫn nhau, nhưng có thể nói, pháp luật và thực tiễn của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay ; đặc biệt là Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trước đây, đã tiếp thu nhiều yếu tố hợp lý của thuyết tam quyền. Đây chính là một trong những yếu tố mà giờ đây khi nhắc kể, không ít ý kiến khen ngợi. Đó chính là một ‘sức hấp dẫn’ của Đảng, hồi ‘thuở ban đầu’ ấy.
Muốn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, có lẽ cần phải nhấn mạnh nhiều hơn đến việc "nâng cao sức hấp dẫn của Đảng", chứ không chỉ nói nhiều đến "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng" như hiện nay. Ảnh minh họa Nguyễn Xuân Phúc tang quà cho nạn nhân lũ lụt miền Trung để chụp hình
Thuyết tam quyền không hề "phản động" như ý kiến ở nhiều bài báo của tuyên giáo. Đó chỉ là cách gọi tên các quyền (và các cơ quan) lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thuyết này coi trọng tính độc lập của hoạt động tư pháp, xác định Tòa án là mắt xích trọng tâm của hệ thống tư pháp, cùng với cách phân biệt ngày càng rành mạch giữa các quyền này, và phương hướng tăng cường kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nói riêng.
Là một trong ba trụ cột của quyền lực nhà nước, phân biệt theo chức năng, quyền tư pháp không đồng dạng với hai loại quyền còn lại, và luôn giữ một vị thế độc lập, một nhánh quyền lực quan trọng trong các thể chế nhà nước hiện đại, đặc biệt là trong nhà nước pháp quyền.
Quyền tư pháp được nhìn nhận từ nhiều giác độ, song tựu trung, quyền tư pháp là quyền xét xử, là việc nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp, giải quyết xung đột xã hội bằng việc xét xử, thông qua thủ tục xét xử do luật định.
Quyền tư pháp từ đó phân biệt với quyền lập pháp (định hình chính sách và tạo lập cơ sở pháp lý), và quyền hành pháp (quản lý nhà nước, thực thi pháp luật, bảo vệ pháp luật) không chỉ ở nội dung mà còn là ở hình thức thực hiện và cơ quan thực hiện.
Quyền tư pháp được thừa nhận là một loại quyền lực nhà nước với đặc trưng của quyền là độc lập. Không phụ thuộc vào bất cứ tác động nào từ bên trong và bên ngoài trong quá trình thực thi quyền lực, chủ thể quyền tư pháp hay là chủ thể quyền xét xử phải được đặt ở vị trí độc lập.
Chủ thể quyền tư pháp đang được nói đến ở đây, không ai khác chính là Tòa án. "Quyền tư pháp bao gồm xét xử hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm quyền tự do và quyền con người, và do đó phải được trao cho một thiết chế riêng rẽ – đó là Tòa án" – Montesquieu đã định nghĩa như vậy.
Đương nhiên, chỉ trong chính thể phân quyền hoặc tập quyền, nhưng có phân công rành mạch giữa ba nhánh quyền lực thì độc lập tư pháp mới biểu hiện rõ ràng.
Đảng sẽ hấp dẫn hơn trong mắt của những nhà phản biện vốn ưu ái thuyết phân quyền, nếu như Đảng chấp nhận cùng trao đổi, thay cho việc phủ nhận như một mệnh lệnh hành chính là "không tam quyền phân lập" vẫn hay bắt gặp ở các bài báo.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh, người đã từng giúp Đảng hấp dẫn trong mắt nhiều tầng lớp trí thức, khi ông nhấn mạnh quan niệm tư pháp là xét xử, và việc xét xử chỉ do Tòa án thực hiện.
Điển hình là Hiến pháp 1946, ở chương Tư pháp, ghi nhận việc xét xử và cơ quan xét xử. Theo Hiến pháp 1946, quyền lực tư pháp mặc nhiên được thừa nhận là quyền lực độc lập và do Tòa án thực hiện.
Tuy nhiên, về sau này trong nhận thức và thực tiễn tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có khuynh hướng mở rộng phạm vi quyền tư pháp, coi xét xử chỉ là mắt xích, là khâu trọng tâm của hoạt động tư pháp, là một bộ phận chứ không phải là toàn bộ quyền tư pháp.
Theo đó, một số quyền tố tụng trước và sau xét xử và cả quyền bổ trợ tư pháp cũng được coi là quyền tư pháp. Hiển nhiên, cơ quan được giao thực hiện các quyền này cũng được mệnh danh là cơ quan tư pháp. Khuynh hướng này – theo người viết – là có hại không chỉ trong "phân công rành mạch", mà nguy hiểm hơn là hạ thấp vị trí, vai trò của quyền tư pháp với tư cách là một loại quyền lực đặc biệt, độc lập và chỉ do cơ quan xét xử thực hiện như đã nêu.
Dĩ nhiên Đảng sẽ thêm hấp dẫn nếu như Đảng lắng nghe, và cầu thị tu chỉnh những quyết sách này về tư pháp, trong bối cảnh quyền tư pháp mang tính chính trị với việc Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo đối với quyền tư pháp.
Nguyễn Huyền
Nguồn : VNTB, 07/12/2020
"Quân đội phải làm mạnh hơn nữa, bài bản hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa. Đối với những người lầm đường, lạc lối thì phải kiên trì vận động, cảm hóa, giáo dục, thuyết phục. Đối với những kẻ mượn cớ, nhân danh "góp ý" để chống đối, phá hoại thì phải kiên quyết trừng trị theo pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng, kỷ luật của Quân đội".
Đó là chỉ thị của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng, Chủ tịch nước đã đưa ra tại Hội nghị Quân Chính toàn quân năm 2020, ngày 7/12/2020, tại Hà Nội.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy T.Ư phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (Ảnh : TTXVN)
Nhưng thái độ gay gắt của ông Trọng trước thềm Đại hội đảng XIII có ý nghĩa gì ? Nó chỉ tập trung vào tập thể quân đội hay cả trong dân và cán bộ, đảng viên ?
Nếu chỉ trong quân đội thôi thì nguy to. Càng nguy nan hơn nếu phong trào "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" lan sang lực lượng công an vì Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định Quân đội và Công an là hai lực lượng nồng cốt bảo vệ Đảng và Tổ quốc. Nếu một trong hai trụ cột này mà suy thoái để "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" thì đảng lâm nguy, mất chỗ tựa lưng để tồn tại.
Do đó, khi ông Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã công khai nhắc nhở Quân đội "phải làm mạnh hơn nữa, bài bản hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa" trong công tác chống những ý kiến trái chiều với đảng trong đóng góp ý kiến vào các Dự thảo Văn kiện đảng khóa XIII thì vấn đề không giản dị hay chỉ có thế thôi.
Vì Tiểu ban Văn kiện đảng do ông Trọng đứng đầu không cho biết những ai, thành phần nào trong xã hội, trong đảng và trong Quân đội đã "nhân danh 'góp ý' để chống đối, phá hoại" nên nội dung chống đối không được đưa ra ánh sáng.
Việc lấy ý kiến nhân dân nhằm tập hợp và phát huy trí tuệ, quyền làm chủ của nhân dân trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của đất nước.
Việc này cho thấy đã có tình trạng "bằng mặt mà không bằng lòng" với các Dự thảo Văn kiện XIII, đặc biệt là Báo cáo Chính trị. Tuy không nói ra, nhưng qua các bài viết và phát biểu của một số người Trong Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo trên các Tạp chí Cộng sản, Tuyên giáo và Xây dựng đảng thì có 2 vấn đề nổi bật và quan trọng nhất đã được tranh luận trong xã hội là liệu chúng có còn giá trị trong thực tế khi không còn Thế giới Cộng sản do Nga lãnh đạo nữa.
Đến nay, sau ngày Khối cộng sản Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã từ 1989 đến 1991, tuy chủ nghĩa cộng sản vẫn còn trên giấy, nhưng trên thế giới chỉ còn lại 5 nước bám lấy cái phao của chủ nghĩa thoái trào và sắt máu này. Đó là Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Bắc Triều Tiên và Cuba với mỗi nước theo một phiên bán "chệch hướng khác nhau" cho phù hợp với hoàn cảnh mỗi quốc gia với mục đích duy nhất là quyền dân phải nằm trong tay đảng, và nhà nước phải nắm toàn diện và chỉ huy kinh tế để xiết dạ dầy dân vào mục tiêu chính trị.
Hai vấn đế cốt lõi của Đảng cộng sản Việt Nam là :
1. Tiếp tục kiên định xây dựng đất nước dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Tiếp tục theo đuổi chủ trương làm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ý nghĩa gì ?
Có nhiều trí thức và đảng viên tại chức hay đã nghỉ hưu có uy tín trong đảng chê bai hai quyết định của đảng là sai lầm và lạc hậu. Sai lầm vì Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không dám từ bỏ chủ nghĩa Mác Lênin vì Trung Quốc vẫn còn theo đuổi nó dưới tên gọi mới là "Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc".
Bách khoa Toàn thư mở giải thích : "Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc "là hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc dựa trên chủ nghĩa xã hội khoa học. Ý thức hệ này hỗ trợ việc tạo ra một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chi phối bởi các khu vực công vì Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Chính phủ Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không từ bỏ chủ nghĩa Mác nhưng đã phát triển nhiều thuật ngữ và khái niệm của lý thuyết Mác-xít để hàm chứa hệ thống kinh tế mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng chủ nghĩa xã hội là tương thích với các chính sách kinh tế. Trong tư tưởng của Cộng sản Trung Quốc hiện nay, Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội-một quan điểm giải thích các chính sách kinh tế linh hoạt của chính phủ Trung Quốc để phát triển thành một quốc gia công nghiệp hóa.
