Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Bài 1 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)

 

Rút kinh nghiệm từ hai cuộc Cách Mạng Pháp 1789 và Việt Nam 1945 cho cuộc cách mạng dân chủ sắp tới

 

***************

LTS. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 72 Cách Mạng Tháng 8-1945 mời độc giả đọc bài tham luận dưới đây để cùng rút những kinh nghiệm cần thiết cho cuộc cách mạng dân chủ sắp tới. Cách Mạng Tháng 8 đã có thể mở đầu cho một kỷ nguyên dân chủ và phồn vinh. Trên thực tế nó đã chỉ là khởi điểm của một thảm kịch vẫn chưa chấm dứt, khiến nước ta tụt hậu, suy nhược và phân hóa.

cm1

Cách Mạng Tháng 8 đã chỉ là khởi điểm của một thảm kịch vẫn chưa chấm dứt, khiến nước ta tụt hậu, suy nhược và phân hóa.

Tại sao ? Điều quan trọng nhất không phải là biết những biến cố đã xảy ra mà là hiểu được tại sao chúng đã xảy ra và đã xảy ra như thế. Phải hiểu lịch sử để những thảm kịch đừng tái diễn.

***************

Chúng ta ở trong thời điểm kỷ niệm hai cuộc cách mạng, Cách Mạng Pháp 1789 và Cách Mạng Việt Nam 1945. Lý do để nhắc tới cùng một lúc trong bài này hai biến cố đó không phải vì chúng cùng xảy ra trong mùa hè mà vì chúng diễn ra dưới tác động của cùng một phong trào : phong trào lãng mạn (the romantic movement, le mouvement romantique). Phong trào này phải được nói tới vì ảnh hưởng quan trọng của nó trong lịch sử thế giới và nước ta. Chúng ta còn đang gánh chịu những hậu quả của nó.

cm2

Cách mạng Pháp 1789 diễn ra dưới tác động của cùng một phong trào : phong trào lãng mạn

Phong trào lãng mạn, như một trào lưu tư tưởng đã bắt đầu tại Pháp trong thế kỷ 18, thế kỷ nở rộ của văn học, nghệ thuật và tư tưởng, và thường được gọi là Thế Kỷ Ánh Sáng.

Khuynh hướng lãng mạn thời nào cũng có ở mọi quốc gia đã đạt tới một mức độ văn minh nào đó. Nó là phản xạ tự nhiên của con người trước những gò bó của xã hội, là một cố gắng vượt thoát khỏi thực tại và cũng là một động cơ của tiến bộ. Mọi nghệ sĩ lớn không nhiều thì ít đều lãng mạn. Nhưng nói chung tư tưởng lãng mạn chỉ đột xuất, chợt đến và qua đi, ở từng người, trong một số ít người. Nó đã chỉ trở thành một trào lưu tư tưởng mạnh, hướng dẫn cách suy nghĩ và hành động vào thế kỷ 18 tại Pháp rồi từ đó lan ra các nước khác. Sang thế kỷ 19 trung tâm phong trào lãng mạn chuyển sang nước Đức vừa thống nhất và trở thành một luồng tư tưởng chính trị mãnh liệt. Luồng tư tưởng này, phối hợp với các điều kiện lịch sử và văn hóa của mỗi nước châu Âu đã đẻ ra các chủ nghĩa quốc gia quá khích, cộng sản, phát xít và nazi.

Người Pháp ngay từ thế kỷ 17 đã nâng niu một điều mà họ gọi là la sensibilité, tạm dịch là sự nhậy cảm, nhưng thực ra rất khó dịch vì là một đặc sản của tiếng Pháp. Nó có nghĩa là khả năng xúc động và cảm thương một cách dễ dàng và mãnh liệt không có sự can thiệp của lý trí. Một người lãng mạn có thể xúc động mạnh mẽ trước một cảnh đau lòng nhưng lại dửng dưng trước một kế hoạch  tỉ mỉ để cải thiện xã hội, cải thiện dân sinh. Lý luận phải vắng mặt để sự nhậy cảm, la sensibilité, được chân chính và toàn vẹn. Trái tim là tất cả.

Con người đã đưa khuynh hướng lãng mạn lên thành một phong trào tư tưởng mãnh liệt tại Pháp, đồng thời biến nó từ một phong trào thơ văn thành một thái độ chính trị áp đảo là Jean-Jacques Rousseau (1712-1778). Ông sống bụi đời từ thời thơ ấu, đi bộ lang thang khắp đó đây, khi sống nhờ những gia đình giàu có, khi nhờ vả những người cũng nghèo khổ như ông và đáp lại một cách rất tệ bạc. Ông lấy một người vợ xấu xí, dốt nát, có được năm đứa con đem bỏ hết vào trại mồ côi và không bao giờ biết đến chúng nữa. Nói chung là một cuộc sống hoàn toàn thiếu cái thường được gọi là liêm sỉ và đạo đức. Nhưng điều này không làm Rousseau áy náy vì ông yên trí là đã có trái tim nhậy cảm. Rousseau cảm xúc thực tình và diễn tả cảm xúc của mình bằng những câu văn trác tuyệt. Rousseau là một nhà văn thiên tài. Văn chương của ông đã khiến người ta say mê, chấp nhận những ý kiến của ông và tạo ra cả một phong trào lãng mạn áp đảo mà ảnh hưởng kéo dài suốt hai thế kỷ, và ở một chừng mực nào đó còn kéo dài tới ngày nay.

cm3

Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), người đã đưa khuynh hướng lãng mạn lên thành một phong trào tư tưởng mãnh liệt tại Pháp, đồng thời biến nó từ một phong trào thơ văn thành một thái độ chính trị áp đảo

Rousseau chống lại văn minh, ông cho rằng văn minh làm hư hỏng con người ; ông chống lại giáo dục, ông cho rằng con người hoang dại suy nghĩ đúng nhất vì suy nghĩ một cách trong sạch. Ông chủ trương phải hủy bỏ quyền tư hữu, hủy bỏ mọi tổ chức sinh hoạt kinh tế, chấm dứt cuộc cách mạng kỹ nghệ vừa bắt đầu lúc đó để trở lại với cuộc sống giản dị và thơ mộng của nông thôn. Những người lãng mạn theo Rousseau đặt cái đẹp và cảm xúc mạnh lên trên hết. Họ yêu con cọp xé xác họ vì nó đẹp và dữ tợn hơn là con bò cho họ sữa uống và thịt ăn vì con bò hiền lành và tầm thường. Đập phá hứng thú hơn xây dựng vì đập phá cho cảm xúc mạnh trong khi xây dựng đòi hỏi mồ hôi và sự nhẫn nại, những cái mà trường phái lãng mạn ghét nhất. Cái chết đáng yêu hơn sự sống vì cái chết bi đát và gợi cảm hơn cuộc sống đều dặn và tẻ nhạt, chết trong tuổi thanh xuân là rất thơ mộng.

Không phải chỉ có người Pháp, hầu như mọi nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã chịu ảnh hưởng quyết định của trường phái lãng mạn mà Rousseau được coi là cha đẻ. Công bằng mà nói, cuộc cách mạng này là đứa con chung của hai người rất khác nhau, John Locke và Jean-Jacques Rousseau.

cm4

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ năm 1776 cũng như bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp năm 1789 có nhiều câu gần như nguyên văn của John Locke

John Locke (1632-1704), trước Rousseau gần một thế kỷ, là một con người thông thái, hiền hòa, cha đẻ của tư tưởng dân chủ và nhân quyền, bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ năm 1776 cũng như bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp năm 1789 có nhiều câu gần như nguyên văn của ông. Lý trí của cuộc cách mạng này, thể hiện qua các văn bản và định chế, là của Locke nhưng tình cảm và động cơ của nó là của Rousseau. Nó đã là một cuộc cách mạng đẫm máu và kinh hoàng, trong đó người ta đập phá và chém giết thả cửa. Sau khi đã tiêu diệt giới quí tộc và hàng giáo phẩm, nó quay lại tàn sát chính người người đã hô hào chủ xướng nó như Danton, Condorcet, v.v. Sự tàn sát đã đạt tới cao điểm trong giai đoạn được gọi một cách chính xác là La Terreur (Kinh Hoàng) khi Robespierre và Saint Just cầm quyền. Quốc ca của nước Pháp ngày nay vẫn là bài La Marseillaise của Rouget de Lisle, nó kêu gọi :

Công dân ơi, hãy cầm khí giới ! Hãy thành lập những đạo quân ! Tiến lến ! Tiến lên ! Để máu tanh hôi tràn ngập ruộng đồng !

(Aux armes, citoyens ! Formez vos bataillons ! Marchons, marchons ! Qu’un sang impur abreuve nos sillons !).

Trong biển máu tanh hôi đó suýt nữa có cả máu của Rouget de Lisle vì sau đó chính ông cũng suýt bị hành quyết.

Nhưng ảnh hưởng của trường phái lãng mạn không dừng lại ở cuộc cách mạng này, tâm lý bạo lực và chém giết tiếp tục nuôi dưỡng các cuộc chiến tranh thảm khốc của Napoléon sau đó bởi vì giết chóc và chiến tranh không bị nguyền rủa mà còn được coi là hùng tráng. Trước 1789, Pháp là nước lớn nhất châu Âu, mạnh hơn tất cả phần còn lại của châu Âu cộng lại. Sau đó, nước Pháp kiệt quệ và không gượng dậy được. Pháp cho tới bây giờ vẫn còn là một bí ẩn : tại sao một nước có lãnh thổ lớn, khí hậu tốt, vị trí tuyệt vời, đất đai phì nhiêu, trí tuệ cao, văn hóa phong phú mà không vượt nổi các các nước châu Âu khác, không những thế còn thua sút ? Vết thương của cuộc Cách Mạng 1789 vẫn chưa lành.

Chúng ta đã nói cuộc cách mạng này là sản phẩm của hai luồng tư tưởng rất trái ngược nhau, tiêu biểu bởi John Locke và Rousseau. Mới đầu sự trái ngược này không được ý thức, nhưng sau đó sự đối chọi của chúng trở thành rõ rệt không thể dung hòa. Chúng đã tách ra hai lối đi khác nhau. Hậu duệ của John Locke là những Washington, Jefferson, Churchill, de Tocqueville, v.v. và các chế độ dân chủ. Hậu duệ của Rousseau là những Karl Marx, Bakunin, Auguste Blanqui, Saint Simon, Nietzche, Schopenhauer, Hitler, Mussolini, Lenin, Stalin, v.v. và các chế độ cộng sản, phát xít, Nazi. Một đại lộ thênh thang và những ngõ cụt đẫm máu.

Tôi biết đến Jean-Jacques Rousseau lần đầu tiên khi học sử thế giới ở các trường trung học Việt Nam, các cuốn sách sử Việt Nam và các thầy giáo của tôi ca tụng cuộc Cách Mạng Pháp 1789 như là một cột mốc đánh dấu một bước tiến vĩ đại của nhân loại và Rousseau như là một ân nhân của nhân loại vì đã là người khai sáng ra cuộc cách mạng đó. Tôi ngưỡng mộ Rousseau như mọi thanh niên Việt Nam vì chúng tôi đã được dạy bảo để ngưỡng mộ ông. Tại Pháp tôi đọc các tác phẩm của Rousseau và rất thất vọng. Khi thấy Hegel và Karl Marx nằm trong luồng tư tưởng Rousseau, tôi cũng tìm đọc và cũng có cùng một thái độ. Cả Rousseau và Marx đều có đặc tính chung của trường phái lãng mạn : hời hợt, hồ đồ và mâu thuẫn trong lý luận nhưng lại quả quyết, tuyệt đối và quá khích trong các kết luận.

Rousseau ca tụng nông dân nhưng ông chưa bao giờ làm nghề nông hay chia sẻ nếp sống của nông dân, ông chỉ là một người lang thang. Marx đề cao giai cấp công nhân và đưa ra cả một lý thuyết kinh tế, nhưng ông là một nhà báo và một học giả, không biết gì về cuộc sống công nhân và mù tịt về kinh tế. Tôi chưa bao giờ bị cám dỗ vì những gì họ đã nói và viết, hơn thế nữa còn bác bỏ một cách không nể nang trong mọi phát biểu, dù thập niên 1960, lúc tôi là sinh viên, là thời điểm mà tại Pháp người ta cho rằng một người trí thức đương nhiên phải theo chủ nghĩa Marx.

Phải nhấn mạnh một điều : chính Rousseau chứ không phải Marx mới là cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản và các chế độ cộng sản. Rousseau hô hào một chế độ cộng sản nông dân, trong khi Marx coi giai cấp công nhân là nền tảng. Tất cả các chế độ cộng sản được thành lập - dù tại Nga, tại Trung Quốc, tại Cao Ly, tại Việt Nam, Cuba hay mọi nước khác - đều là chế độ cộng sản nông nghiệp lấy nông dân làm nền tảng. Cái ý kiến cho rằng chỉ những người nông dân mộc mạc vô học mới là những lãnh tụ tốt cũng là của Rousseau chứ không phải của Marx. Sở dĩ các chế độ cộng sản đề cao Marx thay vì Rousseau là vì Marx đưa ra cả một chủ nghĩa bề ngoài có vẻ hệ thống và mạch lạc, bao gồm cả lịch sử, triết học và kinh tế và do đó đem lại cho các chế độ cộng sản một hệ thống lý luận hào nhoáng trong cuộc tranh cãi ý thức hệ với phe dân chủ. Nhưng các chế độ cộng sản đã là con đẻ của Rousseau chứ không phải của Marx. Sự kiện các chế độ quốc gia chống cộng tại Việt Nam, với đầy rẫy những người có bằng cấp đại học, ái mộ Rousseau mà không có lấy một người nhận ra ông vừa bệnh hoạn vừa là cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản đang đe dọa tiêu diệt họ là một bằng chứng hùng hồn rằng người Việt Nam chỉ học để nhồi đầy đầu chứ không phải để biết suy nghĩ.

Trở lại với cuộc Cách Mạng Tháng 8/1945. Ảnh hưởng của trường phái lãng mạn rất rõ rệt. Quá rõ rệt. Có lẽ vì Pháp đô hộ Việt Nam mà những thảm họa đã xảy ra cho Pháp một thế kỷ rưỡi trước đã được lập lại một cách gần như trọn vẹn. Cũng như tại Pháp, phong trào lãng mạn Việt Nam đã khởi đầu, từ thập niên 1930, từ thơ văn với cùng một tinh thần : tìm cảm giác mạnh, say mê sự dữ dội, xa lạ, rùng rợn và cuồng nhiệt, hành động để thỏa mãn cảm xúc, bất chấp kết quả và hậu quả.

Thế Lữ có lẽ là người đại diện tiêu biểu nhất của trường phái lãng mạn tại Việt Nam trước Cách Mạng Tháng 8.

      Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi

      Không chuyên tâm không chủ nghĩa nhưng cần chi

      Tôi chỉ là một khách tình si

      Ham vẻ đẹp của muôn hình muôn vẻ

      …

      Cảnh vĩ đại sóng nghiêng trời thác ngàn đổ

      Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay

      Cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy

      Thu xán lạn mơ hồ trong ảo mộng

      Cảnh nô nức ganh đua đời náo động

      Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê

Vẻ đẹp là tất cả, dù là "cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy", miễn là tạo ra cảm xúc. Nên lưu ý là tác giả không hề bày tỏ một ý chí nào để chấm dứt cảnh cơ hàn đó, trái lại ông say mê nó. Lãng mạn và yêu cảm xúc mạnh tự nhiên dẫn tới sự say mê bạo lực và sự dữ tợn ; Thế Lữ cũng yêu con cọp hung dữ hơn con trâu hiền lành, như ông diễn tả trong bài Nhớ rừng, nói về con cọp :

      Với tiếng gió gào ngàn với giọng nguồn hét núi

      Với khi thét khúc trường ca dữ dội

      Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng

      Luợn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

      Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc

      Trong hang tối mắt thần khi đã quắc

      Là khiến cho mọi vật đều im hơi

      Ta biết ta chúa tể cả muôn loài.

Dù con cọp đây chỉ là con cọp trong cũi, đã bị con người nhỏ bé tầm thường bắt nhốt để "làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi".

Chắc chắn Thế Lữ chịu ảnh hưởng sâu đậm của Rousseau. Ông tự giới thiệu "tôi là người bộ hành phiêu lãng" như hình ảnh của Rousseau. Chỉ khác một điều Rousseau đích thực là một người bộ hành phiêu lãng, trong khi Thế Lữ chỉ là một khách bộ hành phiêu lãng trong trí tưởng tượng. Ông sống ở thành phố. Cảm hứng tuy vay mượn nhưng cũng rất mãnh liệt. Ảnh hưởng của Thế Lữ và trào lưu thi ca lãng mạn rất lớn. Nguyễn Ngọc Huy, một nhà cách mạng kiên trì phấn đấu cho tới hơi thở cuối cùng, cũng chịu ảnh hưởng lớn của Thế Lữ. Những bài thơ của Nguyễn Ngọc Huy, dưới bút hiệu Đằng Phương, mượn nhiều của Thế Lữ cả về cả âm điệu lẫn hình ảnh và cách dùng từ. Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), một nhà cách mạng nổi tiếng, cũng lãng mạn. Nhân vật Dũng trong Đôi Bạn của ông, không cần biết đi làm cách mạng để làm gì và phải làm thế nào để thành công, chỉ thích cuộc đời gian lao, mưa gió. Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng không khác bao nhiêu, làm cách mạng một cách lãng mạn, say mê bạo lực dù không có phương tiện của bạo lực để rồi ngã gục trước bạo lực.

Cũng như Cách Mạng 1789 tại Pháp, Cách Mạng Tháng 8 tại Việt Nam đã xảy ra trong một bối cảnh mà phong trào lãng mạn đã đạt tới cao điểm. Phong trào này với bản chất phóng đãng không chuyên tâm, không chủ nghĩa, không tổ chức và không tham vọng không thể tự nó gây ra một cuộc cách mạng nào nhưng đã tạo ra một tâm lý. Và khi một cuộc cách mạng xảy ra vì những lý do khác thì chính tâm lý này sẽ trở thành động cơ chính, sẽ nhào nặn, sẽ quyết định cách mà nó sẽ diễn ra, cũng như các kết quả và hậu quả của nó.

Cũng như Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Tháng 8-1945 đã diễn ra trong sự suy sụp của quyền lực chính trị. Tại Pháp năm 1789, ngân sách nhà nước cạn kiệt, vua Louis 16 phải triệu tập hội đồng quốc dân (états généraux) để đòi hỏi nhân dân những hy sinh mới vào giữa lúc mà tư tưởng dân chủ đã chín muồi sau hơn một thế kỷ thai nghén. Hội đồng quốc dân đã nhanh chóng trở thành hội đồng cách mạng lật đổ chế độ quân chủ. Tại Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp bị Nhật lật đổ, rồi Nhật cũng thua trận và phải đầu hàng trong khi nguyện vọng độc lập đã lên cao. Đảng cộng sản dù lực lượng nhỏ, chỉ vài trăm người với kiến thức thô sơ và rất ít vũ khí, đã nắm được chính quyền vì là lực lượng duy nhất có tổ chức vào lúc đó. Phong trào lãng mạn đã đóng góp một cách quyết định vào thắng lợi của đảng cộng sản và, quan trọng hơn nữa, đã biện minh cho chính sách khủng bố tàn bạo mà nó áp dụng lúc đó và sau này trong suốt hai cuộc chiến được gọi là chống Pháp và chống Mỹ nhưng chủ yếu là những cuộc nội chiến, bởi vì bạo lực, phá hoại và giết chóc không những không bị lên án mà còn được say mê. Những bài ca kháng chiến một thời làm nức lòng người nói lên rất rõ tâm lý này.

Phạm Duy :

      Lúc phá hết phố phường biệt ly đời gấm hoa

      Người vui đời áo nâu quên hết ưu sầu

Đúng là các thành phố đã bị phá hủy trong chính sách tiêu thổ kháng chiến, nhưng làm gì có "đời gấm hoa" ? Lúc đó Việt Nam còn nghèo lắm, nhất là trước đó chỉ vài tháng đã có hai triệu người chết đói. Lúc Phạm Duy viết những câu này vẫn còn nhiều người lang thang xin ăn, vẫn còn những người tiếp tục chết đói.

Văn Cao còn dữ dội hơn nữa, bài Tiến quân ca, được lấy làm quốc ca, trong lời nguyên thủy của nó thôi thúc : "thề phanh thây uống máu quân thù". Quân thù đây không nhất thiết phải là quân ngoại xâm mà có thể là những người bị coi là Việt gian phản động vì Văn Cao là đội trưởng đội ám sát ; theo chỗ tôi biết tất cả những người ông đã giết đều là người Việt.

Bài Chiến sĩ Việt Nam của Văn Cao có lẽ là bài hát tiêu biểu nhất cho tâm lý lãng mạn của thanh niên thời đó, nó là một trong những bài ca kháng chiến được coi là hay nhất và được hát nhiều nhất.

      Là trang nam nhi quyết đến sa trường

      Sống thác coi thường, mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai.

      Bừng nghe dư âm mênh mông khúc anh hùng ca reo nơi biên cương, bao chiến mã lên đường !

Không những không sợ chết mà còn mong được chết ! Nhưng cần lưu ý một đặc tính rất Việt Nam ở đây là sự ước lệ, vay mượn và giả tạo. "Trang nam nhi", "sa trường" là những khái niệm cổ điển từ một thời rất xa xưa. Vả lại làm gì còn có "da ngựa bọc thây" "chiến mã" ?

Cuộc chiến cũng đâu có diễn ra ngoài biên cương ! Giả tạo và ước lệ như thế nhưng cũng đủ để say máu. Chính sách khủng bố trong giai đoạn kế tiếp Cách Mạng Tháng 8 đã diễn ra trên cả nước một cách cực kỳ rùng rợn. Một người lạ mặt đi qua một làng có thể bị giết oan vì bị nghi là gián điệp. Không thể kể hết những nhân vật có tên tuổi bị sát hại. Các đảng viên, hoặc những người bị nghi ngờ là đảng viên, của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Đệ Tứ, v.v. bị tàn sát thẳng tay. Và đại đa số thanh niên Việt Nam ủng hộ Việt Minh vừa vì sợ vừa vì mê bạo lực.

Phải ý thức rằng lãng mạn và bạo lực đi đôi với nhau như cặp tình nhân mới hiểu tại sao một người bạc nhược và ham vui như Xuân Diệu có thể viết trong đợt Cải Cách Ruộng Đất câu thơ kinh khủng "lôi cổ bọn chúng ra đây, bắt chúng quì xuống đọa đầy chết thôi". Giải thích thông thường là Xuân Diệu bợ đỡ và hèn nhát, nhưng người ta vẫn có thể bợ đỡ và hèn nhát một cách khác.

Về mặt tâm lý, những gì giả tạo và vay mượn thường có sức sống dai dẳng hơn những cảm xúc chân thật vì chúng không được thấu hiểu và do đó khó bị phê phán. Trong suốt hai cuộc chiến, phương pháp của đảng cộng sản là khủng bố, phá hủy, ám sát, thủ tiêu nhưng trí thức Việt Nam nói chung không lên án đảng cộng sản vì thế. Những người chống cộng thường chống vì những lý do khác. Tôi đã gặp nhiều trí thức, trong đó có những bạn tôi, có cha mẹ bị cộng sản giết oan nhưng vẫn ngưỡng mộ đảng cộng sản, có khi còn theo cả phe cộng sản. Họ bị thu hút vì sự lãng mạn của bạo lực và cũng vì dư luận thế giới cho đến giữa thập niên 1970 ủng hộ đảng cộng sản. Sau này nhiều người trong họ quay lại chống chế độ. Tôi nghĩ một phần cũng vì dư luận thế giới đã lên án chủ nghĩa và các chế độ cộng sản ; người trí thức Việt Nam không quen suy nghĩ bằng cái đầu của chính mình.

Nước Pháp không gượng dậy được sau Cách Mạng 1789 ; từ một cường quốc mạnh nhất thế giới họ trở thành một cường quốc trung bình, trước khi trở thành một nước trung bình. Bạo lực cách mạng xuất phát từ chủ nghĩa lãng mạn và được nuôi dưỡng bởi chủ nghĩa lãng mạn đã chiếm giữ tâm hồn người Pháp và khiến Cách Mạng 1789 và giai đoạn Kinh Hoàng được nối tiếp bởi những cuộc chiến tranh chinh phục thảm khốc của Napoléon. Cuối cùng nước Pháp bại trận, kiệt quệ, chia rẽ và liên tục suy thoái.

Cũng thế, Cách Mạng Tháng 8 đã được nối tiếp bằng 30 năm chiến tranh với kết quả là chế độ cộng sản. Và người Việt Nam cũng đã quá kiệt quệ đến nỗi không còn đủ nghị lực và ý chí để tự giải phóng.

Một điều khác biệt giữa Cách Mạng 1789 và Cách Mạng Tháng 8 : nếu Cách Mạng 1789 chỉ lãng mạn một cách ngây thơ và bồng bột thì Cách Mạng Tháng 8 lại do một nhóm người chuyên nghiệp được huấn luyện theo kỹ thuật khủng bố của Nga, tổ quốc của đam mê, tàn bạo và khủng bố. Những người này không lãng mạn, họ lợi dụng phong trào lãng mạn cho tham vọng quyền lực và thống trị.

Đến đây cần trả lời một câu hỏi : tại sao chủ nghĩa lãng mạn - chủ nghĩa hiểu theo nghĩa rộng như là một cách sống - lại có thể sản sinh ra những chế độ toàn trị cộng sản, phát xít và nazi ?

Cần hiểu rõ tiến trình của sự chuyển hóa này vì nó không giản dị. Về cội nguồn và bản chất của nó, chủ nghĩa lãng mạn là sự nổi loạn đối với các tiêu chuẩn đạo đức và thẩm mỹ sẵn có. Như vậy nó nằm trong chiều hướng giải phóng cá nhân, nghĩa là tự do và dân chủ. Nhưng nó đã thiếu sự kiểm soát của lý trí và đã lạc hướng. Một chiếc xe mạnh có thể đưa tới nhanh điểm hẹn nhưng cũng có thể lao xuống vực thẳm. Phong trào lãng mạn đã có ít nhất hai tật nguyền khiến nó đã sản sinh ra những đứa con hung bạo.

Một là vì không đặt lại những vấn đề triết học, nó vẫn nằm trong triết lý cố hữu của loài người kể từ khi nền văn minh ló dạng : triết lý nhất nguyên. Phải hiểu rằng từ thời thượng cổ cho đến thế kỷ 20 triết lý duy nhất của thế giới là nhất nguyên, và ngay cả bây giờ tư tưởng nhất nguyên vẫn còn rất mạnh. Đó là niềm tin rằng với mọi câu hỏi đích thực luôn luôn có một và chỉ có một giải đáp đúng. Giải đáp có thể chưa tìm ra nhưng vẫn có và chỉ có một, trừ khi chính câu hỏi được đặt sai. Nếu ta không tìm ra là vì ta kém, hay không đúng phương pháp. Ta không tìm ra thì sẽ có những vĩ nhân được trí tuệ soi sáng, những thánh nhân được sự mặc khải Thượng đế tìm ra, và nếu chính họ cũng chưa biết thì Thượng đế cũng biết. Nhưng giải đáp đích thực luôn luôn có và chỉ có một. Có Chân, Thiện, Mỹ. Và khi mọi giải đáp đúng cho mọi vấn đề lớn của nhân loại đã tìm thấy thì xã hội lý tưởng đã tìm được và kỷ nguyên của hạnh phúc toàn diện bắt đầu. Có thiên đường.

Triết lý nhất nguyên đã là cội nguồn của mọi tôn giáo lớn. Nó cũng là lý do khiến cho đến giữa thế kỷ 20 người ta đã vật vã tìm kiếm những ý thức hệ giải quyết tất cả mọi vấn đề của loài người. Các tôn giáo khiêm tốn hơn, cho rằng thiên đường chỉ có ở đời sau, nhưng các nhà tư tưởng  chính trị lại lạc quan hơn cho rằng có thể thực hiện ngay trên mặt đất này. Hegel và Marx tin rằng có một qui luật lịch sử khách quan, qui luật biện chứng, dẫn đến xã hội toàn hảo, dù mỗi người một cách, Hegel qua sự xung đột giữa các quốc gia, Marx qua đấu tranh giai cấp. Trước đó Rousseau tin rằng chỉ có tâm hồn trong sáng của người nông dân mới tìm ra được chân lý. Người Do Thái và tín đồ Thiên Chúa giáo cho rằng phải tìm chân lý trong kinh thánh. Plato cho rằng toán là con đường, các "vua hiền triết" (philosopher king) là người dẫn đường. Phương pháp khác nhau nhưng triết lý vẫn chỉ là một : triết lý nhất nguyên với niềm tin là có và chỉ có một giải đáp cho mỗi vấn đề. Có chân lý và chân lý chỉ có một.

Và nếu chân lý đã chỉ có một thì sự hy sinh chỉ có ý nghĩa khi nó đúng hướng. Kẻ hy sinh tính mạng để chống lại cách mạng vô sản, hay để chống lại quyền lãnh đạo tất yếu của dân tộc Aryen, v.v. tùy theo cách nhìn của mỗi người, chỉ là hy sinh một cách ngu xuẩn. Hơn nữa khi đường đi tới chân lý đã tìm được - và nhiều người nghĩ là họ đã tìm được dù những giải đáp của họ rất khác nhau - thì kẻ nào chống lại chỉ là kẻ cản trở đà tiến phải có của nhân loại và do đó phải bị tiêu diệt, hoặc ít là vô hiệu hóa. Triết lý nhất nguyên tự nó đã bất dung, nó còn bất dung hơn ở phương pháp lý luận nhị nguyên (dualism) của nó. Cái gì cũng chỉ phân biệt hai khả năng, thẩm mỹ có đẹp và xấu, đạo đức có thiện và ác, lý luận có đúng và sai, chính trị có ta và địch, bạn và thù.

Chủ nghĩa lãng mạn vẫn nằm trong tinh thần nhất nguyên, nhưng nó làm gia tăng sự bất dung do bản chất ưa cảm xúc mạnh, bạo lực và sự đập phá của nó.

Lý do thứ hai nằm ngay trong bản chất của phong trào lãng mạn. Lập trường của những người lãng mạn là phủ nhận mọi giá trị phổ cập hiện có. Họ nói : tôi hoàn toàn tự do, tôi tự tìm lấy và sống các giá trị của riêng tôi, tôi tự quyết định lấy tất cả. Nhưng Tôi  là ai ? Và tôi có thể hoàn toàn tự do được không ? Trong thâm tâm con người tự biết mình ngu dốt, yếu kém, hèn nhát, thèm muốn, nhỏ mọn không thể đảm nhận được cái tự do tuyệt đối đó, càng không thể chịu hậu quả. Trừ khi chấp nhận làm kẻ phiêu lưu điên dại sống ngoài lề xã hội, ngoài vòng pháp luật và sau cùng bị đào thải như Byron, con người mau chóng tìm chỗ trú ẩn trong một cái tôi siêu hình và tập thể. Cái tôi lớn đó là một dân tộc, một giai cấp, một giáo hội, một đảng, v.v., trong đó cái tôi nhỏ - cá nhân - chỉ là một phần tử trong một tổng thể, một viên gạch trong một lâu đài, một tế bào trong một cơ thể, nghĩa là không đáng kể.

Rousseau, vẫn ông này, đã minh họa một cách rõ rệt tiến trình tha hóa này. Thúc đẩy bởi danh tiếng đã nổi như cồn vào lúc đó, ông cũng đua đòi muốn đưa ra một học thuyết chính trị và đã viết cuốn Du contrat social (Về khế ước xã hội). Kết luận của Rousseau, sau một hồi lý luận, là muốn được hoàn toàn tự do, con người phải từ bỏ tất cả mọi tự do, phải chấp nhận tha hóa một cách tuyệt đối, tuân phục một cách tuyệt đối Ý Chí Chung  (La Volonté générale). Nhưng ý chí chung là gì nếu không phải là ý chí của kẻ cầm quyền ? Khởi hành từ sự tìm kiếm tự do cá nhân, Rousseau đã đi đến kết luận là phải hủy bỏ toàn bộ tự do cá nhân. Quả là một sự phá sản trí thức toàn diện. Chỉ có người Pháp mới coi Rousseau là một nhà tư tưởng chính trị lớn. (Họ nói Rousseau đã khởi xướng ra khái niệm khế ước xã hội. Điều này hoàn toàn sai, khái niệm khế ước xã hội đã được đưa ra một thế kỷ trước đó một cách hùng hồn bởi Thomas Hobbes và John Locke).

Khi đã chấp nhận hội nhập và đánh mất mình trong cái tôi tập thể đó, cá nhân mất mọi ý chí, chỉ còn tổ quốc, đảng, giai cấp và lãnh tụ. Tổ quốc trên hết, nước tôi đúng hay sai vẫn là nước tôi, tôi vẫn phải tuân hành mệnh lệnh của tổ quốc. Tôi làm như vậy không phải vì tôi thấy là đúng hay vì tôi thích mà vì đảng muốn, vì đó là quyền lợi của giai cấp, đảng và giai cấp nghĩ thay cho tôi. Còn những người lãnh đạo ? Họ thể hiện chủ nghĩa lãng mạn của kẻ cầm quyền. Họ lãng mạn theo cách của kẻ cầm quyền. Họ tự cho phép hủy bỏ những giá trị phổ cập và đặt ra những giá trị và chuẩn mực. Và để những giá trị và chuẩn mực này không bị phản bác, tốt hơn hết những người khác không được có ý kiến.

Sự từ chối các giá trị phổ cập của loài người đã là một sự điên dại với hậu quả cực kỳ tai hại. Nó đã thả lỏng những bản năng, gây ra những thảm kịch chưa từng thấy và cuối cùng loại bỏ chính con người. Các giá trị phổ cập : sự sống, gia đình, tình bạn, tình yêu, sự nhường nhịn, thỏa hiệp, lòng bác ái, giữ lời hứa, không nói dối, không cướp của, không giết người, v.v. là thành quả của hàng triệu năm tiến hóa của loài người. Chúng định nghĩa giống người và cho phép loài người sống chung hòa bình với nhau. Chúng có thể được cảm nhận khác nhau theo từng nơi và từng thời đại nhưng trong chiều sâu chúng vẫn có cùng ý nghĩa và cho phép người nước này hiểu người nước khác, người hôm nay giải thích được những việc làm của người ngày xưa. Quả là một sự ngông cuồng khi những người lãng mạn nghĩ rằng họ có thể gạt bỏ tất cả để tự tạo ra trong chốc lát những giá trị cho riêng mình. Cái giá mà thế giới, và Việt Nam, phải trả cho sự cuồng dại này đã quá đắt.

Tóm lại, triết lý nhất nguyên và sự phủ nhận các giá trị phổ cập của loài người đã phối hợp với nhau để biến phong trào lãng mạn từ một phong trào khai phóng lúc ban đầu thành lò sản xuất ra những chủ nghĩa độc hại và chế độ toàn trị hung bạo. Các chủ nghĩa cộng sản, phát xít và nazi là những anh em ruột.

Cuộc Cách Mạng Tháng 8-1945 tại Việt Nam, cũng như cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã xảy ra với cùng một não trạng. Phong trào lãng mạn không khởi động ra hai cuộc cách mạng này, nhưng nó đã nhào nặn và uốn nắn hai cuộc cách mạng này và khiến chúng đã xảy ra như thế.

Chúng ta đã không may bị mất chủ quyền vào tay người phương Tây và chúng ta càng không may bị người Pháp đô hộ. Họ đem đến cho chúng ta những tật nguyền tâm lý của họ. Ở một mức độ nào đó, Cách Mạng Tháng 8 là một sản phẩm của Pháp.

Trong lịch sử, điều quan trọng nhất không phải là biết những biến cố đã xảy ra mà là hiểu được tại sao chúng đã xảy ra và đã xảy ra như thế. Phải hiểu lịch sử để những thảm kịch đừng tái diễn.

Thời điểm tháng 8-1945 đã là một cơ may lớn cho nước ta, đã có thể giúp ta giành lại độc lập ở một mức độ phát triển và phồn vinh cao hơn mức trung bình thế giới và với một tiềm năng địa lý và nhân văn lớn. Giờ này chúng ta đã có thể là một trong những nước văn minh và giàu mạnh hàng đầu của thế giới. Nhưng cơ may đã biến thành thảm kịch bởi vì Cách Mạng Tháng 8 đã diễn ra như thế và đã là khởi điểm của 30 năm chiến tranh kết thúc bằng cái ách cộng sản mà chúng ta vì quá kiệt quệ vẫn chưa đủ sức để tháo gỡ. Thiếu trí tuệ và sự sáng suốt thì một cơ may cũng có thể trở thành một họa lớn. Đó đã là trường hợp của Cách Mạng Tháng 8.

Nhìn lại giai đoạn Cách Mạng Tháng 8, chúng ta không thấy một nhà tư tưởng nào và cũng không thấy một người nào chứng tỏ sự hiểu biết tạm được về những triển vọng và nguy cơ đang chờ đợi đất nước lúc đó. Chúng ta không hề thấy một dự án chính trị nào. Thanh niên hăm hở lên đường nhưng lên đường để đi đến đâu thì không biết, chỉ tin là "đi hiên ngang tới phương trời tươi sáng". Rất thơ mộng nhưng không phải giải đáp. Thanh niên thế hệ 1945 thực không may. Sự thiếu sót này đến nay hình như vẫn chưa ý thức đầy đủ. Vẫn còn rất nhiều người nghĩ rằng không cần lý thuyết, chỉ cần hành động, không cần nói mà chỉ cần làm. Vẫn còn rất  nhiều người nghĩ rằng có thể tranh đấu mà không cần có tư tưởng. Vẫn có những người cho rằng họ có tư tưởng chỉ vì họ không hiểu thế nào là tư tưởng. Và quần chúng, kể cả quần chúng tốt nghiệp đại học, thì nhìn mọi người và mọi tổ chức như nhau.

Cách Mạng Tháng 8 đã là một thời điểm hừng hực khí thế. Chưa bao giờ mà dân tộc Việt Nam được động viên tới mức độ đó. Cuộc cách mạng dân chủ sắp tới sẽ là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam và cũng sẽ là cuộc cách mạng thông minh nhất và đáng có nhất, nhưng chắc chắn nó sẽ không sôi động như Cách Mạng Tháng 8 vì nó sẽ diễn ra dưới sự kiểm soát  của lý trí. Nhưng muốn có cuộc cách mạng này thì trí thức Việt Nam phải đầu tư hơn nữa vào tư tưởng. Họ phải ý thức ít nhất hai điều. Một là trí thức bao giờ cũng phải là người phát ngôn của đất nước, tư tưởng của trí thức cũng là tư tưởng của quần chúng. Hai là không có dân tộc nào không có triết lý cả, dân tộc nào cũng có triết lý của mình và hành động theo triết lý đó. Khi không có một triết lý đúng và lành mạnh là người ta có một triết lý sai và bệnh hoạn, và bị dẫn dắt vào thảm kịch.

Nguyễn Gia Kiểng

(Tháng 07/2006)

Đọc thêm :

Một hồ sơ về thảm họa dân tộc

Bài 1. Rút kinh nghiệm từ hai cuộc Cách Mạng

Bài 2. Nghĩ về một cơn điên của thế giới

Bài 3. Nhìn lại chủ nghĩa Mác-Lênin

Bài 4. Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám

Bài 5. Cuộc chiến đấu thực sự

Khai sáng kỷ nguyên thứ hai

Published in Quan điểm
mardi, 25 juillet 2017 02:52

Anh Loan, nhớ lại một người

Nếu ngày nay nhiều người nghĩ rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa mặc dù những thiếu sót của nó vẫn còn hơn hẳn chế độ cộng sản bây giờ thì đó chính là nhờ những người, khá đông đảo, như Nguyễn Văn Loan.


Nguyễn Gia Kiểng, Nguyên Văn Loan, Nguyên Sơn Bá (Paris, 2013)

 

Năm 2016 đã là một năm đau nhức cho Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chúng tôi. Không phải là sự phản bội của một nhóm người mà một phần dư luận đã biết. Sự cố đó tuy rất đáng phẫn nộ nhưng chỉ khiến tổ chức thanh lọc đội ngũ và lành mạnh hơn. Nỗi đau là ở chỗ chúng tôi đã mất hai người anh cả kính mến : anh Nguyễn Văn Loan và anh Nghiêm Văn Thạch. Ngày 21/07/2017 vừa qua này là ngày giỗ đầu tiên của anh Loan.

Tôi chỉ biết anh Loan sau khi đã về làm việc trong nước, dù trước đó tại Paris tôi đã biết đến khá nhiều nhân vật Việt Nam. Paris trong thập niên 1960 và cho tới năm 1973 là nơi được nhiều người Việt lui tới nhất. Đó là nơi mà phần lớn con cái các gia đình quyền thế du học. Từ năm 1968 lại có hội nghị Paris quyết số phận của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Hầu hết các nhân vật quan trọng và các nhà báo lớn đều đến Paris vì việc riêng cũng như việc công. Tôi gặp nhiều người trong họ và qua họ đã tạm biết ai là ai tại miền Nam lúc đó. Tuy vậy tôi không hề nghe nói tới anh Loan cho đến khi về Việt Nam.

Tôi làm việc cho Nha Đầu Tư ngân hàng Việt Nam Thương Tín, một ngân hàng của nhà nước nhưng có quy chế tự quản. Miền Nam lúc đó có 33 ngân hàng và Việt Nam Thương Tín lớn hơn tổng số 32 ngân hàng kia cộng lại. Nha Đầu Tư có nhiệm vụ kiểm soát các công ty liên hệ thuộc Việt Nam Thương Tín, nghĩa là những công ty mà Việt Nam Thương Tín làm chủ một phần vốn, thường là đa số tuyệt đối. Các công ty này chiếm hai phần ba thương vụ các công ty quốc doanh và gần một nửa hoạt động kinh tế miền Nam lúc đó. Nha Đầu Tư này trên thực tế là một quỹ đầu tư kiểm soát phần lớn kinh tế miền Nam dù dư luận ít ai biết tới nó, ngoài những người "trong cuộc", nghĩa là những chuyên viên và những người có thẩm quyền về kinh tế. Đứng đầu nha này là Nguyễn Sơn Bá, bạn của tôi từ lúc du học Pháp. Anh Bá tốt nghiệp trường Chính Trị (Sciences Po) Paris và về nước trước tôi, bây giờ cũng ở Paris và cũng ở trong Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên với tôi. Nha này đặt ở lầu 5 trong một cao ốc 10 tầng của trụ sở trung ương của Việt Nam Thương Tín, ngay sát Bến Chương Dương. Trên hành lang vẫn còn treo một bảng với hàng chữ "Trung Tâm Huấn Luyện" vì trước đó lầu 5 dành cho trung tâm này. Từ một năm trước khi tôi về nước công việc của trung tâm này phần lớn cũng do Nha Đầu Tư đảm nhiệm, một phần do Nha Khảo Cứu. Trung Tâm Huấn Luyện này chỉ còn trên sơ đồ tổ chức của ngân hàng Việt Nam Thương Tín. Lý do là vì ông giám đốc được cử sang làm chủ tịch kiêm tổng giám đốc Kỹ Thương Ngân Hàng, một ngân hàng do Việt Nam Thương Tín làm chủ 99% vốn. Ông này không ai khác hơn là Nguyễn Văn Loan.

Văn phòng của tôi lại cũng chính là văn phòng của anh Loan trước trước khi anh được bổ nhiệm sang Kỹ Thương Ngân Hàng, bàn làm việc của tôi cũng là của anh Loan trước đây. Anh Loan trên nguyên tắc vẫn còn là giám đốc Trung Tâm Huấn Luyện. Văn phòng này không phải là văn phòng lớn nhất nhưng chắc chắn là văn phòng đẹp nhất của trụ sở Việt Nam Thương Tín. Nó đặt ở lầu chính giữa của cao ốc nên tiện lợi để giao dịch với các bộ phận khác của ngân hàng nhưng, đặc sắc hơn, nó ở nằm góc, đúng ra là ở khúc lượn vì tòa nhà này được thiết kế không có góc, giữa đường Hàm Nghi và đường Tôn Thất Đạm, cho phép nhìn thấy cả Bến Bạch Đằng lẫn Bến Chương Dương. Anh Loan chắc thích văn phòng này lắm nên đã nhờ một hoạ sĩ danh tiếng vẽ ngân hàng Việt Nam Thương Tín với văn phòng này ở giữa. Khi phải rời Việt Nam anh cũng mang theo bức tranh này trong số hành lý ít ỏi. Khi tôi tới Paris anh tặng cho tôi. Nó được treo ở phòng khách nhà tôi từ hơn 30 năm nay.

Lần đầu tiên tôi nghe đến tên anh Loan là khi Nguyễn Sơn Bá trình bày sơ đồ tổ chức của ngân hàng khi tôi mới nhận việc. Anh Bá còn cho biết thêm là anh Loan hiện ở trong cùng cư xá Việt Nam Thương Tín với chúng tôi. Tôi tự nhiên cảm thấy một sự nể phục với anh Loan dù chưa gặp. Việt Nam Thương Tín là đóa hoa của chế độ Việt Nam Cộng Hòa lúc đó về cả phẩm lẫn lượng. Một ông cựu bộ trưởng có lần nói với tôi rằng Việt Nam Thương Tín kiểm soát gần hết kinh tế Việt Nam. Hơi quá nhưng cũng phản ánh một phần sự thực. Ông Nguyễn Huy Hân, lúc đó là tổng giám đốc thuế vụ, tuyên bố với báo chí : "lương của tôi không bằng lương một người tài xế Việt Nam Thương Tín". Cũng hơi quá nhưng cũng phản ánh một phần sự thực. Việt Nam Thương Tín trả lương cao và ngược lại đòi hỏi nhân viên làm việc thật hiệu quả. Được tuyển dụng vào Việt Nam Thương Tín là ước mơ của thanh niên Việt Nam tốt nghiệp đại học lúc đó. Họ phải qua một cuộc tuyển chọn khó khăn và sau đó qua một thời gian huấn luyện và sàng lọc trước khi được chính thức tuyển dụng. Đứng đầu Trung Tâm Huấn Luyện như vậy phải là một người có nghiệp vụ ngân hàng rất cao. Tôi cũng chưa bao giờ nghe bất cứ ai nói một điều bất lợi về anh Loan trong vô số những bàn tán và phê phán về các cấp lãnh đạo Việt Nam Thương Tín lúc đó.

Dù anh Loan ở cùng cư xá với tôi, nhà anh chỉ cách nhà tôi không tới 50 m và cuối tuần nào tôi cũng thấy anh chơi tennis ở sân tennis nằm chính giữa cư xá và ngay trước nhà tôi nhưng trong mấy tháng đầu tôi chưa có dịp nói chuyện trực tiếp với anh. Lần đầu tiên tôi thực sự gặp anh là tại văn phòng, văn phòng cũ của anh và bây giờ là của tôi. Anh có dịp ghé ngân hàng Việt Nam Thương Tín. Mới gặp tôi anh đã vồn vã như quen biết nhau từ rất lâu và làm tôi ngạc nhiên thú vị vì anh tỏ ra biết rất rõ về tôi. Thế là vừa găp đã thân nhau. Anh hỏi tôi có thấy vị trí văn phòng này đẹp không. Tôi chỉ có thể đồng ý. Anh Loan cười khoái chí "mình cần đẹp chứ đâu cần lớn", rồi anh lấy tay hích tay tôi như để thêm hương vị cho câu nói đùa. Sau này tôi khám phá ra là anh Loan có thói quen lấy tay hích vào tay tôi để lôi kéo sự chú ý mỗi khi nói điều gì đặc biệt hoặc vui nhộn. Ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên đó tôi đã xác nhận cảm giác ban đầu khi chưa găp anh mà chỉ nghe một vài lần một vài người nhắc đến anh : anh Loan là một người hiền lành, vui tính, giản dị và không có tham vọng quyền lực nhưng có khả năng chuyên môn rất cao.

Anh Loan sinh năm 1930, đi du học Paris sau tú tài và tốt nghiệp cử nhân luật rồi về Việt Nam làm ngân hàng. Ở vào thời thanh niên của anh, nghĩa là từ 1954 trở đi, những người tốt nghiệp nước ngoài như anh rất hiếm và có thể có những địa vị rất cao trong xã hội miền Nam Việt Nam, như hầu hết các bạn anh. Nhưng Nguyễn Văn Loan không màng những chuyện đó, anh lặng lẽ làm việc trong ngân hàng, lên dần tới chức giám đốc trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín rồi vì hoàn cảnh mà được chuyển sang làm chủ tịch kiêm tổng giám đốc Kỹ Thương Ngân Hàng. Ngân hàng này đứng hàng thứ ba về tầm vóc trong số các ngân hàng miền Nam lúc đó. Mới đầu nó là một ngân hàng của một tổ hợp của Quân Lực Việt Nam Công Hòa có tên là Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân. Quỹ này lấy vốn từ tiền tiết kiệm bắt buộc của các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và gồm đủ loại công ty như ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, vận tải, cơ khí v.v. trong đó Kỹ Thương Ngân Hàng là đầu não. Sau một thời gian chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lấy quyết định giải tán tổ hợp này vì ba lý do chính : quân đội không nên làm kinh doanh vì sẽ mất tính chiến đấu, ép buộc các quân nhân phải đóng tiền cho quỹ tiết kiệm này bằng cách khấu trừ tự động vào lương là sai bởi vì nhiều người quá nghèo và cần tiền cho gia đình, hơn nữa việc điều hành tổ hợp này lại có những điều thiếu minh bạch. Quyết định sau cùng là chỉ thị cho ngân hàng Việt Nam Thương Tín mua lại quỹ này để hoàn trả cho các quân nhân đồng thời điều khiển các công ty của tổ hợp mà phần lớn đã rệu rã trong giai đoạn chính phủ quyết định giải tán tổ hợp nhưng chưa có giải pháp cho các công ty con. Trong số các công ty con này Kỹ Thương Ngân Hàng là công ty lớn nhất và rắc rối nhất, cần một tổng giám đốc rất có bản lĩnh và nhất là không thể bị ngờ vực. Thế là anh Nguyễn Văn Loan đang làm công tác đào tạo được cử sang làm chủ tịch tổng giám đốc, một chức vụ lớn trong xã hội miền Nam lúc đó. Chức vụ này anh Loan không hề thèm muốn nhưng cũng không sợ. Có lẽ anh chỉ dự định giữ chức vụ này một thời gian để chấn chỉnh lại ngân hàng này rồi thôi nên anh vẫn yêu cầu ngân hàng Việt Nam Thương Tín giữ cho anh chức vụ giám đốc Trung Tâm Huấn Luyện và chỉ coi anh như tạm thời vắng mặt. Điều này cũng nói lên nhiều về con người Nguyễn Văn Loan, anh không ham chức lớn nhưng làm gì cũng làm đến nơi đến chốn. Tôi thấy vui và ngạc nhiên là dù đã rời Trung Tâm Huấn Luyện để sang làm chủ tịch kiêm tổng giám đốc một ngân hàng khác nhưng anh Loan vẫn theo dõi hoạt động huấn luyện, lúc đó chủ yếu do Nha Đầu Tư của chúng tôi đảm nhiệm. Chính vì nhu cầu huấn luyện mà tôi đã soan ra một tài liệu với tựa đề là Mô Thức Kiểm Soát Quản Trị. Từ "mô thức" (model, modèle) trong tiếng Việt bắt đầu từ đó. Thực ra đây là một tài liệu học tập nội bộ của Nha Đầu Tư mà công việc là kiểm soát hoạt động của hơn 30 xí nghiệp liên hệ thuộc Việt Nam Thương Tín. Anh Loan nói rằng anh rất thích tài liệu này và đã cho in để phổ biến trong Kỹ Thương Ngân Hàng. Có lẽ vì thế mà một sinh viên trường Đại Học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt đã có được một cuốn và làm một luận án tốt nghiệp với tựa đề "Mô Thức Kiểm Soát Quản Trị của Nguyễn Gia Kiểng".

Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên này chúng tôi trở thành bạn thân và anh Loan sau mỗi lần chơi tennis thường tạt qua kéo tôi ra ngoài sân nói chuyện. Nói chuyện ngoài sân vừa mát vừa kín đáo, nhất là chúng tôi thường nói với nhau bằng tiếng Pháp. Tôi khám phá ra một điều lý thú là trái với bề ngoài vô tư anh Loan rất quan tâm tới chính trị và tình hình chiến sự. Anh có rất nhiều thông tin chính xác. Anh Loan biết hầu hết các nhân vật Việt Nam, quân sự cũng như dân sự, người nào anh cũng nhớ một giai thoại hài hước nói lên bản chất. Mỗi lần kể một câu chuyên ngộ nghĩnh anh lại lấy tay hích tay tôi để cùng cười. Anh Loan trở thành một cuốn "tự điển nhân vật Việt Nam" của tôi, anh không chỉ biết ai là ai mà còn hiểu biết về chính trị và chiều sâu của những vấn đề đang đặt ra cho Việt Nam lúc đó.

Có lần tôi hỏi anh Loan :

-Anh Loan biết nhiều về chính trị như vậy sao không tham gia chính quyền ?

Anh đáp :

-Chính vì moa hơi biết về chính trị một chút nên moa biết là moa không đủ khả năng, còn mấy cha kia chẳng biết gì cả nên cứ tưởng là làm chính trị không cần học. Mấy chả chỉ coi làm chính trị là để có danh vọng. (Do thói quen nói tiếng Pháp anh Loan dùng đại từ moatoa, thay cho tôianh khi nói tiếng Việt với bạn bè).

Rồi anh lấy tay hích tay tôi vừa cười khoái chí vừa nói : "trâu nghé đâu biết sợ cọp, dốt quá thì đâu biết mình dốt !"

Với thời gian tôi nhận ra là anh Loan đánh giá rất thấp những người cầm quyền trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Có những người anh đánh giá là trong sạch nhưng không có tài, còn phần đông vừa không trong sạch vừa không có tài. Một trường hợp ngoại lệ là Nguyễn Ngọc Huy. Anh Loan đánh giá cao ông Huy nhưng không ủng hộ dù đã được bạn bè của ông Huy rủ rê nhiều lần. Lý do là vì ông Nguyễn Ngọc Huy đã không có thái độ dứt khoát với nhóm Liên Trường một nhóm mà theo anh có khuynh hướng "Nam Kỳ tự trị" và kỳ thị người Bắc, một khuynh hướng mà anh rất ghét dù là người miền Nam chính hiệu, cũng như anh rất ghét tham nhũng.

Có lần anh tới Nha Đầu Tư Việt Nam Thương Tín gặp Nguyễn Sơn Bá và tôi để trình bày một trường hợp khá đặc biệt. Một đại tá đến gặp anh để xin cấp một giấy chứng nhận là có 15 triệu đồng ký thác trong Kỹ Thương Ngân Hàng mặc dù không có trương mục (tài khoản). Ông đại tá cho biết đã được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng nhưng chỉ có thể nhận chức nếu có bằng cớ là sẽ có đủ 15 triệu đồng để nộp cho "cấp trên" tại phủ tổng thống. Số tiền này, theo lời ông đại tá, không nhất thiết là hối lộ mà cũng dùng cho quỹ an ninh và tình báo. Ông đại tá khẳng định rằng chỉ vài ngày sau khi nhận chức ông sẽ có dư số tiền này do các doanh nhân lớn trong tỉnh "đóng góp". Theo anh Loan những trường hợp như vậy đã từng xẩy ra tại các ngân hàng khác. Anh nói thêm rằng viên đại tá này phải là người tương đối trong sạch nên mới không có 15 triệu và cũng không có bạn bè hay họ hàng giầu có để vay. Anh hỏi ý kiến chúng tôi bởi vì trên nguyên tắc Kỹ Thương Ngân Hàng là một ngân hàng con của Việt Nam Thương Tín và do đó chịu sự kiểm soát của Nha Đầu Tư. Tôi hỏi anh nghĩ thế nào, anh cười nói : "Moa biết ý kiến của toa rồi, moa chỉ gặp toa để có thể nói với ông đại tá kia là bên Việt Nam Thương Tín không đồng ý và tôi không làm khác được vì Việt Nam Thương Tín là công ty mẹ của Kỹ Thương Ngân Hàng". Rồi chúng tôi bàn về trường hợp này và cùng ngao ngán cách điều hành quốc gia lúc đó. Nếu quả thực số tiền 15 triệu này chỉ để dùng cho an ninh thì có nhiều phương pháp khác để các doanh nhân đóng góp một cách vừa kín đáo vừa minh bạch, nhưng tiếc rằng cái khó của tình thế đã đi đôi với cái dở của những người cầm quyền.

Một kỷ niệm riêng với anh Loan là vào năm 1974 anh đưa ra một dự án cải tổ hoàn toàn cách làm việc của Kỹ Thương Ngân Hàng và nhờ tôi làm cố vấn chỉ đạo. Chính trong lúc đang làm việc với anh Loan và ban giám đốc Kỹ Thương Ngân Hàng mà tôi nhận được điện thoại của ông Lê Tấn Lộc, tổng giám đốc Việt Nam Thương Tín, thông báo rằng tôi vừa được chỉ định làm phụ tá tổng trưởng bộ kinh tế. Dự án này vì vậy chỉ thực hiện được một phần.

Trong những tháng cuối của Việt Nam Cộng Hòa, nhất là kể từ khi Phước Long thất thủ đầu năm 1975, anh Loan trao đổi nhiều với tôi về tương lai miền Nam. Chúng tôi đều đồng ý rằng sự thảm bại của Việt Nam Cộng Hòa là điều chắc chắn. Quân đội cộng sản đã có thể điều động từ xa môt lực lượng hùng hậu đến đánh chiếm một tỉnh lỵ chỉ cách thủ đô Sài Gòn khoảng 100 km mà quân lực Việt Nam Cộng Hòa không làm gì được dù đã biết cả tháng trước thì phải hiểu rằng Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn kiệt quệ. Tôi còn nhớ rõ lời anh Loan (anh nói bằng tiếng Pháp) : "Nếu chúng ta phải thua cuộc chiến này thì cũng đúng thôi. Cộng sản nó tàn bạo thực đấy nhưng nó có tổ chức và có quyết tâm chiến thắng. Bên mình thì chỉ có những người tranh giành địa vị, không có quyết tâm cũng chẳng có tổ chức và cũng chẳng biết gì về chính trị. Có bất công chăng là đối với đám trẻ, họ chiến đấu và hy sinh nhưng họ không có những cấp chỉ huy xứng đáng về cả chính trị lẫn quân sự". Anh Loan hỏi tôi liệu Mỹ có sẽ can thiệp để cứu Việt Nam Cộng Hòa không, tôi trả lời là không. Anh Loan cũng gật đầu và nói rằng người Mỹ đã quá kiên nhẫn với Việt Nam Cộng Hòa rồi, họ không thể can thiệp nữa.

Sau ngày 30-4-1975 rất may là anh Loan không bị đi tù như nhiều người trong đó có tôi bởi vì anh là một người thuần túy chuyên môn và cũng không thuộc diện sĩ quan biệt phái. Anh tìm gặp tôi ngay khi tôi được trả tự do và lần này anh lại có nhiều chuyện kể cho tôi nghe về những cấp lãnh đạo cộng sản mà anh tiếp xúc rất nhiều trong thời gian tôi ở tù, trong đó có cả những người mà anh đã từng quen biết trước khi họ ra Bắc tập kết. Toàn là những chuyện cười ra nước mắt. Anh Loan vẫn có cái nhìn tinh tế của một chuyên gia và một người quan sát chính trị có tài. Anh đã nhanh chóng giúp tôi hiểu được tình hình xã hội Việt Nam lúc đó bằng cả những nhận định của chuyên gia lẫn những câu chuyện rất cụ thể. Thí dụ như một lần anh nói với tôi : "Toa biết không, moa nói chuyện nhiều với những ông từ ngoài Bắc vô mới biết rằng có hai nghề đã biến mất tại miền Bắc, toa có biết hai nghề nào không ?" Tôi chào thua. Anh Loan cười nói : "Đó là nghề nấu ăn và nghề thợ nề, bọn nó chỉ biết phá hoại thôi chứ không nghĩ tới xây dựng, còn dân thì ăn độn là may rồi, nói gì đến nấu ăn !"

Chúng tôi gặp nhau khá thường xuyên cùng với một số bạn thân khác, tất cả đều là những viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, như anh Lâm Ngọc Diệp cựu tổng giám đốc Hàng Không Dân Dụng, anh Nguyễn Văn Đạt cựu tổng giám đốc thương cảng Sài Gòn và anh Nguyễn Kiển Thiên Ân cựu tổng trưởng thương mại. Anh Loan là người vui vẻ thoải mái nhất, anh chế diễu những cái vớ vẩn, ngây ngô của chế độ cộng sản nhưng không bao giờ tỏ ra thù ghét. Có lẽ vì anh đã từ lâu coi sự thất bại của Việt Nam Cộng Hòa là không tránh khỏi. Vả lại từ ngày quen biết Nguyễn Văn Loan tôi chưa thấy anh thù ghét ai bao giờ, cùng lắm là nói chuyện để cười chơi.

Anh Loan rời Việt Nam đi Pháp trước tôi mấy tháng. Ngay khi tôi đến Paris anh Nguyễn Trọng Kha (cựu giáo sư trường Đại Học Kiến Trúc Sài Gòn, bạn thân của cả anh Loan và tôi, đã vượt biên từ ba năm trước) cho tôi địa chỉ của anh Loan và chúng tôi gặp nhau ngay. Anh Kha cho biết đang cố gắng thuyết phục anh Loan cùng thành lập một tổ chức chính trị. Anh Kha lúc đó đang là người lãnh đạo chính của Lực Lượng Thanh Niên Tự Do Âu Châu nhưng anh nói là tổ chức này đang bế tắc về đường lối bởi vì anh em phần đông chỉ có lòng thôi chứ không có kiến thức và kinh nghiệm chính trị nào cả và anh đang tìm một tổ chức thay thế với những người có trình độ hơn. Anh Kha bảo tôi rủ anh Loan mà anh đánh giá rất cao.

Anh Loan cười nói với tôi : "Moa có bao giờ làm chính trị đâu và cũng không có khả năng. Làm chính trị khó quá, nhưng moa ủng hộ toa nên moa đồng ý tham gia giúp toa xây dựng tổ chức lúc ban đầu, bao giờ tổ chức đủ mạnh thì cho moa nghỉ".

Thế là anh Loan trở thành một trong mười người sáng lập Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, gồm tám viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và hai chuyên gia tại Pháp nhưng từ hồi còn là sinh viên đã theo dõi sát tình hình Việt Nam và rất gắn bó với chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Anh tham dự rất đều đặn những buổi họp mỗi tối thứ năm và đóng góp rất tích cực. Anh ủng hộ hoàn toàn đề nghị dành trọn hai năm để chỉ thảo luận trước khi bắt đầu xây dựng tổ chức trong khi vài anh em khác cho rằng không cần một thời gian dài đến như thế. Anh Loan nói nhiều lần : "làm gì cũng phải có dự án trước nếu không thì chỉ là làm bậy mà không biết". Anh luôn luôn đóng góp những ý kiến giản dị nhưng rất đúng đắn và cần thiết.

Khi chúng tôi hoàn tất việc đúc kết những suy nghĩ và thảo luận thành tài liệu "Cơ Sở Tư Tưởng" anh Loan dơ tập tài liệu lên nói với anh em : "Đây mới là nội quy thực sự của tổ chức !". Anh còn nói thêm sau đó : "Tụi mình tương đối biết việc và có kinh nghiệm mà còn mất hai năm bàn cãi mà cũng chưa biết chắc phải làm gì, mấy cha khác thì cứ làm bừa đi". Và anh lại cười, vẫn cái cười hiền lành nhưng thực ra khá phức tạp như thường lệ.

Vài năm sau anh Loan rời Pháp để sang định cư tại Mỹ. Sang Mỹ anh vẫn liện lạc đều đặn với bạn bè tại Pháp. Anh gọi điện thoại cho tôi thường xuyên. Anh thông báo cho tôi cả những tin tức của những người bạn tại Paris mà tôi không có thì giờ để liên lạc. Cũng chính anh gần đây đã thông báo cho cho tôi tin anh Lâm Ngọc Diệp, cựu tổng giám đốc Hàng Không Dân Dụng thời Việt Nam Cộng Hòa vừa qua đời dù anh Diệp ở ngay gần nhà tôi. Anh Loan rất thủy chung và gắn bó với bạn bè. Có lẽ chính vì thế tôi chưa bao giờ nghe bất cứ ai nói điều gì không tốt về anh.

Từ khi tới Mỹ anh Loan không sinh hoạt với phân bộ Mỹ của THDCĐN, anh chỉ liên lạc trực tiếp với tôi thôi. Có lẽ là vì sau một thời gian dài chật vật phấn đấu để ổn định cuộc sống thì anh đã lớn tuổi rồi. Tuy vậy anh Loan không hề bỏ cuộc. Anh vẫn tích cực thuyết phục bạn bè ủng hộ Tập Hợp, mỗi lần tôi sang D.C. anh đều tổ chức cho tôi tiếp xúc với các thân hữu. Vài tháng trước khi qua đời anh còn mua tặng dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai cho một số bạn. Nhưng anh Loan đóng góp theo cách thực thà và giản dị của anh. Năm 2005 tôi sang tham dự buổi họp mặt của phân bộ Mỹ tại New Jersey. Anh Loan cùng đi với tôi và lúc cuộc họp mặt kết thúc được khoảng một giờ anh bảo tôi : "Toa cho moa về sớm đi, moa có hẹn chơi mạt chược". Các chí hữu trẻ chắc là muốn chúng tôi ở lại lâu hơn nữa với họ và có thể thất vọng vì câu nói của bậc huynh trưởng này, dù chúng tôi đã họp mặt từ hai ngày. Nhưng anh Loan là thế, giản dị, thực thà và không giấu giếm. Cũng cái tính nghĩ sao nói vậy đó đã khiến anh nói với một cựu tổng trưởng, bạn thân thời thanh niên, khi ông này hỏi về đám cưới sắp tới của con anh : "Moa không mời toa vì toa có tiếng tham nhũng, sợ các bạn khác không vui". Mà đúng thế, những người bạn thân của anh Loan đều là những người lương thiện và ghét tham nhũng. Sự thực nhiều khi làm mất lòng nhưng đối với anh Loan hầu như không có sự thực nào không thể nói.

Anh Loan qua đời đột ngột cách đây đúng một năm vào giữa lúc còn khỏe mạnh và sáng suốt. Gia đình và bạn bè đều bất ngờ. Anh ra đi nhẹ nhàng và bình yên như anh đã sống.

Nguyễn Văn Loan chắc chắn không phải là một anh hùng, điều mà anh cũng không bao giờ muốn. Nhưng anh đã thành công một điều khó hơn nhiều là luôn luôn sống lương thiện, trung thực và thủy chung trong một xã hội đầy giành giật, lật lọng và dối trá. Nếu ngày nay nhiều người nghĩ rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa mặc dù những thiếu sót của nó vẫn còn hơn hẳn chế độ cộng sản bây giờ thì đó chính là nhờ những người, khá đông đảo, như anh Loan.

Xét cho cùng thì anh Loan đã rất may mắn và rất xứng đáng với sự may mắn đó. Dù sống và làm việc thẳng thắn, dù không bao giờ thỏa hiệp với sự gian trá, anh cũng đã đạt tới một địa vị mà rất ít người Việt Nam đạt tới được và không gặp một hoạn nạn nào đáng nói, kể cả trong cơn đại họa tháng 4/1975 mà anh đón chờ bình yên vì đã dự liệu trước. Để rồi cuối cùng ra đi rất an nhiên ở tuổi 86 trong sự quý mến của mọi người, khi các con đã thành đạt. Cuộc đời của anh là cuộc đời mà người ta có thể chúc tụng cho một đứa trẻ vừa sinh ra.

Đó là tất cả những gì đáng kể trong một đời người. Phần còn lại chỉ là thứ yếu, hoặc phù phiếm.

Nguyễn Gia Kiểng

(24/07/2017)

Published in Quan điểm

Bí quyết thành công đã khiến Mỹ vượt hẳn phần còn lại của thế giới là tự do và dân chủ nhưng ngày nay hầu hết các dân tộc đã có tự do và dân chủ, trong nhiều trường hợp còn có nền dân chủ lành mạnh hơn vì không vướng mắc vào những tật bệnh của chế độ tổng thống. Hoa Kỳ không còn là một ngoại lệ nữa.

Résultat de recherche d'images pour "donald trump au 14 juillet à Paris"

Cuộc thăm viếng Paris vừa qua cho thấy là Trump đang tìm cách hòa giải với thế giới.

Donald Trump đã tới Pháp theo lời mời của tổng thống Emmanuel Macron để tham dự ngày quốc khánh Pháp 14/7/2017. Trong hai ngày ở Paris, 13 và 14/7, tổng thống Trump đã không hề có một cử chỉ hay lời nói gây phản cảm nào. Điều bất thường này - lần đầu tiên trong một chuyến công du của Donald Trump - đã khiến người ta quên đi những điều bất thường khác.

Trước hết tại sao Donald Trump vẫn vui vẻ đến Paris ? Ngày hôm trước Macron đã viết một bài báo trên tờ Ouest France, một tờ báo tỉnh nhưng lại là tờ báo có số lượng độc giả cao nhất nước Pháp, giải thích lý do tại sao ông đã mời Donald Trump. Theo Macron, đó là vì đây cũng là dịp kỷ niệm 100 năm ngày quân đội Mỹ can thiệp vào Thế Chiến I giúp Pháp chiến thắng ; đó là vì Mỹ từ ngày lập quốc luôn luôn là đồng minh khăng khít của Pháp ; hai dân tộc là anh em và cùng chia sẻ tất cả những giá trị nền tảng chung do đó không ai có thể chia rẽ. Nhưng "ai" là ai nếu không phải là Trump với chủ trương America First và những tuyên bố hung hăng chống tự do mậu dịch và toàn cầu hóa, chống Châu Âu, chống NATO, chống Thỏa Ước Paris về khí hậu ? Macron còn nhấn mạnh rằng ông đã mời tổng thống Mỹ như là người đại diện của nhân dân Mỹ, một cách để nói không mời cá nhân Donald Trump. Bất cứ một tổng thống Mỹ nào cũng sẽ cảm thấy bị xúc phạm và có phản ứng, thậm chí có thể hủy bỏ cuộc thăm viếng. Nhưng Donald Trump đã bỏ qua, coi như không biết.

Sự kiện không bình thường khác là trong ngày 13/7 bà thủ tướng Đức Angela Merkel cũng có mặt tại Paris nhưng không gặp Donald Trump dù chỉ là để chào. Bà Merkel không hề giấu sự khinh thường đối với Donald Trump.

Hai sự kiện khác còn có ý nghĩa hơn dù ít được lưu ý.

Một là, trong cuộc họp báo chung ngày 13/7 cả hai tổng thống Mỹ và Pháp đều không nhắc gì tới Lưu Hiểu Ba, một người đấu tranh cho dân chủ Trung Quốc vừa qua đời cùng ngày và đang gây xúc động lớn. Ông Lưu Hiểu Ba được giải Nobel về hòa bình năm 2010 trong lúc bị đang giam cầm và cả thế giới đã liên tục kêu gọi trả tự do cho ông nhưng cả Hồ Cẩm Đào lẫn Tập Cận Bình đều bất chấp. Lưu Hiểu Ba chỉ được đưa về nhà vào lúc đã sắp chết vì bệnh ung thư. Không những không nhắc tới tội ác ghê tởm này, cả hai ông Trump và Macron còn hết lời ca tụng Tập Cận Bình. Người ta không ngạc nhiên đối với Donald Trump, ông chỉ xác nhận một bản chất đã quen thuộc đối với dư luận. Nhưng Macron thì khác, ông đã bộc lộ con người thực của mình. Phải nói thẳng là quá tệ.

Hai là, dù đến Pháp nhân kỷ niệm 100 năm một sự kiện rất quan trong lịch sử thế giới và quan hệ Mỹ - Pháp nhưng Trump đã hoàn toàn không có một tuyên bố nào nhắc lại thảm kịch Thế Chiến I và sự gắn bó lịch sử giữa hai nước cả. Lịch sử không nằm trong kiến thức của ông.

Trump và Macron có rất nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều là những người bất ngờ được bầu làm tổng thống dù chưa bao giờ giữ một chức vụ dân cử nào. Cả hai đều tự coi là và được coi là những người chống lại hệ thống chính trị sẵn có, nhưng thực ra cả hai đều là sản phẩm điển hình của hệ thống sẵn có, sản phẩm của sự xuống cấp của sinh hoạt chính trị sau nhiều năm dưới chế độ tổng thống với hậu quả tất yếu là sự suy sụp của các chính đảng và của ý thức chính trị. Cả hai đều là những báo động về sự khẩn cấp phải từ bỏ chế độ tổng thống nếu muốn nâng cao dân trí và gắn bó người dân với đất nước. Không ngạc nhiên nếu trong tất cả các lãnh tụ của các nước dân chủ Macron đã là người ít dị ứng nhất với Trump.

Lý do khiến dư luận Mỹ và Pháp, cũng như phần lớn dư luận Châu Âu và thế giới, không lưu ý tới những sự kiện không bình thường là vì cuộc viếng thăm nước Pháp của tổng thống Donald Trump đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng theo chiều hướng tốt. Donald Trump đã nhã nhặn hơn, đã tỏ ra thân thiện và hợp tác hơn hẳn so với thường lệ. Ông đã tỏ ra cởi mở hơn với Thỏa Ước Paris về khí hậu, trái hẳn với thái độ hung hăng khiếm nhã khi tuyên bố rút lui. Ông cũng đã bày tỏ sự kính trọng hơn hẳn trước đây đối Châu Âu nói riêng và nhìn nhận tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các nước dân chủ. Trump đã hòa giải với thế giới sau khi nhận ra là Hoa Kỳ không thể tự cô lập.

Không thể khác. Khẩu hiệu Make America great again (làm nước Mỹ vĩ đại trở lại) của ông chỉ phơi bày một sự thiếu hiểu biết về nước Mỹ và thế giới. Thực ra nước Mỹ chưa bao giờ vĩ đại bằng lúc này, đứng đầu thế giới không chỉ về kinh tế mà cả về khoa học và kỹ thuật, ngày càng hiểu biết thế giới hơn và được kính trọng hơn. Trump đã rất sai khi nghĩ rằng nước Mỹ đã suy thoái, có lẽ vì ông không chịu bỏ thời giờ tìm hiểu các vấn đề lịch sử, xã hội và văn hóa. Quả thực trọng lượng kinh tế tương đối của Mỹ trên thế giới đã sút giảm. Sau Thế Chiến II kinh tế Mỹ lớn hơn 50% kinh tế thế giới, hiện nay tỷ lệ chỉ còn là 23% và sẽ còn tiếp tục giảm đi vì đó là xu hướng bắt buộc. Bí quyết thành công đã khiến Mỹ vượt hẳn phần còn lại của thế giới là tự do và dân chủ, nhưng ngày nay hầu hết các dân tộc đã có tự do và dân chủ, trong nhiều trường hợp còn có nền dân chủ lành mạnh hơn vì không vướng mắc vào những tật bệnh của chế độ tổng thống. Hoa Kỳ không còn là một ngoại lệ nữa. Các dân tộc khác sẽ tiến lên và bắt kịp dần Mỹ.

Sư chênh lệch giầu nghèo giữa các dân tộc sẽ phải giảm dần đi. Đó là tương lai đáng mơ ước của thế giới. Đó là lý tưởng mà mọi người sáng suốt không chỉ phải chấp nhận mà còn phải đóng góp để đạt tới. Trong một tương lai có lẽ còn khá xa nhưng nhất định sẽ tới nếu Mỹ, với 4% dân số thế giới, vẫn có được một GDP bằng 10% tổng sản lượng của một thế giới hòa bình và phồn vinh thì đã là một điều rất may mắn và rất đáng tự hào. Nhưng ngay trong hiện tại với một GDP sấp sỉ bằng 23% kinh tế thế giới, Mỹ đã cần thế giới hơn thế giới cần Mỹ. Thực ra Mỹ đã cần thế giới ngay từ ngày lập quốc. Nếu Donald Trump suy nghĩ về lịch sử của Mỹ ông sẽ thấy rằng nước Mỹ đã do những người di dân thành lập ra và một tỷ lệ đáng kể các phát minh khoa học kỹ thuật và thành tựu kinh tế đã do những người không sinh ra trên đất Mỹ. Một nước Mỹ không cởi mở, chưa nói triệt thoái về biên giới của mình như một số người Mỹ thủ cựu chậm tiến mong muốn, sẽ không còn đáng mơ uớc cho chính người Mỹ.

Có lẽ Donald Trump đã phần nào tỉnh ngộ nhờ lời khuyên của các cố vấn và sau những thất bại thô vụng liên tục từ ngày nhậm chức làm hình ảnh của ông đã xuống rất thấp dưới mắt mọi người, kể cả đa số người Mỹ. Chủ nghĩa dân tôc hẹp hòi của ông đã bị chính đồng bào ông bác khước, nhất là thành phần tinh hoa.

Cuộc thăm viếng Paris vừa qua cho thấy là Trump đang tìm cách hòa giải với thế giới. Đó là điều đáng mừng không chỉ cho thế giới mà cho cả nước Mỹ. Và một lần nữa, dân chủ chứng tỏ có khả năng giới hạn những thiệt hại của những sai lầm và tự sửa sai.

Nguyễn Gia Kiểng

(20/07/2017)

Published in Quan điểm

Vụ chính quyền cộng sản Việt Nam tuyên bố tước quốc tịch và trục xuất giáo sư Phạm Minh Hoàng sang Pháp không thể chỉ được nhìn như một biện pháp đàn áp đối với ông Hoàng và đảng Việt Tân. Đây là một xúc phạm nghiêm trọng đối với luật pháp, văn hóa và tư tưởng chính trị cũng như đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Nó cũng một lần nữa nhắc lại bản chất của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

quoctich1

Vụ chính quyền cộng sản Việt Nam tuyên bố tước quốc tịch và trục xuất giáo sư Phạm Minh Hoàng sang Pháp là một xúc phạm nghiêm trọng đối với luật pháp, văn hóa và tư tưởng chính trị cũng như đối với đất nước và dân tộc Việt Nam.

Trước hết hãy nhắc lại trường hợp Phạm Minh Hoàng.

Ông Hoàng có quốc tịch Việt Nam ngay từ khi sinh ra tại Việt Nam vì cha mẹ là người Việt Nam. Ông trưởng thành tại Việt Nam, đi du học Pháp một thời gian và được quốc tịch Pháp rồi trở về sinh sống tại Việt Nam từ năm 2000. Ông thường trú tại Sài Gòn và giảng dạy tại đại học Bách Khoa.

Như vậy ngay cả nếu chỉ căn cứ vào luật pháp của chế độ hiện nay thì Phạm Minh Hoàng cũng không thể bị tước quốc tịch. Điều 31 của Luật Quốc Tịch Việt Nam, biểu quyết năm 2008 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7/2009, qui định chỉ có hai loại người có thể bị tước quốc tịch : đó là những người hoặc thường trú tại nước ngoài hoặc không phải là người có quốc tịch ngay từ khi sinh ra. Việc ông Hoàng ngoài quốc tịch Việt Nam còn có quốc tịch Pháp cũng không có vấn đề gì vì điều 12 của luật này nhìn nhận một người Việt Nam có thể có thêm những quốc tịch khác.

Cần lưu ý một sự chi tiết nhỏ nói lên bản chất của chế độ cộng sản. Phạm Minh Hoàng có hai địa chỉ tại Việt Nam, môt địa chỉ thường trú và một địa chỉ tạm trú. Quyết định tước quốc tịch, do ông Trần Đại Quang nhân danh chủ tịch nước ký, đã được gửi tới địa chỉ tạm trú. Bằng cách này chính quyền cộng sản Việt Nam đã cố tình làm như ông Hoàng không phải là một người thường trú tại Việt Nam, dù Phạm Minh Hoàng đã ở Việt Nam từ 17 năm và có địa chỉ thường trú rõ rệt; chính quyền cộng sản thừa biết như vậy và đã bắt ông tại địa chỉ này để trục xuất ông sang Pháp. Hành động này không đánh lừa được ai mà chỉ nói lên bản chất trí trá nhỏ mọn của chế độ.

Việc tước quốc tịch của Phạm Minh Hoàng không thể đặt ra vì ông không thuộc diện những người có thể bị tước quốc tịch, nhưng nó cũng đã được thực hiện không đúng thủ tục. Việc tước quốc tịch của một người Việt Nam, ngay cả với những người thuộc diện có thể bị tước quốc tịch, phải xuất phát từ một tòa án hoặc một chính quyền tỉnh (đối với những người không có quốc tịch bẩm sinh và đang thường trú tại Việt Nam) hoặc từ một sứ quán (đối với những người Việt Nam thường trú tại nước ngoài) theo điều 32. Sau đó kiến nghị phải được gửi đến bộ tư pháp, bộ này sẽ chủ trì phối hợp với bộ công an, bộ ngoại giao và các bộ liên hệ và chuyển kết luận chung tới thủ tướng nếu kết luận này đồng ý với kiến nghị tước quốc tịch của tòa án, chính quyền tỉnh hoặc sứ quán khởi xướng kiến nghị. Sau đó thủ tướng, nếu đồng ý, chuyển kiến nghị tới chủ tịch nước để có quyết định sau cùng. Việc tước quốc tịch của một người -cần nhắc lại chỉ đặt ra trong trường hợp người đó thuộc diện có thể bị tước quốc tịch, chứ không phải một người như ông Phạm Minh Hoàng- như vậy rất phức tạp và nghiêm trọng và chỉ có thể giải quyết ở mức độ tối cao của nhà nước.

Trong vụ này đã không có một cơ quan khởi xướng có thẩm quyền nào cả. Không có một tòa án nào xét xử ông Phạm Minh Hoàng và đề nghị tước quốc tịch cả. Cách đây bẩy năm ông Hoàng có bị xử án 3 năm tù trong một phiên tòa tùy tiện nhưng hoàn toàn không có vấn đề tước quốc tịch. Ủy Ban Nhân Dân Sài Gòn cũng không thể khởi xướng kiến nghị vì như thế là tự nhận mình là chính quyền địa phương nơi ông Hoàng thường trú và mặc nhiên nhìn nhận ông Hoàng là một người có quốc tịch bẩm sinh và thường trú tại Việt Nam, nghĩa là không thuộc diện có thể bị tước quốc tịch. Và dĩ nhiên không thể có sứ quán nào đề nghị cả vì ông Hoàng đã ở Việt Nam từ 17 năm nay. Sự tùy tiện đã vượt mọi giới hạn. Đảng cộng sản một lần nữa đã xác nhận một cách hùng hồn nhất rằng họ là một đảng hoạt động ngoài vòng pháp luật.

Chúng ta có thể kết luận một cách dứt khoát : quyết định tước quốc tịch đối với Phạm Minh Hoàng của chính quyền cộng sản hoàn toàn vô giá trị, Phạm Minh Hoàng vẫn còn nguyên quốc tịch Việt Nam.

********************

Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại khái niệm quốc tịch.

Quốc tịch là sự xác nhận tư cách thành viên của một cá nhân, hay tư cách thành phần của một tập thể, đối với một quốc gia.

Như vậy trước hết phải hiểu quốc gia là gì. Nghĩa thông thường của một quốc gia là tập thể của những người cùng chia sẻ với nhau một lịch sử, một văn hóa, một ngôn ngữ, một tình cảm liên đới, cùng gắn bó với một lãnh thổ, thường thường là cùng sống trên lãnh thổ đó, nhưng quan trọng hơn hết là cùng chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Trong những yếu tố đó quan trọng nhất và có tính bắt buộc là tình cảm liên đới và sự chấp nhận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung.

Khái niệm quốc gia đã là một trong những đề tài triết lý chính trị được thảo luận nhiều nhất. Định nghĩa chính xác nhất là định nghĩa theo đó quốc gia là một tình cảm, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung (1).

Chính vì quốc gia, và do đó quốc tịch, là một khi niệm tinh thần và tình cảm mà nó chỉ có thể bị từ bỏ bởi chính người mang quốc tịch chứ không thể bị tước bỏ bởi bất cứ quyền lực nào.

Dĩ nhiên về mặt hành chính và pháp lý phải có xác nhận cụ thể một người là hay không là thành viên của một quốc gia, nghĩa là có hay không có quốc tịch, nhưng sự xác nhận cụ thể này không thể mâu thuẫn với khái niệm nền tảng về quốc gia và quốc tịch. Luật chỉ là sự thể hiện những giá trị tinh thần và đạo đức trong sinh hoạt xã hội, luật không đúng không phải là luật như Plato đã từng nói cách đây 24 thế kỷ. Chính vì thế mà các nước văn minh đều không cho phép tước quốc tịch của một công dân trừ những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và cũng chỉ có thể áp dụng cho những người không có quốc tịch ngay từ lúc sinh ra. Một số quốc gia, như Hoa Kỳ, không cho tước quốc tịch trong bất cứ trường hợp nào đối với bất cứ công dân nào.

quoctich2

Các nước văn minh đều không cho phép tước quốc tịch của một công dân trừ những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và cũng chỉ có thể áp dụng cho những người không có quốc tịch ngay từ lúc sinh ra

Luật Quốc Tịch 2008 của Việt Nam được soạn thảo với sự giúp đỡ của các luật gia Pháp nên có nội dung tương tự như luật quốc tịch của Pháp. Tuy nhiên chính quyền cộng sản đã thêm vào đó ý thức hệ cộng sản, một điều không thể chấp nhận được.

Điều 1 định nghĩa quốc tịch như sau : "Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Sai và xấc xược. Nhà nước Việt Nam là của mọi người Việt Nam, "nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" chỉ là của những người cộng sản, hay đúng hơn chỉ là bộ máy thống trị của những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chưa kể là ngày nay ngay cả những cấp lãnh đạo cộng sản cũng phải nhìn nhận rằng cụm từ "xã hội chủ nghĩa" chỉ còn là một khẩu hiệu rỗng nghĩa.

Điều 31 : "Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Tại sao lại "nước Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" ? Đó chỉ là quốc hiệu nhất thời do một lực lượng thống trị áp đặt.

Ban lãnh đạo cộng sản hình như lẫn lộn quốc tịch với quyền công dân. Họ thống trị đất nước một cách tùy tiện và do đó không tôn trọng quyền công dân của những người chống đối lại họ (và ngược lại những người này cũng không coi họ là một chính quyền chính đáng), nhưng quốc tịch và quyền công dân là hai khái niệm khác nhau. Trẻ thơ mới sinh ra chưa có quyền công dân nhưng đã có ngay quốc tịch ; người ngoại quốc thường trú có hầu hết các quyền và bổn phận của người dân bản xứ dù không có quốc tịch.

Khi lẫn lộn quốc tịch, điều mà họ phải tôn trọng, với quyền công dân, điều mà họ có phương tiện để thao túng một cách tùy tiện, cũng như khi đồng hóa đất nước Việt Nam với cái gọi là "cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Đảng Cộng Sản Việt Nam đã coi đất nước như là của riêng họ. Họ đã hành xử như một lực lượng chiếm đóng và thống trị.

Một điều đặc biệt đáng lưu ý là trường hợp của cộng đồng người Việt hải ngoại, mà đại đa số là những người đã phải bỏ nước ra đi không muốn hoặc không thể sống dưới chế độ cộng sản.

Luật Quốc Tịch 2008 (điều 13.2 và điều 26.3) qui định những người Việt ở nước ngoài phải đăng ký để giữ quốc tịch tại các sứ quán trước ngày 01/07/2014 nếu không sẽ bị mất quốc tịch. Đây là một hành động thách thức và bắt chẹt những người không chấp nhận chế độ cộng sản : các ngươi phải phục tùng ta nếu không sẽ mất quốc tịch ! Nhưng trước kỳ hạn một tuần, ngày 24/06/2014, vì gần như không ai đăng ký cả, chính quyền cộng sản đã cho biểu quyết Luật Sửa Đổi Luật Quốc Tịch 2008 bãi bỏ hai điều khoản này. Như thế có nghĩa là họ đã phải nhượng bộ và nhìn nhận mọi người Việt hải ngoại và con cháu vẫn giữ nguyên quốc tịch Việt Nam.

quoctich3

Đối với người cộng sản, một công dân Việt Nam tốt là một người không quan tâm tới đất nước.

Trở lại với vụ Phạm Minh Hoàng. Tại sao chính quyền cộng sản lại làm một hành động thô bạo, sai trái và ngây ngô đến như thế ? Họ bị mọi người quan tâm tới đất nước hoặc có chút kiến thức về luật pháp khinh và giận để bù lại được gì ?

Chắc chắn không phải là vì sợ Phạm Minh Hoàng sẽ phát triển cơ sở đảng Việt Tân trong nước vì Phạm Minh Hoàng bị theo dõi rất sát và cũng không ngây thơ đến nỗi đi tiếp xúc để kết nạp thành viên cho Việt Tân trong hoàn cảnh đó. Cũng không phải là để mở đường cho chính sách tước quốc tịch của những người dân chủ ở nước ngoài và có hai quốc tịch vì trên điểm này chính quyền cộng sản đã tự ý lùi bước. Nếu có thì cũng chỉ nhắm một vài người thôi và cũng chỉ làm mất mặt chế độ chứ chẳng có tác dụng gì. Người dân chủ nào cần được sự công nhận quốc tịch của một chính quyền độc tài hung bạo và không hiểu gì về quốc tịch ?

Lý do thực sự có lẽ chỉ giản dị là Đảng cộng sản nhìn tất cả những người đối lập dân chủ như những cái gai trước mắt cần phải nhổ đi và họ trục xuất tất cả những ai mà họ coi là thù địch và có thể trục xuất. Phạm Minh Hoàng là một trường hợp như thế. Thế giới tuy thấy hành động của họ là ngang ngược nhưng cũng chỉ ngao ngán chứ không phản ứng, bởi vì các chính quyền dân chủ thường tránh không phê phán một hành động của một chính quyền khác là đúng hay sai trừ khi có sự bạo hành, bắt giam và bỏ tù. Cái giá mà họ phải trả chỉ là sự khinh thường, nhưng tự trọng là điều rất xa lạ đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Sau Phạm Minh Hoàng, Mẹ Nấm, Nguyễn Văn Đài và nhiều người khác sẽ phải chọn lựa giữa lưu đày và những án tù rất nặng, tương tự như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ…

Quốc tịch là mối quan hệ gắn bó đối với đất nước và nhất là đối với tương lai đất nước nhưng chính sách của Đảng cộng sản là bách hại những người quan tâm tới tương lai đất nước. Đối với họ một công dân Việt Nam tốt là một người không quan tâm tới đất nước. Cố gắng của họ là hủy diệt tình cảm quốc gia và thay vào đó bằng sự phục tùng Đảng. Cũng đừng quên rằng một trong những tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin là xóa bỏ các quốc gia. Không nên trông đợi Đảng cộng sản tôn trọng tinh thần dân tôc. Quốc tịch thực sự của Đảng cộng sản là Đệ Tam Quốc Tế.

Và họ không chỉ phá hoại đất nước trong tình cảm mà còn cả trong chủ quyền, lãnh thổ và môi trường. Các tài liệu sau này sẽ chứng minh rằng các đảo ở Trường Sa không bị chiếm mà đã bị dâng cho Trung Quốc để đổi lấy ơn huệ được thần phục. Họ đã cho Trung Quốc thuê dài hạn nhiều khu rừng đầu nguồn, những vùng đất thuận lợi cho thương mại và thiết lập những khu của riêng người Trung Quốc, đã cho Formosa quy chế của một nhượng địa, đã biến Việt Nam thành một bãi rác để Trung Quốc trút bỏ những thiết bị cho những nhà máy than, thép, đạm, giấy không thể thiết lập ở Trung Quốc nữa vì quá lỗi thời và ô nhiễm.

Điều 31 của Luật Quốc Tịch qui định : "Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài (và những người được nhập tịch Việt Nam) có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam …". Trong tinh thần của luật này những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam là những người đáng bị tước quốc tịch nhất.

Đảng cộng sản đã thất bại trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt. Nó đã chỉ thành công được một điều là phá hoại đến mức báo động tinh thần dân tộc. Sự phẫn nộ bất lực kéo dài quá lâu đối với một chính quyền tham bạo đã dần dần trở thành sự chán nản với chính đất nước Việt Nam. Năm 2008 khi luật này được thông qua, đa số người Việt hải ngoại đã mừng vì khi hết hạn đăng ký quốc tịch họ sẽ hoàn toàn không còn là người Việt Nam nữa và sẽ rũ bỏ được mọi liên hệ với chính quyền này. Tại Đức, tôi đã gặp một người được đặc cách giữ quốc tịch Việt Nam đã dứt khoát đòi bỏ quốc tịch Việt Nam vì "em không chấp nhận một quan hệ nào với chúng nó nữa". Anh này là một người sinh ra và lớn lên tại miền Bắc. Thật đau buồn.

Tước quốc tịch là một điều rất nghiêm trọng. Nó xúc phạm tới cội nguồn, lý lịch, tình cảm và phẩm giá của một con người. Chính vì thế mà luật pháp của các nước văn minh đã cấm việc tước quốc tịch hoặc chỉ cho phép trong những trường hợp rất đặc biệt với những lý do rất nghiêm trong.

Tuy vậy không một quốc gia nào đã lên tiếng trong vụ Phạm Minh Hoàng, ngay cả nước Pháp, dù là nước đã giúp Việt Nam soan thảo luật quốc tịch và cũng là nước có bổn phận bảo vệ Phạm Minh Hoàng.

Tại sao ? Lý do là vì các quốc gia chỉ can thiệp khi có vấn đề nhân đạo, nghĩa là những bản án tù rất dã man. Một lần nữa chúng ta được nhắc nhở rằng những vấn đề lớn của Việt Nam chỉ có thể giải quyết được bởi người Việt Nam. Và thực ra chúng ta chưa hề có lý do nào để nghĩ khác. Mỹ là nước, ít nhất cho tới gần đây, quan tâm tới nhân quyền tại Việt Nam nhất, nhưng mối quan tâm đó đã không ngăn cản quan hệ thương mại Mỹ Việt đem lại 32 tỷ USD thặng dư cho chế độ Hà Nội mặc dù những vi phạm nhân quyền trắng trợn. Hỗ trợ quốc tế rất quý báu nhưng tương lại Việt Nam vẫn chủ yếu chỉ tùy thuộc người Việt Nam chúng ta.

Chế độ cộng sản phải chấm dứt để đất nước Việt Nam có thể có một tương lai. Chúng ta cũng không còn nhiều thời giờ vì đất nước đã quá tụt hậu và sự thất vọng đã quá cao.

Nhưng tới bao giờ chế độ này mới chấm dứt ? Câu trả lời dứt khoát là : khi những người dân chủ Việt Nam hiểu rằng tự do phải đấu tranh để có và đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức.

Nguyễn Gia Kiểng

(07/2017)

--------------------------

(1) Khái niệm quốc gia là một trong những tư tưởng nền tảng được trình bày trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, dự án chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, Chương IV.

Published in Quan điểm

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

 

Phần Bốn - 2

 

Những lập luận phản bác ?

 

 

4-tqan19

Các chế độ độc tài không phải chỉ đã viện dẫn những "thí dụ cụ thể" để lập luận rằng dân chủ không có lợi cho cố gắng phát triển. Họ cũng đã điều động những học giả, kể cả những học giả có tên tuổi, để xây dựng cả một học thuyết. Trong hầu hết mọi trường hợp uy tín của các học giả này chính là nhờ họ đã được các chế độ độc tài đề cao. Tuy vậy, cũng có những học giả vô tư, thực sự tin rằng dân chủ mâu thuẫn với phát triển. Trong một phần sau tôi sẽ trình bày lý do tại sao những người rất uyên thâm và xuất sắc cũng có thể sai lầm lớn trên những vấn đề thực ra khá giản dị.

Lý thuyết về mâu thuẫn giữa dân chủ và phát triển có lúc đã rất thời thượng, đến nỗi phần đông các học giả bênh vực dân chủ cũng chỉ dám biện hộ rằng dân chủ không có hại gì cho phát triển.

Tôi xin tóm tắt sau đây toàn bộ những lập luận của phe chủ trương dân chủ không có lợi cho phát triển. Công việc này đã làm mất khá nhiều thời giờ, nhưng đó là việc phải làm để giải quyết một lần cho tất cả những lấn cấn về quan hệ giữa dân chủ và phát triển.

Nói một cách tổng quát, phe phản bác dân chủ đưa ra ba lập luận cùng với những nghiên cứu thống kê về các nước đang phát triển.

Lập luận thứ nhất là các chính quyền dân chủ, vì lệ thuộc vào lá phiếu của cử tri, không dám thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng để áp đặt tiết kiệm dùng cho đầu tư. Làm như thế họ sẽ bị cử tri trừng phạt trong lần bầu cử tới. Các chính quyền dân chủ vì vậy bắt buộc phải, một mặt, dành một phần lớn ngân sách cho các vấn đề xã hội thay vì tập trung tài nguyên cho phát triển và, mặt khác, nâng đỡ các kỹ nghệ tiêu dùng thay vì đặt ưu tiên vào những kỹ nghệ nền tảng cho phát triển (đây là một điệp khúc của lý thuyết những kỹ nghệ kỹ nghệ hóa).

Lập luận thứ hai là thế giới cạnh tranh gay gắt hiện nay ["hiện nay" ở đây có nghĩa là các thập niên 1960 và 1970 và những năm đầu của thập niên 1980] khác xa bối cảnh của các thế kỷ trước khi những quốc gia Tây Âu đầu tiên đã vươn lên. Phát triển ngày càng trở nên phức tạp. Nhà nước do đó sẽ phải can thiệp một cách thường xuyên và tích cực để chỉ huy cố gắng phát triển. Vì vậy nhà nước cần phải nắm thật nhiều quyền lực, nếu cần phải độc tài. Nhiều học giả còn bổ túc thêm bằng một lập luận khác : giai đoạn độc tài chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp có mục đích tập trung mọi cố gắng xây dựng quốc gia và phát triển kinh tế, sau đó dân chủ sẽ đến một cách tự nhiên. Các vị này không nói rõ giai đoạn quá độ này có thể kéo dài bao lâu, cũng như hình thức dân chủ nào sẽ đến sau đó và đến như thế nào.

Lập luận thứ ba là một lập luận thuần túy chính trị. Nó có thể tóm lược như sau : các nước chưa mở mang cũng là những nước mà các định chế chính trị (luật pháp, chính phủ, quốc hội, các tòa án, v.v...) còn mới và yếu ; một chế độ dân chủ trong bối cảnh này sẽ đặt các định chế chính trị dưới áp lực quá mạnh của các đòi hỏi mâu thuẫn từ xã hội dân sự (tôn giáo, địa phương, nghiệp đoàn, hội đoàn). Do đó các nước chưa mở mang cần một chính quyền thật mạnh, nghĩa là độc tài, để bảo đảm sự ổn vững cần thiết cho phát triển.

Các tác phẩm và bài viết của trường phái chống dân chủ nhân danh phát triển rất dồi dào về số lượng trong suốt ba thập niên 1960, 1970 và 1980. Thuần túy lý thuyết cũng có, phối hợp lý luận với quan sát cụ thể cũng có. Khó có thể thống kê được số tấn giấy đã được dùng cho việc in ấn, nhưng tất cả đều chỉ xoay quanh ba lập luận trên đây.

Song song với cuộc tranh luận lý thuyết, nhiều học giả đã thực hiện những công trình khảo sát rất công phu trên nhiều quốc gia. Robert March công bố năm 1979 một thống kê về phát triển trên 98 nước trong thời gian 15 năm, từ 1955 đến 1970. Dirk Berg Schlosser công bố năm 1984 một công trình khảo cứu về các nước châu Phi ; Dwight King khảo sát sáu nước châu Á trong thập niên 1970 ; Yousseff Cohen khảo sát một số nước châu Mỹ La Tinh trong cùng thời kỳ ; G. William Dick khảo sát các kết quả thống kê của 72 quốc gia trong thời gian từ 1959 đến 1968. Đó là chỉ kể một vài trong số rất nhiều công trình khảo sát qui mô. Các nghiên cứu về từng quốc gia một thì không thể đếm nổi bởi vì các chế độ độc tài tuy chủ trương "thắt lưng buộc bụng" đối với quần chúng dưới quyền cai trị của họ, nhưng lại rất rộng rãi đối với những công trình nghiên cứu có tác dụng đề cao họ. Bên cạnh những nghiên cứu theo đơn đặt hàng, hoặc theo mệnh lệnh, cũng có những nhà nghiên cứu đứng đắn thực sự muốn tìm ra trong kinh nghiệm cụ thể một liên hệ giữa dân chủ và phát triển.

Một trong những khảo sát cụ thể [case study] hay được viện dẫn nhất để chứng minh dân chủ không có lợi cho phát triển, hay nói một cách khác độc tài có lợi cho phát triển, là khảo sát so sánh giữa Ấn Độ và Trung Quốc, hai quốc gia đông dân nhất thế giới và đã chọn hai con đường khác hẳn nhau từ một nửa thế kỷ nay. Ấn Độ đã trở thành một nước dân chủ từ 1947 trong khi, ngược lại, Trung Quốc đã chọn chế độ cộng sản chuyên chính từ 1949. Theo mọi khảo sát, nước Trung Hoa độc tài đã thắng nước Ấn Độ dân chủ trên tất cả mọi địa hạt kinh tế, dù là công nghiệp hay nông nghiệp, chứng minh một cách hùng hồn sự hơn hẳn về mặt kinh tế của một chế độ độc tài so với một chế độ dân chủ.

Tất cả những lý luận và khảo sát cụ thể đó đã cho phép một số người dõng dạc khẳng định : "dân chủ hay phát triển giữa hai cái đó phải chọn một".

Tới đây, chúng ta có thể bắt đầu khảo sát các lý luận phản bác dân chủ. Trước hết là một vài nhận xét tổng quát :

- Các lập luận này đều dựa trên một định đề được coi là một sự thực hiển nhiên không cần chứng minh là sự can thiệp mạnh của các chính quyền vào sinh hoạt kinh tế là một điều phải làm và nên làm. Sự "hiển nhiên" này hiện nay không còn "hiển nhiên" chút nào. Cùng lắm vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh tế là một đề tài thảo luận ; đối với đa số các nhà nghiên cứu nhà nước càng ít can thiệp càng hay.

- Các lập luận này nhìn phát triển kinh tế như một vấn đề thuần túy kỹ thuật, có thể giải quyết bằng những chương trình và kế hoạch. Các yếu tố tâm lý và văn hóa hoàn toàn vắng mặt. Tệ nạn tham nhũng cũng không được kể đến. Các học giả không coi tham nhũng là yếu tố quan trọng, hoặc coi nó là một tệ nạn nẩy nở và tác hại như nhau trong mọi chế độ chính trị. Ngày nay cách nhìn này đã bị bác bỏ. Kinh nghiệm đã đưa các nhà quan sát đến một đồng thuận : phát triển không phải là một vấn đề kỹ thuật mà chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn hóa. Mặt khác cũng không còn ai phủ nhận quan hệ giữa chế độ chính trị và mức độ tham nhũng.

- Các lập luận này đều coi là phát triển đồng nghĩa với phát triển công nghiệp. Dịch vụ và thương mại hầu như không đóng vai trò nào hay chỉ có vai trò rất thứ yếu. Quan điểm này ngày nay đã trở thành hoàn toàn lạc hậu, sau khi đã bị thực tế phản bác một cách phũ phàng.

Chính vì dựa trên những tiền đề đã bị bác bỏ mà ngày nay các lập luận này không còn được nhắc tới nữa và các lý thuyết gia một thời vang bóng bênh vực chúng cũng đã chìm vào quên lãng. Tuy vậy, một lần cho tất cả, chúng ta hãy phân tích những lý luận này, bởi vì điều đáng tiếc là trí thức Việt Nam chúng ta đầu tư rất ít vào tư tưởng, do đó những điều có thể rất cũ vẫn còn là mới với nhiều người Việt, kể cả một số chuyên gia kinh tế.

Lập luận thứ nhất (các chính quyền dân chủ thường phải đặt quá nặng các vấn đề nhân sinh và hy sinh những đầu tư cơ bản có tác dụng đẩy mạnh phát triển) chắc chắn phải khiến độc giả có cảm giác ngờ ngợ như đã gặp ở đâu rồi. Quả đúng như vậy, đằng sau lập luận này là lý thuyết về "các kỹ nghệ kỹ nghệ hóa" đã làm phá sản nhiều quốc gia, thí dụ như Algeria. Trong một dịp trước chúng ta đã đề cập đến lý thuyết này. Nếu quả thực các chính quyền dân chủ đầu tư nhiều cho sức khỏe và giáo dục, chú trọng thỏa mãn những đòi hỏi cấp bách của dân chúng và đặt trọng tâm vào các kỹ nghệ tiêu dùng thì hay biết bao. Sau bao nhiêu năm bị lôi cuốn vào những lý luận cao siêu về phát triển, các quốc gia đã khám phá ra rằng đầu tư vào giáo dục và sức khỏe là đầu tư có hiệu năng kinh tế cao nhất. Tiêu thụ, và đặc biệt là tiêu thụ trong thị trường nội địa, cũng đã được nhìn nhận như yếu tố cốt lõi của hoạt động kinh tế. Đầu tư vào kỹ nghệ tiêu dùng, trước hết là những kỹ nghệ sản xuất nhu yếu phẩm, cũng là đầu tư có tác dụng kích thích kinh tế lớn nhất. Ngược lại, đầu tư vào những kỹ nghệ nặng sản xuất hàng trăm ngàn tấn thép mà các kỹ nghệ tiêu dùng chưa đòi hỏi chỉ là phí phạm. Cũng thế, xây dựng những hạ tầng cơ sở chưa thực sự cần thiết cũng là một phí phạm khác, phí phạm trong phí tổn xây dựng, phí phạm liên tục trong phí tổn bảo trì, rồi cuối cùng cũng vẫn hư hỏng vì không được sử dụng. Nền tảng của kinh tế thị trường mà ngày nay không còn nước nào chối cãi vẫn là... thị trường. Phải sản xuất những gì thị trường chờ đợi. Có thể tiên liệu những nhu cầu của thị trường cho năm năm hay mười năm sắp tới, hay xa hơn nữa nếu có thể, nhưng không thể bắt thị trường phải tiêu thụ những sản phẩm mà nó không cần, nếu không muốn bị đánh thức khỏi giấc mơ duy ý chí một cách tàn nhẫn.

Trên thực tế, điều đáng tiếc là các chế độ dân chủ đã không hành động như các lý thuyết gia phê phán. Trong phần lớn các nước dân chủ, giới chủ nhân thường hay dựa vào những kẽ hở của luật pháp và thế yếu của giới công nhân, nhất là tại những nước có tỷ lệ thất nghiệp cao, để giữ lương bổng ở mức độ thấp. Họ chèn ép công nhân trong mục đích đạt tới tỷ lệ lợi nhuận cao nhất với hy vọng tái đầu tư vào việc bành trướng xí nghiệp mà không ý thức được sự cần thiết phải gia tăng sức mua của quần chúng. Đây là một cái nhìn thiển cận mà nhà nước cần điều chỉnh vì lợi ích của giai cấp công nhân và vì chính lợi ích của giai cấp chủ nhân. Trong nhiều trường hợp, như tại Ấn Độ, lớp người giàu có còn sử dụng tài sản tích lũy được cho những xa hoa phi sản xuất.

Tóm lại đầu tư vào y tế, giáo dục và nâng cao mức tiêu thụ của quần chúng không những không tai hại mà còn là điều nên làm và phải làm. Một trong những khám phá quan trọng nhất của hai thập niên cuối của thế kỷ 20 là không những phát triển có thể mà hơn thế nữa còn phải đi song song với cải thiện dân sinh.

Lập luận thứ hai (về sự cần thiết phải gia tăng mức độ can thiệp của nhà nước vì bối cảnh cạnh tranh ngày càng mạnh và hoạt động kinh tế ngày càng phức tạp, và do đó cần một nhà nước mạnh, nghĩa là một nhà nước độc tài) chưa bao giờ là một lập luận nghiêm chỉnh. Nó luôn luôn chỉ là một xác quyết suông dựa trên "dẫn chứng" là sự thành công của các nước cộng sản. Từ khi các chế độ cộng sản sụp đổ, và thế giới nhìn rõ những "thành tựu to lớn" của các chế độ cộng sản đều chỉ là bịp bợm, lập luận này đã mất hết nội dung.

Dĩ nhiên trong một nước chưa phát triển nhà nước bắt buộc phải trọng tài một cách khó khăn giữa những đòi hỏi mâu thuẫn, và chính đáng như nhau, với một ngân sách hạn hẹp, đặc biệt là trong kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng (đường sá, hải cảng, phi trường, hệ thống viễn thông, v.v...) và như thế cần phải mạnh. Nhưng thế nào là một nhà nước mạnh ? Nhà nước mạnh không có nghĩa là nhà nước độc tài, có nhiều công an và nhà tù. Ngược lại. Sức mạnh của nhà nước, hiểu theo nghĩa sức mạnh để phát triển đất nước, chủ yếu dựa trên hậu thuẫn của dân chúng. Sức mạnh này các nhà nước độc tài không có, chúng dùng bạo lực để thống trị dân chúng và gặp sự chống đối của dân chúng. Sự chống đối có thể thụ động, không có tổ chức nhưng tổng kết lại cũng vẫn đủ sức để làm hỏng mọi kế hoạch của nhà nước. Trong thực tế, trong những quốc gia có tầm vóc lớn, các kế hoạch của những tập đoàn thống trị mù quáng tự coi mình đủ thông minh để suy nghĩ thay cho hàng chục triệu người, và xấc xược áp đặt sự suy nghĩ đó lên mọi người, chỉ có thể là ngớ ngẩn. Các chính quyền độc tài có thể thừa sức để bỏ tù những người đòi dân chủ, họ cũng có thể thừa sức để ngăn chặn sự hình thành của những tổ chức đối lập, nhưng không bao giờ đủ phương tiện để kiểm soát mọi hành động của mọi người và cuối cùng không bao giờ quản trị được xã hội một cách đúng nghĩa, ngay cả về trật tự an ninh.

(Tới đây tôi xin phép độc giả mở một ngoặc đơn về sự chống đối thụ động của dân chúng. Vợ tôi làm việc cho một hội từ thiện, hội Măng Non. Hội này mở những lớp dạy tiếng Việt tại Paris và dùng học phí thu được, cùng với sự đóng góp của các hội viên, để xây trường học tại những vùng nghèo khổ ở Việt Nam. Hội cũng cấp nhiều học bổng mỗi năm và khuyến khích thân hữu nhận làm con nuôi một số học sinh mồ côi. Trong các hồ sơ xin học bổng hay xin được nhận làm con nuôi, có rất nhiều học sinh có cha mẹ bị điện giật chết. Tôi tìm hiểu và được biết nguyên nhân : đó là công trình đường dẫn điện cao thế 500 KVA Bắc-Nam mà ông thủ tướng Võ Văn Kiệt chủ trương và đôn đốc. Công trình này là một trong những kế hoạch lớn nhất của nhà nước Việt Nam trong thập niên 1990 và là cả một kỳ quan của sự ngu dốt mà chỉ có một chế độ rất độc đoán mới áp đặt được. Tại sao lại dẫn điện từ Bắc vào Nam ? Miền Bắc không thực sự thừa điện mà chỉ tạm thời thừa điện vì chưa phát triển. Tải điện đi cả ngàn cây số cũng phải chịu những mất mát to lớn trên đường dẫn. Đây là một kế hoạch duy ý chí nhằm đặt miền Nam trong thế lệ thuộc miền Bắc về năng lượng để dễ kiểm soát. Công trình này mới đầu dự trù tốn kém 500 triệu đô la, sau điều chỉnh lại ở mức độ 800 triệu đô la, nhưng vẫn không đủ. Sau cùng không điều chỉnh nữa mà cứ làm tới, theo tâm lý lỡ phóng lao thì phải theo lao. Nó đã là một phí phạm lớn nhưng nó còn tạo ra vô số thảm kịch về nhân mạng. Dân chúng ùa nhau cắt dây điện để bán làm đồng vụn. Tôi đọc trên báo trong nước có lần trong vòng một tuần lễ đường dây bị cắt trên hai ngàn đoạn. Số người đi cắt dây bị điện giật chết không biết bao nhiêu mà kể. Một số khác, có lẽ cũng đông đảo không kém, bị điện giật chết vì đụng phải dây điện rớt xuống đường).

Về lập luận thứ hai này cũng nên lưu ý một lý do mà các lý thuyết gia bênh vực nó đưa ra : cần một nhà nước độc tài bởi vì tình thế mới đòi hỏi như thế, bối cảnh thế giới hiện nay khác với bối cảnh thế giới trong các thế kỷ 17, 18 và 19 khi các quốc gia phát triển đầu tiên xuất hiện. Một cách gián tiếp họ nhìn nhận Hoa Kỳ và các nước Tây Âu đã phát triển nhờ có tự do và dân chủ, một điều mà họ không nhìn nhận khi tranh cãi về chính các nước này. Rõ ràng là một cách tranh cãi không lương thiện.

Lập luận thứ ba (về nhu cầu cần có ổn định xã hội để phát triển và do đó cần một chế độ độc tài) thì đúng là ăn ngang nói ngược, đổi trắng thay đen. Đồng ý, và đồng ý một trăm phần trăm, là phải có ổn định xã hội để phát triển, nhưng các chế độ độc tài có đảm bảo ổn định xã hội không ? Hoàn toàn không ! Chế độ độc tài cho phép người cầm quyền thay đổi luật pháp và lấy các quyết định một cách rất tùy tiện. Nay cho phép, mai cấm đoán. Đó là chưa kể người cầm quyền không cần tôn trọng những luật pháp mà mình ban hành, khi không giải thích chúng một cách tùy tiện. Trong một bối cảnh bấp bênh không tiên liệu được như vậy, ai có thể yên trí để làm những dự án đầu tư ? (Phương châm của người kinh doanh tại Việt Nam hiện nay là ba không : không làm lớn, không làm lộ và không làm lâu). Ngược lại, trong một nước dân chủ, hiến pháp và luật pháp là kết quả của những tranh cãi sâu rộng trong đó mọi ý kiến đều được trình bày trước khi được biểu quyết một cách lương thiện cho nên phản ánh mọi nguyện vọng và do đó khó thay đổi. Luật chơi vì vậy rõ ràng và mọi người có thể tiên liệu được tương lai.

Sự gian trá của lập luận thứ ba này là đồng hóa ổn định xã hội với sự kéo dài của các chính quyền, hai điều không những khác nhau mà còn mâu thuẫn với nhau. Ổn định thực sự là luật pháp được tôn trọng và không thay đổi một cách bất ngờ, điều mà chỉ có những chế độ dân chủ pháp trị mới bảo đảm được.

Một điều rất cũ, quá cũ, nhưng cũng cần được nhắc lại vì quá quan trọng : các chế độ độc tài đẻ ra tham nhũng. Độc quyền đưa đến lạm quyền và lạm quyền đưa đến tham nhũng, đó là một qui luật bắt buộc. Tham nhũng là gì nếu không phải là lợi dụng công quyền cho lợi ích cá nhân ? Càng nhiều quyền thì càng dễ tham nhũng. Cho nên các chế độ độc tài dù quyết tâm chống tham nhũng đến đâu đi nữa cũng bất lực, tham nhũng chỉ tăng lên chứ không giảm đi như ta đã thấy trong trường hợp Việt Nam. Muốn giảm tham nhũng thì trước hết phải giảm quyền lực nhà nước, muốn chống tham nhũng thì trước hết phải tôn trọng quyền tự do tố giác và phải tách bộ máy tư pháp khỏi sự kiểm soát của chính quyền, tóm lại phải có dân chủ. Có thể nói tham nhũng là 90% trở ngại của phát triển. Bất cứ một lý thuyết phát triển nào không kể đến sự tác hại của tham nhũng đều chỉ là lý thuyết suông.

Còn những khảo sát cụ thể ?

Một cách vắn tắt, chúng đều vô giá trị.

Nguyên nhân đầu tiên là chính sự mơ hồ của việc phân loại các nước dân chủ và độc tài. Phần lớn các khảo sát này đều được thực hiện trước thập niên 1980. Cho tới thập niên 1980, các nước kém mở mang thay đổi chế độ thường xuyên, một chế độ quân phiệt bế tắc phải nhường chỗ cho một chế độ dân cử, rồi sau đó một đại tá lại đảo chính tái lập chế độ độc tài. Có thể thành tích của một nước được coi là dân chủ thực ra chỉ là di sản của một chế độ độc tài, và ngược lại.

Sau đó là sự ngắn ngủi của thời gian khảo sát. Thời gian này thường chỉ là năm hay mười năm, trong khi mức độ phát triển là thành quả của cả một quá trình dài.

Cuối cùng là sự thiếu chính xác của chính những số liệu. Nếu các chế độ dân chủ thường khá lương thiện trong những số liệu thì ngược lại trong các chế độ độc tài các số liệu rất đáng ngờ vực. Độc giả muốn ý thức được điều này hãy thử tìm đọc các tài liệu của Bắc Triều Tiên, Cuba, Việt Nam, hay các chế độ độc tài châu Phi để có một khái niệm. Cái gì cũng đẹp, cũng tốt, cũng vượt chỉ tiêu. Khổ một nỗi là các nhà nghiên cứu, ngay cả các chuyên viên của những định chế rất nghiêm chỉnh như Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, cũng bắt buộc phải sử dụng những thống kê chính thức vì không có dữ kiện nào khác.

Nhưng điều lý thú nhất là nếu những "khảo sát" đầu tiên đưa tới những kết luận có lợi cho các chế độ độc tài thì càng về sau các nhà nghiên cứu, sau khi đã vật lộn với những số liệu mà chính họ cũng phải nhìn nhận là không chính xác, càng kết luận là dân chủ không có hại gì cho phát triển, trong nhiều trường hợp họ còn thấy dân chủ có tác dụng tốt cho phát triển. Chấm, và chấm hết.

Sau cùng, nên nghĩ thế nào về sự so sánh giữa Trung Quốc và Ấn Độ ?

Mới thoạt nhìn sự so sánh này có giá trị : cả hai nước đều là những quốc gia lớn, tầm vóc của chúng cho phép đại cương hóa các quan sát ; hai quốc gia đã chọn lựa một cách quả quyết hai hướng đi khác nhau, Ấn Độ chọn dân chủ trong khi Trung Quốc đi theo chế độ độc tài cộng sản ; thời gian quan sát cũng khá dài, gần một nửa thế kỷ. Tuy nhiên giá trị của sự so sánh chỉ dừng lại ở đó. Chúng ta cũng gặp phải sự sai lệch của những dữ kiện. Nếu các số liệu của Ấn Độ có thể coi là tương đối khả tín thì ngược lại những số liệu của Trung Quốc rất khó tin. Chẳng hạn như nông nghiệp của Trung Quốc được ghi nhận là đã tăng trưởng trung bình 3,1% mỗi năm từ 1950 đến 1980 trong khi nông nghiệp của Ấn Độ chỉ tăng trưởng 2,3% mỗi năm. Sự thực mà mọi người đều nhìn nhận là trong thời gian này, qua các giai đoạn "bước nhảy vọt" rồi "cách mạng văn hóa", nông nghiệp của Trung Quốc suy sụp hoàn toàn, làm gần 50 triệu người chết đói. Cũng trong thời gian đó không ai phủ nhận rằng Ấn Độ đã tiến từ địa vị một nước thiếu đói quanh năm tới tình trạng tự túc về lương thực và thực phẩm. Những số liệu như vậy khiến sự so sánh không đứng đắn chút nào. Nhưng đó không phải là lý do chính khiến ta phản bác sự so sánh. Lý do chính là một người quan sát đứng đắn không thể nghĩ đến việc so sánh Ấn Độ và Trung Quốc. Lịch sử và văn hóa của hai nước quá khác nhau. Nếu căn cứ vào việc Trung Quốc theo chế độ độc tài đã phát triển nhanh hơn Ấn Độ theo chế độ dân chủ để rồi kết luận dân chủ không có lợi cho phát triển bằng độc tài thì cũng ngây ngô như thấy con bò lớn hơn con chó rồi kết luận là những con vật có sừng lớn hơn những con vật không có sừng. Ấn Độ cho tới khi người phương Tây đến không phải là một quốc gia mà là cả một thế giới hỗn tạp với những tập quán và triết lý hủ lậu ; xã hội phân hóa thành vô số đẳng cấp kỳ thị lẫn nhau ; các triết lý không tìm cách cải thiện cuộc sống mà coi cuộc đời như một bể khổ vô phương cứu chữa ; con người tìm hạnh phúc trong những suy tư siêu hình, tìm khoái lạc trong việc nằm trên bàn đinh nhọn hoặc thổi sáo cho rắn hổ múa. Trái lại Trung Quốc là một xã hội thực tiễn, đề cao cố gắng để giải quyết những nhu cầu vật chất. Trước đây không ai nghĩ tới việc so sánh Ấn Độ với Trung Quốc, nếu ngày nay người ta so sánh hai nước thì cũng vì Ấn Độ đã tiến lên, và tiến lên nhờ dân chủ.

Tôi không phản bác những khảo cứu so sánh, với điều kiện là phải so sánh những cái có thể so sánh. Muốn so sánh hiệu năng kinh tế của dân chủ và độc tài thì phải so sánh tình trạng của cùng một nước trước và sau khi thay đổi từ một chế độc độc tài sang một chế độ dân chủ, hay sang một chế độ tuy chưa phải là dân chủ nhưng với một mức độ tự do lớn hơn. Hoặc ngược lại từ một chế độ dân chủ, hay tương đối cởi mở, sang một chế độ độc tài. Như thế phải so sánh Đại Hàn Dân Quốc trước và sau Lý Thừa Vãn, Phi-líp-pin trước và sau khi chế độ Marcos bị lật đổ, Thái Lan trước và sau năm 1992, từng nước châu Mỹ La Tinh hay từng nước Đông Âu trước và sau cuộc chuyển hóa về dân chủ. Hoặc cũng có thể so sánh các chế độ khác nhau của cùng một dân tộc như hai miền Nam và Bắc Việt Nam trước năm 1975, Nam và Bắc Cao Ly, Đài Loan và Hoa Lục. Những so sánh này không cho phép bất cứ ngờ vực nào : dân chủ hơn hẳn độc tài về mặt kinh tế.

Nhưng cuộc thảo luận này có thể khiến cây che khuất rừng. Kinh tế không phải là tất cả. Hạnh phúc của một dân tộc không phải chỉ là lợi tức trung bình trên mỗi đầu người, càng không phải là tỷ lệ tăng trưởng 5 hay 10% mỗi năm. Còn những điều cao hơn, và cao hơn nhiều. Đó là phẩm giá, là quyền được nói và làm điều mình muốn, là quyền được sống mà không sợ bị bắt giam vô cớ, được phát triển khả năng của mình mà không cần đút lót, và được tham dự vào những quyết định quan trọng cho cộng đồng. Những điều này chỉ có một chế độ dân chủ có thể đem lại. Các tập đoàn độc tài viện lý cớ phát triển kinh tế để hy sinh tự do. Lập trường này tự nó đã khó chấp nhận, điều còn khó chấp nhận hơn là vì chà đạp tự do và làm thui chột óc sáng tạo họ cũng ngăn chặn luôn cả phát triển kinh tế. Họ biện luận là cần hy sinh hôm nay cho ngày mai nhưng thực ra họ hy sinh hôm nay chỉ để hủy hoại ngày mai.

*******************

 

Những định luật cho một xã hội phát triển ?

 

 

4-tqan20

Cái đầu quả nhiên nhanh hơn đôi chân và hơn cả máy bay phản lực. Qua một vài chục trang giấy, chúng ta đã du hành ngược thời gian, lên đến thời tiền sử rồi lại xuôi dòng về đến hiện tại, sau khi đã thăm viếng những cái nôi đầu tiên của phát triển tại châu Âu và Hoa Kỳ, rồi các nước vừa phát triển tại châu Á và châu Mỹ La Tinh.

Chúng ta đã nhận định và cũng đã khảo sát cả những lập luận trái ngược. Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận. Nếu chúng ta tự so sánh với một nhà khoa học rút ra những định luật sau khi đã quan sát các thí nghiệm, chúng ta cũng có thể rút ra một số định luật cho một xã hội muốn phát triển hay muốn tiếp tục phát triển. Dĩ nhiên, với thái độ khiêm tốn phải có, bởi vì các định luật trong khoa học nhân văn không chính xác như những định luật trong khoa học vật lý, chúng luôn luôn đòi hỏi một ứng dụng sáng tạo phù hợp với môi trường.

Định luật 1 : Tất cả mọi thành tố cơ bản của phát triển đều vô hình, nằm trong con người và xã hội. Phát triển chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn hóa.

Định luật 2 : Dân chủ là nguyên nhân tạo ra phát triển và cũng là môi trường của phát triển. Mức độ dân chủ quyết định giới hạn tối đa của phát triển. Dân chủ càng cao khả năng phát triển càng cao. Không có dân chủ quá đáng.

Định luật 3 : Phát triển đòi hỏi một đồng thuận dân tộc trong một dự án tương lai chung, phù hợp với quyền lợi của mỗi cá nhân. Hiến pháp và luật pháp thể hiện đồng thuận xây dựng một tương lai chung đó và vì thế được ổn vững và được coi như nền tảng duy nhất của tổ chức xã hội.

Định luật 4 : Phát triển đòi hỏi kinh tế phải được tự do vận hành theo qui luật tự nhiên của thị trường thay vì bị gò bó trong một kế hoạch. Chính quyền phải tránh can thiệp và đặt ra những cưỡng chế mâu thuẫn với qui luật của thị trường.

Định luật 5 : Các thủ tục hành chánh phải được giảm tới mức tối thiểu cần thiết. Chính quyền tốt nhất là chính quyền nhẹ nhất, nhường không gian tối đa cho xã hội dân sự, cá nhân, ý kiến và sáng kiến.

Định luật 6 : Phát triển lành mạnh đòi hỏi hủy bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, mọi thế lực ngoài qui định luật pháp, mọi thành kiến và giáo điều, mọi phân biệt và ngăn cách.

Định luật 7 : Tự do là tâm hồn, động cơ và sức mạnh của xã hội. Trong một xã hội muốn phát triển mạnh không thể có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không thể có những đề tài cấm bàn đến.

Định luật 8 : Bạo lực phải bị tuyệt đối lên án và hoàn toàn xóa bỏ như một phương thức ứng xử. Mọi mâu thuẫn trong xã hội phải được giải quyết qua đối thoại và thỏa hiệp.

Định luật 9 : Vận tốc phát triển tỷ lệ thuận với chỗ đứng dành cho thương mại. Thương mại càng được ưa thích và quí trọng, xã hội phát triển càng nhanh chóng. Thương mại phải được coi là động cơ của mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, văn hóa, đạo đức.

Định luật 10 : Mọi luật và qui định phải phù hợp với trình độ hiểu biết của dân chúng và liên tục thích nghi với bối cảnh xã hội, nhưng luôn luôn phải giản dị, dễ hiểu, dễ tuân thủ cho mọi người và được áp dụng triệt để.

Mười định luật trên đây thực ra là những định luật căn bản. Chúng ta đã bỏ qua những yếu tố khác tuy rất quan trọng nhưng tự nhiên sẽ được khám phá ra khi những định luật căn bản đã được thỏa mãn, như sức khỏe, giáo dục, truyền thông, hạn chế dân số, bảo vệ môi trường, v.v...

 -----------------------

Sự liệt kê giản lược này dĩ nhiên cần một số ghi chú bổ túc :

Định luật 1 là một khám phá mới. Cho tới một ngày khá gần đây các nhà nghiên cứu, khi giải thích hiện tượng phát triển, đều đề cao vai trò của những yếu tố vật chất như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý. Max Weber là một trong những nhà tư tưởng hiếm hoi đề cao vai trò của tâm lý và văn hóa, nhưng ông lại tập trung lý luận vào châu Âu và dành cho đạo Tin Lành một vai trò chủ yếu. Tư tưởng của ông vì vậy khó có tiếng vọng nơi các xã hội không theo Thiên Chúa Giáo. Chỉ cho tới một ngày rất gần đây, nhờ sự quan sát của các nhà ngoại giao, các chuyên viên trong các chương trình hợp tác phát triển và các phái viên của các tổ chức thiện nguyện, người ta mới ý thức được rằng sự tụt hậu và trì trệ là do một cấu trúc tâm lý không thích hợp. Một quốc gia không thể phát triển nếu quyền lực thay vì được coi là một trách nhiệm lại được nhìn như một phần thưởng, nếu danh giá trong xã hội là làm quan thay vì kinh doanh, nếu tâm lý quần chúng là hễ một người làm quan cả họ phải được nhờ, nếu sự giàu có bị thù ghét, nếu hoạt động kinh tế được nhìn như một cuộc chơi với tổng số là số không, người này giàu tất nhiên kẻ khác phải nghèo, vì thế kinh doanh đồng nghĩa với bóc lột. Muốn phát triển một xã hội, phải từ bỏ tâm lý cũ đã tạo ra sự lạc hậu và đề cao những giá trị tiến bộ : hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác và lợi nhuận. Cần nhấn mạnh giá trị lợi nhuận.

Định luật 2 là kết luận căn bản nhất rút ra từ sự quan sát các nước đã phát triển đầu tiên và các nước mới phát triển gần đây sau cuộc du lịch tham quan của chúng ta trong những bài trước. Điều đặc biệt cần ghi nhận là định luật này không có một ngoại lệ nào nếu ta nhìn trong chiều sâu thay vì một cách phiến diện.

Định luật 3 gần như là một hệ luận của định luật 2, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng động viên quần chúng. Đồng thuận là điều kiện để lòng yêu nước có thể đóng được vai trò kết hợp và thôi thúc của nó. Định luật này giải thích tại sao các chế độ phát-xít quân phiệt tại Đức, Ý và Nhật trước thế chiến II đã đạt được những tiến bộ đáng kể trước khi sụp đổ trong máu lửa. Đó là vì, do hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc này đã có một đồng thuận lớn và đã được động viên trong một cố gắng chung, dù chỉ là đồng thuận mê muội trên một ý đồ bá quyền nước lớn. Sau đó chính vì không có dân chủ mà các nước này tích lũy mâu thuẫn và bị đẩy vào chiến tranh tự hủy. Ở đây, vì chúng ta đề cập đến hiến pháp và luật pháp ổn vững nên cũng cần hiểu rõ những định nghĩa khác nhau của ổn định. Ổn định có lợi và cần thiết cho phát triển là ổn định trong sinh hoạt xã hội, nghĩa là hiến pháp và luật pháp không bị thay đổi tùy tiện theo ý muốn của người cầm quyền. Đó hoàn toàn không phải là sự "ổn định" được hiểu như là sự không thay đổi người cầm quyền. Từ sau thế chiến II, Nhật và Ý là hai quốc gia thay đổi chính phủ rất thường xuyên, trung bình một chính phủ chỉ kéo dài xấp xỉ một năm, mà vẫn phát triển mạnh bởi vì luật chơi, nghĩa là hiến pháp và luật pháp không thay đổi. Trái lại, các nước độc tài, với những chính quyền kéo dài nhiều thập niên, lại rất tụt hậu. Tại sao ? Bởi vì, như đã được trình bày trong chương trước nhưng nhắc lại một lần nữa tưởng không phải là vô ích, chế độ độc tài cho phép người cầm quyền thay đổi luật chơi một cách tùy tiện, tạo ra xáo trộn và bất ổn thường trực cho sinh hoạt của xã hội.

Định luật 4 cũng hiển nhiên như định luật 2, nhưng có lúc đã bị che khuất bởi những trình bày dối trá. Các chế độ phát-xít Đức, Ý và Nhật trước thế chiến II và nhất là các chế độ cộng sản, bằng những giấu giếm và thống kê bịp bợm, đã làm cho nhiều người tưởng là có thể phát triển bằng những kế hoạch duy ý chí, bất chấp các qui luật của thị trường. Sự sụp đổ của phong trào cộng sản đã chỉ là sự tái lập lại một chân lý vốn đã có từ lâu.

Định luật 5 tập hợp hai nhận thức cơ bản : một là chính ý kiến và sáng kiến, chứ không phải nguyên nhân nào khác, làm cho kinh tế tăng trưởng, mà muốn ý kiến và sáng kiến nảy nở thì xã hội dân sự và các cá nhân phải được giải phóng khỏi mọi gò bó ; hai là các thủ tục rườm rà vừa ngăn cản sáng kiến vừa đẻ ra tham nhũng, bệnh ung thư của hoạt động kinh tế. Tham nhũng là gì nếu không phải là sự lạm dụng công quyền cho lợi ích cá nhân ? Muốn tránh tham nhũng thì trước hết phải giới hạn vai trò của chính quyền. Cũng phải nhận xét rằng thủ tục đẻ ra thủ tục bởi vì nó tạo ra những công chức sống nhờ thủ tục và cố gắng tạo ra thêm càng nhiều thủ tục càng tốt để củng cố địa vị. Mặt khác, chính quyền ôm đồm quá nhiều sẽ không làm tròn được những nhiệm vụ tối cần thiết của một chính quyền, nghĩa là bảo vệ trật tự an ninh, trọng tài đúng đắn những mâu thuẫn và tranh tụng trong xã hội, thi hành đúng đắn luật pháp, gìn giữ liên đới xã hội, quản lý đúng đắn tiền tệ. Một xã hội được cai trị quá nhiều cũng là một xã hội không được cai trị đầy đủ.

Định luật 6 nói lên sự cần thiết của một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lý. Mỗi quốc gia có những lý do khác nhau để bị trì trệ. Lý do có thể là những đặc quyền dành cho một giai cấp, một tập đoàn hay một số gia đình, thành phần được ưu đãi này dựa vào địa vị áp đảo của mình để kềm giữ những thành phần còn lại của xã hội trong sự nghèo khổ ngõ hầu giữ nguyên vai trò thống trị của mình. Hay là một số người và nghề được tôn vinh quá đáng, ngược lại một loại người và nghề bị khinh bỉ và loại trừ, xã hội bị chia cắt thành những tập thể mâu thuẫn với nhau, phá hoại lẫn nhau và triệt tiêu lẫn nhau ; sự lưu thông bị tắc nghẽn, xã hội ở trong một tình trạng nội chiến thường trực. Một thí dụ trong các xã hội theo văn hóa Khổng Giáo là tâm lý trọng văn khinh nghề, một tâm lý từ chối sự giàu mạnh. Một thí dụ khác, cũng trong các xã hội này, là tâm lý trọng nam khinh nữ, chà đạp và loại trừ khỏi hoạt động xã hội một nửa tài nguyên nhân lực.

Đoạn tuyệt văn hóa rất khó, như chúng ta đã nhận xét trong nhiều trang trước, nhưng đó là điều kiện tiên quyết để có thể phát triển. Nhiều người chất vấn : xã hội ta đặt nền tảng trên những giá trị Khổng Giáo, nếu bỏ đi chúng ta còn lại gì ? Phải trả lời dứt khoát : chẳng thà không có gì còn hơn là có thuốc độc. Người phá rừng hoang làm đất canh tác không thể tự hỏi : khu đất này chỉ có cây hoang nếu phá hết thì còn lại gì ? Trước hết phải đốn hết cây dại trước khi làm đất và trồng cây ăn trái.

Định luật 7 nói lên một niềm tin rất nền tảng : tự do có khả năng sửa chữa những khuyết tật của chính nó. Nếu trong nhất thời "tự do quá trớn" có thể đẻ ra những hậu quả xấu thì sau đó chính cái "tự do quá trớn" đó sẽ xóa bỏ những hậu quả xấu này. Đây là niềm tin vào trí tuệ của con người. Định luật này cũng là một đồng minh của định luật 6. Tự do phát biểu tuyệt đối là vũ khí tiêu diệt mọi thành kiến lệch lạc, mọi ngăn cách, mọi đặc quyền đặc lợi. Đó cũng là vũ khí hiệu lực nhất để chống tham nhũng. Tại sao nước Mỹ đã vươn lên từ một vùng đất hoang thành siêu cường số một của thế giới ? Một trong những lý do là hiến pháp Mỹ không những khẳng định tự do phát biểu mà còn cấm quốc hội biểu quyết bất cứ một đạo luật nào giới hạn tự do phát biểu, dù với đa số nào. Để có thể có một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lý như định luật 6 đòi hỏi chúng ta không thể chỉ chấp nhận tự do, mà còn phải coi tự do như một quốc giáo và khuyến khích tự do dưới mọi hình thức như tự do suy nghĩ, phát biểu, chọn lựa, thụ hưởng, kể cả tự do cơ thể. Tự do cơ thể đặc biệt quan trọng bởi vì khi cơ thể đã được giải phóng thì rất nhiều thành kiến cũng tiêu tan và cách suy nghĩ sẽ thay đổi. Các trí thức canh tân của ta đầu thế kỷ 20 đã rất đúng khi họ kêu gọi cắt tóc ngắn, động tác giản dị này đã có ảnh hưởng tâm lý quyết định.

Định luật 8 là tuyên cáo của một xã hội nhân bản và một nền văn minh mới. Bạo lực phải bị lên án ngay trong ý niệm chứ không phải chỉ trong thực tế. Dù không dùng bạo lực thực sự đi nữa thì khả năng sử dụng bạo lực hay ý nghĩ bạo lực cũng làm cho con người có thể thù ghét nhau vì bất đồng ý kiến hay mâu thuẫn quyền lợi. Loại trừ hẳn bạo lực ngay trong ý niệm sẽ khiến mọi người không còn chọn lựa nào khác ngoài đối thoại tương kính để đi đến thỏa hiệp và như thế không những bảo đảm hòa bình trong xã hội mà còn đem lại hòa bình trong tâm hồn mọi người.

Định luật 9 cần được đặc biệt chú ý vì nó là sự thực đã bị các quyền lực chính trị cố tình xuyên tạc và che đậy. Thương mại luôn là động cơ của mọi tiến bộ. Xã hội Hy Lạp nguyên thủy coi thương mại là hoạt động cao quí nhất, họ đặt giai cấp kỹ sư và thợ thủ công dưới giai cấp thương nhân. Dù là một phân biệt giai cấp không chính đáng, quan niệm này cũng bày tỏ một sự đánh giá có căn bản : thương nhân là những con người có bản lãnh nhất, giao thiệp nhiều, hiểu biết rộng, nhiều sáng kiến và dám chấp nhận rủi ro. Người Á Đông từ lâu cũng đã nhận định "phi thương bất phú" [không làm thương mại thì không thể giàu có]. Từ chối thương mại như vậy chính là từ chối sự giàu mạnh. Các chế độ độc tài toàn trị đều sợ thương nhân, vì thế chà đạp thương nhân để triệt tiêu một mối đe dọa cho quyền lực của chúng. Một mặt chúng dùng bạo lực đàn áp, mặt khác chúng dùng độc quyền ngôn luận để phỉ báng thương nhân như là hạng người gian trá tham lam. Với thời gian chúng đã thành công tạo ra một thành kiến thù ghét đối với hoạt động kinh doanh làm giàu. Nho Giáo từ đời nhà Hán đã bắt đầu bài xích và cấm đoán thương mại. Các chế độ cộng sản trong thế kỷ 20 cũng có cùng một chọn lựa. Các xã hội Khổng Giáo ngày xưa và cộng sản gần đây trì trệ là vì thế. Nguyên nhân sâu xa của chính sách bài bác thương mại là một triết lý chính trị : ưu tư gìn giữ chính quyền được đặt trên sự giàu mạnh của xã hội. Các chế độ độc tài toàn trị không cần quốc gia giàu mạnh, trái lại chúng cần dân chúng nghèo khổ và ngu dốt để có thể tiếp tục thống trị.

Thương mại đòi hỏi và làm phát triển nhiều đức tính tốt. Người làm thương mại phải hiểu nhu cầu của xã hội và vì thế phải cố gắng tìm hiểu xã hội. Người làm thương mại sống bằng chữ tín nên phải thực thà, nếu không muốn bị tẩy chay và phá sản. Người làm thương mại cần khách hàng nên phải thực sự quí trọng người khác vì không có sự giả dối nào có thể kéo dài. Người làm thương mại phải tỏ ra dễ mến để tranh thủ khách hàng cho nên ngôn ngữ và thái độ phải trang nhã. Ở một chương trước chúng ta đã nói rằng chính vì thương mại không phát triển mà con người trong các xã hội Khổng Giáo thường rất thô lỗ.

Thực tế cho thấy các tiến bộ đầu tiên, kể cả dân chủ, đã xuất hiện tại các trung tâm thương mại. Các thí dụ phát triển đầu tiên tại Hòa Lan, Anh và Mỹ cũng đã chứng tỏ vai trò quyết định của thương mại.

Định luật 10 là một nhận định thực tiễn. Xã hội phát triển chỉ có thể là xã hội dân chủ pháp trị. Nhưng muốn luật pháp được tôn trọng, trước hết luật pháp phải được mọi người thấu hiểu. Không thể lấy một đạo luật, dù hay tới đâu, của một nước đã phát triển và có hoạt động kinh tế phức tạp để áp đặt vào m_ột nước mà đa số dân chúng chưa đọc thông viết thạo và hoạt động kinh tế chủ yếu là trao đổi trực tiếp, hay buôn bán lặt vặt, hay sản xuất trên qui mô gia đình. Luật pháp phải phù hợp với trình độ hiểu biết trung bình của xã hội. Luật pháp không hoàn chỉnh nhưng áp dụng được còn hơn luật pháp hoàn chỉnh nhưng người dân không hiểu nổi và do đó không thể tuân thủ. Luật pháp phải được xây dựng một cách liên tục và trưởng thành cùng với sự phát triển của quốc gia.

Nhưng ở đây phải đặc biệt cảnh giác trước một sự gian trá khác. Đó là giới hạn tự do và dân chủ viện cớ dân trí chưa cao. Ngược lại, và ngược hẳn lại, chính trong hoàn cảnh dân trí chưa cao và hoạt động kinh tế chưa phức tạp, luật pháp phải ít gò bó hơn, ít giới hạn hơn. Sự gian trá của các chế độ độc tài đập vào mắt mọi người : chúng nhắm đàn áp trước hết những người có trình độ cao, chúng dồn những cố gắng rất tốn kém để kiểm soát tư tưởng, trong khi để mặc cho các tệ đoan xã hội hoành hành. Các xã hội độc tài khắc nghiệt thường rất hỗn loạn và vô kỷ luật : trộm cướp, mãi dâm, buôn lậu, phóng uế, phá hủy môi trường, đánh cá bằng chất nổ v.v. hầu như không bị kiểm soát vì lý do dễ hiểu là các tệ nạn này không đe dọa tập đoàn cầm quyền.

Mười định luật về phát triển trên đây có thể tóm gọn trong bốn chữ : dân chủ đa nguyên. Trong một xã hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi người phải được tôn trọng, được tự do kết hợp, bầu cử và ứng cử. Chính quyền như thế sẽ xuất phát từ dân chúng và được dân chúng ủng hộ. Trong một xã hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi ý kiến, dù mới mẻ và có vẻ ngược đời đến đâu cũng vẫn được quyền phát biểu. Tinh thần đa nguyên, nghĩa là tinh thần tôn trọng mọi khác biệt, có hệ luận tự nhiên là người ta không được dùng bạo lực để tiêu diệt người khác ý kiến và quyền lợi với mình, mà phải tìm cách sống chung qua đối thoại và thỏa hiệp. Đã không tiêu diệt và đàn áp lẫn nhau thì cố gắng tự nhiên là tìm đồng thuận. Đã tôn trọng mọi người, dù thuộc thành phần xã hội nào và khuynh hướng nào, thì tất nhiên không thể có những đặc quyền đặc lợi, thành kiến và ngăn cách ; hay nếu có cũng sẽ bị xóa bỏ với thời gian. Sau cùng, một xã hội dân chủ đa nguyên, sau khi các thành kiến và đặc quyền đã được hủy bỏ, chắc chắn sẽ khám phá ra vai trò chủ đạo của thương mại vì đó là một sự thực hiển nhiên, mọi người đều có thể thấy một cách dễ dàng và nhanh chóng.

Tới đây có lẽ cũng nên có một nhận định tổng hợp và đúc kết về hiện tượng phát triển kinh tế : tăng trưởng kinh tế, nguyên nhân của phát triển, xảy ra khi xã hội hội đủ ba yếu tố : (1) nhiều người lạc quan và muốn kinh doanh, (2) họ có thể kinh doanh và (3) họ có phương tiện để kinh doanh.

Để lạc quan và muốn kinh doanh, họ cần một bối cảnh tâm lý thuận lợi : hoạt động kinh doanh được xã hội quí trọng, ý kiến và sáng kiến được đề cao, sự chấp nhận rủi ro được đề cao và dĩ nhiên lòng tin rằng kinh doanh sẽ thành công.

Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần trật tự an ninh, cần được tự do hoạt động và được luật pháp bảo vệ và luật pháp không thay đổi một cách tùy tiện. Họ cũng không thể bị trói buộc bởi quá nhiều qui định, không bị gò bó trong một kế hoạch quốc gia cứng chắc, và nhất là không bị sách nhiễu bởi tệ tham nhũng, một căn bệnh trầm kha của mọi chế độ độc tài.

Phương tiện kinh doanh không phải chỉ là vốn. Trước hết là một nguồn nhân lực có phẩm chất, hạ tầng cơ sở và các phương tiện giao thông và truyền thông tốt, một hệ thống ngân hàng đắc lực khi cần vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong những phương tiện và cũng không phải là phương tiện quan trọng nhất. Tư bản có trí khôn và lô-gích riêng của nó, ở đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tự nó tìm đến. Yếu tố quan trọng nhất vẫn là những con người cần mẫn và có kỹ năng.

Cả ba yếu tố nền tảng trên đây cho tăng trưởng kinh tế, và phát triển kinh tế sau đó, một lần nữa nhắc nhở chúng ta một chân lý : phát triển hay trì trệ chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn hóa.

Chúng ta cần thay đổi văn hóa, nghĩa là thay đổi xã hội và con người, để có thể phát triển.

Một lời trước khi chấm dứt. Những qui luật phát triển trên đây có thể làm cho một số độc giả phân vân : phải chăng chúng ta tiến tới một xã hội do đồng tiền ngự trị ? Sự phân vân càng day dứt đối với tâm hồn Á Đông, và nhất là Việt Nam, từ ngàn xưa đã coi sự thanh bần như một giá trị cao quí. Nhưng thực ra một xã hội phát triển và tự do không phải chỉ đem lại sự giàu có ; nó còn đem lại phẩm giá cho con người, đem lại sự sáng tạo trong mọi địa hạt. Tôi không biết triết gia phương Tây nào đã nói : "Đồng tiền là một đầy tớ tốt nhưng là một chủ nhân xấu". Câu nói này được rất nhiều người coi là cao siêu nhưng thực ra nó chỉ là một nhận xét của một người thiếu hiểu biết. Đồng tiền chắc chắn không phải là ông chủ tốt bởi vì nó không có lương tâm và tình cảm, nhưng nó cũng không thể là một đầy tớ. Nó quá mạnh và kiêu hãnh. Nếu bị coi là một đầy tớ, nó sẽ phản ứng thẳng tay và làm chúng ta đau đớn. Đồng tiền, hay đúng hơn tài sản, khi đã đạt tới một tầm vóc nào đó, có cuộc sống riêng của nó và cũng có lô-gích riêng của nó ; chúng ta phải thảo luận và thỏa hiệp với nó chứ không thể coi nó như một vật dụng. Nó cần được đối xử như một người bạn và một người đồng đội chứ không phải một chủ nhân hay một đầy tớ. Nó không thống trị mà cũng không khuất phục. Vả lại, ngay cả sự thống trị của đồng tiền, dù không phải là lý tưởng, cũng vẫn dễ chịu hơn là sự chuyên chế của đức hạnh. Đồng tiền là tiện nghi, là tự do và là điều ai cũng có thể hiểu và chấp nhận, trong khi đức hạnh thường chủ quan và thay đổi theo người, hay lớp người, có quyền quyết định cái gì là đức hạnh, cái gì là trái với đức hạnh. Đức hạnh có thể là một nhà tù vô hình nhưng rất nghiệt ngã.

**************************

 

Kinh bang tế thế

 

 

4-tqan21bí

 

Ngày nay, khi bàn về tình hình đất nước, người ta sẽ rất may mắn nếu được coi là một chuyên viên kinh tế. Tâm lý quần chúng, kể cả đa số trí thức, dành cho các nhà kinh tế một sự nể trọng đặc biệt, như thể là chỉ có họ mới thực sự có thẩm quyền để nói về tương lai đất nước. Thái độ này xuất phát từ ý thức càng ngày càng mạnh rằng vấn đề cơ bản của chúng ta là phát triển kinh tế. Ý thức này rất đúng, chỉ có kết luận rút ra từ đó, nghĩa là đề cao những người được coi là kinh tế gia, mới sai. Hỏi các nhà kinh tế làm thế nào để phát triển đất nước cũng giống như hỏi một ông hàng thịt cách nuôi heo. Họ không biết.

Cái gì làm cho kinh tế phát triển ? Đó là nhờ một kỹ sư phát minh ra một cái máy mới nào đó hay một phương thức sản xuất nào đó làm cho số lư_ợng sản phẩm tăng lên với cùng một vốn đầu tư và cùng một số công nhân. Đó là nhờ một nhà kinh doanh sau nhiều quan sát và suy nghĩ đã nhìn ra một yêu cầu mới của thị trường rồi tạo ra một cơ sở kinh doanh, tuyển dụng một số nhân công mới, vừa kiếm được một tài sản cho mình, vừa giải quyết sinh kế cho nhiều gia đình, vừa kích thích một số hoạt động kinh tế khác. Đó là nhờ một nhà kinh doanh ký được một hợp đồng xuất cảng với nước ngoài. Đó là nhờ một doanh nhân hợp tác với một nhà sáng chế lập ra một số cơ sở sản xuất một sản phẩm mới, thỏa mãn một cách tốt đẹp hơn nhu cầu của người tiêu thụ, v.v... Tất cả những yếu tố đó thường chẳng có mấy liên hệ với môn kinh tế học. Độc giả có thể phản bác rằng những thí dụ trên chỉ là những trường hợp cá nhân, lẻ tẻ trong khi chúng ta đang nói về kinh tế trên qui mô quốc gia. Xin thưa rằng kinh tế quốc gia không gì khác hơn là tổng số những trường hợp cụ thể đó. Sáng kiến, sản phẩm mới, kỹ thuật mới, phương pháp mới, thị trường mới, và tính mạo hiểm kinh doanh làm cho kinh tế phát triển.

Tuyệt đại đa số những chuyên viên kinh tế làm việc trên những vấn đề rất giới hạn : những biến thiên trong số lượng tiêu thụ của loại sản phẩm ; những biến thiên về giá và số lượng sản xuất của một nguyên liệu ; những chuyển biến của một ngành đặc biệt và những nguyên nhân tạo ra các chuyển biến đó ; những thay đổi trong cách tiêu xài của quần chúng ; trọng lượng tương đối của dầu khí trong giá thành của một loại mặt hàng ; trọng lượng tương đối của các thành phần xã hội trong tổng sản lượng quốc gia ; biến thiên của mức lương trung bình trong một thời gian nào đó của một khu vực nào đó ; sự phân phối lợi tức giữa các thành phần xã hội, v.v... Tất cả những công việc này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận về đối tượng nghiên cứu, những quan sát rất chi tiết và đôi khi những dụng cụ toán học khá phức tạp, đặc biệt là về môn thống kê. Tuy vậy chúng ta thường chỉ coi là kinh tế gia những người hiểu biết, hoặc tỏ ra hiểu biết, về hoạt động kinh tế tổng hợp của cả quốc gia như tổng sản lượng quốc gia, khối lượng tiền tệ lưu hành, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, tương quan giữa các khu vực cấp một, cấp hai, cấp ba, giữa các ngành hoạt động v.v..., nói một cách khác về môn kinh tế chính trị [economics hay économie politique], trong khi những hiểu biết này vừa ít lại vừa dễ.

Kinh nghiệm của tôi tuy chẳng bao nhiêu nhưng cũng đủ để cho phép tôi khẳng định là môn kinh tế chính trị rất dễ. Một người bình thường với trình độ tú tài, hơn một chút nữa càng hay, nếu tự tin và quyết tâm có thể nắm vững những kiến thức cơ bản của môn kinh tế chính trị trong vòng một năm, dĩ nhiên với điều kiện là có được sách tốt hoặc thầy tốt.

Một số độc giả đọc đến đây có thể giẫy nẩy lên : "Tên này xấc xược, dốt nát nên nói bậy". Lời phê phán này lại càng có cơ sở bởi vì kinh nghiệm đã cho thấy không thiếu những người rất thông minh, có học vị rất cao, đã từng bỏ ra nhiều năm nghiên cứu và đã giữ những chức vụ rất quan trọng vẫn có thể tuyên bố những điều rất sai về kinh tế. Nếu môn kinh tế chính trị chỉ giản dị và dễ dàng như vậy thì tại sao những người rất giỏi lại có thể có những nhận định rất sai ?

Quả thực chính tôi cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy. Một thí dụ, tôi đã hai lần được nghe hai vị tiến sĩ kinh tế, một tại Pháp và một tại Mỹ, nói rằng tham nhũng cũng là một yếu tố kích thích cần thiết cho phát triển kinh tế. Vị tiến sĩ tại Mỹ thì tôi không rõ lắm nhưng vị ở Paris thì tôi biết khá rõ, có học vị thực sự và đang giữ một chức vụ quan trọng trong một cơ quan nghiên cứu rất lớn và đầy uy tín. Về phía các nhân vật quốc tế tôi cũng đã từng được nghe những vị có uy tín và chức quyền rất cao phát biểu những điều rất sai, sai một cách lố lăng. Mà không phải do tôi, một cách chủ quan, coi những phát biểu này là sai, nhiều chuyên gia rất có thẩm quyền khác đã chứng tỏ sự sai lạc của chúng một cách rõ rệt như hai cộng với hai là bốn.

Tại sao những người rất giỏi lại có thể nghĩ và nói những điều rất sai như vậy ? Theo tôi có ba nguyên nhân chính.

Một là những kiến thức cơ bản thường rất tẻ nhạt hay ít quyến rũ, bởi thế nhiều người thông minh coi chúng là hiển nhiên, rồi không chịu đầu tư thời giờ nắm cho thật vững, mà có nắm thật vững thì những kiến thức đó mới nhập tâm và trở thành phản xạ trong lý luận. Không phải ai học thuộc các định lý cũng đều có thể giải được những bài toán, chỉ có những người đã nhập tâm những định lý đó mới sử dụng chúng một cách tự nhiên. Nhiều người học kinh tế vội vã tiến ngay vào những chủ đề sôi động, có thể gây được sự chú ý và thán phục. Đó là thói thường của những người nghĩ mình giỏi, khiến họ đôi khi hụt hẫng. Điều tai hại là do địa vị của họ, những điều họ nói dễ được tin, gây ra thành kiến sai cho nhiều người khác. Cuối cùng một vấn đề đáng lẽ giản dị trở thành phức tạp. Không thiếu gì những người học võ không đủ kiên nhẫn chịu mất thì giờ để tập đứng tấn, luyện hô hấp và di chuyển, mà muốn học ngay những bài quyền, những thế đánh ngoạn mục. Không thiếu những nhà văn, nhà thơ không chịu mất thì giờ tìm hiểu ngữ pháp và ngữ vựng mà đã vội vã sáng tác và xuất bản tác phẩm.

Hai là mọi lý luận kinh tế đều phải dựa trên những sự kiện thực tế, mà những sự kiện này thường đòi hỏi rất nhiều thì giờ để tìm kiếm và còn đòi hỏi một thì giờ lớn hơn nữa để thấu hiểu, cho nên những người thông minh nhất cũng rất dễ tưởng rằng mình đã thấu hiểu, rồi đưa ra những kết luận vội vã và sai lạc.

Ba là bản tính con người, dù thuộc chủng tộc hay văn hóa nào, thường rất ít khi mất thì giờ để kiểm điểm những kiến thức và niềm tin của mình để tìm xem có gì mâu thuẫn không, cho nên một con người rất thông thái vẫn có thể cùng một lúc tin ở những sự kiện hoàn toàn trái ngược nhau. Thái độ "ba phải" này hình như đặc biệt trầm trọng nơi người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Một thí dụ là quan điểm "tam giáo đồng nguyên" của chúng ta, vẫn thường được viện dẫn để chứng minh và tự hào, rằng người Việt Nam rất bao dung và đã tổng hợp được một cách đep đẽ ba dòng tư tưởng Khổng, Phật, Lão. Thế nào là đồng nguyên ? Nếu hiểu là cùng nguồn gốc địa lý thì chắc chắn sai vì Phật Giáo xuất phát từ Ấn Độ trong khi Lão Giáo và Khổng Giáo xuất phát từ Trung Hoa. Nếu hiểu là cùng một thái độ thì cũng sai vì chọn lựa cơ bản của Khổng Giáo chỉ thực tiễn là làm quan lại, chọn lựa của Lão Giáo là không tìm kiếm bất cứ gì, trong khi chọn lựa Phật Giáo là tìm giải thoát cá nhân cho những đau khổ của cuộc sống. Người ta có thể kính trọng cả ba nhưng không thể nghĩ rằng có thể theo cả ba cùng một lúc và càng không thể coi chúng là "đồng nguyên" được. Một thí dụ động trời khác là chủ trương "kinh tế thị trường theo định hướng Mác-Lênin". Làm sao có thể mâu thuẫn đến như thế được, chủ nghĩa Mác Lênin là gì nếu không phải là sự phủ nhận một cách thù ghét thị trường ? Nếu mỗi người chúng ta thỉnh thoảng bỏ thời giờ kiểm điểm những hiểu biết của mình và cố gắng tìm ra nhưng mâu thuẫn giữa những hiểu biết đó thì hay biết bao.

Đến đây, tôi đã nói mông lung lắm rồi, xin đi vào một số vấn đề cụ thể.

Huyền thoại kế hoạch

Vấn đề đầu tiên là kế hoạch kinh tế. Tôi vẫn thường được hỏi : "Các anh có kế hoạch gì để phát triển kinh tế ?". Người Việt Nam chúng ta, miền Nam cũng như miền Bắc, cộng sản cũng như chống cộng, rất coi trọng kế hoạch. Chính quyền miền Nam ngày trước có cả một Bộ Kế Hoạch. Chính quyền miền Bắc ngày trước (và Việt Nam ngày nay) có một phó thủ tướng đặc trách kế hoạch đứng đầu ngành kinh tế, chỉ gần đây kế hoạch mới hơi xuống giá, chỉ còn lại một Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư mà thôi. Phải nói thẳng tôi rất dị ứng với kế hoạch. Lý do là vì tôi tin tưởng vào kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường là gì nếu không phải là để cho thị trường quyết định giá cả cũng như số lượng của từng sản phẩm ? Làm sao có thể vừa tin ở kinh tế thị trường - nghĩa là để cho tư nhân theo quan sát thị trường tự quyết định làm gì, làm tới đâu, và với giá nào - lại vừa quyết định là trong năm năm tới phải sản xuất bao nhiêu quần áo, bao nhiêu xe gắn máy ? Cùng lắm chúng ta chỉ có thể tiên liệu để biết sẽ phải thích nghi như thế nào. Cùng lắm nhà nước chỉ có thể có những kế hoạch xây dựng hạ tầng cơ sở. Giữa hai điều, kế hoạch và kinh tế thị trường, phải chọn một. Các nước tư bản phát triển không có bộ kế hoạch. Nước Pháp cho tới đầu thập niên 1980 vẫn còn Cao UŒy Kế Hoạch, giờ đây không thấy ai nói đến nữa, Cao UŒy Kế Hoạch vẫn còn, nhưng vai trò chủ yếu của nó là phân phối những cơ sở vật chất mà nó đứng tên làm chủ quản, trước khi biến mất.

Người cộng sản, trước đây, có lẽ ít mâu thuẫn hơn người không cộng sản ở điểm này vì họ phủ nhận tự do kinh doanh và tin, hay ít nhất tuyên bố là tin, ở kế hoạch. Nhưng giờ đây khi họ cũng đã tin, và có lẽ là tin thực, ở kinh tế thị trường thì họ cũng phải chọn lựa. Một mâu thuẫn khổng lồ khác của chính quyền cộng sản là, một mặt tin rằng kế hoạch là cốt lõi của kinh tế và kinh tế rất phức tạp, một mặt lại chỉ đặt vào địa vị lãnh đạo kế hoạch và kinh tế những người hoàn toàn không có một khả năng chuyên môn nào về kinh tế và cũng chưa hề quen biết với những vấn đề kinh tế. Chẳng hạn như nhà thơ Tố Hữu được đưa lên làm phó thủ tướng đặc trách kế hoạch kinh tế, rồi đến ông Võ Văn Kiệt, một vị tướng công an suốt cuộc đời hoạt động chỉ lo tổ chức tuyên truyền, bắt cóc, ám sát. Sau ông Kiệt là ông Phan Văn Khải, một người, theo những người từng học và làm việc với ông, tuy có được gởi sang du học Liên Xô vài năm nhưng vì vốn liếng văn hóa và ngoại ngữ quá yếu nên chẳng học được gì và phần lớn sự nghiệp là làm phụ tá ngoan ngoãn cho ông Kiệt.

Những nhà kinh tế thực sự phải có can đảm nói thẳng, mỗi khi được hỏi, là chúng ta không thể có kế hoạch kinh tế nếu chúng ta thực sự chọn kinh tế thị trường, nghĩa là nếu chúng ta thông minh.

***********************

 

Laissez-faire ?

 

4-tqan22

Nhưng chúng ta có cần một chính sách kinh tế không ?

Tôi lại có thể bị coi là khiêu khích nếu trả lời thực ra cũng không cần lắm. Nhưng quả thực là như thế. Những biện pháp mà chúng ta thường gọi là kinh tế như đào tạo chuyên môn, gởi sinh viên ra nước ngoài thực tập, khuyến khích hay hạn chế tín dụng, mở mang đường giao thông, xây dựng thương cảng, nhà kho, v.v... thực ra phải xuất phát từ nhu cầu thị trường và một phần lớn cũng phải do tư nhân làm chứ không do nhà nước tự ý quyết định và thực hiện một mình. Trong một sinh hoạt kinh tế thị trường, thông thường nhà nước chỉ có thể nghiên cứu, tiên liệu và thông tin cho doanh nhân để họ có thể quyết định đúng. Nhưng những điều này các công ty tư cũng có thể làm được, và thường nên để họ làm vì họ làm đúng hơn.

Một khi đã chấp nhận kinh tế thị trường, nhà nước chỉ còn rất ít việc phải làm vì mọi chọn lựa đều giản dị và rõ rệt, hầu như bắt buộc : phải khuyến khích sản xuất, nội thương, ngoại thương ; phải giản dị hóa công việc của doanh nhân, phải có thông tin kinh tế chính xác và kịp thời ; phải cố gắng trải đều hoạt động kinh tế trên khắp lãnh thổ thay vì tập trung vào một số địa phương, v.v... Chẳng cần gì một chính sách kinh tế, tất cả những việc đó đều hiển nhiên phải làm và phải làm tối đa. Làm thế nào là một chuyện khác, nhưng không còn là những vấn đề kinh tế nữa. Nếu có một bí quyết thì đó chỉ là bí quyết mà ai cũng biết, đó là phải đối thoại thường xuyên và đầy đủ với doanh nhân, để biết những yêu cầu và khó khăn của họ. Và nhà nước càng làm ít chừng nào càng tốt chừng ấy. Adam Smith từng được coi, có lẽ hơi oan, là sáng tổ của trường phái "cứ để họ làm" [laissez-faire], nghĩa là cứ để các tác nhân kinh tế tự tìm lấy cách làm việc rồi đâu sẽ có đó, sẽ có một bàn tay vô hình an bài tất cả một cách tốt đẹp. Không nên hiểu Smith một cách quá khích, "cứ để họ làm" không có nghĩa là "cứ để nó chết" hay "cứ để mặc chúng nó tàn sát nhau". Đó chỉ là một cách để nói rằng các tác viên kinh tế qua cọ sát và trao đổi thường ngày, mỗi người theo đuổi mục đích lợi nhuận riêng của mình, dần dần sẽ đi đến một thăng bằng trong đó mọi người đều có phần và đều đóng góp cho phát triển của xã hội ; nhà nước nên giới hạn ở mức tối thiểu những can thiệp của mình, nhất là không nên áp đặt những kế hoạch và mục tiêu. Như thế không có nghĩa là vai trò của nhà nước không quan trọng. Trái lại, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định thăng bằng đó sẽ như thế nào. Sẽ là một thăng bằng rừng rú trong đó kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu hay là một thăng bằng văn minh và nhân bản. Sẽ là một thăng bằng ở mức độ thấp hay cao. Nhưng đây không phải là một vấn đề thuần túy kinh tế, mà là một vấn đề văn hóa và chính trị.

Vai trò chính của nhà nước là vai trò của một trọng tài, bảo đảm pháp luật, trật tự và an ninh, diệt trừ tham nhũng và tạo những quan hệ ngoại giao tốt đẹp đồng thời thông tin chính xác về sinh hoạt kinh tế thế giới để giúp doanh nhân tìm thị trường và tránh những sai lầm tai hại. Muốn giúp doanh nhân tìm thị trường xuất cảng thì phải bổ nhiệm ở các tòa đại sứ những tùy viên thương mại có khả năng nhất, nhưng đó không phải là một vấn đề kinh tế mà chỉ là vấn đề làm việc đứng đắn, không tham nhũng, không phe đảng.

Kinh tế phát triển là do những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật làm gia tăng năng suất, nhưng gia tăng năng suất là một vấn đề của các chuyên viên trong các xí nghiệp.

Kinh tế cũng phát triển nhờ tìm được các thị trường mới hoặc cải thiện các thị trường có sẵn, trong cũng như ngoài nước. Nhưng trong một nền kinh tế thị trường cố gắng này là của các công ty chứ không phải của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh tế là tạo điều kiện để doanh nhân hoạt động dễ dàng và bảo đảm cạnh tranh công bằng. Chỉ có thế. Chấm, và chấm hết.

Những điều mà chúng ta thường coi là nằm trong một chính sách kinh tế thường thường là những việc chớ nên làm, thí dụ như nâng đỡ một ngành này, hạn chế một ngành khác, cho nhập cảng một loại hàng này, cấm nhập cảng một mặt hàng khác hay đánh thuế nặng một số mặt hàng. Những can thiệp đó làm lệch lạc đi qui luật thị trường và tạo ra những hậu quả tai hại gấp nhiều lần lợi ích trước mắt mà thường người ta chỉ khám phá ra sau khi đã quá trễ. Tại sao ? Bởi vì không ai có thể nắm vững được hết những liên hệ đan xen chằng chịt của một thị trường với hàng chục triệu đối tác, mọi tính toán đều chỉ có thể là giản đơn và do đó đều sai.

Việc khuyến khích phát triển các vùng nghèo khó thực ra cũng không nằm trong một chính sách kinh tế. Giải pháp cũng rất hiển nhiên : mở mang đường giao thông và viễn thông và tản quyền tối đa để doanh nhân có thể giải quyết mọi vấn đề thủ tục và hành chánh ngay tại chỗ. Lúc đó không cần khuyến khích doanh nhân cũng sẽ tìm đến những vùng nhà đất rẻ, nhân lực rẻ và dồi dào, thị trường chưa được cung ứng đúng mức.

Nhưng nếu kế hoạch không nên có, chính sách cũng không cần thiết thì vẫn còn lại vấn đề quản lý kinh tế. Ở đây vấn đề cũng khá giản dị và trong lô gích thị trường các giải pháp cũng khá hiển nhiên. Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước thực ra không có gì phức tạp.

Trước hết cần có luật lệ kinh doanh đúng đắn và giản dị. Đây có lẽ là điều khó nhất về mặt chuyên môn. Cần đối thoại thường trực với doanh nhân và các nghiệp đoàn để hiểu biết các vấn đề đặt ra cho các xí nghiệp và các ngành nghề ; cần hiểu biết luật lệ và thông tục thương mại quốc tế. Luật pháp một mặt phải thích nghi thường trực với thực tế nhưng mặt khác cũng không được thay đổi quá đột ngột, đặt doanh nhân trước những bất ngờ bối rối. Luật cũng phải được mọi người thấu hiểu và hiểu như nhau. Xét cho cùng thì cách để làm luật hay nhất vẫn là thảo luận tự do. Đó cũng là cách để mọi người biết đến luật và hiểu luật.

Vấn đề sau đó là áp dụng luật pháp một cách công minh, điều này cần những luật sư và những thẩm phán có khả năng và một bộ máy tư pháp không tham nhũng, nhưng đây không phải là một vấn đề kinh tế, mà là một vấn đề chính trị và đào tạo.

Vấn đề quan trọng thực sự là quản lý tiền tệ, nhưng ở đây kinh nghiệm đã chứng tỏ rằng giải pháp cũng khá hiển nhiên, chỉ cần áp dụng đúng đắn :

- Không nên áp đặt một hối suất cố định cho đồng tiền, trái lại nên thả nổi hối suất để nó thích nghi hàng ngày với thực tế, và như thế tránh được những đầu cơ trên hối suất ;

- Kiểm soát lãi suất căn bản (lãi suất chiết khấu) để giữ cho lạm phát đừng quá cao và cũng đừng quá thấp, đâu đó ở mức từ 3 tới 5% đối với một nước như Việt Nam. Tìm ra một tỷ lệ lạm phát thích hợp là một điều rất khó, chỉ có thể làm được sau một thời gian dò dẫm, một khi đã tìm được rồi canh chừng nó, nếu mức lạm phát lên cao hơn mức thích hợp thì tăng lãi suất chiết khấu, nếu mức lạm phát xuống dưới mức thích hợp thì giảm lãi suất chiết khấu.

Quản lý tiền tệ không phức tạp nhưng phải dò dẫm một cách thận trọng. Trên thực tế khuynh hướng chung của thế giới là không trao quyền phát hành tiền và quản lý lãi suất cho nhà nước mà trao cho một ngân hàng trung ương với một thống đốc và một hội đồng quản trị do chính phủ bổ nhiệm nhưng hoạt động độc lập, hay gần như độc lập, với chính quyền. Như vậy trách nhiệm quản lý kinh tế của nhà nước thực ra càng ngày càng nhẹ đi.

Vấn đề khó khăn nhất, và cũng hoàn toàn thuộc quyền của chính quyền, là quyết định mức thuế cho từng khoản lợi tức (lương bổng, lãi xí nghiệp, lời chứng khoán, v.v...) và cho từng ngành, từng mặt hàng. Ở đây cũng có một trường phái đòi giản dị hóa thuế bằng cách đánh một thuế suất gộp cho tất cả [flat tax]. Có thể đây chỉ là một sự giản dị hóa quá đáng và không thực tiễn nhưng ít nhất nó cũng chứng tỏ có một chiều hướng giảm thiểu vai trò quản lý kinh tế của nhà nước. Chính sách thuế tùy thuộc trước hết ở triết lý chính trị. Thuế là phương tiện để nhà nước thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của mình : bảo vệ lãnh thổ, an ninh quốc gia, công lý, giáo dục, y tế, và nhất là liên đới xã hội. Mức thuế cao thì doanh nhân sẽ chán nản, không phấn khởi đầu tư nữa và hoạt động kinh tế sẽ suy giảm kéo theo sự suy giảm của tổng sản lượng quốc gia và mức sống. Ngược lại, thuế không đủ (thế nào là đủ là một vấn đề khác) thì nhà nước sẽ không làm tròn được nhiệm vụ của mình, nhất là nhiệm vụ cứu trợ và liên đới, xã hội sẽ căng thẳng và hỗn loạn, trật tự trị an không được bảo đảm, giáo dục và đào tạo sẽ xuống cấp với hậu quả sau cùng là chính hoạt động kinh tế cũng sẽ suy sụp. Ở đây cũng thế, không có một lý thuyết nào cả, phải dò dẫm và rút kinh nghiệm mà thôi và chỉ có thể thay đổi một cách rất chậm chạp và thận trọng. Vấn đề xem ra có vẻ phức tạp, nhưng thực ra không phức tạp vì việc tăng hay giảm thuế thường thường chỉ ở mức độ một hay một nửa phần trăm.

Tóm lại, quản lý kinh tế là trách nhiệm thực sự và cần thiết của nhà nước, nhưng không phải là khó. Có thể nói một nhà nước chỉ bảo đảm được luật pháp, trật tự an ninh và nhất là không tham nhũng cũng đã rất tốt rồi.