Bắt đầu từ cuối năm 1978 các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tiến hành cải tổ nền kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô viết sang nền kinh tế hướng thị trường hơn nhưng vẫn trong khuôn khổ kiểm soát của Đảng. Theo mục tiêu này, chính quyền đã chuyển sang cơ chế khoán trong nông nghiệp thay cho hình thức hợp tác xã, tăng quyền hành đối với cán bộ địa phương và lãnh đạo các nhà máy trong công nghiệp, cho phép hoạt động đối với một loạt các doanh nghiệp cỡ nhỏ trong các ngành dịch vụ và sản xuất nhỏ, và mở cửa nền kinh tế cho ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Các chính sách kiểm soát giá cả cũng được nới lỏng. Kết quả là nền kinh tế Hoa Lục đã chuyển từ một nền kinh tế mệnh lệnh sang hình thức kinh tế hỗn hợp, dung hòa giữa sở hữu tư nhân và nhà nước tạo nên một thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước mang đặc trưng của Trung Quốc".
Vậy Đảng cộng sản Việt Nam có bắt chước làm theo Đảng cộng sản Trung Quốc không ?
Từ mấy chục năm qua, không biết bao nhiêu lần trí thức và đảng viên có uy tín trong đảng, cả tại chức hay đã nghỉ hưu, đều đồng thanh kêu gọi đảng "phải đổi mới chính trị", từ bỏ chủ nghĩa giáo điều và lạc hậu Mác Lênin và phần tư tưởng cộng sản của Hồ Chí Minh, nhưng giữ lại "tư tưởng dân tộc" của ông Hồ để tạo bước đi mới trong xây dựng đất nước trên nền tảng dân chủ và tự do.
Ba trong số trí thức và công thần nổi tiếng của chế độ là Trung tướng Trần Độ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa đảng VI Trần Xuân Bách và Nhà tư tưởng Hoàng Minh Chính cũng đã khuyên đảng theo gương Tổng bí thư, Chủ tịch nước Liên Xô Mikhail Gorbachev để chấp nhận "đa nguyên", "đa đảng" nhưng bị lên án và kỷ luật tồi tệ.
Để rồi, từ thời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh (khóa đảng VI) cho đến bây giờ, khóa đảng XII với ông Nguyễn Phú Trọng, một người giáo điều và bảo thù hàng đầu, đã kéo cả đảng và nhà nước vào con đường lạc hậu và chậm tiến, khiến đất nước và nhân dân đã nghèo càng tụt hậu và chậm tiến hơn bao giờ hết.
Từ Cương lĩnh đến Hiến pháp
Bằng chứng tụt hậu đã ghi trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, Phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013.
Cương lĩnh viết :
"Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam ; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Về Kinh tế, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương :
"Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa".
Trong khi Hiến pháp tu chính năm 2013, chỉ đáng giá là một "bản sao" của Cương lĩnh đảng vì nội dung giống nhau. Điều này chứng minh, dù nhà nước đã cải chính, Đảng cộng sản đã nắm mọi quyền hành ở Việt Nam. Mọi quyết định đều trong tay đảng. Quốc hội và Hội đồng nhân dân tuy được bầy vẽ có bầu, nhưng dân lại bỏ phiếu cho người của đảng đưa ra thì khác gì nước đổ lá khoai ?
Hãy đọc Điều 4 Hiến pháp năm 2013 để thấy Đảng đã chiếm quyền dân như thế nào :
1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trong lĩnh vực kinh tế, Điều 51 Hiến pháp quy định :
1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế ; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh ; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.
Chống đa nguyên – đa đảng
Trong khi đảng nhiều lần tuyên bố "Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng", nhưng ai cho phép đảng tự tung tự tác như thế ?
Tuyên giáo đảng, đội ngũ chuyên nghề tuyên truyền và đổi trắng thay đen như cơm bữa đã cương giọng như thế này : "Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan : Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng. Với bản lĩnh, trí tuệ, "là đạo đức, là văn minh", Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một quốc gia đang phát triển hết sức năng động. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện ; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng ; quốc phòng, an ninh được giữ vững ; văn hóa, xã hội có nhiều bước phát triển ; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế".
Sau đó, Tuyên giáo lại vênh váo : "Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền (dù là chế độ đa đảng hay một đảng đều phải hướng tới vấn đề cốt tử nhất), đó là : chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hóa, xã hội phát triển bền vững, an sinh xã hội được bảo đảm. Chính thực tiễn này đã khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng : "Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ".
(theo Tuyên Giáo, ngày 21/07/2018)
Ai phá ai ?
Mới đây, trong 3 hội nghị với đảng ủy công an, đảng ủy quân đội và quân chính (quân sự-chính trị) trong Quân đội, ông Nguyễn Phú Trọng đã liên tiếp kêu gọi toàn quân, toàn đảng phải :
"Tiếp tục đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch hòng chống phá Đảng, Nhà nước, Chế độ, Quân đội ta. Đấu tranh chống các biểu hiện cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác ; không để suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ".
(Trích Diễn văn tại Hội nghị Quân Chính toàn quân năm 2020, ngày 7/12/2020)
Ngoải ra ông Trọng còn cảnh giác rằng :
"Tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định, đặc biệt do tác động mạnh của đại dịch Covid-19. Cạnh tranh chiến lược, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa bảo hộ, chiến tranh thương mại gia tăng ; sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ; xung đột vũ trang xảy ra ở một số nơi trên thế giới, hoạt động khủng bố, an ninh mạng, vấn đề trên Biển Đông và an ninh phi truyền thống đã và đang đặt ra những thách thức lớn đối với cộng đồng quốc tế trong đó có nước ta… Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Hướng tới năm 2021, ông Nguyễn Phú Trọng cảnh báo :
"Năm 2021 là năm mở đầu cho một thập kỷ mới, cho một thời kỳ phát triển mới của đất nước ; năm diễn ra Đại hội XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2020 ; năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp. Tình hình an ninh chính trị thế giới, khu vực sẽ còn có những diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, thời cơ, thuận lợi là cơ bản, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch sẽ còn đẩy mạnh các hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ; tình hình thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu ; hoạt động của các loại tội phạm sẽ còn có những diễn biến bất thường... Những vấn đề đó chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ của Quân đội".
Cuối cùng ông ra lệnh Quân đội phải :
"Tập trung xử lý có hiệu quả một số vấn đề biển, đảo, biên giới, nhất là các tình huống trên Biển Đông, tuyến biên giới và vùng biển Tây Nam, các quan hệ quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quân đội tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn ; không được để xảy ra bị động, bất ngờ… Phối hợp chặt giữa Quân đội với Công an và các lực lượng chức năng khác để chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch".
Sự thể ông Nguyễn Phú Trọng phải nói đi nói lại nhiều lần cái được gọi là "âm mưu và hành động" chống đảng của "các thế lực thù địch" trong một bài Diễn văn trước Quân đội và Công an, chỉ có thể hiểu là chuyện chống đảng không lẻ loi và đơn giản.
Nhưng khi ông Nguyễn Phú Trọng và Ban Tuyên giáo đảng không dám nêu đích danh những "thế lực thù địch" là ai, ở đâu trong dân, trong đảng hay từ nước ngoài chui vào phá hoại ? Chẳng lẽ chỉ có ông Trọng và ông Võ Văn Thưởng, Trưởng Ban Tuyên giáo nhìn thấy và biết rõ tông tích những kẻ phản trắc là ai, nhưng lại giấu kín để làm
Hay là hai ông lại chơi trò kẻ tung người hứng để hù họa đồng chí với nhau cho bỏ ghét ? Nhưng nếu lại là chuyện thật trăm-phần-trăm thì quả là "thù địch" đã đến chân rồi đấy. con bài tẩy tại Đại hội đảng XIII chăng ?
Phạm Trần
(10/12/2020)
Loan Thảo, VNTB, 05/12/2020
Lo ngại này nếu xét trong bối cảnh chung về đời sống chính trị trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là đối với Mỹ, thì có lẽ cần có sự điều chỉnh đối với chính khách Việt Nam – cụ thể hơn là với Bộ Chính trị.
Việt Nam không lựa chọn mô hình "tam quyền phân lập" vì ngại rằng sẽ nguy cơ đưa đến yêu cầu về đa nguyên.
Tầm nhìn chính sách đối ngoại của Mỹ, vốn bắt nguồn từ tính đa nguyên dân chủ ở trong nước, cũng luôn ủng hộ tính đa nguyên tương ứng ở nước ngoài – trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cũng như trên toàn thế giới.
Cho dù là trong nước hay ở nước ngoài, nhiệm kỳ nào của các đời Tổng thống Mỹ đều ủng hộ các hệ thống đa nguyên quản trị dựa trên tự do, thượng tôn pháp luật, và việc tôn trọng quyền của các nước láng giềng. Và chính bởi cái nhìn như vậy của chính phủ Mỹ về tính đa nguyên trong nước, bắt nguồn từ quyền chủ quyền của mỗi cá nhân, cho nên cái nhìn của chính khách Mỹ đối với tính đa nguyên ở nước ngoài cũng bắt nguồn từ quyền chủ quyền của mỗi quốc gia.
Một Châu Á đa nguyên là nơi mà các quốc gia đa dạng trong khu vực đều có thể tiếp tục phát triển như họ mong muốn. Các quốc gia được bảo đảm về quyền tự chủ của mình.
Các quốc gia được tự do là chính mình, như lời cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu từng nói, "Không có cường quốc bá quyền nào có thể thống trị hay ép buộc họ".
Trong một Châu Á đa nguyên, các quốc gia được quyền sử dụng rộng rãi các tài nguyên chung của thế giới. Các vùng nước và vùng trời quốc tế thuộc về tất cả mọi người. Không một quốc gia nào có thể biến chúng thành sở hữu riêng hay thành vùng cấm địa.
Tính đa nguyên là cốt lõi trong tầm nhìn về một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, như Tổng thống Trump đã phát biểu tại Đà Nẵng hồi mấy năm trước, đại khái là : "Các quốc gia trong khu vực nên là một chòm sao đa dạng, mỗi ngôi sao đều tỏa sáng, và không có ngôi sao nào phải làm vệ tinh cho một ngôi sao khác".
Dĩ nhiên điều quan trọng ở đây là cần nhìn nhận rằng các quốc gia trong khu vực đều trân trọng tầm nhìn này của nhau.