Tuy nhiên có một vấn đề quan trọng liên quan đến triết lý chính trị là có nên tách rời trách nhiệm liên đới xã hội và hoạt động của các xí nghiệp hay không. Nói một cách khác, có nên buộc các xí nghiệp phải trực tiếp đảm nhiệm một phần công tác liên đới xã hội như qui định một số ngày huấn luyện nhất định trong năm, tôn trọng một số ngày nghỉ lớn (như năm hay sáu tuần lễ tại châu Âu), trả lương những ngày nghỉ bệnh, chịu một số ràng buộc trong việc sa thải v.v... hay không ?

Mọi xã hội văn minh đều phải đặc biệt quan tâm đến liên đới xã hội. Xã hội văn minh không thể từ chối cho người què một cặp nạng. Không một ưu tư phát triển nào có thể biện minh cho sự bỏ rơi những người nghèo khó, thương tật. Giúp đỡ những người yếu đuối hoặc thiếu may mắn để họ vươn lên đóng góp cho sự phồn vinh chung, không những chỉ là một phản xạ nhân bản mà còn là một hành động thông minh của cộng đồng quốc gia.

Dĩ nhiên là các xí nghiệp phải tham gia vào công tác liên đới xã hội, nhưng tham gia như thế nào và đến một mức độ nào tùy thuộc ở triết lý chính trị. Quan niệm của tôi là phải tách rời hai nhiệm vụ. Liên đới xã hội là trách nhiệm của nhà nước, bổn phận của các công ty là sản xuất thực nhiều và tìm lợi nhuận tối đa ; không nên bắt các xí nghiệp phải đảm nhận một nhiệm vụ không nằm trong chức năng tự nhiên của nó. Điều này có nghĩa là các qui định về trách nhiệm của các công ty phải thực sự là tối thiểu, phần còn lại là thỏa thuận giữa xí nghiệp và công nhân theo từng trường hợp. Nhà nước chỉ bảo đảm sự thực hiện đứng đắn của hợp đồng. Liên đới xã hội sẽ do nhà nước thực hiện với sự hợp tác của các tổ chức thiện nguyện thuộc xã hội dân sự. Và nhà nước đảm nhiệm chức năng liên đới xã hội của mình qua thuế. Nếu thấy cần tăng thêm các trợ cấp xã hội, nhà nước sẽ tăng thuế ; ngược lại, nếu thấy nhu cầu bớt căng thẳng nhà nước có thể giảm thuế. Và nhà nước sẽ phải có những sáng kiến để động viên xã hội dân sự đóng góp và tham gia vào các công tác liên đới xã hội.

Tới đây, để chấm dứt với huyền thoại về sự phức tạp và cao siêu của kinh tế, xin thêm vài ghi chú về lạm phát và thất nghiệp :

Các vấn đề quản lý kinh tế có thể rất nhức nhối nhưng đều giản dị về mặt lý thuyết. Riêng hai vấn đề lạm phát và thất nghiệp thường hay gây một số ngộ nhận, các ngộ nhận này lại thường được các nhà kinh tế khuếch đại ra trong mục đích làm cho mình có vẻ thông thái hơn. Hậu quả là quần chúng hoang mang và nghĩ rằng đó là những vấn đề rất phức tạp.

Khẩu hiệu thông thường là chống lạm phát, nhưng chống lạm phát không có nghĩa là đem tỷ lệ lạm phát xuống số không. Ở một mức độ thấp, lạm phát không những có lợi mà còn cần thiết. Thí dụ, một mặt, nhiều khi cần giảm lương công nhân trong một số ngành nghề đang suy thoái không còn khả năng sử dụng số lượng nhân công mà chúng đang sử dụng nữa để thúc đẩy các công nhân tự cố gắng di chuyển sang những hoạt động khác đang phát triển, có như thế sinh hoạt kinh tế mới năng động và không ngừng thích nghi với tiến hóa, có như thế kinh tế mới lành mạnh. Nhưng, mặt khác, các xí nghiệp không thể cắt giảm lương mà không gây bất mãn và xáo trộn. Giải pháp, cần thiết vì lý do tâm lý, là vẫn tăng lương mà thực sự là giảm. Ở một mức lạm phát 5%, xí nghiệp (và cả nhà nước) có thể tăng lương cho công nhân (hay công chức) 2%. Thực tế là lương đã giảm 3% và công nhân thấy rõ điều đó, nhưng sẽ không phản ứng giận dữ.

Khẩu hiệu thông thường cũng là toàn dụng, nghĩa là mọi người đều có công ăn việc làm, nhưng một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp, không cần phải ở số không, cũng làm cho các hoạt động kinh tế mất đi sự co giãn, và đưa tới bế tắc vì một mặt cản trở sự phát triển của các ngành cần công nhân, một mặt đưa tới tăng lương và lạm phát, chưa kể là còn không kích thích sự học hỏi và cầu tiến. Vả lại một tỷ lệ thất nghiệp thấp, ở mức 4% hay 5%, hoàn toàn có thể quản lý được trong một quốc gia đã dự trù các biện pháp liên đới xã hội.

Vậy phải nói một cách bộc trực là quốc gia nào cũng cần duy trì một mức lạm phát vừa đúng và một tỷ lệ thất nghiệp "thích nghi". Vấn đề khó là làm thế nào để định ra tỷ lệ lạm phát vừa đúng và tỷ lệ thất nghiệp thích nghi. Đây cũng không phải là một vấn đề lý thuyết mà chỉ là kết quả của một sự quan sát trong một thời gian dài. Hai tỷ lệ này thay đổi theo từng quốc gia, và trong mỗi quốc gia theo từng thời kỳ. Sau khi đã tìm ra các tỷ lệ này, dụng cụ chính để giữ lạm phát và thất nghiệp ở đó là lãi suất cơ bản. Một cách giản dị, trừ khi có những biến cố đặc biệt, khi lãi suất cơ bản được hạ thấp thì tín dụng và đầu tư sẽ gia tăng, kéo theo sự tăng trưởng của sản lượng quốc gia và số công ăn việc làm, nghĩa là sẽ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng tỷ lệ lạm phát. Ngược lại, khi lãi suất cơ bản tăng lên thì tín dụng và đầu tư sẽ giảm, lạm phát sẽ giảm nhưng hoạt động kinh tế cũng giảm và thất nghiệp sẽ tăng. Nhà nước, hoặc ngân hàng trung ương, phải hết sức thận trọng trong việc giảm lãi suất mặc dầu nó có tác dụng kích thích các hoạt động kinh tế vì kinh nghiệm ở mọi nước cho thấy chống lạm phát là một việc rất tốn kém, tốn kém gấp bội lợi ích có được vào lúc hạ lãi suất để kích thích tăng trưởng.

Cần lưu ý một sự kiện mà mọi chính quyền tại các nước phát triển đều biết nhưng không nhìn nhận : tỷ lệ lạm phát thay đổi chậm hơn so với tỷ lệ thất nghiệp. Do đó các ngân hàng trung ương thường quan sát tỷ lệ thất nghiệp để có thể hành động nhanh chóng. Khi cảm thấy tỷ lệ thất nghiệp xuống quá thấp so với "tỷ lệ thất nghiệp tối ưu", họ gia tăng lãi suất để nâng số người thất nghiệp lên. Dĩ nhiên mục đích tốt là để trả lại cho kinh tế mức độ co giãn cần thiết và tránh lạm phát, nhưng thực tế là họ đã căn cứ vào tỷ lệ thất nghiệp để canh chừng lạm phát và cố tình gia tăng mức độ thất nghiệp khi thấy nó xuống quá thấp. Điều này họ làm và phải làm nhưng không bao giờ dám công khai nhìn nhận vì đối với công chúng nó quá phũ phàng. Họ biện bạch loanh quanh. Hậu qua là cuộc thảo luận về kinh tế càng trở thành khó hiểu.

Những cuộc tranh cãi về kinh tế trong các nước dân chủ thường hay rất sôi nổi vì chúng đụng chạm tới túi tiền của mọi người, và do đó được chăm chú theo dõi, chúng cũng rắc rối vì phải dung hòa những quyền lợi mâu thuẫn, nhưng không phải vì chúng thực sự cao siêu và phức tạp.

*********************

 

Quốc gia, dân tộc

 

4-tqan23

Trên những khái niệm rất cơ bản về chính trị hầu như chúng ta không có cùng một ngôn ngữ. Thảo luận chính trị là điều khá mới đối với người Việt, nếu thêm vào đó chúng ta lại không đồng ý trên những khái niệm như quốc gia, dân tộc, nhà nước, v.v... thì cuộc thảo luận lại càng khó khăn.

Điều này thực ra không đáng ngạc nhiên lắm vì ít nhất hai lý do.

Lý do đầu tiên là do chính sự phức tạp của những khái niệm chính trị cơ bản, đó là những phát minh rất phức tạp của trí tuệ mà cho tới nay vẫn chưa có đồng thuận dứt khoát.

Lý do thứ hai là do cách tiếp cận của người Việt Nam (đúng ra là của người Trung Hoa mà người Việt bắt chước) đối với các khái niệm chính trị đến từ phương Tây. Cách tiếp cận này là lấy một từ ngữ được coi là tương đương của ngôn ngữ Trung Hoa để dịch một từ ngữ của phương Tây, trong khi những từ ngữ "tương đương" đó có thể chẳng tương đương chút nào vì chứa đựng hai khái niệm khác nhau, có khi còn ngược hẳn với nhau. Cách tiếp cận này đưa đến ngộ nhận cả trong các cuộc thảo luận lẫn trong cách suy nghĩ.

Một vài thí dụ :

Càng ngày tôi càng được đọc nhiều bài của các vị rất uyên thâm, trong đó từ ngữ "dân tộc" được kèm theo trong ngoặc đơn chữ nation. Các vị này muốn nhấn mạnh dân tộc có nghĩa là nation trong tiếng Pháp và tiếng Anh. Khi viết "dân tộc [nation]" chắc chắn tác giả rất tin tưởng về sự hiểu biết của mình và sợ người đọc không hiểu. Tuy nhiên cũng những vị này, có khi trong cùng một bài, lại dịch peuple, hay people, cũng là dân tộc, trong khi trong tiếng Pháp peuple và nation là hai khái niệm khác nhau.

Tôi cũng đã từng gặp nhiều vị dịch từ kép nation-state (hay État-nation) là "quốc gia dân tộc". Tôi tưởng tượng ra sự bối rối của những độc giả có đôi chút kiến thức chính trị. Cụm từ "quốc gia dân tộc" trong tiếng Việt từ trước đến nay vẫn chỉ là cách viết tắt của "quốc gia và dân tộc". Tranh đấu vì "quốc gia dân tộc" có nghĩa là tranh đấu cho quốc gia và dân tộc. Mỗi ngôn ngữ có những đặc tính riêng, một trong những đặc tính của tiếng Việt là hay tiết kiệm chữ "và" ; chúng ta hay nói "anh em họ hàng" thay vì "anh em và họ hàng". Tinh thần "quốc gia dân tộc" có nghĩa là tinh thần quốc gia và dân tộc. Từ kép nation-state (hay État-nation) có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Chúng ta sẽ còn trở lại trong đoạn sau.

Ngộ nghĩnh hơn nữa, nhiều vị còn chiết tự những danh từ chính trị theo chữ Hán. Chẳng hạn như nhiều vị giải thích danh từ "pháp luật" bằng cách giải nghĩa "pháp" là gì, "luật" là gì, v.v... trong khi khái niệm pháp luật của phương Tây và của Trung Hoa rất khác nhau, và tác giả đang nói về luật pháp theo nghĩa thông dụng đối với mọi người hôm nay, nghĩa là theo quan niệm phương Tây, do đó không thể chiết tự theo chữ Hán.

Chúng ta đã không quen với lý luận chính trị mà lại hiểu khác nhau những khái niệm cơ bản thì làm sao hiểu được nhau ? Như vậy chúng ta cần đồng ý với nhau trên ý nghĩa của một số từ ngữ trước khi muốn đồng ý với nhau về lập trường. Có thể sau khi đã đồng ý với nhau về từ ngữ, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng ta không có gì khác biệt.

Tôi sắp liều lĩnh đề nghị một số định nghĩa cho một số từ ngữ cần thiết cho các cuộc thảo luận chính trị. Liều lĩnh, bởi vì quốc gia, dân tộc, nhà nước, chủ quyền, v.v... là những ý niệm tuy thường gặp nhưng lại rất phức tạp. Đã có hàng trăm cuốn sách trong đó có những cuốn dầy cả ngàn trang đề cập tới những khái niệm này mà vẫn chưa sáng tỏ. Những đề nghị sau đây chỉ có thể là sơ sài. Tôi cũng tự giới hạn trong cái nhìn của một người dân chủ, nhưng điều này có lẽ cũng không thực sự là một giới hạn nếu ta hiểu rằng cái nhìn dân chủ là cái nhìn chung của cả thế giới hiện nay. Độc giả sẽ lưu ý là tôi dùng nhiều qui chiếu bằng tiếng Pháp hơn là tiếng Anh. Lý do là các dân tộc Anh và Mỹ nặng đầu óc thực nghiệm, không mất thì giờ để định nghĩa những ý niệm phức tạp về mặt lý thuyết. Họ cũng không có yêu cầu, bởi vì gần như họ không có tranh luận chính trị thực sự. Họ đã chấp nhận ngay từ đầu chủ nghĩa cá nhân tự do, với cái hệ luận tất yếu của nó là dân chủ thị trường, và không bao giờ phải đặt lại những vấn đề triết lý chính trị và chủ nghĩa. Đó là những dân tộc may mắn, nhưng cũng vì thế mà tư tưởng chính trị của họ không phong phú bằng Pháp, đất nước của các cuộc cách mạng và xung đột ý thức hệ.

Quốc gia

Trước hết là quốc gia, danh từ Việt Nam để dịch chữ nation, cả trong tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Quốc gia là một khái niệm rất trừu tượng được phát minh ra trong cuộc cách mạng Pháp để bao gồm một lãnh thổ, một chính quyền, một di sản văn hóa trong đó thông thường ngôn ngữ là chính, một lịch sử và một tập thể những con người chấp nhận lịch sử đó và di sản văn hóa đó, chịu sự chi phối của chính quyền đó và cùng xây dựng với nhau một tương lai chung.

Điều khó hiểu trong định nghĩa này là phần lớn các thành tố của quốc gia lại không chắc chắn. Quốc gia Hoa Kỳ chẳng hạn đã ra đời vào lúc hầu như chưa có lịch sử với nhiều di sản văn hóa khác nhau. Lãnh thổ có thể bị chiếm đóng, chính quyền có thể bị lưu vong hoặc tạm thời tan rã, ngôn ngữ có thể không phải chỉ có một, v.v... mà quốc gia vẫn có hoặc vẫn còn. Ngoại trừ dân tộc và ý định chia sẻ một tương lai chung hình như không có thành tố nào tuyệt đối phải có, mặc dầu nếu có cũng có thể làm rõ hơn sự hiện hữu của quốc gia. Một thành tố mạnh, thí dụ như di sản văn hóa, có thể bù lại cho sự yếu kém, hoặc ngay cả vắng mặt, của một hay nhiều thành tố khác.

Người ta có thể định nghĩa một quốc gia bình thường nhưng lại gặp bối rối lớn trong những trường hợp đặc biệt. Quốc gia trước hết là một khái niệm tinh thần và tình cảm, trong đó nguyện ước chia sẻ một tương lai chung có tầm quan trọng quyết định. Một quốc gia trong đó mọi người không theo đuổi một dự án tương lai chung, vì có nội chiến hay vì quốc gia bị đặt dưới quyền định đoạt tùy tiện của một số người trong khi đa số dân chúng không có tiếng nói trong những quyết định lớn, không còn là một quốc gia đúng nghĩa.

Đồng nghĩa với quốc gia là nước, đất nước, non sông hay tổ quốc được dùng tùy trường hợp.

"Nước" được dùng khi ta muốn nhấn mạnh đến yếu tố địa lý. "Về nước" có nghĩa là về lãnh thổ Việt Nam. Nước cũng được dùng khi muốn đề cập đến quốc gia một cách giản dị. Tương đương với nước trong tiếng Pháp là pays, trong tiếng Anh là country.

"Đất nước" được dùng để chỉ quốc gia một cách tình cảm. "Non sông" càng tình cảm hơn vì bé nhỏ và gần gũi hơn, cũng như "sơn hà", "sông núi".

"Tổ quốc" cũng tình cảm như đất nước, non sông, nhưng nhấn mạnh hơn về lịch sử và di sản văn hóa. Chính vì nó gợi lại lịch sử và tổ tiên, mà tổ quốc có tính thiêng liêng hơn, và do đó cũng xa cách hơn "đất nước". Tổ quốc, do đó, chỉ nên dùng trong những trường hợp đặc biệt trang trọng. (Dùng "tổ quốc" để đặt tên cho một tổ chức chính trị, nhất là một tổ chức bù nhìn như "Mặt Trận Tổ Quốc", là một sự thô bỉ).

Nhà nước

Đi kèm với quốc gia là nhà nước, danh từ của tiếng Việt tương đương với từ État của tiếng Pháp hay state của tiếng Anh. Chắc không khỏi có những độc giả xua tay phản bác : "Tầm bậy, quốc là nước, gia là nhà, quốc gia là nhà nước". Xin chớ nóng nảy, chúng ta đang nói tiếng Việt, và không phải tiếng Việt nào cũng phải rập khuôn theo chữ Hán. Máy bay trực thăng không đồng nghĩa với "máy bay lên thẳng" vì có những máy bay lên thẳng không phải là trực thăng. Trực thăng là loại máy bay lên thẳng và có quạt trên nóc. Người Việt Nam ta hiểu khá rõ thế nào là nhà nước. Đó là toàn bộ guồng máy chính quyền : lập pháp, tư pháp và hành pháp. Nói một cách giản dị đó là quốc hội, các tòa án, chính phủ và các cơ quan thuộc quyền điều khiển của chính phủ.

Nếu định nghĩa vật chất của nhà nước khá giản dị thì ý nghĩa và vai trò của nó lại rất phức tạp. Georges Burdeau, một trong những học giả nổi tiếng của nước Pháp về các định chế chính trị, từng nói rằng nhà nước là phát minh phức tạp nhất của loài người từ ngày khai thiên lập địa. Nhận định này không phải là quá đáng.

Đặc tính nổi bật của nhà nước là nhà nước là thực thể duy nhất trong quốc gia có quyền áp đặt một cưỡng chế thân xác trên con người. Nhưng đây là một đặc tính chứ không phải là một định nghĩa.

Nhà nước [État, State] đảm nhiệm vai trò đại diện toàn quyền và duy nhất cho quốc gia. Thế giới chỉ biết đến quốc gia qua nhà nước. Đối với quốc tế, nhà nước là quốc gia. Chính vì thế mà một số nước đã tự giới thiệu mình là État hay state. Trước đây chúng ta đã có Quốc Gia Việt Nam, được dịch ra là État du Vietnam, hay State of Viet Nam. Hiện nay có État d'Israel hay State of Israel, sắp tới có État Palestinien hay Palestinian State, có thể dịch là Quốc Gia Do Thái, Quốc Gia Palestine, nhưng thực ra là Nhà Nước Do Thái, Nhà Nước Palestine. Lý do khiến các quốc gia này hay xưng mình là État hay State thay vì nation là vì ý niệm nation vừa phức tạp vừa tình cảm mà lại thiếu sự xác nhận rõ rệt và mạnh mẽ là có một guồng máy chính quyền tự chủ.

Nếu sau hiệp ước Hạ Long năm 1948, ông Bảo Đại thay vì dùng cụm từ Quốc Gia Việt Nam đã dùng cụm từ Nhà Nước Việt Nam để dịch cụm từ "État du Vietnam" mà ông đã thỏa thuận với nước Pháp thì chúng ta đã tránh được sự lấn cấn này.

Một chức năng khác của nhà nước là có toàn quyền, theo luật định, trên khắp lãnh thổ. Một quốc gia chỉ có thể có một nhà nước. Trong trường hợp của các nước theo thể chế liên bang phải hiểu rằng quyền hành của các chính quyền tiểu bang là quyền được chính quyền liên bang chuyển nhượng. Nhà nước Hoa Kỳ là chính quyền liên bang. Trong trường hợp nước Mỹ, chúng ta lại gặp một sự lẫn lộn do lịch sử để lại là các bang cũng được gọi là state, nhưng đó không phải là những nhà nước cũng không phải là những quốc gia. Người Đức chỉ gọi các bang là các länder [vùng].

Một danh từ khác đáng lẽ đã có thể dùng để thay thế cho nhà nước là chính quyền. Trong tiếng Việt, thói quen cho đến nay là "chính quyền" thường được dùng để chỉ bộ máy hành pháp, đôi khi bao gồm cả các tòa án. Thực ra chính quyền và nhà nước chỉ là một.

Nhà nước - quốc gia

Sự lẫn lộn giữa nhà nước và quốc gia, do cách chuyển ngữ État, hay state, thành êquốc giaê đã khiến nhiều tác giả bối rối trước cụm từ État-nation (hay nation-state). Bối rối là vì État đã dịch là"quốc gia", nếu nation cũng là quốc gia thì không lẽ cụm từ nation-state là quốc gia-quốc gia hay sao ? Để tháo gỡ bối rối này, các vị dịch nation là dân tộc, như vậy cụm từ nation-state sẽ là "quốc gia dân tộc". Thế là xong ! Nhưng thực ra đây chỉ là tránh ngã xe đạp để rồi bị rớt máy bay vì cụm từ "quốc gia dân tộc" hoàn toàn chẳng có một liên hệ nào với nation-state. Nếu nhìn vào nội dung và tìm cách diễn tả nội dung thay vì chỉ tìm cách giải quyết vấn đề thuật ngữ chúng ta sẽ thoải mái hơn nhiều.

Nation-state (État-nation) có nghĩa gì ? Đây là một cụm từ chỉ mới xuất hiện trong ngôn ngữ chính trị gần đây mà thôi, từ khi khuynh hướng toàn cầu hóa xuất hiện đòi xét lại quyền hạn của các nhà nước để đi đến một thế giới đồng điệu hơn, với một luật pháp quốc tế và trong đó một số quyền hành của các nhà nước được chuyển giao cho các định chế cao hơn, hoặc quốc tế như Liên Hiệp Quốc, hoặc khu vực kiểu Liên Hiệp Châu Âu. Trong chiều sâu đây là một sự xét lại khái niệm quốc gia với nhận định rằng quốc gia không phải là đơn vị cao nhất đối với một con người, mà phải được đặt dưới một số định chế quốc tế. Khuynh hướng này gặp phản ứng của một số quốc gia muốn giữ tối đa bản thể và quyền tự quyết. Cụm từ nation-state, hay État-nation, trong đó state, hay État, là danh từ và nation đóng vai trò tính từ, xuất hiện để chỉ các nhà nước muốn giữ nguyên ý nghĩa quốc gia của mình. Nói một cách khác, đó là những nhà nước độc lập, những nhà nước giữ tối đa chủ quyền. Như vậy dịch cụm từ nation-state, hay État-nation, không có gì khó. Ta có thể dịch là nhà nước độc lập, nhà nước tự chủ, nhà nước toàn quyền, hoặc nhà nước - quốc gia, ba cụm từ này hoàn toàn đồng nghĩa. Nhưng dứt khoát không phải là "quốc gia dân tộc".

Những nhà nước đầu tiên ra đời đã là những nhà nước-quốc gia. Nhưng từ nửa sau thế kỷ 19 trở đi đã bùng ra một cuộc tranh cãi sôi nổi về các ý niệm quốc gia và nhà nước. Karl Marx tỏ ra đặc biệt tích cực trong cuộc tranh luận này. Một trong những sai lầm cơ bản của chủ nghĩa cộng sản là đã không đánh giá đúng vai trò của các nhà nước-quốc gia. Sự tập trung quyền lực trên toàn thế giới không những là điều không thể thực hiện được mà còn là điều không nên thực hiện vì nặng nề và trói buộc. Ngay cả những nước lớn cũng còn phải tản quyền thành những địa phương tự quản với một chính quyền trung ương làm công tác điều hợp. Thế giới đại đồng trong tương lai sẽ là thế giới của sự phối hợp giữa những quốc gia chung sống và hợp tác với nhau, cùng chia sẻ với nhau một số giá trị phổ cập và cùng chấp nhận một số qui ước chung chứ không phải thế giới trong đó các quốc gia bị xóa bỏ. Sự ra đời của những nhà nước-quốc gia thay thế cho những nhà nước quân chủ đã là là một biến cố trọng đại thúc đẩy tiến bộ. Các nhà nước-quốc gia đầu tiên đã hình thành tại phương Tây và đã đem lại cho các dân tộc phương Tây một sức mạnh hơn hẳn.

Ý niệm quốc gia, như một thực thể của chung thay vì của một người hay một nhóm người, đã động viên được sinh lực và sáng kiến của mọi người và đã khai sinh ra tổ chức nhà nước hiện đại. Khi đi chinh phục thế giới vào thế kỷ 18 và 19, sức mạnh chính của người phương Tây không phải là vũ khí và kỹ thuật hiện đại mà là tổ chức nhà nước hiện đại phục vụ cho một quốc gia được quan niệm như là không gian liên đới của một tập thể người có nhiều điểm chung và cùng xây dựng một tương lai chung. Quan niệm này khiến quốc gia vừa có ích vừa cần thiết, nó cũng đem lại cho nhà nước sự chính đáng và, do đó, sức mạnh.

Một chú thích. Cũng như tất cả mọi ý niệm mới, ý niệm quốc gia đã không tránh khỏi những tật bệnh trong quá trình hình thành và trưởng thành ; mà tật bệnh độc hại nhất là chủ nghĩa quốc gia [nationalisme] coi quốc gia như là cứu cánh duy nhất và không gian trách nhiệm duy nhất. Chủ nghĩa quốc gia đồng hóa sự thù ghét các dân tộc khác với sự quí mến dân tộc mình. Nó lẫn lộn tinh thần bài ngoại với lòng yêu nước, nó là một quan niệm hẹp hòi về dân tộc. Nhưng tật bệnh này ngày càng được nhận diện và điều trị, và một khi đã được điều trị xong, ý niệm quốc gia sẽ lấy lại được ý nghĩa thực sự của nó, sẽ đẹp hơn, mạnh hơn chứ không yếu đi.

Dân tộc

Còn dân tộc ? Cho đến nay mọi người Việt Nam có kiến thức Tây học đều đã đồng ý "dân tộc" tương đương với từ peuple của tiếng Pháp và people của tiếng Anh. "Dân" luôn luôn phải là người và chỉ có thể là người. Chưa thấy ai đặt lại cách dịch này. Vấn đề là một số học giả cũng dùng tiếng "dân tộc" để dịch chữ nation. Cách dịch này chắc chắn là sai vì trong tiếng Pháp nation và peuple là hai ý niệm rất khác nhau về mặt lý thuyết (trong tiếng Anh, sự khác biệt giữa "people" và "nation" không rõ rệt bằng). Chúng ta đều hiểu dân tộc là tiếng dùng để chỉ toàn bộ những con người của một quốc gia, nghĩa là những người chấp nhận đảm nhiệm cùng nhau một di sản và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Mặc dầu sự hiện diện của chữ "tộc", dân tộc không mang một nội dung huyết thống chủng tộc nào. Trong những yếu tố cấu tạo của quốc gia (lãnh thổ, nhà nước, lịch sử, di sản văn hóa, dân tộc và dự án tương lai chung) chắc chắn dân tộc là yếu tố hữu hình quan trọng nhất (cũng như dự án tương lai là yếu tố vô hình quan trọng nhất), nhưng không phải là tất cả. Đồng hóa dân tộc với quốc gia có thể là gần đúng về mặt sinh hoạt thường ngày nhưng rất sai về mặt lý thuyết như ta sẽ trở lại trong phần sau, khi đề cập đến chủ quyền.

Cần lưu ý là dân tộc, cũng như peuple, không phải chỉ là những công dân hiện có, mà còn có ý nghĩa vượt thời gian, ngược về quá khứ và nối dài về tương lai, để chỉ chung những con người đã, đang và sẽ thuộc về quốc gia. Khi ta nói đến "cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam" thì dân tộc là để chỉ chung một khối người từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 18.

Một danh từ tương đương với dân tộc là nhân dân. Cho đến nay "nhân dân" vẫn được dùng để chỉ dân tộc trong trường hợp ta muốn nhấn mạnh tới những người đang sống. Đôi khi nhân dân cũng được dùng kèm với một địa danh để chỉ tập thể những người dân trong một vùng. Chẳng hạn như "nhân dân Thái Bình". Đây có thể coi là một sự phong phú của tiếng Việt, nhưng về nội dung dân tộc và nhân dân không khác nhau.

"Dân" và "dân chúng" dùng để chỉ mọi người hay toàn bộ những con người sống dưới sự quản lý của một nhà nước. "Quần chúng" chỉ có nghĩa giản dị là khối đông người, thường được dùng để đối lại với một thiểu số chọn lọc.

Cần lưu ý một sự cẩu thả của chế độ cộng sản Việt Nam là họ dùng cả danh từ "dân tộc"â để chỉ các sắc tộc, như "dân tộc Kinh", "dân tộc Tày", "dân tộc Dao", v.v... để rồi đi đến nhận xét lúng túng "dân tộc Việt Nam gồm nhiều dân tộc", trong khi trong nhiều trường hợp họ lại quả quyết "dân tộc Việt Nam là một !". Sự cẩu thả còn đẻ ra một quái thai về ngôn ngữ : "người dân tộc", được dùng để chỉ những người thuộc một trong những sắc tộc ít người.

Chủ quyền

Còn chủ quyền [souveraineté] ? Như đã nói, khái niệm quốc gia [nation], dù đã hiện hữu bàng bạc từ lâu do sự sống chung của những con người trên cùng một lãnh thổ và chia sẻ cùng một số phận, chỉ được chính thức phát minh ra trong cách mạng Pháp 1789 vì nhu cầu trả lời câu hỏi chủ quyền, tức quyền cao nhất và bao trùm, thuộc về ai một khi chế độ quân chủ đã bị lật đổ ?

Trước đó Jean-Jacques Rousseau, thủy tổ đích thực của chủ nghĩa cộng sản, chủ trương rằng chủ quyền thuộc về dân tộc, hay nhân dân. Mới thoạt nghe, lập trường này có vẻ hợp lý nhưng đem ra thực hiện người ta nhận ra là nó đưa đến những hậu quả nguy hiểm.

Nếu nhân dân làm chủ thì hệ luận tất nhiên là phải làm thế nào để nhân dân trực tiếp cầm quyền. Nếu khối nhân dân quá đông thì nhân dân sẽ chỉ định ra, bằng cách này hay cách khác, những đại biểu thay mặt cho mình, nhưng theo triết lý "nhân dân làm chủ" mỗi đại biểu này phải hoàn toàn làm việc theo mệnh lệnh của người dân trong đơn vị đã chỉ định mình và có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào. Nhiều nhà tư tưởng trong cách mạng Pháp đã nhìn thấy mối nguy của triết lý chính trị này. Trước hết là quần chúng không đủ trình độ để quyết định những vấn đề khó khăn và phức tạp, kế đó là cơ quan quyền lực sẽ xung đột và tê liệt vì những đòi hỏi ích kỷ của địa phương, sau cùng và nguy hiểm nhất là nếu có một đảng mị dân hay khủng bố, hay vừa mị dân vừa khủng bố, nào đó khống chế được quần chúng thì họ sẽ nhân danh nhân dân nắm tất cả quyền hành, biến các đại biểu thành những con tin, và đưa đến độc tài toàn trị ; người dân sẽ mất tất cả mọi quyền, có thể kể cả quyền sống.

Từ đó nảy ra một cuộc tranh cãi, và tranh đấu, sôi nổi giữa một phe quá khích chủ trương chủ quyền dân tộc [souveraineté populaire] và một phe ôn hòa chủ trương chủ quyền quốc gia [souveraineté nationale]. Hậu duệ của phe chủ trương chủ quyền nhân dân không ai khác hơn là các đảng cộng sản và phát-xít, trong khi hậu duệ của phe chủ trương chủ quyền quốc gia là các chế độ dân chủ.

Theo quan điểm của trường phái dân chủ thì nhân dân không làm chủ, chủ quyền thuộc về một cái gì đó cao hơn cả nhân dân, bao gồm cả lãnh thổ, lịch sử, di sản văn hóa, chính quyền, dân tộc và dự án tương lai chung. Điều này có nghĩa là ngay cả nếu tất cả mọi người đồng ý, họ vẫn không có toàn quyền trên đất nước. Khối toàn dân này vẫn phải tôn trọng một số nguyên tắc. Các cử tri ở mỗi đơn vị không bầu ra đại biểu của đơn vị mình, mà chỉ được trao trách nhiệm chọn lựa một trong những đại biểu cho quốc gia. Một khi đã được bầu, người đại biểu là của quốc gia, không nhận mệnh lệnh của cử tri trong đơn vị mà được hoàn toàn hành động theo sự suy nghĩ của mình, các cử tri trong đơn vị không có quyền bãi nhiệm đại biểu trong suốt nhiệm kỳ. Những nhà tư tưởng dân chủ cho rằng phương thức này, một mặt, bảo đảm cho công việc chung được quản lý một cách thông minh và, mặt khác, tránh được nguy cơ chủ quyền bị một đảng chiếm đoạt. Trên thực tế, người đại biểu muốn được đơn vị mình tiếp tục tín nhiệm cũng phải lắng nghe và thỏa mãn nguyện vọng của các cử tri, người dân vẫn làm chủ, nhưng một cách tương đối và gián tiếp. Triết lý chủ quyền quốc gia còn một hệ luận khác, tuy lý thuyết nhưng rất quan trọng, là nhà nước (chính phủ và quốc hội) tuy xuất phát từ một đa số vẫn không thể tự coi là có thể hoàn toàn định đoạt một cách tùy tiện. Do đó các thiểu số vẫn phải được tôn trọng.

Ngược lại, đối với phe cộng sản, quốc gia chỉ là một phát minh của giai cấp tư sản nhằm chiếm đoạt quyền làm chủ của quần chúng vô sản cho liên minh tư sản-trí thức.

Một lần nữa, cần nhắc lại quốc gia là một ý niệm trừu tượng được phe dân chủ phát minh để giải quyết bài toán dân chủ.

Đến đây, xin lưu ý bốn điều :

Một là khái niệm quốc gia đã nảy sinh cùng với khái niệm dân chủ, hơi sau một chút thì đúng hơn. Trong một bài báo tôi đã viết như vậy và đã bị nhiều phản bác, nhưng quả thực là như thế. Các vương quốc trước đây, kể cả Việt Nam, không phải là những quốc gia thực sự, lãnh thổ không rõ rệt, người dân không chia sẻ một dự án tương lai chung nào cả mà chỉ chịu đựng ách thống trị được áp đặt bằng bạo lực. Các vương quốc đó có thể là bước đầu để xây dựng một quốc gia chứ chưa phải là những quốc gia.

Hai là cần lưu ý sự hụt hẫng của thói quen chiết tự. Cho đến nay chúng ta vẫn hiểu dân chủ một cách giản dị là dân làm chủ. Cũng đúng thôi, nhưng không đúng hẳn. Về lý thuyết, các chế độ dân chủ đã ra đời do sự phủ nhận "chủ quyền dân tộc" để thay thế bằng "chủ quyền quốc gia", nói một cách khác, theo triết lý dân chủ thì dân không làm chủ, quốc gia mới là chủ ; dân là thành phần chủ yếu của quốc gia, thay mặt quốc gia để chọn lựa phương thức tổ chức xã hội và chỉ định những người cầm quyền, nhưng không phải là quốc gia. Quốc gia là một sáng tạo của trí tuệ cao hơn dân tộc. Quốc gia là một khái niệm tinh thần và tình cảm.

Ba là cuộc tranh luận giữa hai trường phái chủ quyền dân tộc (cộng sản và phát-xít) và chủ quyền quốc gia (dân chủ) hiện nay tuy đã ngã ngũ trên thế giới (với sự toàn thắng của phe dân chủ) mà vẫn còn dai dẳng ở Việt Nam. Chúng ta có thể lưu ý sự phủ nhận khái niệm quốc gia của mọi chế độ cộng sản, kể cả chế độ cộng sản Việt Nam. Họ chỉ sử dụng từ ngữ dân tộc, hay nhân dân, hay quốc dân, trong ngôn ngữ chính trị : Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, kinh tế quốc dân, quân đội nhân dân, công an nhân dân, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Từ "quốc gia" mới chỉ được dùng gần đây và chỉ có nghĩa địa lý, tương đương với "toàn lãnh thổ", như "giải bóng đá quốc gia". Những người dân chủ cần lưu ý điểm này trong cuộc vận động tư tưởng hiện nay. Lấn cấn từ ngữ có thể đưa đến bối rối trong lý luận. Đảng cộng sản đã thống trị trong một nửa thế kỷ tại miền Bắc và một phần tư thế kỷ trên cả nước, di sản ngôn ngữ của họ chắc chắn là đáng kể, điều quan trọng là phải biết mình đang nói về cái gì.

Bốn là chế độ cộng sản Việt Nam còn đóng góp thêm cho sự hỗn loạn ngôn ngữ bằng khẩu hiệu "dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý". Thực ra, trong các chế độ cộng sản, nhà nước thực sự chính là bộ máy đảng. Nhà nước này đứng trên quốc gia và đứng ngoài pháp luật mà nó ban hành, trong khi nhà nước chính thức chỉ là công cụ của bộ máy đảng. Tách rời đảng và nhà nước là thay đổi hẳn bản chất của chế độ. Chính vì thế mà chủ trương tách rời đảng và nhà nước có lúc được nêu ra đã mau chóng bị bóp nghẹt.

Quốc gia, nhà nước và dân chủ

Như định nghĩa trên đây thì quốc gia là trên hết. Nhà nước tuy là đại diện toàn quyền nhưng cũng chỉ là công cụ của quốc gia với sứ mệnh phục vụ quốc gia. Như vậy dứt khoát nhà nước phải ở trong và ở dưới quốc gia. Nhưng đây chỉ là lý luận trong tinh thần dân chủ. Trên thực tế tùy ở bản chất của nhà nước mà nó cao hơn hay thấp hơn quốc gia.

Trong các chế độ quân chủ chuyên chính trước đây, chỉ có chính quyền của vua và những thần dân sống trên đất của vua chứ không có quốc gia đúng nghĩa. Nhà nước là tất cả và tất cả nhà nước qui vào vua.

Trong các chế độ độc tài, nhà nước định đoạt một cách tùy tiện. Nhà nước ban hành luật lệ nhưng lại không bị ràng buộc bởi chính các luật lệ đó. Vai trò của người dân hoặc bị phủ nhận (như trong các chế độ độc tài quân phiệt), hoặc bị thoán đoạt (như trong các chế độ cộng sản). Không làm gì có sự chia sẻ tự nguyện một tương lai chung, chỉ có một ước vọng chung là tự do và dân chủ, nhưng đó là một dự án tương lai chung bị cấm đoán. Nhà nước khống chế và ở trên quốc gia. Quốc gia, nếu có, cũng chỉ ở tình trạng thoi thóp.

Điều cần lưu ý là ngay trong các chế độ được coi là dân chủ chân chính như nước Pháp, tương quan giữa nhà nước và quốc gia cũng chưa rõ rệt. Các nhà tư tưởng chính trị Pháp vẫn còn đang đồng ý trên một điểm quan trọng, và trầm trọng, là vấn đề của nước Pháp vẫn còn là giảm nhẹ nhà nước xuống cho ngang hàng với quốc gia [réduction de l'État à la Nation]. Nhà nước Pháp vẫn chưa thực sự dân chủ, bởi vì nó vẫn còn quá nặng, quá lớn, quá tập trung và bởi vì quyền hành của tổng thống Pháp vẫn còn quá áp đảo. Chế độ tổng thống cộng với nhà nước tập trung đưa đến một chế độ có thể gọi là quân chủ cộng hòa, trong đó nhà nước ở trên quốc gia và áp đảo quốc gia. Kết luận này của các nhà tư tưởng Pháp thực đáng suy ngẫm.

Dân chủ thực sự chỉ đến khi nhà nước ở trong và ở dưới quốc gia với sứ mạng phục vụ quốc gia, có vai trò tạo điều kiện lý tưởng nhất để mọi người chia sẻ, hưởng ứng và cùng nhau xây dựng một tương lai chung. Nó phải nhẹ, phải tản quyền, phải kính trọng mọi người và liên tục mưu tìm đồng thuận của mọi người. Nói một cách khác, nó phải đa nguyên. Dân chủ thực sự là dân chủ đa nguyên. Đó là chế độ tương lai của loài người tiến bộ.

Đất nước ta

Tất cả phần trên chỉ là một sự ghi chép với đôi chút chủ quan, chẳng hạn như sự nhấn mạnh trên tầm quan trọng của một dự án tương lai chung trong định nghĩa quốc gia. Mong các vị học giả châm chước cho về một sự tóm lược quá đáng trên những khái niệm tự chúng vốn đã rất tế nhị mà lại còn bị ngôn ngữ chính trị thông thường làm mờ tối thêm.

Sau lời cáo lỗi thành thực đó, tôi cũng xin được có một ý kiến cá nhân về đất nước mình.

Sự phát minh ra khái niệm quốc gia (và nhà nước hiện đại dựa trên đồng thuận dân tộc mà nó đi kèm) đã là phát minh trọng đại nhất từ xưa đến nay của loài người. Nó đã được quan niệm như là một không gian liên đới của một cố gắng chung. Nó đã tạo ra sức mạnh của các nước phương Tây. Nhưng ngày nay các quốc gia tiên tiến đã đạt đến một mức độ phát triển ở đó sự cần thiết của quốc gia không còn là tuyệt đối nữa. Họ đang xét lại ý niệm quốc gia trong ý định đi một bước tiến xa hơn nữa.

Nhưng khái niệm quốc gia đã rất cần thiết và có ích cho một giai đoạn phát triển. Thảm kịch của chúng ta là chúng ta còn đang ở một giai đoạn phát triển rất cần quốc gia, nhưng chúng ta chưa hình thành nổi một quốc gia vào lúc ý niệm này đã sắp sửa bị vượt qua. Như vậy chúng ta vừa phải xây dựng một quốc gia vừa phải đúng hẹn với trào lưu tiến bộ của thế giới.

Công việc đã khó lại càng khó hơn vì phải nói người Việt chúng ta có rất ít suy tư về quốc gia và dân tộc. Chúng ta có lẽ là dân tộc duy nhất trên thế giới này gọi quốc gia là "nước". Đối với chúng ta, quốc gia vẫn chỉ giản dị là nước, là đất nước, là sông núi, quanh quẩn vẫn là đất và nước, những yếu tố hoàn toàn vật chất và địa lý. Điều này tố giác rõ rệt sự thiếu vắng của một tư tưởng chính trị và môt suy tư về quốc gia. Do đó tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của chúng ta dĩ nhiên là rất yếu. Chính vì lòng yêu nước của chúng ta quá yếu mà chúng ta vẫn chưa hình thành được một lực lượng dân tộc dân chủ có tầm vóc để chấp nhận thách đố của một đảng cầm quyền đã đưa đất nước từ đổ vỡ này đến thảm kịch khác. Đừng chạy trốn sự thực, có hiểu được bệnh của mình mới có hy vọng lành bệnh.

Người Việt Nam chúng ta rất cần một quốc gia, như là một không gian liên đới của một cố gắng chung, để nhờ đó cùng nhau vươn lên tới một cuộc sống phồn vinh và đáng tự hào. Và trong thế kỷ 21, với nhân quyền và dân chủ được coi như những giá trị cơ bản và phổ cập, sẽ chỉ tồn tại được những quốc gia không những được định nghĩa như một không gian liên đới, một tình cảm và một tương lai chung, mà còn phải thành công trong việc đem lại phúc lợi và niềm tự hào cho người dân. Nói một cách khác, những quốc gia thực sự dân chủ, đa nguyên và được quản lý một cách thông minh. Các quốc gia khác sẽ tan vỡ.

Hiện nay chúng ta chỉ có một chế độ độc tài, quản lý đất nước một cách tồi dở, với một dự án tương lai mà nhà nước áp đặt nhưng bị toàn dân khước từ là "xây dựng chủ nghĩa xã hội". Sự tồn vong của đất nước ta đang bị đe dọa nặng nề, không phải vì một ngoại bang nào dòm ngó xâm chiếm mà vì bị tụt hậu nhục nhã giữa trào lưu tiến bộ mãnh liệt của thế giới và vì, hơn thế nữa, dưới mắt người dân, quốc gia là một gánh nặng chứ không phải một chỗ dựa.

Chúng ta phải có dân chủ và phải có dân chủ thật mau chóng ; đấu tranh cho dân chủ là tên gọi mới của cuộc đấu tranh giữ nước. Chúng ta phải tiến và phải tiến nhanh, nghĩa là phải vượt lên trên mọi hận thù, chia rẽ và ngờ vực để động viên được mọi khối óc, mọi trái tim và mọi bàn tay Việt Nam trong một cố gắng chung ; hòa giải và hòa hợp dân tộc là tiếng kêu cứu khẩn cấp của tổ quốc lâm nguy.

***********************

 

Vài vấn đề về dân chủ

 

4-tqan24bis

Trong những trang trước, khi bàn về phát triển cũng như về những khái niệm quốc gia, dân tộc, chúng ta đã đề cập tới dân chủ.

Dân tộc ta đã là nạn nhân của sự thiếu vắng dân chủ nhưng lại chưa thực sự ý thức được sự cần thiết của nó. Điều đáng ngạc nhiên là ít ai ngạc nhiên về sự nghịch lý này, kể cả đa số trí thức. Cần nhấn mạnh trạng từ "thực sự" vì quả nhiên đại đa số người Việt, nếu không muốn nói là tất cả, muốn có dân chủ, nhưng đó chỉ là một ý muốn bàng bạc thôi. Nếu đem dân chủ cho không thì chúng ta vui vẻ chấp nhận, nhưng nếu phải trả một giá nào đó thì rất ít người sẵn sàng, dù cái giá đó vào thời điểm này chỉ rất vừa phải. Chúng ta chưa có dân chủ vì chúng ta chưa thực sự tin tưởng vào sự cần thiết của nó. Chúng ta chưa thấy nó quan trọng cho đời sống của chính chúng ta. Nếu chúng ta thực sự muốn dân chủ chúng ta sẽ có dân chủ.

Khi ngồi viết những dòng này, vào cuối năm 2000, tôi phải nhìn nhận một điều : chế độ cộng sản hiện nay dưới con mắt của một quan sát viên quốc tế khách quan không phải là một chế độ hung bạo. Độc tài, ngoan cố, lì lợm, gian trá thì đúng, nhưng đàn áp đối lập dân chủ một cách hung bạo thì không. Từ tháng Giêng 1996 đến nay, họ đã chỉ bắt giam một trí thức đối lập, Nguyễn Thanh Giang, trong vòng hai tháng, quản chế và sách nhiễu bốn người, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự và Mai Thái Lĩnh, và cắt điện thoại của khoảng hai mươi người. Theo tiêu chuẩn quốc tế đó không phải là một chính sách đàn áp dã man. Sự dã man đã có trước đây : chỉ vì phát biểu lập trường của mình mà Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Đình Huy, Lê Công Minh, Đinh Thế Vinh, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát và hàng trăm người khác đã bị xử những bản án rất nặng nề, chung thân, hai mươi năm tù, v.v... Nhiều người dân chủ khác như Phạm Quang Cảnh, Trần Thanh Đình, v.v. đã bị xử tử. Nhưng ngày nay sự hung bạo đã giảm rất nhiều. Chế độ cộng sản đã nhượng bộ trước dư luận thế giới hay họ đã chỉ nhận ra là phong trào dân chủ không nguy hiểm ? Đó còn là một câu hỏi, nhưng thực tế là hiện nay phong trào dân chủ yếu vì nó thực sự yếu chứ không phải vì bị đàn áp thẳng tay, và nó yếu vì ý thức dân chủ của chúng ta không mạnh.

Ý thức về dân chủ của người Việt Nam yếu kém là một điều không thể chối cãi. Tôi rủ một trí thức rất có trình độ và thiện chí tham gia vận động dân chủ và được trả lời là anh không thích chính trị, anh chỉ dồn hết cố gắng để tranh đấu cho nhân quyền. Trong cách suy nghĩ của anh, tranh đấu cho nhân quyền là điều trong sạch, gần như một công tác từ thiện, trong khi đấu tranh cho dân chủ là "làm chính trị" với tất cả những phức tạp và xấu xa như thủ đoạn, lòng tham, v.v... Một trí thức từ trong nước ra nói với tôi rằng người trong nước (ý anh ta muốn nói trí thức trong nước) chỉ quan tâm tới những vấn đề cụ thể như công ăn việc làm thôi, còn dân chủ thì ít ai nghĩ tới vì không thực tiễn.

Vậy vấn đề đầu tiên cần được đặt ra là dân chủ là gì ?

Tôi xin đưa một định nghĩa ngắn gọn, hiểu được cho mọi người và cũng được mọi người chấp nhận, dù các học giả uyên thâm có thể nghĩ là chưa đầy đủ : dân chủ là một cách tổ chức xã hội, nói khác đi một chế độ chính trị, trong đó các quyền tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử được tôn trọng.

Tất cả những quyền tự do này, và nhiều quyền tự do khác nữa, được qui định rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948 (và được Liên Hiệp Quốc đưa vào hiến chương). Như vậy bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng là bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Dân Chủ. Phân biệt nhân quyền và dân chủ là sai. Nhân quyền và dân chủ chỉ là hai cách nhìn của cùng một vấn đề. Nhân quyền là dân chủ dưới góc nhìn cá nhân, dân chủ là nhân quyền dưới góc nhìn quốc gia.

Đã là một cách tổ chức thì về phương diện triết lý dân chủ chỉ là một phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là làm thế nào để con người ngày một tự do hơn và sung túc hơn. Nói một cách huyïch toẹt thì cứu cánh là vừa có tự do vừa có tiền. Nếu có một phương thức nào khác cho phép đạt tới một mức độ tự do lớn hơn và một mức sống sung mãn cao hơn thì ta không bắt buộc phải chọn dân chủ. Nhưng dân chủ là kết quả của kinh nghiệm nhiều ngàn năm dò dẫm của loài người. Churchill đã nói một câu châm biếm bất hủ rằng dân chủ là chế độ chính trị dở nhất, trừ khi ta so sánh nó với mọi chế độ chính trị đã được biết tới. Cho tới nay dân chủ đã là chế độ chính trị duy nhất đem lại tự do và hạnh phúc, vậy thì cũng là một chọn lựa bắt buộc giữa những chế độ chính trị đã được thử nghiệm. Một điều bắt buộc phải có mà ta chưa có cũng phải được coi như một mục đích giai đoạn trước khi nhìn xa hơn. Ở thời điểm này chúng ta có quyền tiếp tục suy nghĩ về những phương thức khác hay hơn dân chủ để làm cho thế giới giàu đẹp và tự do hơn nhưng chúng ta không thể chấp nhận thái độ từ khước dân chủ, nhất là để ngoan cố duy trì một chế độ đã được thử nghiệm và đã thất bại.

Nhận định dân chủ chỉ là một phương tiện, hay một mục tiêu giai đoạn, là cần thiết cho chính cố gắng xây dựng dân chủ. Nếu ta coi tự do (và cái hệ quả đã được chứng minh của nó là phồn vinh) mới là cứu cánh thì chính quyền trước hết phải là một chính quyền tối thiểu đã. Chính quyền dân chủ, nghĩa là chính quyền tốt, cũng không bằng không có chính quyền nếu không thực sự cần thiết. Một chính quyền dù xuất phát từ những cuộc bầu cử tự do và lương thiện nhưng nếu can thiệp vào tất cả mọi địa hạt, qui định quá nhiều và đảm nhiệm quá nhiều sinh hoạt cũng là một chính quyền kềnh càng gây trở ngại cho người dân. Ý thức rõ ràng rằng tự do mới là cứu cánh chúng ta sẽ hiểu rằng chính quyền tốt nhất là chính quyền nhẹ nhất và nguyên tắc tiên quyết của một nhà nước là những gì người dân có thể làm được nhà nước sẽ không làm.

Cũng cần ý thức rằng nền tảng của tự do là sự hiểu biết, quyền tự do căn bản nhất là quyền được thông tin đầy đủ. Tự do thực sự là tự do trong sự hiểu biết chứ không phải tự do trong sự u mê. Trong thánh kinh Thiên Chúa Giáo, thượng đế đã tạo ra Adam và Eva, hai người nhởn nhơ trong vườn địa đàng trong sự ngu dốt, họ chỉ thành những con người tự do sau khi Eva rủ chồng ăn trái cây hiểu biết. Thượng đế đã chỉ tạo ra hai động vật, Eva đã tạo ra loài người.

Chúng ta đã nói, nhưng cần nhắc lại vì tầm quan trọng của nó, đặc tính đầu tiên của dân chủ là cho tới nay nó đã là thể chế duy nhất đem lại tự do và sung túc. Sự thực hiển nhiên này thực ra mới chỉ hoàn toàn sáng tỏ trước mắt mọi người từ hơn một thập niên nay sau khi phong trào cộng sản thế giới sụp đổ. Trước đó những thành quả ngoạn mục của các chế độ phát-xít Nhật, Đức, Ý, rồi các chế độ cộng sản, nhất là Liên Xô, có lúc đã làm một số khá đông người tin rằng một chế độ độc tài thông minh có thể đem lại một nhịp độ phát triển nhanh hơn. Thực ra những "thành tích ngoạn mục" của các chế độ độc tài, phát-xít và cộng sản, ngay cả khi có thực, cũng chỉ là những bịp bợm nếu được đồng hóa với phát triển kinh tế. Về bản chất đó là sự gia tăng của đầu ra [output] hậu quả của sự gia tăng của đầu vào [input]. Cố gắng lớn hơn đã đưa tới kết quả lớn hơn chứ không phải bộ máy đã hiệu lực hơn. Trong hầu như mọi trường hợp, cố gắng quá lớn về nhân lực và tài nguyên còn đưa tới sự kiệt quệ sau đó. Tần Thủy Hoàng đã xây được Vạn lý Trường Thành, các vua Ai Cập đã xây được những kim tự tháp chỉ nhờ áp đặt những hy sinh tàn bạo ; chế độ Liên Xô sau này đã bắn được nhiều vệ tinh vào không gian và chế ra hàng ngàn đầu đạn nguyên tử nhờ những đầu tư quá sức chịu đựng của Liên Xô. Tất cả những "thành quả" ấy đã được xây dựng trên máu và nước mắt và đã làm kiệt quệ tiềm năng quốc gia. Các chế độ bạo ngược chà đạp lên tự do đã đành nhưng cũng không đem lại phát triển. Phát triển là gia tăng đầu ra ở một tỷ lệ lớn hơn so với gia tăng của đầu vào, nghĩa là không những gia tăng đầu tư mà còn gia tăng năng suất nhờ một cách làm việc hay hơn.

Đặc tính quan trọng thứ hai của dân chủ là hầu như mọi suy tư lớn về dân chủ đã xuất hiện như một sự phản bác đối với chế độ đương hành. Platon, nhà tư tưởng dân chủ đầu tiên, thực ra đã lý luận về dân chủ để phản bác chế độ dân chủ sơ khai được hình thành một cách ngẫu nhiên tại Hy Lạp. Ông định nghĩa dân chủ như sau : "Dân chủ đến sau khi những người nghèo lật đổ những người giàu, tàn sát một số, lưu đày một số và giữ lại một số khác. Đó là chính quyền của người nghèo". Với một nhận định khinh bỉ như vậy dĩ nhiên Platon đề nghị một chế độ khác mà ông cho là lý tưởng hơn, đó là chế độ cộng hòa đặt dưới sự lãnh đạo của những hiền triết. Tuy phản bác dân chủ như nó xuất hiện vào thời điểm của ông, nhưng thực ra Platon đã đóng góp nhiều ý kiến quí báu cho dân chủ sau này. Các nhà tư tưởng dân chủ tại La Mã và tại châu Âu sau này cũng đã lên tiếng để phản bác các chế độ đương thời của họ. Những người đấu tranh cho dân chủ ở mọi nước hiện nay cũng không khác. Như vậy một nét đặc thù cần được ghi nhận của dân chủ là nó có sự năng động riêng của nó. Do bản chất phản bác của nó, dân chủ luôn luôn nhận ra và sửa đổi những sai lầm của chính nó. Nhờ khả năng tự phê phán và điều chỉnh đó, một mặt ta không lo các xã hội dân chủ sẽ thỏa mãn và dừng lại ở một lúc nào đó, nghĩa là sẽ không có sự chấm dứt của lịch sử như Francis Fukuyama tiên đoán, và mặt khác cũng không cần lo sợ sẽ có "dân chủ quá độ".

Đặc tính quan trọng thứ ba của dân chủ là những cuộc tranh luận về dân chủ tự chúng đã rất có lợi cho xã hội. Thảo luận về dân chủ là thảo luận về công việc quốc gia, nhờ đó, một mặt, người dân hiểu được việc nước và cảm thấy gắn bó với đất nước, mặt khác, họ cũng qua đó mà hấp thụ được nhiều kiến thức mà họ khó có thể có một cách khác. Tôi xin dẫn chứng một kinh nghiệm mà cá nhân mình đã sống. Nhóm Thông Luận chúng tôi mặc dầu đại bộ phận là thành phần được gọi (hay bị gọi) là trí thức khoa bảng nhưng phần lớn là kỹ sư. Chúng tôi chỉ có rất ít chuyên viên về luật. Về luật hiến pháp chúng tôi lại càng thiếu. Năm 1995, để chuẩn bị cho việc tu chỉnh Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên 1996, chúng tôi quyết định thảo luận và biểu quyết một cách dân chủ việc đề nghị một định chế chính trị cho Việt Nam trước các đại hội thành viên. Nhiều người cho đây là một quyết định liều lĩnh và phiêu lưu vì anh em phần đông có rất ít kiến thức về các định chế chính trị và có thể biểu quyết không đúng. Chúng tôi đã có rất nhiều cuộc thảo luận sôi nổi và chính nhờ những cuộc thảo luận này mà kiến thức chính trị trung bình của tổ chức cao hẳn lên. Phải hơn một năm sau chúng tôi mới đi đến đồng thuận nhưng sau đó tôi nhận xét là sự hiểu biết của nhiều bạn tôi về các định chế chính trị còn hơn cả một số vị mà trước đó chúng tôi coi là chuyên viên về hiến pháp. Tôi khám phá một cách thích thú một điều không ngờ là phúc lợi của dân chủ càng lớn khi quần chúng thiếu hiểu biết về chính trị. Chính khía cạnh mà nhiều người coi là tiêu cực của dân chủ, nghĩa là những cuộc thảo luận triền miên do sự thiếu hiểu biết, lại là khía cạnh tích cực nhất, bởi vì sau đó là một bước nhảy vọt của sự hiểu biết, và sự hiểu biết là nền tảng của tiến bộ.

Đặc tính thứ tư của dân chủ, đã được đề cập tới trong một chương trước nhưng vẫn cần nhắc lại, là nó là điều kiện không có không được để có thể nói tới quốc gia hay lòng yêu nước một cách đúng đắn. Khi đất nước đã bị chiếm đoạt làm của riêng dưới quyền định đoạt tùy tiện của một người hay một nhóm người thì dân chúng không còn lý do gì để phải lo âu cho đất nước cả. Lý do thật giản dị : "đất nước đã là của riêng anh thì anh cứ lo liệu lấy một mình, tôi đã không có quyền thì cũng chẳng có bổn phận. Chưa kể là nếu anh chà đạp tôi thì tôi còn phá cho bõ ghét, không phá công khai được thì tôi cũng phá ngầm".

Các chế độ độc tài như vậy hủy diệt ý thức quốc gia và lòng yêu nước. Di sản độc hại nhất của các chế độ cộng sản chính là sự phá hoại này. Một thí dụ : ai cũng biết nước Nga ngày nay đang bị khủng hoảng tài chính rất nặng và hầu như không có lối thoát. Tuy nhiên rất ít người biết rằng đó là một cuộc khủng hoảng tài chính rất kỳ cục : nước Nga thiếu tiền trong khi vẫn xuất siêu (xuất cảng nhiều hơn nhập cảng) một cách liên tục và ở một mức độ rất cao. Trên nguyên tắc tình trạng đó phải đưa tới một sự dồi dào ngoại tệ, nhưng ngược lại ngân quỹ nhà nước Nga lại thiếu ngoại tệ một cách cực kỳ bi đát, ngân sách trống rỗng đến nỗi không trả được cả lương công chức. Đó là vì người Nga hoàn toàn không còn tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, họ coi trốn thuế và gian lận thuế như một môn thể thao lành mạnh. Những người có tiền thì cất giấu trong nhà hoặc tại các ngân hàng ngoại quốc. Nước Nga rộng lớn mênh mông như vậy nhưng cũng là một trong những nước mà môi trường bị hủy hoại trầm trọng nhất bởi vì người Nga thiếu tinh thần quốc gia và do đó hành xử một cách vô trách nhiệm.

Các chế độ độc tài còn tạo ra một mối nguy khác là, để động viên dân chúng trong sự thiếu vắng của lòng yêu nước, chúng thường khơi dậy tinh thần dân tộc hẹp hòi, nghĩa là sự thù ghét người khác, để thay thế cho lòng yêu nước, nghĩa là sự yêu mến và gắn bó với dân tộc và đất nước mình. Tinh thần dân tộc hẹp hòi này ngăn cản những hợp tác lành mạnh giữa các quốc gia và là một đe dọa cho hòa bình.

Sau cùng, cần lưu ý đặc biệt là các chế độ cộng sản đã phản bội chính lý tưởng cộng sản. Trong cuộc thảo luận sôi nổi về dân chủ ở thế kỷ 19, vấn đề trọng tâm là làm thế nào để thực hiện dân chủ. Những lý thuyết gia cộng sản tiên khởi, kể cả Karl Marx khi ông chưa bị lão hóa, không hề đặt lại nguyên tắc cơ bản của dân chủ (tự do ngôn luận, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử). Họ chỉ cố gắng tìm một phương thức để bảo đảm dân chủ thực sự, nghĩa là dân chủ cho những người nghèo khổ, chiếm đại đa số lúc đó. Lý luận của họ là những người nghèo và thiếu kiến thức sẽ không có khả năng, cả tinh thần lẫn vật chất, để sử dụng các quyền tự do mà họ được hưởng trên lý thuyết và như thế chính quyền cuối cùng vẫn ở trong tay một thiểu số giàu có. Từ đó họ chủ trương tập thể hóa các phương tiện sản xuất và phủ nhận quyền tư hữu để bảo đảm sự bình đẳng thực sự về chính trị. Về cơ bản những ý kiến của họ nhằm cải tiến chứ không phủ nhận dân chủ. Trong hai hướng để tăng cường dân chủ, một hướng là nâng cao các quyền tự do chính trị và một hướng thứ hai là mở rộng dân chủ cho thật nhiều người, họ đã đặt trọng tâm vào hướng thứ hai và coi nhẹ hướng thứ nhất. Họ vấp vào hai sai lầm cơ bản, một về chính trị và một về kinh tế. Về chính trị, họ không nhận thức được rằng dân chủ là một chế độ mới và sẽ còn thay đổi không những về hình thức mà còn cả về nội dung quyền lực chính trị, họ đã quá nóng vội. Về kinh tế, họ nhìn hoạt động kinh tế như một trò chơi với tổng số cố định người này được người kia phải thua ; họ không nghĩ là mọi người đều có thể cùng tiến lên sự sung túc ; họ không thể tưởng tượng một xã hội trong đó những người thất nghiệp cũng sẽ có xe hơi. Họ lầm, nhưng dứt khoát họ không phủ nhận dân chủ. Trong đầu óc họ không có độc quyền báo chí của nhà nước, không có những cuộc bầu cử bịp bợm với kết quả định sẵn, không có những nhà tù chính trị, không có việc cấm đoán các hội đoàn. Các chế độ cộng sản sau này thực ra chỉ là một sự thoán đoạt, sau khi đã phản bội, những tư tưởng của các nhà lý thuyết cộng sản đầu tiên.

Bây giờ hãy bàn về một số lấn cấn của người Việt Nam chung quanh vấn đề dân chủ.

Dân chủ sẽ đưa tới hỗn loạn ! Lập luận này được đảng cộng sản đưa ra như một sự thực hiển nhiên không cần chứng minh và được một số người chấp nhận một cách thụ động. Nhưng nó chỉ là một lập luận lỗ mãng, bất chấp cả lý luận lẫn thực tại đất nước.

Hiện nay nước ta đang hỗn loạn và - hơn thế nữa - đang rất hỗn loạn. Trộm cướp hoành hành như chỗ không người. Buôn lậu có kho nhà nước, tàu chiến, xe tăng. Móc ngoặc, tham nhũng, hối mại quyền thế trở thành một nếp sống. Cây rừng, bờ biển, danh lam thắng cảnh, ngay cả di tích lịch sử bị phá hủy một cách vô tội vạ. Chưa kể loạn sứ quân, bắt người tùy hứng, giam giữ, tra tấn. Ngoại trừ chính sách khủng bố chính trị, Việt Nam đang ở trong một tình trạng gần như vô chính phủ.

Kinh nghiệm sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam và những trao đổi với những người đã trưởng thành và làm việc trong các chế độ độc tài khác cho tôi một kết luận rất rõ rệt : không cứ gì Việt Nam mà mọi chế độ cộng sản, nói chung mọi chế độ độc tài, đều rất hỗn loạn. Một người có thể vượt đèn đỏ, đánh vợ con, đả thương trầm trọng đồng nghiệp, gây mất mát nặng nề cho cơ quan mình, phóng uế bừa bãi, v.v... mà chỉ bị cảnh cáo, hay phạt qua loa. Các chế độ độc tài dung túng sự vô kỷ luật và vô trách nhiệm để bù lại sự thiếu tự do, họ chỉ thù ghét những phát biểu đứng đắn của trí tuệ, chứ không thù ghét những tệ đoan xã hội.

Dân chủ không đưa tới hỗn loạn, trái lại nó đem lại luật chơi rõ ràng minh bạch, nó bảo đảm công lý và luật pháp, nó đem lại tinh thần trách nhiệm vì nó cho phép mọi người có chỗ đứng và tiếng nói trong việc nước. Nó đem lại trật tự trong đầu óc con người và trong xã hội.

Dân chủ không có lợi cho phát triển kinh tế ! Một xác quyết nông cạn phát xuất từ ngộ nhận về bản chất của dân chủ do sự nhận diện hời hợt hoặc gian trá về những lúng túng của một số quốc gia trong giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ. Dân chủ không phải là chiếc đũa thần giải quyết mọi vấn đề và đem lại phồn vinh. Dân chủ không thay thế cho những chính sách và những con người. Dân chủ là một phương thức sinh hoạt cho phép đặt vấn đề một cách đứng đắn, tìm giải pháp một cách đứng đắn và chọn lựa một cách đúng đắn những người trách nhiệm. Tự nó, dân chủ không giải quyết một vấn đề nào cả, nhưng không có dân chủ thì không có vấn đề nào có thể giải quyết được một cách đứng đắn. Chính vì thế mà mức độ dân chủ quyết định giới hạn cho phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Chính vì thế mà các nước giàu mạnh đều là các nước dân chủ trong khi các nước độc tài đều chậm tiến.

Khuyết tật của thái độ "thực tiễn" cho rằng nên gác lại những đòi hỏi chính trị để tập trung cố gắng vào vấn đề phát triển kinh tế rồi chính phát triển kinh tế sẽ đem lại dân chủ chính là ở chỗ nó không thực tiễn : chấp nhận độc tài để hy vọng phát triển kinh tế người ta sẽ chỉ có độc tài mà không có phát triển.

Dân chủ không đem cơm áo và hạnh phúc để phát không. Dân chủ không bố thí. Nó tạo ra những con người tự do và trách nhiệm, làm chủ đời mình, phát huy được khả năng và sáng kiến của mình để xây dựng đời mình và đất nước mình. Chính vì thế mà dân chủ đã giải tỏa được sinh lực quốc gia và đem đến sự phồn vinh. Chính vì thế mà dân chủ mới đẹp.

Dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với các nước thiếu mở mang ! Quả là một thái độ miệt thị và kỳ thị chủng tộc. Ở miệng những người thuộc các quốc gia thiếu mở mang, nó còn là một sự mạ lị chính mình một cách ngu ngốc. Dân chủ không phải là một xa xỉ phẩm đối với bất cứ một dân tộc nào. Khi các dân tộc phương Tây bắt đầu dân chủ hóa, họ ở một mức độ kinh tế, xã hội và dân trí còn kém xa chúng ta ngày hôm nay. Riêng người Mỹ chưa hề biết một chế độ nào khác hơn là dân chủ, họ bắt đầu dân chủ từ những con người đến từ nhiều nguồn gốc và phong tục, thiếu thốn tất cả, kể cả văn hóa và đồng thuận. Nhờ có dân chủ họ đã tạo ra quốc gia hùng mạnh nhất trái đất.

Nhưng dân chủ có thể là một xa xỉ phẩm, và trên thực tế, dân chủ đã từng là xa xỉ phẩm trong nhiều trường hợp. Dân chủ bịp bợm quả nhiên là một trò chơi vô cùng tốn kém và là một gánh nặng. Trái lại dân chủ thành thực là một dụng cụ quí giá. Những người cầm quyền cho rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm thực ra chỉ có ý định dàn dựng một thứ dân chủ bịp bợm.

Dân chủ thành thực không nhất thiết là dân chủ hoàn chỉnh, mức độ hoàn chỉnh của một nền dân chủ tăng lên với thời gian, cùng với mức độ phát triển và dân trí ; nhưng một nền dân chủ thành thực vẫn có những thành tố tối thiểu của nó : tự do ngôn luận, đa đảng và bầu cử tự do. Kinh nghiệm cá nhân qua những trao đổi đã cho tôi một nhận định là tất cả những người lo âu một cách lương thiện rằng dân chủ có thể là một xa xỉ phẩm khi dân trí còn thấp đều làm một sai lầm chung : họ trừu tượng hóa dân chủ. Nếu thay vì đặt câu hỏi : "Việt Nam có thể có dân chủ không ?", họ đặt những câu hỏi cụ thể như "có nên có tự do ngôn luận không, có nên có bầu cử, tự do lập hội không, v.v...", họ sẽ không còn băn khoăn.

Cũng không nên cuồng tín và quá khích. Phải thực tế mà nhìn nhận dân chủ sẽ không thể đem lại tất cả mọi phúc lợi của nó trong một tình trạng dân trí chưa mở mang. Nhưng điều cần phải ý thức một cách rất rõ rệt là dù trong hoàn cảnh nào dân chủ cũng hơn xa độc tài.

Dân chủ tự nhiên sẽ tới ! Nếu dễ dàng như vậy thì tại sao mặc dầu mọi nước dân chủ đều giàu mạnh nhưng chỉ có một số ít dân tộc có được dân chủ ? Dân chủ là một điều quí giá cho nên nó không tự nhiên mà mọc lên như cỏ dại mà phải tranh đấu để có. Các nước dân chủ phương Tây, mà đa số người Việt Nam mơ ước, đã phải tranh đấu cam go lắm mới có được dân chủ như ngày nay và họ vẫn còn rất cảnh giác bảo vệ nền dân chủ đã tranh thủ được. Ở đâu và bao giờ cũng thế, khuynh hướng chuyên quyền độc đoán luôn luôn là một cám dỗ mạnh. Nếu chúng ta không phấn đấu mà chỉ ngồi chờ để có dân chủ thì chắc chắn chúng ta sẽ chỉ có cái ngược lại của dân chủ.

Cũng chớ nên lạc quan mà nghĩ rằng dân chủ sẽ tới nhờ áp lực của đà tiến chung của thế giới. Nhưng áp lực này có thể đem đến dân chủ nhưng cũng có thể làm sụp đổ chính quốc gia. Vấn đề là chúng ta có đủ thì giờ không, đất nước ta có thể tồn tại được cho đến khi có dân chủ hay không ? Như đã nói ở một phần trước của cuốn sách này, ý niệm quốc gia dân tộc đang bị công phá một cách gay gắt. Sẽ chỉ còn lại trong thế kỷ 21 những quốc gia được xây dựng trên một đồng thuận, nghĩa là những quốc gia có dân chủ. Các quốc gia khác sẽ tan vỡ trong hỗn loạn. Với đà tiến hóa dồn dập hiện nay sự tan vỡ có thể là rất nhanh chóng. Chần chừ mãi trong cố gắng xây dựng dân chủ chúng ta có thể sẽ không còn quốc gia trước khi đạt tới dân chủ. Không cần phải là một nhà thông thái mới thấy được nguy cơ này, chỉ cần một chút quan sát và suy nghĩ lương thiện.

Có cần một kết luận cho cuộc mạn đàm chung quanh vấn đề dân chủ này không ? Có lẽ không, nhưng thay vào đó là một nhận định về sự khó khăn của cuộc thảo luận về dân chủ, và về chính trị nói chung. Khó ở chỗ người Việt Nam hình như có một bản năng tự tin ghê gớm về lý luận chính trị. Nhiều người, kể cả những trí thức có tầm vóc, có thể tin chắc như đinh đóng cột vào những lập trường không được xây dựng trên một cơ sở hiểu biết đúng đắn nào, và ở mỗi giai đoạn lại có thể tin chắc như đinh đóng cột vào những lập trường khác nhau. Những xác quyết cứ tự nhiên mọc ra, lúc nào cũng tuyệt đối, và không cần được xây dựng trên một vốn hiểu biết nào. Người Việt Nam chúng ta, kể cả trí thức, thật rất vô lễ đối với kiến thức

Một vị đàn anh của tôi, tốt nghiệp cùng trường nhưng trước nhiều năm, cách đây ba mươi năm thuyết phục tôi tham gia phong trào trung lập của anh. Anh quả quyết chỉ có con đường đó là cứu vãn được đất nước, anh cũng quả quyết phải đấu tranh rất cam go chứ không thể khoanh tay chờ đợi. Lập trường của anh không dựa trên một hiểu biết đặc sắc nào. Có lẽ anh chỉ tình cờ đọc được một cuốn sách hay một vài bài báo và nghĩ rằng đó là những kiến thức không ai có. Nhưng tôi không thảo luận được với anh vì anh quá quả quyết trong những ý kiến của mình. Sau đó tôi về Việt Nam, còn anh, người đã thuyết phục tôi phải dấn thân tranh đấu cam go, vẫn ở lại Pháp. Hơn ba mươi năm sau tôi gặp lại anh và lần này cũng không thảo luận được với anh vì anh lại tin tưởng chắc nịch vào một chân lý mới là cách làm chính trị hay nhất là đừng làm chính trị ! Anh nói bằng tiếng Pháp : "La meilleure politique, c'est pas de politique du tout !". Anh coi những hoạt động của tôi chỉ có hại vì "các anh càng đòi dân chủ đảng cộng sản càng chống dân chủ, cứ để mặc họ, họ sẽ tự động dân chủ hóa".

Cái nghiệp hoạt động chính trị nhiều khi cũng éo le. Biết tôi có chút ít hoạt động, nhiều người thường hay muốn gặp tôi để trình bày những con đường cứu nước mà họ đã khám phá ra. Có người vẽ ra những vòng tròn, có người vẽ ra những hình tam giác, có người giảng giải cho tôi về lẽ tuần hoàn của trời đất, có người nói chỉ có triết lý đạo Phật mới là nền tảng vững chắc xây dựng đất nước, cũng có người quả quyết rằng đạo Cao Đài là con đường bắt buộc của Việt Nam. Những người này đều giống nhau ở một điểm là họ cho những điều họ nghĩ là hoàn toàn đúng và do đó không thể nghe một lập luận nào khác.

Một người mệt mỏi chỉ có thể nói chứ không thể nghe, vì nghe đòi hỏi sức khỏe và sự tỉnh táo. Có lẽ chúng ta là một dân tộc đã quá mệt mỏi sau nhiều đổ vỡ và mất mát. Và chính sự mệt mỏi này đã là lý do đầu tiên khiến chúng ta khó thảo luận với nhau về các vấn đề chính trị mà đặc điểm chung là bề mặt có vẻ như rất đơn giản trong khi trong chiều sâu chúng rất phức tạp.

Lý do thứ hai gây khó khăn, và đôi khi hỗn loạn, cho các cuộc thảo luận chính trị là chúng ta không ý thức được rằng muốn lý luận chính trị một cách đúng đắn cần qua một giai đoạn "nhập môn" nghiêm túc. Đó là giai đoạn nhập tâm những khái niệm căn bản của chính trị : quốc gia, dân tộc, nhà nước, chủ quyền, nhân quyền, tự do, dân chủ, văn hóa, phát triển, v.v... và nhất là tìm ra mối liên hệ giữa các khái niệm đó. Cố gắng nhập môn này rất khó và đòi hỏi rất nhiều thì giờ, nhưng là một sự bắt buộc nếu không người ta sẽ rất dễ quên mình đang nói về cái gì, rồi sẽ nhảy loạn xạ từ khái niệm này sang khái niệm khác, từ đầu Ngô sang mình Sở, sẽ mâu thuẫn với những gì mình mới nghĩ tuần trước và những gì mình có thể nói ngày mai. Tôi đã từng được nghe nhiều bài thuyết trình và đọc nhiều bài tham luận trong đo tác giả mâu thuẫn với chính mình trong vòng vài phút phát biểu hay trong một trang giấy. Những khái niệm chính trị có vẻ giản đơn nhưng thực ra chúng rất phức tạp.

Những người muốn tham gia vào cuộc thảo luận chính trị, và nhất là vào cuộc vận động dân chủ, có lẽ nên quan sát các tu sĩ. Không phải các vị đại đức, thượng tọa, linh mục, mục sư đều có trình độ hiểu biết cao, nhiều vị chỉ có những kiến thức rất sơ sài. Nhưng tại sao nói chung họ vẫn sống và phát biểu được đúng tín ngưỡng của tôn giáo họ ? Đó là vì họ đã trải qua cố gắng nhập môn. Mười điều giáo lệnh, tứ diệu đế, v.v... có gì là phức tạp đâu, thế mà họ vẫn tụng kinh, gõ mõ, lần tràng hạt hàng ngày. Nhờ đó họ nhập tâm. Các khái niệm chính trị còn phức tạp hơn nhiều, nhưng nếu mọi người phát biểu về chính trị dành được một phần thời giờ mà các nhà tu dành cho việc tụng niệm để nhập tâm chúng thì cuộc thảo luận về dân chủ chắc chắn sẽ được nâng cấp. Và tương lai đất nước cũng sẽ khá hơn.

***********************

 

Đi xa hơn dân chủ

 

4-tqan25

Vì chỉ là một phương tiện để xây dựng tự do và hạnh phúc, dân chủ cần được thích nghi với tiến hóa của xã hội. Cuộc thảo luận để cải thiện dân chủ và đi xa hơn mức độ dân chủ tối thiểu (tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử) luôn luôn phải tiếp tục.

Một hướng tìm kiếm là giới hạn ở mức thực sự cần thiết tầm vóc và vai trò của nhà nước để nhường không gian tối đa cho cá nhân và xã hội dân sự. Thế nào là mức thực sự cần thiết đang là trọng tâm của cuộc tranh luận chính trị tại hầu hết các quốc gia. Hướng thứ hai là mở rộng sự thụ hưởng tự do và dân chủ cho thật đông người, nói cách khác là đem các quyền tự do có trên nguyên tắc vào thực tại. Đàng sau những cuộc thảo luận quanh khái niệm dân chủ, đang hình thành một khái niệm dân chủ mới, một thứ "hậu dân chủ", là dân chủ đa nguyên.

Khái niệm dân chủ đa nguyên sau một thời gian ngắn bị phản bác đã mau chóng được người Việt Nam chấp nhận. Đó là điều đáng mừng, nhưng hình như sự chấp nhận này chưa đi đôi với nhận thức rằng dân chủ đa nguyên không phải chỉ là một thuật ngữ mới mà là một ý niệm mới, một bước tiến mới của dân chủ. Phần đông vẫn chỉ hiểu đa nguyên là đa đảng, do đó "dân chủ đa nguyên" chủ yếu là một khẩu hiệu để chống độc tài, để phản bác "dân chủ tập trung" của đảng cộng sản. Về điểm này tôi phải nhìn nhận là đảng cộng sản tỏ ra hiểu biết hơn nhiều người chống cộng. Họ phân biệt đa nguyên và đa đảng khi họ đưa ra cương lĩnh "chống đa nguyên, đa đảng".

Mặc dầu thảo luận về tương lai của dân chủ là một khuynh hướng thời thượng, cho tới nay trong các tác phẩm chính trị nổi tiếng trên thế giới chưa có một định nghĩa rõ rệt cho dân chủ đa nguyên. Nhóm Thông Luận đã đưa ra một định nghĩa rõ rệt với năm đặc tính của dân chủ đa nguyên. Từ khi định nghĩa này được đưa ra năm 1992, qua các thảo luận trực tiếp với các nhà nghiên cứu chính trị cũng như qua những tác phẩm mới, chúng tôi đã chỉ nhận được những bổ túc chứ chưa gặp một phản bác nào.

Định nghĩa đó như sau :

"[...] Dân chủ đa nguyên là dân chủ nhưng không phải dân chủ nào cũng là dân chủ đa nguyên.

Dân chủ đa nguyên là một hệ thống chính trị mới với những đặc tính bắt buộc của nó. Ta có thể nhấn mạnh năm đặc tính :

Một là, dân chủ đa nguyên nhìn nhận và tôn trọng chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho mọi người thuộc mọi thành phần xã hội, mọi tín ngưỡng và mọi khuynh hướng chính trị. Dân chủ đa nguyên lên án mọi phân biệt đối xử, nó chống đối quyết liệt chế độ độc đảng. Một cách cụ thể bản hiến pháp của một thể chế dân chủ đa nguyên không thể chứa đựng bất cứ một qui chiếu nào về một chính đảng, một chủ nghĩa hay một tôn giáo.

Hai là, ngoài nguyên tắc phân quyền phải có trong mọi nền dân chủ xứng đáng với tên gọi của nó, dân chủ đa nguyên đòi hỏi tản quyền để tôn trọng sự khác biệt giữa các địa phương. Một chính quyền dù xuất phát từ bầu cử tự do đi nữa cũng không phải là dân chủ đa nguyên nếu phần lớn quyền hành tập trung trong tay chính quyền trung ương. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên các chính quyền địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, phải có những quyền luật định rộng rãi để tổ chức cuộc sống phù hợp với bối cảnh riêng của mỗi vùng. Mỗi vùng phải có diện tích và dân số ở mức độ thỏa đáng để có thể là những thực thể đủ tầm vóc để tự quản được và phát triển được. Như thế một số nguyên nhân xung đột sẽ tự nhiên được giải tỏa. Các sắc tộc ít người sẽ có được tiếng nói đáng kể tại các địa phương mà họ tập trung đông đảo. Các chính đảng không có được đa số trong các cuộc bầu cử toàn quốc vẫn có thể nắm được chính quyền tại những địa phương nơi họ được tín nhiệm. Dân chủ đa nguyên làm nhẹ đi mối căng thẳng chính quyền - đối lập và bẻ gãy mối xung khắc "được làm vua thua làm giặc". Tản quyền đưa tới hệ luận là chính quyền trung ương không cai trị trực tiếp mà chỉ đảm nhiệm các sứ mạng quốc phòng, ngoại giao, tiền tệ và phối hợp giữa các địa phương. Một vai trò khác của chính quyền trung ương là thực hiện các công trình cơ sở hạ tầng trên qui mô cả nước và trợ giúp các chương trình địa phương đáng khuyến khích.

Ba là, dân chủ đa nguyên đặt nền tảng trên xã hội dân sự. Bên cạnh các chính đảng, các cộng đồng sắc tộc, địa phương và tôn giáo, các hiệp hội công dân tổ chức theo ngành nghề, quyền lợi, nhân sinh quan, sở nguyện, ưu tư, v.v... được hoạt động độc lập với chính quyền, được nhìn nhận một chỗ đứng trọng yếu, được có tiếng nói và ảnh hưởng trong sinh hoạt cũng như trong sự tiến hóa của xã hội. Nhà nước tự coi mình là có sứ mạng phục vụ xã hội dân sự chứ không khống chế xã hội dân sự, không định đoạt sinh hoạt thường ngày thay cho xã hội dân sự. Về mặt kinh tế, điều này có nghĩa là nền kinh tế quốc gia phải đặt nền tảng trên các xí nghiệp tư, khu vực quốc doanh phải được giới hạn ở mức tối thiểu và nếu không có thì càng hay. Vai trò nền tảng của các hiệp hội công dân đa dạng là một bảo đảm chắc chắn cho sự chuyển hóa thường trực, tự nhiên và liên tục của xã hội, tránh những xáo trộn đột ngột và đầy đổ vỡ của các cuộc cách mạng.

Bốn là, dân chủ đa nguyên kính trọng các thiểu số và luôn luôn mưu tìm thỏa hiệp. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số không được sử dụng một cách tự động và máy móc mà chỉ được dùng tới sau khi đã tận dụng mọi cố gắng để tìm đồng thuận. Dân chủ đa nguyên chống lại mọi hình thức chuyên chính, kể cả chuyên chính của đa số. Bình thường trong một thể chế dân chủ sự chính đáng của một chính quyền dựa trên kết quả của cuộc bầu cử cuối cùng, nhưng trong dân chủ đa nguyên sự chính đáng của một chính quyền còn nằm cả trong sự thành khẩn tìm đồng thuận trong mọi quyết định quan trọng.

Năm là, dân chủ đa nguyên trong bản chất của nó tôn trọng mọi thành phần dân tộc và không thể để một thành phần này bóc lột và chà đạp một thành phần khác. Vì thế dân chủ đa nguyên coi rất trọng công bằng xã hội và không thể đi đôi với cái thường được gọi là "tư bản rừng rú".

Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nhà nước không còn là người chỉ huy tuyệt đối. Vai trò của nhà nước là đảm nhiệm ba chức năng : trọng tài trong các quan hệ giữa các thành tố của xã hội, chế tài những vi phạm, và hòa giải những đòi hỏi mâu thuẫn của các thành phần dân tộc. Nhà nước hòa giải thay vì nhà nước chỉ huy là nét đậm của dân chủ đa nguyên. Nó phân biệt hẳn dân chủ đa nguyên với các chế độ chuyên chính, nhưng nó cũng khiến dân chủ đa nguyên khác với nhiều chế độ dân chủ trong đó chính quyền vẫn còn tham vọng định đoạt thay cho xã hội dân sự". [...]