Theo ghi chép của sử gia John Pomfret, khi ông Đặng Tiểu Bình bay tới Hoa Kỳ trong chuyến thăm lịch sử lần đầu tiên sau khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1979, Ngoại trưởng Trung Quốc đã hỏi tại sao ông ấy lại chọn Hoa Kỳ để đi thăm đầu tiên với tư cách là nhà lãnh đạo ?. Ông Đặng đã nói, bởi vì các đồng minh của Mỹ đều giàu có và hùng mạnh, và nếu Trung Quốc muốn giàu có và hùng mạnh, nước này cần đến Mỹ.
Câu chuyện kể trên cũng là một bài học về trải nghiệm của chính Trung Quốc đối với tính đa nguyên. Trung Quốc đã từng đi theo một quỹ đạo tốt hơn trong giai đoạn cải cách và mở cửa của mình, khi nước này hướng đến tính đa nguyên lớn hơn trong chính trị và chính sách.
Việt Nam có lẽ đủ khôn ngoan cho lựa chọn thích hợp.
Hiến pháp năm 2013, việc kiểm soát quyền lực nhà nước chẳng những được quy định thành nguyên tắc ở Điều 2 mà ở khoản 2, Điều 119 còn quy định : "Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp là do luật định".
Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước gồm 3 cơ chế quyền lực nhà nước lập pháp – hành pháp – tư pháp. Tuy nhiên cả ba cơ chế này cho đến nay chưa được hoàn thiện, nhất là bên trong mỗi quyền chưa có sự kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả. Vì thế, vẫn rất cần tham khảo một cách tỉnh táo liên quan đến cách hiểu về "đa nguyên", về "tam quyền phân lập", để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Đây còn là đòi hỏi cấp thiết nhằm phòng, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước, mà trước hết là đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả.
Loan Thảo
Nguyễn VNTB, 05/12/2020
********************
Lynn Huỳnh, VNTB, 04/12/2020
Ở Việt Nam, khái niệm "Đảng lãnh đạo” thường được sử dụng như một động từ, tức là nói đến sự lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân, Nhà nước và xã hội. Từ đó đã hình thành nên các khái niệm "Đảng lãnh đạo Nhà nước”, "Đảng lãnh đạo xã hội”…, mà các khái niệm này không được các nước sử dụng.
Cũng vì cách hiểu ‘như một động từ’, nên trong lúc bực dọc chi đó, người dân dễ không dằn lòng cho rủa xả Đảng về chuyện gì đó, ví dụ như Đảng ủy Vietnam Airline lãnh đạo yếu kém khiến nhân viên của họ làm dịch bệnh Covid tái bùng phát lây nhiễm cộng đồng, đe dọa xảy ra làn sóng thứ ba dịch Covid trong bối cảnh năm hết, Tết đến…
Ở nhiều nước, khái niệm "đảng lãnh đạo” thường chỉ được sử dụng như một danh từ, tức nó được hiểu là "đảng tiên phong”, hay "đảng dẫn đầu” so với các đảng chính trị, tổ chức xã hội khác.
Muốn trở thành "đảng tiên phong”, "đảng lãnh đạo”, thì tiên quyết là các đảng chính trị đều phải làm sao xác định được cương lĩnh, mục tiêu, đường lối thực hiện đúng đắn, có uy tín hay tín nhiệm cao trong xã hội.
Có ý kiến dạng tuyên giáo đã lập luận thế này : khái niệm "đảng lãnh đạo” với cách nói khác là, đảng đó có "hệ tư tưởng tiên phong”. Để một đảng chính trị để trở thành đảng cầm quyền cần phải trải qua một quá trình đầy thử thách trong việc xây dựng tính tiên phong của đảng : tiên phong trong lý tưởng và hệ giá trị, tiên phong trong hệ thống lý luận, và vì vậy, tiên phong trong hệ tư tưởng chỉ đạo, có uy tín và có sức thuyết phục đối với toàn xã hội.
Do đó, muốn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, từ lập luận kiểu tuyên giáo ở trên, cho thấy những chính khách Việt Nam cần phải nhấn mạnh nhiều hơn đến việc "nâng cao sức hấp dẫn của Đảng”, chứ không chỉ nói nhiều đến "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” như hiện nay.
Nói một cách khác, muốn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, không cách nào tốt hơn là phải nâng cao uy tín của Đảng trong xã hội, tức là Đảng phải "có sức hấp dẫn lớn” như huấn dụ của lãnh tụ Hồ Chí Minh : "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (*).
"Ngày hôm qua là vĩ đại, không nhất định ngày mai vẫn được mọi người yêu mến” – đó là một sự thật. Để ‘vẫn được mọi người yêu mến’ thì không thể là chuyện cứ dùng nhà tù để đe dọa những tiếng nói phản biện của ‘lời thật – phật lòng’.
Thực tế, hệ thống chính trị của bất cứ quốc gia nào hiện nay cũng đều có các bộ phận cấu thành cơ bản, đó là đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức xã hội. Mỗi thành tố này đều có quyền lực chính trị nhất định : quyền lực chính trị của đảng ; quyền lực của nhà nước ; quyền lực của tổ chức xã hội.
Tuy nhiên, quyền lực của đảng chính trị lại được thể hiện ở hai loại : quyền lực của đảng cầm quyền và quyền lực của đảng không cầm quyền (đảng đối lập). Quyền lực của đảng không cầm quyền thể hiện tập trung ở quyền tranh cử với nhiều hình thức khác nhau, được luật pháp thừa nhận để có thể giành cơ hội giữ vai trò cầm quyền.
Còn đảng cầm quyền thì ngoài quyền tranh cử, nó còn có quyền lực chi phối, định hướng đối với nhà nước để thực hiện cương lĩnh, mục tiêu của đảng đó.
Như vậy trong quản trị quốc gia, dù có là độc đảng toàn trị đi nữa, thì vẫn buộc luôn ý thức nâng cao năng lực cầm quyền của mình, thông qua các cán bộ đảng viên thực hiện một cách hiệu quả sự lãnh đạo và quản lý trong bộ máy nhà nước.
Lynn Huỳnh
Nguồn : VNTB, 04/12/2020
Chú thích :
(*) Hồ Chí Minh : Toàn tập, tập 12, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, trang 557-558.
Cửu Long, VNTB, 02/12/2020
Cách nói, "mọi chuyện đã có Đảng và Nhà nước lo” là một dẫn chứng cho đánh giá về việc có hai chủ thể cầm quyền, tạo ra tình trạng là dường như ở Việt Nam đã "có hai nhà nước trong một đất nước”,do vậy mà làm thiếu tính thống nhất và minh bạch trong quá trình hoạch định và thực thi các chính sách quốc gia.
Hệ lụy là chất lượng của các quyết định, chính sách khó đạt hiệu quả cao. Bởi thực tế ở Việt Nam hiện nay, theo tuyên truyền thì Đảng có trách nhiệm xây dựng, ban hành các quyết định, chính sách phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội thông qua các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy Đảng các cấp.
Và đến lượt mình, Nhà nước, bao gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính các cấp cũng xây dựng, ban hành các quyết định, chính sách giống như của Đảng thông qua các nghị quyết, quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp.
Những điều như nói trên làm cho việc thảo luận, ban hành các chính sách bị phân tán, không có sự gắn kết ; vừa lãng phí về thời gian họp bàn, hay chờ đợi xin ý kiến, chỉ đạo, chỉ thị, vừa chậm ra được các quyết sách quốc gia.
Thực tế cho thấy, uỷ viên cấp ủy các cấp của Đảng hầu hết đã giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy công quyền, nhưng họ đều phải một lần nữa thảo luận và xây dựng các chính sách quốc gia mà trước đó đã được bàn thảo, ra nghị quyết trong tổ chức của Đảng.
Với lề lối quản trị quốc gia lòng vòng đó, dẫn tới hệ lụy của việc bao biện – và nói theo ngôn ngữ tuyên giáo, là làm thay hay buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hơn nữa, nó còn dẫn đến tình trạng trách nhiệm trong cầm quyền không rõ ràng là của Đảng hay Nhà nước. Thực tế đã chỉ ra, có không ít các trường hợp đùn đẩy trách nhiệm giữa Đảng và Nhà nước, giữa cấp ủy và chính quyền ; khó quy được đâu là trách nhiệm của tổ chức đảng, người đứng đầu của Đảng với trách nhiệm của tổ chức nhà nước, người đứng đầu cơ quan, tổ chức của Nhà nước trong thực thi quyền lực.
Ngoài ra, với cách thức cầm quyền này, dường như đã phân định ra chức năng của Đảng chỉ là "lãnh đạo”, chức năng của Nhà nước chỉ là "quản lý”, từ đó đã có sự phân biệt "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý”, mà điều này ở các nước trên thế giới không đặt ra.
Ai cũng đồng ý là đời sống chung của người dân Việt Nam vẫn còn nghèo khó. Thế nhưng cấu trúc thực thi quyền lực trong hệ thống chính trị lại tiếp tục chấp nhận việc trùng lắp. Thực tế này đã làm phát sinh tình trạng nhiều cơ quan, tổ chức có cùng chức năng, do đó cũng làm cho người hưởng chế độ từ ngân sách nhà nước trong hệ thống chính trị ngày càng tăng lên.
Tuy nhiên việc "nhất thể hóa” kiểu "Tổng bí thư – Chủ tịch nước” ở hiện tại lại chưa thấy mang đến kết quả gì tốt đẹp hơn so với trước đó. Có thể nhận ra khá rõ là đề bài của yêu cầu "nhất thể hóa thẩm quyền, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi các chính sách về các lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”, cho đến nay mới chỉ dừng ở mỗi vị trí "Tổng bí thư – Chủ tịch nước”, và lại chưa nói lên được điều gì trong đổi mới cách thức cầm quyền của Đảng hiện nay.
Do vậy, có lẽ trong nhiệm kỳ mới của lần Đại hội Đảng thứ 13, cần ‘đoạn tuyệt’ việc tổ chức những Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, các cấp ủy và thường vụ cấp ủy các cấp bàn riêng việc xây dựng và ban hành các nghị quyết về phát triển các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.