[Trích Thử Thách và Hy Vọng - Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên 1996, Thông Luận, Paris 1996, trang 17-19].

Tầm quan trọng của xã hội dân sự đã được Alexis de Tocqueville nhấn mạnh rất sớm ngay từ đầu thế kỷ 19, mặc dù ông chưa đạt tới khái niệm đa nguyên. Ông đã cảnh giác rằng đặc tính cốt lõi của các chế độ độc tài là đè bẹp xã hội dân sự. Ông nhận định rằng các chế độ độc tài không cần người dân thương yêu họ mà chỉ cần người dân đừng thương yêu nhau và đừng kết hợp với nhau để cho chúng dễ khống chế một xã hội phân rã. Nâng cao tầm quan trọng của xã hội dân sự lên hàng một thành tố nền tảng của sinh hoạt quốc gia có hệ luận tự nhiên là chính quyền phải triệt thoái về mức độ tối thiểu cần thiết để nhường không gian tự do tối đa cho các công dân. Đó cũng là điều mà các nhà tư tưởng thuộc trường phái tự do đã đề nghị từ lâu. Nhiều nhà tư tưởng khác cũng đã báo động về nguy cơ của một sự chuyên chính của đa số. Dĩ nhiên cũng không thể quên ưu tư của các nhà tư tưởng thuộc khuynh hướng xã hội là ngăn cản sự khống chế của người giàu trên người nghèo. Phong trào cộng sản thế giới đã sụp đổ nhưng vấn đề mà nó đặt ra vẫn còn rất thời sự trước sự bành trướng của các công ty lớn ảnh hưởng một cách quan trọng trên cuộc sống của rất nhiều người, đôi khi trên cả một số quốc gia. Các công ty đa quốc gia đã có từ lâu và cũng đã ảnh hưởng trên chính sách của các nước nhược tiểu từ lâu, nhưng sự kiện rất mới và cần được cảnh giác là gần đây ngày càng xuất hiện những công ty quá lớn. Một số công ty có trị giá tích sản tương đương với tổng sản lượng của cả khối ASEAN. Các công ty đa quốc gia lớn là những trung tâm quyền lực khổng lồ mới trong đó lãnh đạo hoàn toàn không bị chi phối bởi những nguyên tắc dân chủ. Một giải pháp kỹ thuật vẫn cần được tìm ra cho vấn nạn này trừ khi, như niềm tin của nhiều người, một mặt chính phát triển kinh tế sẽ khiến các công ty cần công nhân hơn là công nhân cần xí nghiệp, mặt khác các sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, thể thao sẽ tiến lên, giảm bớt trọng lượng của sinh hoạt kinh tế. Một trường phái tư tưởng mới cũng đang xuất hiện với niềm tin vào một chủ nghĩa "dân chủ chứng khoán", theo đó các công ty, vì nhận vốn từ quần chúng qua thị trường chứng khoán và lệ thuộc quần chúng trong việc bán hàng và dịch vụ sản xuất ra, sẽ dần dần bị kiểm soát bởi quần chúng, nghĩa là cũng sẽ dân chủ hóa. Tuy giải pháp chưa tìm ra nhưng nguyên tắc đã rõ rệt : mọi người phải có chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau độc lập với trọng lượng kinh tế.

Dân chủ đa nguyên là tổng hợp chính trị ở giai đoạn này của nhiều đột phá trong kho tàng suy tư của nhân loại.

Chúng ta chưa có dân chủ mà đã nghĩ đến dân chủ đa nguyên có phải là quá sớm và quá không tưởng không ? Đúng, nếu ta nghĩ rằng một học sinh trung học chỉ nên nghĩ tới bằng tú tài chứ không cần nghĩ tới đại học. Có nhiều triển vọng cô hay cậu học sinh thực tiễn này sẽ không đi xa trên đường học vấn.

************************

 

Các giá trị châu Á ?

 

4-tqan26

Có một lần tôi được coi một hoạt cảnh tức cười trong một phim hài hước. Một nhà mô phạm đang thao thao bất tuyệt giảng giải giá trị thiêng liêng của gia đình trước một cử tọa trẻ. Ông đang hùng hồn thuyết phục đám thanh niên về những tệ hại của quan hệ tình dục ngoài khuôn khổ vợ chồng thì một bất ngờ xảy đến. Một chàng trai, với tất cả bộ dạng của một người đồng tính luyến ái, từ ngoài xông vô nắm lấy ông đánh ghen. Thì ra ông không những ngoại tình mà còn ngoại tình với người cùng phái. Bài giảng dĩ nhiên chấm dứt ở đây.

Cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á bắt đầu từ mùa hè 1997 cũng đã cắt ngang cuộc tranh luận đang sôi nổi về các giá trị châu Á một cách tương tự. Nó lố bịch hóa những người đang rêu rao là các quốc gia Đông Á đã phát triển mạnh nhờ các "giá trị châu Á", và như thế người châu Á không cần những "giá trị phương Tây" như dân chủ và nhân quyền. Nhưng kết thúc một cuộc tranh cãi vì một bên tranh luận bị quê là một kết thúc không ổn. Người tranh luận bị cụt hứng nhưng chắc gì những điều họ nói đã sai ? Như thế cuộc tranh luận về các giá trị châu Á có thể sẽ còn được phát động lại trong tương lai, trong một hoàn cảnh khác và với mục mục đích khác. Do đó chúng ta cũng cần xem thực chất của cuộc tranh cãi này là cái gì.

Điểm thứ nhất là cuộc tranh cãi về các giá trị châu Á đã được tung ra hồi đầu thập niên 1990, hầu như cùng một lúc tại Singapore và Malaysia. Đây là một điều nghịch lý bởi vì Singapore và Malaysia chính là hai nước có ít tư cách nhất để phát biểu nhân danh văn hóa và truyền thống châu Á.

Singapore là một thương cảng hơn là một quốc gia, do người phương Tây thành lập cách đây hai thế kỷ, bắt đầu từ một làng đánh cá nhỏ với vài chục ngư dân. Nó đã được tạo ra và cai trị hoàn toàn theo khuôn mẫu phương Tây. Dân chúng Singapore, ba triệu người hiện nay, chủ yếu là những người Hoa đã chạy trốn hệ thống chính trị và văn hóa châu Á tại quê hương cũ.

Malaysia cho tới cuối thế kỷ 14 chỉ là một bán đảo hoang vu và là trạm dừng chân cho các thuyền buôn qua lại giữa Ấn Độ và Sumatra. Dữ kiện lịch sử đầu tiên là cuộc thăm viếng của một sứ giả Trung Quốc dưới triều Minh năm 1405. Lúc đó Malaysia chỉ có vài vương quốc nhỏ hoàn toàn cô lập với phần còn lại của châu Á. Cho tới khi được tuyên bố là thuộc địa của Anh, đặt dưới quyền quản trị của công ty British North Borneo Company, vào năm 1881, Malaysia không có gì giống với một quốc gia cả. Malaysia không có lịch sử vàcũng không có một văn hóa riêng, chưa nói tới văn hóa châu Á. Như Singapore, Malaysia được thành lập và cai trị hoàn toàn theo khuôn mẫu phương Tây. Cũng giống như Singapore, người Malaysia rất hài lòng với chính quyền thuộc địa Anh và không đòi độc lập, họ đã chỉ được độc lập sau một quyết định của nước Anh. Hệ thống chính trị của họ không khác bao nhiêu di sản mà người Anh để lại.

Tóm lại, các "giá trị châu Á" đã được đề cao bởi hai nước không hề thể hiện chúng.

Điểm nghịch lý thứ hai là cả Lee Kwan Yew [Lý Quang Diệu] của Singapore lẫn Mahathir Muhamad của Malaysia, hai người hô hào tích cực nhất cho những "giá trị châu Á", đều là những người đã rất Tây phương hóa. Cả hai đều đã đóng vai trò then chốt trong việc Tây phương hóa sinh hoạt của đất nước họ.

Lý Quang Diệu chỉ bắt đầu nói tới các giá trị Khổng Giáo sau khi ông từ chức thủ tướng. Việc ông nhấn mạnh tới truyền thống tôn trọng các bậc trưởng thượng của người châu Á có thể được nhìn như một phản ứng tự vệ để cố kéo dài ảnh hưởng trên chính trường. Lý Quang Diệu tỏ ra khó chịu trong qui chế "has been" của ông. Ông đi khắp nơi, ban phát những lời khuyên cho mọi người trên mọi vấn đề. Các lập luận về các giá trị châu Á của ông có vẻ đã thành công cho cá nhân ông vì ít ra chúng đã làm ông nổi bật.

Mahathir thuộc một thiểu số trong sắc tộc Mã Lai được giáo dục theo văn hóa Anh. Nếp sống của ông hoàn toàn là nếp sống của người Anh. Các con ông cũng thế, con gái út ông có chồng người Pháp. Mahathir rất sợ bị coi như là một người Mã Lai mất gốc. Vì thế những lời tuyên bố của ông về các giá trị châu Á cũng chỉ nhắm một mục đích sửa đổi hình ảnh của ông, để ông có vẻ Mã Lai và Hồi Giáo hơn là sự thực. Từ một năm nay vụ án Anwar Ibrahim đã gây rất nhiều tiếng vang. Dư luận thế giới coi Anwar như một chính khách tiến bộ và hiện đại, nạn nhân của Mahathir, một người cầm quyền thủ cựu. Thực ra Anwar từng là một người Hồi Giáo toàn nguyên và quá khích trong giai đoạn đầu của sự nghiệp chính trị. Ông ngưỡng mộ Khomeini và phấn khởi vì cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran đến nỗi ông từng hành hương sang Teheran để bày tỏ sự cảm phục đối với Khomeini. Mahathir đã chỉ chọn Anwar làm người thừa kế chính thức của mình để tranh thủ cử tri Hồi Giáo Mã Lai cho ông. Chính vì thế mà ông đã rất giận dữ và thù ghét Anwar khi Anwar muốn tỏ ra hiện đại hơn ông.

Tóm lại, hai nhân vật đề cao các "giá trị châu Á" nhất cũng là những người không chấp nhận chúng cho chính mình. Cuộc tranh cãi đã thiếu thực thà ngay từ đầu.

Điểm thứ ba mà tôi muốn lưu ý độc giả là "các giá trị châu Á" chỉ là một diễn văn chứ hoàn toàn không phải là một chủ thuyết. Không hề có một luận cương hay một cẩm nang nào cả. Tất cả chỉ là những bài viết ngắn và những cuộc phỏng vấn bằng tiếng Anh được đăng trên nhật báo The International Herald Tribune và tập san Foreign Affairs. Trong số những người chủ xướng và hô hào cho các giá trị châu Á, người ta không thấy một triết gia, một nhà tư tưởng hay một nhà văn lớn nào, người ta chỉ thấy những công chức thuộc hai chính quyền Singapore và Malaysia. Cuộc vận động cho các giá trị châu Á giống như một chiến dịch tuyên truyền hơn là một cuộc thảo luận trí tuệ.

Một đặc điểm khác là những ồn ào về các giá trị châu Á đã chỉ giới hạn trong khuôn khổ ASEAN. Các quốc gia châu Á khác đã không tham gia cuộc hòa tấu này. Không có khuôn mặt chính trị hoặc trí thức lớn nào của Nhật tỏ ra quan tâm. Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh hoàn toàn không biết tới. Nam Cao Ly và Đài Loan gạt bỏ thẳng thừng các luận điệu về các giá trị châu Á và quả quyết chọn lựa con đường dân chủ hóa. Ngay trong khối ASEAN, Indonesia, Thái Lan và Phi-líp-pin tỏ ra dửng dưng. Chỉ có Hà Nội, Bắc Kinh và Rangoon tỏ ra hưởng ứng. Báo chí và quan chức Việt Nam thỉnh thoảng ca tụng những "quan điểm đứng đắn" của Lý Quang Diệu và Mahathir, dù không đề cập đến cụm từ "giá trị châu Á". Cũng nên lưu ý rằng trong mọi phát biểu về các giá trị châu Á của họ, cả Lý Quang Diệu lẫn Mahathir cùng những cộng sự viên của hai ông đều không bao giờ đề cập đến Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh. Đối với họ, hình như châu Á chỉ là Đông Á.

Nhưng "những giá trị châu Á" được nêu ra là gì ?

Lý Quang Diệu và Mahathir lại xung khắc một cách trầm trọng về nội dung của chúng. Đối với họ Lý, các giá trị châu Á chỉ có thể là các giá trị Khổng Giáo trong khi đối với Mahathir chúng lại chủ yếu là các giá trị Hồi Giáo. Hai nhân vật này tuy ghét nhau nhưng hình như cũng đồng ý với nhau rằng người châu Á quan tâm đến xã hội, cố gắng, giáo dục, tiết kiệm, phát triển và ổn định hơn là tới cá nhân, tiện nghi, tiêu thụ, nhân quyền và dân chủ ; ngoài ra người châu Á kính trọng tổ tiên, người lớn tuổi và chính quyền. Dân chủ và nhân quyền có vẻ như là hai đối tượng đánh phá quan trọng nhất của những diễn văn về các giá trị châu Á. Nhưng ở đây các quan chức Singapore và Malaysia lại tỏ ra bối rối. Thông thường họ phản bác dân chủ và nhân quyền như những giá trị của phương Tây, nhưng cũng có khi họ lại nói đó là những giá trị phổ cập chỉ cần thích nghi với hoàn cảnh châu Á.

Lý Quang Diệu hô hào một cách rất hăng say cho kinh tế thị trường và sự minh bạch [transparency], hai cột trụ của dân chủ. Có những lúc ông nói rằng dân chủ và nhân quyền cũng quan trọng đấy nhưng không quan trọng bằng kỷ luật và sản xuất. Người kế vị ông, đương kim thủ tướng Singapore Goh Chok Tong còn đi xa hơn, đối với ông : "Các quyền kinh tế và xã hội cũng quan trọng không kém các quyền dân sự và chính trị". Không kém nhưng cũng không hơn. Ở một dịp khác ông Goh Chok Tong còn tuyên bố mạnh dạn hơn : "Chúng tôi tin tưởng ở dân chủ, nhưng dưới một hình thức đảm bảo được kỷ luật và đồng thuận". Bà Chan Heng Chee, cựu giám đốc Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á và đại sứ Singapore tại Liên Hiệp Quốc, tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn trên The International Herald Tribune : "Dân chủ và nhân quyền là những giá trị phổ cập nhưng những điều kiện để thể hiện chúng tại châu Á có phần khác".

Còn Mahathir ? Trong một dịp, ông đã chỉ xin thêm thời gian : "Đừng đòi hỏi chúng tôi phải thay đổi ngay tức khắc. Chúng tôi sẽ thay đổi, nhưng chúng tôi sẽ không thay đổi nhanh như người ta đòi chúng tôi". Có lẽ ít ai đòi Mahathir phải thay đổi ngay tức khắc vì thực ra Malaysia, hơn cả Singapore, đã là nước dân chủ hóa sớm nhất trong khối ASEAN. Chính những lời tuyên bố mâu thuẫn này đã khiến Bắc Kinh, Hà Nội và Rangoon, những chế độ thực sự chống dân chủ và nhân quyền, không ủng hộ nhiệt tình những phát biểu về các giá trị châu Á của Singapore và Malaysia.

Hiển nhiên là cộng đồng, kỷ luật, cố gắng, giáo dục, và ngay cả gia đình, không phải là những giá trị đặc biệt của châu Á. Người phương Tây cũng quí trọng những giá trị này, có khi còn hơn. Lấy một thí dụ : liên đới xã hội là yếu tố cốt lõi của xã hội, như thế tinh thần liên đới trên nguyên tắc phải rất cao trong các xã hội châu Á vì tại đó cộng đồng được coi là một giá trị nền tảng, nhưng sự thực là liên đới mạnh hơn hẳn ở phương Tây so với châu Á. Trong những nước châu Á, khi một người bị sa thải hay gặp tai nạn đó chỉ là chuyện cá nhân của người đó, không có an sinh xã hội, không có trợ giúp của nhà nước, hoàn cảnh bi đát của người đó không là quan tâm của bất cứ ai.

Hiển nhiên, về cơ bản, những cái gọi là giá trị châu Á không có nội dung nào đặc biệt. Nhưng sự gay gắt đã thay thế cho lý luận. Phương Tây được mô tả là đang suy thoái vì dựa trên những giá trị bệnh hoạn, châu Á sẽ qua mặt phương Tây vì xã hội châu Á được xây dựng trên những giá trị lành mạnh. Kế đó là cáo trạng. Người phương Tây đã tỏ ra xấc xược và bá quyền khi mưu toan áp đặt những giá trị của họ lên toàn thế giới, nhưng sự ngạo mạn này không thể tiếp tục được nữa vì tình thế đã thay đổi và tương lai sẽ thuộc về châu Á, v.v...

Trong tất cả những người hô hào các giá trị châu Á, Kishore Mahbubani, đại sứ Singapore tại Liên Hiệp Quốc, là người quá khích nhất. Ông hô hào : "Bạn trẻ ơi, hãy quay về phương Đông !", ông quả quyết : "Địa Trung Hải là biển của quá khứ, Đại Tây Dương là đại dương của hiện tại, Thái Bình Dương là đại dương của tương lai". Những người khác tỏ ra ôn hòa hơn nhưng tất cả đều cùng một luận điệu chống phương Tây và cũng đều cùng một giọng điệu đắc thắng.

Thái độ đắc thắng này dĩ nhiên là lố lăng vì, trừ trường hợp của Nhật và hai thành phố Singapore và Hồng Kông, tất cả các quốc gia châu Á vẫn còn thua xa các nước dân chủ phương Tây. Malaysia chẳng hạn, chỉ có một sản lượng trên mỗi đầu người tương đương với 20% mức độ của Hoa Kỳ và các nước Tây Âu.

Nhưng tại sao cuộc tranh luận về các giá trị châu Á đã ồn ào như vậy ? Chúng ta sẽ sai lầm nếu gạt phăng đi với thái độ khinh thường. Có ít nhất hai lý do đã khiến cuộc tranh luận về các giá trị châu Á gây sôi nổi trên báo chí.

Lý do thứ nhất là châu Á đang đòi hỏi một chỗ đứng xứng đáng hơn. Hơn hai thập niên tập trung đều đặn ở một tỷ lệ cao đã gia tăng rất nhiều trọng lượng của châu Á. Từ 4% năm 1960, tổng sản lượng của các nước châu Á đã lên mức 25% tổng sản lượng của thế giới vào năm 1992 khi cuộc tranh cãi về các giá trị châu Á vừa bắt đầu. Châu Á cũng đạt tới 25% trọng lượng của ngoại thương trên thế giới vào năm 1994 và cũng giữ trong tay một phần ba trữ kim của thế giới. Năm 1990, châu Á đã mua của các nước phương Tây một số lượng hàng hóa và dịch vụ trị giá 650 tỷ USD, gấp đôi con số của con số năm 1980, nhưng chỉ xấp xỉ bằng một nửa con số hiện nay. Châu Á đã trở thành một thị trường hấp dẫn cho các nước phương Tây và trọng lượng của nó sẽ càng ngày càng tăng lên. Rõ ràng là châu Á xứng đáng được trọng nể hơn. Quan hệ giữa châu Á và phương Tây phải thay đổi để phù hợp với tương quan lực lượng mới. Các nước phương Tây đều hiểu như vậy. Đó là lý do khiến họ đã chú ý đặc biệt đến những diễn văn về giá trị châu Á. Mặt khác cũng vì sức mạnh thực sự của diễn văn về các giá trị châu Á là sự thành công về mặt kinh tế của các nước châu Á mà nó đã yếu hẳn đi sau cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu hồi tháng 7-1997.

Lý do thứ hai là những phát biểu về các giá trị châu Á thực ra chỉ là một phần của một cuộc tranh luận quan trọng và to lớn hơn nhiều đang diễn ra tại châu Á và sẽ có ảnh hưởng lớn trên tương lai của thế giới. Các quốc gia châu Á đang ở trong một khúc quanh lịch sử đặc biệt quan trọng. Tăng trưởng kinh tế đã cải thiện một cách đáng kể đời sống con người nhưng đồng thời cũng mang đến những đòi hỏi thay đổi chính trị mạnh mẽ theo chiều hướng gia tăng tự do, dân chủ và nhân quyền. Cuộc chuyển hóa đe dọa nền tảng chính đáng của nhiều người cầm quyền và buộc họ đi tìm một biện minh văn hóa và tư tưởng cho quyền lực của họ. Trong bối cảnh ấy, so với ảo tưởng đẫm máu của ý thức hệ cộng sản trước đây, các giá trị châu Á là một phản ứng khá hiền lành, một "chủ thuyết" ít độc hại hơn hẳn.

Thực sự có những giá trị châu Á không và những giá trị nào ?

Các nước châu Á được thành lập một cách riêng biệt và chỉ có một sự hiểu biết lẫn nhau rất sơ sài. Nhiều quốc gia châu Á đã do người phương Tây lập ra và phần lớn các biên giới quốc gia đều hoặc do người phương Tây quyết định hoặc chịu ảnh hưởng của họ. Nếu chỉ muốn nói một cách sơ sài thì ta có thể nói Đông Á chịu ảnh hưởng Trung Hoa và, ở những mức độ khác nhau, mang những đặc tính của văn hóa Khổng Giáo ; Tây Á là một sự đan xen giữa văn hóa Ấn Độ Giáo và văn hóa Hồi Giáo, trong khi ở phía Nam, Indonesia và Malaysia là những quốc gia Hồi Giáo. Nhưng ngay cả cách mô tả sơ sài đó cũng không đúng, Thái Lan và Miến Điện là hai nước Phật Giáo, trong khi Phi-líp-pin lại là một nước đa số Công Giáo. Và cũng không nên quên từ thế kỷ 20 văn hóa và các phương pháp làm việc của phương Tây cũng đã mọc rễ khắp nơi.

Mặt khác cũng không hề có một tình cảm liên đới nào giữa các quốc gia châu Á. Người Nhật cho rằng họ là một dân tộc riêng biệt, thông minh và hùng mạnh hơn mọi dân tộc khác. Người Thái cũng nghĩ rằng họ là một dân tộc tinh nhuệ hơn hẳn, đã giữ được độc lập trước cuộc chinh phục của phương Tây. Quan hệ đáng kể nhất của Miến Điện với thế giới bên ngoài nói chung và châu Á nói riêng trong lịch sử dài hơn một ngàn năm của họ là những cuộc chiến tranh với Thái Lan, mà những thù hận vẫn chưa chấm dứt hẳn. Còn người Trung Hoa thì dù đã trải qua nhiều thăng trầm và tủi hổ họ vẫn chưa bỏ hẳn được mặc cảm tự tôn của thời xa xưa khi họ tự coi là trung tâm của thế giới trong khi các dân tộc láng giềng chỉ là những thiểu số man rợ. Coi châu Á như một thực thể tự nó đã là điều vô lý. Chỉ có những người thiếu hiểu biết mới có thể nói tới một văn hóa hay một triết lý phương Đông.

Tuy nhiên, nếu chúng ta cố hết sức để nhận ra những nét giống nhau trong nếp sống và suy nghĩ của các dân tộc châu Á thì chúng ta cũng có thể tìm thấy một số điểm. Những điểm này, phải nói ngay, không phải chỉ có ở châu Á mà hiện diện ở mọi xã hội ngoài phương Tây và ở cả phương Tây trước đây vài thế kỷ, dù có lẽ ở một mức độ thấp hơn. Đó là :

      - Cơ cấu đại gia đình liên hệ cá nhân trước hết với người cùng một dòng máu. Tâm lý này có thể nhận thấy trong hầu hết các nước châu Á với những hậu quả quan trọng về cả kinh tế lẫn chính trị. Các công ty lớn ở Nhật, Hồng Kông, Nam Cao Ly được điều hành như những vương quốc gia đình. Các nhà độc tài trước hết dựa trên gia đình, dành cho con cái, họ hàng những đặc quyền lớn. Các bà nội trợ thay chồng, con trai và con gái kế vị cha mẹ làm lãnh tụ các chính đảng hay làm tổng thống tại Phi-líp-pin, Indonesia, Bangladesh, Pakistan, Ấn Độ, Miến Điện và Bắc Cao Ly.

      - Quan niệm quyền lực chính trị như là sự tưởng thưởng cho địa vị và thành tích trong quá khứ hơn là một trách nhiệm đòi hỏi khả năng và tầm nhìn. Chức quyền thay vì chức trách. Do đó người lãnh đạo quốc gia không cần phải thành công mà chỉ cần sống xứng đáng với địa vị của mình. Sự chống đối lại chính quyền bị xem như chống lại trật tự xã hội và như một thái độ không phải đạo. Chừng nào người cầm đầu quốc gia chưa mắc phải những tội ác tày trời thì không có lý do gì chính đáng để đòi thay thế ông ta hay bà ta. Tâm lý này giải thích sự kiện một đảng hay một lãnh tụ có thể cầm quyền liên tục trong nhiều thập niên. Dĩ nhiên tâm lý người châu Á đã thay đổi nhiều, nhưng một thắng lợi như của Bill Clinton trước George Bush năm 1992 vẫn còn là điều không thể có tại châu Á.

      - Sự lẫn lộn giữa tôn giáo và chính trị. Về điểm này phải nói rằng sự phân biệt giữa tôn giáo và chính trị, giữa Thiên Chúa và Ceasar, quả là một đặc tính của tư tưởng phương Tây. Tại các nước châu Á, Thượng Đế và Vua liên hệ rất mật thiết với nhau, khi không phải là một. Tại Trung Quốc, dưới ảnh hưởng Khổng Giáo, vua là thượng đế ; tại các nước Hồi Giáo như Pakistan và Bangladesh, thượng đế là vua, còn tại Ấn Độ và hai nước theo Phật Giáo là Thái Lan và Miến Điện, thượng đế chỉ là phụ tá ngoan ngoãn của vua. Người ta có thể nghĩ rằng sở dĩ chủ nghĩa cộng sản đã thành công và đứng vững tại Đông Á hơn là tại Tây Âu, nơi nó được phát minh ra, là vì chính nó cũng là một hệ thống nửa tôn giáo nửa chính trị như Khổng Giáo trước đây. Về điểm này cũng thế, đã có nhiều thay đổi, nhưng chưa thay đổi hẳn.

Cả ba yếu tố trên đây xét cho cùng đều là những trở ngại cho phát triển và tiến bộ. Cần nhận xét là những quốc gia từ bỏ chúng sớm nhất cũng là những quốc gia phát triển nhất.

Khối ASEAN trước cuộc khủng hoảng kinh tế được các ông Lý Quang Diệu và Mahathir coi, đúng hơn là lạm coi, như là thành trì của cái mà các ông ấy gọi là "các giá trị châu Á". Nhưng tình thế đã thay đổi.

Ngày nay cả năm nước sáng lập và có trọng lượng nhất trong khối đều đã là những nước dân chủ. Khi Việt Nam xin gia nhập ASEAN, ban lãnh đạo cộng sản hy vọng tìm được ở ASEAN một chỗ dựa cho chế độ độc tài ; từ nay và sắp tới, trong những cuộc gặp gỡ thường xuyên của khối, họ sẽ chỉ gặp những nhà lãnh đạo dân chủ thôi thúc họ cải tổ nhanh hơn. Từ nay, trong không khí mới của ASEAN, độc tài không còn gì là oai hùng nữa mà chỉ là lố bịch, thiếu văn minh, mất vệ sinh.

Ngày nay, nếu có một "giá trị châu Á", mới nhưng đích thực, thì đó là khát vọng của mọi người châu Á muốn được sung túc hơn và được kính trọng hơn. Khát vọng này đang thôi thúc mọi dân tộc châu Á. Họ đã ý thức được tiềm năng chưa được khai thác của họ, họ cảm thấy hổ nhục vì nghèo khổ và thiếu tự do, họ tin rằng họ có thể, và phải, rút ngắn khoảng cách với các dân tộc phương Tây. Họ không quan tâm gì đến những cái gọi là giá trị châu Á, họ chỉ quan tâm đến những giá trị làm cho cuộc sống của họ đáng sống và đáng tự hào hơn. Ngay cả một cô hầu bàn tại Sài Gòn hay một anh tài xế xe tuk-tuk tại Bangkok cũng đã hiểu rằng phát triển và phồn vinh phải đi đôi với dân chủ và nhân quyền.

******************

 

Thập nhị sứ quân

 

4-tqan27

Đinh Bộ Lĩnh, tức vua Đinh Tiên Hoàng, được coi là một trong những đại anh hùng của nước ta vì đã có công dẹp mười hai sứ quân và qui đất nước về một mối. Sự nghiệp của ông gây ấn tượng mạnh đến độ ngày nay khi tiếng Việt đã phát triển nhiều rồi chúng ta vẫn còn nhắc tới giai đoạn trước nhà Đinh bằng cụm từ "thập nhị sứ quân" thay vì "mười hai sứ quân". Hơn thế nữa, "thập nhị sứ quân" đã trở thành một thành ngữ để chỉ nguy cơ đất nước bị tan rã thành nhiều mảnh. Nó như một tai họa ám ảnh chúng ta.

Mỗi dân tộc thường có những nhân vật có sức thu hút đặc biệt, ngôn ngữ phương Tây ngày nay nói là họ có charisma. Sức thu hút đó có tác dụng làm cho nhân vật được đề cao hơn công lao thực sự của mình, và đem lại cho những hành động của vị ấy một dấu ấn tâm lý sâu đậm.

Huyền thoại của Đinh Bộ Lĩnh là đã tỏ ra anh hùng và độc đáo ngay từ thời thơ ấu. Ông mồ côi cha từ nhỏ, ở với chú và chăn trâu cho chú, ông bắt những đứa trẻ chăn trâu khác tôn mình làm minh chủ, bắt chúng làm kiệu rước mình như vua, tổ chức chúng thành quân đội lấy lau làm cờ rồi đi đánh nhau với trẻ con các làng khác. Có lần thắng trận, ông giết trâu của chú khao quân. Nếu chỉ có thế thì Đinh Bộ Lĩnh chỉ là một đứa trẻ ngỗ nghịch và vô giáo dục, nhưng sau này Đinh Bộ Lĩnh diệt các sứ quân, gồm thâu đất nước và lên làm vua nên những hành động ngang ngược của ông thời thơ ấu được coi là biểu hiệu của chí lớn. Đinh Bộ Lĩnh trở thành thần tượng của thiếu nhi Việt Nam. Tội nghiệp cho thiếu nhi Việt Nam, một mặt người ta dạy chúng ngưỡng mộ Đinh Bộ Lĩnh nhưng, mặt khác, nếu chúng thực sự làm những gì Đinh Bộ Lĩnh đã làm (ăn hiếp bè bạn, lập đảng đánh nhau, phá tài sản) thì chắc chắn chúng sẽ bị ăn đòn, mà ăn đòn không oan chút nào vì thực ra đó chỉ là hành động của một đứa trẻ hư hỏng.

Một lần nữa chúng ta thấy rõ sự nghèo nàn về tư tưởng của người Việt. Chúng ta không suy luận và phê phán mà chỉ biết tâng bốc kẻ thắng. Hễ kẻ nào đã thành công và trở thành chúa tể thì những hành động của kẻ đó, dù xằng bậy đến đâu cũng được bào chữa và đánh bóng để đưa lên làm mẫu mực cho thời đại và cho đời sau. Chúng ta viết sử một cách không đứng đắn và chúng ta cũng đọc sử một cách không đứng đắn.

Bài hát Hoa Lư mà các thầy cô tôi dạy tôi ở trường tiểu học bắt đầu bằng câu : "Ta cùng nhau đi thăm nơi hùng xưa..." và kết thúc bằng câu ca tụng Đinh Bộ Lĩnh là "đấng anh hùng vì nước quên mình". Thực ra Đinh Bộ Lĩnh chẳng bao giờ quên mình cả. Trái lại ông luôn luôn chỉ biết có mình thôi. Ông bất chấp tất cả, ông chỉ biết tham vọng quyền lực và thú vui của riêng mình. Lúc nhỏ ông ở với chú, lập băng đảng đánh lộn và phá tài sản của chú. Lớn lên ông đi làm giặc rất sớm vì theo sử chép ông theo sứ quân Trần Lãm, được Trần Lãm tin dùng và gả con gái cho, rồi lên thay Trần Lãm làm sứ quân khi Trần Lãm chết, sau đó rời bản doanh từ Thái Bình về Hoa Lư. Vậy mà năm 951, mới 26 tuổi, ông đã lừng lẫy ở Hoa Lư đến nỗi hai ông vua nhà Ngô (Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn, con Ngô Quyền) phải thân chinh đi đánh mà không được. Đúng là một tay anh chị, lúc bé thì du côn, lớn lên đi làm giặc. Và việc làm giặc chống nhà Ngô này là hoàn toàn vô đạo vì anh em nhà Ngô rất chính đáng, cha họ là Ngô Quyền có công đánh bại quân xâm lược Nam Hán, chính thức xác nhận nền độc lập dân tộc, hai anh em Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn đều là những người nhân nghĩa. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh táo bạo và đánh trận giỏi. Nhờ vậy ông đã diệt được mọi sứ quân và cả nhà Ngô, gồm thâu lãnh thổ nước ta rồi lên ngôi hoàng đế. Sử sách ca tụng Đinh Bộ Lĩnh có công dẹp loạn sứ quân mà quên rằng chính ông cũng gây ra loạn sứ quân.

Nhiều người cho rằng việc xưng đế của Đinh Bộ Lĩnh, tức vua Đinh Tiên Hoàng, tương đương với một tuyên ngôn độc lập. Trên thực tế nước ta đã dần dần hình thành trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc. Nhờ những đóng góp về dân số và văn hóa từ phương Bắc và những cố gắng khai mở của các quan cai trị nặng tình với quê hương mới như Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp, một xã hội văn minh mới đã dần dần hình thành tại đồng bằng sông Hồng. Vách núi hiểm trở ngăn cách đã khiến sự đi lại giữa Giao Châu và Trung Quốc còn khó khăn hơn đường biển. Xã hội Giao Châu ngày càng phát triển và ngày càng khác với xã hội Trung Quốc. Giao Châu là một xã hội Phật Giáo trong khi Trung Quốc là một xã hội Khổng Giáo. Sự thống trị của Trung Quốc yếu dần đi, để rồi tới một lúc không còn duy trì được nữa. Năm 906, guồng máy cai trị của Trung Quốc tại Giao Châu tự nó sụp đổ. Trung Quốc loạn lạc, quan cai trị bỏ về nước, người Giao Châu tôn một hào kiệt bản xứ là Khúc Thừa Dụ lên thay, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc và mở đầu kỷ nguyên tự chủ.

Cần lưu ý là nền độc lập của nước ta đã đến một cách tự nhiên như là sự chín muồi của tiến trình hình thành của một xã hội mới chứ không phải do ý chí muốn độc lập và chống lại Trung Quốc. Ba đời họ Khúc (Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ) và cả Dương Đình Nghệ sau đó, dù tự lập nên và chống với quân xâm lăng phương Bắc vẫn chỉ xưng là tiết đô sứ, một chức quan do Trung Quốc lập ra để cai trị Giao Châu. Ý thức quốc gia của chúng ta tiến chậm hơn thực tại xã hội, địa lý và nhân văn.

Ngô Quyền sau khi thắng được quân Nam Hán đã xưng vương, chính thức xác nhận nền độc lập. Hành động có ý nghĩa lịch sử trọng đại này hình như đã không được ghi nhận một cách phấn khởi, nên ngay sau khi Ngô Quyền qua đời hào kiệt khắp nơi đã thi nhau xưng hùng xưng bá. Sự triệt thoái của Trung Quốc đã tạo ra một khoảng trống quyền lực tại Giao Châu cho các thủ lãnh địa phương. Đinh Bộ Lĩnh là một trong những thủ lãnh này. Việc ông nổi loạn chỉ là do tham vọng cá nhân chứ không phải là để chống lại một chính quyền bất chính. Đinh Bộ Lĩnh đã thắng được không phải vì có chính nghĩa, trái lại ông đã chống lại một chính quyền rất có chính nghĩa, mà chỉ vì ông đánh trận giỏi. Việc ông xưng đế cũng chỉ nằm trong một tiến trình độc lập tự nhiên sau họ Khúc, họ Dương và họ Ngô mà thôi.

Nhưng nếu Đinh Bộ Lĩnh là một tướng giỏi thì Đinh Tiên Hoàng lại chỉ là một ông vua tồi và bạo ngược. Ông không làm được điều gì ích quốc lợi dân trong mười bốn năm cầm quyền (967-980). Ông bày ra những trò gớm ghiếc : lập vạc dầu để luộc người, dựng cột đồng nung đỏ để nướng người, nuôi hổ báo để xé xác phạm nhân, chặt chân tay, cắt tai mũi, v.v... Ông cũng hoang dâm vô độ, bỏ con trưởng lập con thứ một cách bất công để đến nỗi các con ông giết nhau. Cuối cùng ông bị phản thần giết chết giữa lúc đang say rượu nằm ngủ.

Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đem sự hung bạo vào chính trị nước ta, trước đó xã hội ta là một xã hội Phật Giáo lấy sự hiền hòa làm nền tảng. Ông cũng là người khởi xướng ra một cách ứng xử chính trị mới, đó là dùng nội chiến để tiêu diệt lẫn nhau thay vì giải quyết những quan hệ quyền lực qua thỏa hiệp và hợp tác. Nước Việt Nam vừa tự chủ, như một đưa trẻ sơ sinh, đã bị tiêm những độc tố kinh khủng.

Đinh Tiên Hoàng, một cách vô tình, cũng còn khai sinh ra một chủ trương chính trị khác tại Việt Nam, đó là quan điểm nhà nước tập trung và toàn quyền. Việc ông gồm thâu các sứ quân khác đã được tôn vinh triệt để, đã khiến sự tập trung mọi quyền lực quốc gia về một mối trở thành một lẽ dĩ nhiên trong tâm lý tập thể của chúng ta, và đã khai sinh ra cả một phản xạ tập trung mà các diễn biến lịch sử sau này tăng cường thêm. Họ Trịnh đã coi việc cất quân đánh họ Nguyễn ở phương Nam là giải pháp duy nhất. Nguyễn Huệ cất quân diệt họ Trịnh và đánh cả ông anh là Nguyễn Nhạc. Hồ Chí Minh và đảng cộng sản quyết tâm đánh gục chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam cho dù "sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhiều thành phố có thể bị tiêu diệt". Gần đây khi nhóm Thông Luận đưa ra chủ trương tản quyền và địa phương tự quản (không nên sợ những từ ngữ, đó quả thực là một chủ trương gần giống với một chế độ liên bang) thì ngay trong nội bộ đã có những tiếng nói rất thành thực bày tỏ mối lo đất nươc bị đưa vào tình trạng "thập nhị sứ quân", nghĩa là tan rã.

Nhưng có những "hiển nhiên" không đúng chút nào nếu ta quan sát và suy luận một cách bình tĩnh.

Trung Quốc từ lúc hình thành đã tiến những bước vĩ đại cả về kỹ thuật lẫn tư tưởng cho đến thời Đông Chu Liệt Quốc dưới chế độ phong kiến tản quyền, và đã dẫm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm sau, từ nhà Tần trở đi, dưới chế độ quân chủ tập trung. Hoa Kỳ đã chỉ biết có chế độ liên bang và đã trở thành cường quốc hùng mạnh nhất thế giới chỉ sau một trăm năm lập quốc. Cộng Hòa Liên Bang Đức đã hơn hẳn các nước châu Âu khác. Liên Bang Xô Viết đã thất bại nhưng nó chỉ là một liên bang giả hiệu, mọi quyền hành, kể cả quyền sinh sát tùy tiện, tập trung vào một điện Kremlin. Nước Pháp tập trung đang vùng vẫy từ nhiều thập niên để tản quyền.

Chế độ tản quyền hơn hẳn chế độ tập quyền. Không phải là một ngẫu nhiên mà nó đang là phương thức mọi quốc gia hướng tới. Điều cần được đặc biệt lưu ý là nó cũng là giải pháp cho những quốc gia tụt hậu và thiếu dân chủ.

Trước hết nó là một đảm bảo cho dân chủ. Các vùng tự quản dĩ nhiên không thể có chế độ độc tài vì thẩm quyền của chính quyền địa phương chỉ là điều hành các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia. Ngược lại, chính quyền trung ương cũng không thể độc tài vì phần lớn sinh hoạt quốc gia nằm trong tay các chính quyền vùng hay tiểu bang. Trung ương và địa phương kiểm soát lẫn nhau với kết quả sau cùng là mọi bên đều phải khiêm tốn và chừng mực. Một chính quyền địa phương tồi dở không thể cấm đoán bầu cử tự do và cũng không thể gian lận bầu cử mà không bị chính quyền trung ương chế tài tức khắc. Ngược lại, một chính quyền trung ương không được nhân dân tín nhiệm cũng chắc chắn bị thay thế vì không thể khống chế được dân chúng, dân chúng tùy thuộc các chính quyền vùng nhiều hơn chính quyền trung ương. Sinh hoạt chính trị chỉ có thể là dân chủ. Hơn nữa mọi âm mưu đảo chính đều vô vọng. Một viên tướng nếu điên rồ đảo chính và lật đổ được chính quyền trung ương sẽ bị bó tay sau đó trước các chính quyền địa phương tự trị và sẽ may mắn lắm nếu tìm được máy bay để kịp thời tẩu thoát.

Tản quyền đem dân chủ tới mọi nơi và mọi người qua các cuộc tranh luận và tranh cử địa phương. Trong một nước chưa có truyền thống dân chủ, một chính quyền tập trung ngay cả có thiện chí cũng có thể chỉ thực hiện được dân chủ đối với một thiểu số trí thức ở thủ đô.

Tản quyền có lợi cho mọi sinh hoạt, đặc biệt là những sinh hoạt kinh tế. Nó tránh được những đường dây hành chánh dài và phức tạp, tiết kiệm được thì giờ và phí tổn ; nó kích thích văn hóa và báo chí địa phương, nó cho phép mỗi địa phương chọn lựa phương thức sinh hoạt phù hợp nhất với đặc tính và điều kiện của mình, đồng thời lấy những quyết định nhanh chóng. Các vùng nghèo khó sẽ có được một chính quyền riêng dành tất cả ưu tư cho vùng thay vì phải chờ đợi, và thường thường bị quên lãng, ở một chính quyền trung ương bận rộn với những vấn đề dồn dập của những vùng đã phát triển và hoạt động mạnh, như chúng ta đã thấy hiện nay chính quyền Việt Nam dành hết thì giờ giải quyết những vấn đề của Sài Gòn và Hà Nội. Không ai báo động một cách thành tâm và chính xác những khó khăn của một vùng bằng chính quyền vùng. Một chính quyền địa phương tự quản vừa có khả năng tự giải quyết một số khó khăn, vừa có khả năng động viên cử tri vùng làm áp lực buộc chính quyền trung ương phải quan tâm đến những khó khăn ngoài tầm tay của chính quyền vùng.

Tản quyền đóng góp một cách quyết định vào sự ổn vững của quốc gia. Nó khoanh vùng nhiều vấn đề và tránh cho quốc gia nhiều khủng hoảng đáng lẽ chỉ xảy ra trong một vùng, đối với chính quyền vùng. Hơn nữa, nó còn giúp cho quốc gia có thể thực hiện những cải tổ lớn mà không rơi vào hỗn loạn.

Tôi sinh sống nhiều năm tại Pháp để nhận xét điều đó. Nước Pháp có một tổ chức giáo dục mà mọi người đều nhận định là lỗi thời và cần cải tổ, nhưng hễ chính phủ nào cải tổ giáo dục là sẽ bị đánh đổ nhanh chóng, lý do là vì cải tổ nào cũng đụng chạm tới quyền lợi của một loại người và bị chống đối. Người ta có thể đồng ý trên 90% những biện pháp cải tùổ nhưng bất mãn với 10% còn lại và như thế là đủ để xuống đường phản đối. Điều nhức nhối là số 10% các biện pháp không được chấp nhận lại thay đổi tùy thành phần ; sửa đổi để vừa ý thành phần này thì lại gây phẫn nộ thêm cho nhiều thành phần khác. Nguyên nhân là chính quyền Pháp tập trung, hệ thống giáo dục áp dụng cho cả nước, cho nên mọi kế hoạch cải tổ đều bị phải được cả nước chấp nhận trong khi các vùng và các thành phần xã hội có những quyền lợi khác nhau. Vấn đề cải tổ giáo dục vẫn còn nguyên vẹn dù đã làm gãy đổ sự nghiệp của nhiều vị thủ tướng (kể cả đương kim tổng thống Jacques Chirac lúc ông còn là thủ tướng, may mà sau một thời gian ông gượng dậy được). Chúng ta hãy tưởng tượng tình hình sẽ ra sao nếu nước Pháp là một nước tản quyền thay vì tập trung ? Vấn đề cải tổ giáo dục sẽ thuộc quyền của các chính quyền địa phương thay vì thuộc chính quyền trung ương và sẽ thực hiện tại từng địa phương, ở những thời điểm khác nhau, thay vì cùng một lúc trên cả nước. Các phản đối cải tổ nếu có, cũng sẽ chỉ ở mức độ địa phương và chính quyền địa phương sẽ được sự hỗ trợ của đại đa số dư luận trong nước (vì 90% những biện pháp cải tổ là đúng và những người ngoài vùng sẽ chỉ nhìn thấy sự đúng đắn của kế hoạch cải tổ chứ không bị đụng chạm về quyền lợi), các phản đối sẽ giảm hẳn đi cường độ. Tóm lại, cùng lắm sẽ chỉ có xung đột nhỏ ở cấp địa phương mà thôi, cuộc cải tổ sẽ thực hiện được, sẽ được lấy làm mẫu mực cho các vùng khác. Nhưng thực ra có tất cả mọi triển vọng là sẽ không có xung đột nào cả, bởi vì nguyên nhân đưa tới nhu cầu cải tổ lớn chính là vì hệ thống giáo dục tập trung quá kềnh càng (Pháp có tới hơn một triệu công chức riêng trong ngành giáo dục) nên khó cải tổ, do đó nhiều điều đáng lẽ phải sửa đổi đã không được sửa đổi, dần dần tích lũy lại thành quá lớn và đòi hỏi một cải tổ sâu rộng. Tương tự như vấn đề giáo dục, nước Pháp còn ba cuộc cải tổ lớn nữa cần phải làm là nông nghiệp, hệ thống an sinh xã hội và hệ thống vận chuyển công cộng. Ba vấn đề cùng một lý do hiện hữu : tập trung, và cùng một lý do bế tắc : tập trung.

Trong một nước tản quyền, phần lớn những vấn đề kinh tế, xã hội đặt ra ở từng địa phương và ở những thời điểm khác nhau. Mỗi địa phương là một thí điểm cho một sáng kiến giải quyết và là một kinh nghiệm cho các địa phương khác. Tổ chức tản quyền như vậy giúp quốc gia tiến tới trong sự ổn vững.

Một ưu điểm vô cùng quan trọng khác của tản quyền là nó làm giảm bớt xung đột đảng phái, bảo đảm hòa hợp dân tộc và văn minh hóa sinh hoạt chính trị. Một chính đảng có thể cầm quyền ở cấp trung ương nhưng lại là đối lập trong nhiều vùng. Ngược lại các đảng đối lập có thể cầm quyền ở một số địa phương. Xung khắc chính quyền - đối lập sẽ bớt hẳn sự gay gắt. Trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam, tản quyền giúp chúng ta chấm dứt tâm lý tồi tệ "được làm vua (và lộng hành), thua làm giặc (và phá hoại)". Đó là một giải đáp cho yêu cầu hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Tản quyền còn môt đóng góp quan trọng khác, đó là bảo đảm một chính quyền trung ương tài giỏi, vì tất nhiên đa số những người cầm quyền ở cấp trung ương đều đã trải qua giai đoạn đầu của sự nghiệp chính trị trong các chính quyền vùng và khả năng đã được kiểm chứng.

Tản quyền cũng là một trong những thành tố căn bản của dân chủ đa nguyên, nó cho phép các khuynh hướng chính trị, các sắc tộc và tôn giáo thiểu số có được một trọng lượng đáng kể tại những vùng mà họ hiện diện đông đảo, do đó nó làm dịu bớt những tâm trạng bất mãn và những ý đồ ly khai.

Tóm lại, tản quyền có tất cả mọi phúc lợi. Nhưng muốn tản quyền có nội dung và tác dụng mong muốn của nó, tản quyền phải hội đủ hai điều kiện : một là mỗi vùng phải có khả năng tồn tại và phát triển được, hai là tản quyền không khuyến khích những ý đồ ly khai.

Điều kiện thứ nhất đòi hỏi mỗi vùng phải có diện tích, dân số, tài nguyên hay điều kiện địa lý tương đối đủ. Nước ta hiện có gần 80 triệu dân (hy vọng là dân số rồi sẽ ổn định ở mức 100 triệu), chúng ta có thể chia làm từ mười đến mười lăm vùng (và tại sao không mười hai ?), mỗi vùng với dân số từ năm tới mười triệu người. Để tránh những phiền toái về hộ tịch, mỗi vùng sẽ là sự kết hợp của một số tỉnh hiện nay. Các vùng sẽ có một nghị viện, một chính quyền dân cử và một guồng máy hành chánh riêng. Ở đơn vị tỉnh, ta có thể hình dung một hội đồng tỉnh do dân bầu ra và một tỉnh trưởng xuất phát từ hội đồng tỉnh, trong khi guồng máy hành chánh vẫn là một bộ phận của guồng máy hành chánh vùng.

Điều kiện thứ hai đòi hỏi giới hạn rõ ràng thẩm quyền của chính quyền vùng. Các vùng dĩ nhiên không được quyền có quân đội, số cảnh sát vùng cũng phải nằm trong một tỷ lệ nào đó so với số cảnh sát trung ương có mặt trong vùng, thí dụ 1-1 ; luật pháp của vùng không được mâu thuẫn với luật pháp trung ương. Các vùng không có tiền tệ riêng, không được có đại diện ngoại giao, không được quyền ký hiệp ước với nước ngoài, không được làm chủ các công ty có mục đích kinh doanh, không được tổ chức những cuộc trưng cầu dân ý có nội dung chính trị. Các vùng cũng không được ký kết các hiệp ước với nhau. Với tất cả những giới hạn trên đây chúng ta không cần lo ngại một âm mưu ly khai nào ; ngược lại, những giới hạn này không hề làm suy giảm thẩm quyền văn hóa, kinh tế và xã hội nào của vùng.

Hiện nay đất nước ta tuy thống nhất về mặt hành chánh nhưng vẫn còn rất chia rẽ trong lòng người, chia rẽ vì quá khứ chính trị, chia rẽ về tôn giáo, sắc tộc, v.v... nhưng nặng nề nhất là chia rẽ Bắc-Nam. Với sự phân vùng và tản quyền như trên, mối chia rẽ Bắc-Nam sẽ không còn nữa, bởi vì sẽ không còn miền Bắc, miền Nam mà sẽ chỉ còn vùng này và vùng nọ. Các sắc tộc ít người sẽ có trọng lượng lớn tại các vùng thượng du miền Bắc và cao nguyên miền Trung, đồng bào gốc Khmer sẽ có tiếng nói đáng kể ở miền Tây Nam phần. Các tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo sẽ có một chỗ đứng quan trọng ở các tỉnh Tây Ninh và Long Xuyên. Tinh thần địa phương là bước đầu của tinh thần quốc gia dân tộc nếu được phép phát huy một cách tự nhiên. Khi các địa phương được phát triển tự nhiên, họ sẽ không còn cảm thấy muốn ly khai nữa. Vả lại, đà tiến hóa của thế giới hiện nay là kết hợp chứ không phải ly khai. Các nước châu Âu đang kết hợp thành Liên Hiệp Châu Âu, các nước Bắc Mỹ và Nam Mỹ cũng đang cố gắng kết hợp thành khối. Cộng đồng nào, địa phương nào cũng muốn được hội nhập trong một thực thể lớn hơn. Trừ khi nhà nước là xiềng xích, bạo ngược, khống chế và bóc lột, không ai muốn ly khai. Chúng ta nên sợ độc tài, bạo ngược chứ không nên sợ tản quyền. Ám ảnh "thập nhị sứ quân" không còn lý do tồn tại.

Trong một cuộc thảo luận có người bạn đã chất vấn tôi : "Lòng người đã phân hóa như thế này, anh còn đòi tản quyền để chia cắt lãnh thổ, anh muốn đổ dầu vào lửa hay sao ?". Tôi đã trả lời : "Không. Tản quyền không làm đất nước tan vỡ, trái lại nó khiến cho đất nước được quản trị một cách hợp lý hơn và thông minh hơn, nó cũng góp phần hòa giải người Việt với đất nước mình vì nó xoa dịu những bực bội. Tản quyền không phải là đổ dầu vào lửa mà là đem nước chữa cháy".

******************

Phản xạ tổng thống

 

4-tqan28

Trong một cuộc nói chuyện cách đây không lâu, một nhân vật từ trong nứớc ra có lúc đã nổi sùng cự lại tôi : "Thế anh muốn gì ? Anh đòi làm tổng thống hay sao ?". Ý vị này là trách tôi đòi thay đổi quá nhiều. Dầu sao ở miệng của một người cộng sản hai tiếng tổng thống cũng là lạ vì chức vụ tổng thống không hề có trong các chế độ cộng sản. Tôi cũng nhớ vào giai đoạn "mở cửa" của ông Nguyễn Văn Linh trong đó trí thức trong nước được phép thi đua phê phán chế độ, Dương Thu Hương đã có một bài tham luận đặc sắc ; theo một bài tường thuật, một vị cao niên nào đó đã tán thành đến độ nói với Dương Thu Hương : "Sau này tôi sẽ bầu cho cô làm tổng thống".

Đối với nhiều người Việt Nam, kể cả người cộng sản, có lẽ tương lai của Việt Nam sau này đương nhiên là chế độ tổng thống. Tuy nhiên chế độ tổng thống là một chế độ rất dở. Cho đến nay trong lịch sử thế giới đã chỉ có một trường hợp chế độ tổng thống tương đối thành công là Hoa Kỳ. Tất cả các quốc gia theo chế độ tổng thống đã thất bại. Trong đại đa số, nó đưa đến độc tài, trong những trường hợp còn lại, nó đưa đến một xung đột bế tắc giữa tổng thống và quốc hội, đặt quốc gia trong tình trạng căng thẳng thường trực.

Những khuyết tật của chế độ tổng thống không khó nhận diện. Nhưng trước hết phải hiểu thế nào là chế độ tổng thống.

Nước Đức cũng có tổng thống, nhiều quốc gia theo chế độ đại nghị cũng có tổng thống, nhưng các nước này không áp dụng chế độ tổng thống vì tổng thống chỉ có vai trò nghi lễ ; quyền hành ở trong tay một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Vì thủ tướng đồng thời cũng là lãnh tụ của đảng cầm quyền, hay liên hiệp các đảng cầm quyền, nên cũng có thể bị thay thế bất cứ lúc nào do quyết định của đảng mình hay của liên hiệp đã đưa mình lên làm thủ tướng. Trong các chế độ này tổng thống không cầm quyền nên cũng không bị thay thế trong một nhiệm kỳ nhất định. Chế độ tổng thống là chế độ trong đó tổng thống do dân chúng trực tiếp bầu ra theo phổ thông đầu phiếu, đứng đầu chính phủ và cầm quyền thực sự.

Có một số chế độ tổng thống không bình thường trong đó tổng thống nắm quyền nhưng lại không được quốc dân trực tiếp bầu ra theo phổ thông đầu phiếu mà do một định chế đặc biệt. Đó là trường hợp của Nam Cao Ly dưới thời Toàn Đầu Hoán, đó cũng là trường hợp của Indonesia từ thời Suharto. Những chế độ này thường là sản phẩm của một tình trạng bất bình thường, nhằm che giấu thực chất của một chế độ độc tài cá nhân nên không thể được coi là những chế độ dân chủ. Nam Cao Ly đã bãi bỏ chế độ này và Indonesia chẳng bao lâu nữa cũng sẽ chuyển hướng về một chế độ hợp lý hơn.

Trước khi thảo luận về chế độ tổng thống có lẽ chúng ta cần khảo sát một loại chế độ xuất hiện từ vài thập niên nay, được gọi là chế độ "bán tổng thống". Khởi đầu từ Pháp, mô hình này sau đó lan ra một số quốc gia Đông Âu, Nga và Nam Cao Ly. Một số quốc gia châu Phi có lẽ do ảnh hưởng của Pháp cũng theo chế độ này. Trong các chế độ này tổng thống cũng do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhưng lại phải chia sẻ quyền hành pháp với một thủ tướng.

Nếu chúng ta có thể hiểu khá dễ dàng một chế độ tổng thống hay một chế độ đại nghị thì lại rất khó nhận diện các quan hệ quyền lực trong một chế độ bán tổng thống. Tất cả tùy thuộc ở sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và thủ tướng. Nếu thủ tướng không chịu trách nhiệm trước quốc hội mà chỉ do tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước tổng thống thì trên thực tế ông (hay bà) chỉ là một phụ tá của tổng thống, một thứ bộ trưởng thứ nhất, và lúc đó chế độ bán tổng thống chẳng khác gì một chế độ tổng thống thuần túy bao nhiêu. Đó là trường hợp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam trước đây. Ngược lại, nếu thủ tướng xuất phát từ quốc hội và chịu trách nhiệm trước quốc hội thì vai trò của thủ tướng lại có thể quan trọng hơn cả vai trò tổng thống, ít nhất trong chính sách đối nội. Giữa hai thái cực đó là vô số công thức trung gian. Chế độ hiện nay tại Nga có thể coi là chế độ ba phần tư tổng thống, chế độ tại Nam Cao Ly là hai phần ba tổng thống. Điều cần lưu ý là trong bất cứ trường hợp nào trọng lượng của tổng thống cũng rất lớn, vì lý do là ông có sự chính đáng của phổ thông đầu phiếu trực tiếp. Ông là người duy nhất trong quốc gia được toàn dân bầu ra.

Lý do ra đời của các chế độ bán tổng thống (hãy tạm gọi như thế) là một sự quân bình giữa hai ưu tư bảo đảm dân chủ và ngăn ngừa bất ổn chính trị. Người ta muốn một tổng thống vững chắc do dân chúng bầu ra với một nhiệm kỳ rõ rệt, nhưng lại sợ nếu để ông (hay bà) nắm trọn hành pháp thì sẽ dẫn tới độc tài hoặc xung đột bế tắc với quốc hội. Đây là thái độ mà ta có thể gọi là bắt cá hai tay.

Kinh nghiệm của các chế độ bán tổng thống đã có thể cho phép chúng ta hai nhận định.

Một là, về mặt thực tế, hậu quả đã khác với những gì những người khởi xướng ra nó tưởng tượng. Các chế độ "ba phần tư tổng thống" như tại Nga vẫn giữ hầu như nguyên vẹn những bất lợi của một chế độ tổng thống, trong khi các chế độ thực sự bán tổng thống như tại Pháp đưa đến tình trạng ngược đời là nhân vật nhiều quy)ền lực nhất, nghĩa là tổng thống, lại có thể thuộc phe đối lập với tất cả những bất tiện của nó : hai vị nguyên thủ hành pháp cùng đi dự một hội nghị, những lời qua tiếng lại không ngừng trên đỉnh cao của quốc gia làm người dân mất đi sự nể trọng và tin tưởng vào nhà nước, đe dọa khủng hoảng thường trực, v.v... Cũng nên nhấn mạnh một tính toán sai lầm của những người khai sinh ra chế độ bán tổng thống là việc tổng thống và thủ tướng thuộc hai đảng chống đối nhau không phải là một ngoại lệ mà đã mau chóng trở thành một thông lệ trong các chế độ bán tổng thống thực sự, như đã thấy tại Ba Lan và Pháp. Cử tri hay có thái độ "công bình", đã bầu cho tổng thống thuộc phe này thì bầu cho một đa số trong quốc hội, và do đó thủ tướng, thuộc phe kia. Các nhà làm hiến pháp đã bắt cá hai tay thì có gì ngạc nhiên nếu dân chúng cũng bắt cá hai tay ? Điều đáng ngạc nhiên chính là người ta đã ngạc nhiên khi tình trạng này xảy ra. Chính trị quả thực chỉ là một khoa học thực nghiệm.

Hai là các chế độ bán tổng thống đã là hậu quả của một sai lầm về nhận thức chính trị. Lý do để bầu ra một tổng thống theo phổ thông đầu phiếu là để bảo đảm một mức độ ổn vững chính trị nào đó, tránh tình trạng chính phủ bị thay đổi liên tục bởi một quốc hội trong đó không có một đa số rõ rệt, mỗi lần các đảng phái thay đổi đồng minh là một thủ tướng và một chính phủ mới. Nhưng thực ra sự kiện một quốc hội gồm hai đảng lớn hay bị phân chia thành nhiều đảng nhỏ không phải là một hậu quả của chế độ đại nghị mà chỉ là hậu quả của thể thức đầu phiếu.

Nói chung, có hai thể thức đầu phiếu chính :

Thể thức thứ nhất là bầu đơn danh và một vòng, trong đó cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử bầu một dân biểu và chỉ bầu một lần, người nào được số phiếu cao nhất thì đắc cử. Với lối bầu "dã man" này, một đảng có thể chỉ được 20% số phiếu của cử tri toàn quốc mà vẫn nắm được hai phần ba số dân biểu trong quốc hội nếu các ứng cử viên của họ về hạng nhất, thí dụ như với 20%, trong hai phần ba số đơn vị bầu cử trong khi các ứng cử viên khác chỉ được 12% hay 15%. Lối bầu cử này loại bỏ các đảng nhỏ và nâng đỡ các đảng lớn. Nó đặt các đảng nhỏ trước một chọn lựa : hoặc kết hợp lại với nhau thành một đảng lớn, hoặc bị gạt ra ngoài lề ; nó dần dần đưa tới chế độ lưỡng đảng.

Thể thức thứ hai là bầu theo tỷ lệ. Theo lối đầu phiếu này, cử tri toàn quốc, hay trong mỗi vùng lớn, sẽ bầu cho các liên danh do các chính đảng đưa ra. Sau cuộc bầu cử, mỗi liên danh sẽ được một số dân biểu theo tỷ lệ, thí dụ một liên danh được 25% số phiếu thì được 25% tổng số dân biểu, hay hơn một chút bởi vì thường thường người ta hay qui định một tỷ lệ tối thiểu của số phiếu đạt được, thí dụ 5%, để được chia ghế ; các chính đảng không được 5% tổng số phiếu của cử tri không được chia phần, số ghế dân biểu đáng lẽ về phần họ được đem chia cho các đảng vượt được tỷ lệ 5%. Lối bầu phiếu này rất dân chủ vì nó cho phép mọi khuynh hướng chính trị có chút tầm vóc được hiện diện trong quốc hội, và do đó được tham dự thảo luận về các chọn lựa lớn của nhà nước. Ngược lại, nó thường đưa đến tình trạng khó khăn là quốc hội bị chia vụn thành nhiều đảng nhỏ, không đảng nào nắm được đa số và do đó thủ tướng có thể bị thay đổi thường xuyên nếu do quốc hội chỉ định và chịu trách nhiệm trước quốc hội, như trong các chế độ đại nghị.

Như vậy nếu muốn tránh tình trạng bất ổn do một quốc hội bị chia vụn thì người ta chỉ cần chấp nhận lối đầu phiếu đơn danh và một vòng là xong, không cần phải phát minh ra một chế độ bán tổng thống, hai phần ba tổng thống hay ba phần tư tổng thống.

Tóm lại, cả lý do khiến các chế độ gọi là bán tổng thống được phát minh ra lẫn những hậu quả mà người ta dự đoán chúng sẽ đem lại đều là những sai lầm. Sai lầm về phân tích chính trị hoặc sai lầm về tiên liệu phản ứng của cử tri. Nói như thế không có nghĩa là tôi đề nghị gạt bỏ chế độ bán tổng thống một cách không thương tiếc. Ít nhất nó cũng sửa chữa được phần nào những xơ cứng của chế độ tổng thống. Nó có thể là một giải pháp trấn an cho chúng ta sau này nếu do lo âu và lưỡng lự - không đúng nhưng khó trút bỏ - chúng ta chưa dám chọn lựa dứt khoát chế độ đại nghị.

Bây giờ trở về với chế độ tổng thống. Những bất lợi và nguy cơ của chế độ tổng thống không khó nhìn thấy.

Trước hết, nó dành quá nhiều quyền cho một người không thể bị thay đổi trong một thời gian dài, ít nhất cũng bốn năm. Tổng thống có thể dùng quyền lực này mà bất chấp cả quốc hội. Nếu trong thời gian này tổng thống làm toàn sai lầm, hoặc vi phạm luật pháp thì sao ? Hậu quả là đất nước bị lâm vào tình trạng bệnh hoạn vô phương cứu chữa trong suốt nhiệm kỳ, hoặc sẽ phải trải qua một cuộc khủng hoảng lớn trước khi hạ bệ được tổng thống. Điều mà người ta nghĩ là một ưu điểm của chế độ tổng thống - sự kiện nguyên thủ hành pháp không thể bị thay đổi trong một nhiệm kỳ - thực ra là một mối nguy. Chế độ tổng thống cũng chờ đợi quá nhiều đức tính và khả năng ở một người trong khi không ai có thể hoàn hảo, hơn nữa ai cũng có thể bị sút giảm sức khỏe và khả năng một cách bất ngờ.

Nhưng còn một hậu quả nghiêm trọng hơn là chế độ có thể trở thành độc tài. Tâm lý tại các nước thiếu mở mang là hay bầu lại cho người cầm quyền trừ khi ông ta quá tồi dở. Một tổng thống mị dân có thể mê hoặc cử tri để trở thành một thứ thần tượng rồi không những tái đắc cử mà còn đem cả tay chân và thủ hạ vào quốc hội, sửa đổi hiến pháp, ban hành tình trạng khẩn cấp, v.v... để kéo dài thời gian cầm quyền. Đó là tình trạng đã xảy ra ở hầu hết các nước mới được độc lập. Đó đã là trường hợp của mọi nước châu Mỹ La Tinh, trừ Chile, trong một thế kỷ rưỡi từ giữa thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20.

Và nếu tổng thống xung đột với quốc hội ? Nhà nước sẽ chỉ được quản lý theo lối xử lý thường vụ ; luật quốc hội biểu quyết tổng thống không ban hành, các đề nghị của tổng thống quốc hội không chấp nhận. Đất nước sẽ dẫm chân tại chỗ trong khi bối cảnh quốc gia và quốc tế thay đổi. Guồng máy nhà nước cũng có thể bị ngừng trệ vì ngân sách không được biểu quyết hoặc tháo khoán.

Cách bầu cử tổng thống qua phổ thông đầu phiếu tự nó đã không đứng đắn.

Cuộc bầu cử một người trên một nước lớn đòi hỏi những chi phí rất quan trọng cho ứng cử viên, do đó chỉ có những người rất giàu hoặc được sự hỗ trợ của những thế lực tài phiệt lớn mới có thể tranh cử. Như vậy bằng cách này hay cách khác quyền lãnh đạo chính trị sẽ luôn luôn thuộc về người giàu có chứ không phải thuộc về người thực sự có trí tuệ và khả năng.

Lối bầu cử tổng thống là bầu cho một người trước khi bầu cho một dự án chính trị. Tổng thống có thể được bầu vì những lý do không liên hệ gì với khả năng chính trị : con cháu một vĩ nhân, đẹp trai, ăn ảnh, vợ đẹp, nói chuyện duyên dáng, v.v... làm mất sự nghiêm trang của sinh hoạt quốc gia. Cử tri có thể bầu cho một ứng cử viên như thế, nhưng sau đó lại nhàm chán với sinh hoạt chính trị.

Lô-gích của một cuộc bầu cử tổng thống là được ăn cả ngã về không cho nên các cuộc bầu cử tổng thống thường rất gay gắt và gây chia rẽ trầm trọng, nhất là trong một quốc gia đang bị đặt trước những chọn lựa khó khăn. Mỗi cuộc thay đổi tổng thống đều tương tự như một cuộc cách mạng với những người rất vui mừng và những người rất tức giận.

Hậu quả của chế độ tổng thống cũng là làm tan vỡ các đảng phái chính trị. Tình trạng này có hai lý do. Một là vì sự được hay thua dựa trên một người nên nhu cầu là có được một ê-kíp quảng cáo chính trị tốt chứ không phải một bộ tham mưu chính trị giỏi, vấn đề là làm thế nào để đánh bóng được ứng cử viên của mình để giành được chức tổng thống trước khi cần những nhà chiến lược lớn. Hai là vì chức vụ tổng thống là tất cả cho nên những nhân vật lớn trong cùng một đảng không thể thỏa hiệp với nhau. Hai nhân vật ngang tầm cỡ với nhau không thể thỏa hiệp để người có hy vọng hơn ra ứng cử, bởi vì không có sự qua lại, phải nhượng bộ tất cả hoặc không nhượng bộ gì hết. Các quốc gia theo chế độ tổng thống vì vậy thường không thể có các chính đảng lớn như tại các quốc gia theo chế độ đại nghị. Sự kiện thiếu vắng các chính đảng lớn là một bất lợi trầm trọng cho quốc gia. Các chính đảng lớn vừa là lò đào tạo ra các nhà lãnh đạo vừa là nơi mổ xẻ và trao đổi những ý kiến về những chọn lựa quan trọng đặt ra cho đất nước.

Hơn nữa, các nước theo chế độ tổng thống không phải chỉ thiếu chính đảng lớn mà còn thiếu chính đảng đúng nghĩa. Vì tất cả quyền hành tập trung vào tổng thống nên vị tổng thống nào cũng lôi kéo được sự hùa theo của một số đông đảo những phần tử cơ hội chủ nghĩa và vụ lợi. Tổng thống luôn luôn có một đảng rất lớn nhưng thường không có phẩm chất, bởi vì phần lớn là những phần tử xu nịnh.

Tôi sống tại Pháp và đã theo dõi năm cuộc bầu cử tổng thống. Mỗi cuộc bầu cử là mỗi lần dân Pháp bị chia làm hai phe. Kết quả vừa được công bố thì lập tức hàng trăm nghìn người xuống đường đốt pháo bông, bóp kèn, nhảy múa và gào hét "On a gagné !" [Ta đã thắng !] trong khi những người thuộc phe thua thì lòng đau như cắt. Mỗi lần bầu cử tổng thống là mỗi lần nội bộ các đảng lớn khủng hoảng trầm trọng. Trong đảng xã hội, tổng thống Mitterrand và nhân vật uy tín thứ hai là Michel Rocard trở thành những kẻ thù, không phải chỉ suốt đời mà cả sau khi ông Mitterrand đã chết. Đảng Xã Hội hầu như tan rã sau lần bầu cử tổng thống thứ hai. Bên cánh hữu thì Tập Hợp Cộng Hòa, đảng lớn nhất, cũng tan rã dần sau cuộc bầu cử tổng thống. Đôi bạn ba mươi năm Chirac và Balladur đã trở thành những đối thủ không thể nhìn mặt nhau, sau khi cả hai đều ra ứng cử tổng thống dù thuộc cùng một đảng. Nguyên nhân lúc nào cũng giống nhau : người ta không thể thỏa hiệp, bởi vì chức vụ tổng thống là tất cả. Hậu quả tai hại như vậy dù Pháp mới chỉ là một nước theo chế độ bán tổng thống, trong đó hiến pháp dành cho thủ tướng toàn quyền trong các vấn đề kinh tế xã hội.

Bây giờ, hãy nhìn ngay vào trường hợp Hoa Kỳ, quốc gia duy nhất mà chế độ tổng thống có thể coi là thành công. Sự thành công này có một giải thích : Hoa Kỳ không giống bất cứ một quốc gia nào khác trên thế giới.

Quốc gia này đã được thành lập sau khi xã hội dân sự đã trở thành mạnh mẽ, từ đó xã hội dân sự luôn luôn nắm vai trò chủ động, nhà nước Hoa Kỳ luôn luôn là một nhà nước nhẹ tới mức tối thiểu. Trong tác phẩm để đời của ông Về Nền Dân Chủ Mỹ [De la Démocratie en Amérique] viết năm 1830, Alexis de Tocqueville kể lại rằng ông tìm gặp một thị trưởng một thành phố khá lớn tại Mỹ và thấy một người rất tầm thường đang loay hoay sửa mái nhà, qua câu chuyện ông thấy vị thị trưởng chỉ có một trình độ hiểu biết rất giới hạn. Tocqueville nhận ra là tại Mỹ những người thông minh và tài giỏi đều lao vào kinh doanh làm giàu, chỉ những người trung bình mới tham gia vào chính quyền. Chính quyền vì vậy luôn luôn trọng nể xã hội dân sự và tự cho mình sứ mạng là phục vụ xã hội dân sự và tạo điều kiện để xã hội dân sự có thể hoạt động lành mạnh. Nền tảng của nước Mỹ là xã hội dân sự. Không những thế Hoa Kỳ lại theo chế độ liên bang, tản quyền tối đa, vai trò của nhà nước trung ương lại càng bị giảm thiểu. Trong phần thảo luận về dân chủ, chúng ta đã nói tự do mới là cứu cánh của chính trị, vì thế ưu tư đầu tiên phải là giảm thiểu vai trò của chính quyền để nhường chỗ tối đa cho cá nhân và xã hội dân sự. Hoa Kỳ là bằng chứng rằng một chính quyền dở mà nhẹ vẫn hơn một chính quyền tốt nhưng kềnh càng. Một nét đặc thù khác của nước Mỹ là ngay từ ngày lập quốc nó đã có một đồng thuận rất mạnh trên một triết lý chính trị, triết lý chính trị đó là chủ nghĩa cá nhân tự do. Vì vậy mà Hoa Kỳ không có những cuộc tranh luận chính trị lớn. Các issues của những cuộc bầu cử chỉ là những vấn đề nhỏ : có nên hạn chế quyền phá thai không, có cho phép cầu nguyện trong trường học không, ủng hộ hay không ủng hộ án tử hình, hay cùng lắm là tăng hay giảm 0,5% thuế, v.v... Trường hợp Hoa Kỳ vì vậy không thể nới rộng cho các quốc gia đang bị đặt trước những chọn lựa quan trọng. Các nước khác bắt chước chế độ tổng thống của Hoa Kỳ đã chỉ tiến dần về độc tài và bế tắc.

Tuy vậy, chế độ tổng thống cũng đã gây những khó khăn đáng kể cho Hoa Kỳ, một tổng thống kém cỏi như Harding đã có thể tiếp tục trong sự sai lầm, góp phần quyết định đưa cả Hoa Kỳ và thế giới vào cuộc khủng hoảng bi đát 1929. Chính cuộc khủng hoảng này đã giúp cho các đảng phát-xít lên cầm quyền tại Ý và Đức, đưa đến thế chiến ; nó cũng đã cung cấp lập luận cho chế độ cộng sản Liên Xô và nhiều chế độ độc tài khác để bài bác dân chủ. Một thí dụ gần đây hơn là vụ tai tiếng của Bill Clinton và Monica Lewinski, gây chia rẽ và bối rối vô ích cho nước Mỹ trong hơn một năm trời. Nếu Clinton chỉ là một thủ tướng, ông đã có thể từ chức một cách êm thấm. Hoa Kỳ đã thành công với chế độ tổng thống nhờ một xã hội dân sự mạnh, tổ chức liên bang, chính quyền nhẹ và đồng thuận cao, nhưng chắc chắn Hoa Kỳ sẽ thành công hơn nhiều nếu theo chế độ đại nghị.

Cần lưu ý là vào lúc lập quốc, chính quyền liên bang Hoa Kỳ chỉ có một nhiệm vụ chính là đảm bảo quốc phòng. Dần dần với vai trò ngày càng lớn trên thế giới và với các vấn đề ngày càng phức tạp, chính quyền liên bang đã trở thành một chính quyền thực sự, nhưng đồng thời chế độ Hoa Kỳ cũng chuyển biến từ từ tới gần một chế độ đại nghị.

Tại Pháp, do sự phá sản của lối đầu phiếu theo tỷ lệ được đổ lỗi oan cho chế độ đại nghị và do uy tín áp đảo của tướng De Gaulle, chế độ bán tổng thống đã được thành lập, nhưng càng ngày càng có những tiếng nói có thẩm quyền cất lên đòi chuyển hóa về chế độ đại nghị. Maurice Druon, cựu bộ trưởng của De Gaulle và viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp, đánh giá chế độ tổng thống là một sai lầm vĩ đại của De Gaulle.

Thực ra chế độ tổng thống là gì ? Nó là một cải tiến của chế độ quân chủ tuyệt đối theo hai hướng : một là vua được bầu ra do phổ thông đầu phiếu thay vì lên ngôi theo cha truyền con nối và được gọi là tổng thống ; hai là quyền hạn của tổng thống được qui định theo hiến pháp. Tóm lại, chế độ tổng thống là một bước tiến do dự từ chế độ quân chủ sang dân chủ. Nói khác đi, nó phản ánh một lấn cấn tiếc nuối đối với những chế độ mệnh danh là "độc tài sáng suốt". Nguyễn Ngọc Huy đã bày tỏ tâm lý này trong cuốn Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn. Ông giải thích rằng trước đây đảng Đại Việt chọn chế độ độc tài và theo lãnh tụ chế vì vào lúc đảng Đại Việt được thành lập các chế độ độc tài đang thịnh hành ; sau đó vì các chế độ độc tài không còn được nhìn nhận, đảng Đại Việt đã chuyển sang chế độ tổng thống vì nghĩ rằng chế độ này giữ được những ưu điểm của chế độ độc tài dù vẫn dân chủ. Ngày nay thực tế đã chứng minh rõ ràng rằng không làm gì có những "ưu điểm" của chế độ độc tài cả, các "chế độ độc tài sáng suốt" chỉ là một huyền thoại, mọi chế độ độc tài đều tồi tệ. Chỉ còn một chọn lựa dứt khoát là dân chủ. Chế độ dân chủ nhất là chế độ đại nghị, trong đó quyền hành thuộc về một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội.

Trong chế độ đại nghị, người dân bầu một cách đúng đắn hơn hẳn, họ bầu cho một dự án chính trị thay vì cho một người, và họ cũng bầu cho hàng trăm dân biểu cùng một lúc. Cử tri mỗi đơn vị có phương tiện để tiếp xúc và tìm hiểu các ứng cử viên để có thể bầu với sự hiểu biết. Rủi ro sai lầm giảm đi, và sai lầm nếu có cũng không trầm trọng vì họ chỉ bầu một trong số bốn, năm trăm dân biểu.

Vị thủ tướng có thể bị quốc hội thay đổi bất cứ lúc nào và phải luôn luôn chứng tỏ khả năng của mình trước một "hội đồng giám khảo" có bản lãnh. Do đó thủ tướng vừa phải có thực tài vừa phải hết sức thận trọng. Sự thay đổi thủ tướng, nếu cần, cũng không gây ra khủng hoảng lớn. Các chính đảng cũng hoạt động nghiêm túc và hài hòa hơn, hai nhân vật ngang tầm cỡ trong cùng một đảng cũng có thể dễ dàng thỏa hiệp với nhau hơn, để một người làm lãnh tụ và trở thành thủ tướng nếu đảng thắng cử, bởi vì chức thủ tướng không phải là tất cả, thủ tướng chỉ là người thứ nhất trong số những người ngang nhau trong một chính phủ.

Chế độ thủ tướng chắc chắn hơn hẳn chế độ tổng thống, với điều kiện là nó vừa bảo đảm được một mức độ ổn vững tương đối vừa bảo đảm được tiếng nói của mọi khuynh hướng trong các cuộc tranh luận trên những vấn đề lớn của đất nước. Đó là một bài toán có lời giải.

Chúng ta đã biết là lối đầu phiếu đơn danh và một vòng đưa tới một quốc hội với hai đảng lớn. Mặt khác chúng ta cũng biết rằng lối đầu phiếu theo tỷ lệ đảm bảo tiếng nói trong quốc hội cho mọi khuynh hướng.

Như vậy giải pháp tối ưu là một thể chế đại nghị tản quyền với một quốc hội trong đó 90% dân biểu được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, và 10% còn lại được bầu theo tỷ lệ. Số 90% bầu theo thể thức đơn danh bảo đảm sự hiện diện của một đa số trong quốc hội và do đó sự ổn vững của chính quyền, trong khi số 10% bầu theo tỷ lệ có hai mục đích, một là bảo đảm cho mọi khuynh hướng được có tiếng nói, hai là cho phép những người lãnh đạo các chính đảng khỏi phải lo tranh cử tại các địa phương và tập trung cố gắng vào những vấn đề quốc gia. Giải pháp này đã được đưa ra trong Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên 1996 của nhóm Thông Luận. Gần đây, Guy Carcassonne, chuyên gia có uy tín về các định chế chính trị tại Pháp, phản ánh những trao đổi của các chuyên gia lớn trên thế giới về hiến pháp, cũng đi tới cùng một đề nghị.

Người Việt Nam chúng ta sở dĩ coi chế độ tổng thống là tự nhiên vì đó là chế độ không cộng sản duy nhất mà đại đa số chúng ta biết tới. Ở miền Nam Việt Nam trước đây đã chỉ có chế độ tổng thống. Sau này hai cộng đồng người Việt hải ngoại lớn nhất là tại Mỹ và Pháp, cả hai nước này đều theo chế độ tổng thống. Từ đó chúng ta tiêm nhiễm một thứ phản xạ tổng thống. Nhưng có những phản xạ rất có hại, cũng như có những thành kiến cần phải từ bỏ.

******************

 

Chuyện của các luật sư ?

 

4-tqan29

Nước ta chỉ mới tạm gọi là giành được độc lập từ sau thế chiến II, mà đã có khá nhiều hiến pháp. Phe cộng sản có bốn hiến pháp : hiến pháp 1946, hiến pháp 1959, hiến pháp 1980 và hiến pháp 1992. Phe quốc gia dù chỉ tồn tại chưa đầy 30 năm cũng đã có hai bản hiến pháp 1956 và 1967. Đó là chưa kể những bản tuyên ngôn, hiến ước, hiến chương được dùng như những hiến pháp tạm thời. Nếu so với nhiều quốc gia khác như Mỹ chỉ có một hiến pháp từ thời lập quốc, Đức và Nhật chỉ có một hiến pháp từ 1945, hoặc Anh chẳng có một hiến pháp thành văn nào thì chúng ta quả là giữ một kỷ lục về số lượng hiến pháp. Thú thực, tôi không biết có một dân tộc nào trên thế giới có một lượng hiến pháp bằng nước ta trong cùng một giai đoạn không. Tôi chắc là không.

Tuy vậy số lượng hiến pháp không hề chứng tỏ người Việt Nam chúng ta trăn trở về hiến pháp, luôn luôn dằn vặt suy nghĩ tìm cách thay đổi cho phù hợp hơn, trái lại nó còn chứng tỏ người Việt Nam không có một quan điểm đúng đắn về hiến pháp. Đặc tính chung của tất cả mọi bản hiến pháp đã có là chúng đều đã được soạn thảo một cách vội vã và kín đáo, được thông qua hầu như không tranh cãi và được ban hành trước sự dửng dưng của dân chúng.

Đảng cộng sản hiển nhiên là coi hiến pháp là của người cầm quyền. Hiến pháp là văn kiện tổ chức nhà nước, mà nhà nước theo triết học Mác-Lênin chỉ giản dị là công cụ đàn áp của kẻ thống trị. Lời nói đầu của hiến pháp 1992 gồm 530 chữ trong đó có 53 chữ, nghĩa là đúng 10%, được dành cho "hơn bốn ngàn năm lịch sử" của Việt Nam, phần còn lại chỉ nói về đảng cộng sản. Chưa đủ, lời nói đầu, phần long trọng nhất của hiến pháp, còn qui chiếu về cương lĩnh chính trị của đại hội lần thứ sáu của đảng cộng sản, một văn kiện chỉ có giá trị giai đoạn ngay cả với đảng cộng sản. Bản chất của hiến pháp như là một công cụ đàn áp được thể hiện rõ ràng qua những điều đầy tính hăm dọa, thí dụ như điều 13.

Thế còn những người Việt Nam nói chung ? Phần đông chúng ta cũng có một quan niệm rất sai lầm về hiến pháp. Hình như đối với chúng ta hiến pháp chỉ là một văn kiện tổ chức chính quyền có tính chuyên môn và thuộc thẩm quyền của các luật sư. Ngược lại, phần lớn các luật sư cũng tự coi là có thẩm quyền để nói về hiến pháp hơn người khác, mà không hiểu tại sao.

Trí thức trung niên và cao niên của ta thừa hưởng văn hóa Pháp, từ đó, một cách phiến diện, coi hiến pháp nằm trong phạm vi luật học, một lẫn lộn mà chính các học giả Pháp cũng đã nhìn nhận. Thực ra hiến pháp tuy là luật căn bản của quốc gia và là cội nguồn của luật pháp nhưng không nằm trong phạm vi luật học mà thuộc phạm vi văn hóa, chính trị và xã hội. Một luật sư dù có khả năng biện hộ tài tình những vụ kiện cáo nhà đất và ly dị vẫn có thể không có tư cách gì để bàn về hiến pháp. Luật phải qui chiếu vào hiến pháp nhưng hiến pháp không thuộc phạm vi của luật học. Các chuyên gia về hiến pháp của Pháp cũng đã nhận ra sự mập mờ của cụm từ "droit constitutionnel" được dịch sang tiếng Việt là "luật hiến pháp" và càng ngày càng dùng cụm từ "định chế chính trị" [institutions politiques] nhiều hơn. Cụm từ này tuy đúng nghĩa hơn nhiều, nhưng cũng chưa đúng hẳn.

Vậy thì hiến pháp là gì ?

Nó đúng là văn kiện qui định những định chế chính trị, nhưng đồng thời nó cũng đặt nguyên tắc, nếu không qui định một cách rõ rệt, cho tương quan giữa các thành tố của xã hội, cũng như cho nhiều định chế văn hóa, xã hội khác cần thiết cho sự sống và tiến hóa của cộng đồng quốc gia. Như vậy, muốn nói tới hiến pháp, trước hết phải có một quan niệm về quốc gia đã. Trong một chương trước chúng ta nhận định quốc gia như không gian liên đới của một dân tộc để cho phép họ sống chung và xây dựng với nhau một tương lai chung. Như vậy hiến pháp phải là một thỏa ước về một hiện tại và một tương lai. Trong hiện tại chúng ta đang th^ừa hưởng di sản nào, đang có những vấn đề nào và phải tổ chức cộng đồng quốc gia như thế nào cho phù hợp ? Chúng ta đang đứng trước những nguy cơ nào và phải tổ chức như thế nào để ngăn ngừa ? Và với tất cả khả năng và tiềm năng của chúng ta, chúng ta muốn một tương lai như thế nào và phải tổ chức cố gắng chung như thế nào để đạt tới ?