Để nhất thể hóa thẩm quyền, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, nên chăng các việc đề xuất sáng kiến chính sách, đến việc tranh luận, phê chuẩn, ban hành các chính sách về phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước, cần được tiến hành ngay trong Quốc hội, Chính phủ tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Điều này có nghĩa, các đảng viên và không đảng viên trong Quốc hội, Chính phủ chỉ cần một lần tham gia vào việc thảo luận, ban hành các chính sách quốc gia.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy các cấp chỉ nên tập trung bàn đến các vấn đề về xây dựng Đảng, như : chỉ đạo làm tốt công tác tư tưởng, lý luận ; vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân thực hiện các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ; quản lý và giáo dục, xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng vững mạnh,…
Cửu Long
Nguồn : VNTB, 02/12/2020
Chỉ còn 30 ngày nữa đến kỳ Đại hội XIII của Đảng cộng sản Việt Nam, diễn ra trong tháng 1/2021, nhưng từ Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng xuống tới lãnh đạo cấp ủy cơ sở lại đang hô hào phải bảo vệ tư tưởng đảng bằng mọi giá.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói phải tiếp tục đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trước Đại hội 13 tại Học viện Quốc phòng, học viện cao nhất trong hệ thống nhà trường quân đội, sáng 26/11/2020 - Ảnh minh họa
Chiến dịch này không mới, vì đã được Bộ Chính trị thực hiện từ khóa đảng VII năm 1991 dưới thời Tổng bí thư đảng Đỗ Mười, khi các chính quyền cộng sản Đông Âu và Liên bang Xô Viết tan rã. Nhưng 30 năm sau, tình trạng chệch hướng và suy thoái tư tưởng trong đảng vẫn tiếp tục lan rộng đến mức khẩn trương ở thời điểm tổ chức Đại hội đảng XIII là bằng chứng cho thấy nguy cơ "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong cán bộ đảng viên đã nghiêm trọng hơn bao giờ hết.
Vậy "tư tưởng đảng" là gì, và tại sao lại có vấn đề ? Đó là tổng hợp chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã được triệt để và thống nhất thi hành trong đường lối cầm quyền độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam.
Để đối phó với đường lối cứ khăng khăng "đổi mới nhưng không đổi mầu", hay "hội nhập mà không hòa tan" của đảng, một số không nhỏ cán bộ, đảng viên cấp tiến và đội ngũ trí thức có uy tín, từ chục năm qua đã mạnh dạn vạch ra những sai lầm của đảng. Họ kêu gọi đảng phải thay đổi, dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa cộng sản đã bị nhân dân Nga và khối Đông Âu ném vào sọt rác từ thập niên 80. Họ kêu gọi đảng chấm dứt độc quyền cai trị không do dân ủy nhiệm nhưng đảng đã tự ý giành lấy để ghi vào "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)", và Hiến pháp năm 2013.
Những người thức thời "kiến nghị" đảng phải tôn trọng quyền làm chủ đất nước và tương lai chính trị của nhân dân vì một nhà nước độc tài và một đảng độc quyền cai trị không còn phù hợp với kỷ nguyên hội nhập của thế giới văn minh. Họ kêu gọi lãnh đạo đảng hãy can đảm vượt qua cái bóng của chính mình để từ bỏ tham quyền cố vị, trả lại dân quyền tự do lựa chọn người lãnh đạo qua bầu cử dân chủ, trực tiếp và đa nguyên đa đảng.
Nhưng Đảng đã bác bỏ những yêu cầu đúng đắn và ôn hòa này, cho rằng đó là âm mưu chống đảng, chống lại nhân dân của các thế lực thù địch trong ngoài và những thành phần trong dân, trong đảng được gọi là "các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị". Đảng lên án họ có ý đồ loại đảng ra khỏi lãnh đạo để thay vào đó bằng chế độ "dân chủ tư sản" kiểu phương Tây. Đảng cũng khơi khơi nói văng mạng rằng "Đảng lãnh đạo là tất yếu của lịch sử" nên ông Hồ Chí Minh, người thành lập đảng, đã để lại trong Di chúc câu nói "đảng ta là một đảng cầm quyền" khi sắp lìa đời năm 1969 (1).
Cơ hội ở đâu ?
Vậy thành phần "cơ hội và bất mãn chính trị" là những ai ?
Tuyên giáo đảng trả lời : "…Cùng với quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam đã phải không ngừng đấu tranh để phòng và chống những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, trong đó nổi bật là phòng và chống tệ cơ hội chính trị nhằm loại bỏ những phần tử cơ hội trong đội ngũ, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Đảng".
Chi tiết hơn, Tuyên giáo cho biết : "Thực chất của tệ cơ hội chính trị là một bộ phận không nhỏ những kẻ cơ hội, thiếu lý tưởng cộng sản, tìm cách chui vào Đảng, mang danh cán bộ, đảng viên cộng sản để tìm cơ hội "thăng quan tiến chức". Bất chấp lợi ích của Đảng, của nhân dân, họ tìm cách vun vén cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng tộc cốt để "vinh thân phì gia". Họ say mê quyền lực, địa vị, coi như một thứ có thể mua bán, tiến thân, từ đó mà khéo luồn lách, nịnh bợ lấy lòng cấp trên, để tranh thủ lá phiếu trước mỗi đợt bầu cử. Họ kéo bè kết cánh, móc ngoặc trên dưới, trong ngoài, dựa vào những lợi thế là "hậu duệ", "quan hệ", "tiền tệ" với những cán bộ cấp trên để tìm mọi cách chạy chức, chạy quyền, chạy danh, chạy lợi, chạy chỗ, chạy bằng cấp, chạy tuổi... khi bị phát hiện thì tiếp tục chạy tội. Họ lợi dụng việc tuyển chọn, đánh giá, luân chuyển cán bộ để trục lợi cá nhân, tìm mọi cách đưa người "cùng cánh" vào nắm những chức vụ trong cơ quan mà không chịu chọn những người có đủ đức, tài, gây mất đoàn kết nội bộ. Từ đó, họ dần từ bỏ trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, không còn là "công bộc" của dân, trở thành những "ông quan" cách mạng đục khoét tiền bạc, của cải của nước, của dân. Hình ảnh và hành động của họ làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, làm suy yếu sức mạnh của Đảng".
À thì ra bọn người cơ hội nhiều nhất lại chính là cán bộ đảng viên, không phải là con đẻ của các "thế lức thù địch" như Tuyên giáo vẫn bịa ra để che đậy và tuyên truyền.
Dù vậy, bài viết của Tuyên giáo vẫn không quên chém gió đổ tội cho nền kinh tế thị trường đã đóng góp làm suy thoái đảng viên. Bài báo viết : "Dưới tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" đã dẫn tới một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Từ đó, đã tiếp tục nảy sinh tệ cơ hội chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đe dọa tới sự sống còn của Đảng, của chế độ" (2).
Nhưng "thế lực thù địch" và "diễn biến hòa bình" ở đâu, ai cầm đầu hay toàn là chuyện con ma ngáo ộp do Tuyên giáo bịa ra để hù họa ?
Vì vậy, từ vài năm qua, Tuyên giáo đã tập trung phối hợp với Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng và đội ngũ tuyên truyền công an ra sức tấn công hội đồng vào những người yêu cầu đảng đã "đổi mới kinh tế" thì cũng phải "đổi mới chính trị" để thay da đổi thịt chế độ, hầu tạo đoàn kết toàn dân, đưa đất nước tiến lên văn minh và phú cường để có đủ khả năng chống đe dọa cướp đất, lấn biển của Trung Quốc.
Nhưng nói mãi, kiến nghị hoài mà Đảng cứ khư khư "bảo hoàng hơn vua", tiếp tục vùi đầu xuống cát và cam phận nô lệ Tầu để được sống yên nên họ đã bảo nhau "tự diển biến" và "tự chuyển hóa", tự ý xa đảng và không làm theo lệnh đảng nữa. Biến chứng chính trị này trong đảng viên đã sinh ra quốc nạn tham nhũng và tranh giành quyền lực trong đảng, khiến người đứng đầu đảng, ông Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phải phát động chiến dịch được gọi là "đốt lò" từ khóa đảng XII.
Theo Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra trung ương thì : "Trong nhiệm kỳ vừa qua, cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra, giám sát hàng chục vạn tổ chức đảng và hàng triệu đảng viên ; thi hành kỷ luật hơn một nghìn tổ chức đảng và hơn 87 nghìn đảng viên, trong đó, có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, các tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang, kể cả đương chức và đã nghỉ hưu" (3).
Bằng chứng Đảng rã
Bên cạnh thành tích này, đảng vẫn phải đối phó với nguy cơ đảng viên không còn tin vào chủ nghĩa cộng sản và đường lối lãnh đạo độc quyền của đảng. Chứng minh cho chuyện "rã đám" không phải là vấn đề có thể làm ngơ, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói : " Đấu tranh không chỉ chống tham nhũng tiêu cực, đấy là một mặt thôi. Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, suy thoái về chính trị mới đáng sợ. 100 ngày đang giữ được trong sạch chỉ cần một giây phút yếu lòng thôi có khi hỏng cả đời. Tại sao tôi cứ hay nói "danh dự là điều thiêng liêng cao quý nhất" (4).
Trước đó, ngày 25/11/2020 tại Hà Nội, ông Trọng còn nói với các ủy viên của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (Ban Chỉ đạo) : "Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà còn trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là quan điểm tư tưởng chính trị - đây mới là vấn đề quan trọng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nói chung".
Đề cập đến tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy được quy hoạch cán bộ cấp chiến lược trước Đại hội đảng XIII, ông Nguyễn Phú Trọng nêu lên một thực trạng, tưởng đã chấm dứt sau 5 năm xây dựng, chỉnh đốn đàng. Ông bêu rếu rằng : "Sắp Đại hội đến nơi rồi, đi tranh thủ vận động anh ủng hộ em, nói xấu anh này nghĩ thế nọ thế kia, tranh giành nhau quyền lực, như vậy có xứng đáng là cán bộ, đảng viên, cán bộ cấp cao lại càng không được như thế, không thể như thế. Điều quan trọng nhất là tư cách người cách mạng. Tham nhũng về mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống... là nguy hiểm vô cùng, sắp tới phải làm mạnh cái này, sống làm sao để đến lúc nhắm mắt xuôi tay khỏi phải ân hận, danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất !".
Nhưng "sắp tới" là khi nào ? Liệu từ nay đến ngày khai mạc Đại hội đầu tháng 01/2021 có còn kịp không, hay sang tên cho khóa đảng XIII giải quyết ? Thế rồi ông Trọng tự khoe và cau có khi bị chỉ trích : "Trước đây, có ý kiến nói là "trên nóng, dưới lạnh", thì bây giờ hình như dưới bớt lạnh, có chuyển rồi, ấm ấm rồi. Những khâu yếu trước đây, như thu hồi tài sản khó thì nay đã thu hồi được rồi… Từ thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, kiểm sát, công an, quân đội, tòa án, bây giờ phối hợp cùng vào cuộc, đồng lòng, nhất trí… Đặc biệt, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng nhận được sự đồng tình nhất trí của nhân dân, vụ nào đưa ra hình như nhân dân cũng đồng tình, trừ bọn phản động cố tình bôi xấu, kích động, bịa đặt rằng sắp Đại hội đến nơi lại tìm cách loại nhau, đánh nhau nội bộ. Nhưng cái đó bây giờ người dân cũng chẳng tin. Càng sát tới Đại hội càng phải làm" (5).
Điểm lớn trong diễn văn trước thềm Đại hội đảng, là cơ hội để ông Trong khoe thành tích chống tham nhũng, nhưng đồng thời chính là chuyện ông nhìn nhận tệ nạn "Tham nhũng về mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống" trong cán bộ, đảng viên đang đe dọa sự sống còn của chế độ.
Do đó ông Nguyễn Phú Trọng đã răn đe rằng : "Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động" (6).
Tất nhiên là đã có không ít người "dao động" và "ngả nghiêng" nên ông Trọng mới sốt điên lên như thế, nhất là vào thời điểm ông muốn được lịch sử và nhân dân ghi ơn sau 10 năm cầm quyền với chiếc áo "vàng mã" đeo đầy huy chương chống tham nhũng, lãng phí.
Báo Công an Hà Nội nói gì ?
Đồng tình với ông Trọng trong báo đảng rất nhiều. Chỉ nêu ra đây bài viết của báo An ninh Thủ đô, Cơ quan của Công an Thành phố Hà Nội ngày 26/11/2020 để thấy những nguy cơ ông Trọng cảnh báo không phải là chuyện nhỏ.
Bài báo mở đầu : "Những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta là mục tiêu của các thế lực thù địch cũng như phần tử phản động, cơ hội chính trị. Những hoạt động chống phá này ngày càng gia tăng trong dịp chúng ta tiến hành Đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng với một "trọng điểm" chống phá là nền tảng tư tưởng của Đảng ta".
Bài viết gay gắt rằng : "Trong hoạt động chống phá, nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ ta là một "trọng điểm" mà các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá… Các thế lực thù địch, chống đối đã ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với các luận điệu lặp đi lặp lại như : "Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là minh chứng cho Chủ nghĩa Mác - Lênin hiện đã lỗi thời, không còn phù hợp" ; việc "Đảng cộng sản Việt Nam kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm"... Không những thế, chúng còn tìm cách đặt Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời xuyên tạc, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp Hồ Chí Minh nhằm hạ bệ uy tín và phủ nhận tư tưởng của Người".
Đối với các văn kiện dự thảo, quan trọng nhất là Báo cáo Chính trị của khóa Đảng XII sẽ được trình cho tại Đại hội đảng XIII, ai cũng biết không có những đột phá để mở ra đường đi mới mà chỉ lập lại quan điểm phải kiên trì chủ nghĩa cộng sản cố hữu, giáo điều và lạc hậu. Đảng sẽ tiếp tục xây dựng đất nước với chủ trương làm "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mơ hồ, không lối thoát. Nhưng đảng lại khoe các Dự thảo Văn kiện là kết tinh của công sức nghiên cứu, tìm tòi và tập trung trí tuệ của Bộ Chính trị và Ban Văn kiện đảng do ông Trọng cầm đầu với sự gióp ý của toàn đảng, toàn dân. Vì vậy ông Trọng mới tự mãn nói văng mạng rằng "Văn kiện là văn bia, còn để lại đời sau".
Nhưng không ai biết trong số các ý kiến đóng góp từ ngày 20/10 đến 10/11/2020, có bao nhiêu ý kiến trái với ý đảng nhưng hợp lòng dân ? Ban Tuyên giáo nắm hết các báo cáo và giấu nhẹm mọi ý kiến như đã làm trong các kỳ Đại hội trước nên điều khoe rằng Văn kiện đảng đã phản ảnh "ý đảng, lòng dân" là chuyện bịa của ông Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương đảng, Trưởng ban Tuyên giáo trung ương.
Do đó, khi "nền tảng tư tưởng Đảng" bị chỉ trích, báo An ninh Thủ đô đã phản ứng như bị chạm nọc rằng : "Mục tiêu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta là nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Vì thế, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là bảo vệ Đảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh".
Bài báo tiếp tục tuôn như nước trong ao tù được tháo chảy : "Việc chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thực hiện bằng mọi phương thức, thủ đoạn. Chúng đã tăng cường xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, tài liệu như : Các báo cáo, văn bản của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ như : Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Tổ chức Theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW)… cùng các ấn phẩm : sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước ; hàng nghìn trang web, blog, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt ở nước ngoài…".
Cuối cùng, báo An ninh Thủ đô đã quy tôn ông Hồ và Chủ nghĩa Mác - Lênin lên tận mây xanh, khi viết : "Cùng với thời gian và đòi hỏi của cách mạng, Đảng ta khẳng định : "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi" và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng ta và dân tộc ta".
Thao thao bất tuyệt như thế, nhưng Tuyên giáo đảng và báo của Công an Hà Nội lại quên rằng Chủ nghĩa cộng sản đã chết và ông Hồ Chí Minh cũng không còn nữa, lấy ai để chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam không lầm đường lạc lối ?
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Hãy đọc lại nhận xét về Đảng cộng sản Việt Nam của cố Đại sứ Hà Nội tại Bắc Kinh, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đưa ra ngày 25/09/2017. Nguyên Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang đã ghi lại và phổ biến, dựa theo thư chuyển của nhà văn kiêm dịch giả Nguyễn Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, trưởng nữ của Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (1916 – 26/12/2019).
Ảnh cố Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh (1974-1989) và lúc về hưu năm 1990
Thiếu tướng Vĩnh : "Cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam nay đã hoàn toàn biến chất, trở nên quá hư hỏng, khó có thể sửa chữa được ! Đảng đã đánh mất mình, không còn xứng đáng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội nữa ! Trong các hư hỏng trên, cụ nói có 3 hư hỏng nguy hiểm nhất :
- Một là, Đảng cộng sản Việt Nam đã trở thành một ổ tham nhũng trầm trọng, khó có thể kiềm chế và kiểm soát được ! Bọn tham nhũng đều là những cán bộ, đảng viên trung cao cấp của Đảng, chúng đã trở thành bầy sâu, tập đoàn sâu và ăn của dân không từ một thứ gì !
- Hai là, Đảng cộng sản Việt Nam không còn là một khối đoàn kết vững chắc như xưa. Nay đã chia rẽ, đang hình thành nhiều phe nhóm lợi ích tệ hại trong đảng, và các phe phái này đang ra sức đấu đá, tranh giành nhau quyền lợi và quyền lực, không thiết tha gì với lợi ích dân tộc, với quyền lợi đất nước như hồi Đảng lao động Việt Nam trước đây nữa !
- Ba là, Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay đã lệ thuộc nặng nề vào ngoại bang, cụ thể là vào Đảng cộng sản Trung Quốc ! Sau khi bí mật ký kết thỏa ước Thành Đô (9/1990) với Đảng cộng sản Trung Quốc, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam kể từ đó đã lệ thuộc gần như mọi mặt vào Đảng cộng sản Trung Quốc ! Đảng cộng sản Việt Nam làm ngơ, không dám ra tuyên bố phản đối và thực hiện biện pháp đáp trả khi chủ quyền biển đảo của Tổ quốc bị bọn Trung Quốc xâm phạm, đặc biệt là sự kiện từ đầu tháng 5/2014 đến giữa tháng 7/2014, khi Trung Quốc ngang ngược coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia của Việt Nam, chúng hạ đặt trái phép dàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, và mới đây Việt Nam phải nhẫn nhục đầu hàng, chấp nhận yêu sách ngang ngược của Trung Quốc đòi Việt Nam phải ngừng Dự án khoan thăm dò khí đốt tại Lô 136/03 thuộc bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam !".
Đấy là kết luận của cố Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một công thần của chế độ, đưa ra năm 2017. Bây giờ, 3 năm sau, có ai trong Đảng cộng sản Việt Nam, kể cả đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng, dám nói tướng Vĩnh đã sai lầm chăng ?
Phạm Trần
(03/12/2020)
(1) Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 1969 – Hồ Chí Minh
(2) "Phòng và chống tệ cơ hội chính trị hiện nay", Tuyên giáo, ngày 2/1/2020
(3) Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương ngày 27/11/2020
(4) Phát biểu tại Hội nghị Đảng ủy Công an Trung ương ngày 01/12/2020
(5) TTXVN, ngày 25/11/2020
(6) "Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới", ngày 31/8/2020
Nguyễn Huyền, VNTB, 21/11/2020
Báo Thanh Niên, viết : "Nhân sự được chuẩn bị kỹ lưỡng ở tất cả các khâu, góp phần nâng cao chất lượng nhân sự cấp uỷ các cấp và chuẩn bị cho nhân sự Trung ương.
"Những hiện tượng vận động, tranh thủ phiếu bầu cơ bản được khắc phục ; tình trạng chạy chức, chạy quyền, cục bộ, địa phương, lợi ích nhóm đã giảm hẳn", Tổng bí thư, Chủ tịch nước khẳng định (*).