Tất cả những câu hỏi đó hiến pháp phải trả lời và những người có thẩm quyền để đề nghị những câu trả lời là những người đã trải qua nhiều trăn trở và suy tư về đất nước và có đủ sự hiểu biết để có thể đưa ra những kết luận. Đó là những nhà chính trị, những nhà xã hội học, những nhà tư tưởng với những đóng góp của các chuyên gia mọi ngành, trong đó luật học chỉ là một.

Vì là một qui ước sống chung và làm việc chung, hiến pháp phải có sức thuyết phục, nghĩa là vừa phải hợp lý vừa phải hợp tình để được mọi người, ngay cả những người không đồng ý, nhìn nhận tính chính đáng, lương thiện và thành khẩn. Nó cũng phải có khả năng động viên và thôi thúc, nghĩa là cũng phải có giá trị của một lời kêu gọi.

Hiến pháp có thực sự cần thiết không ?

Câu hỏi có vẻ khiêu khích nhưng câu trả lời là không. Vai trò của nó là phát biểu một đồng thuận sống chung và theo đuổi những mục đích chung, nếu đồng thuận đã rõ ràng thì hiến pháp không cần thiết, quốc gia có thể sinh hoạt chỉ bằng những đạo luật đặc biệt. Nước Anh không có hiến pháp mà vẫn là một quốc gia rất phồn vinh. Không cần thiết trên nguyên tắc nhưng hiến pháp có lợi về mặt thực tiễn bởi vì nó vạch ra một tinh thần chỉ đạo cho các đạo luật. Trong trường hợp Việt Nam, giữa lúc lòng người hoang mang và phân tán, chúng ta cần một hiến pháp để làm một căn bản đồng thuận, nhưng với điều kiện là hiến pháp đó thực sự là kết quả của một cố gắng tìm đồng thuận dân tộc.

Hiến pháp có cần ổn vững không ?

Câu trả lời là chắc chắn cần. Thay đổi hiến pháp là thay đổi luật chơi cơ bản nhất của xã hội, có thể gây xáo trộn trong sinh hoạt quốc gia và làm đổ vỡ nhiều dự án. Kinh nghiệm đã cho thấy một hiến pháp dân chủ ổn vững là điều kiện không có không được cho phát triển, bởi vì có như thế người dân mới yên tâm làm những dự định cho tương lai. Cần nhấn mạnh cụm từ êhiến pháp dân chủ ổn vữngê bởi vì nếu hiến pháp chỉ là sự áp đặt của kẻ thắng, nhất là lại chứa đựng những qui định khiêu khích thì, ngược lại, càng kéo dài bao lâu nó càng gây tác hại và làm rạn nứt dân tộc bấy nhiêu.

Sự ổn vững của hiến pháp rất cần thiết, cho nên ưu tư lớn nhất của người soạn thảo hiến pháp phải là làm thế nào để nếu một lực lượng khác lên cầm quyền họ cũng không có lý do để đổi hiến pháp. Việc một lực lượng chính trị cầm quyền áp đặt hiến pháp theo ý mình vừa là một thái độ xấc xược vừa chứng tỏ sự thấp kém của những người không có tham vọng để lại dấu ấn lâu dài. Quan sát các quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể thấy là hầu như có một định luật là các nước càng ít thay đổi hiến pháp thì càng phát triển, càng nhiều hiến pháp bao nhiêu thì càng trì trệ bấy nhiêu. Sự phồn vinh tỷ lệ nghịch với số lượng hiến pháp được ban hành.

Nhưng ổn vững không có nghĩa là bất động. Hiến pháp phải đáp ứng những yêu cầu lớn của giai đoạn và do đó cũng phải có khả năng thích nghi với thời đại. Không nên tu chỉnh hiến pháp một cách tùy tiện, nhưng ngược lại cũng không nên khóa chặt cánh cửa đối với những tu chỉnh cần thiết, và càng không nên đưa vào hiến pháp những gì chỉ có giá trị nhất thời và vì thế có thể qui định bằng một đạo luật thường. Một trường hợp điển hình là hiến pháp Bồ Đào Nha [Portugal] ban hành năm 1976. Vào lúc đó Portugal vừa trải qua ba mươi năm dưới chế đô độc tài Salazar, quan tâm chính của các nhà lập pháp Portugal là làm thế nào ngăn chặn mọi khả năng trở lại của một chế độ độc tài. Họ đã chọn chế độ đại nghị, đó là một chọn lựa đúng. Họ cũng chọn cách bầu cử quốc hội theo lối bầu tỷ lệ. Quả nhiên lối bầu theo tỷ lệ là thể thức bầu cử dân chủ và đa nguyên nhất. Nhưng họ đã làm một sai lầm lớn do nhiệt tình quá đáng là ghi ngay vào hiến pháp một điều khoản cấm thay đổi cách đầu phiếu này (và dĩ nhiên cả điều khoản cấm thay đổi). Ngày nay chính giới Portugal nhận ra sự bất lợi của lối bầu cử theo tỷ lệ nhưng không thay đổi được. Nước Portugal vì vậy luôn luôn bị đặt trước nguy cơ là không có nổi một đa số gắn bó trong quốc hội, và do đó một chính phủ đủ vững mạnh, để lấy những quyết định quan trọng.

Hiến pháp có phải là đặc biệt cho một quốc gia không ?

Câu trả lời là vừa có vừa không.

Có, bởi vì mỗi dân tộc có một di sản văn hóa riêng với những cái hay và những cái dở và một lịch sử riêng với những yếu tố tích cực và những yếu tố tiêu cực. Do đó mỗi dân tộc có những vấn đề trọng đại riêng phải giải quyết. Hiến pháp phản ánh đặc thù dân tộc.

Không, bởi vì quốc gia nào cũng phải hội nhập vào đà tiến chung của thế giới và vì thế không thể phủ nhận luật pháp quốc tế và các giá trị phổ cập của loài người. Nhiều quốc gia đã long trọng xác nhận Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các công ước đính kèm như là thành phần của hiến pháp của mình. Đó là một chọn lựa rất đúng đắn.

Chúng ta có cần một hiến pháp mới cho Việt Nam không ?

Câu trả lời không hiển nhiên như nhiều người có thể nghĩ. Cho tới nay có một sự kiện khá ngộ nghĩnh. Phần lớn các thành phần đối lập, kể cả các tổ chức chống cộng hải ngoại từng chủ trương kháng chiến võ trang, đều lên tiếng đòi bỏ điều 4 (điều qui định đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo xã hội và nhà nước). Chỉ có thế thôi sao ? Thế còn điều 9, điều 13, điều 30, điều 45, v.v... ? Và còn danh xưng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ? Và lời nói đầu dành 90% để nói về công đức của đảng cộng sản ? Chỉ đòi bỏ điều 4 là một thái độ quá khiêm tốn, ngay cả cho một giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ vì còn rất nhiều điều khoản khác cũng quá khích không kém và nếu được duy trì sẽ có thể bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa. Thí dụ như điều 45 qui định quân đội phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Quí vị trong một chính phủ chuyển tiếp (giả thử như sẽ có) phải coi chừng, quí vị có thể bị quân đội đảo chính một cách rất hợp hiến ! Sự kiện điệp khúc "bỏ điều 4" được lặp đi lặp lại trong các nghị quyết, kháng thư, tuyên ngôn... chứng tỏ phần lớn các tổ chức không quan tâm đến hiến pháp và không đọc hiến pháp, như đại đa số người Việt Nam từ trước đến nay.

Để chuyển hóa về dân chủ thì ngay giai đoạn chuyển tiếp, không phải chỉ một điều 4, mà còn nhiều điều khác cần được vô hiệu hóa. Công việc sẽ quá phức tạp vì phải rà soát lại toàn bộ hiến pháp ? Không hẳn như vậy, chúng ta có thể chỉ cần một nghị quyết, do quốc hội đương hành biểu quyết hoặc do một trưng cầu dân ý, tuyên bố vô hiệu hóa mọi qui chiếu của hiến pháp về bất cứ một tổ chức, một chủ nghĩa hay một nhân vật nào. Tất cả vấn đề là thiện chí, nếu thực sự có ý chí dân chủ hóa thì không có vấn đề nào không giải quyết được.

Rồi sau đó ? Chúng ta có thể đồng ý soạn thảo lại một bản hiến pháp mới hoặc sửa đổi hiến pháp hiện thời. Nhưng dù chọn giải pháp tu chính đi nữa thì cũng phải thay lời nói đầu, sửa đổi các điều khoản nói về đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin, Mặt Trận Tổ Quốc, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, và nhiều điều khoản về tổ chức nhà nước, v.v... Nói khác đi, dù là tu chính đi nữa, trên thực tế vẫn là một hiến pháp hoàn toàn mới về nội dung.

Chúng ta sẽ cho hiến pháp này nội dung nào ?

Như đã nói, hiến pháp phải đáp ứng những đòi hỏi trọng đại của hiện tại và cũng phải phù hợp với xã hội tương lai mà chúng ta muốn đạt tới. Trong hiện tại ["hiện tại" có nghĩa là khi chế độ dân chủ chính thức được thành lập], ba ưu tư chính của chúng ta là bảo đảm một bối cảnh chính trị ổn vững, ngăn chặn sự trở lại của một chế độ độc tài dưới bất cứ hình thức nào và thực hiện hòa giải dân tộc. Trong tương lai, chúng ta muốn một nước Việt Nam hội nhập vào đà tiến chung của thế giới, một nước Việt Nam phát triển nhanh để bắt kịp sự chậm trễ so với các nước khác, một nước Việt Nam ngày càng thống nhất trong lòng người, một nước Việt Nam tản quyền để cho phép mỗi vùng được quản lý một cách phù hợp với điều kiện riêng của mình và phát huy được tối đa các ưu điểm của mình. Chúng ta cũng muốn một xã hội đa nguyên trong đó mọi sắc tộc và mọi tín ngưỡng được thỏa mãn những khát vọng chính đáng.

Nếu những mục tiêu trên được chấp nhận thì một cách thực tế hiến pháp tương lai có thể gồm :

1. Một lời nói đầu, được coi là có giá trị pháp lý cao nhất, trong đó các mục tiêu trên được nêu ra, với ít nhất những khẳng định sau đây :

      - Việt Nam coi bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và mọi công ước liên hệ, cùng với những tu chính sau này của chúng, là thành phần tạo thành và khắng khít của hiến pháp Việt Nam (khẳng định này nhắm mục đích cho phép Việt Nam đi cùng nhịp với tiến bộ của thế giới).

      - Trong nước Việt Nam không có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không có những đề tài cấm bàn đến (khẳng định này lấy tự do và sáng kiến làm sức mạnh dựng nước).

      - Xã hội Việt Nam được xây dựng trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc (hòa giải và hòa hợp không những là nhu cầu cấp bách của đất nước hiện nay mà còn là một triết lý chính trị mới trên thế giới).

2. Các điều khoản về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Các điều khoản này không cần đi vào chi tiết vì những quyền công dân phần lớn đã nằm trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các công ước liên hệ, mặt khác nên theo tinh thần thực nghiệm, nghĩa là bổ túc dần dần hiến pháp, biến hiến pháp thành một suy tư thường trực trong quốc gia.

3. Các điều khoản về tổ chức nhà nước, trong đó qui định :

      - Lãnh thổ Việt Nam thống nhất trong sự kết hợp các vùng. Chính quyền trung ương giữ độc quyền về quốc phòng, ngoại giao và tiền tệ. Mỗi vùng được có chính quyền riêng do dân chúng bầu ra. Các chính quyền vùng không được có quân đội và tiền tệ riêng, không được ký kết những hiệp ước với nước ngoài và với các vùng khác, không được làm chủ các cơ sở có mục đích kinh doanh. Chi tiết về biên giới các vùng và cách tổ chức chính quyền vùng sẽ do một đạo luật riêng do quốc hội biểu quyết.

      - Chính quyền trung ương gồm một quốc hội trong đó không dưới 80% đại biểu được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, phần còn lại bầu theo tỷ lệ, một thượng viện mà vai trò chính là đại diện cho các vùng, trong đó mỗi vùng có một số thượng nghị sĩ bằng nhau ; một tổng thống, hay chủ tịch nước, do quốc hội và thượng viện bầu ra với vai trò chủ trì những nghi lễ và bảo đảm sự liên tục, ổn vững và đoàn kết quốc gia ; một chính phủ gồm một thủ tướng do quốc hội bầu ra và những bộ trưởng do thủ tướng chỉ định ; và một tòa án tối cao có quyền phán quyết tính hợp hiến của các đạo luật do quốc hội biểu quyết và các nghị định của chính phủ, trọng tài các tranh tụng giữa những cơ quan quyền lực, xét xử các cấp lãnh đạo cấp cao, và xét lại các phán quyết của các tòa án trung ương cũng như địa phương.

      - Mỗi vùng sẽ có một nghị viện riêng và một chính quyền vùng do nghị viẹân vùng bầu ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.

      - Các chính đảng được nhìn nhận là có vai trò quan trọng trong sinh hoạt quốc gia và được tài trợ theo luật pháp.

4. Một số điều khoản đặc biệt có mục đích nhấn mạnh mục tiêu dài hạn của quốc gia để thu hút sự chú ý của dân chúng, thí dụ như qui định chức năng của Việt Nam là một nước thương mại, công nghiệp và du lịch ; Việt Nam vận động mọi cố gắng để chung sống trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với các quốc gia khác, đóng góp củng cố hòa bình trong vùng và trên thế giới ; trách nhiệm đặc biệt trọng đại của mọi công dân Việt Nam là gìn giữ và không ngừng cải thiện môi trường sinh sống, không khí, cây rừng, bờ biển, lãnh hải và thềm lục địa.

Hiến pháp chỉ dừng lại ở những nguyên tắc và tinh thần chỉ đạo ; những chi tiết cụ thể, có thể rất quan trọng, như việc qui định các đơn vị bầu cử, tổ chức chính quyền địa phương, số lượng và thể thức chỉ định các thẩm phán tòa án tối cao, số lượng và thể thức bầu cử các thượng nghị sĩ, v.v... do các đạo luật đặc biệt.

Về mặt kỹ thuật, hiến pháp chỉ có một bó buộc chính là đừng có mâu thuẫn giữa các điều khoản. Điều này các luật gia có thể đóng góp, nhưng thực ra chỉ đòi hỏi ở người soạn thảo một khả năng lô-gích vừa phải.

Một lời sau cùng về hiến pháp : hiến pháp là hợp đồng về một dự án sống chung và xây dựng một tương lai chung ; dự án ấy có thể đòi hỏi nhiều suy tư trong nhiều năm của rất nhiều người, nhưng một khi chúng ta đã biết mình muốn gì, cho mình và cho con cháu, việc soạn thảo thành văn bản có thể chỉ đòi hỏi vài ngày.

Published in Tư liệu

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Ba - 2

Mặt thật của ai ?

 

tqan13

Ông Bùi Tín sinh ra trong một gia đình Nho Giáo truyền thống. Thân sinh ông là Bùi Bằng Đoàn, làm thượng thư (bộ trưởng) trong triều đình Huế. Cách mạng tháng 8 bùng ra lúc cậu Bùi Đường Ấm, sau này đổi tên là Bùi Tín, mới vừa 19 tuổi. Ông Bùi Bằng Đoàn, nổi tiếng thanh liêm và học giỏi, trở thành chủ tịch quốc hội đầu tiên của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một chức vụ hữu danh vô thực. Ông Bùi Bằng Đoàn chỉ ở đó để đem lại cho chính phủ Hồ Chí Minh một bộ mặt trí thức và đoàn kết dân tộc. Ông Bùi Bằng Đoàn tham gia chính quyền Việt Minh vì sợ hơn là vì nhiệt tình. Ông Phạm Quỳnh, thủ tướng Nam Triều, đã bị giết, như nhiều quan chức triều đình Huế khác.

Nhưng nếu ông Bùi Bằng Đoàn chỉ theo Việt Minh vì sợ thì cậu ấm Bùi Tín lại theo vì lý tưởng. Cậu hăng say theo cách mạng mùa thu, đi bộ đội, tham dự nhiều trận đánh, từng bị thương và sau cùng được sử dụng ngay trong sở trưởng của cậu : nghề viết báo. Bùi Tín trở thành đại tá phó tổng biên tập tờ Nhân Dân, cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt Nam. Chức vụ này rất lớn, bởi vì tuyên truyền là công tác trọng yếu hàng đầu của chính quyền cộng sản. Tờ Nhân Dân quan trọng hơn nhiều so với một bộ, nó được tổ chức như một chính phủ trong một chính phủ, với tất cả các ban tương ứng với các bộ : ban quốc phòng, ban quốc tế, ban nông nghiệp, ban công nghiệp, ban văn hóa, xã hội, v.v... Vị thế của Bùi Tín cao hơn một thứ trưởng, vai trò của ông đặc biệt quan trọng. Bùi Tín là thành viên của phái đoàn cộng sản trong hội nghị bốn bên tại Tân Sơn Nhất. Do một sự tình cờ Bùi Tín cũng là người đại diện cho phe cộng sản nhận sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh sáng ngày 30/4/1975.

Nhưng năm 1990, trong một chuyến công du sang Pháp Bùi Tín lấy quyết định xin tị nạn chính trị. Từ đó Bùi Tín đã viết rất nhiều bài báo, trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, tố giác chế độ c_ộng sản và vận động cho dân chủ đa nguyên. Bùi Tín cũng viết một số sách thuật lại những gì mà ông đã thấy trong một cương vị đặc biệt thuận lợi để quan sát chế độ cộng sản từ bên trong.

Trong cuốn Mặt Thật, cuốn sách gây sôi nổi nhất của ông, Bùi Tín mô tả chiến dịch cải cách ruộng đất được chính phủ Hồ Chí Minh phát động năm 1955, trong đó hàng ngàn, hàng vạn người bị giết oan.

Bùi Tín kể :

Các cố vấn Trung Quốc ngồi ưỡn bụng ra, để chân lên bàn uống rượu Mao Đài, vừa "nhổ nước bọt ồn ào", vừa dạy dỗ các học trò dễ bảo Trường Chinh (tổng bí thư đảng cộng sản), Hoàng Quốc Việt (ủy viên bộ chính trị, sau đó là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc), v.v... về cải cách điền địa. Họ ra lệnh giết bà Nguyễn Thị Năm, người đã từng ủng hộ Việt Minh từ năm 1937, đã từng che chở và nuôi dưỡng chính các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và có con đang làm chính ủy trung đoàn. Ông Hồ Chí Minh được tin la lên là không thể giết một phụ nữ, một ân nhân cách mạng, một người mẹ của một anh hùng quân đội. Nhưng các cố vấn Trung Quốc bảo là đã quá trễ, mọi việc đã chuẩn bị xong. Ông Hồ Chí Minh im mồm, và bà Năm bị bắn.

Phong cách của ông Hồ Chí Minh là thế. Còn các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt thì không biết phải gọi là hạng người gì.

Ông Phạm Văn Đồng thấy các bộ trưởng, thứ trưởng của mình bị vu oan, bị thanh trừng, bị bỏ tù, không dám lên tiếng bênh vực. Sau khi nghỉ hưu dù đã ngoài tám mươi tuổi, ông còn cố bám lấy hư vị "cố vấn" đễ giữ lợi lộc.

Ông Lê Đức Thọ là một con người nham hiểm, dùng đủ mọi thủ đoạn nhơ bẩn và độc ác để triệt hạ các đồng chí cũ của ông.

Ông Lê Duẩn là một thứ ếch ngồi đáy giếng, vừa thiển cận, vừa lỗ mãng, vừa tự cao tự đại.

Các ông tướng Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, v.v... đều thiếu văn hóa, nông cạn và cực đoan. Riêng ông Nguyễn Chí Thanh thì còn hèn nhát, lúc bị mật thám Pháp bắt đã khai nhiều bí mật gây thiệt hại nặng cho đảng rồi đổ tội cho người đồng chí cùng bị bắt với mình là Đặng Xuân Thiều làm ông này bị trù dập hơn ba mươi năm cho đến lúc về hưu.

Còn ông Đỗ Mười ? Ông là thợ sửa khóa, nhận thức chính trị sơ sài và lại mắc bệnh tâm thần, ban đêm leo lên cây bàng ngồi ngất ngư.

Ngòi bút Bùi Tín mô tả các lãnh tụ cộng sản một cách tàn nhẫn. Tàn nhẫn vì Bùi Tín chỉ kể lại mà không phê phán. Tay nghề bốn mươi năm cầm bút của Bùi Tín là ở chỗ đó. Mặt Thật là một cuốn sách hay, một tài liệu lịch sử thành công về diễn đạt và có giá trị văn học. Một cuốn sách cần đọc. Tôn Thất Thiện trong một lá thư cho tôi nói rằng đọc xong ông phải kinh phục (kinh không có dấu sắc) tác gia".

Nhưng nếu như vậy thì phải đặt ra một số câu hỏi.

Tại sao những con người như vậy lại có thể khuất phục được cả một dân tộc ? Tại sao hàng ngàn, hàng vạn trí thức lỗi lạc đã phục tùng họ một cách ngoan ngoãn, và còn hết lời tâng bốc họ, làm biết bao nhiêu người khác tưởng họ là những thần tượng và chạy theo họ ? Chính Bùi Tín, tác giả cuốn Mặt Thật, trong bao nhiêu năm làm "đại tá - nhà văn - nhà báo" cũng đã tô son điểm phấn một cách đắc lực cho cái chế độ mà ngày nay ông muốn lột trần bộ mặt thật. Không lẽ trong cả mấy chục năm trường những trí thức xuất sắc như thế lại không nhận ra thực chất tồi tệ của những người lãnh đạo cộng sản ? Tại sao họ đã tự lừa dối lương tâm mình và đóng góp lường gạt cả một dân tộc ?

Người trí thức cộng sản không thể trả lời được những câu hỏi gay gắt đó, nhưng họ có thể hỏi ngược lại những người chất vấn họ những câu hỏi không kém nhức nhối. Bởi vì đa số - dù không phải là tất cả - những trí thức không cộng sản cũng đã phục tùng những công cụ chẳng ra gì của ngoại bang. Những trí thức quốc gia cũng đã đem hết tâm huyết hô hào biết bao nhiêu thanh niên bỏ mình cho một lý tưởng dân chủ không hề làm bận tâm ông Diệm, ông Nhu, hay cho một "chính nghĩa quốc gia" không hề có trong đầu óc các ông Big Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều trí thức khác đã tự đặt mình ra ngoài lề lịch sử, tự cắt bỏ khỏi số phận đất nước, đào nhiệm và cầu an.

Cuối cùng đất nước như ngày hôm nay, sau tất cả những gì đã xảy ra. Vai trò của người trí thức Việt Nam - cộng sản và không cộng sản - thật là bẽ bàng. Công bình mà nói cũng có những trí thức Việt Nam không làm tay sai cho một bè lũ hay một chế độ gian trá nào mà vẫn phấn đấu, vẫn cố hiện diện trong cuộc vận hành của lịch sử. Nhưng họ đã thất bại. Trí thức Việt Nam đã thất bại hoàn toàn.

Đổ lỗi cho nhau, luận tội nhau chỉ là để xem ai tồi hơn ai, có ích lợi gì ? Hơn nữa, lên án và kết tội nhau còn sai vì nói chung trí thức Việt Nam lương thiện, yêu nước và cũng đã hy sinh nhiều. Có một cái gì đó vượt khỏi lô-gích bình thường mà ta cần nhận diện để đừng buộc tội lẫn nhau một cách bất công và vô ích. Có lẽ chúng ta phải tìm giải thích cho sự phá sản này trong lý lịch và trong gia phả của người trí thức Việt Nam chúng ta.

Trí thức Việt Nam ngày nay là hậu thân của giai cấp sĩ phu ngày trước. Mối liên hệ phụ-tử vẫn còn rất thắm thiết. Kẻ sĩ vẫn còn là mẫu mực của rất nhiều trí thức Việt Nam. Ngày nay người ta vẫn còn tự hào là có tư cách của kẻ sĩ, người ta vẫn còn khen nhau là có thái độ của kẻ sĩ.

Nhưng kẻ sĩ là gì nếu không phải là một mẫu người tồi hèn, vong thân ?

Chúng ta vẫn còn là kẻ sĩ, và vì thế vẫn còn mang cái tật nguyền này của kẻ sĩ. Vấn đề là như thế. Người ta có thể hấp thụ mau chóng những kiến thức và những kỹ thuật mới, nhưng từ bỏ một tập quán và một tâm tính đã được nhào nặn qua nhiều thế hệ, đã ăn rễ vào con người và đã biến thành một bản năng, là một điều khó gấp nhiều lần. Hãy thử lấy một thí dụ về trọng lượng của tập quán. Tại sao người Nhật lại lái xe bên tay trái ? Họ có bị người Anh đô hộ bao giờ đâu ? Lý do chỉ giản dị là các hiệp sĩ Nhật quen đi bên trái các hành lang để có thể nhanh chóng rút gươm bằng tay mặt !

Nho Giáo không tạo ra kẻ sĩ để làm một con người tự do, để chịu trách nhiệm trước xã hội và để lãnh đạo xã hội mà chỉ tạo ra kẻ sĩ để làm dụng cụ cho một guồng máy và làm thủ hạ cho các vua chúa. Trong suốt dòng lịch sử, kẻ sĩ Trung Hoa và Việt Nam đều chỉ biết sống với số phận tôi tớ. Sĩ là một nghề, nghề đi học và nghề làm quan. Trước sau là nghề quì. Quì trước mặt thầy để học với ước vọng "thành đạt" để được quì trước các vua chúa. Nếu quì là thái độ của kẻ sĩ thì chờ đợi là triết lý của kẻ sĩ. Thời gian trưởng thành của kẻ sĩ được gọi là thời "chưa gặp" [lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất], gặp một chủ để thờ. Kẻ sĩ không khởi xướng ra một sự nghiệp nào mà chỉ chờ đợi để được làm bầy tôi cho một minh chủ nên hậu quả tất nhiên là kẻ sĩ phải chấp nhận luật chơi sẵn có của kẻ đã làm nên sự nghiệp, đem trí tuệ của mình minh họa cho ý của chủ. Và luật chơi của chủ rất khắc nghiệt. Các vua chúa muốn dùng họ thì dùng, muốn cách chức đuổi đi, muốn căng nọc ra đánh, muốn thiến họ như thiến heo thiến gà, muốn giết họ thì giết, muốn giết cả nhà họ cũng được, kẻ sĩ cam chịu hết. Thân phận kẻ sĩ chẳng có gì vinh, đó chỉ là thân phận của một tôi tớ, một dụng cụ thuộc quyền sử dụng và vứt bỏ tùy tiện của các vua chúa. Cái bản chất dụng cụ và tôi tớ ấy ngay cả những kẻ sĩ lỗi lạc nhất cũng không trút bỏ được. Điều kinh ngạc là trong hàng chục thế kỷ kẻ sĩ đã có thể chấp nhận một khuôn mẫu đầy đọa và hạ nhục mình như thế, để rồi cuối cùng sự phục tùng vô điều kiện trở thành một bản năng và một giá trị.

Khổng Minh tài ba như thế mà gặp thời nhiễu nhương cũng chỉ biết ngồi trong lều cỏ để chờ một minh chúa.

Nguyễn Trãi là một kẻ sĩ siêu việt cả về văn lẫn võ, lại có cả chí khí hơn người, Lê Lợi là một phú nông cục mịch. Tại sao lại "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần" ? Tấn thảm kịch còn lớn hơn ở chỗ Lê Lợi không có đủ trí tuệ để viết ra câu đó, chính Nguyễn Trãi đã sáng tác ra câu đó.

Cao Bá Quát là một kẻ sĩ ưu việt và ngang ngược, dám nổi loạn chống lại nhà Nguyễn. Nhưng Cao Bá Quát không lãnh đạo cuộc nổi dậy mà chỉ phò Lê Duy Cự. Giả thử cuộc nổi dậy thành công thì cũng chỉ để đưa đến kết quả "Lê Duy Cự vi quân, Cao Bá Quát vi thần". Ngay cả khi kẻ sĩ chống lại một ông chủ thì cũng chỉ để hy vọng được phò một ông chủ khác, họ không sinh ra để làm chủ.

Cao Bá Quát thất bại, bị chặt đầu và tru di tam tộc. Nguyễn Trãi thành công, để cũng chỉ được cái vinh dự quì gối trước Lê Lợi, rồi cũng bị chặt đầu và tru di tam tộc.

Trong lịch sử Trung Hoa, những kẻ làm nên nghiệp đế vương, dù là Lưu Bang, Hạng Võ, Lý Thế Dân, Triệu Khuông Dận, Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương đều không phải là kẻ sĩ. Họ là hào phú, là các tay anh chị, hay vốn thuộc dòng dõi bá vương. (Tào Tháo là một ngoại lệ, nhưng Tào Tháo bị kẻ sĩ chối bỏ và lên án là gian thần).

Trong lịch sử Việt Nam, những kẻ giành được ngôi vua, dù là Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh đều là quí tộc, võ tướng hay các tay anh chị chứ không phải là kẻ sĩ. (Hồ Quí Ly là một ngoại lệ, nhưng Hồ Quí Ly hành động như vậy vì tự coi mình là người Hoa hơn là người Việt nên coi thường nề nếp Việt Nam ; chiếm được ngôi vua, Hồ Quí Ly đã lập tức đổi tên nước là Đại Ngu theo tên cố quốc của mình).

Một thực tế thê thảm như vậy chứng tỏ khuôn mẫu Khổng Nho đã tha hóa kẻ sĩ tới mức nào. Một thực tế bi thảm khác là tất cả những tiến bộ về tư tưởng của Trung Hoa đã chỉ có trước khi Khổng Giáo được đưa lên hàng một quốc giáo. Hơn hai ngàn năm ngự trị của khuôn mẫu Khổng Giáo đã làm tê liệt hẳn óc sáng tạo. Các hậu quả vẫn còn thấy được : nhiều nước châu Á, nhờ không chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách quá nặng nề, ngày nay đã rất phát triển, nhưng người châu Á vẫn hầu như vắng mặt trong các giải Nobel, họ vẫn thua xa người phương Tây về óc sáng tạo trong mọi địa hạt.

Trong xã hội Khổng Nho, kẻ sĩ không hội nhập vào xã hội. Lúc hàn vi kẻ sĩ sống qua ngày, đợi cơ hội làm quan. Lúc được làm quan kẻ sĩ trở thành những tay sai không điều kiện cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Kẻ sĩ được vua chúa xếp hàng đầu trên nông, công, thương, nhưng thực ra kẻ sĩ bị loại khỏi xã hội. Một điều rất đáng chú ý là trong xã hội ta ngày xưa kẻ sĩ hoàn toàn vắng mặt trong các chức quyền địa phương xuất phát từ dân gian như chánh tổng và lý trưởng, những chức vụ đã có thể là những bàn đạp để tiến lên quyền lực quốc gia. Kẻ sĩ không có hậu thuẫn quần chúng vì sống ngoài lề xã hội. Kẻ sĩ cũng không có tài sản vì không biết và cũng không muốn kinh doanh buôn bán, không những thế kẻ sĩ còn được giáo dục và nhồi nặn để khinh thường và thù ghét hoạt động kinh doanh, buôn bán. Phi thương bất phú, kẻ sĩ không có độc lập về kinh tế cho nên cũng không có thể có tự chủ về chính trị. Tại sao lại "Nguyễn Trãi vi thần" ? Bởi vì không muốn "vi thần" cũng không được. Nguyễn Trãi không có thủ túc và cũng không có tài sản để phất cờ khởi nghĩa. Kẻ sĩ trong khuôn mẫu Khổng Nho là mẫu người lệ thuộc vào vua chúa và cuối cùng chịu ơn vua chúa. Quyền lực quốc gia chỉ truyền tay giữa một bên là các vua chúa và một bên là đám anh hùng áo vải, những người không chịu ơn vua chúa và do đó dám thách thức vua chúa.

Tình trạng vong thân kéo dài từ đời này sang đời khác đã khiến kẻ sĩ mất hẳn lòng tự tin. Tuy bề ngoài có khi kẻ sĩ huênh hoang "có giang sơn thì sĩ đã có tên, từ Chu Hán vốn sĩ này là quí" [Nguyễn Công Trứ], nhưng trong thâm tâm kẻ sĩ không tin ở mình và cũng không tin ở cả giai cấp sĩ của mình ; do đó kẻ sĩ không những không dám có ý định dựng nghiệp mà còn không sẵn sàng giúp một kẻ sĩ khác dựng nghiệp. Kẻ sĩ phải làm bầy tôi, nếu từ chối số phận tôi tớ và dám mơ ước làm vua, kẻ sĩ đã vi phạm đạo lý của giai cấp mình và bị lên án là gian thần, thoán nghịch, phản tặc. Nguyễn Hữu Chỉnh coi thường vua Lê chúa Trịnh bất lực và muốn nắm quyền thì đã sao, mà người ta lên án ông là gian hùng và hả hê khi ông bị bốn ngựa xé xác ? Có sử gia nào đủ khách quan để nhận định rằng chính hành động vào Nam liên kết với Tây Sơn của Chỉnh đã mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước ?

Luân lý Nho Giáo bắt người có học không được làm chủ mà chỉ được làm tôi cho một ông chủ nào đó, và tệ hơn nữa phải làm tôi suốt đời cho một chủ bởi vì "tôi trung không thờ hai chúa". Kẻ sĩ trong quan niệm Nho Giáo là một kẻ nô lệ chứ không phải là một con người tự do. Do bản năng và địa vị xã hội, kẻ sĩ không dám và không thể, và do đó khiếp phục những kẻ dám và có thể. Bài Bình Ngô Đại Cáo hùng tráng vì Nguyễn Trãi viết cho Lê Lợi chứ không viết cho mình, vì lúc viết Nguyễn Trãi đã tự đặt mình vào địa vị của Lê Lợi, tưởng tượng mình là vua ["Trẫm đây, núi Lam Sơn dấy nghĩa..., một mảnh nhung y dựng nên nghiệp lớn..."].

Tôi nói nhiều về kẻ sĩ như vậy bởi vì cái tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện rất mạnh trong tiềm thức của chúng ta.

Di sản nặng nề nhất là triết lý ở ẩn, tránh hiểm nguy và chờ thời. Tâm lý này ngự trị trong đầu óc hầu hết mọi trí thức Việt Nam. Nó cũng ngự trị ngay cả trong đầu óc những người có ý chí nhất, nghĩa là dám hoạt động chính trị. Ở các vị này nó thể hiện qua lối làm chính trị nhân sĩ. Những người trí thức tự cho là mình có một giá trị nào đó - có khi chỉ là do một sự tự đánh giá mình rất chủ quan - thường không chịu tham gia tạo dựng ra một lực lượng chính trị nào và cũng không lên tiếng bênh vực một lập trường nào, ngay cả khi họ thấy là đúng. Họ chỉ muốn là những nhân sĩ đứng ngoài các tổ chức và các cuộc tranh cãi gay go để vừa khỏi tốn công sức vừa khỏi bị cháy. Họ tin rằng một khi họ đã là nhân sĩ thì dù ai nắm được chính quyền cũng vẫn cần họ. Đó là một tính toán mà họ cho là sáng suốt, và quả thực là một chọn lựa sáng suốt khi người ta chỉ có tham vọng làm công cụ. Chính cái thái độ nhân sĩ này, hậu thân của tâm lý kẻ sĩ ngày xưa đã khiến các tổ chức đối lập dân chủ hiện nay không được hưởng ứng và không mạnh lên được trong một giai đoạn đầy thử thách như giai đoạn chúng ta đang sống.

Một di sản khác là sự thiếu quyết tâm. Trí thức Việt Nam có nhiều người không thiếu ý kiến nhưng cái quán tính "không dám và không thể" thừa hưởng từ tâm lý kẻ sĩ do hàng ngàn năm uốn nắn này vẫn còn quá mạnh khiến họ do dự bất quyết, sẵn sàng thỏa hiệp và nhượng bộ trước những giải pháp thô bạo trái ngược với nguyện ước của mình, rồi sau cùng đánh mất chính mình. Nhiều trí thức còn thực sự ngưỡng mộ những tay anh chị bởi vì họ ngưỡng mộ cái liều, cái bạo mà họ không có được. Họ bị hớp hồn trước những người có bản năng mạnh và dám làm, bởi vì đó là một phần của chính họ mà họ đã mất đi và vẫn tiếc.

Mẫu người kẻ sĩ không phải chỉ còn tồn tại mà còn đang có cơ được hồi sinh. Các chế độ độc tài tại châu Á, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, đang dụng tâm thiết lập một thứ Khổng Giáo Mới làm chỗ dựa cho các chế độ độc tài ngày nay, như Khổng Giáo Cũ đã từng làm nền tảng cho các chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa. Một âm mưu tha hóa trí thức mới đang xuất hiện. Và lần này kẻ sĩ có một cái tên gọi mới : chuyên viên. Ngay trong lúc này đang có nhiều trí thức Việt Nam chủ trương hãy thôi làm chính trị, tạm chấp nhận chế độ này, hợp tác với nó trên các mặt chuyên môn. Họ hy vọng sẽ dần dần dân chủ hóa được chế độ. Nhưng nếu kẻ sĩ ngày trước trong hơn hai ngàn năm không thay đổi được chế độ quân chủ thì trí thức chuyên viên ngày nay dù có bản lĩnh hơn và có bối cảnh thuận lợi hơn cũng không thể thay đổi được chế độ độc tài này trong một hai thế hệ, nếu họ chỉ là những chuyên viên.

Hãy coi chừng lịch sử lập lại. Tại sao chủ nghĩa cộng sản bị phủ nhận tại Tây Âu, nơi đã khai sinh ra nó, mà lại thành công tại Trung Hoa, Việt Nam và Triều Tiên ? Tại sao, ngoại trừ hòn đảo Cuba nhỏ bé, chế độ cộng sản chỉ tồn tại được trên ba nước này ? Lý do chính là vì chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ này như là một thứ Khổng Giáo Mới. Có gì khác giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Mác Lênin ? Cũng đặt nền tảng trên bạo lực, cũng độc tài toàn trị, cũng giáo điều, cũng độc tôn, cũng giai cấp, cũng “nhân trị” nghĩa là cai trị một cách tùy tiện bất chấp luật pháp, cũng bưng bít, cũng cấm đoán tư tưởng, cũng bài xích các tôn giáo, cũng triệt hạ kinh doanh, cũng đề cao sự nghèo khổ để cai trị bằng sự nghèo khổ. Cả hai đều là những hệ thống nửa tôn giáo, nửa chính trị. Cả hai đều đưa đến bế tắc và cả hai đều có cùng một biện hộ sau khi đã thất bại : không phải lý thuyết sai mà là áp dụng sai. Chỉ cần lấy Marx và Anghen đặt vào địa vị của Khổng Tử và Mạnh Tử, lấy các cuốn Tư Bản Luận, Lênin Toàn Tập thay cho Tứ Thư và Ngũ Kinh, lấy Trung Ương Đảng thay cho Triều Đình, đem các đảng viên thay cho đám quân tử là đâu lại vào đó. Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản. Chỉ có điểm mới là chủ nghĩa cộng sản tâng bốc quần chúng vô sản mà Khổng Giáo mạt sát, dù chỉ là một sự tâng bốc giả dối. Nếu trước đây Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản thì ngày nay những tồn đọng của tư tưởng Khổng Giáo đang giúp các chế độ này kéo dài.

 

******************

Giết hại công thần

 

 

tqan14

Có một sự kiện gần như một định luật trong lịch sử Việt Nam là những người dựng nên đế nghiệp thường hay giết hại công thần sau khi đã thành công. Tại sao ? Câu trả lời gần như tự động là những người đó gian xảo, bội bạc. Xét cho cùng thì câu trả lời này không đúng.

Những người đã có khả năng qui tụ nhân tài, khiến họ tận tụy và nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử với mình tất nhiên phải có những đức tính đặc biệt. Họ phải là những người có khả năng thu hút, chinh phục lòng tin và sự trung thành bằng cách chứng tỏ tài năng và đức độ. Trừ một vài ngoại lệ rất họa hiếm, họ phải là những người khá tốt và thủy chung. Ngày nay một người tham gia một tổ chức chính trị chỉ kết bạn với lãnh tụ mà thôi, nếu thất vọng có thể bỏ ra đi, nhưng ngày xưa thì khác hẳn. Lãnh tụ không những phải là người lãnh đạo mà còn là minh chủ, một chúa công có quyền trên tính mạng của thuộc hạ. Các nhân tài ngày xưa vì vậy chọn chúa rất thận trọng, họ hỏi han về minh chủ, tới yết kiến minh chủ, quan sát từng thái độ, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, có khi xem tướng rồi mới quyết định vì đó là quyết định vô cùng quan trọng đối với họ. Họ khó có thể lầm được. Muốn được họ thờ thường phải là người có đức lớn. Trong vô số những người phất cờ khởi nghĩa chỉ có một người thành công thì người đó phải là người có bản lãnh phi thường, mà bản lãnh lớn nhất là qui tụ, điều động, chinh phục lòng tin. Khó mà có thể giả dối được bởi vì không thể đánh lừa một số người đông đảo trong suốt một thời gian dài tranh đấu cam go.

Vậy mà ông vua nào thành công dựng được nghiệp đế cũng giết hại công thần cả. Như thế việc giết hại công thần phải có một giải thích khác hơn là sự bội bạc. Giải thích đó là sự giết hại công thần là cần thiết trong lô-gích Khổng Giáo.

Khổng Giáo coi quyền của vua là quyền thiêng liêng của trời cho. Quần thần phải phục tùng vô điều kiện, có chết cũng không được thắc mắc. Đã là quyền thiêng liêng thì trời ban cho ai, người đó được. Đã là kẻ sĩ, nghĩa là đã từ bỏ mọi ý định làm chủ để chỉ nuôi giấc mộng làm tôi cho một minh chủ, thì dĩ nhiên phải tự coi là mình không có "mệnh trời" đó rồi. Hạnh phúc của kẻ sĩ chỉ là được vào chốn cung đình, thấy mặt long nhan, được chút chức vị và hầu hạ một người được trời trao thiên mệnh. Nhưng những kẻ sĩ giúp một anh hùng lập nghiệp đế thì lại khác. Họ đã được gặp một người dựng nghiệp, nghĩa là còn có mệnh trời hơn hẳn những ông vua khác. Họ đã chia cơm sẻ áo, chen vai sát cánh với kẻ anh hùng đó. Họ đã chứng kiến những sự lo âu, hốt hoảng, những sai lầm và nhát sợ của người anh hùng đó. Họ đã chứng kiến tận mắt và đầy đủ một cuộc lập nghiệp đế vương và đã khám phá ra rằng cuộc dựng nghiệp này chẳng có gì là thần thánh cả. Chính vì sự khám phá này mà họ không còn là những kẻ sĩ chân chính nữa. Những công thần đã giúp vua dựng nghiệp cũng phải là những người rất đởm lược, họ dễ nhận ra là ông vua anh hùng nhất cũng không khác họ bao nhiêu. Họ đã nhìn thấy bí quyết dựng nghiệp, họ đã nhận ra sự tương đối của thuyết "thiên mệnh" và biết đâu họ đã thấy chính họ cũng có thể làm vua. Vì thế họ phải chết.

Kẻ đế vương thực ra cũng không có chọn lựa. Tất cả căn bản quyền lực của ông ta dựa trên sự chính đáng của thiên mệnh, ông ta không thể dung túng những kẻ không còn tin tưởng tuyệt đối ở sự huyền bí đó nữa và lại có khả năng ngang tầm với ông ta. Đó không phải chỉ là mối nguy mất ngôi vua mà còn là mối nguy mất mạng và tuyệt giống bởi vì trong hệ thống quân chủ chuyên chế, thiên mệnh đã được trao cho ông ta rồi thì chỉ có cái chết mới có thể tước đoạt, và nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc. Những công thần có khả năng đe dọa ngôi báu hay làm mất đi tính thiêng liêng của nó vì vậy phải bị tiêu diệt.

Nhưng những công thần trung thành tuyệt đối cũng không thể dung túng được, bởi vì họ đe dọa trật tự của chế độ quân chủ tuyệt đối trong đó quần thần không hơn những con vật trước mặt nhà vua, vua muốn nọc ra đánh, muốn thiến tùy ý. Những khai quốc công thần không còn là những kẻ sĩ chân chính nữa vì họ đã quá quen với vua, đối xử với họ như vậy không khỏi mang tiếng tệ bạc, mà không đối xử như vậy thì không còn kỷ cương triều đình. Họ là những cái gai phải nhổ để trật tự vua tôi được trở lại bình thường.

Mối liên hệ vua tôi, cốt cán của tư tưởng chính trị Khổng Giáo, đưa tới hai hậu quả.

Một là, kẻ sĩ, tinh hoa của xã hội, mất hết nhân cách, xã hội vì thế lẩn quẩn trong sự thui chột và hèn kém.

Hai là, các cuộc khủng hoảng xã hội rất khó có lối thoát. Kẻ sĩ chân chính không phải là người khởi nghiệp. Triết lý của họ là lúc khó khăn thì lánh mặt. Chỉ có một số rất ít có chí khí để tham gia tranh đấu trong thời ly loạn mà thôi. Những kẻ này phải chọn minh chủ thật kỹ. Trước hết minh chủ phải là người có chân mạng đế vương, nếu không thì theo ông ta chỉ uổng mạng mà thôi, sau đó minh chủ lại phải là người thật trung hậu, nếu không thì khi thành công mạng mình cũng toi mạng về tay ông ta. Lịch sử Trung Quốc không thiếu những chuyện những người giúp chủ dựng nghiệp, lúc thành công thì vội vã cao bay xa chạy. Kết quả là ít ai nhập cuộc, những loạn lạc thường kéo dài rất lâu, những kẻ có gan dạ dấn thân đã rất ít mà trong số này, những người tìm được minh chủ lại càng khó. Và những người dám đứng lên khởi xướng thì lại không thể kết hợp được với nhau, bởi vì không ai dám nhường ngôi minh chủ cho người khác, nhường ngôi minh chủ là nhường tất cả chứ không có thỏa hiệp nào. Với thời gian "chọn đúng chúa mà thờ" trở thành một lo âu làm tê liệt những kẻ sĩ hiếm hoi có ý định cứu đời. Trong đa số trường hợp nó đưa họ trở lại sự thụ động cố hữu.

Ngày nay triết lý thiên mệnh của Khổng Giáo đã đi vào quá khứ, ít ai còn tin có những kẻ có thiên mạng đế vương nữa. Nhưng cái tâm lý chọn minh chủ vẫn còn tồn tại, và bởi vì nó là một tâm lý, nó nấp kín trong thâm sâu của chúng ta, nó chi phối hành động của chúng ta một cách bí mật đến nỗi chính chúng ta không thấy. Hai câu chuyện sau đây chứng tỏ cái tâm lý mà ta tưởng như đã hoàn toàn biến mất thực ra vẫn còn lãng vãng đâu đây. Tôi kể ra chỉ để độc giả thấy rằng đoạn tuyệt với một văn hóa là một điều rất khó.

Cách đây không lâu, một lãnh tụ của một tổ chức chính trị có lúc gây được tiếng vang đã có nhã ý đến thăm tôi. Tôi hỏi anh lý do nào có thể khiến một người tham gia tổ chức của anh. Anh đắn đo rồi trả lời bởi vì người ta ngưỡng mộ một lãnh tụ như anh. Đó là một thanh niên hoàn toàn được đào tạo tại một nước tân tiến.

Tôi cũng biết hai người khoa bảng khác được đào tạo tại phương Tây. Không những chỉ có bằng cấp lớn mà họ còn thực sự có khả năng và bản lãnh lớn, tôi rất ngưỡng mộ họ. Câu chuyện của họ lại có liên quan tới chính tôi. Chúng tôi đã sát cánh cùng nhau tranh đấu cho dân chủ trong một thời gian. Có cố gắng dài hơi nào mà không có lúc đem tới sự mệt mỏi và nghi hoặc ? Một hôm tôi được họ mời đi ăn tối cùng với một người lạ mặt mà sau này tôi được biết là một nhà tướng số nổi tiếng. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ, nhà tướng số kia đặt nhiều câu hỏi về tôi. Ít lâu sau cả hai bạn tôi tuyên bố ngưng hoạt động. Mãi về sau tôi mới hiểu là tất cả do bữa cơm tối đó. Họ đã nhờ nhà tướng số kia cho biết về tôi và kết luận của vị này là tôi không có tướng của một minh chủ.

Tôi rất buồn vì mất hai bạn đồng hành hiếm có, nhưng tôi rất kính trọng họ, họ là những trí thức hiếm hoi còn có ý định dấn thân, và thực sự đã vất vả với tôi trong một thời gian. Tôi chỉ giận cái tâm lý kẻ sĩ của Khổng Giáo không chịu cút hẳn khỏi tâm hồn người Việt. Tôi cũng không giận ông thầy tướng kia vì thực ra ông ta nói đúng : thời này làm gì còn minh chủ, chỉ có những kẻ khùng mới nuôi mộng làm minh chủ mà thôi. Tôi chỉ muốn góp phần nhỏ bé của mình cho thắng lợi của dân chủ mà thôi. Vậy mà cũng gian truân.

 

*****************

Anh không biết gì về cộng sản

 

tqan15

Chương "Mặt Thật Của Ai ?" mà quí vị vừa đọc phần lớn lấy từ một bài báo cùng đề tựa mà tôi đã gởi đăng báo Ngày Nay (Houston, Hoa Kỳ). Bài báo này đã gây cho tôi khá nhiều vấn đề. Trước hết là ngay trong nội bộ nhóm Thông Luận. Mới đầu tôi định đăng báo Thông Luận, tôi không ngờ gặp phải những phản ứng rất mạnh của những người bạn mà tôi đưa đọc trước. Họ sợ một bài báo như thế sẽ đem lại cho nhóm Thông Luận những thù ghét mới. Thấy rằng nếu đăng báo Thông Luận có thể sẽ gây sứt mẻ đáng tiếc, tôi gởi đăng báo Ngày Nay, rồi lại gặp một vấn đề khác. Một anh bạn đọc xong, nổi giận nói rằng một bài đặc sắc như vậy sao không đăng báo mình mà lại đem đăng báo khác. Bài đăng trên báo Ngày Nay cũng làm tôi vất vả.

Một loạt bài phản bác dữ dội được tung ra ngay sau đó. Một vị ở Houston, mà sau này tôi được biết là có kiến thức khoa học, cho rằng bài đó là một xúc phạm lớn đối với tổ tiên ; Nguyễn Gia Kiểng là tác giả bài đó thì là chính phạm, nhưng báo Ngày Nay đã đăng bài đó thì cũng là tòng phạm. ["Chính phạm" và "tòng phạm" là những tiếng được dùng trong bài]. Nếu có quyền, chắc chắn các vị này đã lôi cổ tôi ra tòa và tặng cho vài cuốn lịch rồi. Cả tác giả bài đả kích này lẫn tờ báo đăng nó đều đang nỗ lực tranh đấu lên án cộng sản chuyên chính giáo điều, chà đạp tự do ngôn luận và báo chí.

Một nhân sĩ nhân đọc bài báo của tôi trên Ngày Nay, cảm hứng viết một bài góp ý, với tựa đề là "Nghề Quì", đóng góp thêm một số ý kiến cá nhân đồng thời phê phán một số nhân vật. Thế là tôi lại lãnh một bài đánh khác, mà lần này đánh oan vì những ý kiến làm tác giả bài đánh này nổi giận không phải là của tôi mà là của vị nhân sĩ kia. Quá giận, tác giả lôi cả thân thế tôi ra phê phán và kết luận tôi là hạng người vô liêm sỉ. Cũng may lúc đó tôi có chút thời giờ rảnh rỗi nên đã gởi nguyên văn bài của mình cho tác giả. Ông này tỏ ra rất đứng đắn vì sau đó, khi đã biết có sự hiểu lầm, ông viết cho tôi một lá thư ngắn với lời lẽ thân thiện và cho đăng một bài cải chính trên ngay tờ báo đã đăng bài đánh tôi. Đó là lần duy nhất tôi thấy một người đánh oan một người khác đã giải oan cho người đó. Bình thường thôi đánh cũng là phúc lắm rồi.

Một lần chúng tôi gặp một sự cố trong một buổi họp Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận. Bình thường thì những buổi họp của câu lạc bộ là sự gặp gỡ thân thiện của những người có cảm tình với nhau dù cùng hay không cùng chính kiến. Khi thành lập, chính tôi đề nghị đặt tên là Câu Lạc Bộ Độc Giả Thông Luận nhưng đề nghị của tôi bị phản bác, một vị đã đề nghị thay "Độc Giả" bằng "Thân Hữu" với lập luận rằng ai muốn là độc giả chẳng được, nhưng muốn gặp nhau thảo luận thì phải có tinh thần thân hữu, thân hữu không có nghĩa là đồng ý mà chỉ là thái độ thân thiện, tương kính. Tôi vẫn thấy hai chữ "Thân Hữu" có vẻ giới hạn quá. Biểu quyết, và tôi thua. Kết quả là Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận ra đời với mục đích là lâu lâu gặp nhau một lần để thảo luận trong tinh thần “không có ý kiến nào cấm nêu ra, không có đề tài nào cấm bàn đến”.

Trớ trêu thay hôm xảy ra vụ lộn xộn đó, thuyết trình viên lại chính là người đề nghị thay "độc giả" bằng "thân hữu". Việc ông được chọn để dẫn nhập buổi gặp gỡ đó đã được quyết định từ mấy tháng trước, nhưng trong khoảng thời gian đó ông trở thành tổng thư ký của một tổ chức mới, tuy vừa thành lập nhưng có sức mạnh vì chỉ là mặt ngoài của một tổ chức đã có từ lâu và có rất nhiều phương tiện. Chức vụ mới đó đã khiến ông không còn thân hữu với chúng tôi nữa và ông đem đến cả một lực lượng hùng hậu. Buổi họp biến thành một tòa án nhân dân xử nhóm Thông Luận. Lực lượng này nhao nhao lên, bất chấp chủ tọa, muốn nói là nói, nói gì cũng được vì họ sẵn sàng ẩu đả và hình như chỉ đợi cơ hội để ẩu đả. Chúng tôi cố nhịn nhục cho qua. Rồi buổi họp cũng xong, nhưng một thanh niên xấn lại phía tôi, chỉ tay vào mặt tôi mà nói : "Anh là đồ ngay thơ ấu trĩ, anh không hiểu gì về cộng sản cả".

Tôi biết lúc đó không phải là lúc để thảo luận với anh ta. Tôi cũng không giận anh ta, từ đầu buổi họp tôi nhận xét anh ta là một trong những người ôn hòa nhất của "lực lượng" này. Dáng dấp anh ta cũng khá trí thức, đôi mắt thông minh và hiền lành. Vả lại anh ta cũng khá khoan dung đối với chúng tôi : chúng tôi chỉ "ngây thơ ấu trĩ" và "không biết gì về cộng sản" chứ không phải là những tên phản bội, những tay sai cộng sản như các bạn anh ta nói sang sảng trong suốt buổi họp. Anh ta trạc độ ba mươi tuổi.

À, nếu tôi có thể "ngây thơ ấu trĩ" được thì diễm phúc biết bao nhiêu ? Tiếc quá, lúc đó tôi đã gần năm mươi tuổi rồi mà chưa làm được gì ra hồn, cuộc đời cũng chẳng có gì vui, đã nhiều thất vọng và mất mát. Muốn ngây thơ cũng không được nữa.

Không biết gì về cộng sản ? Tôi biết không nhiều nhưng cũng biết chút đỉnh. Lớn lên ở vùng quê do cộng sản kiểm soát, cha bỏ trốn, chú bác bị giết, mẹ dắt ra hầu tòa án nhân dân từ thời năm tuổi. Lớn lên chống cộng từ thời sinh viên, chống cộng trong hàng ngũ Việt Nam Cộng Hòa, đi tù cộng sản, làm viên chức cộng sản, làm dân cộng sản, sống ngoài vòng pháp luật dưới chế độ cộng sản, rồi ra hải ngoại chống cộng sản. Có thể nói tôi là một trong những người có cơ hội quan sát cộng sản dưới mọi góc nhìn và cọ sát với cộng sản trên nhiều cương vị. Anh thanh niên kia chắc có thân nhân bị đi tù cải tạo, gia đình có thể đã bị tịch thu tài sản và đã gian lao tìm cách vượt biên, như thế là đủ để anh ấy nghĩ mình biết rõ cộng sản, đủ tư cách để coi những người không coi cộng sản như quỉ ma, thú dữ là không biết gì về cộng sản.

Thái độ của anh ta không làm tôi ngạc nhiên chút nào, bởi đó là thái độ tự nhiên của con người trong văn hóa Khổng Mạnh, một văn hóa được lưu truyền qua cuộc sống, từ đời này qua đời khác trải mấy nghìn năm, mà người ta tiếp thu một cách tự nhiên và vô tình.

Văn hóa Khổng Mạnh là thứ văn hóa xác quyết, bất cần chứng minh. Ông Khổng Khâu, ông Mạnh Kha và tất cả các danh nho qua các thời đại chỉ khẳng định một cách chắc nịch thôi chứ có bao giờ cần chứng minh cái gì đâu. Ông Khổng Khâu nói người có hiếu thì cha chết ba năm không được thay đổi nếp sống gia đình do cha để lại, người ngay thẳng thì cha có đi ăn trộm cũng phải bao che, nhưng ông không hề bận tâm giải thích tại sao. Các ông thánh hiền kế tiếp nói rằng đã là đàn bà đức hạnh thì phải phục tòng cả cha, lẫn chồng, lẫn con cũng có cần biện luận gì đâu. Văn hóa của chúng ta là cái văn hóa trong đó mình cứ ném bừa chân lý của mình vào mặt người khác mà không cần suy nghĩ xem đó có phải là những chân lý thực không.

Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa phủ nhận kiến thức. Người ta không cần nghiên cứu, tìm hiểu, miễn là cứ thấy phải đạo là có thể tự tin và tự hào được rồi. Tất cả các cuốn Tứ Thư, Ngũ Kinh nếu gộp chung lại tất cả và in thành một cuốn sách thì cũng chỉ vài trăm trang thôi, nghĩa là chỉ bằng một nửa cuốn sách mà các vị đang cầm trong tay. Một người bình thường có thể học một tuần lễ là xong, thế mà các sĩ tử cứ nhai đi nhai lại trong mấy ngàn năm thì hỏi kiến thức có cái gì đáng kể ? Ông Phan Khôi là một nhà nho xuất chúng, ông đi học chữ quốc ngữ tới trình độ tiểu học và quả quyết là đã học hỏi được nhiều hơn hẳn so với thời kỳ học chữ nho. Với thời gian, cả một xã hội học thói quen nói và làm mà không cần một kiến thức nào cả. Thái độ này tạo ra một niềm tin thầm kín rằng mọi người như nhau, chẳng ai biết gì hơn ai. Người ta có thể nói với bất cứ ai "anh chẳng biết gì cả", bởi vì thực ra trong tiềm thức người ta đang nói về chính mình.

Không những không trọng kiến thức, mà người ta còn bài bác việc mở mang kiến thức, bởi vì văn hóa Khổng Mạnh chống lại điều mới, nghĩa là chống lại sự tìm hiểu. Khổng Tử nói : "Bỏ công ra học điều lạ chỉ có hại" [Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ]. Những lời vàng ngọc đó trải đời này qua đời khác tạo ra tâm lý coi điều khác lạ là xấu, là dở, là sai. Trong ngôn ngữ Trung Quốc mà ta du nhập, chữ "dị", nghĩa là "khác", đồng nghĩa với xằng bậy. "Dị đoan" theo nghĩa chiết tự của nó chỉ có nghĩa là điều lạ thôi, nhưng tập quán và thời gian đã biến nó thành "nhảm nhí". Lập dị, quái dị, dị nghị, dị hợm đều mang nghĩa xấu cả. Về điểm này đôi khi tôi thấy vui lòng là người Việt Nam còn giữ được chữ "khác" với nghĩa khách quan.

Không những bài bác điều mới, văn hóa Khổng Mạnh còn hung bạo với điều mới. Khổng Tử lên làm tướng quốc nước Lỗ thì lập tức giết thiếu chính Mão. Chẳng thấy ông Mão có tội cụ thể nào ngoài tội có tài biện luận và lung lạc người khác. Những ai lên án đảng cộng sản đàn áp những người phát biểu ý kiến ngược lại với đảng nên suy nghĩ lại chuyện này. Nho sĩ theo gương bậc "vạn thế sư biểu" này đã đề xướng lên cả một bổn phận đạo đức : vệ đạo. Vệ đạo là chủ trương bảo vệ toàn bộ các giá trị Khổng Giáo bằng cách đánh phá gay gắt và tiêu diệt bằng bạo lực những kẻ dám đi ra ngoài khuôn mẫu có sẵn. Khổng Khâu và các môn đệ, hậu bối của ông, cũng khuyến khích sự tìm tòi, khảo cứu nhưng với điều kiện là đó chỉ là những tìm tòi phải đạo, với mục đích minh họa những ý đã có sẵn, tương tự như đảng cộng sản kêu gọi sáng tạo với điều kiện là sáng tạo trong đường lối do đảng vạch ra, trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cái chủ trương "vệ đạo" đó đã làm thui chột cả trí tuệ Á Đông và đã dẫn ra pháp trường vô số những người có trí tuệ, đáng lẽ đã có thể cống hiến những đóng góp quí báu. Tôi không thù ghét những người đã đả kích tôi một cách gay gắt, đòi lên án, đòi phải "có thái độ", đòi hành hung (kể cả đả thương thực sự) bởi vì đó chỉ là di sản văn hóa của cái tâm lý "vệ đạo" đã mọc rễ vào tâm hồn chúng ta ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Viết một cuốn sách hay về dân chủ không khó bằng không nổi giận khi có người phát biểu ngược ý mình vì một đàng là kiến thức, một đàng là tâm lý. Kiến thức dễ tiếp thu và cũng dễ thay đổi ; tâm lý, trái lại, là cái mà chúng ta không ý thức được và do đó không cảnh giác.

Những phản ứng giận dữ đối với một số bài viết về văn hóa và lịch sử của tôi còn xuất phát từ một di sản khác của Khổng Giáo, đó là tâm lý tôn sùng người xưa. Quí trọng tổ tiên là một tình cảm tự nhiên và cũng là một phần của trí thông minh của loài người. Nó cho phép loài người nối dài cuộc sống trí tuệ của mình tới một thời xa xưa, hiểu được cuộc hành trình đã dẫn tới ngày hôm nay, và cũng ý thức được những điều nên làm cho tương lai. Lòng quí trọng người xưa biến cuộc sống thành liên tục và vĩnh cửu, sinh và tử chỉ là những chốc lát trong cuộc sống liên tục và không ngừng biến đổi của loài người. Quan sát việc làm của người xưa ta rút ra được những kinh nghiệm để xây dựng ngày mai, ta học được những cái đúng của họ, và ta rút nhiều kinh nghiệm quí báu hơn ở những sai lầm của họ.

Nhưng sự tôn sùng người xưa của Khổng Giáo không phải như vậy. Nó là một sự tôn sùng bệnh hoạn, coi người xưa là hơn ngày nay, coi người xưa là hoàn toàn đúng, chúng ta chỉ cần lập lại là đủ. Khổng Tử chủ trương cứ học người xưa là biết việc ngày nay [ôn cố tri tân]. Nhan Uyên hỏi ông về việc trị nước, Khổng Tử trả lời : "Cứ theo lịch nhà Hạ, đội mũ nhà Chu, dùng nhạc của vua Thuấn". Các nho sĩ sau này còn đề cao hơn nữa cái tinh thần sùng bái và bắt chước tổ tiên đó, và người được đề cao làm mẫu mực hơn cả lại chính là Khổng Tử. Ngay cả những câu nói rất tầm thường, và tầm bậy, của ông như cha con phải giấu tội cho nhau, nước loạn thì chớ ở lại cũng được đưa lên hàng đạo lý. Chính Khổng Tử khi nói những câu này cũng không thể ngờ rằng có ngày chúng sẽ được coi là những khuôn vàng thước ngọc. Ông thủ cựu và kêu gọi thủ cựu, nhưng đó chỉ là những ý kiến thôi, chính các triều đại về sau mới biến những ý kiến của ông thành chân lý bất di bất dịch. Cá nhân Khổng Tử nhiều lần dạy đệ tử không nên phò những vua chúa bất nghĩa, nhưng chính ông cũng hai lần định làm gia nhân cho những kẻ phản bội. Như vậy Khổng Tử tuy thủ cựu nhưng không cứng chắc như người ta tưởng. Như đã nói, khi phê phán Khổng Giáo, ta không nên qui trách hết cho Khổng Tử.

Mặc Tử, nhà tư tưởng vĩ đại nhất của Trung Quốc, đã nhiều lần lên án tâm lý rập khuôn theo người trước. Nếu Mặc Tử, thay vì Khổng Tử, được lấy làm mẫu mực thì Trung Quốc đã không thua kém như ngày nay. Mặc Tử có lý : nếu tất cả mọi thế hệ đều lấy những thế hệ trước làm mẫu mực thì xã hội vẫn còn như thời Phục Hy, Thần Nông, nghĩa là vẫn còn ăn lông ở lỗ.

Tinh thần tôn sùng và rập khuôn theo người xưa hình như vẫn còn nặng lắm trong tâm lý trí thức Việt Nam. Một người bạn của tôi có hai bằng cấp khoa học rất cao tại Mỹ và Pháp, có lần giảng cho tôi về sự cao siêu huyền bí và tính khoa học của khoa tử vi. Tôi hỏi anh ta tại sao anh không thấy cái nhảm nhí của tử vi, chỉ có năm yếu tố thôi : giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, nam, nữ mà suy ra tới 108 sao, nghĩa là chỉ có năm phương trình bậc nhất mà có tới 108 ẩn số thì hoặc là hệ thống phương trình đó không có giải đáp chính xác, hoặc là thực ra chỉ có năm ẩn số mà thôi, 103 ẩn số còn lại tự động suy ra từ năm ẩn số chính, nghĩa là vất đi cũng được. Vậy thì khoa tử vi sai ngay từ đầu, nó chỉ là một bài toán ngây ngô do sự kiện trí tuệ chưa được mở mang mà có. Anh ta cự lại : "Tử vi không phải là toán !". Tôi còn biết nói gì đây ? Toán có là gì đâu, ngoại trừ là một cách lý luận đúng ? Nếu bảo có những cái không cần đúng thì còn gì để bàn ? Tức quá, tôi bảo anh ta thử lấy số tử vi của tôi xem sao. Anh ta bèn bấm đốt ngón tay và quả nhiên tôi thấy chỉ có năm sao, tôi không nhớ sao nào, là phải căn cứ vào năm dữ kiện ban đầu mà thôi, những sao khác cứ tự nhiên theo năm sao này mà định vị trí, nhưng anh ta vẫn không chịu thua, anh ta kết luận là tôi không hiểu được cái kiến thức cao siêu của người xưa. Trình độ toán học của anh ta cao hơn tôi nhiều, nhưng anh ta không thấy được cái sai lầm rành rành ra đó vì anh ta đã sẵn có định kiến là người xưa có lý rồi.

Một anh bạn khác cũng tốt nghiệp kỹ sư tại Mỹ và trước đó nổi tiếng là học sinh tú tài xuất sắc nhất của trường Chu Văn An, lận đận tìm cách vượt biên sau năm 1975. Chúng tôi gặp nhau sau khi đi tù cải tạo về và cùng có ý định trốn khỏi Việt Nam. Mỗi lần tính chuyện vượt biên anh ta đều xem bói dịch. Anh ta giải thích với tôi là bói dịch rất đúng bởi vì nó do Chu Văn Vương chế ra. Tôi nói Chu Văn Vương là tổ nhà Chu, sống vào thế kỷ 12 trước Tây lịch, lúc loài người còn rất man rợ, có gì là thông thái, chẳng qua đó là niềm tin ngây thơ vào quỉ thần của mọi dân tộc bán khai. Anh ta tiếc cho tôi không hiểu được cái huyền bí của Kinh Dịch, bởi vì thời đó con người còn trong sáng và còn giao cảm được với thần linh. Điều nghịch lý là đã mấy lần anh ấy ra đi sau khi trúng một quẻ tốt và lần nào cũng bỏ của chạy lấy người hoặc bị công an bắt trói phải chuộc mạng nhưng anh ấy vẫn tiếp tục tin Kinh Dịch.

Cả hai anh bạn tôi trên đây lúc bình thường đều là những người rất sáng suốt và chính xác, nhưng mỗi khi gặp quyết định khó khăn với một xác suất rủi ro lớn họ lại quay về với những tín ngưỡng cổ lậu bởi vì sự tôn sùng cổ nhân được truyền từ đời này qua đời khác vẫn còn mai phục trong trí óc họ.

Đó là chuyện xa, nhưng còn chuyện gần hơn ?

Tôi được đọc không biết bao nhiêu tuyên cáo buộc tội lẫn nhau giữa các phe phái trong các đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Phe nọ lên án phe kia là phản bội đường lối của các cố đảng trưởng, phe nào cũng tự hào là tuyệt đối trung thành với đường lối của các ngài. Sự theo đúng đường lối do người đi trước vạch ra hình như được coi là một tiêu chuẩn để quyết định ai đúng ai sai, ai chính ai tà. Cái tiêu chuẩn kỳ cục này có lẽ chỉ có ở Trung Quốc và Việt Nam. Hai dân tộc này coi sự kiện không làm đúng như người xưa là xúc phạm đến người xưa. Trong các nước cộng sản, Trung Quốc và Việt Nam cũng là hai nước chống xét lại một cách gay gắt nhất. Đó là di sản của tinh thần "bất tác, vô cải" mà Khổng Giáo đề cao. Nên nhớ rằng Khổng Tử coi như bổn phận của người con có hiếu là không sửa đổi gì hết nền nếp của cha trong vòng ít nhất ba năm sau khi cha đã mất, nghĩa là nếu mãi mãi không sửa đổi gì thì còn hiếu hơn.

Trong thế giới thay đổi dồn dập này, mà sức mạnh, chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết định bởi ý kiến và sáng kiến, bởi vận tốc của đổi mới, nếu có một tâm lý mà chúng ta phải khẩn cấp từ bỏ thì đó chính là tâm lý thủ cựu.

 

***************

Ưu đạo bất ưu bần ?

 

 

tqan16

Như tôi đã trình bày, khi phê phán Khổng Giáo không nên đồng hóa nó với ông Khổng Khâu, càng không nên đổ hết trách nhiệm cho ông. Ông không “chí thánh chí nhân” như ông Trần Trọng Kim viết trong cuốn Nho Giáo, nhưng cũng là người tốt, ông mở trường tư đầu tiên và tạo ra một cơ hội tiến thân quan trọng cho tầng lớp thứ dân. Thế cũng là một người có công lớn với đời rồi. Ông dạy học trò nhiều điều về luân lý thực tiễn. Xét theo bối cảnh thời đại của ông, trong những điều ông nói có những điều khá đúng, những điều hơi sai và những điều rất sai. Đó là lẽ tự nhiên, không có học giả, triết gia nào chỉ phát biểu những điều hoàn toàn đúng. Socrate, Platon, Aristote cũng vậy thôi, họ có những ý kiến thật sáng nhưng cũng có những nhận định sai lầm, thiếu sót. Bổn phận của những người đi sau là giữ lại, bổ túc và khai triển những đóng góp đúng, bỏ đi những sai lầm và, dĩ nhiên, không ngừng thêm vào những khám phá mới.

Văn hóa Khổng Giáo trở thành độc hại không phải vì nó sai ngay từ đầu mà vì nó đã không biết đổi mới. Nó đã khai thác triệt để hai tính xấu của Khổng Tử là tinh thần thủ cựu, bài bác điều mới lạ, và tinh thần bất dung (thí dụ như việc giết thiếu chính Mão chỉ vì ông Mão có tài biện luận và không đồng ý với Khổng Tử).

Không những thế nó còn bóp méo tư tưởng của chính Khổng Tử.

Một thí dụ của sự xuyên tạc đó là tinh thần an bần lạc đạo, nghĩa là cam phận nghèo mà vui với đạo đức. Tinh thần này theo các nho sĩ lấy từ một câu trong Luận Ngữ : "người quân tử chỉ lo giữ đạo lý chứ không lo nghèo" [quân tử ưu đạo bất ưu bần]. Nhưng Khổng Tử nào đâu có ý định nói như thế.

Ông nói nguyên văn như thế này : "Người quân tử mưu tìm học đạo chứ không mưu tìm miếng ăn. Làm ruộng có khi mất mùa cũng đói, còn học đạo thì có lộc. Người quân tử chỉ cần lo học cho giỏi chứ đừng sợ nghèo" [Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kỳ trung hĩ. Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ. Quân Tử ưu đạo bất ưu bần]. Đó chỉ là một lời khuyên thực dụng mà thôi, có nghĩa là cứ lo học đi rồi sẽ được làm quan và sẽ có ăn. Nên nhớ rằng mục đích của việc "học đạo" chỉ là để được làm quan. Ý Khổng Tử qua câu nói này hoàn toàn không phải là sự chấp nhận nghèo khổ miễn là sống hợp đạo đức. (Cần hiểu chữ "đạo" của Khổng Tử đồng nghĩa với "nghề", nghĩa là học thi, thư, lễ, nhạc cho thạo để ra làm quan chứ không phải là "đạo đức" như ta hiểu). Chính Khổng Tử cũng rất ham phú quí, ông từng nói "phú quí mà cầu được thì dù phải làm kẻ cầm roi đánh xe ngựa ta cũng nhận" [phú quí nhi khả cầu dã, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi]. Khổng Tử lương thiện nhưng không phải vì thế mà ông đề cao sự nghèo khổ. Ông đã đi khắp nơi cầu được làm quan, có lúc sẵn sàng làm gia nhân cho những kẻ giàu có phản trắc. Nhân sinh quan của ông rất thực dụng : cầu ích lợi cho mình và sống lương thiện. Đó là một nhân sinh quan rất khiêm tốn về mặt đạo đức.

Từ đời nhà Hán, luân lý của Khổng Giáo bị bóp méo đi để biến thành một thứ luân lý nông nghiệp lạc hậu. Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ, sau khi diệt được Tần và Sở, thống nhất thiên hạ, nhận định rằng mối nguy cho dòng họ mình là những kẻ giàu có và gan dạ. Ông bèn xóa bỏ thương nghiệp và chỉ giữ lại nông nghiệp. Việc phân chia xã hội ra bốn giai cấp sĩ, nông, công, thương bắt đầu từ đó. Nếu chỉ xét về mục đích duy trì quyền hành thì nhà Hán hoàn toàn có lý. Nghề nông chân lấm tay bùn, được mùa thì no, mất mùa thi đói, không thể nào giàu lớn được, gia tài chỉ là ruộng đất, có bao nhiêu triều đình thấy rõ hết. Vả lại, người nông dân ở yên một chỗ, kiến thức hạn hẹp mà đởm lược cũng không có bao nhiêu. Trái lại, người buôn bán giao du nhiều, hiểu biết rộng rãi, lại quen đương đầu với rủi ro thành ra gan dạ (có gan làm giàu). Nghề buôn bán lại dễ phát đạt, có thể đưa tới những tài sản rất lớn, kín đáo và dễ di chuyển. Những thương nhân giàu có này lại không làm quan ăn lộc vua và do đó không mang ơn vua như lớp nho sĩ, họ có thể là những đe dọa lớn cho các vua chúa. Chính vì thế mà nhà Hán dẹp bỏ thương nghiệp, và khi thương nghiệp đã bị xóa bỏ, sự trao đổi hàng hóa không còn nữa thì công nghiệp chỉ còn là một nghề phụ của nghề nông, làm ra những nhu yếu phẩm cho xóm làng mà thôi. Dưới đời nhà Hán, thương nhân không những bị trù dập thô bạo mà còn bị miệt thị như những kẻ xấu xa, đáng khinh bỉ.

Các triều đại về sau có lúc nới lỏng cho thương nghiệp đôi chút nhưng rồi lại xiết lại ngay. Triều đại nào cũng coi thương nghiệp là mối nguy và đều ra sức trù dập và miệt thị. Cuối cùng với thời gian một "giá trị" mới đã được thêm vào Khổng Giáo, đó là tâm lý khinh bỉ nghề buôn bán. Phải công bình mà nói, tâm lý này hoàn toàn không có trong đầu óc Khổng Tử. Cả Khổng Tử lẫn các môn đệ của ông đều không bao giờ bài xích thương nghiệp, cũng như Marx không bao giờ tưởng tượng có việc kiểm duyệt báo chí hay những chiến dịch tẩy não, những trại tù cải tạo tư tưởng của các chế độ cộng sản sau này.

Thương nghiệp là động cơ tiến hóa của mọi xã hội. Nó vừa là sự chấp nhận rủi ro cho đổi mới vừa là sự giao lưu của người, của kiến thức, ý kiến và sáng kiến. Nó cũng là sự giàu có. Thương nghiệp đối với xã hội cũng như máu đối với cơ thể, nó là yếu tố tối cần thiết cho mọi sinh hoạt khác, dù là nông nghiệp, cộng nghiệp hay văn hóa xã hội. Có thương nghiệp mới có tiến bộ. Không có thương nghiệp thì xã hội tê liệt và dẫm chân tại chỗ, kể cả về vật chất lẫn tinh thần, là lẽ tự nhiên. Trong những yếu tố độc hại của Khổng Giáo, yếu tố độc hại nhất trên hẳn mọi yếu tố khác chính là sự thù ghét thương nghiệp, mà về việc này thì Khổng Tử hoàn toàn vô can. Nó là một phát minh của Hán Nho và được duy trì vì cần thiết cho sự ổn vững của các chế độ quân chủ chuyên chế. Không phải là một sự tình cờ mà các tiến bộ lớn của nhân loại đã phát sinh từ các thị trấn buôn bán và tư tưởng dân chủ cũng như các chế độ dân chủ đầu tiên đã nảy sinh từ đó. Cũng không phải là một sự tình cờ mà Hoa Kỳ, một quốc gia tạp chủng, khởi hành từ số không nhưng có mẫu số chung là business, đã mau chóng trở thành siêu cường số một của thế giới.

Như đã nói, Việt Nam vừa hình thành thì đã tiếp thu Khổng Giáo từ đời nhà Hán, nghĩa là khi Khổng học đã bị tồi tệ hóa do sự thêm vào nhiều yếu tố độc hại, trong đó độc hại nhất là tâm lý thù ghét thương nghiệp. Suốt dòng lịch sử, chúng ta đã chỉ biết có tâm lý này, không như người Trung Hoa ít ra đã có một thời Xuân Thu Chiến Quốc trong đó cả một rừng hoa tư tưởng nở rộ và thương nghiệp phát triển mạnh. Chính vì thế mà văn hóa của ta thấp kém hơn văn hóa Trung Quốc. Chính vì thế mà chúng ta dở về buôn bán hơn tất cả mọi quốc gia có cùng một chiều dài lịch sử.

Như một người mù lòa quen với bóng tối, Việt Nam cũng như Trung Quốc, nhưng hơn cả trung Quốc, đã thích nghi với sự nghèo khổ và tìm an ủi ngay trong sự nghèo khổ. "An bần lạc đạo" là một triết lý và một thứ thuốc an thần ru ngủ trí tuệ ta. Đáng lẽ chỉ nên coi sự nghèo khổ là một tình trạng đáng buồn cần chấm dứt, chúng ta coi nó như một sự vinh quang. Đáng lẽ chỉ nên coi người nghèo là những người không may cần được giúp đỡ, ta lại coi họ là những người trong sạch đáng tôn vinh. Tâm lý này lại là tâm lý của kẻ sĩ, nghĩa là thành phần tinh nhuệ nhất, hiểu biết nhất.

Nếu thù ghét thương mại là di sản độc hại nhất của Khổng Giáo thì nó cũng là di sản nặng nề nhất của người Việt, ngay trong lúc này.

Thế hệ của tôi, những người vào đại học trong thập niên 1960, hoàn toàn bị tâm lý trọng sĩ khinh thương chế ngự. Ước mơ của chúng tôi chỉ là đậu cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư để được làm giáo sư, giám đốc. Cha mẹ chúng tôi cũng chúc tụng và mơ ước cho chúng tôi tương lai đó. Tâm lý của chúng tôi hoàn toàn là tâm lý kẻ sĩ, nghĩa là tâm lý làm quan hoặc làm công ăn lương, dù chúng tôi chẳng hề học Tứ Thư, Ngũ Kinh bao giờ. Cái tâm lý đó, chúng tôi đã tiếp thu từ sinh hoạt gia đình và xã hội. Và chúng tôi cũng đã được giáo dục ngay tại trường học theo tâm lý đó. Những mẫu người mà chúng tôi được khuyến khích để noi gương chỉ là những danh tướng, danh thần, những nhà nho liêm chính, những nhà thơ, nhà văn, hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Ngay cả những danh nhân ngoại quốc chúng tôi biết đến cũng chỉ là những ông vua, ông tướng, hay các nhà bác học, các nhà chính trị và các nhà văn lớn chứ hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Doanh nhân là một giống người không ra gì. Chúng tôi đã lớn lên với một hệ thống giá trị như thế. Chúng tôi được đào tạo để làm những con người sống ngoài lề xã hội hay, nếu may mắn hơn, sống trên xã hội chứ không hội nhập và sống trong xã hội.

Ở vào thế hệ của tôi, và một phần nào đó ngay bây giờ tại Việt Nam, học hết tú tài là đã thuộc thành phần tinh nhuệ của xã hội. Tôi may mắn thuộc vào thành phần tinh nhuệ nhất của thành phần tinh nhuệ đó. Bạn bè quen biết của tôi có vài trăm người được đi du học tại châu Âu, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand và Nhật. Tất cả đều thông minh tuấn tú, tất cả đều đã thành công theo tiêu chuẩn Việt Nam, nghĩa là ngày nay chúng tôi đều có văn phòng luật sư, phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, làm giáo sư hay kỹ sư, với một cuộc sống tương đối thoải mái, nhưng doanh nhân thì chỉ có một vài người. Một số kỹ sư, chuyên viên nay đã ngoài năm mươi tuổi, lương quá cao so với yêu cầu của xí nghiệp đang hồi hộp lo âu bị cho nghỉ việc, có những người đã mất việc. Nếu khối sinh lực và trí tuệ đó được dồn vào kinh doanh thì đất nước đã khá hơn biết bao nhiêu, và ngay cả cuộc sống của mỗi chúng tôi cũng khá hơn nhiều. Hơn nữa nghề làm công, hay nghề cá nhân, đã không cho chúng tôi những cơ hội để tiếp xúc và học hỏi, cũng không đặt chúng tôi trước những trách nhiệm quan trọng ; kết quả là giờ đây, vào giai đoạn gần chót của sự nghiệp, chúng tôi không những chỉ bình thường về vật chất mà còn kém cỏi cả trong tầm vóc và sự hiểu biết.

Thế hệ chúng tôi đã thừa hưởng một hệ thống giá trị độc hại và đã truyền lại nọc độc cho thế hệ sau. Tôi chưa nhận thấy một chuyển biến tâm lý đáng kể nào trong giới trẻ Việt Nam. Phần lớn các con cháu của các bạn tôi đều hướng về những ngành học thuần túy kỹ thuật, và khi họ có học về doanh thương thì cũng chỉ với tâm lý công nhân mà thôi. Tôi tiếp xúc với nhiều thanh niên và lúc nào cũng hỏi họ dự định thế nào cho tương lai, họ sẽ làm gì ở tuổi bốn mươi ? Cho tới nay những câu trả lời của họ cũng không khác bao nhiêu so với thế hệ chúng tôi. Việt Nam vẫn còn chờ đợi một chuyển biến tâm lý lớn, dù đã trải qua nhiều xáo trộn khốc liệt. Đó là tôi chỉ gặp một thành phần thanh niên may mắn có cơ hội để tiếp xúc với thế giới tiến bộ bên ngoài, những người lớn lên tại hải ngoại, hoặc những thành phần ưu tú được gởi ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh hay thực tập sinh. Những thanh niên ở Việt Nam sang còn cho tôi hay tâm lý của thanh niên trong nước còn trì trệ hơn họ về mặt kinh doanh. Tình trạng này cho thấy ảnh hưởng của một nền văn hóa dai dẳng tới mức nào.

Chúng ta vẫn còn là những đứa con tinh thần của "Khổng Giáo Việt Nam", một thứ Khổng Giáo đặc biệt tăm tối. Cái văn hóa Khổng Giáo đó đã làm thui chột cả một dân tộc. Nó khiến chúng ta dị ứng thương nghiệp đã đành, nhưng nó cũng gây ra một mặc cảm thấp kém ngay cả trong một số hiếm hoi dám kinh doanh buôn bán. Một người Việt Nam hãnh diện với một đứa con tốt nghiệp đại học và lãnh lương vừa đủ sống hơn là một đứa con bán phở với lợi tức gấp bốn, năm lần. Một thương gia giàu có cũng thích gả con gái cho một tiến sĩ hơn là một thương gia trẻ, và cũng rất hài lòng nếu tất cả các con mình trở thành bác sĩ, kỹ sư và bỏ nghề buôn. Họ không thể trở thành những thương gia lớn được bởi vì họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ, và họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ vì thành phần xã hội của họ bị khinh khi. Ngôn ngữ Việt Nam không thiếu những danh từ thóa mạ đối với người buôn bán : tên lái buôn, bọn con buôn, bọn hàng tôm hàng cá, v.v... Sự khinh bỉ này đưa tới một hậu quả thực sự là những người buôn bán nhỏ bị co cụm lại thành những nhóm cô lập, hờn giận với phần còn lại của xã hội, rồi cũng mất đi sự tự trọng và cư xử một cách rất thô lỗ, trái ngược với tinh thần phải có của thương nghiệp. Kết quả là cả nghề buôn bán lẫn việc buôn bán đều không vươn lên được.