Thắc mắc đặt ra : vì sao khi ‘Đảng cử’ theo quy trình, nhưng người ta vẫn có thể ‘chạy chọt’ theo chiều hướng tiêu cực cho lá phiếu bầu ? "Tranh thủ phiếu bầu" như lời trích ở trên của báo Thanh Niên, đó là nói giảm nhẹ cho vấn nạn tham nhũng quyền lực. Cụm từ rất quen thuộc luôn được nhắc trước mỗi kỳ đại hội Đảng, đó là, "tình trạng chạy chức, chạy quyền, cục bộ, địa phương, lợi ích nhóm đã giảm hẳn".
Câu hỏi : vì sao đến nay Đảng vẫn chưa đồng ý việc các đảng viên được quyền tranh cử công khai, minh bạch trước cử tri đảng viên và cả cử tri quần chúng ?
Đơn cử : nếu đảng viên Nguyễn Thiện Nhân ứng cử vào chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông sẽ phải đưa ra được các quyết sách vừa giúp chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực thi tốt về "Chính quyền đô thị", đồng thời còn đưa ra được đường hướng giúp gia tăng an sinh bền vững của cư dân Sài Gòn.
Tương tự, đồng ý là đảng viên Nguyễn Văn Nên được Trung ương Đảng giới thiệu về sinh hoạt ở Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, và cũng sẽ là thành viên Đại biểu quốc hội của đoàn Thành phố Hồ Chí Minh, song chí ít đảng viên Nguyễn Văn Nên phải chứng minh thực lực của mình qua phác thảo cụ thể tầm nhìn chiến lược, và phương thức thực hiện chiến lược đó sẽ ra sao, cần đến sự phối hợp như thế nào ?
Mặt khác, Đại biểu quốc hội Nguyễn Văn Nên phải có trách nhiệm trình bày trước rộng rãi cử tri ở Thành phố Hồ Chí Minh về khả năng của mình ra sao trong đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người dân Sài Gòn ?
Và không chỉ riêng hai ông Nhân, Nên, mà tất cả các đảng viên khác đều phải được quyền dân chủ trong trình bày những đề xuất của mình trên cương vị thích hợp khi tham gia vào nhiệm kỳ mới của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh.
Ở đây, cần thấy rằng nếu loại trừ lợi ích cục bộ địa phương, thì đó sẽ là bước cản trở nhiều hơn. Đơn cử, nhóm các lãnh đạo quản trị Thành phố Hồ Chí Minh ở hiện tại như các ông : Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Thành Phong, Lê Thanh Liêm, Võ Văn Hoan, Ngô Minh Châu…, cho thấy là một ê-kíp gắn bó đủ mạnh giúp Thành phố Hồ Chí Minh phát triển ngày một bền vững hơn, tiệm cận với cung cách quản trị chung của những đô thị ở các quốc gia phát triển khác.
Nếu vì ngại đây là nhóm lợi ích đang củng cố quyền lực tích lũy, nên phải chọn thay vị trí Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, song vẫn dè chừng sự phản kháng, nên duy trì quyền lực của người vừa trở thành cựu Bí thư… tất cả cho thấy rất cần xem lại việc tiếp tục không cho phép các đảng viên được quyền tranh cử.
Ghi nhận ý kiến từ một luật sư là đảng viên, thì trong 19 điều đảng viên không được làm, ở điều 4 "Tổ chức, xúi giục, tham gia các hoạt động bè phái, chia rẽ, cục bộ gây mất đoàn kết nội bộ ; Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản ánh, góp ý kiến đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tuỳ tiện đối với người khác. Đe doạ, trù dập, trả thù người tố cáo, phê bình, góp ý", có quy định cụ thể như sau :
"1. Chủ trì, tham gia tổ chức, vận động, lôi kéo, tập hợp đảng viên, quần chúng mang tính chất cục bộ địa phương, phe cánh, họ tộc, nhóm lợi ích nhằm tranh giành lợi ích kinh tế, chính trị, vị trí công tác, chức vụ trong bầu cử, bổ nhiệm, sắp xếp, bố trí cán bộ của Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp.
2. Lợi dụng quyền phê bình, tự do ngôn luận, báo chí, diễn đàn, câu lạc bộ để phát ngôn hoặc nhân danh việc phản ánh, góp ý kiến đối với Đảng để nhận xét, bình luận, đánh giá ngoài phạm vi tổ chức cho phép ; đả kích, vu cáo, xúc phạm đối với tập thể và cá nhân".
Nếu cho phép đảng viên được quyền tự do tranh cử, vận động lá phiếu từ các đảng viên… thì dễ đưa đến những lo ngại về chuyện ‘thù địch’ như nêu ở điều 4 kể trên.
Chưa hết, trong 19 điều đảng viên không được làm, ở điều 7 buộc rằng đảng viên (kể cả cấp uỷ viên và đảng viên là cán bộ diện cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ quản lý) không được quyền tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội (theo quy định phải do tổ chức đảng giới thiệu) khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép.
Giờ sắp bước sang năm 2021. Việt Nam đã tham gia rất nhiều các thỏa thuận thương mại quốc tế cả song phương lẫn đa phương. Việt Nam cũng đã chấp nhận quyền tự do công đoàn. Vậy thì càng cần thiết sự tương thích chung giữa các chính sách trong việc chấp nhận cạnh tranh sòng phẳng trong lá phiếu cử tri đảng viên cho bầu chọn công khai trên cơ sở ứng cử, tranh cử công bằng và dân chủ. Hơn nữa, đây là quyền hiến định.
Hiến pháp 2013, điều 4. 3, viết rằng : "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Nguyễn Huyền
Nguồn : VNTB, 21/11/2020
Chú thích :
(*)https://thanhnien.vn/thoi-su/tong-bi-thu-kien-quyet-chong-van-dong-ca-nhan-phe-canh-trong-cong-tac-nhan-su-1306886.html
**********************
Mặc cảm, định kiến về quá khứ có thể xóa như kêu gọi của ông Trọng ?
RFA, 19/11/2020
Chiến tranh Việt Nam : Binh lính hai giới tuyến (Ảnh minh họa) - File photo
"Xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần, giai cấp ; chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc".
Đó là kêu gọi của ông Tổng bí thư, Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đưa ra trong phát biểu khi tham dự Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam - Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2020) ở Hà Nội.
Thực tế vấn đề hòa hợp - hòa giải đối với chính quyền Việt Nam có như lời Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ?
Nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già, một cựu tù nhân quyền, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 19/11/2020 cho rằng, chuyện hòa hợp - hòa giải là một đề tài phức tạp và lớn lao, vì liên quan lịch sử và chính trị của Việt Nam rất nặng nề, ông tạm chia thành hai giai đoạn :
"Giai đoạn thứ nhất từ 1975 đến 1995, tức là 20 năm, đó là thời điểm Hoa Kỳ cấm vận Việt Nam. Trong giai đoạn này, đặc trưng của chế độ cộng sản là cướp phá và trả thù. Đặc trưng cướp phá là đổi tiền, đánh tư sản, kinh tế mới... Còn trả thù là tù cải tạo, thuyền nhân... đây là cuộc chiến vô nghĩa, bất chính danh và vô nhân đạo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam".
Giai đoạn thứ hai theo Nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già là từ 1995 đến nay thì ngoài cướp phá, trả thù còn thêm hai đặc trưng là lừa dối và bạo lực. Ông nói tiếp :
"Giai đoạn trước, sự trả thù với người lính Việt Nam Cộng Hòa đã tàn khốc đau thương lắm rồi như hình ảnh Nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa. Cho đến mãi sau này, những người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, bây giờ họ là những người tàn tật, những ông già, sống bằng nghề bán vé số mưu sinh, sống lây lất tại vườn ra Lộc Hưng, mà họ còn bị tống cổ ra khỏi đó... thì tôi không hiểu ông Nguyễn Phú Trọng nói xóa bỏ mặc cảm thì là mặc cảm gì đây ? Mặc cảm của ai đây ? Và khi ổng bảo ‘tôn trọng những khác biệt’, thì tôi bỗng nhớ hồi Đại hội đảng 12, họ bảo ‘tôn trọng những khác biệt’ không trái với lợi ích của quốc gia dân tộc, thì mới sau bốn năm... tình trạnh người bất đồng chính kiến bị bắt bớ rất nặng nề và kết án tù rất cao".
Nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già nêu trường hợp tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức và gia đình đã làm đơn yên cầu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải thượng tôn pháp luật, nhưng chính quyền chả có một câu trả lời nào cho gia đình. Ông Nguyễn Ngọc Già nhận xét :
"Tôi không hiểu ông Nguyễn Phú Trọng có biết những điều này hay không ? Nó có trở nên nghịch lý với những điều ổng nói hay không ? Vì vậy trong bối cảnh hiện nay, tôi cho rằng phát ngôn của ông Nguyễn Phú Trọng trong tư cách Tổng bí thư và Chủ tịch nước, nó không giải quyết được gì mà chỉ mang tính mị dân, bởi vì lòng tin của người dân đã cạn kiện đến tận cùng".
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt ngày 30/4/1975, để lại 20.000 thương binh Việt Nam Cộng hòa với mức độ thương tật nặng nhẹ khác nhau. Trong đó, số bị tàn phế, cụt tay, cụt chân, bị mù mắt, bị mất sức lao động là từ 3.000 đến 5.000 người. Chính quyền Việt Nam sau năm 1975 hầu như không hỗ trợ gì cho những người cựu chiến binh thương tật này. Các thương phế binh mất sức lao động chủ yếu sống bằng nghề bán vé số và trông chờ vào sự giúp đỡ của các mạnh thường quân.
Một người dân không muốn nêu tên vì lý do an ninh, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 19 tháng 11 năm 2020 qua tin nhắn liên quan vấn đề này, nhận xét :
"Thực ra, ‘xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ’ như lời ông Trọng không phải bây giờ mới nói đến. Từ thời ông Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư (1986-1991) khi khởi xướng ‘Đổi Mới’ cũng đã từng đề cập vấn đề này. Những năm sau đó, Bộ chính trị đã cụ thể hóa bằng Nghị quyết 36 mà nội dung là kêu gọi đoàn kết của kiều bào nước ngoài, ‘khép lại quá khứ, hướng tới tương lai’, đặc biệt Đảng cộng sản Việt Nam xác định ‘Việt kiều là một bộ phận cấu thành của dân tộc VN’ !
Các ngôi mộ của chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa tại Nghĩa trang Biên Hòa. File photo
Khi đó theo ông này, chính quyền nói là ‘xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ’, nhưng chỉ đối với Việt kiều đi học hoặc xuất khẩu lao động ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũ. Còn đối với Việt kiều là những người ở Miền Nam Việt Nam ra đi sau 30/4/1975 đến các nước tư bản Mỹ, Canada, Anh, Úc... thì muốn về thăm quê hương cũng phải qua chọn lọc nhằm loại trừ những viên chức, sĩ quan cao cấp của chế độ cũ chứ không phải ai muốn về là được ! Ông nói tiếp :
"Chưa kể, người dân ở Miền Nam Việt Nam còn bị chủ nghĩa lý lịch trong những năm sau 1975 đến thập kỷ 1990 đeo bám họ, nhất là những gia đình có nguồn gốc trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ngay cho đến bây giờ, có thể nói hầu như cán bộ từ cấp thấp nhất ở thôn, xã đến phường, quận ở thành phố... đều phải có ‘lý lịch rõ ràng’ ám chỉ họ không xuất thân từ gia đình viên chức, sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt, riêng đối với ngành công an, khi một cán bộ công an nào đó muốn kết hôn, thì người vợ hoặc người chồng đó phải có ‘lý lịch trong sach’ tuyệt đối và phải được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan công an quản lý cán bộ đó. Điều này là vi phạm Luật hôn nhân và gia đình, nhưng đó là ‘quy định ngầm’ của ngành công an !
Người dân không muốn nêu tên cho rằng sở dĩ Tổng bí thư, Chủ tịch nước kêu gọi ‘xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ’, vì trong thực tế thời gian qua những điều này đến nay vẫn tồn tại, và nếu không có ‘mặc cảm, định kiến’ thì kêu gọi làm gì ? Theo ông, có thể chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam là như ông Trọng nói, nhưng trong thực tế thì giữa lời nói đó với việc làm hãy còn khoảng cách xa lắm !
Trong khi tại Việt Nam, chính quyền bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng các nghĩa trang liệt sĩ, nhằm tôn vinh những người lính bắc Việt đã nằm xuống, nhiều nơi còn xây dựng cả những tượng đài trăm tỷ đồng. Thì những nghĩa trang của quân đội Việt Nam Cộng hòa lại gần như bị bỏ hoang, việc trùng tu phải trông chờ vào các tổ chức hải ngoại. Tuy nhiên đôi khi lại bị chính quyền Việt Nam gây khó khăn, cản trở.
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa được xây dựng vào năm 1967, nay được gọi tên là Nghĩa trang Bình An. Nơi đây chôn cất hàng ngàn ngôi mộ của binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên trong hơn 4 thập niên qua, rất nhiều ngôi mộ bị xuống cấp nghiêm trọng, do không được chăm sóc, bảo quản vì việc thăm viếng ở nghĩa trang này thường bị chính quyền địa phương gây khó dễ.
Hội Người Mỹ gốc Việt (VAF), một tổ chức thiện nguyện ở Mỹ khởi xướng chương trình trùng tu các ngôi mộ ở Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa từ năm 2007. Giới chức ngoại giao và một số vị Dân biểu Hoa Kỳ kêu gọi Chính phủ Việt Nam hợp tác với VAF trong việc trùng tu toàn diện nghĩa trang này.
Một bạn trẻ Hà Nội, khi trả lời Đài Á Châu Tự Do hôm nay, cho biết ý kiến của mình :
"Công cuộc hòa giải của đất nước Việt Nam mình vẫn chưa được hoàn thiện và hầu như rất chậm chạp. Ngay chính bên trong đất nước Việt Nam này họ cũng đang có sự không hòa hợp được với nhau. Ngay chính bản thân nội tại trong một đất nước nó đã không hòa hợp hòa giải với nhau rồi thì nói gì đến việc người Việt Nam trong nước hòa hợp được với người Việt Nam ở hải ngoại, chính quyền cũ hòa hợp với chính quyền mới".
Một bạn trẻ khác ở Thanh Hóa, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm nay cho rằng việc hòa hợp hòa giải ở Việt Nam còn xa lắm :
"Hòa hợp dân tộc chỉ xảy ra khi một chính thể cởi mở, có nhiều tổ chức xã hội dân sự, chính quyền và nhân dân cùng phấn đấu một mục đích chung, đòi hỏi sự minh bạch để nhân dân tin tưởng là một chính quyền trong sạch, tin tưởng sự đóng góp của mình là để xây dựng tổ quốc, giúp đỡ cộng đồng chứ không phải để nuôi một nhóm người hay một đảng phái nào đó".
Do đó theo bạn trẻ này, việc hòa hợp dân tộc còn phải dựa trên tinh thần phản biện. Với chính quyền Việt Nam hiện tại thì chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc, khó có thể xảy ra trong một sớm một chiều.
Nguồn : RFA, 19/11/2020
Những tháng cuối năm 2020 đang trôi đi thật nhanh với nhịp đập bất thường của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Câu chuyện rầm rộ về cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ chiếm lấy hầu hết trên mạng xã hội nhưng nó vẫn không làm người quan sát quên đi hiện tình Việt Nam, trước kỳ đại hội đảng lần thứ 13 sắp diễn ra vào tháng Giêng năm 2021.
Hội thảo tham vấn về dự thảo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021-2030
Trang thông tin của Đảng cộng sản Việt Nam cho biết [1] : "Hướng dẫn số 151-HD/BTGTW ngày 10/9/2020 của Ban Tuyên giáo trung ương, việc tổ chức thảo luận, lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng được tiến hành từ ngày 20/10/2020 đến hết ngày 10/11/2020". Toàn bộ gồm có [2] :
- Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030.
- Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025.
- Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII.
Toàn bộ gồm 257 trang với hơn 146.000 từ. Trong đó, 3 chỉ tiêu quan trọng không đạt kế hoạch đề ra, gồm :
- Tốc độ tăng GDP : ước đạt 5,9%.
- Tốc độ GDP bình quân đầu người : ước 2.750 USD/người.
- Tỷ lệ thất nghiệp : ước 4,39%.
Con số quan trọng về lạm phát không được tìm thấy trong bản dự thảo, mặc dù đây là một vấn đề quan trọng của nền kinh tế.
Hậu quả của cái hư vô
Ngày 5/11/2020, báo Vietnamnet đưa tin [3] : "Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương Nguyễn Xuân Thắng khẳng định : Lấy nhân dân làm trung tâm là bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Một điều quan trọng nhất cần nhắc lại : Trên thế giới chỉ có khái niệm "kinh tế thị trường" và "kinh tế phi thị trường". Khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" không tồn tại trên thế giới.
Việt Nam, về mặt hữu hình (khái niệm triết học) chỉ là một phần đất nhỏ bé của Trái Đất, tức nó phải phụ thuộc vào sự tồn tại của thế giới. Việt Nam, về mặt vô hình (khái niệm triết học), tính từ 1995 -thời điểm Hoa Kỳ bỏ cấm vận- đã hội nhập vào thế giới.
Vì vậy, xét về cặp phạm trù hữu hình-vô hình nói trên, khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" phải được thế giới công nhận, lúc đó mới có giá trị.
Như vậy, không có cái gọi là "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", tức không có "bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Suy ra, nhân dân làm sao đứng được tại vị trí "trung tâm" của cái hư vô đó ?!
Điều đáng ngạc nhiên, phát ngôn phản khoa học và vô căn cứ đó lại của đảng viên Nguyễn Xuân Thắng -giáo sư-tiến sĩ- Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, vốn là cơ quan đầu não quan trọng nhất cho tất cả những chiến lược hàng đầu của Đảng cộng sản Việt Nam được đưa ra cho tất cả các kỳ đại hội đảng.
Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang lạc nhịp
Không những văn kiện phản khoa học, vô căn cứ lại đang chuẩn bị cho đại hội đảng sắp tới mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang lạc nhịp quá rõ khi họ vừa làm lễ kỷ niệm 25 năm thiết lập bang giao với Hoa Kỳ.
Cho đến nay, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia hùng cường khác, vẫn không công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, mặc dù phía nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cố công thuyết phục từ nhiều năm qua.
Không dừng lại đó, những dấu hiệu lạc nhịp trong thời gian qua được thấy rõ :
- Hoa Kỳ loại Việt Nam ra khỏi danh sách các nước đang phát triển [4] trong tổ chức WTO vào tháng 2/2020.
- Hoa Kỳ chính thức điều tra Việt Nam thao túng tiền tệ [5] vào tháng 10/2020. Trước đó, từ hồi đầu năm 2020, Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam vào danh sách 20 quốc gia bị giám sát vấn đề này [6]
Ngày 12/11/2020, Quốc hội đã bổ nhiệm đảng viên Nguyễn Thị Hồng làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [7] thay cho đảng viên Lê Minh Hưng chuyển về làm Chánh văn phòng trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Bốn ngày sau khi nhậm chức, động thái mới nhất của tân Thống đốc [8] có liên quan tiền tệ được nhận thấy, thông qua lãi suất được gọi là "giảm kỷ lục" do báo Vienamnet đưa tin vào ngày 16/11/2020 và báo này cho hay lãi suất sẽ còn giảm tiếp.
Thao túng tiền tệ, một khi được gọi tên và trong trường hợp không may bị chính thức đưa vào đó, nó sẽ gây ra nhiều hậu quả toàn dân gánh lấy. Thao túng tiền tệ gây tác hại trên nhiều lãnh vực của nền kinh tế, trước hết lãnh vực xuất-nhập khẩu, chứng khoán và thị trường ngoại hối.