Văn hóa Khổng Giáo Việt Nam tạo ra những thành kiến rất sai lầm và bất công đối với các thương gia. Sau khi đậu xong tú tài I, tôi được một thương gia giàu có muớn dạy kèm cô con gái vừa lên đệ tứ, tức lớp 9 bây giờ. Những thành kiến sai lầm đã khiến tôi hình dung ông ta là một con người vô học chỉ sống vì đồng tiền, và chắc là giả dối và gian lận. Tôi khám phá ra mình ngu dốt. Hai ông bà vất vả suốt ngày, họ chỉ về nhà vào khoảng 9, 10 giờ tối. Họ bặt thiệp, hiền lành và rất hiểu biết. Tôi nhận ra bà ấy thông minh hơn hẳn các bà mẹ Việt Nam khác và ông ấy có kiến thức cao hơn và rộng hơn hẳn những giáo sư của tôi. Ông bà ấy hình như chưa học hết bậc trung học, nhưng họ đã đạt tới trình độ hiểu biết cao nhờ học hỏi trong cuộc sống, bằng sự giao tiếp trong xã hội và bằng suy tư cá nhân. Cuộc gặp gỡ kéo dài hơn một năm này đã là một may mắn lớn cho tôi. Tôi được một số tiền thù lao khá lớn, đủ sống cho mình mà còn giúp đỡ được cả gia đình ; nhưng tôi còn được cả một sự tỉnh ngộ.

Sau khi đi du học về, tôi làm tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín rồi sang Bộ Kinh Tế và lại có dịp gặp gỡ nhiều doanh nhân khác. Ngay khi về Việt Nam tôi đã được nghe nhiều huyền thoại về các doanh nhân người Hoa, những Lý Long Thân, Huỳnh Trù, Trần Thành, Trương Đồng Lương, v.v... Họ được mô tả là những người giàu sụ, có biệt tài làm ra tiền mặc dầu dốt nát tới độ ký tên mình còn run tay. Sự hiểu ngầm ở đàng sau là họ giàu có nhờ khôn vặt, láu cá, mánh mung.

Điều đáng để ý là thành kiến không tốt đối với các doanh nhân gốc Hoa này không phải chỉ có trong dân chúng và báo chí, mà còn hiện diện ngay cả trong giới chuyên viên tài chánh, đùáng lẽ ra phải được giác ngộ về kinh doanh. Hoàn cảnh đã cho tôi cơ hội gặp gỡ với những người này, và tôi nhận ra họ là những con người rất thông minh và ngay thẳng. Không những thế, họ còn có kiến thức rộng rãi về những vấn đề chính trị, văn hóa và xã hội. Trong buổi lễ khánh thành một nhà máy cán sắt mới của công ty Vicasa, Lý Long Thân, chủ tịch công ty, sắp xếp để tôi ngồi ngay bên cạnh ông, buổi tiệc đã kéo dài hơn thường lệ vì sau cà phê Lý Long Thân còn trò chuyện với tôi hơn hai giờ nữa. Lý Long Thân không cần gì tôi cả, ông ấy chỉ nói chuyện vì gặp người hợp ý mà thôi. Ông ấy kể cho tôi những cuộc gặp gỡ và những câu chuyện giữa ông ấy với các cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa và đặc biệt là buổi gặp gỡ một tuần trước đó với đại sứ Mỹ Graham Martin. Lý Long Thân hiểu biết nguy cơ đối với Việt Nam Cộng Hòa hơn là các cấp lãnh đạo Việt Nam mà tôi thường gặp. Nếu Nguyễn Văn Thiệu thực sự dùng Lý Long Thân làm cố vấn như nhiều lời đồn đãi thì có thể Việt Nam Cộng Hòa đã may mắn hơn.

Tâm lý bài bác thương nghiệp và tôn vinh sự thanh bạch tạo ra cho người Việt Nam một quan hệ bệnh hoạn và tội lỗi đối với tiền bạc. Chúng ta đều biết quyền lực của đồng tiền, câu tục ngữ "có tiền mua tiên cũng được" không phải mới có. Hai chữ nói lái "đầu tiên" là "tiền đâu" cũng không mới. Chúng ta đều cần tiền và muốn có tiền, nhưng chúng ta không dám công khai kiếm tiền, chúng ta được giáo dục để coi kiếm tiền như là một sự vẩn đục và chúng ta cố làm ra vẻ khinh thường sự giàu có và hãnh diện với cảnh thanh bần. Chúng ta muốn mà không dám, chúng ta ao ước và giấu giếm như một tiểu thư con nhà gia giáo bề ngoài đề cao tiết hạnh dù trong phòng vắng nhiều đêm cũng trằn trọc mơ ước những giây phút hoan lạc của một cô gái phá lệ. Cả một xã hội sống trong sự giả dối.

Tâm lý này tạo ra cả một truyền thống tham nhũng. Thành phần tinh nhuệ đua nhau đi làm quan thay vì làm giàu. Mặt khác, các ông quan thời xưa và các quan chức nhà nước ngày nay không thể sống với đồng lương chật hẹp cho nên phải dựa vào quà cáp, hay phải nhắm mắt để các bà vợ ăn tiền thay mình để giữ được một mức sống đàng hoàng. (Hình như ngày nay đã tiến bộ hơn, các quan chức thẳng thắn đòi tiền hối lộ chứ không cần qua một trung gian nào cả). Chống tham nhũng ở Việt Nam rất khó vì chúng ta có cả một văn hóa tham nhũng do truyền thống để lại.

Văn hóa thanh bần của Khổng Giáo cũng đã đem lại cho chúng ta những tai họa về chính trị. Ông Hồ Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm đều được kính trọng vì họ tỏ ra là những người thanh liêm. Họ không có vợ, và điều đó hình như kéo theo hệ luận là họ trong sạch, thanh liêm. Họ được tín nhiệm về đức chứ không phải vì tài. Và thực sự cả hai đều không có khả năng, cả hai đều thiếu bản lãnh, đều không nhìn thấy những vấn đề và những giải pháp cho đất nước, nhưng họ đã được văn hóa và tâm lý Việt Nam đặt vào vị trí quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai đoạn trọng đại. Ông Hồ Chí Minh được tôn sùng hơn ông Ngô Đình Diệm vì đóng kịch khéo hơn, ông xuất hiện như một nhà nho khổ hạnh, sống suốt đời và tất cả cho dân tộc, trong khi thực ra ông là một người ham thụ hưởng hơn hẳn mức trung bình. Cả hai ông, dù đã được ngoại bang nâng đỡ hay đặt để, cũng đã là sản phẩm của văn hóa Khổng Giáo. Hai ông không chiếm độc quyền sân khấu chính trị Việt Nam nhưng là những nhân vật tiêu biểu nhất. Những người lãnh đạo chính trị khác, khi không hoàn toàn do ngoại bang chọn lựa, cũng giành được địa vị vì những lý do thuần túy thuộc "đức". Họ được tiếng là những người, hoặc thanh liêm, hoặc can trường, hoặc có công vì đã vào tù ra khám, chứ hoàn toàn không phải vì họ được nhìn nhận là có khả năng làm cho đất nước giàu có hơn. Kết quả : bốn triệu người chết và một GDP 300 đô la mỗi năm cho mỗi đầu người.

Văn hóa Khổng Giáo còn để lại cho chúng ta một di sản khác là sự vô lễ quá đáng. Mới đây tôi được đọc trên một tờ báo trong nước một bài của nhà văn Trần Mạnh Hảo đả kích một nhà văn khác vừa được giải thưởng văn học. Trước đây tôi đã được biết đến Trần Mạnh Hảo qua tác phẩm Ly Thân và có cảm tình với ông. Sau này tôi lại được nghe những dư luận không tốt về tư cách của ông từ những người mà tôi kính trọng về kiến thức và nhân cách. Tôi vẫn còn phân vân và bài báo của Trần Mạnh Hảo một phần nào đã giải tỏa cho tôi sự phân vân đó. Trần Mạnh Hảo đả kích đoạn của tác phẩm thuật lại chuyện vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Trần Mạnh Hảo hoàn toàn không dựa vào một tài liệu nào cả, nhưng cảm thấy có thể thẳng thắn bác bỏ chuyện của tác giả kia. Tại sao ? Chỉ giản dị là tại cách xưng hô. Tác phẩm kia thuật lại những lời đối đáp của viên công sứ Pháp gọi vua Hàm Nghi là "ngài", là "nhà vua", v.v... Như thế là đủ để Trần Mạnh Hảo quả quyết là tác giả đó đã bịa đặt trắng trợn bởi vì có khi nào một người chiến thắng lại nói với một tù nhân với lời lẽ cung kính như vậy. Trần Mạnh Hảo không hiểu rằng đó là cách đối xử rất tự nhiên và rất bình thường của người phương Tây, bởi vì Trần Mạnh Hảo thuộc văn hóa Việt-Trung, trong đó sự lỗ mãng là một thông lệ. Những ai đọc truyện Tàu và truyện dã sử Việt Nam đều đã quá quen với ngôn ngữ xỉ vả và thóa mạ kẻ thù, nhất là kẻ thù sa cơ thất thế (trong các truyện Tàu tôi chỉ thấy thời Tam Quốc có Tào Tháo và Tôn Quyền là đôi khi đối đáp nhã nhặn với người chiến bại). Một chi tiết khác trong bài của Trần Mạnh Hảo là lời lẽ của nó rất gay gắt. Đó cũng là đặc tính chung của phần lớn những bài tranh luận giữa người Việt Nam thuộc mọi thế hệ. Hình như chúng ta cảm thấy có bổn phận phải nổi giận khi không đồng ý.

Nhưng sự lỗ mãng không phải là một nét đặc trưng của riêng văn hóa Khổng Mạnh, mà là của mọi nền văn hóa trong đó thương mại thiếu vắng. Thương mại khiến người ta gặp gỡ nhiều, tiếp xúc rộng và trở thành lịch sự. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm lời lẽ trang nhã để thuyết phục khách hàng. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm hiểu khách hàng, đặt mình vào địa vị khách hàng để cố khám phá khách hàng muốn gì và sau đó để chinh phục cảm tình của khách, để khách mua hàng hóa hay dịch vụ cần dùng nơi mình thay vì nơi một nhà cung cấp khác. Những người có chút kinh nghiệm về thương mại đều hiểu rằng muốn như thế thì chỉ có một cách là phải rất lương thiện, rất lễ độ và quí mến khách hàng một cách thực sự. Cảm tình và khả tín là hai vốn quí nhất của một doanh nhân. Thiếu hai đức tính đó thì tốt hơn hết là đừng đi vào thương nghiệp, cùng lắm chỉ thành công nhỏ và tạm bợ mà thôi. Chính vì thế mà các dân tộc buôn bán cũng là những dân tộc khả ái nhất. Đọc một số bài phê phán văn hóa Khổng Giáo của tôi một số thân hữu thường bày tỏ sự lo ngại là nếu không còn Khổng Giáo liệu chúng ta có mất luôn các lễ giáo cổ truyền của mình không ? Xin các bạn yên tâm. Trước hết, chỉ lo các bạn không bỏ được sớm thôi, từ giã một nền văn hóa khó lắm. Sau đó, chúng ta sẽ lễ độ hơn chứ không mất lễ độ đâu. Một cách không chủ ý nhưng có thực, văn hóa Khổng Giáo, vì loại bỏ thương mại, đã khiến con người trở nên vô lễ.

Có những thân hữu khác lại biện luận rằng không nên bài xích Khổng Giáo vì chính nhờ Khổng Giáo mà Việt Nam và Trung Quốc đã được ổn định trong hơn hai ngàn năm. Nhưng ổn định nào ? Ổn định trong sự dậm chân tại chỗ, trong sự nghèo khổ, kềm kẹp và thua kém, có phải là một ổn định đáng mong muốn không ? Chúng ta đã là chúng ta ngày hôm nay chính vì chúng ta đã là nạn nhân của sự ổn định đó. Mà thực ra có ổn định gì đâu. Lịch sử Trung Hoa và Việt Nam, nhất là Việt Nam trong hai mươi thế kỷ Khổng Giáo cho đến thế kỷ 19 đã đẫm máu hơn lịch sử của mọi dân tộc khác, với đàn áp thường trực và nổi loạn triền miên, khi không có chiến tranh với ngoại bang. Các bạn thử đọc lại thật kỹ lịch sử nước ta xem trước khi người Pháp đến, chúng ta có bao nhiêu năm chiến tranh ? Các bạn sẽ khám phá ra con số thật kinh khủng và các bạn cũng sẽ thấy rằng con số những năm chiến đấu chống ngoại xâm chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Văn hóa Khổng Giáo do tính bất dung và vô nhân đạo của nó đặt xã hội trong tình thế thù địch thường trực. Cái mà chúng ta gọi là sự ổn định thực ra chỉ là sự trì trệ.

Truyền thống nào cũng có sức mạnh quán tính của nó. Truyền thống càng dài quán lực càng cao. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu khi phải từ giã một tập quán chúng ta cảm thấy một mất mát lớn, bởi vì các tập quán nằm trong vô thức của chúng ta và gắn bó với cơ thể của chúng ta. Sự nghèo khổ không phải chỉ là một tình trạng mà là cả một hệ thống có cả đạo đức, triết lý, sự thỏa mãn và niềm hãnh diện của nó. Thoát ra khỏi sự nghèo khổ không phải là dễ bởi vì chính những người nghèo cảm thấy nếp sống của họ là đúng đắn, không có gì phải thay đổi. Cũng thế, những tập quán tệ hại đến đâu vẫn có cái tiện nghi gớm ghiếc, nhưng có thực, của chúng. Những người chống đối hủ tục bó chân phụ nữ của Trung Hoa không ai khác hơn là chính các phụ nữ Trung Hoa. Những người lúc ban đầu phản đối mạnh nhất chiếc áo dài duyên dáng hiện nay của phụ nữ Việt Nam không ai khác hơn là chính các phụ nữ Việt Nam. Cũng những phụ nữ Việt Nam và Trung Hoa khả kính đã bảo vệ một cách nồng nhiệt nhất "tam tòng, tứ đức" - và chữ "trinh" gớm ghiếc - đã đày đọa họ trong hàng chục thế kỷ.

Đọc lịch sử Việt Nam, có một trang mà chúng ta không thể đọc mà không nhỏ lệ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đã có hàng chục ngàn người dân rất bình thường, chọn lựa đi tới trước đao phủ thay vì từ bỏ lòng tin của mình. Đó là những người Công Giáo đầu tiên của Việt Nam, nạn nhân của chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn. Dù chia sẻ hay không tin tín ngưỡng của họ, mọi người Việt Nam đều có thể hãnh diện về sự dũng cảm đó. Đối đầu với họ, những người hưởng ứng chính sách cấm đạo và xả thân đi đánh các họ đạo là ai ? Đó là những người Văn Thân, Cần Vương, những người cũng đáng quí nhất của dân tộc, nghĩ rằng mình đang hy sinh bảo vệ đất nước của cha ông chống lại một cuộc xâm lăng mới và một tà thuyết mới. Nếu chúng ta, thay vì là một xã hội nông nghiệp khép kín, là một dân tộc có truyền thống thương mại và trao đổi thì phản ứng của chúng ta chắc chắn sẽ không như thế.

Điều mà chúng ta đang cần là một sự mạnh bạo đoạn tuyệt với một tâm lý lỗi thời và dám đổi mới, dám từ bỏ đường xưa lối cũ, dám muốn đi tới những chân trời mới, tìm những thành công thật lớn.

Các bạn có thể hỏi tôi, nói lung bung như vậy có ích lợi gì không, có đề nghị cụ thể gì không ? Có một đề nghị nhỏ rất dễ làm, mà nếu các bạn cùng làm tôi bảo đảm là chỉ trong vòng một thế hệ đất nước sẽ rất khá. Đề nghị đó như thế này : khi một đứa trẻ ra chào đời các bạn hãy hôn và chúc nó : "Con sẽ là doanh nhân, con nhé !".

 

**************

 

Tổ quốc của kẻ sĩ

 

 

tqan17

Có một điều đáng để ta ngạc nhiên và suy nghĩ là tại sao một nước lớn như Trung Quốc lại thường bị đánh bại rất dễ dàng ?

Các nước thời Xuân Thu Chiến Quốc phải xây tường ngăn chặn các sắc tộc phương Bắc thay vì chinh phục họ. Tần Thủy Hoàng binh hùng tướng mạnh như thế, gồm thâu cả lục quốc mà sau khi thống nhất Trung Quốc cũng không làm gì hơn là tiếp tục xây Vạn Lý Trường Thành ngăn chặn thay vì tiến công. Như thế thì cái sức mạnh đó cũng đáng đặt một dấu hỏi lớn. Người Mông Cổ ở thế kỷ 12 chắc không tới một triệu dân mà đánh chiếm được Trung Quốc. Trước đó nhà Tống cũng đã bị nước Kim nhỏ bé ở phía Đông Bắc khuất phục. Người Mông Cổ chiếm Trung Quốc lập ra nhà Nguyên mà không gặp chống đối. Nhà Nguyên sụp đổ sau hơn một thế kỷ thống trị Trung Quốc không phải do một cuộc kháng chiến quốc gia nào mà chỉ vì quan lại Mông Cổ về sau tham tàn dồn dân chúng tới tình trạng không chống lại cũng chết đói. Giặc giã nổi lên khắp nơi, Chu Nguyên Chương, sáng tổ nhà Minh, là thủ lãnh một trong những nhóm nổi dậy đó. Chu Nguyên Chương giành được ngôi bá chủ phần lớn là vì ông ta không chống quân Nguyên, trái lại ông ta để cho các nhóm khác đánh nhau với quân Nguyên cho đến khi kiệt quệ rồi đột kích tiêu diệt họ. Chu Nguyên Chương không có mục đích đánh đuổi quân Nguyên giành lại độc lập cho Trung Quốc mà chỉ lo lập nghiệp đế cho mình, ông không đặt vấn đề dân tộc. Dưới mắt ông ta, quân Nguyên hay các nhóm khác đều là những đối thủ như nhau. Thắng lợi của Chu Nguyên Chương không phải là thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng, mà chỉ là thắng lợi của một thủ lãnh tham vọng nhất và khôn lỏi nhất trong một thời mà Trung Quốc phân tán. Người Trung Quốc chống lại triều Nguyên một cách bất đắc dĩ vì bị ức hiếp quá chứ không phải vì tinh thần dân tộc.

Ba thế kỷ sau, Trung Quốc, dưới triều Minh lại bị nước Mãn Châu nhỏ bé thôn tính, và lần này mọi nhóm chống đối đều bị tiêu diệt. Cuộc nổi loạn lớn nhất do Hồng Tú Toàn lãnh đạo đã bị chính những nho sĩ Trung Quốc phục vụ nhà Thanh đánh bại. Nhà Thanh đã chỉ sụp đổ trước sức công phá của phương Tây và trước trào lưu dân chủ.

Xét trong dòng lịch sử thì tinh thần dân tộc của người Trung Quốc rất yếu, nếu không muốn nói là không có. Kẻ nào mạnh nhất trong số những cường hào lãnh chúa kẻ đó làm chủ Trung Quốc, bất luận ông ta là người Hoa hay không.

Năm 1778, khi nước Anh đã chinh phục được Ấn Độ, toàn quyền Anh tại Ấn cử một cộng sự viên là Chapman sang điều nghiên về tình hình Việt Nam. Lúc đó anh em Tây Sơn đã diệt được chúa Nguyễn, thanh thế kinh động cả nước. Tám năm sau Tây Sơn diệt Trịnh dễ như trở bàn tay. Chapman đi tham quan khắp nơi và được anh em Tây Sơn tiếp đón ân cần nên có dịp nhìn thấy rõ lực lượng của các phe, đặc biệt là phe Tây Sơn mạnh nhất lúc đó. Chapman phúc trình cho toàn quyền Anh tại Ấân như sau : "Quân đội của Nguyễn Nhạc không đáng kể, giá trị quân sự rất kém. Tôi có thể nói chắc chắn là độ một trăm người có kỷ luật sẽ đánh bại toàn bộ quân lực của ông ta".

Cái gì đã khiến Chapman đánh giá lực lượng Tây Sơn thấp quá như vậy ? Không phải chỉ là sự tin tưởng vào vũ khí công hiệu hơn, vả lại Chapman chỉ nói tới kỷ luật. Những người nô lệ da đen nổi lên tại Haiti đã đánh tan cả một quân lực hùng hậu của Napoléon I, quân đội Anh tinh nhuệ như vậy mà cũng đã bị tiêu diệt toàn bộ một lữ đoàn trước một số bộ lạc Nam Phi chỉ trong một trận đánh. Vũ khí không quyết định tất cả như ta có thể nghĩ. Sự yếu kém của một quân đội chủ yếu là vì nó thiếu lý do để chiến đấu, và vì thế thiếu tổ chức và gắn bó.

Một thế kỷ sau, người Pháp đổ bộ vào Việt Nam và cũng đánh bại quân Việt Nam dễ dàng. Tại miền Nam, Phan Thanh Giản tự vẫn thay vì chống lại, để quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Phan Thanh Giản đã tuẫn tiết thì chắc chắn không phải là người thiếu dũng cảm, ông đã chỉ thấy tình hình tuyệt vọng mà thôi. Tại miền Bắc, vài trăm quân Pháp đã có thể hai lần đánh bại quân Việt Nam trong chớp mắt. Cả Nguyễn Tri Phương lẫn Hoàng Diệu đều là những tướng có thừa dũng cảm nhưng họ không làm gì được bởi vì quân đội nhà Nguyễn tuy đông nhưng không có sức mạnh. Để chiếm các tỉnh miền Bắc có khi Pháp chỉ cần mười người lính bắn vài phát súng thị uy là tổng đốc bỏ chạy hoặc tự trói ra hàng. Nếu bảo rằng đó là do vũ khí tối tân thì tại sao vài ngàn quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc lại đánh bại được quân Pháp ?

Lý do thực sự là vì chúng ta thiếu tinh thần quốc gia dân tộc. Và một khi đã thiếu tinh thần quốc gia dân tộc thì sức mạnh của quân đội chỉ dựa trên quyết tâm và bản lãnh của người thủ lãnh. Khi chúng ta có những thủ lãnh giỏi như dưới thời Lý, Trần hay trong cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi thì ta có sức mạnh, khi ta không có tướng giỏi thì quân đội ta không có giá trị. Các triều đại Trung Hoa và Việt Nam có thể suy sụp rất nhanh chóng vì một ông vua dở bởi vì vua là tất cả. Ý niệm quốc gia dân tộc không có, do đó không có một sức mạnh quốc gia độc lập với nhà vua. Cái lô-gích về sức mạnh tại Trung Quốc và Việt Nam rất giản dị : một người, nhờ bản lãnh hay địa vị, qui tụ quanh mình một đội ngũ nhỏ, rồi dùng đội ngũ đó để khống chế dân chúng, bắt dân chúng phải phục tùng mình và chiến đấu cho mình chứ không dựa trên một ý chí chung. Chính vì thế mọi lực lượng có thể thay đổi rất mau chóng tùy theo người thủ lãnh.

Trong một bài báo tôi có phát biểu rằng ý niệm quốc gia dân tộc rất mới đối với chúng ta, các cụm từ "yêu nước" hay "ái quốc" hoàn toàn không có trong ngôn ngữ Việt Nam trước thế kỷ 20. Nhận định này đã bị một số người phản đối, họ quả quyết sẽ tìm được bằng cớ ngược lại. Gần bốn năm đã trôi qua vẫn chưa ai tìm được. Có thể sau này có vị sẽ tìm thấy trong một tài liệu nào đó, nhưng một thí dụ hiếm hoi cũng sẽ không phản bác được nhận xét của tôi là tinh thần quốc gia của chúng ta chỉ mới xuất hiện trong thế kỷ này. Các quan tướng và sĩ tử của ta trước đây chỉ biết có vua chứ không biết tới nước.

Tại sao tôi dám quả quyết như vậy mặc dù chưa đọc hết các tài liệu và tác phẩm Việt Nam ? Đó là vì khái niệm nước như là một thực thể khác với vua, của chung mọi người và mọi người có bổn phận phục vụ và bảo vệ, chưa có. Mà nước đã không có thì làm gì có chuyện yêu nước.

Văn hóa Khổng Giáo, độc tôn trên đất nước ta cho tới thế kỷ 20, không nhìn nhận sự hiện hữu của quốc gia. Đó là một điều chắc chắn.

Khi Khổng Tử dạy các sĩ tử "nước nguy thì đừng tới, nước loạn thì đừng ở, nước có đạo thì ta ra làm quan, nước vô đạo thì ta ở ẩn", rõ ràng ông không nhìn nhận bất cứ một bổn phận nào đối với nước cả, ông chỉ coi nước là của một chủ, kẻ sĩ thấy phục vụ ông chủ đó có lợi thì làm không có lợi thì thôi. Cái triết lý ở ẩn mà Khổng Tử nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Luận Ngữ và sau này đã trở thành cả một đạo sống của nho sĩ, là gì nếu không phải là sự phủ nhận quốc gia và sự khước từ mọi nhiệm vụ đối với cộng đồng ? Thái độ của kẻ sĩ rất rõ rệt : chỉ mưu lợi cho mình và sống trung thành với nghề sĩ, nghĩa là nghề đi học và làm quan, của mình. Phải nói rằng các nho sĩ rất có đạo lý nghề nghiệp. Họ trung thành tuyệt đối với người chủ đã dùng họ và dù được làm quan hay thất nghiệp họ vẫn hãnh diện với nghề của mình và tôn trọng những giá trị của nó. Những nhà nho không có tổ quốc, họ chỉ biết tới các tổ nghề, nghĩa là các thánh hiền của họ, và người chủ tuyển dụng họ, nghĩa là nhà vua.

Quốc gia là một ý niệm trừu tượng cần được nuôi dưỡng bởi những người có văn hóa, nhưng trong xã hội Khổng Giáo những người có văn hóa duy nhất là các nho sĩ lại không nhìn nhận quốc gia, như thế thì không thể có quốc gia theo ý nghĩa một thực thể riêng biệt được. Trong xã hội Khổng Giáo, nước chỉ là vùng đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua mà thôi, những con người sống trên vùng đất đó chỉ là những nô lệ của vua, vua muốn cắt đất nhường dân cho ai tùy ý. Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt mà chúng ta coi là một bài thơ yêu nước cũng chỉ nhắc lại quan niệm đó : "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" [núi sông nước Nam là của vua nước Nam].

Cái gương Khổng Tử đi hết nước này sang nước khác để xin làm quan (có lúc ông định vượt biển sang phò vua Cao Ly) đã chứng minh rõ ràng kẻ sĩ không có tổ quốc. Vả lại cho đến khi người phương Tây sang chinh phục vấn đề quốc tịch không hề đặt ra ; ai sống ở đâu thì là dân của ông vua nơi đó, có thể làm quan cho ông vua đó, nhưng nếu đi nước khác cũng có thể làm quan và tuyệt đối trung thành với một ông vua khác, ngay cả nếu phải cầm quân đi đánh nước cũ. Ngũ Tử Tư đời chiến quốc bị trách là rước voi về dày mả tổ bởi vì tổ tiên ông và chính ông đã làm quan nước Sở mà sau này ông lại dẫn quân Ngô về dày xéo lăng miếu nước Sở. Sẽ không ai trách ông nếu trước đó tổ tiên ông và chính ông chỉ là thường dân nước Sở. Trong lịch sử Trung Hoa, không thiếu những người nước này sang làm tướng quốc nước khác. Trong lịch sử Việt Nam, Đàng Trong (miền Nam) và Đàng Ngoài (miền Bắc) được coi là hai nước riêng biệt, Nguyễn Nhạc và vua Lê Hiển Tông khi đối đáp với nhau gọi lãnh thổ của nhau là "quí quốc" một cách rất tự nhiên.

Khi quân Thanh sang Việt Nam năm 1789, để rồi bị Nguyễn Huệ đánh bại, dân Bắc Hà thấy gần gũi với quân Thanh hơn là quân Tây Sơn và cầu mong cho quân Thanh thắng.

Dĩ nhiên cuộc chung đụng trong hàng ngàn năm phải làm nảy sinh ra một tình cảm cộng đồng, nhưng nó chỉ là tình cảm của những người cùng chung và cùng chịu một số phận (bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn), nó còn ở rất dưới điều mà ta có thể gọi là tinh thần quốc gia dân tộc hay lòng yêu nước. Điều đó dễ hiểu, kẻ sĩ, những kẻ còn được hưởng một vinh quang nào đó của chế độ chính trị, đã không có tổ quốc thì người dân, những người nô lệ, lại càng không có lý do gì để có tổ quốc. Nước là vua, mà vua là cái gông cùm. Không có tội nhân nào yêu gông cùm cả. Những kẻ không có gì thì cũng không có bổn phận nào.

Khi người Mông Cổ, Mãn Thanh và những nước phương Tây xâm chiếm Trung Quốc, họ đã không đụng độ với nhân dân Trung Quốc, mà chỉ đụng độ với các vua nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh.

Khi người Pháp sang chinh phục Việt Nam, họ đã không đụng độ với dân tộc Việt Nam mà chỉ đụng độ với các vua nhà Nguyễn. Chính vì thế mà họ đã thắng lợi dễ dàng.

Ý niệm quốc gia dân tộc đã ra đời một cách chậm chạp tại phương Tây cùng với sự tăng trưởng của tự do và sự hình thành của xã hội dân sự. Người dân có tự do hơn và làm chủ cuộc sống của mình hơn nên đã bắt đầu cảm thấy mình có một chỗ đứng nào đó trong xã hội, rồi dần dần cảm thấy gắn bó và có bổn phận với cộng đồng trong đó mình đang sống. Càng có chỗ đứng họ càng đòi hỏi một chỗ đứng lớn hơn. Ý niệm quốc gia dân tộc nảy sinh như thế và ngày một mạnh, càng mạnh nó càng đẩy lùi quyền lực của các vua chúa. Sau vài thế kỷ thai nghén, sự thành lập một nước cộng hòa tại Hòa Lan, sự hình thành của Hoa Kỳ và cuộc cách mạng Pháp đã chính thức khai sinh ý niệm quốc gia. Đó là ý niệm đất nước của mọi người thay vì là của một dòng họ. Người dân làm chủ đất nước và vì thế yêu nước và có bổn phận với đất nước. Ý niệm quốc gia dân tộc ra đời với cao vọng tận dụng tinh thần trách nhiệm, sinh lực, ý kiến và sáng kiến của mọi người. Niềm tin nền tảng của nó là những con người tự do mạnh hơn và cống hiến nhiều hơn là những con người nô lệ, xã hội của những con người tự do mạnh hơn là một tập thể nô lệ. Một guồng máy nhà nước mới ra đời và có sức mạnh hơn hẳn bởi vì được sự hỗ trợ của mọi người. Khi đi chinh phục thế giới, sức mạnh chính của các nước phương Tây là bộ máy nhà nước hiện đại chứ không phải là vũ khí hiện đại.

Như thế phải hiểu rằng ý niệm quốc gia dân tộc liên hệ mật thiết với dân chủ và tự do. Không có dân chủ và tự do thì không thể có quốc gia, hay cùng lắm chỉ có quốc gia ở dạng bò sát thấp kém.

Tại Việt Nam, một cách nghịch lý, tinh thần quốc gia đã xuất hiện dưới thời Pháp thuộc do ba yếu tố :

1. Người Pháp giáo dục trí thức Việt Nam theo văn hóa của họ, trong đó tinh thần quốc gia là một thành tố quan trọng ;

2. Vai trò của vua nhà Nguyễn trở thành mờ nhạt, họ không còn là chủ đất nước nữa, đất nước trở thành một tài sản chung của mọi người Việt đang bị người nước ngoài chiếm đoạt ; và

3. Chính sách phân biệt đối xử xấc xược của người Pháp khiến người Việt Nam ý thức được rằng mình là một khối dân tộc cùng một tổ tiên và cùng chia sẻ một sự tủi nhục.

Cùng với thế kỷ 20 bắt đầu xuất hiện một số trí thức được gọi là các "nhà ái quốc". Trong tuyệt đại đa số, nếu không muốn nói là tất cả, các nhà ái quốc này đều kêu gọi canh tân, bỏ cũ theo mới.

Trong một bài báo ["Một cách nhìn cuộc chiến", Thông Luận số 82, tháng 05/1995], tôi có viết rằng lòng yêu nước của người Việt Nam có thể chỉ là một ngộ nhận. Nhiều vị đã xúc động và lên tiếng phản đối. Tôi hiểu tình cảm của các vị đó và tôi rất kính trọng tình cảm đó, tôi không mong gì hơn là mình đã nhận định sai. Nhưng quả là chúng ta đã ngộ nhận.

Chúng ta ngộ nhận khi nói rằng ý thức quốc gia dân tộc đã có từ lâu trong khi thực ra nó chỉ là một khái niệm mới xuất hiện từ thế kỷ 20, nghĩa là còn rất non trẻ so với chiều dài lịch sử của ta.

Chúng ta ngộ nhận khi nghĩ rằng lòng yêu nước của người Việt rất cao trong khi thực ra nó rất thấp. Chính vì nó thấp mà khi người Pháp xâm chiếm nước ta đã chỉ có một thiểu số trí thức thực sự dấn thân đấu tranh vì nước còn đại đa số vẫn đứng ngoài cuộc, và thái độ đứng ngoài cuộc đó của những Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Tản Đà, Trần Tế Xương, v.v... hoàn toàn không khiến họ bị chê trách. Chính vì nó thấp mà một số nhỏ người Pháp đã có thể cai trị được cả khối người Việt, dùng chính người Việt để thống trị người Việt. Đặc biệt là trong giai đoạn thế chiến II, một nắm nhỏ người Pháp đã thua trận và đã mất nước vẫn thống trị được Việt Nam một cách tàn bạo.

Tôi tình cờ sinh ra trong một gia đình Việt Nam Quốc Dân Đảng. Giáo dục gia đình đã khiến tôi thù ghét và khinh bỉ một cách thâm tệ những người hợp tác với Pháp ; tôi coi họ là đồ hèn hạ, lưu manh. Lớn lên, tôi được tiếp xúc với nhiều người như thế, tôi nhận ra họ là những người cũng lương thiện và tử tế như những người đấu tranh cách mạng, chỉ có một điều là họ không có ý thức dân tộc đủ mạnh để chấp nhận chịu gian khổ hay hy sinh quyền lợi. Càng trưởng thành tôi càng thấy không nên trách họ bởi vì dù đã hấp thụ nhiều kiến thức mới của phương Tây, về mặt tâm tính họ vẫn thuộc hệ văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vô tổ quốc.

Cũng chính vì lòng yêu nước của người Việt Nam không mạnh mà đảng cộng sản đã thắng lợi. Về bản chất, phong trào cộng sản không những vô tổ quốc mà còn chống tổ quốc, nó là một phong trào thế giới, nhắm thăng tiến giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Nếu không quá lạm dụng bạo lực chủ nghĩa cộng sản có thể là một chủ nghĩa cao quí, dù chỉ là một ảo tưởng, nhưng phong trào cộng sản không phải là một phong trào yêu nước. Khẩu hiệu của nó là người vô sản không có tổ quốc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp, trong khuôn khổ của một nước, là một lời kêu gọi nội chiến. Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cái nôi của đảng cộng sản Việt Nam, nổi lên với lời tung hô : "vạn tuế Sô Nga" và tiếng thét : "trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" hoàn toàn không phải là một phong trào dân tộc. Những người cầm đầu đảng cộng sản và những đảng viên trung kiên nhất không phải là những người yêu nước mà chỉ là những người cộng sản. Có thể đa số những người theo đảng cộng sản đã theo vì lòng yêu nước, nhưng khi nhận định bản chất của một tổ chức ta nên xét theo chủ trương, đường lối của nó và lý tưởng của những người cầm đầu nó chứ không nên dựa trên những người đi theo.

Hoàn cảnh đất nước sau ngày 30/4/1975 đã khiến tôi có dịp tiếp xúc với vô số người cộng sản thuộc đủ mọi cấp bậc và tôi đã có thể kiểm chứng một điều : trong hàng ngũ cộng sản, một người có thể nói một cách quả quyết rằng quốc gia chỉ là một ý niệm vớ vẩn lạc hậu cần vất bỏ mà vẫn không hề bị trở ngại trong việc thăng tiến, trái lại nếu anh ta dám nói chủ nghĩa cộng sản chỉ là một chủ nghĩa tồi tệ chắc chắn anh ta sẽ lâm nguy, có thể mất mạng luôn. Bằng cớ rằng đảng cộng sản không phải là một tổ chức yêu nước cũng có thể tìm thấy trong các chính sách liên tục của họ. Suốt 30 năm chiến tranh, tôi chưa bao giờ ghi nhận một quan tâm thực sự nào của họ trước những đổ vỡ kinh khủng về tinh thần, vật chất và nhân mạng cho đất nước. Họ có thể tiêu diệt thẳng tay những người Việt Nam, yêu nước hay không, không đồng quan điểm với họ, có khi họ sẵn sàng tiêu diệt cả một số thành phần dân tộc. Trong cuộc cải cách ruộng đất 1955-1956, họ chủ trương tiêu diệt toàn bộ giai cấp địa chủ. (Chính sách này, vì những hậu quả tai hại của nó, sau đó được coi là một sai lầm nhưng không bị coi là một tội, những người cầm đầu và phát động nó chỉ bị kiểm điểm).

Sự thù ghét lẫn nhau và ác độc đối với nhau của người Việt Nam là điều không ai có thể chối cãi, nhưng để cố bào chữa cho lòng yêu nước nói chung của người Việt, lại có một nhận định giảm khinh : "chúng ta yêu nước, nhưng không yêu nhau". Như vậy "yêu nước" là gì ? Đất nước là lãnh thổ, là lịch sử, là con người và là một dự án tương lai chung. Trong các yếu tố đó, con người có tầm quan trọng vượt hẳn. Đất nước, lịch sử đều là của người, dự án tương lai cũng là của người. Nếu đồng hóa nước Việt với người Việt thì cũng không sai (và trên thực tế đã có những học giả đồng hóa quốc gia và dân tộc). Mà người Việt không phải là một ý niệm trừu tượng mà là từng người và mọi người. Không yêu nhau là không yêu nước. Chấm.

Nếu mức độ quốc gia quá cao để ta có thể nhận định một cách rõ rệt thì hãy lấy thí dụ khuôn khổ gia đình. Ta có thể coi một người là yêu gia đình được không, khi người đó lúc nào cũng sẵn sàng đốt nhà, đập phá, ẩu đả và sát hại mọi anh chị em không vừa ý mình ? Nếu anh ta tự nghĩ anh ta là người yêu gia đình thì anh ta chỉ là người điên. Và nếu có ai coi anh ta là người yêu gia đình thì người đó cũng nên ghé thăm một bác sĩ tâm thần.

Nếu phải nhận định một cách thực vắn tắt đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tháng 6-1996, thì ta có thể nói đó là một đại hội chống tổ quốc. Đảng cộng sản, sau nhiều thất bại thê thảm, nhất là khi khối cộng sản tan vỡ, đã "đổi mới" về kinh tế thị trường và đời sống một phần dân chúng đã được cải thiện ; sinh hoạt đất nước bắt đầu khởi sắc, nhưng vị trí độc tôn và độc quyền của họ bị lung lay. Họ bèn lấy quyết định chặn đứng đà phát triển để củng cố lại quyền lực của họ mặc dầu biết rõ làm như vậy đất nước sẽ bị thiệt hại nặng. Đại hội VIII là biến cố trong đó một đảng cầm quyền cố tình lấy quyết định có hại cho đất nước vì quyền lợi của riêng mình. Tuy vậy cũng không nên quá khe khắt đối với những người lãnh đạo cộng sản. Thực ra họ cũng không khác với đa số người Việt.

Yêu nước tại Việt Nam là một ngoại lệ chứ không phải là một thông lệ. Chúng ta là một dân tộc được nhào nặn trong suốt dòng lịch sử bằng văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vô tổ quốc, lòng yêu nước của ta yếu kém là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta chớ nên nghĩ rằng mình đã ra khỏi văn hóa Khổng Giáo. Chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách nặng nề lắm, ngay cả khi chúng ta không ý thức được và không nhìn nhận như vậy. Cứ lấy thí dụ triết lý ở ẩn, xem ra rất xa lạ đối với trí thức ngày nay. Có thể một người khoa bảng thời nay sẽ phản đối : "tôi có biết triết lý ở ẩn là cái quái gì đâu, anh chỉ nói lẩm cẩm", nhưng chính anh ta đang theo triết lý ở ẩn và, tuy không nói ra, rất tán thành triết lý đó.

Ông Hoàng Xuân Hãn là một thí dụ rất điển hình. Ông có kiến thức uyên bác trên rất nhiều lãnh vực và có đạo đức cá nhân rất cao. Ông theo đúng triết lý Khổng Giáo "nước loạn không ở, nước nhiễu nhương thì ở ẩn". Mặc dầu là một nhân vật rất có uy tín và đã có thể đóng góp thay đổi số phận đất nước, ông đã chọn bỏ nước ra đi vào giữa lúc đất nước đang chuyển động lớn. Ông sang Pháp ở ẩn cho tới lúc qua đời. Ông Hãn là một người sáng suốt và lương thiện, ông hiểu rõ hậu quả của chọn lựa này. Trong một bài phỏng vấn mà tôi được đọc trên tờ báo Bulledingue (một tờ báo tiếng Pháp, nay đã đình bản, rất có giá trị của một nhóm trí thức Việt Nam tại Pháp từng ủng hộ đảng cộng sản), ông trả lời về tương lai của cộng đồng người Việt hải ngoại như sau : "Tôi sợ rằng rồi cũng như người Việt tại Trung Quốc, thế hệ đầu tha thiết với đất nước, thế hệ sau không còn nói thạo tiếng Việt nữa và thế hệ thứ ba quên là mình có gốc Việt". Ông Hoàng Xuân Hãn dư biết về lâu về dài ra đi là từ bỏ đất nước, nhưng vẫn ra đi bởi vì ở ẩn là cả một đạo lý cao thượng đối với người Việt Nam và ông Hãn dù đã du học phương Tây và đậu những bằng cấp cao nhất vẫn là người Việt Nam. Khi ông Hãn qua đời, trí thức Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước đồng loạt lên tiếng ca ngợi ông như một người mẫu mực, không thấy ai bày tỏ sự phiền lòng rằng một người lỗi lạc như ông đáng lẽ phải có một chọn lựa tích cực hơn đối với đất nước. Thế hệ trước đã ca tụng Nguyễn Khuyến, thế hệ sau ca tụng Hoàng Xuân Hãn. Những Nguyễn Khuyến của thế hệ trước đã rất đông đảo, những Hoàng Xuân Hãn của thế hệ sau còn đông đảo hơn, ngay cả về tỷ lệ. Xem ra, dù đã kinh qua nhiều biến cố trọng đại, tâm lý người Việt vẫn chưa thay đổi bao nhiêu, tránh gian nguy và ở ẩn vẫn còn là một nhân sinh quan rất phải đạo. Người Việt Nam vẫn còn chưa mất gốc, họ vẫn còn là những người Việt Nam chân chính, nghĩa là không yêu nước, hoặc chỉ yêu nước một cách không tốn kém. Đọc tới đây xin độc giả đừng nghĩ rằng tôi có một dụng ý mỉa mai nào. Tôi thực sự quí trọng những người như Nguyễn Khuyến và Hoàng Xuân Hãn. Họ cao thượng thực sự, nhưng họ là sản phẩm của một nền văn hóa cam chịu và ẩn dật, họ đã sống phù hợp với nền văn hóa đó và họ là những mẫu người cao quí của nền văn hóa đó.

Tôi quen biết, hoặc được biết, khá nhiều trí thức Việt Nam trong nước. Tất cả đều đồng ý chế độ hiện nay là tồi dở và độc hại, tất cả đều mong nó chấm dứt càng sớm càng hay, nhưng chỉ một số rất nhỏ chấp nhận rủi ro đứng lên đòi dân chủ, tuyệt đại đa số còn lại chỉ lo sống và tồn tại. Và để tồn tại họ phải chấp nhận thỏa hiệp với chế độ, hợp tác với nó, và như thế giúp nó tiếp tục tồn tại, điều mà họ hoàn toàn không muốn. Mà những "đặc ân" mà họ được hưởng có to lớn gì cho cam, chúng chỉ là những chức phó vụ trưởng, ủy viên hội đồng nhân dân tỉnh, v.v..., với lương và phụ cấp không quá 200 đô-la mỗi tháng. Hay một cửa hàng nhỏ của vợ con, hay khả năng được xuất bản vài tập truyện ngắn vô hại, hay được vẽ và bán vài bức tranh kiếm sống, được xuất ngoại vài năm một lần. Hoặc chỉ giản dị là cuốn sổ lương hưu hai chục đô-la mỗi tháng. Hoặc giản dị hơn nữa là khỏi bị phiền hà. Tất cả đều hiểu những ân huệ đó chẳng có gì đáng kể, tất cả đều tin rằng nếu chế độ này chấm dứt thì không những đất nước sẽ khá hơn nhiều mà chính bản thân họ cũng khá hơn hẳn. Nhưng họ không chấp nhận một hy sinh, dù là tạm thời và nhỏ bé, nào cả bởi vì lòng yêu nước, nghĩa là sự gắn bó và tinh thần trách nhiệm với cộng đồng dân tộc, của họ không đủ mạnh. Mỗi người có cách riêng để luồn lách và tồn tại. Tất cả đều khôn, không ai chịu dại cả. Kết quả tổng hợp là đất nước vẫn tiếp tục quằn quại trong độc tài và lạc hậu. Một dân tộc gồm toàn những người khôn là một dân tộc rất đần độn. Chỉ có thể coi là yêu nước những người sẵn sàng chấp nhận một sự dại dột nào đó cho đất nước.

Trong cuộc xung đột dài và đẫm máu vừa qua, yêu nước đã là một khẩu hiệu được mọi phe phái sử dụng để giành giật hậu thuẫn. Hô mãi hoặc nghe mãi, khẩu hiệu đó trở thành một sự khủng bố tinh thần, rồi chúng ta đã ghi nhận nó trong tiềm thức như một ngôn ngữ bắt buộc. Nhưng chúng ta cường điệu và dối trá, chúng ta đeo mặt nạ và sử dụng ngôn ngữ cùủa lưỡi gỗ với nhau, khi xưng mình là người yêu nước. Và chúng ta sai lầm lớn khi nghĩ rằng đa số người Việt Nam yêu nước. Chỉ cần bình tĩnh quan sát sự thờ ơ bao trùm chung quanh chúng ta để nhận được một cải chính dứt khoát.

Người Việt Nam rất khó yêu nước. Trong vòng hơn hai ngàn năm chúng ta được nhào nặn bởi văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vong thân, vị kỷ và phủ nhận đất nước. Từ gần một nửa thế kỷ nay chúng ta bị áp đặt văn hóa cộng sản không khác với Khổng Giáo bao nhiêu về bản chất. Cả hai đều là những văn hóa kỳ thị, đặt nền tảng trên một giai cấp chứ không phải trên tinh thần dân tộc. Một kẻ sĩ Việt Nam ngày xưa gắn bó với một kẻ sĩ Trung Hoa hơn là một thứ dân Việt Nam. Một bần cố nông Việt Nam gần đây được nhồi sọ để coi mọi người vô sản thế giới là anh em và coi người tư sản Việt Nam là kẻ thù.

Đã thế, người ta còn nhân danh tổ quốc để phạm tội ác, để hạ sát hàng ngàn hàng vạn nạn nhân vô tội. Những nạn nhân bị ghép tội "phản quốc" trong đại đa số lại chính là những người yêu nước hiếm hoi. Người ta còn cưỡng đoạt tổ quốc và cố gắng hòa tan nó trong một chủ nghĩa ["yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội"]. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu đa số người Việt chọn lựa đứng ngoài mọi hệ lụy với đất nước.

Quốc gia chỉ mạnh nếu là đất nước của những con người tự do, tận dụng được hết sinh lực, thi thố được mọi tài năng, phát huy được mọi ý kiến và sáng kiến của mình. Nhưng quốc gia cũng không thể mạnh nếu không có lòng yêu nước, cũng như một gia đình không thể có hạnh phúc nếu không có tình yêu.

"Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn", không ai ngờ vực mãnh lực ghê gớm của tình yêu, chúng ta cần ý thức rằng lòng yêu nước cũng có mãnh lực tương tự trong việc xây dựng một tương lai chung cho dân tộc. Chúng ta rất cần một sức bật của lòng yêu nước. Nhưng chúng ta cũng cần ý thức rằng lòng yêu nước của chúng ta rất non yếu và tật nguyền cần được điều trị và gây dựng, chứ không phải một vốn đã sẵn dồi dào để sử dụng và lạm dụng.

Lòng yêu nước ấy, những người dân chủ phải xây dựng ra chứ không thể mong chờ gì ở chế độ độc tài này. Mọi chế độ chuyên chế, dù là chế độ quân chủ ngày xưa hay chế độ độc tài cộng sản ngày nay, đều có chung một chủ trương là tiêu diệt mọi ý thức cộng đồng và mọi liên hệ gắn bó trong xã hội để có thể thống trị một đám đông cô đơn. Họ không cần người dân yêu nước, họ chỉ cần người dân khuất phục. Họ không cần người dân yêu họ, họ chỉ cần người dân đừng yêu nhau. Ý niệm quốc gia dân tộc do dân chủ mà có, chỉ có dân chủ mới có thể giúp ta gây dựng và phát huy nó. Cuộc đấu tranh cho dân chủ cũng là cuộc đấu tranh nhằm đem lại cho người Việt lý do để yêu nước.

Những người dân chủ phải khẳng định dự án xây dựng một nhà nước khiêm tốn phục vụ thay vì khống chế xã hội dân sự, đặt mình dưới người dân thay vì trên người dân, một nhà nước tối thiểu để nhường không gian tối đa cho sinh lực, ý kiến và sáng kiến của công dân. Và họ cũng cần khẳng định : người dân không có bổn phận phải yêu nước ; chính nhà nước và thành phần ưu tú của đất nước, nghĩa là thành phần trí thức, phải làm cho đất nước trở thành đáng yêu. Đất nước không được hạch hỏi người dân đã làm gì cho mình, trái lại phải tự hỏi mình đã có ích lợi gì cho người dân.

Có lẽ chính vào lúc lòng yêu nước không còn là một cưỡng bách nữa mà chúng ta sẽ có được lòng yêu nước thực sự, hay ít ra nhận diện được những người thực sự yêu nước, và nhờ đó có thể kết nghĩa với nhau để cùng nhau đưa đất nước ra khỏi bế tắc.

 

******************

 

Một chân dung tráng lệ của kẻ sĩ

 

 

tqan18

Nói tới Khổng Giáo thì phải nói ngay tới kẻ sĩ. Mục đích duy nhất của Khổng Giáo là đào tạo ra kẻ sĩ. Kẻ sĩ được coi là một lý tưởng mà mọi người phải hướng tới.

Bức chân dung kẻ sĩ, như một mẫu người vong thân và vị kỷ, được mô tả trong những trang trước phải chăng là quá đáng ? Nhiều người, trong đó có cả những thân hữu quí mến của tôi, đã hơn một lần phát biểu rằng nhận định của tôi về kẻ sĩ qua các bài báo đã được đăng là sai lệch. Vậy thì tôi xin nhường lời cho một kẻ sĩ chân chính viết về chính kẻ sĩ. Đó là Nguyễn Công Trứ qua bài Kẻ Sĩ của ông.

Kẻ sĩ không thể có một đại diện nào hoàn hảo hơn Nguyễn Công Trứ. Ông trải qua tất cả tiến trình học tập, sống và hành động của một kẻ sĩ lý tưởng. Ông cũng là một mẫu mực thành công của kẻ sĩ. Cả văn nghiệp lẫn võ nghiệp của ông ít ai bì kịp, ông cũng rất dũng cảm và thanh liêm. Điều làm người ta quí mến ông hơn nữa là ông lại phóng khoáng và đầy nghệ sĩ tính. Ông là một trong những kẻ sĩ lỗi lạc nhất và đáng kính phục nhất trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Công Trứ trải qua một thời thanh niên lận đận, ông đậu Giải Nguyên (thủ khoa kỳ thi hương) năm đã 43 tuổi. Sự muộn màng này không phải do ông không thành công trong các bài thi mà vì quan trường thấy giỏi quá sợ ông thành kiêu căng nên đánh rớt ông để tập cho ông tính khiêm nhường. Nguyễn Công Trứ mất hơn hai mươi năm cường tráng nhất của đời mình vì chữ êkhiêmê của kẻ sĩ. Ông theo đúng phương châm vững lòng tin, chăm học, kiên trì, cải thiện trình độ nho học [độc tín, háo học, thủ tử, thiện đạo] trong lúc chưa gặp thời. Sau đó ông thi đậu rồi làm quan và làm tướng một cách thật xuất sắc, thăng lên những chức vụ rất cao, đánh Nam dẹp Bắc lập những chiến công thật lẫy lừng. Ông cũng đã đem dân đi dinh điền lập ra nhiều huyện trù phú tại tỉnh Thái Bình. Nguyễn Công Trứ rất hài lòng về sự nghiệp của mình, ông tự thuật như sau :

Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Lúc bình Tây cờ đại tướng...

Hoạn lộ của ông khá nhiều gian truân. Có lúc ông bị gièm là có ý làm phản, có lúc ông bị cách chức tuột xuống làm lính, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn kiên trì bày tỏ tài năng và lòng trung nghĩa và rồi lại vươn lên. Ông về hưu sau ba mươi năm hoạt động mãnh liệt. Nhưng mặc dầu công việc dồn dập ông vẫn để lại một văn nghiệp to lớn về cả phẩm lẫn lượng.

Tác giả đã đặc sắc như vậy, bài Kẻ Sĩ cũng đặc sắc không kém. Nó tóm gọn một cách đẹp đẽ tất cả nhân sinh quan của kẻ sĩ. Nó lại được viết bằng một thể văn đặc biệt, thể hát nói. Đó là loại thơ được sáng tác trong lúc hát cô đầu, lúc kẻ sĩ phóng khoáng nhất. Cái gì quá đẹp thì khó đúng, có thể bức chân dung kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ không trung thực vì đã được lộng lẫy hóa quá đáng. Kẻ sĩ mà Nguyễn Công Trứ mô tả là kẻ sĩ tráng lệ nhất. Tôi có hỏi một số học giả và được biết là Trung Quốc không có bài thơ hay bài văn nào mô tả kẻ sĩ đẹp đẽ và hùng tráng hơn bài Kẻ Sĩ sau đây của Nguyễn Công Trứ, mà tôi chép lại nguyên văn và đánh số từng câu để chú giải.

1.   Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt

2.   Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên

3.   Có giang sơn thì sĩ đã có tên

4.   Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quí

5.   Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị

6.   Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường

7.   Khí hạo nhiên chí đại, chí cương

8.   So chính khí đã đầy trong trời đất

9.   Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất

10.  Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn

11.  Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang Văn

12.  Phù thế giáo một vài câu thanh nghị

13.  Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí

14.  Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên

15.  Rồng mây khi gặp hội ưa duyên

16.  Đem quách cả sở tồn làm sở dụng

17.  Trong lăng miếu ra tài lương đống

18.  Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương

19.  Làm sao cho bách thế lưu phương

20.  Trước là sĩ sau là khanh tướng

21.  Kinh luân khởi tâm thượng binh giáp tàng hung trung

22.  Vũ trụ chi gian giai phận sự

23.  Nam nhi đáo thử thị hào hùng

24.  Nhà nước yên mà sĩ được thung dung

25.  Bấy giờ sĩ sẽ tìm ông Hoàng Thạch

26.  Dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch

27.  Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn

28.  Nào xe, nào ngựa, nào địch, nào đờn

29.  Đồ thích chí chất đầy trong một túi

30.  Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới

31.  Nhắm cuộc đời mà ngẫm kẻ trọc thanh

32.  Này này, sĩ mới hoàn danh.

Bài thơ này dùng khá nhiều chữ Hán nên có lẽ một số độc giả cần vài giải thích.

Hai câu (1) và (2) nói rằng trong năm tước quan [công, hầu, bá, tử, nam}, kẻ sĩ đều có mặt và trong bốn giai cấp xã hội [sĩ, nông, công, thương], kẻ sĩ đứng đầu. Thật là hãnh diện được làm kẻ sĩ.

Trong câu (4), Chu và Hán là hai triều đại lớn của Trung Quốc gần sát nhau, từ thế kỷ 12 trước Tây lịch tới thế kỷ 3 sau Tây lịch.

Hai câu (5) và (6) : Ở xóm làng [hương đảng], kẻ sĩ đã được tôn kính là người có lý luận [hiếu nghị] nên phải sống đúng tam cương [quân, sư, phụ hay bổn phận đối với vua, với cha mẹ và với thầy dạy học] và ngũ thường [nhân, nghĩa, lễ, trí, tín].

Hai câu (7) và (8) : Bản chất của kẻ sĩ [khí hạo nhiên] rất lớn và rất vững [chí đại, chí cương], tinh thần [chính khí] của kẻ sĩ đầy trời đất.

Hai câu (9) và (10) : Khi chưa gặp [lúc vị ngộ] được minh chúa thì ở yên [hối tàng] trong lều cỏ [bồng tất] nghèo nàn, cứ thanh thản mà vui chơi bằng cách câu cá trên sông Vị [điếu Vị] hay trồng trọt trên đất Sằn [canh Sằn]. Đầu đời nhà Chu, Khương Tử Nha ngồi câu cá trên sông Vị đợi minh chúa tới năm đã ngoài 80 tuổi mới được Chu Văn Vương đem xe đến đón về làm quan. Trước đó một nhân vật huyền bí khác của Trung Quốc, làm ruộng ở đất Sằn cho đến khi được minh chúa tới đón. Tất cả những hoạt động câu cá, trồng trọt này không có mục đích sản xuất (Khương Tử Nha câu cá bằng lưỡi câu thẳng) mà chỉ có mục đích chờ thời mà thôi.

Hai câu (11) và (12) : Dù chưa gặp được các minh chúa như vua Thang, vua Văn đem xe có quấn cỏ vào bánh [bồ luân] cho êm tới đón về, vẫn giữ đạo nho bằng cách nói lên những lời đúng [thanh nghị].

Ba câu (13), (14) và (15) : Giữ vững chính đạo, tức Khổng Giáo, để tiêu diệt những tà thuyết [tịch tà], chống lại những khó khăn của cuộc sống [cự bí]. Quyết tâm quay ngược lại sóng dữ [hồi cuồng lan] ngăn nước của cả trăm con sông.

Năm câu từ (16) đến (20) : Khi đã được ra làm quan (kẻ sĩ được làm quan cũng sung sướng như rồng gặp mây) thì đem tất cả tài mình có [sở tồn] ra sử dụng. Trong triều đình (lăng miếu là mộ các vua, thường chôn ở ngay triều đình, kẻ sĩ coi là một diễm phúc được nhìn mộ các vua trước) thì trổ tài làm quan [tài lương đống], ngoài trận mạc biên thùy thì vung gươm báu (Can và Tương là một cặp vợ chồng thời xưa ở Trung Quốc làm nghề luyện kiếm và đã hy sinh vì kiếm báu). Làm thế nào để cả trăm thế hệ về sau biết đến tiếng thơm [bách thế lưu phương] mới hay. Trước là làm đẹp hình ảnh kẻ sĩ, sau là làm quan lớn [khanh tướng].

Ba câu (21), (22) và (23) tóm lược thế nào là một người trai anh hùng : phải có kiến thức trị nước [kinh luân] ở sẵn trong đầu [tâm thượng] và phải chứa sẵn tài cầm binh ở trong bụng [binh giáp tàng hung trung]. Khắp nơi đều là phạm vi hoạt động [vũ trụ chi gian giai phận sự]. Làm trai như thế mới đúng là anh hùng hào kiệt.

Những câu cuối nói rằng khi đã làm tròn phận sự thì kẻ sĩ lại rút về ở ẩn, ngao du danh lam thắng cảnh, hưởng thú đàn hát và không màng đến xã hội nữa. Như thế là kẻ sĩ hoàn tất một cuộc đời đẹp [hoàn danh].

Chúng ta thấy gì qua cái chân dung lẫm liệt của kẻ sĩ này ?

Trước hết nó bộc lộ một thái độ thuần phục văn hóa tuyệt đối với Trung Quốc. Mọi điển tích, mọi địa danh, triều đại đều là của Trung Quốc cả. Ý niệm quốc gia dân tộc hoàn toàn vắng mặt, tổ quốc của kẻ sĩ là Trung Quốc, đúng ra là Khổng Giáo Trung Quốc.

Sau đó là tâm lý tôi tớ. Kẻ sĩ chỉ chờ để được làm tôi tớ cho một ông chủ, chứ hoàn toàn không có ý chí xây dựng một sự nghiệp của riêng mình trong mọi hoàn cảnh. Không được một minh chúa dùng làm tôi tớ kẻ sĩ sẵn sàng để phí uổng đời mình. Cả đời kẻ sĩ chỉ sống với giấc mộng được làm tôi tớ. Đúng là một thái độ vong thân tuyệt đối.

Suốt cuộc đời, hoặc không may thì ở ẩn cam chịu cuộc sống nghèo nàn trong lều cỏ, hoặc may thì làm bầy tôi cho một ông vua, sau đó vui chơi. Hoàn toàn không thấy có một trách nhiệm nào đối với cộng đồng cả. Cuộc sống hoàn toàn vị kỷ.

Và dĩ nhiên chỉ có người con trai mới đáng kể, phụ nữ không thể là kẻ sĩ vì thế không đáng đếm xỉa tới.

Tôi đã đề cập đến Nguyễn Trãi và lần này lại đề cập tới Nguyễn Công Trứ. Tôi hoàn toàn không dám mai mỉa hai vị tiền bối này. Tôi rất kính trọng họ, bởi vì họ là tinh hoa của lịch sử Việt Nam, là những người đã có công lớn với đất nước và cũng là những người mà chúng ta có thể tự hào. Điều cần lên án là cái văn hóa Khổng Giáo tồi tệ đã tha hóa cả những con người lỗi lạc như thế. Riêng đối với Nguyễn Trãi, ông đã có công lớn giành lại độc lập cho Việt Nam từ tay quân Minh, ông cũng là tác giả Bình Ngô Đại Cáo, áng văn nghị luận chính trị đầu tiên của Việt Nam đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng, nhưng ông đã chết tức tưởi và cả họ bị giết hại. Thủ phạm là ai nếu không phải là chế độ quân quyền dựa trên Khổng Giáo, là cái "giá trị" tam cương độc hại của Khổng Giáo ?

Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ và vô số kẻ sĩ lỗi lạc khác nếu thi thố được hết tài năng và sáng kiến của mình thì còn vĩ đại gấp trăm lần và còn cống hiến cho đất nước những thành quả to lớn gấp trăm lần. Nhưng họ là kẻ sĩ và đã phải chấp nhận cuộc sống vong thân của kẻ sĩ.

Tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện mạnh lắm trong chúng ta. Không thiếu những người rất đáng quí trọng hiện nay ao ước được sống như kẻ sĩ hay hãnh diện đã sống như kẻ sĩ. Nguyễn Xuân Tụ, người bạn quí mến của tôi, lấy tên là Hà Sĩ Phu, có thể có nghĩa là sĩ phu Bắc Hà, cũng có nghĩa của một câu hỏi "còn ai là kẻ sĩ ngày nay" hay "thế nào là sĩ phu" do sự thiếu chính xác của tiếng Trung Quốc và tiếng Việt. Ông Tụ trân trọng kẻ sĩ lắm, cũng như nhà văn Hoàng Tiến, người đã viết kháng thư trách chính quyền cộng sản đối xử tệ bạc với trí thức mà ông coi là những kẻ sĩ của thời nay. Tôi thì chỉ thấy kẻ sĩ là một bóng ma tiều tụy và vong thân cần phải tống cổ một cách tức khắc và không nể nang ra khỏi trí tuệ và tâm hồn của chúng ta, nếu chúng ta muốn một tầm vóc khác cho đời mình và một tương lai khác cho đất nước.

 

**********************

 

Chuyện cổ tích

 

 

tqan19

Tới đây có lẽ một số độc giả đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản với những biện luận về lịch sử và tư tưởng, nhiều vị chắc đã muốn gấp cuốn sách này lại và cất đi. Vậy để quí vị giải khuây chốc lát và lấy lại can đảm để đọc tiếp, tôi xin kể một vài câu chuyện cổ tích. Những câu chuyện này đều ngắn vì tôi chỉ biết một cách sơ sài.

Chuyện thứ nhất là Phù Đổng Thiên Vương, còn gọi là Thánh Gióng, có lẽ vì Gióng là tên nôm của làng Phù Đổng chăng ? Điều này có thể kiểm chứng khá dễ dàng nhưng tôi vẫn không có thì giờ để làm. Hiện nay hàng năm, tại làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Vĩnh Phú vẫn có ngày hội lớn về sự tích Thánh Gióng.

Tục truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, nước ta, thời bấy giờ gọi là Văn Lang, bị giặc ên đánh phá (không tài liệu sử nào cho biết giặc ên là giặc nào), vua cho đi rao truyền trong nước tìm người tài ra đánh giặc. Lúc đó tại làng Phù Đổng, có một đứa bé đã ba tuổi mà vẫn chưa biết nói, chỉ nằm một chỗ, nghe tiếng loa truyền bỗng nhiên ngồi dậy, vươn mình thành một thanh niên cao một trượng, rồi theo sứ giả về chầu vua, xin đúc một cây roi sắt và một con ngựa sắt. Được cấp roi, ngựa, chàng thanh niên liền nhảy lên yên. Ngựa sắt bỗng nhiên cử động được. Chàng thanh niên phi ngựa ra trận đánh tan quân giặc. Đến núi Sóc Sơn thì giặc tan hết và chàng thanh niên cũng về trời mất tích. Dân chúng tưởng nhớ tôn làm Phù Đổng Thiên Vương, hoặc Thánh Gióng. Đây là chuyện cổ tích mà lúc còn nhỏ tôi thích nhất bởi vì nó vừa là chuyện của một đứa bé, vừa là chuyện kiếm hiệp và cũng vừa là chuyện thần thoại.

Chuyện thứ hai là chuyện Chử Đồng Tử. Vào đời vua Hùng Vương 16, Chử Đồng Tử là một thiếu niên mồ côi mẹ sống với cha bằng nghề bắt cá trên sông. Hai cha con nghèo đến độ chỉ có một cái khố phải chia nhau mà mặc. Các bạn trẻ có lẽ không biết cái khố là gì. Tôi tuy không già lắm nhưng hồi còn trẻ ở nhà quê cũng đã được nhìn thấy những người mặc khố (ngôn ngữ nông thôn gọi là "đóng khố" thay vì mặc khố). Nó gần giống như một quần xi-líp, nghĩa là rất ít vải, tác dụng duy nhất của nó chỉ là để che hậu môn và bộ phận sinh dục.

Một hôm, giữa lúc cha đang đóng khố, Chử Đồng Tử đang trần truồng bên bờ sông thì một công chúa được lính hầu kiệu tới. Chử Đồng Tử hốt hoảng không biết trốn đâu bèn chui đại xuống bãi cát, lấy cát phủ lên mình. Không biết anh ta thở cách nào nhưng anh ta tự chôn khá kín, công chúa cũng như lính đều không thấy. Sự tình cờ đã khiến công chúa chọn ngay chỗ anh ta vùi mình để quây phòng tắm. Công chúa cứ thoải mái múc nước gội lên mình, cho đến lúc giật mình nhận ra một chàng trai cường tráng lõa thể ngay dưới chân mình bởi vì trong lúc xối nước cô đã làm trôi đi lớp cát phủ trên thân Chử Đồng Tử. Thế là một đôi trai gái trần truồng gặp nhau trong một phòng kín. Công chúa như thế đã bị coi như mất trinh tiết với Chử Đồng Tử, nhà vua chỉ còn cách cho hai người kết hôn, và Chử Đồng Tử trở thành phò mã. Câu chuyện này rất vui, bởi vì nó vừa là một chuyện tình vừa là một câu chuyện của sự may mắn, một chàng trai đánh cá nghèo khổ tình cờ lấy được công chúa.

Chuyện thứ ba là chuyện Lưu Bình - Dương Lễ. Đây vừa là một câu chuyện về tình bạn, vừa là câu chuyện lập thân. Không biết câu chuyện xảy ra ở bên Tàu hay tại nước ta nhưng hình như người Việt Nam nào cũng biết.

Lưu Bình và Dương Lễ là đôi bạn thân thiết. Sau một kỳ thi Dương Lễ đỗ, được ra làm quan và sống phú quí, trong khi Lưu Bình thi rớt. Lưu Bình đến thăm bạn và bị Dương Lễ sai lính cầm roi đánh đuổi một cách khinh bỉ. Tức quá, Lưu Bình về nhà quyết chí học cho đậu để rửa nhục. Đang lúc túng thiếu thì bỗng nhiên Lưu Bình gặp được một cô gái xinh đẹp và có tài sản, bằng lòng lấy Lưu Bình và nuôi Lưu Bình ăn học. Hạnh phúc làm con người trở thành thông minh và chuyên cần, khóa sau Lưu Bình đỗ cao và trở thành quyền quí. Lúc đó Lưu Bình mới mời Dương Lễ tới nhà mình để chứng kiến sự giàu sang của mình, với dụng ý làm cho Dương Lễ phải xấu hổ vì sự bội bạc ngày xưa. Nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ là dịp để Lưu Bình khám phá ra rằng vợ mình thực ra là một tì thiếp của Dương Lễ, được gởi tới để giúp Lưu Bình ăn học. Dương Lễ đã giúp bạn một cách khôn ngoan, vừa làm nhục bạn để kích thích ý chí, vừa giúp phương tiện để bạn học thành công. Câu chuyện này đẹp và có giá trị giáo dục nên tôi được nghe kể khá nhiều lần và lần nào cũng thích thú lắng nghe dù đã thuộc lòng.

Chuyện thứ tư là một chuyện dã sử. Đó là câu chuyện Thị Lộ, còn gọi là chuyện rắn báo thù và liên hệ đến cái chết bi thảm của Nguyễn Trãi, một khai quốc công thần có công phò Lê Lợi đánh đuổi quân Minh giành độc lập cho nước ta và cũng là nhà tư tưởng chính trị lớn của nước ta. Sau khi giúp vua lấy lại được đất nước, Nguyễn Trãi được phong đứng đầu trăm quan, rồi sau đó cáo quan về quê.

Khi về hưu, Nguyễn Trãi ra lệnh cho gia nhân dọn sạch khu vườn bấy lâu bị bỏ hoang nên đầy bụi rậm và cỏ dại. Đêm trước ngày khởi sự, Nguyễn Trãi nằm mơ thấy một con rắn biết nói tới xin ông hoãn lại việc dọn vườn vì nó mới sinh con nhỏ nên chưa thể đi ngay chỗ khác được. Cho là chuyện mộng mị vớ vẩn, Nguyễn Trãi không để ý tới và cũng chẳng nói với ai. Ngày hôm sau gia nhân dọn vườn và trình vùới ông đã thấy một ổ rắn, họ đã giết được bầy rắn con nhưng rắn mẹ chạy thoát, họ chỉ chặt được một khúc đuôi. Tối hôm đó Nguyễn Trãi đang nằm đọc sách thì một giọt máu từ nóc nhà nhỏ xuống ngay cuốn sách thấm ba trang. Đó là máu của con rắn mẹ đã leo lên nóc nhà.

Ít lâu sau Nguyễn Trãi gặp Thị Lộ, một cô gái trẻ vừa xinh đẹp vừa giỏi thơ văn, ông bèn lấy làm thiếp và rất chiều chuộng. Một hôm, vua Lê (đây là Lê Thái Tông, con của Lê Lợi tức Lê Thái Tổ) du hành qua đấy bèn ghé thăm Nguyễn Trãi và ngủ đêm tại nhà ông. Thấy Thị Lộ xinh đẹp, vua bèn bảo Nguyễn Trãi để Thị Lộ ngủ với mình. Đêm hôm đó, không biết vua say sưa hoan lạc với Thị Lộ thế nào mà chết, Nguyễn Trãi bị buộc tội giết vua và bị giết cùng với cả họ hàng ba đời. Lúc đó người ta mới hiểu Thị Lộ chính là hồn ma của rắn mẹ hiện hình làm gái để báo thù Nguyễn Trãi, và giọt máu thấm ba trang giấy là điềm báo trước Nguyễn Trãi sẽ bị tru di tam tộc.

Câu chuyện này tuy thương tâm, nhưng có sức hấp dẫn đặc biệt. Nó ly kỳ và ma quái, hơn nữa nó lại là chuyện về rắn, con vật vừa kinh dị vừa quyến rũ.

Bây giờ, các bạn đã được giải khuây rồi tôi xin thưa một điều. Đó là những câu chuyện bề ngoài rất vô hại, và đôi khi còn có tính giáo dục, cũng có thể chuyên chở những giá trị rất độc hại. Càng độc hại hơn nữa khi chúng là những câu chuyện bà kể cho cháu, vì chúng ta tiếp thu một cách ngây thơ, vô tình và không cảnh giác. Những câu chuyện như thế tiếp thu ở tuổi thơ ngây đã là những dấu ấn đầu tiên trong trí tuệ và khiến chúng ta chấp nhận một cách thụ động, không bàn cãi những giá trị thực ra có tác dụng quan trọng đối với xã hội và con người.

Cả bốn câu chuyện này không vô tư như chúng ta tưởng, chúng đều có tác dụng truyền bá những giá trị củng cố cho một trật tự có sẵn : quyền lực tuyệt đối của vua, lý tưởng nô dịch của kẻ sĩ, và thân phận thấp kém của phụ nữ.

Phù Đổng là một vị thần chứ không phải là một con người. Sinh ra được ba năm mà vẫn nằm im, rồi vươn vai một cái mà cao đến một trượng, rồi cưỡi ngựa sắt, một mình đánh tan giặc, rồi lên núi về trời. Một vị thần như vậy mà cũng phò vua thì chắc chắn vua phải là trời, và đã là trời thì dĩ nhiên quyền lực của vua phải tuyệt đối. Chuyện Thánh Gióng là một câu chuyện bịa đặt, có thể dựa trên một sự kiện có thực nhưng rất khác, trong mục đích đặt nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế. Ngày nay trong nước đang có một khuynh hướng khai thác chuyện Thánh Gióng cho một mục đích chính trị đúng đắn, lấy gương Thánh Gióng cao thượng sau khi dẹp xong giặc đã bỏ đi để nhắc nhở đảng cộng sản và phê phán thái độ lì lợm khư khư giữa lấy quyền lực của họ. Tôi rất ngờ vực tác dụng của cuộc vận động này. Ví những chiến công của đảng cộng sản với Thánh Gióng là nhìn nhận rằng những cuộc chiến mà đảng cộng sản khởi xướng và điều động có chính nghĩa và có ích cho dân tộc. Điều này không hiển nhiên, nhưng không phải là điều tôi muốn bàn. Điều tôi muốn bàn là sự thiếu sức thuyết phục của lập luận. Tại sao lại phải bỏ ra đi sau khi đã lập công ? Tại sao không ở lại tiếp tục giúp nước ? Thực ra chúng ta không có quyền đòi đảng cộng sản phải ra đi, chúng ta chỉ đòi họ ra đi khi không còn được nhân dân chấp nhận nữa. Chỉ có một cuộc bầu cử tự do mới có thể cho thấy nhân dân còn muốn họ ở lại hay không.

Tại sao một công chúa, chỉ vì vô tình nhìn thấy một thanh niên khỏa thân mà lại có thể bị coi là mất tiết hạnh ? Một công chúa mà còn như vậy thì một cô gái con nhà thứ dân ra sao ? Số phận người phụ nữ sao mà rẻ rúng thế ! Câu chuyện Chử Đồng Tử không vô tư, nó có mục đích củng cố sự thống trị của nam giới trên nữ giới, đồng thời nó cũng có mục đích tôn vinh quân quyền. Lấy công chúa được coi là diễm phúc lớn nhất của đời người. Bất luận công chúa tuổi tác, nhan sắc, đức hạnh ra sao. Trẻ em Việt Nam bị đầu độc nặng đến nỗi không có đứa nào đặt câu hỏi "thế Chử Đồng Tử có bằng lòng lấy công chúa không ?". Câu chuyện không phải chỉ có mục đích giải trí, nó còn có dụng ý "giáo dục".

Người "vợ" của Lưu Bình sau này sẽ tiếp tục là vợ Lưu Bình hay sẽ về với "chồng" cũ là Dương Lễ ? Ở với Lưu Bình thì sẽ không còn được quí trọng vì đã qua tay Dương Lễ, nghĩa là đã "ô uế" rồi, mà về với Dương Lễ cũng không xong bởi vì cũng đã chung sống với Lưu Bình. Thân phận tì thiếp lầm lũi là lối thoát hợp đạo lý duy nhất cho cô. Ở cương vị tì thiếp, cô có thể bị trao đổi một cách rất phải đạo như một vật dùng. Cái chữ "trinh" mà đàn ông bắt đàn bà phải tôn trọng như tính mạng chính họ lại chà đạp lên một cách thản nhiên. Nhưng chuyện Lưu Bình - Dương Lễ không phải là chuyện trai gái mà là chuyện quan trường. Nó cho thấy mộng đời duy nhất của thanh niên là thi đỗ để làm quan. Không làm quan thì không là gì cả, còn hễ làm quan thì có tất cả, nhà cao cửa rộng, thê thiếp đầy đàn. Cái lý tưởng mà đứa trẻ được nhồi sọ ngay lúc ra chào đời là cố học để làm quan, là "trong sách có gái đẹp". Sách thánh hiền thật là cao quí !

Câu chuyện Lưu Bình - Dương Lễ còn chứa đựng cả một quan niệm về công quyền, đó là quan niệm "chức quyền" thay vì "chức trách". Chức vụ là một địa vị cho phép thụ hưởng chứ không phải là một trách nhiệm. Lưu Bình cũng như Dương Lễ chỉ mới đậu xong và ra làm quan đã lập tức trở thành giàu sang, phú quí. Đằng sau câu chuyện có mục đích giáo dục đó là cả một văn hóa tham nhũng.

Còn chuyện Thị Lộ ? Câu chuyện này chắc chắn là một sự bịa đặt của triều đình nhà Lê để dùng sự huyền bí chạy tội ác man rợ tàn sát cả ba họ một khai quốc công thần. Nhưng nó cũng có tác dụng bình thường hóa bản chất thô bạo của văn hóa Khổng Giáo. Thị Lộ là phụ nữ và đã là phụ nữ thì nhân phẩm của bà không đáng kể. Bà là thiếp của Nguyễn Trãi, nhưng vua muốn thỏa mãn nhục dục bà cũng phải tuân theo. Cái chữ "tiết trinh" được đề cao như đạo lý tuyệt đối của phụ nữ cũng phải dừng lại trước đòi hỏi của nhà vua. Ở đây người đàn bà còn bị ví với rắn độc. Thật là tàn nhẫn, người phụ nữ Việt Nam không những chỉ bị chà đạp, khinh bỉ mà còn bị thù ghét.

Còn Nguyễn Trãi ? Vị đệ nhất công thần này từng nằm gai nếm mật cạnh Lê Lợi, bố của Lê Thái Tông, cũng phải nộp người yêu của mình cho một thằng bé bằng tuổi con mình hành lạc ngay tại nhà mình, không chừng còn phải lạy tạ ơn mưa móc và dọn giường chiếu cho nó. Và khi không may vua vì quá đê mê mà chết thì bị kết tội và bị giết cả ba họ. Vua là trời, quần thần không là gì cả. Một ông quan, nghĩa là một kẻ sĩ may mắn thành đạt, dù tài giỏi tới đâu đi nữa, dù chức phẩm cao tới đâu đi nữa cũng không hơn gì một con vật trước mặt vua, vua muốn nọc ra đánh vài chục trượng, muốn thiến, muốn giết bỏ tùy ý. Và muốn giết sạch cả cha mẹ, anh em, con cháu cũng được luôn. Vậy mà làm quan vẫn là giấc mơ của kẻ sĩ ! Những đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện như thế làm sao lớn lên giữ được phẩm cách, làm sao tránh khỏi tâm lý vong thân ?

Văn hóa của một dân tộc là toàn bộ những giá trị đã được chấp nhận và tạo ra cách suy nghĩ, hành động và ứng xử của dân tộc đó. Khi nhận định về văn hóa cá nhân của mình, chúng ta thường mắc phải một sai lầm rất lớn là đồng hóa văn hóa với kiến thức, trong khi kiến thức chỉ là một phần không quan trọng của văn hóa. Chúng ta có thể có những kiến thức rất sâu sắc về y học, điện tử, động nhiệt học, kế toán và cả triết lý nữa, nhưng văn hóa của chúng ta, nghĩa là cách sống, suy nghĩ, hành động và ứng xử của chúng ta vẫn theo một hệ thống giá trị có sẵn nào đó.

      Và văn hóa có cách lưu truyền của nó. Một số giá trị ban đầu, nảy sinh do một bối cảnh xã hội đặc thù hay được kẻ cầm quyền áp đặt, tạo ra một nếp sinh hoạt xã hội. Đến lượt nó, nếp sinh hoạt đó, với những thể hiện vật chất và tâm linh, điều kiện hóa con người, để rồi con người truyền lại cho nhau qua các thế hệ. Chúng ta tiếp thu một văn hóa lúc mới chào đời khi trí tuệ còn non nớt chưa có khả năng tự vệ, chúng ta chấp nhận những giá trị của văn hóa đó như những sự hiển nhiên không cần bàn cãi, bởi vì những giá trị đó không đến với chúng ta bằng lý luận. Chúng đến với chúng ta qua kiến trúc của làng xã, phố phường, bề rộng của những con đường, hình dạng của căn nhà, kích thước của cái cửa sổ. Chúng đến với chúng ta qua sinh hoạt gia đình và bằng hữu. Chúng cũng đến với chúng ta qua những câu chuyện bà kể cho cháu, cô giáo kể cho học trò. Nói chung, chúng thường đến một cách gián tiếp và giấu mặt khiến chúng ta chấp nhận một cách vô tình, chứ không đến một cách trực tiếp và lộ diện để chúng ta có thể nhận định và chọn lựa. Chính vì thế mà một số người Việt Nam có thể không hề nhìn thấy một lần trong đời cuốn Luận Ngữ và không biết gì về sử Trung Hoa mà vẫn thuộc văn hóa Khổng Giáo và vẫn là sản phẩm tinh thần của Đông Chu Liệt Quốc. Một cách tương tự một người châu Âu dù chưa từng nghe nói tới Socrate, Platon và chưa đọc một chuyện thần thoại Hy Lạp nào, vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Hy Lạp và vẫn là đứa con tinh thần của Ulysse.

Rất có thể là có những bạn đọc trẻ không hề biết tới một chuyện nào trong cả bốn câu chuyện cổ tích mà tôi vừa kể, nhưng không nhiều thì ít, và nhiều chứ không ít, các bạn vẫn chịu ảnh hưởng của những giá trị mà chúng chuyên chở, bởi vì các giá trị ấy đã được môi trường sinh sống và những người đã tiếp thu chúng trước truyền lại cho các bạn. Tôi thường được nghe nhiều vị phân vân nếu bỏ văn hóa truyền thống thì chúng ta còn lại gì, chúng ta có mất mát lớn hay không. Xin quí vị yên lòng, quí vị dù muốn cũng không bỏ được đâu. Chính tôi, một người phê phán gay gắt Khổng Giáo, tôi vẫn là một sản phẩm của Khổng Giáo. Một văn hóa có sức sống dai dẳng khó tưởng tượng nổi của nó. Nếu thay đổi một nền văn hóa là việc dễ dàng thì bộ mặt thế giới đã khác hẳn, đã không có những quốc gia có lợi tức bình quân trên mỗi đầu người lớn gấp một trăm lần nhiều quốc gia khác.

Văn hóa quyết định tổ chức xã hội, và tổ chức xã hội quyết định chỗ đứng và sự hơn kém của các dân tộc. Chế độ cộng sản không phải là một sự ngẫu nhiên của lịch sử. Nó thành công và tồn tại được mà không gặp sự chống trả đáng lẽ phải có bởi vì nó chỉ là sự kết tinh của những giá trị nền tảng của xã hội ta.

Tôi sinh sống bằng nghề kỹ sư cố vấn. Nghề nghiệp của tôi thường cho tôi cơ hội để thẩm định giá trị của các hệ thống quản trị bằng tin học. Kinh nghiệm cho thấy chỉ có hai nguyên nhân đưa tới một hệ thống tin học dở : một là máy [hardware] dở, hai là các chương trình [software] được đặt vào máy dở. Cũng thế, khi một quốc gia lạc hậu và thua kém thì chỉ có hai giả thuyết : một là con người tồi, hai là văn hóa tồi.

Nhưng con người của ta không tồi, chúng ta khá thông minh và chúng ta cũng rất chăm làm. Vậy thì cái gì khiến chúng ta không vươn lên được nếu không phải là vì văn hóa của ta độc hại ?

Muốn vươn lên chúng ta phải thay đổi văn hóa, nghĩa là các giá trị nền tảng. Nhưng đây lại là một việc rất gian lao vì, xin nhắc lại một lần nữa, văn hóa có sức sống rất dai dẳng. Nếu quả quyết và dứt khoát thì cũng chưa chắc gì sau 50 năm nữa chúng ta đã thay đổi được. Nếu lại còn lưỡng lự tiếc nuối thì không biết đến bao giờ.

Thế kỷ 20 đối với chúng ta đã là một thế kỷ của canh tân, nhưng chúng ta chưa đi đến đâu trên lộ trình canh tân, bởi vì chúng ta tuy đã thấy được sự lạc hậu của các giá trị cũ nhưng lại không muốn chấp nhận những giá trị mới. Cái gốc của chúng ta dở nhưng chúng ta lại sợ mất gốc. Chúng ta như người ra đi nhưng không biết đi đâu, cho nên chúng ta không thể đi xa.

Thế giới đang nhỏ lại và các dân tộc đang đến gần nhau. Không có những giá trị phương Đông và những giá trị phương Tây, chỉ có những giá trị tốt và những giá trị có hại. Những giá trị tốt là hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, liên đới và môi trường. Những giá trị đó đã tạo ra sức mạnh của các nước phương Tây. Chúng không phải là những giá trị của phương Tây mà là những giá trị phổ cập của loài người, có sẵn trong mọi dân tộc và mọi nền văn minh, nhưng chỉ gần đây mới có một số ít dân tộc triệt để phát huy chúng và trở thành giàu mạnh hơn hẳn phần còn lại của thế giới.

Đến đây tôi xin khẩn khoản thưa với độc giả đôi lời tha thiết. Tất cả người Việt chúng ta, dù ở trong hay ngoài nước, dù ở lứa tuổi nào vẫn còn bị nhiễm độc rất nặng nề vì nền văn hóa Khổng Mạnh được du nhập vào nước ta với cái nội dung còn tồi tệ hơn nguyên bản của nó tại Trung Quốc. Xin chớ vội nghĩ rằng tư tưởng của chúng ta đã hoàn toàn đổi mới. Cái di sản văn hóa hai ngàn năm đó vẫn khống chế chúng ta. Chúng ta phải ý thức điều đó thì mới có hy vọng rũ bỏ được nó để bay bổng và tiến xa. Một bệnh nhân không biết mình mắc bệnh thì không thể chữa bệnh.

tqan20

Published in Tư liệu

Bài viết ký ngày "Đầu năm Đinh Dậu 2017" có tựa đề : "Tổ Quốc Ăn Năn : một lừa đảo thế kỷ" được ông Nguyễn Gia Thưởng đăng trên trang mạng đã ăn cắp được của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đưa ra 12 thí dụ tiêu biểu để khẳng định "Tổ Quốc Ăn Năn chính là bản sao của quyển Le Mal Français. Một bản sao như một cặp song sinh : anh là người Pháp, em là người Việt !".

tqan1

Nguyễn Gia Kiểng và Tổ Quốc Ăn Năn 

Lời Tòa Soạn của trang mạng này tri hô : "Đọc xong Le Mal Français của Alain Peyrefitte, độc giả sẽ thấy Tổ Quốc Ăn Năn chính là bản sao của quyển Le Mal Français. Một bản sao như một cặp song sinh : anh là người Pháp, em là người Việt !

Đây là một bằng chứng tố cáo một vi phạm đạo đức, vi phạm luân lý và lương tâm của người cầm bút. Tác giả Tổ Quốc ăn Năn đã mượn toàn bộ ý tưởng của quyển Le Mal Français của Alain Peyrefitte và đem xào nấu vào trong tiếng Việt. Ông đã đánh cắp hầu hết ý tưởng và câu văn trong cuốn sách này. Và ngay cả cách bố cục và lối hành văn cũng được tác giả nhập tâm một cách kỹ lưỡng và sao chép không hề ngần ngại, không hề ngượng ngùng. Nói tóm lại, ông đã phạm tội đạo văn !".

Đọc Lời Tòa Soạn của ban biên tập dù không ai không khỏi nghi ngờ ông Thưởng cũng là người viết Lời Tòa Soạn, người đọc cảm thấy đây là một ban biên tập bất thường. Tác phẩm Tổ Quốc Ăn Năn của ông Nguyễn Gia Kiểng trưng dẫn một khối tài liệu khổng lồ, được viết bằng một mạch luận mạnh mẽ chưa từng có của của một con người độc lập, triệt để đánh giá lại toàn bộ lịch sử nước nhà, văn hóa, tâm lý, các giá trị xã hội hằng tôn thờ, các phong tục, tập quán, đạo đức, triết lý, kinh tế… tức mọi mặt của đời sống dân tộc, quốc gia vốn đã góp phần làm nên một đất nước Việt Nam thất bại như ngày hôm nay nhưng được ông Thưởng trưng ra chỉ 12 bằng nhưng không có chứng để quy chụp, vu khống, xúc phạm, đánh phá uy tín tác giả Nguyễn Gia Kiểng.

Mọi bằng chứng của ông Thưởng sẽ hụt hẫng nếu bạn đọc gạt bỏ tiền đề đã được khẳng định trước của ông Thưởng rằng cuốn "Tổ Quốc Ăn Năn là bản sao của cuốn Le Mal Francais của ông Alain Peyrefitte" và chỉ được dùng cuốn Le Mal Francais để tham khảo. Nếu có nhiều tác phẩm khác của vô số tác giả khác cũng nói về 85 đề tài nóng bỏng và khẩn cấp về con người và đất nước hôm nay cả bằng Việt ngữ, Pháp ngữ và Anh ngữ, Nhật ngữ… được nêu lên trong Tổ Quốc Ăn Năn thì là vấn đề khác không nên xét đến !

Bài viết xin này tập trung vào 12 bằng chứng ông Thưởng cho là "đạo văn" mà ông cho là đã vi phạm đến đạo đức, luân lý và lương tâm người cầm bút của thế kỷ này.

"Đạo văn" (plagiarism) là hiện tượng xảy ra trong các trường đại học khi sinh viên hết ý, không có ý, không đọc tài liệu, lười biếng đã sao chép (thường là copy, cut), sửa đổi đôi chút các ý tưởng, câu cú từ những nguồn tham khảo không được ghi rõ xuất xứ rồi paste (in vào) bài nghị luận hay tranh luận của mình. Tất cả các trường đại học đều có răn đe các sinh viên về nạn "đạo văn", dù "đạo văn" không chỉ xảy ra ở các trường đại học.

Trường đại học Oxford (Anh Quốc) định nghĩa đạo văn ngắn gọn : Đạo văn là lấy công trình [tác phẩm] hay ý tưởng của người khác, bất chấp có sự đồng ý hay không đồng ý của họ hay không đưa vào làm công trình riêng của mình mà không ghi nhận đầy đủ nguồn xuất xứ

[Plagiarism is presenting someone else"s work or ideas as your own, with or without their consent, by incorporating it into your work without full acknowledgement (web Oxford University/academic matters)].

Trường Oxford đưa ra một 7 thí dụ để sinh viên hiểu thế nào là đạo văn. Bạn đọc có thể vào web đã nêu trên nếu muốn tìm hiểu, nhưng vì giới hạn của bài viết này không thể trích lại được vì quá dài. Người viết chỉ xin ghi nhận điều quan trọng nhất trong trường thi là cần phải ghi nguồn xuất xứ khi sử dụng tài liệu của người khác.

Trường thi là thế, trong trường đời cũng có lắm những trường hợp đạo văn ly kỳ mà thời sự tiêu biểu nhất là trường hợp bà đương kim đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Melanie Trump đã bị tố giác "đạo văn" một đoạn của bà nguyên Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, bà Michelle Obama, được phát biểu trên cùng một sân khấu chính trị, chỉ khác thời gian, là Đại hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc Hoa Kỳ.

Ngày 18/7/2016, bà Melanie Trump đọc diễn văn vận động cho chồng là ông Donald Trump nhân ngày Đại Hội đảng Cộng Hòa Toàn quốc tại Cleveland, Ohio.

Trong một đoạn bà Trump nói : "My parents impressed on me the values that you work hard for what you want in life ; that your word is your bond and you do what you say and keep your promise ; that you treat people with respect".

Tạm dịch : Phụ thân của tôi đã khắc ghi trong tôi những giá trị rằng bạn phải làm việc hết sức cho những gì bạn muốn trong cuộc đời ; rằng lời nói của bạn là sự cam kết và bạn làm những gì bạn nói và giữ lời hứa ; rằng bạn phải kính trọng mọi người".

So với một đoạn trong bài phát biểu của bà Michelle Obama cũng nhân ngày Đại hội Đảng Cộng Hòa Toàn quốc năm 2008 :

"And Barack and I were raised with so many of the same values : that you work hard for what you want in life ; that your word is your bond and you do what you say you're going to do ; that you treat people with dignity and respect, even if you don't know them, and even if you don't agree with them".

Bạn đọc có thể chấm điểm bà Trump có đạo văn bà Obama hay không dựa trên định nghĩa của trường Oxford nhưng phe bà Trump và ông Trump phản đối tố giác bà Trump đã đạo văn vì bà Trump chỉ sử dụng từ ngữ thông dụng (common words) chứ không có ý đạo văn bà Obama.

Cũng cần lưu ý ở đây cả hai nhân vật trên cùng sử dụng Anh ngữ, sự đạo văn dễ nhận ra giữa các từ ngữ, câu cú, ý tưởng hai đoạn của hai bài nói chuyện. Khác biệt ngôn ngữ chắc chắn sẽ gây tranh cãi hơn vì còn phải dựa vào tính chuyên môn của người phiên dịch. Yếu tố "đệ tam nhân" làm cho sự trung thực của bài đọc, bài viết phải được xem xét lại vì có nhiều trường hợp như người ta nói "dịch là giết". Đặc biệt là khi người dịch có ý gian xảo chọn lựa, thêm thắt các từ ngữ sao cho ăn nhập với kết luận chủ ý của người dịch.

Xét đến 12 bằng chứng do ông Nguyễn Gia Thưởng đưa ra, tính trung thực của các bằng cớ đã có vấn đề lớn vì ông Nguyễn Gia Thưởng đã để lộ ra xúc cảm cá nhân vượt quá tính chuyên môn của người phiên dịch. Nhưng ta hãy tạm chấp nhận các phần "tạm dịch" của ông Nguyễn Gia Thưởng và tạm nhận trên cõi đời này chỉ có hai cuốn Le Mal FrancaisTổ Quốc Ăn Năn viết về các vấn đề Việt Nam tương tự. Sự tạm nhận rất là miễn cưỡng vì giữa "Người Pháp xấu xí" thì có ăn nhập gì đến "Tổ Quốc Ăn Năn" nhưng nếu không có sự tạm nhận miễn cưỡng này, các bằng chứng ông Thưởng đều không đáng suy nghĩ.

Thí dụ 1 :

1. Le Mal Français : page 12 – Que la France fût continuellement malchanceuse, j'en acquis très tôt la conviction. L'histoire qu'on nous enseignait m'en fournissait les tristes preuves.

- Dịch : Tôi đã sớm xác định được rằng nước Pháp thường xuyên gặp sự không may. Môn sử mà chúng ta học đã cho tôi hàng loạt bằng chứng buồn lòng.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 211 - (Dừng chân nghĩ lại) - Nhân nói về cuộc Nam tiến, cũng cần nhận định rằng lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất. Trong suốt quá trình mở nước và dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ những sự không may.

Người tinh ý sẽ thấy phần dịch Việt ngữ đã bỏ mất câu "j'en acquis très tôt la conviction". Dù không phải là người thông thạo tiếng Pháp nhưng tôi nghĩ câu này nếu có lợi cho ý đồ của ông Nguyễn Gia Thưởng thì ông đã không bỏ qua câu này. Câu này có nghĩa "tôi đã nhận ra rất sớm xác tín này". Câu này ông Thưởng không tìm thấy trong đoạn văn của ông Kiểng và vì không có lợi cho khẳng định của mình nên ông Thưởng cho qua phà. Yếu tố khách quan và chuyên môn của người dịch phải được đánh giá nghiêm khắc ở đây.

Dù vậy, bạn đọc khách quan cũng nhận thấy cách lập luận hai đoạn văn này giữa hai tác giả chẳng có ăn nhập gì với nhau ngoài danh từ "sự không may". Danh từ "sự không may" tự nó không phải là một đặc ngữ, một bí ẩn ngữ cao siêu mà nhiều người khác không biết đến để khi diễn tả một ý tưởng tương tự, chỉ có thể bị tội ăn cắp của ông Peyrefitte.

Ông Nguyễn Gia Thưởng không màng đến xuất xứ của các nhận định đã được tác giả Nguyễn Gia Kiểng xác nhận trong các thí dụ trên. Thí dụ (2) là một giáo sư người Pháp, thí dụ (5) là người Hòa Lan và thí dụ (7) là Napoléon I. Ông Thưởng quá hăng hăng quy chụp ông Kiểng nên đã không quên mất nguồn xuất xứ đã được chỉ ra.

Thí dụ 2 :

2. Le Mal Français : page 14 - "la France enjuivée, revenu au temps de Dreyfus". "Les Français ne s'aiment pas", me disais-je.

- Dịch : Nước Pháp Do Thái hóa, lui về thời Dreyfus. Tôi tự nhủ : "Người Pháp không yêu thương nhau".

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 71 - "Ông kể lại rằng khi ông còn trẻ vừa tới Pháp du học, một giáo sư người Pháp có kinh nghiệm nhiều về Việt Nam đã nói về người Việt Nam rằng : "Ils ne s'aiment pas" (người dịch : Họ không yêu thương nhau).

Thí dụ 3 :

3. Le Mal Français : page 48 - Un peuple dégoûté de l'histoire. "Les Français se considèrent comme un peuple en décadence, sinon comme un peuple fini… Ils sont malades de ce que j'appellerais le dégoût de l'histoire". Le sursaut pouvait-il venir de ce peuple résigné ?

Dịch : Một dân tộc chán ghét lịch sử. "Người Pháp tự coi mình là một dân tộc suy thoái nếu không gọi thẳng ra là một quốc gia đã hết thời... Theo tôi, họ mắc phải căn bệnh ghê tởm lịch sử". Một dân tộc đã buông xuôi như vậy liệu có thể nào bừng tỉnh được không ?

Tổ Quốc Ăn Năn : trang 117 và 118 - Chính vì thế mà chúng ta luôn luôn thụ động để cho thực tế xô đẩy chứ không chủ động việc tổ chức tương lai của mình. Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng. Sử bị bỏ rơi trong hơn hai thế kỷ… Cuối cùng chúng ta không biết rõ lịch sử của chúng ta, mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc.

Hai đoạn văn độc lập với nhau từ ý tưởng, ngôn ngữ diễn đạt và cả câu cú. Đây là một thí dụ tiêu biểu về sự cưỡng ép thô bạo của ông Thưởng để ghép ông Kiểng vào tội đạo văn.

Thí dụ 4 :

4. Le Mal Français : page 104 - Louis XIV n'avait d'autre grand dessein que faire ployer le genou aux princes et aux nations : il dévastait les Flandres, la Hollande, le Palatinat, les pays Rhénans, le val d'Aoste ; il bombardait Gênes et Bruxelles ; il forçait les autres États à reconnaître le présénce des ambassadeurs de France ; il humiliait le pape Alexandre VII ; il rompait les traités, il ne donnait sa parole que pour la reprendre.

Dịch : Vua Louis XIV không có tham vọng nào khác hơn là bắt các ông hoàng và các quốc gia quì gốiÔng ta tàn phá xứ Flandres (n.d. : một phần của Hà Lan), Hà Lan, đất vương công Palatinat (n.d. : một phần của Đức), xứ Rhénans (n.d. : một phần của Đức), xứ Val d'Aoste (n.d. : một phần của Ý), dội pháo thành Gênes et Bruxelles, buộc các nước khác phải nhượng bộ Đại sứ Pháp, ông ta hạ nhục Giáo hoàng Alexandre VII, phá hủy các hiệp ước, hứa hẹn chỉ để rồi nuốt lời (tráo trở, lật lọng).

Tổ Quốc Ăn Năn : trang 157 và 167 - Nguyễn Huệ là một con người hung bạo đánh tất cả mọi người : đó là một sự thực… Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ… Nguyễn Huệ tiêu biểu cho những giá trị mà chúng ta cần đánh đổ : võ biền, độc đoán, hung bạo, lật lọng trái ngược với những giá trị ta cần phát huy. (Chú thích : Tác giả đã hoán chuyển nhân vật Louis XIV thành vua Quang Trung).

Vua Louis XIV và vua Nguyễn Huệ chắc chắn không thể là anh em song sinh để có thế hoán chuyển người này sang người khác. Một người có nguồn gốc quý tộc, lên ngôi vua khi mới 4 tuổi thì có gì giống với hoàng đế Nguyễn Huệ phải gây đao binh để lập nghiệp đế vương ? Những khó khăn chính trị, cai trị, trấn áp đối thủ… hoàn toàn là đặc thù của quốc gia sở tại sao lại có thể hoán đổi với nhau làm một được ?

Bằng chứng đạo văn hung hồn có tính thế kỷ của ông Thưởng là hai tính từ tráo trở, lật lọng mà dựa vào đó ông Thưởng khẳng định ông Nguyễn Gia Kiểng đã "hoán chuyển nhân vật Louis XIV thành vua Quang Trung" ! Khổ nỗi hai từ lật lọng, tráo trở được đóng trong ngoặc đơn, là sáng tác của ông Thưởng chứ không phải của ông Peyrefitte ! Trong những thí dụ khác, ông luôn mở ngoặc đơn để viết (n.d.) tức người dịch để tách ra khỏi tác giả, nhưng trong đoạn này ông phá lệ. Ông ngầm tạo ra cảm nhận chính tác giả Peyrefitte đã viết như thế. Có thể có bạn đọc không để ý đến tiểu tiết gian xảo này nhưng về mặt phiên dịch chuyên môn, đây là một lỗi không thể tha thứ. Xét theo trích dẫn Pháp văn của ông Thưởng, không có từ nào là lật lọng tráo trở trong nguyên tác. Ông Thưởng phải "kiếm thêm" để ghép cho ăn nhập với từ lật lọng, tráo trở được ông Nguyễn Gia Kiểng mô tả tính khí của vua Quang Trung trong tiểu luận này. Việc gán ghép thêm nỗi lòng cá nhân của ông Thưởng qua chứng minh trên cho thấy ông Thưởng thiếu hẳn lòng tự trọng và tính trung thực của một người công chính. Ông Thưởng cũng đã thiếu sự kính trọng đối với tác giả Peyrefitte.

Nếu có chăng trường hợp ông Nguyễn Gia Kiểng chỉ đọc mỗi một cuốn Le Mal Francais rồi viết được cuốn Tổ Quốc Ăn Năn với 618 trang và 82 tiểu luận (!) thì người ta chỉ có thể nói nhân vật Louis XIV đã gây cảm hứng, kích thích, thúc đẩy một tác giả viết về một tiểu luận mới. Viết một tiểu luận mới lấy cảm hứng từ một tác giả không phải là đạo văn, đạo ý mà nó là sáng tạo một tác phẩm mới. Nhưng đã có bằng chứng nào để nói ông Kiểng đã lấy cảm hứng từ cuốn Le Mal Francais, khi một nhân vật lịch sử như vua Louis XIV phải có hàng chục, trăm tác giả viết về ông vua này cứ gì chỉ ông Peyrefitte. Trước Louis XIV đã có các vô số các vua gian ác như Nero của La mã, có Trụ Vương, Tần Thủy Hoàng của Tàu, có Stalin của Nga và có Mao Trạch Đông… thì ai có thể khẳng định ông Nguyễn Gia Kiểng lấy cảm hứng từ Louis XIV ? Mới đây trên đài truyền hình SBS Úc châu đã chiếu một phim tài liệu nhiều tập về cuộc đời Vua Louis XIV. Chẳng thấy có ghi nhận công ơn trời biển của ông Peyrefitte trong bộ phim này.

Thí dụ 5 :

5. Le Mal Français : page 136 - "Dieu a créé la terre mais les Hollandais ont créé les Pays Bas". Vieux dicton hollandais.

- Dịch : "Thượng đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính người Hòa Lan đã làm ra đất nước Hòa Lan" - tục ngữ cổ Hòa Lan.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 31 - Người Hòa Lan thường tự hào : "Thượng đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính chúng tôi đã làm ra đất nước này".

Thí dụ 6 :

6. Le Mal Français : page 138 - Elle possède certaines des plus puissantes sociétés mondiales : la Royal Dutch Shell, Unilever. L'empire industriel et commercial de Philips qui donne du travail à plus de 250.000 personnes en divers pays.

Dịch : Nước này (n.d : Hòa Lan) sở hữu nhiều công ty hùng mạnh trên trường quốc tế như Royal Dutch ShellUnilever. Đế chế công nghiệp và thương mại Philips tạo công ăn việc làm cho 250.000 người tại nhiều quốc gia.

Tổ Quốc Ăn Năn : trang 31 - Các công ty lớn của Hòa Lan như PhilipsRoyal DutchUnilever có chi nhánh trên khắp các lục địa và tại tất cả các quốc gia phát triển.

Thí dụ 7 :

7. Le Mal Français : page 138 - Une nation de boutiquiers - "C'est une nation de boutiquiers" disait avec dédain Napoléon.

- Dịch : Một quốc gia chủ tiệm - Napoléon đã từng nhận xét với thái độ miệt thị (n.d : về nước Anh) : "Đó là một quốc gia của mấy người chủ tiệm".

-Tổ Quốc Ăn Năn : trang 398 và 399 - Anh : một dân tộc bán tiệm. Napoléon I có lần nhận định một cách không mấy nể nang người Anh là một "dân tộc bán tiệm" (un peuple de boutiquiers).

Ba "bằng chứng" này không thể áp dụng định nghĩa đạo văn theo trường đại học Havard được. Xuất xứ của thông tin đã được tác giả ghi nhận.

Thí dụ 8 :

8. Le Mal Français : page 139 - Le miracle suisse - La Suisse n'est pas mieux dotée par la nature que les Pays-Bas. Elle est un peu plus grande, mais si montagneuse que la moitié de son territoire ne permet ni culture ni même élevage. Pas de sources d'énergie, si ce n'est hydraulique. Pas, ou presque, de minerais.

- Dịch : Phép màu Thụy Sĩ - Thiên nhiên không ưu đãi Thụy Sĩ hơn so với Hòa Lan. Rộng lớn hơn một chút, nhưng nhiều núi non mà quá nửa diện tích không thể trồng trọt hay thậm chí chăn nuôi. Không có nguồn năng lượng nào, ngoại trừ thủy điện. Hầu như không có khoáng sản.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 405 - Như Thụy Sĩ, quốc gia nhỏ bé và bị quên lãng trong nhiều thế kỷ, không có bờ biển, không tài nguyên thiên nhiên, lại thêm núi non trùng điệp, vậy mà đã trở thành quốc gia giàu có nhất thế giới.

Đây là kiến thức phổ thông được giảng dạy từ cấp trung học nói về Thụy Sĩ, Hòa Lan, kể cả Nhật Bản, Đại Hàn là những quốc gia không có ưu đãi thiên nhiên, ít tài nguyên, nhưng đã biến sự thua kém thiên nhiên thành sức bật để vươn lên hàng cường quốc trung bình trên thế giới. Nó không phải là kiến thức mới mẻ mà đã có trong giáo trình môn Sử Địa bậc trung học tại miền Nam trước năm 1975. Những thông tin này không phải vừa mới được ông Peyrefitte tìm thấy ngày hôm qua để ông Nguyễn Gia Kiểng phải đạo ý mới mẻ này của tác giả Le Mal Francais.

Xin lạm bàn một chút về kiến thức phổ thông. Kiến thức là gì nếu không phải là những gì tồn đọng lại trong ký ức của một người sau khi đã tiêu hóa hết thông tin ? Số lượng thông tin ít nhiều do sự tiếp thu của cá nhân và trở thành kiến thức cá nhân. Nó là tài sản học thức cá nhân. Tài sản tinh thần là một phương tiện căn bản để giúp một người có thể dựa vào đó thi thố với đời. Trên mặt cá nhân, giải quyết những khó khăn cá nhân để mưu tìm hạnh phúc và trên mặt xã hội, giải quyết những khó khăn chung của xã hội để đóng góp phần mình vào sự thăng tiến phồn vinh của xã hội. Tài sản tinh thần của một người là kết quả tích lũy kinh nghiệm sống của hàng ngàn thế hệ trước đó. Trong kiến thức của mỗi cá nhân có món nợ kinh nghiệm hàng ngàn năm của tiền nhân. Một câu viết, một câu nói của cá nhân đương đại phản ánh cả một tiến trình tiến hóa hàng ngàn năm về mặt ngôn ngữ của con người. Trong mỗi nhân dạng của con người hôm nay có hình bóng của hàng ngàn thế hệ động vật tiến hóa trước đó. Vậy chỉ có những kiến thức thông tin độc nhất, xuất chúng nhất và riêng biệt nhất mới nên thể được vinh danh ghi nhận. Những kiến thức đã được coi là phổ thông không thể có truy tìm xuất xứ và rất nhiều khi không tìm ra xuất xứ. Khi nói về sự hợp quần gây sức mạnh, một cây làm chẳng nên non, người Anh Mỹ nói "một con se sẻ không làm nên mùa hè" (a sparrow does not make a summer) nhưng người Việt Nam ta sẽ nói "một con én không làm nổi mùa xuân" . Một nhận xét thông thường được diễn tả bằng ngôn ngữ khác nhau, vậy ai đã đạo văn, đạo ý của ai trong câu nói trên ?

Kiến thức phổ thông các về Hòa Lan, Thụy Sĩ, Đại Hàn, Nhật Bản… đều có một một đặc tính là nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên nhưng đã vươn lên thành cường quốc kinh tế, không phải do một cá nhân ông Alain Peyrefitte tìm ra mà mọi người dùng đến những từ ngữ thông dụng đều là bị ông Thưởng cho là đạo văn.

Thí dụ 9 :

9. Le Mal Français : page 320 - Il n'y a sans doute pas de pays au monde où les diplômes soient mieux respectés et leur validité aussi persistante.

- Dịch : Có lẽ không có nước nào trên thế giới mà người ta lại tôn thờ bằng cấp như vậy và bằng cấp lại có giá trị bền bỉ đến thế.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 52 và 53 - Hình như đối với người Việt bằng cấp là quan trọng nhất, và một con người trước hết được đánh giá qua những bằng cấp mà mình có. Bằng quí như thế nên tôi đã từng thấy những người "chơi bằng". Họ có đủ loại bằng cấp… Bằng cấp đối với người Việt vì vậy có một tầm quan trọng rất đặc biệt.

Hai đoạn này không thể song sinh được xét về mặt ngôn ngữ diễn đạt một khía cạnh tâm lý xã hội tương đồng. Khi chuyển dịch lại đoạn tiếng Việt trong thí dụ này sang tiếng Pháp người đọc sẽ thấy rõ ràng sự khác biệt về ngôn ngữ và ý tưởng. Tâm lý yêu chuộng bằng cấp là tâm lý xã hội của nhiều quốc gia chứ không chỉ riêng Pháp và Việt Nam. Nó là một tâm lý thông thường trong một xã hội đóng kín trong đó bằng cấp chứ không phải kiến thức được dùng làm thước đo khả năng hiển đạt vinh thăng xã hội của một người. Riêng xã hội Việt Nam thì từ ngày xưa đã câu dân gian "chẳng tham ruộng cả ao điền, tham vì cái bút cái nghiên anh đồ" mà ngày tâm lý này đã phát triển tột đỉnh đưa đến tệ nạn mua bán, gian lận bằng cấp đã tràn ngập xã hội và guồng máy nhà cầm quyền Việt Nam. Vậy tác giả Nguyễn Gia Kiểng không thể nói đến tệ trạng xã hội rộng khắp này ở Việt Nam mà không bị quy chụp ăn cắp ý tưởng của một người khác ?

Thí dụ 10 :

10. Le Mal Français : page 414 - Ignorance de la géographie et de l'histoire. Que "le Français ignore la géographie" était passé en proverbe chez les étrangers.

- Dịch : Dốt nát về địa lý và lịch sử - Bảo rằng "người Pháp dốt đặc về địa lý" đã thành câu tục ngữ cửa miệng của người nước ngoài.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 118 – Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc.

Về mặt "đạo văn, đạo ý", nếu dịch các đoạn của tác giả Tổ Quốc Ăn Năn ra Pháp văn sẽ thấy sự khác biệt trong lập luận, ý tưởng và văn ý của ông Nguyễn Gia Kiểng so với tác giả Le Mal Francais.

Tâm lý, văn hóa thiếu quan tâm đến lịch sử và địa lý xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới không chỉ ở Việt Nam. Sự coi thường hai lãnh vực này tác động bao nhiêu đến xã hội là nhận định riêng của những cá nhân hằng trăn trở thao thức vì các bế tắt của xã hội. Bạn có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng không thể nói đó là sự sao chép lại quan điểm của một người hay nhiều người có cùng nhân định tương tự. Phải chăng chỉ vì ông Peyrefitte nói về nhận xét riêng của ông trên xã hội Pháp, mà không một người Việt Nam nào có thể nhận xét độc lập về xã hội của mình mà không bị gán ghép là cóp nhặt của người khác ? Nghĩ rằng một dân tộc xuất hiện lâu đời đã hàng ngàn năm nhưng không có được nhiều người có thể độc lập tư tưởng, suy nghĩ và can đảm đánh giá lại tác động của những giá trị xã hội tôn vinh hay thiếu sót đã đưa xã hội đến lụn bại như ngày hôm nay như tác giả Nguyễn Gia Kiểng là mặc cảm tự ti, nô lệ tư tưởng thấp kém của những người như ông Thưởng.

Thí dụ 11 :

11. Le Mal Français : page 414 – Ignorance de la géographie et de l'histoire. Nous répugnons à admettre des progrès évidents. Nous vivons sur des stéréotypes anciens, sans nous demander s'ils ne sont pas devenus désuets. Par exemple : "Les Français ne lisent pas". On cite une vieille statistique, toujours la même, d'avant le livre de poche.

- Dịch : Ngu dốt về địa lý và lịch sử. Chúng ta không chịu thừa nhận sự tiến bộ hiển nhiên. Chúng ta sống theo những khuôn mẫu cũ mà không tự hỏi xem nó đã lỗi thời hay chưa. Ví dụ như "Người Pháp không chịu đọc" : Họ cứ nhai đi nhai lại mãi những con số thống kê cũ rích, từ cái thuở sách bỏ túi còn chưa ra đời.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 107 và trang 109 - Phải nhìn nhận một sự thực đau lòng : chúng ta là một dân tộc không biết đọc, không biết viết và không biết nói. Người Việt không biết truyền thông, không biết đọc, không biết viết, v.v…

Thí dụ 12 :

12. Le Mal Français : page 461 - Le propos de ce livre n'était pas d'établir un programme ou un "manifeste" mais de réfléchir et de faire réfléchir pour contribuer peut être, en suscitant un débat d'idées à nourrir les programmes et manifestes que d"autres, ensuite viendront élaborer.

- Dịch : Mục đích của cuốn sách này không phải là để thiết lập một chương trình hay một "tuyên ngôn" mà là để ngẫm nghĩ, và khiến độc giả cùng ngẫm nghĩ, hy vọng tạo dịp trao đổi ý kiến, hầu đóng góp nuôi dưỡng những chương trình hay tuyên ngôn của những ai tiếp tục phát triển sau này.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang XI – Cuốn sách này là một cuốn sách để thảo luận ý kiến, mục đích chỉ là đề xướng ra mà không kết thúc các cuộc thảo luận.

Hai mục đích của hai tác giả trong hai cuốn sách này đề ra trong phần này khác nhau thì sao lại là đạo văn cho được ?

Đúc kết :

Qua 12 bằng chứng của ông Nguyễn Gia Thưởng như được phân tích, cho thấy não trạng của một người đã khẳng định trước một kết luận sẽ tìm mọi cách để bênh vực lý lẽ của mình bằng mọi phương tiện kể cả bất lương. Nó chỉ là kết quả của một nhận định sơ sài, hồ đồ thiếu hẳn sự thận trọng của một người quan sát bình thường.

Tính bất lương của ông Nguyễn Gia Thưởng được thể hiện trơ trẽn táo tợn trong phần kết luận của ông :

"Để bước sang một năm mới trong tinh thần lương thiện và lành mạnh, lật sang một trang sử mới trong việc xây dựng tổ chức, tạo nấc thang cho tiến trình dân chủ hóa đất nước, chúng tôi mời tác giả Tổ Quốc Ăn Năn hoàn trả cho ông Alain Peyrefitte những gì của ông Alain Peyrefitte".

Ông Thưởng kêu gọi sự lương thiện "hoàn trả cho ông Alain Peyrefitte những gì của ông Peyrefitte" trong tiếng cổ vũ hoan hô nhao nhao đòi "giải trình, giải trình" của những người đồng chí của ông Thưởng khiến người ta không khỏi liên tưởng đến hoạt cảnh bọn côn đồ bắt Vương ông và Vương quan trong truyện Kiều của Nguyễn Du :

Người nách thước, kẻ tay dao

Đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi

(Nguyễn Du, Kiều, câu 493-494)

Ông Nguyễn Gia Thưởng là người chủ động và chủ chốt trong nhóm ly khai đã ăn cắp cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là ethongluan.org. Ông Thưởng dựa trên web ăn cắp để đăng bài vu cáo ông Nguyễn Gia Kiểng mà không có sự lương thiện để hoàn trả lại cho Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên những gì của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Nhưng ông Thưởng lại muối mặt nhân danh sự lương thiện để kêu gọi ông Kiểng trả lại cho ông Peyrefitte những gì… của ông Kiểng !

Victor Hugo trong tác phẩm kinh điển "Những Kẻ Khốn Cùng" kể chuyện một tên ăn cắp nhưng quyết hoàn lương, sống làm người tử tế trong quảng đời còn lại. Ông Nguyễn Gia Thưởng xem ra đang viết một câu chuyện trái ngược. Từ làm một người tử tế trong 30 năm, nay bắt đầu cuộc đời của một tên ăn cắp !

Mười hai bằng chứng khẳng định tác phẩm Tổ Quốc Ăn Năn của ông Nguyễn Gia Kiểng là bản sao của Le Mal Francais của Alain Peyrefitte chỉ nói thêm ngoài hành vi ăn cắp trộm đạo, ông Thưởng còn phạm tội vẽ bậy phá phách trên các tường thành công cộng (graffiti vandalism).

Sơn Dương

(Úc, 20/02/2017)

Tìm đọc :

Tổ Quốc Ăn Năn (649 trang)

Tải về PDF.

Tải về tệp apk (xem trên điện thoại android).

*******************

Phỏng vấn Nguyễn Gia Kiểng

(Vietinfo.eu, 12/12/2016)

Nguyễn Gia Kiểng là một tên tuổi không mới lạ đối với người Việt nói chung. Ông tốt nghiệp kỹ sư và học lên cao học kinh tế tại Pháp. Ông được biết đến nhiều với tư cách là một trong những người sáng lập ra tổ chức Tập hợp dân chủ đa nguyên. Cuốn Tổ Quốc Ăn Năn mà ông là tác giả, cũng mang lại nhiều ý kiến trái chiều.

Tháng 5/2015, một tác phẩm mới của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên do ông chấp bút nhan đề Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2, đã được giới thiệu với bạn đọc người Việt tại Mỹ. Tháng 6/2015, sách được giới thiệu với bạn đọc Việt tại Paris.

Ngày 17/12/2016, ông Nguyễn Gia Kiểng đã đến Praha để trao đổi với cộng đồng người Việt tại Cộng hòa Séc về nội dung của dự án chính trị dân chủ đa nguyên này.

Bài phỏng vấn này với tác giả Nguyễn Gia Kiểng chỉ nhằm mục đích tiếp cận cuốn sách mới thông qua cuốn sách đầu tiên và tác giả của chúng, để rồi sau đó cùng mở ra một cánh cửa mời cộng đồng Việt tại Séc đến đàm thoại cùng tác giả. Vì một vài lý do, bài phỏng vấn được thực hiện trong một thời gian rất gấp, và được gửi nguyên văn để các bạn đọc tự cảm nhận.

*****

Thanh Mai : Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, xin thú thực rằng đọc Tổ Quốc Ăn Năn đã lâu và đã không còn nhớ chi tiết, em đã chọn ra một cách tình cờ hai chương là Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi và Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung để dành cho phạm vi bài phỏng vấn này. Nếu như anh Nguyễn Gia Kiểng muốn chọn chương nào khác, xin anh hãy cho biết.

1. Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi

Thanh Mai : Mở đầu bằng câu thơ của Phạm Duy, chương Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi như "ném" người đọc về lại với dòng sông êm đềm mang tên quê hương và tuổi thơ, để rồi phải trực diện với một nhận định khá... đanh thép của tác giả rằng "Một lý do quan trọng khác khiến chúng ta kém về truyền thông là chúng ta khinh thường tiếng Việt". Tuy nhiên chỉ dưới đó một đoạn, tác giả viết : "Những người trẻ trưởng thành tại hải ngoại có khả năng truyền thông hơn hẳn cha anh vì được huấn luyện một cách khác, được khuyến khích phát biểu; nhưng cũng vì tiếng Anh, tiếng Pháp được hấp thụ từ mẫu giáo và gần như là tiếng mẹ đẻ của họ. Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ".

Đầu tiên, xin anh cho giải thích hộ "Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ" là sao ?

Nguyễn Gia Kiểng : Xin cảm ơn Thanh Mai đã đặt câu hỏi này. Phải nhìn nhận một sự thực là cộng đồng người Việt hải ngoại đã mất căn cước văn hóa một cách rất nhanh chóng. Thế hệ thứ hai hầu như không còn sử dụng tiếng Việt nữa, họ đã gạt bỏ tiếng Việt. Họ phát biểu lưu loát hơn, mạch lạc hơn nhưng bằng tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng Đức, tiếng của đất nước mà họ sinh ra hoặc lớn lên. Tại sao như vậy là một đề tài thảo luận lớn nhưng một trong những lý do chính là văn hóa của chúng ta không phong phú và ngôn ngữ của chúng ta quá sơ sài, cha mẹ không có gì để tự hào và cố gắng truyền lại cho con cái. Dân tộc nào xét cho cùng cũng gắn bó với nhau vì một vài cuốn sách lớn về giá trị văn học và tư tưởng, chúng ta thiếu những cuốn sách như thế.

Thanh Mai : Thực tế là thế hệ trẻ ở hải ngoại phần đông đều không nói tiếng Việt tốt. Do ảnh hưởng của văn hóa, văn minh phương Tây, họ (hầu như) không (được phép) khinh thường bất cứ điều gì, nhất là con người. Ngoại ngữ Anh, Pháp của họ tốt như tiếng mẹ đẻ, tốt hơn hẳn thế hệ thứ nhất. Nhưng như anh nói, họ làm truyền thông rất tốt. Vậy hình như truyền thông tốt hay không tốt, không hoàn toàn phụ thuộc vào tiếng Việt, thưa anh! Và xin anh giải thích thêm.

Nguyễn Gia Kiểng : Theo tôi họ truyền thông giỏi hơn chính nhờ sử dụng ngay từ đầu đời một ngôn ngữ phong phú và chính xác hơn. Ngôn ngữ quyết định phẩm chất của thông điệp và giá trị của truyền thông. Đàng sau mỗi ngôn ngữ là một cách suy nghĩ. Tiếng Việt của chúng ta còn sơ sài quá, chúng ta thiếu nhiều chữ, thí dụ như những chữ concept, conception, conceptualisation, conceptualiser, concevoir trong tiếng Pháp chúng ta chỉ có một từ "khái niệm" hoặc "quan niệm". Mặt khác tiếng Việt cũng chưa biết ghép tính từ với danh từ để tạo ra một tiếng mới, thí dụ như chữ "vĩ nhân" mà chúng ta mượn từ chữ Hán. Vĩ nhân là một khái niệm khác do cách ghép chữ vĩ, tính từ, với chữ nhân, danh từ, trong đó tính từ được đặt trước danh từ. Trong tiếng Việt tính từ chỉ đặt sau danh từ để nói lên một đặc tính chứ không tạo ra một từ mới. Tôi không phải là một nhà ngữ học, tôi chỉ sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt ý kiến nhưng cũng thấy khó khăn của tiếng Việt so với hai ngôn ngữ khác mà tôi biết là tiếng Pháp và tiếng Anh. Ngôn ngữ cũng phần nào tiết lộ lịch sử của một dân tộc. Các ngôn ngữ tiến bộ thường đặt nền tảng trên hai động từ "có" và "là", tôi là ai và tôi có gì. Trong tiếng Việt động từ nền tảng lại là "ăn". Ăn nói, ăn ở, ăn trộm, ăn cướp, ăn tiền, ăn nằm, ăn ảnh, ăn năn, ăn thua v.v. Sự kiện chúng ta đồng hóa "thắng" và "ăn", nghĩa là kẻ thắng với kẻ được ăn, kẻ thua với kẻ không được ăn cũng chứng tỏ rằng trước khi tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa chúng ta còn ở một trình độ phát triển rất thấp. Mặt khác kinh nghiệm của các dân tộc đã chứng tỏ rằng một dân tộc muốn tiến lên phải sử dụng ngôn ngữ của mình chứ không thể vay mượn một ngôn ngữ khác dù hoàn chỉnh đến đâu. Hãy so sánh Hàn Quốc và Philippines. Chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là cải tiến tiếng Việt nếu muốn vươn lên.

Thanh Mai : Nếu tiếng Việt ta chưa hoàn chỉnh thì ta cần cải thiện và phong phú nó – thêm vào một số âm, chấp nhận thêm một số từ đa âm, chế ra một số tiếng mới cho những ý niệm mới – rồi tiếp tục phát huy nó. Ngôn ngữ là một cố gắng sáng tạo không ngừng" Anh viết những dòng trên đây vào thời điểm khi chưa có blog, chưa có các diễn đàn và mạng xã hội, và cùng với nó chưa có các ngôn ngữ @.

Anh có hài lòng với sự sáng tạo ngôn ngữ của lớp trẻ ngày nay ? Tại sao ? Anh có thể cho biết, sự sáng tạo trong ngôn ngữ cần bao hàm giá trị gì để anh có thể hài lòng với nó ? 

Nguyễn Gia Kiểng : Tôi chưa thể hài lòng. Ngôn ngữ FaceBook và Twitter mà tôi gặp thường ngày không tạo ra những tiếng mới mà thường chỉ là cách viết lóng, đôi khi ẩu, một từ có sẵn, thí dụ như "rùi" thay cho "rồi". Điều mà chúng ta cần là những từ mới để chỉ những khái niệm mới. Trong nhiều trường hợp chúng ta có thể lấy ngay tiếng Anh thay vì cố dịch ra tiếng Hán Việt và làm sai nghĩa và không giúp chúng ta tiếp thu một khái niệm mới một cách đúng đắn. Thí dụ như politics có nghĩa là "việc của thành phố", nghĩa là "việc nước" vì vào thời cổ Hy Lạp mỗi thành phố là một nước nhỏ. Chúng ta dịch politics thành "chính trị", một khái niệm gần như đồng nghĩa với cai trị hay quyền lực. Hậu quả là người ta không thấy chính trị ngày nay phải khác hẳn với ngày xưa. Nhiều người nói "tôi không quan tâm tới chính trị" là do cách hiểu đó. Nếu thay vì chính trị chúng ta dịch là "việc nước" thì chắc ít ai nói "tôi không quan tâm tới việc nước".

2. Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung

Thanh Mai : Hẳn là để viết chương này anh đã phải nghiên cứu nhiều sách lịch sử, mặc dù không thấy anh dẫn nguồn tư liệu như thói quen thường gặp ở các học giả được đào tạo lâu năm ở phương Tây như anh. Để hiểu thêm chương sách, xin anh cho biết, "người ta" là ai. Ai là người "trọng Hồ khinh Mạc" mà hình như anh đang phản biện ? Và các nguồn sách, tác giả nào đã được anh tin tưởng sử dụng.

Nguyễn Gia Kiểng : Như tôi đã xác nhận trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn và trong nhiều dịp khác tôi không phải là một nhà nghiên cứu. Tôi là một người hoạt động chính trị. Người hoạt động chính trị cần nói những điều đúng, hay ít nhất những điều mà mình có lý do vững chắc để tin là đúng, nhưng không cần dẫn nguồn một cách tỉ mỉ như một nhà khảo cứu. Về Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung trong tất cả các bài học lịch sử mà tôi đã học ở tiểu học và trung học và trong tất cả các sách sử mà tôi đã đọc, hầu như lúc nào Hồ Quý Ly cũng được ca tụng là người tài giỏi dù đôi khi cũng bị chê là đã làm mất nước, trong khi Mạc Đăng Dung thì hầu như lúc nào cũng bị mạt sát. Tôi cũng đã thảo luận với nhiều trí thức và cũng thấy như vậy. Tôi thấy đây là một thành kiến sai. Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê là chuyện cung đình của giai cấp thống trị nhưng Mạc Đăng Dung không làm mất nước. Trái lại Hồ Quý Ly chỉ là một người bất tài tham lam và làm mất nước. Nên nhớ Hồ Quý Ly không tự coi là người Việt. Ngay khi cướp được ngôi của nhà Trần ông ta đã đổi tên nước là Đại Ngu theo tên nước cũ của ông bên Tầu. Ông ta đã làm đất nước tan hoang và sau cùng cả vua tôi phải đầu hàng bẩy tên lính của nhà Minh.

Những điều này mọi sách sử của Việt Nam đều ghi. Tôi cũng nhân dịp này giới thiệu một bộ sử mới mà tôi cho là bộ sử đầy đủ và đúng đắn nhất của Việt Nam. Đó là bộ "Nhìn lại sử Việt" của Lê Mạnh Hùng. Mọi người quan tâm đến lịch sử Việt Nam đều nên đọc bộ sử này.

Thanh Mai : Trong chương viết này chỉ viện dẫn đánh giá của Nguyễn Trãi với Hồ Quý Ly, ngoài ra không có bất cứ ý kiến nào ngoài ý kiến chủ quan của tác giả. Trong khi đó, Mạc Đăng Dung sinh sau Nguyễn Trãi, vì vậy Nguyễn Trãi không thể có bất cứ ý kiến gì về Mạc Đăng Dung

Anh nói sao nếu như có ai đó cho rằng đưa vào chương viết đánh giá của Nguyễn Trãi với Hồ Quý Ly chỉ là bao biện ? (*)

Nguyễn Gia Kiểng : Tôi không hiểu lập luận này. Nguyễn Trãi là một trí tuệ lớn của Việt Nam. Bài Bình Ngô Đại cáo của ông gần như một tuyên ngôn độc lập. Viện dẫn Nguyễn Trãi đâu có gì là sai trái, không nhắc tới quan điểm của ông là một thiếu sót.

Thanh Mai : Chương viết kết thúc bằng câu :

"Cho đến ngày nay, lập trường trọng Hồ khinh Mạc vẫn còn ngự trị, điều đó chứng tỏ trí tuệ tập thể chúng ta vẫn còn mê muội, tâm lý của chúng ta vẫn chưa được khai thông".

Cũng vẫn để hiểu thêm thông điệp của tác giả, xin anh cho biết, phải chăng không trọng Hồ, không khinh Mạc mới là đúng ? Hay là phải trọng Hồ, phải trọng Mạc ? Hay là tuân thủ nguyên tắc dân chủ mỗi chúng ta có quyền được tiếp cận thông tin, tài liệu khác nhau từ các nguồn nghiên cứu lịch sử khác nhau và có quyền bảo lưu ý kiến của mình và đồng thời tôn trọng ý kiến người khác ? Và cuối cùng thì thông điệp mà anh muốn chuyển tải ở chương này là gì ?

Nguyễn Gia Kiểng : Điều tôi muốn truyền tải chỉ giản dị là không nên đọc lịch sử để khen hay chê mà để hiểu dân tộc mình qua mỗi giai đoạn. Thí dụ như việc nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê phải được nhìn đúng với ý nghĩa của nó. Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc nước ta đã thay đổi. Thành phần thượng lưu vùng châu thổ sông Hồng, với trung tâm là Hải Dương, quê hương của Mạc Đăng Dung, đã hội nhập vào văn hóa Trung Hoa trong khi giai cấp quí tộc vùng Thanh Hóa - Nghệ An vẫn còn giữ bản sắc Văn Lang và ý chí độc lập. Các vua Lê dù làm chủ nước Việt vẫn tự coi là các động chủ Mường. Tình trạng này gây mâu thuẫn với giới nho sĩ miền Bắc và cuối cùng đưa đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi. Nên lưu ý là các danh sĩ Bắc Hà như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan tuy không hưởng ứng nhưng cũng không phản đối việc thoán đoạt này. Còn việc Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần thì chỉ thuần túy vì lòng tham. Hồ Quý Ly đã làm đất nước kiệt quệ và cuối cùng mất về tay nhà Minh. Dù không lên án Hồ Quý Ly phản nghịch cũng phải luận tội làm mất nước.

*****

600 trang sách Tổ Quốc Ăn Năn là một nỗ lực kiên trì và khổng lồ.

Đoạn dưới đây trong chương kết của Tổ Quốc Ăn Năn có lẽ chính là thông điệp ngắn gọn và giá trị nhất của toàn bộ cuốn sách :

"Kinh tế không phải là tất cả. Hạnh phúc của một dân tộc không phải chỉ là lợi tức trung bình trên mỗi đầu người, càng không phải là tỷ lệ tăng trưởng 5 hay 10% mỗi năm. Còn những điều cao hơn, và cao hơn nhiều. Đó là phẩm giá, là quyền được nói và làm điều mình muốn, là quyền được sống mà không sợ bị bắt giam vô cớ, được phát triển khả năng của mình mà không cần đút lót, và được tham dự vào những quyết định quan trọng cho cộng đồng. Những điều này chỉ có một chế độ dân chủ có thể đem lại".

Có lẽ nó cũng là tiền đề để bước vào cuốn sách thứ hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, mang tên Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2, hơn 280 trang, được giới thiệu trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (http://thongluan-rdp.org)

3. Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2

Ở đây, xin chỉ chú trọng vào chương 7 của cuốn sách - Đấu tranh thiết lập dân chủ đa nguyên. 

Thanh Mai : Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, cuốn sách đưa ra 4 điều kiện cần và đủ cho cuộc cách mạng dân chủ và 5 giai đoạn vận động dân chủ - hơi tương tự khuôn mẫu 3 không 4 tốt của Trung Hoa, nhưng không sao nếu như logic.

Điều kiện đầu tiên nói rằng "mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi"

Vaclav Havel cho rằng, mỗi con người trong chế độ cộng sản đều là một mắt xích giúp cho cỗ máy chuyên chế vận hành. Họ vừa là nạn nhân vừa là đồng phạm. Họ có thể cho rằng tình trạng hiện hữu là tệ hại. Song để thay đổi thì không. Và không dám, như vẫn đang không dám tại Việt Nam và Cuba.

Tập hợp có kế sách gì với tình trạng này ?

Nguyễn Gia Kiểng : Điều hiển nhiên không ai có thể chối cãi là trừ một thiểu số trục lợi rất nhỏ mọi người Việt Nam hiện nay đều đồng ý rằng chế độ cộng sản là rất tệ hại và phải thay đổi, tuy vậy quần chúng vẫn phải sống và để sống họ phải miễn cưỡng hợp tác với chế độ và gián tiếp giúp nó tiếp tục tồn tại. Đó là một nghịch lý. Điều chúng ta cần ý thức là mỗi dân tộc đều là sản phẩm của lịch sử của chính mình và do đó có mức độ đoạn tuyệt và vùng dậy khác nhau. Đó là mức độ mà sự phẫn nộ biến thành ý chí đấu tranh và khiến con người lấy quyết định đứng dậy. Tại nước ta và Trung Quốc điểm đoạn tuyệt đó lâu đạt đến vì di sản văn hóa. Do truyền thống Khổng Giáo chúng ta chỉ có những người khoa bảng chuyên môn với chức năng làm công cụ cho chính quyền chứ không có những con người dám và có thể suy tư một cách độc lập về những vấn đề của đất nước và dám chấp nhận mọi thử thách để tranh đấu cho lập trường của mình, nghĩa là những trí thức chính trị. Chính sự thiếu vắng những trí thức chính trị đã khiến chúng ta không ý thức được rằng chấm dứt độc tài và thiết lập dân chủ là cuộc cách mạng lớn nhất trong lịch sử nước ta và không nhìn thấy những điều kiện phải có hoặc phải tạo ra để thành công cuộc cách mạng này. Cũng vì sự thiếu vắng này mà chúng ta không đồng ý được với nhau về lộ trình vận động dân chủ và những việc phải làm cho mỗi giai đoạn. Cố gắng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là góp phần giúp trí thức Việt Nam nhìn rõ những điều kiện phải hội đủ và những chặng đường phải đi qua trong cuộc đấu tranh cho dân chủ. Ý chí đấu tranh sẽ đến khi người ta hiểu phải làm gì. Không có gì mạnh bằng một ý kiến đã chín muồi. Chúng tôi tin rằng tình hình đang chín muồi. Chúng ta đã bắt đầu có những trí thức chính trị và hàng ngũ của họ ngày càng đông.

Thanh Mai : Các giai đoạn trong 5 giai đoạn dưới đây đều có gì đó như tương đồng với các giai đoạn tiến tới giành chính quyền ngày xưa những năm 1945. Không ít các cơ sở quần chúng ngày đó đã bị thủ tiêu. Không ít các phương tiện được dùng không đúng mục đích.

5 giai đoạn của cuộc vận động dân chủ - xây dựng một cơ sở tư tưởng - xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt - xây dựng kiểm điểm phương tiện - xây dựng cơ sở quần chúng - tiến công giành chính quyền. Xin anh Nguyễn Gia Kiểng cho biết tại sao người dân vẫn nên tin mô hình này, cho dù lịch sử đã trải qua các kinh nghiệm cay đắng đến nhường kia ?

Nguyễn Gia Kiểng : Bốn điều kiện cần và đủ để cuộc cách mạng dân chủ thành cộng và năm giai đoạn của cuộc vận động dân chủ là thành quả của một nghiên cứu chăm chú các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Khi chúng tôi đi đến kết luận này nhiều anh em trong nhóm khởi đầu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã bỏ cuộc vì thấy cuộc đấu tranh quá dài và khó khăn. Nhưng đó là một kết luận khách quan mà ta phải tin và chấp nhận dù muốn hay không. Người ta không thể thành công một công trình nào cả nếu không biết trước phải làm những gì và phải làm như thế nào. Trong dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Ha,i chúng tôi đã nhận định rằng hai giai đoạn đầu đòi hỏi nhiều thời gian và cố găng nhất, thường thường phải vài thập niện, nhưng một khi hai giai đoạn này đã hoàn tất thắng lợi có thể giành được rất nhanh chóng, trong vài năm, thậm chí vài tháng. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã kiên trì theo đuổi lột trình này và có thể nói hai giai đoạn này đã hoàn tất được một phần lớn.

Chúng ta càng có lý do để lạc quan vì một làn sóng dân chủ mới, làn sóng dân chủ thứ tư trong lịch sử thế giới, đang trào dâng và sẽ cuốn đi những chế độ độc tài cuối cùng. Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho một quá khứ bắt buộc phải qua đi trong khi dân chủ đa nguyên là một tương lai bắt buộc phải đến và sắp đến.

**************

Danh sách các câu hỏi còn dài, kính mời cộng đồng tham gia một cuộc đối thoại thực sự cởi mở. 

Buổi gặp gỡ với ông Nguyễn Gia Kiểng và giới thiệu sách Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai sẽ được nhóm Văn Lang tổ chức vào ngày 17/12/2016 tại Phòng họp Hotel Lifestyle. V Lužích 999/1, 142 00 Praha-Libuš.

Thanh Mai (vietinfo.eu)

 (*) Chú thích (Theo wiki) Hồ Quý Ly 1336 – 1407 ; Nguyễn Trãi 1380 - 1442 ; Mạc Thái Tổ 1483 - 1541.

Published in Quan điểm

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Hai - 2

Cõng rắn cắn gà nhà

2-tqan101

Nếu nỗi oan khiên kéo dài của Lê Chiêu Thống có thể giải thích được thì sự lên án Nguyễn Ánh là cõng rắn cắn gà nhà lại càng khó hiểu.

Nguyễn Ánh bị nhiều người lên án là đã rước quân Pháp vào Việt Nam, để rồi Việt Nam bị Pháp đô hộ. Điều này hoàn toàn sai.

Nguyễn Ánh chết năm 1820, trong khi người Pháp chỉ bắt đầu xâm chiếm nước ta từ năm 1858, nghĩa là 38 năm sau dưới triều Tự Đức, cháu nội ông. Hai vị vua nhà Nguyễn, Minh Mạng và Tự Đức, xứng đáng bị lên án nặng nề, nhưng không phải vì họ đã thỏa hiệp với Pháp mà vì họ đã chống Pháp một cách điên cuồng và mù quáng.

Nguyễn Ánh không phải đã không làm những việc sai trái. Năm 1784, ông đã gởi hoàng tử Cảnh theo giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện Louis XVI. Hai bên ký kết thỏa ước, theo đó Nguyễn Ánh sau khi thành công sẽ dành nhiều đặc quyền lớn cho người Pháp và nhượng đứt đảo Côn Lôn cho Pháp. Ông cũng đã cầu viện quân Xiêm sang Việt Nam giúp đánh quân Tây Sơn. Nhưng cả hai việc làm đáng trách này đã không giúp được gì cho ông. Thỏa ước ký với Louis XVI đã không được thực hiện, còn đám quân Xiêm thì đã bị Nguyễn Huệ đánh tan nhanh chóng. Sau này Nguyễn Ánh thành công, khôi phục được nhà Nguyễn hoàn toàn dựa vào cố gắng của chính ông. Nguyễn Ánh có sử dụng một số tay đánh thuê người Pháp, nhưng đó chỉ là những cá nhân, điều này rất bình thường thời đó. Anh em Tây Sơn cũng đã sử dụng bọn cướp biển Lý Tài và Tập Đình ; họ cũng cố tranh thủ sự ủng hộ của người phương Tây mà không được vì người phương Tây chỉ coi Tây Sơn là quân cướp.

Có người nói vì Nguyễn Ánh cầu viện mà người Pháp mới biết tới Việt Nam. Lời buộc tội này lại càng ngây ngô hơn nữa.

Người châu Âu nói chung và người Pháp nói riêng đã đến Việt Nam từ đầu thế kỷ 16, lúc tổ tiên Nguyễn Ánh là Nguyễn Hoàng chưa ra đời, rồi liên tục gia tăng sự hiện diện. Họ đã thiết lập nhiều trung tâm thương mại tại Hội An, Hà Nội và Hưng Yên. Người châu Âu đến nước ta là lẽ tự nhiên vì lúc đó họ đã mạnh và đang bung ra khám phá thế giới. Việc họ đến nước ta, đem theo một văn hóa và một kỹ thuật mới đáng lẽ phải là một may mắn lớn cho nước ta, chỉ tiếc rằng chúng ta đã không đủ sáng suốt để lợi dụng.

Nguyễn Ánh có công lớn với đất nước. Chính ông đã thống nhất được đất nước. Không có ông không chừng ngày nay miền Nam và miền Bắc vẫn còn là hai quốc gia riêng biệt.

Phe cộng sản mạt sát Nguyễn Ánh là điều dễ hiểu, nhưng điều ngạc nhiên là Nguyễn Ánh bị lên án một cách hồ đồ như thế mà không được minh oan một cách rõ rệt, trong khi tôn thất nhà Nguyễn, ngày trước và ngay bây giờ, không thiếu những người có kiến thức và trình độ cao. Đó là vì một bên có lý do để ra sức buộc tội Nguyễn Ánh, còn một bên dù muốn bênh Nguyễn Ánh cũng không thể bào chữa cho ông một cách thông suốt. Nếu muốn bào chữa cho Nguyễn Ánh thì phải mổ xẻ sự nghiệp của ông một cách khách quan nhưng điều này lại khó làm. Muốn nói rõ về Nguyễn Ánh thì bắt buộc phải nhìn nhận những sai phạm của ông đối với đất nước - cầu viện Pháp, cầu viện Xiêm -, và cách đối xử thô bạo của ông đối với con cháu Tây Sơn. Cũng phải luận việc ông bội bạc và giết hại các công thần. Điều này các vua nhà Nguyễn không cho phép vì họ không thể chấp nhận một phê phán nào về ông tổ của họ. Sau này Ngô Đình Diệm, sau khi đã truất phế vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, cũng không dại gì mà bênh vực ông tổ nhà Nguyễn. Sau Ngô Đình Diệm là chế độ của các tướng tá, trong đó những vấn đề văn hóa, lịch sử không đặt ra nữa.

Nguyễn Ánh bị buộc tội oan trong khi ông là người có công lớn, và hơn thế nữa tổ tiên ông còn có công rất lớn là đã khai phá ra một nửa đất nước.

Nếu ai hỏi tôi ai là người có công nhất đối với Việt Nam, tôi sẽ lưỡng lự giữa Lý Công Uẩn và Nguyễn Hoàng. Lý Công Uẩn có công lập ra một quốc gia Việt Nam thực sự, có kỷ cương, có triều chính, có văn hóa và đặt nền nếp cho Việt Nam từ đó về sau (nhưng đồng thời ông cũng vô tình làm một điều tai hại là khẳng định vai trò của Khổng Giáo như một văn hóa chính thức). Nguyễn Hoàng có công mở ra một nửa đất nước, và đó cũng là nửa nước trù phú nhất. Lưỡng lự giữa hai người nhưng nếu bắt buộc phải chọn một người có lẽ tôi thiên về Nguyễn Hoàng.

Trước năm 1945, hình như không có chuyện buộc tội Nguyễn Ánh. Phan Chu Trinh, một người chủ trương dân chủ và công khai bài xích triều Nguyễn, khi xỉ vả vua Khải Định là hèn đốn đã viết :

      "Ai về âm phủ hỏi Gia Long,

      Khải Định thằng này phải cháu ông ?",

nghĩa là cũng nhìn nhận Nguyễn Ánh là bậc anh hùng.

Sau năm 1945, nhà Nguyễn đã thoái vị, đảng cộng sản đã nắm chính quyền tất nhiên không còn muốn lòng dân nhớ nhà Nguyễn nữa. Lời cáo buộc Gia Long cõng rắn cắn gà nhà bắt đầu từ đây. Khi cựu hoàng Bảo Đại trở về thành lập chính quyền quốc gia, mạt sát và hạ bệ Gia Long dĩ nhiên nằm trong chính sách tuyên truyền của đảng cộng sản. Dưới chế độ cộng sản bênh vực Gia Long, chưa nói đến khen Gia Long, là phạm tội phản động.

Vụ án Gia Long tuy không ồn ào bề ngoài nhưng trong chiều sâu đã gây chia rẽ không nhỏ trong hàng ngũ miền Nam trước năm 1975. Tôi đã có nhiều dịp nhận ra điều đó. Một lần tôi được chứng kiến một cuộc cãi vã ngắn nhưng rất dữ dội. Trong một câu chuyện vãn, không hiểu tại sao hai nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh lại được đề cập tới. Một anh bạn khen Nguyễn Huệ là anh hùng, chê Gia Long là tầm thường, may nhờ Nguyễn Huệ mất sớm mà thắng được. Một anh bạn khác phản ứng một cách giận dữ : "Nguyễn Huệ là một tên tướng cướp gặp thời, Gia Long mới có công thống nhất đất nước". Anh kia cũng không chịu thua. Cả hai đi tới kết luận là người trước mặt mình không có trình độ, rồi họ chấm dứt cuộc thảo luận với cùng một nét mặt khinh bỉ. Về sau tôi có hỏi người nọ về người kia, cả hai đều nói về nhau một cách nặng lời, chắc chắn là không thể hợp tác với nhau được nữa. Tại sao một giai đoạn lịch sử hai trăm năm về trước lại có thể chia rẽ những con người ngày hôm nay ? Chúng ta đặt quá nhiều đam mê và xúc động vào một lịch sử rất không chính xác.

Thương nhau thương cả đường đi

Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.

Có lẽ nhiều người đã giận các vua Minh Mạng, Tự Đức mù quáng và ngoan cố làm mất nước, ghét Bảo Đại hèn nhát trác táng, rồi ghét luôn cả Gia Long.

Nhưng cách vận dụng lịch sử thiếu lương thiện nhất vẫn thuộc về đảng cộng sản. Họ luôn luôn bóp méo lịch sử cho những mục đích tuyên truyền. Năm 1979 khi vừa cải tạo về tôi nghe đứa cháu gái tôi học lịch sử : "Năm... tên bán nước Gia Long đem quân đánh Phú Xuân". Tôi giật mình, sách sử gì mà ngôn từ hạ cấp như vậy ? Tôi đòi xem cuốn sách và còn thấy cả "tên cướp nước Triệu Đà". Triệu Đà chết đã hơn hai ngàn năm nay cũng bị vạ lây, bởi vì lúc đó hai chế độ cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đang xung đột. Để ý đến cách dạy sử lúc đó, tôi phải phẫn nộ. Hình như Việt Nam chỉ mới thực sự thành lập từ khi có đảng cộng sản.

Những đề tài thi sử thường gặp lúc đó là : "Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập ngày nào, năm nào ?", "Quân Đội Nhân Dân Việt Nam thành lập ngày nào, năm nào ?", "Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước năm nào, ở đâu ?". Và câu hỏi quan trọng nhất : "Ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, trước khi đọc tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ đã nói gì ?" (Câu trả lời là "Bác Hồ đã nói : Tôi nói đồng bào có nghe rõ không ?").

Sự sửa đổi lịch sử được thể hiện trên thực tế. Tại Sài Gòn, đường Nguyễn Hoàng được thay bằng đường Trần Phú, theo tên một cấp lãnh đạo cộng sản đã chết. Chúa Hiền, người có công khai mở miền Nam, nhường tên đường cho Võ Thị Sáu, một nữ cán bộ khủng bố cộng sản. Đường Gia Long dĩ nhiên không còn, nay là đường Lý Tự Trọng. Vô số công thần lập quốc bị xóa tên đường nhường chỗ cho những cán bộ cộng sản không tên không tuổi. Từ ngày 30/04/1975, nước Việt Nam không phải chỉ thay đổi hiện tại và tương lai mà còn thay đổi cả quá khứ.

Lịch sử là gia phả chung của đất nước, là ký ức tập thể của dân tộc, xuyên tạc nó là xúc phạm đến trí tuệ của dân tộc. Chưa nói rằng bôi nhọ một người đã nằm xuống từ lâu rồi cho một mục đích giai đoạn là một việc mà chỉ có những kẻ thấp kém mới làm. Làm như thế đảng cộng sản cũng đã hạ giá chính cái lý tưởng của họ. Nếu lý tưởng của họ trong sáng, dự án chính trị của họ đặc sắc thì họ cần gì phải vận dụng những thủ đoạn tồi tàn như vậy ?

Nhưng một câu hỏi cũng đặt ra cho chúng ta ? Tại sao họ lại có thể làm như thế và một phần nào đó đã thành công ? Đó là vì chúng ta thiếu một sử quan đứng đắn. Lịch sử của ta thiếu sót và thiếu chính xác, đó là một điều đáng tiếc ; nhưng điều còn đáng tiếc hơn nữa là cách tiếp cận lịch sử của chúng ta. Chúng ta không coi lịch sử như một tài sản chung của dân tộc mà mọi người phải trân trọng. Từ bao đời rồi lịch sử vẫn chỉ được coi là một diễn đàn để hạ nhục đối phương và tâng bốc mình lên.

Tập quán đó dần dần ăn rễ vào tâm lý mọi người, trong tiềm thức chúng ta. Chúng ta không coi việc xuyên tạc lịch sử là nghiêm trọng, chúng ta không coi lịch sử là ký ức của những cố gắng dựng nước, trái lại chúng ta coi lịch sử như là sự nối tiếp nhau của những trận đánh tàn phá đất nước. Chúng ta đọc lịch sử một cách sơ sài và dựa vào lịch sử để đưa ra những phê phán hồ đồ nhưng chắc nịch. Các dân tộc khác có thể chia rẽ vì không đồng ý với nhau trên những việc cần làm cho hôm nay và ngày mai ; người Việt Nam lại còn có thể chia rẽ và hận thù nhau vì những chuyện đã hoàn toàn thuộc về quá khứ mà mọi người chỉ biết một cách rất mơ hồ.

****************************

 

Cho những người đã nằm xuống

2-tqan102

Một thảm kịch vẫn còn chia rẽ trầm trọng trong người Việt Nam với nhau là việc cấm đạo. Con số nạn nhân thực sự là bao nhiêu không ai biết. Một số nhà nghiên cứu đưa ra ước lượng trên một trăm ngàn.

Họ đã bị giết không phải vì đã phạm vào một tội ác nào mà chỉ vì đã theo một tín ngưỡng không được triều đình chấp nhận, dù tín ngưỡng ấy không xúi giục họ làm điều gì bạo ngược mà chỉ dạy họ công bình, bác ái. Có khi sự sống và sự chết được quyết định một cách giản dị : ai chịu bước qua thánh giá để chứng tỏ mình đã phủ nhận tín ngưỡng Công Giáo thì được sống, ai không chịu thì bị dẫn thẳng ra pháp trường. Và khoảng một trăm ngàn người Công Giáo đã chịu chết để giữ tín ngưỡng của mình. Họ đã chết một cách hiền lành không chống trả, chết trong lời cầu nguyện.

Việc bách hại người Công Giáo đã là một vết nhơ khó tẩy xóa trong lịch sử Việt Nam. Đó là sự kiện chính nhà nước Việt Nam, chứ không phải một đoàn quân xâm lược nào, đã tàn sát một số lớn những người Việt Nam hoàn toàn vô tội. Thảm kịch còn lớn hơn nữa vì nhà nước đó biết họ vô tội nhưng vẫn giết họ.

Điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay chưa có một chính quyền Việt Nam nào, nhân danh sự liên tục của quốc gia, tổ chức một ngày để xin lỗi những người Công Giáo về sự sai lầm kinh khủng đó.

Phải chăng là vì các chính quyền không ý thức được cuộc sống liên tục của một quốc gia và do đó không cảm thấy có trách nhiệm về những gì những người cầm quyền trước mình đã làm ? Hay vì một hành động long trọng như vậy sẽ không khỏi đặt ra những vấn đề lớn cho một chính quyền tự mình cũng cảm thấy tay có nhúng chàm ? Chính quyền cộng sản hiện nay cũng đưa ra vô số biện pháp chèn ép các tôn giáo. Tài liệu "Quan Điểm và Cuộc Sống" của Nguyễn Hộ, được phổ biến năm 1994, còn tố giác chính đảng cộng sản Việt Nam đã tập trung những người theo đạo Cao Đài tại Củ Chi, tàn sát họ và chôn tập thể. Ông Nguyễn Hộ là tư lệnh phó quân đội cộng sản khu vực Sài Gòn bao gồm Củ Chi hồi năm 1946 lúc xảy ra vụ tàn sát này nên những điều ông nói ra chỉ có thể đúng sự thực.

Một điều cũng rất đáng ngạc nhiên là cho tới nay tập thể người Công Giáo chưa bao giờ chính thức đòi các chính quyền Việt Nam phải giải oan, phục hồi danh dự và nhận lỗi với những nạn nhân. Họ tự thấy quá cô đơn, hay họ thấy không còn ràng buộc lắm với đất nước này nên không thấy cần phải đòi hỏi như vậy ?

Nhưng đó là một việc phải làm và sẽ phải làm một cách rất long trọng. Mọi người đều hiểu như vậy, và vì không muốn làm hay không thể làm, nhiều người đã thoái thác bằng một thái độ cực kỳ tệ hại là tiếp tục bào chữa cho việc cấm đạo, tiếp tục bào chữa cho việc tàn sát người Công Giáo, tiếp tục bôi nhọ ký ức của những người đã chết oan và tiếp tục gây chia rẽ trầm trọng trong dân tộc. Thái độ thiếu lương thiện này lại gây ra một số nạn nhân khác : có những người nhẹ dạ đã thực sự bị lường gạt vì những luận điệu dối trá ấy và thực sự ghét người Công Giáo. Tôi đã từng được nghe nhắc lại không biết bao nhiêu lần là đạo Công Giáo do thực dân Pháp đem đến, trong khi sự thực là đạo Công Giáo đã được các giáo sĩ Tây Ban Nha và Hòa Lan truyền sang nước ta từ đầu thế kỷ 16. Người Pháp chỉ đến vào giữa thế kỷ 19, nghĩa là ba thế kỷ sau. Hơn nữa, tỷ lệ người Việt Nam theo đạo Công Giáo vào cuối thể kỷ 17 trước khi có việc cấm đạo được ước lượng là xấp xỉ 10%. Sự xâm lăng và thống trị của người Pháp làm cho tỷ lệ người Việt Nam theo đạo Công Giáo giảm đi chứ không tăng lên.

Năm 1989, khi vụ Phong Thánh cho 117 thánh tử đạo tại Việt Nam đang sôi nổi, tòa báo Thông Luận chúng tôi nhận được một thư độc giả. Lá thư, bằng một giọng điệu hằn học và miệt thị, kể lại việc quân Pháp đánh thành phố Hải Dương, trong đó chỉ có 15 người lính Pháp và cả trăm người Công Giáo đi theo gánh gạo, vác đạn, v.v... Không một lời về việc bách hại hàng trăm ngàn người Công Giáo vô tội.

Năm 1993, Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận mời cụ Nguyễn Huy Bảo phát biểu trong một cuộc họp về đề tài "Dân Việt Nam có thể có dân chủ được không ?". Đề tài đó không phải là tất cả buổi họp. Mỗi sinh hoạt của Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận gồm ba phần. Phần đầu về kiểm điểm nội dung những số báo Thông Luận từ kỳ họp trước đến nay ; phần thứ hai hoặc thảo luận về một đề tài, hoặc thảo luận về một vấn đề chính trị có tính thời sự ; phần thứ ba là sinh hoạt thân hữu, trong đó các thân hữu tự do trình bày những gì mình đã làm, những gì một thân hữu khác đã làm, những gì mình có ý định làm và tìm người hợp tác. Các thân hữu có xuất bản sách thường đem sách của mình tới giới thiệu và bán trong phần này. Bài thuyết trình của cụ Nguyễn Huy Bảo nằm trong phần thứ hai.

Cụ Bảo có đề cập tới chính sách thủ cựu của các vua quan nhà Nguyễn, trong đó có việc cấm đạo, như là sai lầm đã khiến Việt Nam lỡ mất một cơ hội canh tân với hậu quả tai hại. Chẳng có gì là quá khích và lố lăng trong bài thuyết trình. Nhưng như thế cũng đã đủ để ngay khi cụ vừa dứt lời, một thanh niên vẫn thường hay lui tới câu lạc bộ đùng đùng nổi giận đứng lên bất chấp cả chủ tọa to tiếng mạt sát cụ Bảo bằng những lời lẽ nặng nề, bất chấp cả tinh thần trang trọng của buổi họp, bất chấp cả sự kính trọng tối thiểu mà lễ giáo Việt Nam vẫn dành cho người lớn tuổi (cụ Bảo lúc đó đã 85 tuổi). Những công thức chế tạo sẵn đua nhau tuôn chảy : "Ông là một sản phẩm của thực dân Pháp", "Bài thuyết trình của ông là của một con người đã chối bỏ tổ tiên...", "ông lập lại những luận điệu phản quốc, những lập luận của bọn giáo sĩ cướp nước", v.v...

Tôi làm chủ tọa buổi họp hôm đó và tôi đã phải quả quyết cắt lời anh ta. Anh ta biết tôi và vẫn dành cho tôi một sự kính trọng nào đó, không biết sự kính trọng đó bây giờ còn hay không vì sau đó không thấy anh ấy lui tới câu lạc bộ nữa. Tôi ôn tồn nói với anh ta là không có ý kiến nào cấm nêu ra và không có đề tài nào cấm bàn đến, anh ta đừng sợ sẽ không được phát biểu hết ý kiến của mình, nhưng phải tôn trọng chủ tọa và cũng phải tôn trọng tinh thần thảo luận của câu lạc bộ là mọi trao đổi phải có sự tương kính. Rồi tôi lại trao lời cho anh nói tiếp. Có lẽ tự thấy mình đã quá lời, anh ta xin lỗi vì đã dùng lời lẽ quá nặng nhưng giải thích : "Xin quí vị thông cảm cho, vì dân tộc tôi đã đau khổ quá nhiều vì bọn giáo sĩ tới làm do thám cho thực dân cướp nước, vì những tên Việt gian bỏ đất nước đi theo bọn giáo sĩ. Tôi phải tố cáo bọn giáo sĩ, tố cáo mưu đồ cướp nước của Vatican...". Lời xin lỗi đồng thời cũng là một lời thóa mạ.

Sau buổi họp, ra ngoài gặp tôi, anh ta vẫn còn hậm hực : "Tôi phải vạch mặt tên này (cụ Bảo), hắn là một tên giáo sĩ". "Giáo sĩ" đối với anh ta là một từ ngữ rất nặng, tự nó đã có tính mạt sát rồi.

Tôi không giận anh ta, vì cái tập quán thù ghét thậm tệ người khác dựa trên những sự kiện mà chỉ cần bình tĩnh một chút cũng đủ thấy là rất sai là một đặc tính của người Việt Nam. Tôi vẫn có cảm tình với anh ta. Xuất thân là một người lao động vượt biên sang Pháp, ngoài việc làm ăn anh ta còn dành rất nhiều thì giờ để học hỏi. Anh ta đọc rất nhiều sách và tỏ ra có quan tâm với tương lai đất nước. Càng có cảm tình với anh bao nhiêu tôi càng giận những người trí thức thiếu lương thiện đã đầu độc những tâm hồn nhẹ dạ. Anh ta có kể cho tôi nghe một số sách mà tôi có đọc qua.

Đó là những cuốn sách viết úp úp mở mở, gom lọc tài liệu với dụng ý rõ rệt là tạo cho độc giả một ngờ vực rằng việc truyền bá đạo Công Giáo ở Việt Nam nằm trong âm mưu thôn tính Việt Nam của Pháp. Tôi không thể nhìn thấy một sự xứng đáng nào trong những cố gắng đó. Chúng chỉ tố giác sự thấp kém của các tác giả. Họ hận thù vì thành kiến, rồi chính hận thù làm cho tâm hồn họ bị vẩn đục và trí tuệ họ bị mê muội. Với thời giờ bỏ ra nghiên cứu như vậy, nếu đừng để cho hận thù làm mù quáng đi, họ đã thấy là không làm gì có một âm mưu thôn tính Việt Nam, chưa nói tới một âm mưu với sự đồng lõa giữa Vatican và chính quyền Pháp. Mà tại sao Vatican lại đồng lõa với Pháp mà không đồng lõa với Ý, Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha ? Những ai nghiên cứu phong trào thực dân trong ba thế kỷ 17, 18 và 19 đều biết rằng phong trào này chủ yếu là do các công ty tư nhân đi tìm lợi nhuận. Không làm gì có một ý chí chính trị của các nước châu Âu nói chung và Pháp nói riêng để chiếm đóng các nước châu Á cả (trong một bài sau chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về vấn đề này). Chính quyền Pháp đã bị đẩy tới chỗ phải can thiệp vào Việt Nam dưới áp lực của dân chúng sau khi những đợt bách hại người Công Giáo gây ra xúc động quá lớn.

Tôi càng không hiểu tại sao, trong lúc này và tại hải ngoại, vẫn có những người cố gắng bôi nhọ người Công Giáo bằng những tài liệu xuyên tạc hạ cấp kiểu Tây Dương Gia Tô Bí Lục. Để làm gì ? Đáng buồn nhất là một số người lại còn gắn liền sự phát triển của Phật Giáo với sự bài xích Thiên Chúa Giáo. Phật Giáo Việt Nam không mạnh thêm, mà còn có thể bị hoen ố đi vì những "Phật tử" như thế.

Lý do chính khiến cho vết thương cấm đạo vẫn còn rướm máu cho tới nay là vì chúng ta vẫn chưa tìm được cách đọc lịch sử. Điều đau nhức nhất trong thảm kịch cấm đạo là có những người Việt Nam thực sự yêu nước, thực sự dũng cảm đã tham gia tích cực vào việc tàn sát và nhục mạ những người Công Giáo vô tội. Tôi muốn nói tới những phong trào Văn Thân và Cần Vương. Chắc chắn là trong động cơ thúc đẩy họ có lòng yêu nước, nhưng sự cuồng tín tôn thờ Nho Giáo của họ còn mạnh hơn. Họ đã giết người Công Giáo bởi vì họ thực sự tin rằng người Công Giáo đã bỏ đạo lý của ông cha, đi tôn thờ một tà đạo của người phương Tây mà lúc đó họ gọi là bọn quỷ trắng. Một người Việt Nam đã theo đạo Công Giáo thì không còn là đồng bào của họ nữa, mà chỉ còn là một tâm hồn đã bị quỷ ám cần phải tiêu diệt. Các phong trào Cần Vương và Văn Thân có lẽ đã chỉ giết vài người lính Pháp, nhưng họ đã giết hại hàng chục ngàn linh mục và giáo dân Việt Nam. Họ mù quáng, thiển cẩn, có tội lớn mà không có công nào. Họ chỉ cố gắng bảo vệ một cái quá khứ hủ lậu cần phải vất bỏ đi. Nhưng họ là những người có chí khí, có can đảm. Họ nằm trong truyền thống của đất nước và của ông cha, nên chúng ta chỉ có thể buồn vì sự mù quáng của họ, chứ không thể ghét họ được. Do đó chúng ta bối rối, rồi để có thể tôn vinh họ, chúng ta biện hộ cho việc họ làm, đổ tội cho những người Công Giáo vô tội đã nằm xuống.

Đó cũng là vì ta không biết đọc lịch sử. Đó cũng là vì ta không tìm ra được cách nào để yêu quí tổ tiên của ta. Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Văn Thân và Cần Vương, và cả những người Công Giáo đã nằm xuống ; những anh hùng lập quốc cùng những người đã có tội, những người can đảm cũng như những người hèn nhát, tất cả đều là tổ tiên của ta. Chúng ta không chối bỏ được gia phả. Những người đã có tấm lòng như Văn Thân và Cần Vương, chúng ta vẫn có thể quí mến họ, nhưng khi họ nhảm nhí thì phải nói là họ nhảm nhí, chứ sao lại đổi trắng thay đen ? Đâu phải vì chúng ta quí trọng những người Cần Vương, Văn Thân mà nhất định chúng ta phải quí trọng ngay cả những sai quấy của họ và thù ghét những người Công Giáo mà họ đã thù ghét ? Nhất là họ thù ghét một cách xằng bậy và hành động một cách càn dở ?

Nguyễn Khắc Viện, một trí thức cộng sản đã đóng góp nhiều nghiên cứu có giá trị, đã viết về vụ Phong Thánh như sau : "Dầu sao thì chúng tôi cũng không thể chối bỏ các vị tiền bối Văn Thân của chúng tôi". Ông ta cũng đặt nghi vấn là có sự liên kết của người Công Giáo với quân Pháp. Hai chữ "dầu sao" nói lên bối rối của ông ta. Nhưng ông Nguyễn Khắc Viện làm tôi thất vọng về sự tầm thường của một trí thức như ông. Ai bắt ông phải chối bỏ các vị Cần Vương và Văn Thân ? Tại sao lại phải chối bỏ ? Có phải vì họ đã mù quáng giết người Công Giáo mà chúng ta phải chối bỏ họ không ? Có phải khi ông cha ta làm điều gì sai thì không còn là ông cha ta nữa không ? Nếu lý luận như vậy thì phải coi chừng chúng ta mất gia phả.

Một lần cho tất cả, phải khẳng định sự vô tội của người Công Giáo. Không làm gì có âm mưu nào trong việc truyền giáo tại Việt Nam. Những giáo sĩ tới Việt Nam chỉ để truyền đức tin Ki-Tô mà thôi và các giáo dân đã theo đạo cũng chỉ vì đức tin Ki-Tô. Các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi các vua nhà Nguyễn, thủ phạm của cuộc cấm đạo đẫm máu, ít ra cũng lương thiện hơn những "học giả" biện bạch cho họ. Các dụ cấm đạo chỉ buộc tội người Công Giáo theo một tà đạo mà thôi, không bao giờ buộc thêm cho người Công Giáo một tội nào khác cả. Và lý do chính khiến đạo Công Giáo bị coi là một tà đạo và bị nghiêm cấm là vì trong giáo lý của nó, đức Chúa Trời mà mọi người phải thờ phụng trên hết mọi sự không phải là nhà vua.

Việc cấm đạo đã bắt đầu ở ngoài Bắc dưới chúa Trịnh Tráng để rồi đạt tới cao điểm dưới thời Trịnh Doanh ; ở miền Nam ngay dưới thời Nguyễn Hoàng, rồi tiếp tục qua mọi đời chúa dù không gay gắt bằng. Đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, việc cấm đạo cũng chỉ ngừng lại ở thời Gia Long. Minh Mạng lên ngôi là lập tức cấm đạo, tiếp tục qua Thiệu Trị và đạt cao điểm dưới thời Tự Đức. Sau cùng chính vua Tự Đức cũng nhận ra sự sai lầm của mình và ra một dụ bỏ việc cấm đạo, kêu gọi Văn Thân thôi bách hại người Công Giáo với lời lẽ trầm thống, chứng tỏ một sự hối hận rất chân thành.

Có người viện dẫn một số tài liệu của Bộ Hải Quân Pháp để chứng minh có sự toa rập giữa các giáo sĩ và chính quyền Pháp. Nhưng các giáo sĩ đã truyền giáo trong điều kiện khó khăn tất nhiên phải có sự giao dịch với các thế lực có ảnh hưởng tới Việt Nam lúc đó. Những người bị bách hại tất nhiên phải tìm chỗ dựa. Điều này cũng tự nhiên như ngày nay chúng ta vận động các chính phủ dân chủ và các tổ chức nhân đạo bênh vực cho những người dân chủ gặp khó khăn tại Việt Nam. Mặt khác, đừng quên là các giáo sĩ cũng đã làm nhiều khuyến cáo và đề nghị với chính các vua nhà Nguyễn để hy vọng giúp Việt Nam canh tân và mạnh lên, chỉ tiếc là họ đã không được nghe vì vua quan nhà Nguyễn quá thủ cựu.

Nhiều người Công Giáo Việt Nam, giáo sĩ cũng như giáo dân, mặc dầu bị ruồng rẫy, tù tội, hạ nhục vẫn cố hết sức tìm cách giúp các vua nhà Nguyễn cải tổ để đưa đất nước đi lên dù chỉ gặp sự dửng dưng của vua quan nhà Nguyễn. Nếu những bài điều trần của Nguyễn Trường Tộ lọt được tai vua quan nhà Nguyễn thì đất nước chúng ta đã không như ngày nay.

Điều đáng ngạc nhiên chính là sự nhẫn nại của người Công Giáo. Mặc dầu bị bách hại đẫm máu họ đã không vùng lên chống lại chính quyền, trong khi đó là một phản ứng tự vệ rất bình thường. Nhà Nguyễn phá kỷ lục về giặc giã : các tay anh chị nổi lên khắp nơi tại miền Bắc, có khi để chống sưu cao thuế nặng, có khi để đòi lập lại nhà Lê, có khi chỉ vì lý do giản dị là quan quân quá yếu. Người Công Giáo ở miền Bắc lúc đó rất đông đảo chiếm hơn 10% dân số, lại rất tập trung và rất gắn bó. Nếu họ nổi loạn, nhờ người Pháp huấn luyện và giúp khí giới, họ đủ khả năng đánh bại được quân nhà Nguyễn lúc đó rất suy yếu về cả vật chất lẫn tinh thần. Một viên thiếu úy với bảy tên lính Pháp đã có thể nghênh ngang vào tính Ninh Bình, bắt tất cả tuần phủ, án sát trói lại, tịch thu mấy chục khẩu đại bác, bắt quân Việt Nam hạ khí giới quì hai bên đường. Người Công Giáo, nếu muốn, thừa sức đánh bại thứ quân đội vô dụng đó. Nhưng họ vẫn chịu đựng thà chết vì đức tin chứ không nổi loạn. Ở vào thời buổi đó, đâu đâu cũng có nổi loạn, nhưng những người Công Giáo, có lý do nhất và có khả năng nhất để nổi loạn, lại không nổi loạn.