Bấy lâu nay, đồng Việt Nam bị xem là không có giá trị lắm, ngay tại quốc nội. Tâm lý xem nhẹ đồng nội tệ, vốn do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam gây ra cho dân chúng, với biểu hiện dễ nhận thấy : Giá cả chỉ có tăng (tức là đồng nội tệ mất giá) chứ không hề giảm.
Từ tâm lý gây ra kỳ vọng lạm phát trong dân chúng, người dân luôn tìm đến các mặt hàng thông dụng nhất trên thị trường để tránh rủi ro : vàng, bất động sản, đô la.
Ba loại tài sản nói trên, gần như nằm bất động với số vốn "tê liệt" khổng lồ mà ngay cả chuyên gia trong ngành cũng chỉ dám ước tính.
Việt Nam và 14 quốc gia thuộc Châu Á-Thái Bình Dương vừa ký hiệp định [9] RCEP hôm 15/11/2020. Hiệp định này do Trung Quốc hậu thuẫn và được kỳ vọng thành công với khái niệm "chủ nghĩa đa phương và thương mại tự do", vốn là một trong những mấu chốt chính yếu gây ra thương chiến Hoa Kỳ-Trung Quốc vào tháng 3/2018.
Phản ứng đầu tiên từ thị trường chứng khoán Việt Nam trước việc ký kết RCEP là "ồ ạt bán cuối phiên, VN-Index giảm 16 điểm" [10] của báo stockbiz hôm 16/11/2020.
Giới quan sát vẫn còn nhớ rõ, Trung Quốc đưa ra sáng kiến thành lập Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) hơn 5 năm về trước. Cách đây 4 tháng, ngày 17/7/2020, ngân hàng AIIB chính thức [11] cho Ngân hàng VIB (Việt Nam) vay 100 triệu USD hỗ trợ duy trì các hoạt động của doanh nghiệp vốn bị ngưng trệ do đại dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19.
Giới chuyên gia trong lãnh vực tài chính-ngân hàng trên thế giới đều xem AIIB như là một thách thức của Trung Quốc đối với WB và IMF của Hoa Kỳ vốn tồn tại nhiều năm qua.
Kết
Trong bối cảnh đối đầu căng thẳng, không chỉ trong nội tại Hoa Kỳ mà còn giữa Hoa Kỳ-Trung Quốc cũng như giữa Trung Quốc và những quốc gia liên quan như Đài Loan, Nhật Bản, Ấn Độ và nhiều nước khác, có vẻ nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang lạc nhịp và bối rối trước hiện trạng thế giới vô cùng hỗn độn hiện nay.
Những chính trị gia hàng đầu thuộc Đảng cộng sản Việt Nam có lẽ đang chờ đợi những tín hiệu rõ ràng hơn, giữa khung cảnh rối rắm và hỗn độn đó, trước khi chỉnh sửa lại những bước đi lạc nhịp ?
Thời gian và thời cơ không bao giờ dành cho những tư duy phản khoa học mệnh danh "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Nguyễn Ngọc Già
Nguồn : RFA, 16/11/2020 (nguyenngocgia's blog)
[1] https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/cong-bo-du-thao-cac-van-kien-dai-ho...
[2] https://mt.gov.vn/vn/tin-tuc/69488/cong-bo-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-...
[3] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-hoi-dang/lay-nhan-dan-la-trung-tam-...
[4] https://tuoitre.vn/viet-nam-len-tieng-viec-my-dua-ra-khoi-danh-sach-quoc...
[5] https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/us-probing-whether-vn-un...
[6] https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tai-chinh/viet-nam-phan-hoi-viec-my-...
[7] https://laodong.vn/thoi-su/chan-dung-nu-thong-doc-ngan-hang-nha-nuoc-ngu...
[8] https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tai-chinh/ngan-hang-tiep-tuc-giam-la...
[9] https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/asia-forms-world-s-bigge...
[10] https://www.stockbiz.vn/News/2020/11/16/886238/co-phieu-lon-dong-loat-gi...
[11] https://ndh.vn/ngan-hang/aiib-cap-cho-vpbank-khoan-vay-100-trieu-usd-127...
Phải nói luôn rằng, những nhân vật lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sản Việt Nam được bầu chọn không liên quan gì đến lợi ích của dân tộc hay đất nước. Mặc dù Đảng cộng sản Việt Nam ra rả rằng, việc bầu chọn, lựa chọn, làm nhân sự là chọn ra những người ưu tú vì dân, vì nước nhưng thực chất không ai tin có chuyện đó.
Những nhân vật lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sản Việt Nam được bầu chọn không liên quan gì đến lợi ích của dân tộc hay đất nước.
Cuộc bầu chọn lãnh đạo trong Đảng cộng sản Việt Nam có yếu tố bắt buộc như sau.
- Người được chọn sẽ giữ sự cai trị của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tất cả mọi yếu tố khác đều để phụng sự yếu tố bắt buộc này. Dù có tốt đẹp như phát triển kinh tế, đời sống, môi trường, trong sạch, tận tâm đều chỉ duy nhất phụng vụ sự cai trị của đảng. Nếu như thực hiện những việc tốt đẹp này mà đụng đến sự tồn vong của Đảng cộng sản Việt Nam, tức khắc sẽ bị hạn chế.
Những đại biểu đi dự đại hội, những uỷ viên trung ương đảng, uỷ viên Bộ Chính trị đều biết rõ trong lòng rằng nhân sự đảng là vấn đề mang lợi ích lại cho bản thân họ. Không ai vào Đảng cộng sản Việt Nam để mưu đồ hạnh phúc cho dân tộc, đất nước ở giai đoạn hiện nay. Tất cả đều mưu đồ sự nghiệp, danh vọng, quyền lực và tiền bạc cho gia đình mình. Một số ít tử tế nhất trong đám này vào đảng với suy nghĩ, thôi thì vào đảng có cơ hội thăng tiến, làm được nhiều việc có ích hơn cho xã hội và cho bản thân mình. Số này theo năm tháng thời gian sẽ chán ngán với mục tiêu có ích cho xã hội và tập trung vào có ích cho bản thân mình.
Bởi thế việc bầu ai vào Bộ Chính trị, tái cử trong Bộ Chính trị là lợi ích của những đảng viên đảng cộng sản. Cho nên việc chọn ai này là được bàn dựa trên lợi ích của đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải cho người dân.
Vậy đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam nên bâù ai để có lợi cho mình ?
Người thứ nhất nên bầu là ông Tô Lâm. Ông này thực sự là một người tài, trong bối cảnh rối ren của các phe phái đấu đá nhau, ông dẹp loạn được bộ công an, bao che cho công an trong mọi vụ làm chết người dân trong đồn, trong trại giam. Thời của ông Tô Lâm đã gần như tiêu diệt hoặc làm tan rã mọi tổ chức chống đối, đưa hàng loạt các nhân vật bất đồng chính kiến với đảng vào tù với mức án dài hàng chục năm. Ông thực hiện nhiều vụ bắt cóc các quan chức trốn chạy để lấy lại sự khủng khiếp của chế độ. Về yếu tố duy trì sự tồn vong của đảng, ông Tô Lâm là người có ưu thế nhất. Ông này nên bâù làm chủ tịch nước.
Người thứ hai là ông Trần Quốc Vượng, ông này trung thành với đảng và lại rất ngáo ngơ, ông ta sẽ để mặc các nhóm lợi ích tung hoành, các bạn đảng viên có thể yên tâm đục khoét dưới thời ông này làm tổng bí thư.
Người thứ ba là ông Nguyễn Văn Bình hoặc ông Vương Đình Huệ nên bâù làm thủ tướng, nhưng ông Huệ bị chốt chặt ở ghế bí thư Hà Nội và đang có nghi vấn có con riêng với ca sĩ Hương Tràm, tin đồn này chưa được xác minh, nhưng nếu nó có thật cộng với việc ông đã chốt ở ghế bí thư Hà Nội, cái ghế thủ tướng với ông khá xa. Còn ông Nguyễn Văn Bình mới đây bị lôi ra kỷ luật vì tội từ đời nào, con đường đến với cái ghế thủ tướng của ông trở lên mịt mờ. Người đáng làm thủ tướng khóa tới chỉ có ông Nguyễn Văn Nên là đáng làm hơn cả, vì ông từng làm chủ nhiệm văn phòng chính phủ, chủ nhiệm văn phòng trung ương đảng. Tức ông làm đệ cho ông Dũng rồi sau làm đệ cho ông Trọng một cách bình yên, chứng tỏ phẩm chất của ông khá hài hoà, trung dung. Nhưng ông Nên giờ còn chưa vào Bộ Chính trị, chưa làm phó thủ tương, cho nên không thể làm thủ tương được. Chức vụ này khá phức tạp, nay chỉ còn hai ông quá tuổi là ông Phúc và Trương Hòa Bình. Nếu phải chọn thì hãy chon ông Phúc, vì gia đình nhà ông Phúc đã ăn rất bẫm rồi, sân sau của ông Phúc cũng tràn ngập khắp nước. Nếu để ông Trương Hòa Bình làm thủ tướng, sẽ có một đàn sân sau, họ hàng, phe phái theo sau kiếm chác như đàn tằm, điều này sẽ khiến các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam phải nhường bớt phần ăn cho bọn đói khát hơn. Chốt lại là để bọn béo mập thừa chất ở lại hơn là thay thế bằng bọn khác. Vì lẽ đó nên chọn ông Phúc tiếp tục làm thủ tướng nhiệm kỳ 2.
Người thứ tư ở vị trí chủ tich quốc hội thì bà Ngân hay bà Mai cũng không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của các đảng viên đảng cộng sản. Vì không ảnh hưởng gì, nên chọn bà Mai, vì bà này không tai tiếng xấu nhiều như bà Ngân. Chọn bà này giữ hình ảnh chút cho đảng cũng là cái lợi.
Đây là góp ý của cá nhân mình với trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa 12, với các đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam ở đại hội 13. Trên tinh thần vì lợi ích của đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Người Buôn Gió
Nguồn : nguoibuongio1972, 12/11/2020