Cái gì đã khiến người Việt Nam theo đạo Công Giáo đông đảo như vậy ? Đó chính là thông điệp Ki-Tô. Vào thời buổi nhiễu nhương, con người chà đạp và chém giết lẫn nhau, còn gì an ủi hơn là được nghe một thông điệp hòa bình, bác ái, là được nghe những lời nhắn nhủ êai thương xót người ấy là phúc thật, ai chịu khốn khổ vì lẽ phải ấy là phúc thậtê ? Đạo Công Giáo đã được sự hưởng ứng mạnh mẽ của những người cùng khổ. Cũng như Phật Giáo, và khác với Nho Giáo, đạo Công Giáo đã đến với dân tộc Việt Nam không phải qua giai cấp thống trị, mà qua giai cấp bị chà đạp. Dụ cấm đạo của vua Minh Mạng nhận định các giáo sĩ đã lôi kéo bọn "bần dân mạt hạng".

Người Công Giáo nhẫn nại và chịu đựng nhưng thừa sự dũng cảm. Họ sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đức tin của họ. Sự dũng cảm của họ nổi bật vào một lúc mà sự nhút nhát là tâm lý chế ngự. Quan quân cứ nghe vài tiếng súng là vất gươm súng mà chạy. Chính những người Công Giáo tử đạo đã cho tôi niềm tin vững chắc vào dân tộc Việt Nam : nếu có một lý tưởng trong sáng, người Việt Nam có thể rất dũng cảm và chấp nhận những hy sinh rất to lớn.

Sau này, một chính quyền sáng suốt của đất nước Việt Nam dân chủ sẽ phải đề ra một ngày lễ phục hồi danh dự cho những người Công Giáo đã tử đạo. Đó là điều chúng ta cần làm để hòa giải cộng đồng Công Giáo với cộng đồng dân tộc, để hàn gắn một vết thương rất đau nhức, một trang sử bi đát của dân tộc ta.

Chúng ta cũng sẽ phải có những ngày tưởng niệm cho những người đã chết oan trong những cuộc chiến vừa qua, những nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất, những người đã chết trong chiến dịch Phượng Hoàng, hay đã bị bắt cóc ám sát, những người đã bỏ mình trên biển cả trong khi chạy trốn chế độ cộng sản.

Chúng ta cần khép lại những vết thương đau, những trang sử bi đát của dân tộc, để có thể nhìn lại nhau là anh em ruột thịt và cùng bắt tay nhau xây một tương lai Việt Nam chung.

******************************

Chấp nhất kỷ chi kiến

 

2-tqan103

Giai đoạn Pháp đánh chiếm Việt Nam là một giai đoạn lịch sử có tài liệu khá đầy đủ, nhưng lại là giai đoạn khó học nhất. Hồi còn là học sinh tôi rất chán học giai đoạn này, dù khá mê sử. Lý do là vì chán nản quá. Chỉ thấy tháng này bị thua to ở chỗ này, tháng tới bị đại bại ở chỗ khác. Năm này mất tỉnh này, năm sau mất tỉnh khác. Và thua một cách rất nhục nhã. Năm 1772, Francis Garnier đem 170 lính tới Hà Nội, yết bảng bãi bỏ luật lệ nước ta, ban hành luật của riêng mình, các quan quân cũng không dám phản ứng. Đã thế cũng chưa yên, Garnier còn bắt Nguyễn Tri Phương đầu hàng vô điều kiện, phải tự đến nộp mình. Nguyễn Tri Phương không chịu, Garnier đánh thành, chỉ trong chớp nhoáng là xong, mấy ngàn quân Việt vất vũ khí mà chạy. Các tướng Việt, người chết, người bị bắt sống. Kế đó một thiếu úy Pháp đem bảy người lính tới chiếm Ninh Bình, quan quân đem lọng ra đón xin hàng, các quan bị bắt trói, quân đội phải quì xuống hạ khí giới. Chỉ lúc đã trưởng thành tôi mới có đủ kiên nhẫn và chịu đựng để đọc lịch sử về giai đoạn này. Bây giờ đã ngoài năm mươi tuổi, đã đọc đi đọc lại nhiều lần, mà mỗi lần đọc vẫn thấy nhục nhã quá chừng.

Tình hình nguy ngập như vậy, nhưng các vua quan nhà Nguyễn hoàn toàn không ý thức được. Họ hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài cũng như về tình hình bi đát của đất nước. Bất lực và thờ ơ trước cuộc xâm lăng từ bên ngoài bao nhiêu họ tỏ ra quan tâm và hiệu lực bấy nhiêu trong việc cấm đạo. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức rất ít khi ra khỏi thành phố Huế, trừ một vài lần ngự giá đi săn.

Quân Pháp bắt đầu thực sự đánh chiếm Việt Nam từ năm 1858. Họ đánh chiếm Đà Nẵng, sau đó vào chiếm miền Nam, rồi ra đánh Bắc Việt, áp đặt nền đô hộ vào năm 1883.

Cuộc chinh phục đã kéo dài 25 năm. Thời gian đó tương đối dài, không phải vì do sức kháng cự mạnh mẽ của Việt Nam mà vì sự do dự của nước Pháp. Nếu quả thực có quyết tâm muốn chiếm Việt Nam, có lẽ người Pháp không cần quá một năm. Sức kháng cự của quân Việt Nam không đáng kể.

Cần đính chính một quan điểm rất phổ biến nhưng rất sai là nước Pháp, cũng như mọi đế quốc thực dân châu Âu trong thế kỷ 19, có âm mưu khuất phục và chiếm đóng Việt Nam. Sở dĩ chúng ta dễ nghĩ hoặc tin như vậy là vì chúng ta quen với lịch sử châu Á trong đó mọi chinh phục đều do các nhà nước khởi xướng và thực hiện. Nhưng đó không phải là tình trạng của châu Âu. Các nước châu Âu quả nhiên đã tranh giành nhau chiếm đóng châu Mỹ vì họ coi đó là phần đất vô chủ mạnh ai nấy chiếm. Nhưng chính sách của họ đối với châu Á lại khác. Việc chinh phục châu Á chủ yếu do các công ty tư phát động. Các công ty này chỉ có đủ lực lượng để chiếm những phần đất chưa có chủ quyền, như tại Ấn Độ, Mã Lai, Indonesia. Việc Tây Ban Nha chiếm Phi-líp-pin là một ngoại lệ, nhưng Phi-líp-pin là một quần đảo vô chủ vào lúc đó. Các chính quyền châu Âu không có chính sách khuất phục và chiếm đóng các nước đã có tổ chức nhà nước. Cùng lắm họ chỉ can thiệp để bảo vệ các hoạt động thương mại hay truyền giáo, và ngay trong trường hợp này họ cũng rất thận trọng. Họ thường liên kết với nhau chứ không ra tay một mình. Nói chung họ nhắm tìm thị trường và thường cố thỏa hiệp để tránh chiến tranh và thiệt hại. Việc Pháp đánh chiếm Việt Nam là một ngoại lệ lớn mà nguyên nhân là chính quyền nhà Nguyễn vừa quá ngoan cố lại vừa quá yếu.

Lý do chính khiến người Pháp đánh chiếm Việt Nam là việc cấm đạo, lý do phụ là Pháp muốn bành trướng thương mại tại Viễn Đông. Cũng vì lý do chính khiến người Pháp chiếm Việt Nam là do chính sách cấm đạo mà cho tới nay nhiều người ghét đạo Công Giáo, vẫn đổ tội cho đạo Công Giáo đã làm Việt Nam mất nước. Đó là một luận điệu rất ngây ngô. Cấm đạo là một chính sách xằng bậy, tàn sát dã man người Công Giáo là một tội ác đối với loài người. Nhà Nguyễn làm bậy để mất nước là lỗi tại nhà Nguyễn, sao lại buộc tội người Công Giáo, chỉ là nạn nhân mà thôi ? Nếu chúng ta không thích người hàng xóm, xách súng sang giết họ rồi bị đi tù thì có thể đổ lỗi rằng vì người hàng xóm mà mình bị đi tù được không ?

Nói rằng lý do chính là cấm đạo cũng chưa đúng. Phải nói rằng lý do chính là sự ngoan cố quá đáng và sự tàn nhẫn quá đáng trong việc cấm đạo thì đúng hơn.

Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820, thì năm 1825 ra dụ cấm đạo. Lúc này nước Pháp hoàn toàn vắng mặt tại Việt Nam và còn đang khốn đốn vì xung đột nội bộ và những tàn phá do những cuộc chiến thảm khốc của Napoléon I để lại. Lý do cấm đạo trong dụ là "đạo Phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục". Cùng năm ấy, một dụ cấm đạo khác gay gắt hơn nữa được ban hành và kèm thêm biện pháp treo giải thưởng cho những ai bắt được giáo sĩ đem nộp. Chính biện pháp này đã gây ra một phong trào bắt đạo và giết đạo tại khắp nơi. Chia rẽ lương giáo bắt đầu trầm trọng từ đó. Hận thù trong dân tộc tăng cao. Bắt đạo và giết đạo trở thành một phong trào dân gian, cho nên sau các hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), mặc dù triều đình chấp nhận không cấm đạo nữa nhưng các phong trào Văn Thân vẫn đi đánh phá các làng Công Giáo. Vua Minh Mạng tỏ ra rất ngây thơ khi sai một phái bộ sang Pháp yêu cầu Pháp ngừng việc truyền giáo tại Việt Nam. Làm sao chính quyền Pháp có thể thỏa mãn yêu cầu vô lý này ?

Việc cấm đạo tiếp tục qua thời Thiệu Trị rồi trở nên đặc biệt gay gắt dưới thời Tự Đức. Vua Tự Đức vừa lên ngôi năm 1848 là ra ngay một dụ cấm đạo, và năm 1851 lại có thêm một dụ cấm đạo khác khắc nghiệt hơn nữa. Mãi tới năm 1862, sau khi phải ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, triều đình nhà Nguyễn mới chính thức công nhận quyền giảng đạo và theo đạo. Tuy triều đình chấp nhận ngoài mặt như vậy nhưng việc cấm đạo vẫn tiếp tục trên thực tế do các nhóm Văn Thân chủ trương. Sau hiệp ước Giáp Tuất, vua Tự Đức phải ra dụ truyền cho đảng Văn Thân không được giết hại giáo dân nữa, nhưng họ vẫn tiếp tục, bất chấp cả lệnh vua. Việc cấm đạo đã tạo ra một cuộc nội chiến giữa các toán quân Văn Thân đánh phá các làng đạo và dân Công Giáo cố thủ để tự vệ.

Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo năm 1825 đến năm 1858, khi Pháp bắt đầu đánh Việt Nam, 33 năm đã trôi qua. Trong thời gian ấy người Pháp, và cả người Tây Ban Nha, tuy rất bất bình về việc cấm đạo vẫn còn do dự không muốn gây chiến với Việt Nam. Các tài liệu của người Pháp về giai đoạn này khá đầy đủ và cho thấy chính phủ Pháp đã chịu rất nhiều áp lực của dư luận Pháp, phẫn nộ trước việc cấm đạo và đòi can thiệp.

Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã đem một chiến thuyền tới làm áp lực gay gắt đòi bỏ dụ cấm đạo, nhưng rồi lại đi dù không kết quả.

Tuy vậy, năm 1856, chính phủ Pháp chỉ cử chiến hạm Catinat đến đòi bỏ dụ cấm đạo. Vua quan ta không chịu tiếp. Tàu Catinat bắn phá Đà Nẵng cảnh cáo rồi bỏ đi. Mấy tháng sau, họ lại quay lại xin bỏ cấm đạo, quan quân nhà Nguyễn đã không coi sự cảnh cáo trước đây là nghiêm trọng còn lên mặt đòi Pháp phải xin lỗi. Họ xin lỗi, nhà Nguyễn vẫn cứ tiếp tục cấm đạo. Vào lúc đó, người Pháp nhận thấy rằng không còn giải pháp nào khác : hoặc họ phải để nhà Nguyễn tiếp tục tàn sát người Công Giáo trước sự công phẫn ngày càng lên cao của dư luận quần chúng Pháp, hoặc họ phải dùng võ lực thực sự. Việc dùng võ lực vừa dễ vì nhà Nguyễn tuy hung bạo nhưng lại không có lực lượng nào đáng kể lại vừa phù hợp với quyền lợi thương mại của Pháp nên cuối cùng Pháp đi đến quyết định đánh Việt Nam.

Năm 1858, Pháp liên kết với Tây Ban Nha đem chiến thuyền bắn phá và đổ bộ đánh chiếm Đà Nẵng rồi sau đó quay vào Nam đánh chiếm Nam Kỳ. Năm 1860, tình hình đã nguy ngập lắm, Pháp đang đánh Nam Kỳ mà vua Tự Đức vẫn chỉ lo cấm đạo. Lại một dụ khác. Lần này nhà Nguyễn ra lệnh phá tất cả các làng Công Giáo, bắt giáo dân thích hai chữ "tà đạo" vào mặt rồi phân phối đi các làng khác. Cứ năm người không có đạo được cử canh giữ một người có đạo. Thế rồi năm 1862 triều đình phải ký hiệp ước nhường đứt ba tỉnh miền Đông và đảo Côn Lôn cho Pháp, phải bỏ dụ cấm đạo và bồi thường chiến tranh nặng nề cho Pháp. Chẳng bao lâu sau, Pháp lấy nốt ba tỉnh miền Tây Nam Phần. Sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn đã làm mất đi miền trù phú nhất của đất nước.

Dù đã bị thiệt hại nặng nề, vua quan nhà Nguyễn vẫn chưa sáng mắt ra để nắm lấy một hy vọng cuối cùng. Nước Pháp, sau khi chiếm được Nam Kỳ, đã thỏa mãn và có ý ổn định tình thế ở đó. Năm 1872, có vụ Francis Garnier ra Bắc lộng hành rồi bị quân Cờ Đen giết chết, nhưng việc đó không nằm trong chính sách can thiệp của chính phủ Pháp. Nước Pháp muốn hòa nên đã ký với triều Nguyễn hiệp ước Giáp Tuất (1874), với những điều khoản tương đối có lợi cho Việt Nam, trong đó có cả những điều khoản giúp cho Việt Nam 5 chiến hạm với đầy đủ súng đạn và 1.000 khẩu súng. Pháp còn cam kết gởi huấn luyện viên giúp Việt Nam đào tạo quân đội. Chỉ cần sáng suốt một chút thôi triều Nguyễn đã phải hiểu rằng mình hoàn toàn không đủ sức để chống lại với Pháp, chọn lựa duy nhất là khai dụng triệt để hiệp ước Giáp Tuất để gia tăng sức mạnh, khi nào có sức mạnh rồi mọi việc sẽ trở thành dễ dàng, kể cả việc lấy lại Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nguyễn lại phá hoại hiệp ước Giáp Tuất, kiếm đủ cách để làm khó dễ. Đến sứ thần Pháp xin yết kiến vua mấy lần cũng không cho. Để rồi đi đến đâu ? Chín năm sau (1883) phải ký hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ, và từ đó ngay việc lên ngôi của vua cũng phải được Pháp cho phép và tấn phong. Nước ta hoàn toàn mất chủ quyền. Ngôi vua của nhà Nguyễn chỉ còn là hư vị.

Ai đọc những trang sử này mà không thấy giận cho sự mù quáng kinh khủng của vua quan nhà Nguyễn ? Vua quan chỉ biết ngâm vịnh, kiến thức không ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nghiêu Thuấn, Xuân Thu, Tam Quốc. Sử gia Trần Trọng Kim than : "Việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại rồi cứ nghễu nghện xưng mình là hơn người, cho thiên hạ là dã man". Biết bao nhiêu người đã dâng sớ canh tân mà không được nghe, thấy nước mất chắc chắn mà không làm gì được. Ngày nay nhớ lại quãng thời gian đó ta cũng không khỏi bùi ngùi cho những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều, Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh, Phan Liêm, Bùi Viện. Có lẽ họ chết không nhắm mùắt được.

Nhưng có phải quả thực là vua quan nhà Nguyễn ngu dốt, hèn nhát như nhiều người vẫn phê phán hay không ? Điều đáng buồn là không, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức không phải là những hôn quân, bạo chúa. Trừ những sai lầm trong cách giao tiếp với người Phương Tây, những biện pháp khác của họ không phải là dở. Mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn, văn học của ta chưa bao giờ thịnh bằng thời Nguyễn. Ở vào một thời đại khác, các vị vua ấy, nhất là vua Tự Đức, có thể đã là những bậc anh quân.

Nhà Nguyễn cũng không thiếu những bầy tôi có tài lương đống : Nguyễn Tri Phương, Hoàng Kế Viêm, Trương Đăng Quế, Nguyễn Đình Giản, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Trần Đình Túc, v.v... Ở một thời đại khác chắc các vị này đã để tên trong lịch sử như những con người lỗi lạc tận trung báo quốc.

Điều đã khiến các vua nhà Nguyễn và các đại thần thất bại là họ không ý thức được rằng thế giới đã thay đổi và họ đang sống trong một khúc quanh lịch sử lớn. Những cố gắng và hy sinh của họ đều đã vô ích chỉ vì không còn hợp thời nữa. Lên án họ là mù quáng, thiển cận thì cũng đúng thôi, nhưng họ có phải là những con người thiển cận một cách bất thường hay không ?

Tôi nghĩ là không. Thiển cận và thiếu giác quan về chuyển hóa và thời đại không phải là của riêng họ, mà là một hằng số của chính trị Việt Nam. Chúng ta không có tư tưởng, và càng không có tư tưởng chính trị. Và hình như chúng ta vẫn chưa thức tỉnh để nhận ra điều đó.

Các vua quan nhà Nguyễn quả là không hiểu gì về thời thế. Sức mạnh áp đảo của người Pháp đã quá rõ rệt mà họ cứ ngoan cố chống lại và đôi khi còn khiêu khích. Đi từ thất bại này đến thất bại khác, phải chấp nhận ngày hôm nay những nhượng bộ bốn lần lớn hơn những gì mà đối phương đòi hỏi ngày hôm qua mà họ vẫn không mở mắt. Nước Tàu đã khốn khổ, bị đánh tả tơi mà triều đình Nguyễn vẫn tôn sùng và tin là có thể nhờ cậy được. Giặc ngoài đáng sợ như vậy mà cứ quay về đàn áp những người dân Công Giáo bên trong. Sự thiển cận của họ thật là kinh khủng, nhưng nó cũng khó so sánh được với sự thiển cận của các lực lượng chống cộng hải ngoại sau 1975.

Rõ ràng là sau năm 1975 không thể có giải pháp võ trang nữa nhưng tổ chức nào cũng chủ chiến, cũng hô hào bạo lực. Sự mê muội của triều đình Nguyễn khi trông đợi vào nước Trung Hoa đã suy kiệt có lẽ không lớn bằng sự mê muội của chủ trương tái lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã chết hẳn rồi, và đã chết một cách thực hổ nhục. Thái độ châu chấu đá voi của triều Nguyễn chống Pháp tới cùng xét ra không lố bịch bằng thái độ của những người đã thảm bại và thua chạy nhưng vẫn nhất định đòi những người cộng sản phải "tỉnh ngộ quay về với chính nghĩa quốc gia". Vua quan nhà Nguyễn tuy thủ cựu nhưng cũng không ngược đãi những người chủ trương canh tân bằng các lực lượng chống cộng đối xử với những người chủ trương dân chủ đa nguyên, hòa giải và hòa hợp dân tộc, bất bạo động. Nếu vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc đó là canh tân, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tránh đụng độ với người Pháp để tập trung mọi cố gắng mà tiến lên và mạnh lên, thì vấn đề của đối lập Việt Nam sau 1975 là phải tận dụng sự thức tỉnh của những người cộng sản tiến bộ để hòa giải với họ và cùng họ hình thành một kết hợp dân chủ mới. Cùng một vấn đề và cũng cùng một thái độ cố chấp. Ngày nay có hơn gì ngày xưa đâu. Chỉ khùác ở chỗ các vua quan nhà Nguyễn còn có thể hưởng sự giảm khinh vì họ không được nhìn thấy thế giới bên ngoài.

Chính quyền cộng sản có sáng suốt gì hơn vua quan nhà Nguyễn không ? Ngày hôm nay vấn đề là bảo vệ chủ quyền dân tộc, đoàn kết dân tộc để phát triển đất nước. Nhưng họ đã làm gì ? Họ đã cố bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin như nhà Nguyễn ngày xưa cố bám vào Nho Giáo. Họ quỵ luỵ trước một Trung Quốc đang bối rối như các vua nhà Nguyễn quỵ lụy với Thiên Triều đang khốn khổ ngày xưa. Họ bách hại những người dân chủ như các vua Nguyễn ngày xưa cấm đạo. Và họ cũng cấm đạo thực sự. Họ đàn áp Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Họ có khác gì nhà Nguyễn ? Có khác chăng là ở chỗ các vua Nguyễn không có đủ phương tiện, không có báo chí, radio, truyền hình, không có các tòa đại sứ ở khắp nơi để thấy được sự thay đổi của thế giới như họ.

Nhưng sự thiển cận không phải là tất cả. Còn một lý do khác khó chấp nhận hơn. Nếu thực sự yêu nước, nếu suy nghĩ một cách lương thiện về quyền lợi của đất nước và chỉ quan tâm tới quyền lợi của đất nước mà thôi, thì đường đi về tương lai không có gì khó, tất cả mọi vấn đề trở thành sáng sủa. Nhưng một lần nữa, phải nhìn nhận rằng đại đa số chúng ta bất chấp đất nước. Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta yêu nước thì thực ra chúng ta đang yêu một cái gì khác. Chúng ta yêu chỗ đứng, quyền lợi hay lòng tự ái của chúng ta. Chúng ta yêu các thành kiến của chúng ta mà chúng ta cho là ý kiến, chúng ta yêu sự cố chấp của chúng ta mà chúng ta lầm coi là sự kiên trì. Chúng ta yêu chính mình và yêu sự mê muội của mình.

"Chấp nhất kỷ chi kiến giá họa ư tha nhân", chỉ biết ý kiến mình mà thôi, lúc nào cũng sẵn sàng buộc tội người khác. Câu viết lạc lõng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo vô tình nói lên nhận định của ông về con người Việt Nam. Gần sáu thế kỷ đã trôi qua rồi mà sao Nguyễn Trãi vẫn còn đương thời đến thế !

****************************

Dắt dìu nhau vào đến Cà Mau

 

2-tqan104

      Tấm áo nâu,

      Dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu,

      Dắt dìu nhau vào tới Cà Mau.

      Phạm Duy [Tình Ca]

Đại đa số người Việt Nam nhìn nhận ông cha mình đã tiêu diệt Chiêm Thành và lấn chiếm Cam-bốt. Sự nhìn nhận này đi đôi với một mặc cảm phạm tội. Tôi đã nghe nhiều người than : "Ông cha mình kể ra cũng ác thực !". Tội ác của Việt Nam đối với Chiêm Thành được coi là ghê gớm gấp nhiều lần đối với Cam-bốt vì Cam-bốt chỉ bị mất đất đai trong khi Chiêm Thành bị tuyệt diệt. Tháng 4 năm 1975 một đồng nghiệp, bàn về cuộc thảm bại của Việt Nam Cộng Hòa và cuộc tháo chạy đẫm máu của dân và quân miền Nam trên quốc lộ 7B tại miền Trung, nói với tôi : "Đó là vua Chàm báo thù người Việt". Vua Chàm theo ngôn ngữ của anh là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bởi vì ông Thiệu người Phan Rang, trung tâm chính trị của nước Chiêm Thành trước đây, nơi mà hiện nay vẫn còn Tháp Chàm, một công trình lớn của người Chiêm Thành.

Năm 1989, tôi có được mời tham dự một cuộc hội thảo quốc tế tại Paris về vấn đề Cam-bốt. Theo chương trình nghị sự thì mục đích của cuộc hội thảo là vấn đề Việt Nam chiếm đóng Cam-bốt và những giải pháp cho cuộc khủng hoảng này. Tuy vậy cuộc hội thảo đã mau chóng biến thành một diễn đàn chống Việt Nam, chống nước Việt Nam và người Việt Nam, chứ không phải chỉ chống chính quyền cộng sản Việt Nam. Việt Nam được mô tả như một dân tộc hiếu chiến và bành trướng, đã tàn sát dân tộc Chiêm Thành, chiếm đất đai của Cam-bốt và hiện đang âm mưu tiêu diệt Cam-bốt và Lào. Hiện diện trong hội nghị có đại diện các tổ chức đối lập Cam-bốt và nhiều chuyên gia Pháp về Đông Dương. Lúc đó cuộc chiếm đóng Cam-bốt của quân Việt Nam đã kéo dài hơn mười năm. Các tổ chức đối lập Cam-bốt dĩ nhiên giành nhau chức vô địch chống Việt Nam, nhưng các chuyên gia Pháp về Đông Dương cũng không nói gì khác, họ đều cảnh tỉnh người Cam-bốt hãy đoàn kết chống lại nguy cơ thôn tính của Việt Nam mà họ coi là thường trực. Mặc dầu ngày hôm đó tôi được mời thuyết trình với tư cách một chuyên viên kinh tế và đề tài của tôi là nhận định về những khả năng phát triển của Cam-bốt, tôi đã cảm thấy phải lên tiếng bác bỏ những ngộ nhận quá lớn về lịch sử cuộc nam tiến của người Việt. Tôi đưa ra một số sự kiện và yêu cầu các chuyên gia về Đông Dương có mặt trong phòng hội đóng góp. Dĩ nhiên buổi hội thảo đã trở nên rất gay go, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là các chuyên gia khẳng định bản tính xâm lược của người Việt đã chỉ có một hiểu biết rất sơ sài về cuộc nam tiến của dân tộc ta. Bản tính xâm lược hiếu chiến của người Việt chỉ là một thành kiến chứ không phải một nhận định nghiêm chỉnh dựa trên tư liệu. Điều đáng nói là thành kiến này đa số người Việt Nam cũng chia sẻ, vì chúng ta đã chịu quá nhiều ảnh hưởng của những luận điệu được lập lại nhiều lần trong suốt thời Pháp thuộc.

Chúng ta cần nhận thức rõ cuộc nam tiến của dân tộc ta vì hai lý do : một là vì đó là sự kiện rất vĩ đại đối với chúng ta, hơn một nửa lãnh thổ của ta đã có được nhờ cuộc nam tiến đó ; hai là vì chúng ta cần chấm dứt một mặc cảm tội lỗi không đúng.

Trước hết hãy nhìn lại trường hợp của nước Chiêm Thành.

Sự đụng độ giữa nước Việt Nam cổ xưa (với các quốc hiệu Văn Lang, Giao Châu, rồi Đại Việt) với Chiêm Thành đã diễn ra ngay từ lúc Việt Nam chưa thực sự thành một quốc gia độc lập. Đó là sự đụng độ giữa hai nền văn minh. Một bên là văn minh Nho Giáo và nông nghiệp dưới ảnh hưởng Trung Hoa, một bên là văn minh Ấn Độ dựa trên hai giai cấp tăng sĩ và chiến binh. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, hình như lúc nào cũng có chiến tranh giữa quận Giao Chỉ thuộc Trung Quốc và nước Chiêm Thành. Từ khi Việt Nam được độc lập, trong các triều đại kế tiếp nhau, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, chiến tranh Việt - Chiêm là một hằng số. Lịch sử các triều đại Việt Nam thường chỉ ghi vắn tắt kiểu : "Năm..., quân Chiêm Thành sang quấy phá, vua sai... đi tiễu trừ, quân ta chiếm được...". Cũng có đôi khi sử ta ghi lý do là vì Chiêm Thành bỏ lệ triều cống.

Nguyên nhân của những cuộc chiến liên tiếp gần hai ngàn năm này do đâu ? Nếu dựa vào lịch sử Việt Nam thì thường thường là do Chiêm Thành gây hấn trước. Mặc dầu vào các thời đại đó đánh Chiêm Thành là một lẽ thường không cần gì phải biện bạch, và do đó các sử gia không có lý do gì để xuyên tạc nguyên do, nhưng không thể lấy sử Việt Nam làm sự thực tuyệt đối. Nền văn minh Ấn Độ hồi đó lấy thần linh và chiến tranh làm nền tảng, nước Chiêm Thành coi chiến tranh là lý tưởng nên có thể họ gây chiến thường hơn, nhưng đó chỉ là suy luận. Xung đột Đại Việt - Chiêm Thành ngày nay đã thuộc hẳn vào quá khứ, cả Đại Việt lẫn Chiêm Thành đều đã là những nhân tố lịch sử cấu tạo ra nước Việt Nam ngày nay. Người Việt Nam ngày nay không có lý do gì để bênh bên này hay bên kia cả. Tất cả đều đã thuộc vào gia phả của chúng ta. Nhận định chỉ có mục đích để hiểu.

Vấn đề là qua cả ngàn năm đụng độ, Chiêm Thành và Đại Việt đã trở thành hai quốc gia không thể sống chung, chỉ một quốc gia có thể tồn tại và nước nào yếu sẽ bị tiêu diệt. Đó đã có thể là số phận của Đại Việt, nhưng đó đã là số phận của Chiêm Thành.

Cái lý "một mất một còn" có lẽ mọi người đều hiểu. Nhưng điều nghiêm trọng là nhiều người, kể cả người Việt Nam, cho rằng người Việt có tội đã tàn sát và diệt chủng người Chiêm Thành. Điều này trước hết rất vô lý. Giả thử Đại Việt có tiêu diệt Chiêm Thành thực đi nữa thì một người Việt Nam hôm nay làm sao biết mình có bao nhiêu phần trăm gốc Việt, bao nhiêu phần trăm gốc Chàm, hay bao nhiêu phần trăm gốc Hoa, gốc Miên, v.v... để biết mình là tội phạm hay là nạn nhân. Điều này cũng hoàn toàn không được lịch sử chứng minh. Lịch sử ta có ghi lại nhiều cuộc tàn sát dã man trong nhiều lần chinh chiến qua nhiều thời đại vào lúc nước Chiêm Thành hãy còn nhưng không hề ghi chép một cuộc tàn sát sau cùng nào đưa đến sự diệt chủng của người Chiêm Thành. Vả lại trong thế kỷ chót của nước Chiêm Thành, thế kỷ 17, đã có rất nhiều thương nhân và giáo sĩ nước ngoài có mặt tại Đàng Trong nhưng không ai ghi lại một cuộc tàn sát nào cả.

Theo lý luận thì cũng không thể có việc diệt chủng. Cuộc chinh phục Chiêm Thành trở thành dồn dập trong thế kỷ chót của nước này, nghĩa là thế kỷ 17, dưới thời các chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn đem được bao nhiêu dân từ ngoài Bắc vào khai phá Đàng Trong ? Chắc chắn là không nhiều lắm, bởi vì ở thời đại ấy một con số khoảng một trăm ngàn người nhất định đã phải tạo ra một cuộc di dân rất qui mô được ghi chép lại. Nhưng lịch sử lại không hề nói tới một cuộc di dân lớn nào. Và từ thế kỷ thứ 17 trở đi, hai họ Trịnh - Nguyễn giao tranh với nhau, việc di dân vào Nam chắc chắn là rất khó khăn, nếu có những người tiếp tục vào Nam thì cũng chỉ là những chuyến đi lẻ tẻ. Dù ước lượng một cách rộng rãi tới đâu đi nữa thì người Việt từ Bắc vào khai phá đất Chiêm Thành từ thế kỷ 17 về sau cũng không thể quá một trăm ngàn người. Thực ra cuộc di dân đã bắt đầu từ rất lâu trước Nguyễn Hoàng. Dưới triều Lê Thánh Tông, người Việt đã vào tới Nha Trang. Nhưng đây chỉ là những đợt di dân rất lẻ tẻ. Nếu chỉ dựa vào người Việt di cư hoặc đã định cư ở Đàng Trong thì các chúa Nguyễn nhất định không đương đầu được với họ Trịnh. Chắc chắn phải có sự hòa nhập giữa người Việt di dân và người Chàm tại chỗ. Sự hòa nhập này đã diễn ra một cách liên tục và âm thầm từ thế kỷ 11, nó đã chỉ tăng vận tốc dưới thời các chúa và vua họ Nguyễn. Một sự kiện đã được ghi nhận trong lịch sử là vua Minh Mạng đã từng bắt tất cả người Chàm phải mặc quần áo như người Việt và lấy họ Việt, nhất là họ Nguyễn. Biện pháp thô bạo này ít nhất chứng tỏ rằng không có sự tàn sát mà chỉ có sự hòa nhập, dù là hòa nhập bằng đồng hóa. Sự hòa nhập này cũng có thể nhận thấy ở ngay giọng nói của người miền Trung.

Sự hòa nhập liên tục trên một qui mô lớn đã khiến Đàng Trong của các chúa Nguyễn có đủ người để vừa khai khẩn miền Trung vừa khai phá miền Nam.

Trong sự hòa nhập này, chắc chắn người Chàm chiếm đa số, nhưng nó đã được coi như một sự Việt hóa bởi vì người Việt, kẻ chiến thắng, chiếm tất cả mọi vai trò lãnh đạo và áp đặt văn hóa, nếp sống của mình. Dần dần trọng lượng Việt tăng cao vì hai lý do. Lý do đầu tiên là điều mà một số nhà xã hội học gọi là định luật của đất : mỗi vùng đất tùy mức độ phì nhiêu và trong một điều kiện sinh sống nào đó có mật độ dân số riêng, dân số ít sẽ gia tăng mau chóng để đạt tới mức đó rồi khựng lại. Người di dân Việt Nam và người Việt gốc Chàm chiếm được những vùng đất canh tác tốt nên sinh sản mau chóng hơn người Chàm thuần túy bị dồn vào rừng núi. Lý do thứ hai là sự Việt hóa càng ngày càng toàn diện do sự áp đặt văn hóa và nếp sống của kẻ chiến thắng.

Những người mà chúng ta gọi là người Chàm hiện nay chỉ là một phần của dân Chiêm Thành, gồm những người bất khuất không chịu sự đồng hóa của người Việt đã di tản vào miền rừng núi hiểm trở, và ở đó họ cũng chịu định luật của đất : thủy thổ đó, ở mức độ văn minh đó chỉ có đất sống cho từng đó người. Dân số của họ sút giảm đi với thời gian.

Dầu sao thì hiện nay cuộc tranh cãi về sự biến mất của nước Chiêm Thành cũng không còn là một đề tài thời sự nữa. Vấn đề đặt ra là đảm nhận sự hòa nhập đó, một sự hội nhập bất công đối với người Chiêm Thành vào giai đoạn đó, dù giải thích thế nào đi nữa chúng ta cần tìm ra một thái độ đứng đắn trong khi nhìn lại vấn đề Chiêm Thành. Những người Chàm đã mất hay còn sống, đã hội nhập hay chưa hội nhập phải được coi là những con người thực sự của đất nước Việt Nam. Lịch sử nước Chiêm Thành, cũng như lịch sử Văn Lang, Giao Châu, Đại Việt phải được coi là lịch sử của Việt Nam. Phạm Hùng, Chế Mân, Chế Bồng Nga phải được coi là các vị vua của Việt Nam ngày xưa. Văn hóa Chiêm Thành cần được sưu tầm và gìn giữ như là tài sản của đất nước Việt Nam.

Vấn đề Chiêm Thành ngày nay đã trở thành một vấn đề hoàn toàn Việt Nam. Người Việt Nam cần nhìn và đảm nhận lịch sử của chính mình một cách đúng đắn.

Đó cũng là một vấn đề hoàn toàn nằm trong chính sách đối nội của chúng ta, không giống như việc khai phá và hội nhập đất Chân Lạp.

*************************

 

Cướp đất của ai ?

 

2tqan105

Các sử gia và các nhà bình luận vô tình hay cố ý đã làm cho nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, quên rằng miền Nam Việt Nam đã được mở ra chủ yếu do một cuộc di dân hòa bình để khai phá đất hoang chứ không phải do một cuộc lấn chiếm bằng bạo lực bờ cõi sẵn có của một nước Cam-bốt hiền hòa.

Trong thâm tâm, đa số người Việt Nam nhìn nhận như một sự thực không cần chứng minh rằng Việt Nam có lỗi với Cam-bốt. Những vụ "cáp duồn" (tiếng Khmer có nghĩa là chém đầu người Việt) dù có gây ra nhiều phẫn nộ cũng không làm thay đổi được mặc cảm này. Đây là một trường hợp điển hình chứng tỏ phải coi chừng những sự thực không cần chứng minh.

Trái với một cảm tưởng rất lan tràn, Cam-bốt không phải là đất nước của những con người hiền hòa, nạn nhân của những tham vọng bành trướng và thống trị từ lân bang. Có thể nói đất nước Cam-bốt đã ra đời bằng bạo lực, đã trưởng thành trong bạo lực và đã suy tàn vì bạo lực.

Được bồi đắp từ lòng biển do phù sa sông Cửu Long, vùng đất gồm nước Cam-bốt và miền Nam Việt Nam mới đầu thuộc đế quốc Phù Nam với những sắc dân đến từ biển, nhất là từ Indonesia và từ Ấn Độ qua ngả Miến Điện và Thái Lan. Phù Nam đã mau chóng biến thành một đế quốc hiếu chiến. Vào thế kỷ thứ 7, người Khmer, một sắc dân theo văn minh Ấn Độ, từ miền Nam Lào tràn xuống tiêu diệt đế quốc Phù Nam và dần dần khắc phục các sắc dân địa phương, chiếm quyền bá chủ trong vùng để lập ra đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer còn tỏ ra hiếu chiến và bạo ngược hơn hẳn đế quốc Phù Nam. Đế quốc Khmer đã chế ngự được cả một vùng rộng lớn bao gồm cả Thái Lan, một phần Miến Điện và cả miền Nam Việt Nam. Vào thế kỷ 12 đế quốc Khmer còn bành trướng về phía Bắc, chiếm gần hết đất Chiêm Thành, đến tận đèo Hải Vân của Việt Nam hiện nay. Nhưng lãnh thổ thực sự của nó tập trung ở vùng Angkor. Những đền đài Angkor không phải chỉ là dấu tích của một nền văn minh mà trước hết là di tích của sự tàn bạo. Những sử liệu ít ỏi còn lại, mà đặc sắc nhất là ký ức của Chu Tá Quan, một sứ giả của nhà Nguyên có mặt tại Cam-bốt, mô tả cảnh những người nô lệ bị xiềng xích vào nhau để xây đền đài dưới sự điều động tàn bạo của các tăng sĩ và chiến sĩ Khmer. Họ phải lao lực đến kiệt sức và khi chết thi hài được lôi ra làm thức ăn cho cầm thú. Từ thế kỷ 13 trở đi, người Thái Lan bắt đầu tiến lên, sức mạnh của họ đã dần dần bắt kịp và vượt người Khmer. Họ giành được độc lập rồi tiến đánh trả thù người Khmer trong hàng thế kỷ đã bắt họ làm nô lệ xây đền đài cung điện. Họ đã hủy diệt đế quốc Khmer, tàn phá Angkor Vat và bắt người Khmer về làm nô lệ xây đền đài cho họ. Nền văn minh Angkor cáo chung vào năm 1431 với sự phá hủy lần cuối cùng thủ đô Angkor. Đế quốc Khmer xây dựng trên sự tàn bạo đã sụp đổ trong sự tàn bạo. Sự tàn phá và tàn sát của người Thái Lan đã khủng khiếp đến độ tất cả dấu tích đồ sộ của trung tâm Angkor bị chìm mất trong rừng sâu và không một nhân chứng nào sống sót để nhớ lại sự hiện hữu của nó. Phải đợi đến năm 1850, một nhà khảo cứu Pháp mới tình cờ khám phá lại di tích Angkor mà ngay những người Cam-bốt cách đó hai trăm cây số không hề biết đến nữa.

Kể từ 1431 chung quanh Phnom Penh chỉ còn lại một triều đại Chân Lạp yếu nhược với ảnh hưởng không đáng kể trên những vùng đất trước kia thuộc ảnh hưởng của đế quốc Khmer.

Cuộc nam tiến của người Việt đã đến rất lâu sau khi vùng đất miền Nam trở thành vô chủ. Những người Việt đầu tiên khai phá miền Nam không phải là những đạo quân viễn chinh mà phần lớn là những người nông dân nghèo khổ, chạy trốn cuộc chiến phân tranh Trịnh - Nguyễn. Từ năm 1623 trở đi, trong khoảng một thế kỷ rưỡi, Việt Nam đã sát nhập nhiều vùng đất mới ở phía Nam. Nhưng những sát nhập hành chánh này chỉ là sự hợp thức hóa một thực tại ; những phần đất ấy từ lâu đã do người Việt sinh sống và khai thác. Cuộc nam tiến của nước ta chủ yếu là một sự bành trướng trong hòa bình. Sự mở mang lãnh thổ Việt Nam đã chấm dứt khi anh em Tây Sơn nổi lên năm 1771 và Việt Nam bắt đầu lâm vào nội chiến.

Vua Sihanouk, bằng thái độ và bằng hành động của ông, lập lại y hệt hình ảnh của những vị vua Chân Lạp trong hai thế kỷ 17 và 18. Shihanouk trở mặt như chong chóng và đổi đồng minh như thay áo, ông được nhiều nhà bình luận chính trị phương Tây coi là khôn ngoan và mưu lược, nhưng tài trí của ông đã chỉ khiến nước Cam-bốt phải chịu những tàn phá kinh khủng nhất.

Các vị vua Chân Lạp, tổ tiên của Sihanouk, cũng đã cư xử không khác gì ông. Một vị vua Chân Lạp có thể ngày hôm nay cầu viện Việt Nam để tranh ngôi vua với một người anh em họ, để rồi ngày mai lại cầu viện Thái Lan chống lại Việt Nam và ít lâu sau thần phục Việt Nam chống lại Thái Lan. Mỗi lần cầu viện ngoại bang họ đều dâng lễ vật hay dâng đất. Việc dâng đất đối với họ không có gì là quan trọng vì trên thực tế đó là những vùng đất mà họ đã mất chủ quyền từ lâu. Việc dâng đất chỉ có nghĩa là nhìn nhận một thực tại và cam kết sẽ không quấy nhiễu.

Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao người Cam-bốt lại thù ghét Việt Nam hơn Thái Lan, trong khi Thái Lan đã xung đột nhiều hơn với Cam-bốt, đã sát nhập nhiều đất của Cam-bốt hơn, đã từng tàn sát người Cam-bốt một cách dã man, và nhất là đã tiêu diệt đế quốc Khmer ?

Trước hết là sự xung đột giữa hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa. Người Cam-bốt và người Thái Lan cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ nên dù đã có cả một quá khứ xung đột vô cùng đẫm máu họ vẫn thấy gần gũi với nhau trong khi người Việt Nam, thuộc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, đối với họ là những kẻ lạ mặt. Nhưng trầm trọng hơn nữa là chính sách chia để trị của chính quyền thuộc địa Pháp. Người Pháp đã tạo ra cái huyền thoại nước Việt Nam tham đất và đói đất để biến Việt Nam thành một đe dọa và một đối tượng thù ghét cho người Cam-bốt.

Trong chiều sâu còn một hằng số quan trọng hơn mà ta cần nắm vững khi nhận định về những tương quan giữa nước ta và Cam-bốt : người Cam-bốt rất thực tiễn, họ không đặt nặng những vấn đề văn hóa và lịch sử mà hành động chủ yếu theo những cái lợi trước mắt. Cho tới nay, những người lãnh đạo Cam-bốt luôn luôn hòa hoãn với các quốc gia có thể có ảnh hưởng mạnh lên nước họ và sẵn sàng lấy thái độ thù địch với những quốc gia mà họ nghĩ là không có hay không còn khả năng đe dọa họ, nếu họ thấy là có lợi. Họ thường có thái độ thù địch đối với Việt Nam vì trong nhiều giai đoạn họ nhận định Việt Nam vừa không có lợi gì cho họ lại vừa không làm gì được họ.

Cũng nên nhìn rõ một đặc tính của người Khmer : trong suốt dòng lịch sử họ luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hung bạo cho nên sự hung bạo đã ăn rễ trong dân gian ; người Cam-bốt rất dễ bị sách động vào các cuộc thảm sát. Trong một quốc gia khác, những lãnh tụ dù khát máu như Pol Pot cũng không thể gây ra một cuộc thảm sát như thế giới đã thấy tại Cam-bốt. Nhìn vào những gì người Cam-bốt đã làm với nhau, ta sẽ thấy rằng sự hung bạo của người Cam-bốt không phải là bằng chứng của hận thù, bởi vì họ hung bạo ngay với đồng bào họ. Do đó không nên coi những vụ thảm sát người Việt tại Cam-bốt như là dấu hiệu của một hận thù không thể vượt qua được.

Một số đông chúng ta không hiểu rõ lịch sử của chính nước mình, nhất là cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, và do đó vẫn còn bị ảnh hưởng của luận điệu của chính quyền thuộc địa Pháp, cũng mang mặc cảm tội lỗi đối với Cam-bốt. Chúng ta đừng quên rằng, ngoại trừ một vài qui định hành chánh dưới thời Pháp thuộc không nhất thiết có lợi cho Việt Nam, biên giới giữa hai nước không hề thay đổi từ hơn hai thế kỷ qua. Đó là một trong những biên giới ổn định nhất thế giới. Điều này đủ để bảo đảm cho khả năng chung sống hòa bình giữa hai nước. Chúng ta cũng đừng quên rằng về phương diện địa lý Cam-bốt cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Cam-bốt. Trong tương lai, nếu Cam-bốt gượng dậy được từ thảm kịch hiện nay, họ sẽ không có chọn lựa nào khác là hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, và lúc đó họ sẽ hợp tác với chúng ta một cách rất nồng nhiệt.

Điều quan trọng trong quan hệ với Cam-bốt là chúng ta cần từ bỏ một mặc cảm tội lỗi không đúng để vạch ra một chính sách sống chung trên căn bản tương kính, có lợi cho cả đôi bên.

Đối với cuộc nam tiến mở nước của chúng ta, chúng ta cần ghi ân trước hết những hy sinh của những tổ tiên rất khiêm nhường của ta, những tấm áo nâu dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu và dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Công mở nước là của họ chứ không phải của các vua chúa và các danh tướng.

***************************

 

Dừng chân nghĩ lại

 

2-tqan106

Nhân nói về cuộc nam tiến, cũng cần nhận định rằng lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất. Trong suốt quá trình mở nước và dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ những sự không may. Những người Lạc Việt đầu tiên đã từ Trung Hoa xuống miền Nam để tránh sự hà khắc, rồi hội nhập với người tại chỗ để lập ra nước Việt. Cuối thế kỷ 16, Nguyễn Hoàng vì sợ bị bách hại, đem dân vào Hoành Sơn, cùng với những người di dân Việt đã theo nhau đến đó từ một hai thế kỷ trước hội nhập với người Chiêm Thành mà mở rộng miền Trung. Cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn đã khiến một số đông đảo chạy trốn về phía Nam, tránh sưu cao thuế nặng và tránh cho con cái khỏi bị bắt lính, rồi miền Nam dần dần thành hình. Lúc nào cũng thế, người Việt chạy trốn một sự bất hạnh rồi vô tình đi thêm một bước đường mở nước.

Sau năm 1975, chúng ta lại có một bạo quyền khác và vì đã tựa lưng vào biển cả, đàn chim Việt đã vượt trùng dương, tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại, tỏa sự hiện diện của Việt Nam ra khắp thế giới.

Tất cả những biến cố này đều là những biến cố trọng đại và vô cùng ích lợi. Chúng nói lên khả năng phi thường của một dân tộc luôn luôn đủ khôn khéo để biến họa thành phúc. Nhưng đồng thời chúng cũng là một hổ nhục lớn cho những người lãnh đạo. Đến bao giờ chúng ta mới có thể chủ động thay vì chỉ phản ứng trước một tình thế bắt buộc ? Đến bao giờ chúng ta mới có thể có những chuyển biến tốt do chủ ý, xuất phát từ một dự tính lạc quan ? Tất cả những câu hỏi này chất vấn những người có chức năng lãnh đạo đất nước, nghĩa là những người trí thức.

Đến đây, tôi đã mời độc giả cùng làm một cuộc hành trình khá dài qua lịch sử nước ta, từ lúc lập quốc cho đến khi đạt tới lãnh thổ hiện nay. Cuộc hành trình này chỉ có mục đích giúp ta nhìn rõ hơn chúng ta là ai, hay ít nhất đừng hiểu lầm chính mình. Chúng ta đã đi được một đoạn đường khá dài, và vừa đến một trạm xá thuận lợi để tạm dừng chân, ngồi xuống và nghĩ về mình.

Đối với một dân tộc, nghĩ về mình trước hết là nghĩ về lịch sử của mình. Có người từng nói hãy gõ cửa lịch sử để tìm câu trả lời cho tương lai. Có thể đúng, với điều kiện là chúng ta hiểu được ngôn ngữ của lịch sử để tiếp thu được những thông điệp của nó.

*************************

 

Tám mươi năm Pháp thuộc

 

2-tqan107

Người Pháp khởi sự bắn phá Đà Nẵng năm 1858 rồi bỏ đi. Vài năm sau họ trở lại với một ý chí chinh phục thực sự. Năm 1862 họ đánh chiếm ba tỉnh miền Tây, sau đó chiếm hoàn toàn miền Nam rồi tiến ra Bắc. Nếu tính từ cột mốc 1862 này đến khi Việt Nam tuyên bố độc lập năm 1945 thì cuộc đô hộ của người Pháp đã kéo dài 83 năm. Tuy nhiên, chỉ từ năm 1884 trở đi sự thống trị của người Pháp mới được thiết lập trên toàn lãnh thổ. Nếu lấy cột mốc 1884 thì cuộc đô hộ của người Pháp kéo dài 61 năm.

Thực ra hiệp ước Patenôtre trên lý thuyết cũng không đặt toàn bộ lãnh thổ Việt Nam dưới ách đô hộ của người Pháp. Nó chia Việt Nam làm ba phần. Nam Phần là thuộc địa hẳn hoi của Pháp, Bắc Phần vẫn là lãnh thổ của triều đình Nguyễn nhưng đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Còn Trung Phần vẫn hoàn toàn thuộc chủ quyền nhà Nguyễn. Nhưng người Pháp đã nhanh chóng lấn chiếm thêm chủ quyền Việt Nam trước sự bất lực của triều Nguyễn. Đến năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi ký thêm một hiệp ước nhượng bộ nữa, đặt toàn lãnh thổ Việt Nam dưới sự đô hộ của Pháp. Từ đó người Pháp tha hồ phế lập các vua nhà Nguyễn.

Những sự kiện này mọi người đọc qua lịch sử Việt Nam đều biết. Sự kiện cần được nhấn mạnh là nói chung, trừ một số sĩ phu bất khuất, người Việt Nam đã hoan hô sự thống trị của Pháp, hay ít nhất đã ưa chính quyền thuộc địa Pháp hơn là triều đình nhà Nguyễn. Tại miền Bắc, các cô tôi kể chuyện các bà có thai cố gắng đi vào Hà Nội để đẻ con vì Hà Nội, không giống như các tỉnh miền Bắc khác, được coi là thuộc địa từ năm 1888 và những người ra sinh ra tại Hà Nội được coi là thần dân Pháp [sujet français].

Tới đây có lẽ cũng nên mở một ngoặc đơn để nhận xét một đặc tính của người Pháp. Tại sao lại "thần dân" mà không phải là "công dân" [citoyen français] ? Lại là một trò chơi chữ và phân biệt tinh vi của người Pháp. Người Pháp có biệt tài lấp lửng và mơ hồ để bắt cá hai tay, vừa thủ lợi vừa tránh né trách nhiệm khi cần. Năm 1948 tại Vịnh Hạ Long, Pháp thỏa thuận với Bảo Đại để Việt Nam được độc lập, nhưng lại bắt buộc Việt Nam ở trong khối Liên Hiệp Pháp. Bình thường ra đã độc lập thì phải có quyền gia nhập hoặc không gia nhập một khối nào, nhưng chính quyền Pháp đã ràng buộc hai vấn đề với nhau. Pháp thừa nhận Việt Nam độc lập, nhưng độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, có nghĩa là nếu Quốc Gia Việt Nam quyết định rút ra khỏi khối Liên Hiệp Pháp thì Pháp cũng không còn nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam nữa. Người Pháp chia rẽ nhau trên một giải pháp cho Việt Nam và họ chọn một giải pháp nửa chừng và mâu thuẫn. Chưa hết, người Pháp còn đẩy trò chơi chữ đến một mức độ lố bịch, khôi hài. Câu nhìn nhận "Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp" chỉ được viết bằng tiếng Việt chứ không được dịch ra tiếng Pháp trong hiệp ước Hạ Long. Người Pháp không có óc minh bạch của các dân tộc Anglo-Saxon. Phải nói ngay rằng trong tiếp xúc với phương Tây ta đã không được tiếp xúc với phần tinh hoa nhất của họ, đó là điều đáng tiếc.

Tuy nhiên, mặc dầu những khổ nhục của tình trạng ngoại thuộc, tám mươi năm Pháp thuộc đã đem lại cho đất nước ta những tiến bộ rất trọng đại. Đó là giai đoạn mà nước ta phát triển mau chóng nhất. Người Pháp đã xây dựng ra nhiều thành phố lớn, trong đó có hai cảng Hải Phòng và Sài Gòn, đã xây dựng phần lớn các trục lộ giao thông lớn. Họ cũng đã đem văn hóa, nếp sống, cách tổ chức và những giá trị phương Tây vào đất nước ta. Có thể nói Pháp đã còng tay Việt Nam và dẫn vào thời đại mới. Đóng góp của người Pháp cho nước ta không thể chối cãi, ngay cả dưới mắt một người Việt Nam yêu nước. Năm 1936 khi chính phủ Mặt Trận Bình Dân Pháp của thủ tướng Léon Blum có ý định trở lại hiệp ước 1884, nghĩa là trả lại miền Bắc và miền Trung cho triều đình Nguyễn họ đã bị ngay những trí thức Việt Nam tiến bộ phản đối dữ dội. Các trí thức này không phải không muốn độc lập, nhưng họ không muốn lập lại sự cai trị của triều đình Huế. Không ai, kể cả vua Bảo Đại và các cận thần, ngạc nhiên trước sự phản đối này.

Chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều lần trong quá khứ, nhưng lần này là một ngoại thuộc hoàn toàn khác. Từ trước kẻ xâm lăng đến vơ vét tài sản, tàn phá đất nước và đẩy dân chúng vào cảnh cơ cực. Lần này kẻ thống trị ngoại bang mở mang đất nước, nâng cao mức sống và trí tuệ của dân ta. Ách đô hộ của người Pháp, với sự du nhập của văn hóa và các giá trị phương Tây còn có giá trị giải phóng của nó. Chính từ giai đoạn này mà chúng ta hoàn toàn không còn lệ thuộc Trung Quốc về mặt chính trị nữa và cũng có luôn khả năng ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đã quá lỗi thời. Không những bảo vệ Việt Nam đối với Trung Quốc, người Pháp còn đủ sức mạnh để buộc Trung Quốc chấp nhận những thỏa hiệp có lợi cho Việt Nam, chẳng hạn như hiệp ước về vịnh Bắc Phần.

Người Pháp còn cho Việt Nam một cơ hội mở rộng không gian sinh hoạt. Họ thành lập ra Liên Hiệp Đông Dương gồm ba kỳ của Việt Nam, Lào và Cam-bốt. Hai nước Lào và Cam-bốt vừa quá ít dân so với Việt Nam, lại vừa ở mức độ phát triển thấp hơn nên Đông Dương thực ra là Việt Nam. Chỉ trong vài thập niên, phần lớn các công chức cao cấp tại hai nước này đã là người Việt. Điều nghịch lý là sau thế chiến II, khi người Pháp bằng lòng trả độc lập cho các nước Đông Dương nhưng đòi duy trì Liên Bang Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp, chính phủ cách mạng Việt Nam, do ông Hồ Chí Minh cầm đầu, đã phản đối dữ dội làm cho hội nghị Đà Lạt năm 1946 thất bại. Dĩ nhiên, tại Hội Nghị Đà Lạt, Pháp còn đưa nhiều đòi hỏi bắt chẹt khác, thí dụ như đòi tách Nam Kỳ ra riêng, nhưng điều đáng để ý là chính phủ Hồ Chí Minh đã phản đối dữ dội Liên Bang Đông Dương mà sau này họ đòi lập lại. Điều này chứng tỏ rằng những người làm chính trị của Việt Nam thiếu hẳn viễn kiến. Nhiều người Việt Nam ngày hôm nay vẫn còn tiếc cơ hội đó. Nhưng tiếc hay không cũng là sự đã rồi. Vấn đề là Liên Bang Đông Dương không nên nhắc lại nữa. Nó chỉ gây ngờ vực và lo âu cho hai nước Lào và Cam-bốt đối với Việt Nam mà thôi. Điều chúng ta cần mưu tìm là một hợp tác bình đẳng trong tinh thần tương kính với hai nước láng giềng này. Một sự hợp tác như thế sẽ có lợi cho cả ba dân tộc.

Chính vì sự thành công của chính quyền thuộc địa Pháp mà thái độ đối với nó đã gây chia rẽ trầm trọng giữa người Việt Nam. Có những người cho chế độ thuộc địa Pháp là hay và nên tiếp tục. Cũng có những người cho rằng độc lập là cần thiết nhưng cần phải tiếp tục hợp tác với người Pháp để mở mang dân trí và dân sinh trước đã, trong số những người này có hai trí thức lỗi lạc nhất đầu thế kỷ 20 là Phan Chu Trinh và Phạm Quỳnh. Sau cùng cũng có những người cho rằng phải đánh đuổi người Pháp để chấm dứt cái nhục bị đô hộ và giành lại chủ quyền ngay tức khắc. Các khuynh hướng này thay vì thảo luận bình tĩnh với nhau đã mạt sát và kết án lẫn nhau. Người này gọi người kia là ngu dốt, người kia gọi người này là phản quốc, bán nước.

Vấn đề thực là phức tạp. Điều phức tạp hơn nữa là giữa những người chủ trương giành độc lập ngay tức khắc cũng không có đồng thuận. Có những người chỉ chủ trương giành độc lập, nhưng cũng có những người chủ trương đánh đuổi người Pháp để thiết lập một chế độ cộng sản. Và hai khuynh hướng này cũng sẵn sàng tàn sát nhau.

Chúng ta đã không biết ra khỏi ách đô hộ của người Pháp một cách tốt đẹp bởi vì chúng ta đã thiếu hẳn một đồng thuận dân tộc. Đồng thuận dân tộc không phải là dễ, nó đòi hỏi một tư tưởng quốc gia và nó cũng đòi hỏi những khuôn mặt uy tín để có thể thuyết phục và qui tụ mọi người trên những chọn lựa quan trọng. Nhưng tư tưởng của chúng ta vốn đã rất kém, nếu không muốn nói là không có gì. Tư tưởng Khổng Giáo đã sụp đổ, nhưng thời gian tiếp xúc với phương Tây vẫn còn quá ngắn nên chưa xuất hiện được những nhà lý luận mới. Phan Chu Trinh là một nhân vật đã có thể góp phần tốt đẹp vào cuộc chuyển hóa tư tưởng trọng đại của đất nước ta, nhưng tiếc thay ông đã qua đời quá sớm, năm 1925, lúc mới vừa 52 tuổi.

****************************

Một bài học lịch sử

 

2-tqan108

Lý do vẫn thường được viện dẫn để giải thích tại sao chúng ta bị người Pháp thôn tính là : vì ta thiếu vũ khí và kỹ thuật tối tân. Chúng ta có vẻ hài lòng với giải thích đó, nhưng khi sự thôn tính đó diễn ra một cách quá dễ dàng thì vũ khí không giải thích tất cả. Vũ khí, ngay cả thêm kỹ thuật tổ chức quân đội, cũng không thể giải thích thất bại quá hổ nhục của ta.

Để đánh thành Hà Nội do Nguyễn Tri Phương có chuẩn bị trước để phòng vệ, người Pháp đã chỉ cần 170 quân và họ hạ thành Hà Nội trong nháy mắt, bắt sống Nguyễn Tri Phương. Lần thứ hai, họ đem một số quân đông gấp ba, gần 500 người, nhưng lần này Hoàng Diệu chỉ kháng cự yếu ớt rồi tự tử để quân Pháp chiếm thành.

Để chiếm Hải Dương, quân Pháp đã chỉ cần 15 người lính bắn vài phát súng là xong. Quân nhà Nguyễn đã không kháng cự chứ không phải đã thua trận. Tại Ninh Bình chúng ta còn nhục nhã hơn nhiều. Một viên thiếu úy dẫn bảy tên lính tới thành. Tổng đốc Nguyễn Đức Tuân và toàn bộ quân sĩ Việt Nam phải hạ khí giới, quì xuống hai bên đường đầu hàng.

Trước đó, Jean Dupuis, một lái buôn với vài tên lính đánh thuê do y tuyển dụng đã có thể làm mưa làm gió mỗi lần đưa tàu buôn ra Bắc. Các quan lại Việt Nam tại Hà Nội mỗi khi thấy tàu Dupuis tới gần phải chạy trước, sợ y bắt và nọc ra đánh.

Nếu bảo rằng ta thua vì không có vũ khí thì tại sao vài ngàn quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc lại hai lần đánh bại quân Pháp một cách dễ dàng, chém đầu viên chỉ huy Pháp ? Mà Lưu Vĩnh Phúc có đánh lén đâu. Trong lần Henri Rivière ra Hà Nội, cũng là lần Pháp đem lực lượng hùng hậu nhất, Lưu Vĩnh Phúc đem quân đến sát Hà Nội, đóng doanh trại, gởi chiến thư gọi Rivière ra đánh. Cách đối địch này chẳng có gì là độc đáo. Henri Rivière đem quân ra. Quân Cờ Đen xông tới tàn sát quân Pháp, chém Henri Rivière, đem bêu đầu. Năm đó là năm 1872.

Trước đó, đầu thế kỷ 19, giữa lúc Pháp hùng mạnh nhất về quân sự, với hoàng đế Napoléon I làm bá chủ cả châu Âu, thì những người nô lệ da đen trên đảo Haiti nổi dậy thành lập một quốc gia độc lập thách thức đế quốc Pháp. Napoléon I đã cử một hạm đội hùng hậu gồm 86 chiến thuyền và 34.000 lính thủy dưới sự chỉ huy của đô đốc Leclerc, em rể Napoléon I, sang chinh phạt. Dưới quyền đô đốc Leclerc là 13 trung tướng và 27 thiếu tướng. Đạo quân hùng hậu và tinh nhuệ này còn mang theo một đàn chó trận được tập luyện để săn người da đen. Chúng sử dụng những biện pháp cực kỳ tàn bạo, treo cổ, nhận nước cho chết, thả tù nhân cho chó ăn thịt, v.v... Nhưng những người da đen đơn sơ đã chống trả, họ đã đánh tan đạo quân này trong thời gian không đầy hai năm, buộc quân Pháp phải đầu hàng. Lúc đó tổng số người da đen tại Haiti chưa tới nửa triệu người.

Thành tích này thật nổi bật so với Việt Nam. Lúc đó chúng ta đã có khoảng xấp xỉ mười triệu dân, đã có một lịch sử dài với nhiều quá khứ chống ngoại xâm và mở mang bờ cõi rất oanh liệt. Quân Pháp sang chiếm nước ta cũng chỉ vài ngàn người với phương tiện thô sơ, mỗi lần ra Bắc họ chỉ đem vài trăm lính dưới sự chỉ huy của những sĩ quan trung cấp.

Vũ khí, kỹ thuật tổ chức, ngay cả số đông cũng không phải là tất cả. Chúng ta thua, và thua rất nhục nhã, chỉ vì tinh thần dân tộc của chúng ta không còn. Mỗi lần quân Pháp ra đánh Bắc Hà, dân chúng kéo nhau "đi xem quân Tây và quân Nam đánh nhau" như những người bàng quan. Các vua nhà Nguyễn đã chỉ coi miền Bắc và miền Nam như những vùng đất xa xôi. Các chính sách hà khắc, giết hại công thần, cấm đạo đã làm tan vỡ hoàn toàn đồng thuận dân tộc. Nước Việt Nam vào giai đoạn đó chỉ còn là một hư cấu và vì thế nó đã mất hết sức tự vệ.

Từ đó đến nay chúng ta có xây dựng cho lòng yêu nước mạnh hay không ? Một cách ngược đời, giai đoạn Pháp thuộc đã làm tăng trưởng tinh thần quốc gia và lòng yêu nước. Ba yếu tố đã đóng góp vào sự tăng trưởng này. Một là sự hổ nhục vì bị đô hộ bởi một số ít thực dân, thuộc một chủng tộc khác và đến từ phương xa, đã gây ra một phản ứng liên đới giữa những người cùng chung nòi giống và văn hóa. Hai là do tiếp xúc với phương Tây, chúng ta đã tiếp thu được ý thức quốc gia, một ý thức trước đó chúng ta chỉ có một cách mơ hồ và người phương Tây cũng chỉ khám phá trước chúng ta không bao lâu ; tôi sẽ còn trở lại vấn đề này trong những trang sắp tới. Ba là thời Pháp thuộc đã đem lại phồn vinh, và do đó một sinh lực mới cho cộng đồng dân tộc.

Sức mạnh mới đó đã khiến dân ta quật khởi vùng lên giành chủ quyền. Đảng cộng sản đã vận động được lòng yêu nước đó để dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc mà tranh đấu cho chủ nghĩa cộng sản, và họ cũng đã giáng một đòn chí tử vào lòng yêu nước vừa mới có được một sức mạnh. Lần đầu tiên ở nước ta xuất hiện một lực lượng không kêu gọi đoàn kết dân tộc mà kêu gọi hận thù giữa dân tộc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp về thực chất là một tiếng gọi nội chiến, một tiếng gọi giải thể quốc gia, thay thế tinh thần quốc gia bằng tinh thần giai cấp. Sau đó chính sách toàn trị của họ đã biến đất nước thành của riêng một đảng - như ngày trước nó là của riêng một dòng vua - và trục xuất đại khối dân tộc khỏi định mệnh đất nước. Đã thế, đảng cầm quyền lại còn áp dụng vô số biện pháp phân loại dân chúng và phân biệt đối xử. Những đổ vỡ và thất vọng kéo dài quá lâu đã làm sụp đổ lòng yêu nước của người Việt.

Ngày trước, chính sự suy sụp của tinh thần dân tộc đã khiến chúng ta thua một cách hổ nhục dưới tay người Pháp chứ không phải vì người Pháp mạnh. Ngày nay cũng chính sự suy sụp tinh thần dân tộc đã khiến chúng ta không tự giải phóng được khỏi tay đảng cộng sản chứ không phải vì chế độ cộng sản mạnh. Có những lúc mà những bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm.

***********************

 

Soi lại chân dung,

ba nét đậm của đất nước

 

2-tqan109

Cuốn sách này dĩ nhiên không thể có tham vọng lố bịch là viết lại lịch sử. Nó đã mời độc giả theo dòng lịch sử mà nghĩ lại một số nhân vật và sự kiện với một dụng ý khác.

Cách mà một dân tộc đánh giá các triều đại và các nhân vật lịch sử nói lên rất nhiều về tâm lý của dân tộc đó. Chính qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng mà mỗi dân tộc bộc lộ hồn tính của mình.

Một mặt, việc luận công và tội trong lịch sử tùy thuộc ở các giá trị mà mỗi dân tộc đề cao hơn là ở những sự kiện đã thực sự xảy ra, và vì thế có thể thay đổi với thời gian. Một thí dụ là hoàng đế Napoléon I của nước Pháp. Napoléon là một thiên tài về quân sự, đã đánh bại và chế ngự gần hết châu Âu. Ông cũng là một nhân vật hào hoa phong nhã, có sức truyền cảm khó bì và không những chỉ đem vinh quang quân sự cho nước Pháp, ông còn làm ra luật pháp, đặt ra những định chế quan trọng mà nước Pháp tới nay vẫn còn gìn giữ và tự hào. Thời đại của ông cũng để lại những công trình lớn, vĩ đại cả về tầm vóc lẫn mỹ thuật. Có một dạo người Pháp tôn sùng ông như một thần tượng, nhưng ngày nay, nếu được hỏi, ít có người Pháp nào còn bày tỏ sự ái mộ với Napoléon. Không phải vì Napoléon đã thay đổi mà vì tâm lý và cách nhìn lịch sử của người Pháp đã thay đổi.

Mặt khác, những nhận định và đánh giá rõ ràng là sai lầm mà lại kéo dài quá lâu cũng tố giác sự hời hợt và sự thiếu óc phê phán của một dân tộc.

Đặt lại một số vấn đề lịch sử như vậy cũng là chất vấn tâm lý tập thể của một dân tộc và rà soát lại các giá trị nền tảng, các giá trị đã góp phần quyết định tạo ra số phận của dân tộc đó. Các nhà tư tưởng hiện nay đều đồng ý trên một điểm : tâm lý và các giá trị là tất cả đối với một dân tộc ; địa lý, tài nguyên thiên nhiên và ngay cả bối cảnh quốc tế chỉ là thứ yếu. Các dân tộc như Mỹ, Đức, Nhật, dù ở hoàn cảnh nào, dù có bị tàn phá đến đâu cũng vẫn nhanh chóng phục hồi và vươn lên trong khi nhiều dân tộc khác dù được thiên nhiên và hoàn cảnh ưu đãi tới đâu cũng vẫn thua kém. Một dân tộc vì thế chỉ thay đổi được số phận của mình nếu thay đổi tâm lý và các giá trị, nghĩa là thay đổi văn hóa, thay đổi cách suy nghĩ, hành động và ứng xử.

Cuộc hành trình qua lịch sử mà cuốn sách này mời độc giả cùng đi đã không thoải mái. Tôi hiểu là những phân tích không khoan nhượng đã làm phiền lòng không ít độc giả. Những gì mà chúng ta đã biết hoặc đã tin là một phần của chính chúng ta, và dĩ nhiên chúng ta cảm thấy như bị xúc phạm và bị đả thương khi có người bác bỏ. Tôi mong các độc giả đó hiểu cho rằng chính tôi đã rất đau nhức khi phải xét lại những gì mà chính mình trong một thời gian dài đã cho là đúng và lấy làm nền tảng cho nhiều lý luận khác. Nhất là khi tôi phải làm việc đó tự mình và một mình, trong một cuộc xung đột với chính mình.

Nhưng đó là việc phải làm. Chúng ta phải nhận định lại lịch sử để nhận diện lại chính chúng ta và thay đổi số phận của chúng ta. Hoàn cảnh bi đát của chúng ta hiện nay không cho phép chúng ta thỏa mãn. Khi chúng ta nhìn lịch sử của mình một cách khác cũng là lúc chúng ta nghĩ về mình một cách khác, để từ đó chấp nhận một cách ứng xử khác và tiến tới một tương lai khác.

Cuộc hành trình này đã dẫn chúng ta tới lịch sử hiện đại, nghĩa là phần lịch sử còn đang diễn ra mà chúng ta còn có thể tác động. Phần lịch sử này chúng ta sẽ phải đề cập một cách khác. Nhưng tới đây chúng ta đã có thể rút ra một vài nhận định quan trọng.

Một là đất nước ta đã hình thành như một phần của Trung Quốc, rồi do hoàn cảnh địa lý mà tách rời ra, nhưng chỉ tách rời về mặt hành chánh chứ không tách rời về mặt văn hóa. Như vậy ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa trên chúng ta rất lớn, ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Không phải là một sự ngẫu nhiên mà các vua quan nhà Nguyễn vẫn cố bám vào Trung Quốc giữa lúc chính Trung Quốc cũng đang rất khốn đốn. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà sau khi đã bị Pháp đô hộ và đã chịu ảnh hưởng nặng nề của Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng mà những người chủ xướng đều có Tây học, vẫn chủ trương rập khuôn Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn lếch thếch chạy theo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, dù có lúc hai bên đã thù ghét nhau thậm tệ. Cho dù thương nhau hay ghét nhau, cùng một văn hóa thì vẫn cùng một cách hành động. Chúng ta còn muốn tiếp tục đi theo và đi sau người Trung Hoa nữa không, hay chúng ta đã nhìn thấy những khuôn mẫu khác và những lộ trình khác tốt đẹp hơn ? Nếu không muốn theo mô hình Trung Quốc nữa thì chúng ta cần một cố gắng cởi trói, vượt thoát và khai thông rất trọng đại.

Hai là trong quá trình lịch sử chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều hơn là độc lập, chúng ta đã chịu đựng quá nhiều chiến tranh và chỉ được hưởng quá ít hòa bình, đã bị chia cắt nhiều hơn thống nhất. Đó là một lịch sử rất chật vật và vì thế chúng ta là một dân tộc bị chấn thương nặng. Cách suy nghĩ và hành động của chúng ta chắc chắn là không bình thường. Do đó cần rất dè dặt trong các phân tích và các dự đoán chính trị. Có những sự kiện đáng lẽ phải xảy ra lại không xảy ra và cũng có những biến cố đáng lẽ không thể có lại vẫn có. Trong những trường hợp như thế, một nhận định bình thường, nghĩa là không kể đến tình trạng bất bình thường của dân tộc ta, rất dễ khiến chúng ta lý luận gượng ép, khen chê một cách sai lạc và gây khó khăn thêm cho sự tìm kiếm một giải pháp đúng đắn. Trong hoàn cảnh phức tạp và khủng hoảng tinh thần này, chúng ta cần rất nhiều bình tĩnh và sáng suốt.

Sau cùng, tuy chúng ta có một lịch sử dài nhưng lại là một quốc gia mới hình thành xong. Chúng ta đã không ngừng đón nhận nhiều đóng góp về đất đai và chủng tộc. Cấu tạo địa lý và nhân văn của chúng ta mới chỉ rõ rệt từ nửa sau thế kỷ 18. Từ đó đến nay lại là giai đoạn đầy rẫy những thảm kịch nội chiến, ngoại xâm, ngoại thuộc, chia cắt, xung đột ý thức hệ, v.v... Chúng ta là một quốc gia chưa ổn vững, cần được củng cố, xây dựng và gìn giữ với tất cả thận trọng, nhất là vào giữa lúc mà ý niệm quốc gia đang bị công phá khắp nơi trên thế giới. Nguy cơ tan rã có thực. Trong khi dù muốn hay không chúng ta vẫn cần có một quốc gia để làm không gian liên đới cho cố gắng xây dựng một tương lai chung. Vì nhiều lý do, mà lý do giản dị nhất là không ai muốn hòa nhập với một dân tộc nghèo khổ như chúng ta.


 

***********************

 

 

Một chuyển tiếp tự nhiên

2-tqan200

 

Một cuộc hành trình dù vội vã đến đâu qua lịch sử Việt Nam cũng không thể bỏ qua đảng cộng sản. Tác động của nó vào lịch sử Việt Nam đã vô cùng to lớn.

Đó là phong trào Việt Nam lần đầu tiên tôn vinh đế quốc Nga (dưới mỹ từ Liên Bang Xô Viết). Sự thần phục này nghịch lý về nhiều mặt. Nga là nước không những ở rất xa nước ta, chưa hề có một quan hệ nào với nước ta, mà lại là nước do điều kiện địa lý rất ít giao thiệp với thế giới bên ngoài. Nga có trình độ phát triển thấp hơn hẳn các nước phương Tây. Văn hóa Nga dù không tồi cũng không sánh được với văn hóa phương Tây.

Chọn lựa đồng minh và quan thầy kỳ lạ này đến từ một chọn lựa độc đáo khác : Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng là phong trào nổi dậy đầu tiên không lấy quốc gia làm đối tượng phục vụ, hơn thế nữa mục đích sau cùng của nó còn là giải thể quốc gia Việt Nam (cũng như mọi quốc gia khác) để hội nhập vào một thế giới vô sản. Chủ nghĩa đã mạnh hơn các quan tâm về địa lý, lịch sử và văn hóa. Điểm này cần được nhận định đúng đắn để rút một suy tư về đất nước. Chính vì khó có thể tin rằng một phong trào không nhắm phục vụ mà còn nhắm giải thể Việt Nam mà lại được người Việt Nam ủng hộ nên ngay cả một số những người chống cộng vẫn cố biện bạch rằng phong trào cộng sản là một phong trào yêu nước.

Nhưng sự thực không phải như thế. Sự lấn cấn sở dĩ có là vì chúng ta không phân biệt hai khái niệm khác nhau : người cộng sản và đảng cộng sản. Có và có nhiều người cộng sản yêu nước, nhưng đảng cộng sản không phải là một đảng yêu nước.

Đảng cộng sản thành lập lúc ban đầu dưới danh xưng là Đảng Cộng Sản Đông Dương với vai trò phân bộ của phong trào cộng sản quốc tế. Nó nổi dậy lần đầu với tên gọi "Xô Viết Nghệ Tĩnh" và lá cờ đỏ mang khẩu hiệu "Vạn Tuế Sô Nga". Cuộc nổi dậy này hoàn toàn chỉ do những động cơ giai cấp, dưới khẩu hiệu "trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ", nó chỉ nhắm tàn sát những người bị coi là kẻ thù của giai cấp vô sản. Trên thực tế đây không phải là một cuộc nổi dậy vì Việt Nam. Chiêu bài dân tộc chỉ được dùng tới sau đó, do một chọn lựa chiến lược mà Stalin áp đặt lên đệ tam quốc tế : chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội trong từng quốc gia. Những người cộng sản Việt Nam đầu tiên không phải đã hân hoan đón nhận mệnh lệnh này. Họ đã chỉ tuân hành nó một cách miễn cưỡng. Điều đã thôi thúc những người cộng sản trung kiên, đã khiến họ có thể hy sinh tính mạng và đã đem lại sức mạnh cho đảng cộng sản, vẫn là lý tưởng quốc tế vô sản.

Đảng cộng sản cũng khiến Việt Nam một thời được cả thế giới biết đến và nể phục như một dân tộc anh hùng bất khuất đã chống trả một cách thắng lợi với hai cường quốc lớn Mỹ và Pháp. Nó cũng là phong trào lần đầu tiên đánh bại Hoa Kỳ. Mỗi người Việt Nam, kể cả những người chống cộng và đã thực sự đứng trong hàng ngũ đối địch với đảng cộng sản, sẽ lầm nếu phủ nhận những chiến công này. Phủ nhận chúng cũng như người Ai Cập phủ nhận các kim tự tháp hay như người Trung Hoa phủ nhận Vạn Lý Trường Thành. Đó là những công trình được xây dựng trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của các dân tộc nhưng đồng thời cũng là những di sản của họ. Ngược lại, những người cộng sản cũng nên tương đối hóa những chiến thắng đó. Cùng lắm chúng chỉ khiến chúng ta xuất hiện như là một dân tộc giỏi chiến tranh trong một thế giới ngày càng tôn vinh những giá trị khác và trong đó chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết định bởi những thành tựu về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, thương mại. Hơn nữa chúng ta đã phải trả giá quá đắt cho những chiến thắng này. Chúng ta đã kiệt quệ hoàn toàn và còn thù ghét lẫn nhau, để rồi bế tắc trong sự thua kém.

Đảng cộng sản đã làm chết bốn triệu người qua ba mươi năm chiến tranh (con số sẽ cần được khảo sát một cách chính xác) nhưng đã nắm được chính quyền và thống nhất đất nước. Họ đã thất bại khi cầm quyền. Cần nói rõ về sự thất bại này để tránh ngộ nhận chủ quan : chế độ cộng sản, sau những đập phá lúc ban đầu do bản chất cách mạng của nó, đã làm nhiều cố gắng xây dựng đúng. Nó đã nâng cao phần nào cuộc sống của người dân mặc dầu dân số Việt Nam tiếp tục tăng nhanh. Nó cũng đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu có ích, và nó cũng dành cho người dân một chỗ đứng và một phẩm giá lớn hơn hẳn các chế độ quân chủ tại Việt Nam trước đó. Nếu chúng ta không tự giới hạn trong cuộc tương tranh quốc-cộng mà cố gắng nhìn cả chiều dài của lịch sử thì chế độ cộng sản phải được coi là chế độ hay nhất mà chúng ta đã có từ trước đến nay trong những chế độ đã cai trị toàn bộ Việt Nam (không kể chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một công thức canh tân được đề ra để đối đầu với công thức cộng sản, nhưng đã thất bại sau 27 năm tồn tại và chưa bao giờ kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ và dân số Việt Nam).

Đảng cộng sản không thất bại so với các triều đại đã cai trị Việt Nam trước họ. Nhưng họ đã thất bại so với thế giới. Các vua chúa Việt Nam trước đây tuy không bằng họ ngày nay, nhưng lại hơn các lân bang lúc đó và vì thế Việt Nam đã đứng vững được và bành trướng được. Đảng cộng sản hơn các vua chúa ngày xưa nhưng lại thua kém các chính quyền khác trên thế giới ngày nay nên Việt Nam tụt hậu. Trong khi các quốc gia khác tiến rất xa so với quá khứ của họ, Việt Nam dưới chế độ cộng sản chỉ tiến khá xa so với quá khứ của mình mà thôi. Đó là tất cả vấn đề. Tội chính của Đảng Cộng Sản Việt Nam là tội làm mất thì giờ của đất nước, mà trong thời đại này thì giờ là tất cả, mất thì giờ nhiều quá có thể mất nước luôn. Việt Nam trong thập niên 1960 và trong nửa đầu thập niên 1970 đã được cả thế giới biết đến và nể phục vì đã làm một việc phi thường là dám chống lại quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Việt Nam bước vào thế kỷ 21 cũng đang được cả thế giới biết đến, nhưng không nể phục chút nào, vì đang làm một việc cũng rất phi thường khác là tiếp tục theo đuổi một chủ nghĩa ngây ngô đã sụp đổ. Nhưng làm sao có thể ôm lấy một cái gì đã đổ nát tung tóe ? Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay chẳng phải là cộng sản. Nó chỉ là một pha trộn quái dị của nhiều thành tố cộng sản, tư bản, phát-xít, quân phiệt và mafia.

Trong chiều dài của lịch sử, đảng cộng sản đã có một thành tích quan trọng. Họ đã thống nhất đất nước. Đó là một thành tích lớn dù nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta có thể thống nhất đất nước một cách ít tốn kém và đổ vỡ hơn.

Họ đã chấm dứt vĩnh viễn được cuộc tranh cãi, không còn lý do nữa nhưng vẫn không chịu chấm dứt hẳn, xem tôn giáo nào đáng được coi là quốc giáo. Họ đã dứt khoát khẳng định Việt Nam là một nhà nước thế quyền. Trong thế giới ngày nay, loại trừ được ảnh hưởng của các tôn giáo trong sinh hoạt chính trị là một may lắn lớn. Tuy nhiên nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta vẫn có thể làm được việc này bằng một cố gắng văn hóa, chính trị đứng đắn mà không phải dùng tới những biện pháp thô bạo. Vấn đề nên làm là đưa các tôn giáo ra khỏi chính trị, đảng cộng sản đã làm điều ngược lại là đem chính trị vào tôn giáo. Điều mà đảng cộng sản cố gắng làm - nhưng không làm được - là tiêu diệt các tôn giáo.

Họ cũng đã thay đổi một cách quan trọng tập tính người Việt. Đạo đức truyền thống đã bị phá sản hoàn toàn. Biết bao nhiêu người, kể cả những người cộng sản ngoan cố, đã than phiền sự băng hoại của đạo đức. Con người trở thành vị kỷ, lưu manh, thô lỗ. Nhưng cuộc chuyển hóa tư tưởng này không hoàn toàn tiêu cực. Trên ít nhất hai điểm nó rất tích cực.

Một là nó đã tiêu diệt được óc tôn sùng bằng cấp, một căn bệnh tâm thần rất tai hại của người Việt. Không phải đảng cộng sản nhận thức được sự tai hại của tâm lý trọng bằng cấp và dụng tâm đánh đổ nó. Trái lại chính vì họ quá trọng bằng cấp mà đã cấp phát bừa bãi cho các đảng viên những học vị to lớn, với kết quả là khiến các bằng cấp trở thành những mảnh giấy lộn không hơn không kém. Tình trạng này đưa đến hậu quả tốt mà họ không ngờ là con người từ đây sẽ chỉ được đánh giá theo khả năng. Từ đây người Việt Nam sẽ phải học để biết, để có khả năng chứ không học để giành lấy một bằng cấp không còn chứng minh gì nữa. Nói một cách khác, từ đây người ta sẽ phải có thực học thay vì chỉ cần học vị. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa rất lớn, mà vô tình đảng cộng sản đã làm được.

Hai là nó đã phần nào biến dân tộc Việt Nam từ một dân tộc từ chương, công chức và làm công thành một dân tộc buôn bán và kinh doanh. Ngay lúc đi tù về tôi đã chứng kiến cuộc chuyển hóa vĩ đại này. Hình như nhà nào cũng buôn bán một cái gì. Một tủ kem, một thùng thuốc lá, một quầy tạp hóa tí hon, một quán cà-phê đột xuất v.v... Cũng có những người suốt ngày tháng loay hoay chạy mối bán thuốc tây, hàng vải, đủ thứ. Từ ngàn xưa chúng ta coi thường và bài xích thương mại và do đó đã nghèo khó, lạc hậu và thua kém. Chế độ cộng sản vô tình - hoàn toàn vô tình vì chủ nghĩa của họ không những bài xích mà còn thù ghét thương mại - đã chữa được cho người Việt Nam chứng bệnh tâm lý tổ tông truyền này.

Trái với một số người, tôi không quá lo ngại về sự băng hoại đạo đức hiện nay. Thật ra chúng ta đòi hỏi gì ở con người ? Chúng ta mong muốn những con người có khả năng, chăm chỉ, lương thiện và nhã nhặn. Tất cả những đức tính đó một sinh hoạt kinh tế thị trường đúng nghĩa, nhất là hoạt động buôn bán, sẽ đem lại. Trong một sinh hoạt kinh tế thị trường thực sự, không có khả năng, lười biếng, gian trá thì mất việc ; có khả năng, lương thiện, chăm chỉ thì lên chức, lên lương. Buôn bán mà gian trá, thô lỗ thì mất khách và phá sản. Kinh tế thị trường tự do cũng có cái lô-gích và cái đạo đức của nó. Phần lớn những thói hư tật xấu đều có thể khắc phục được trong vòng một thế hệ nếu chúng ta mau chóng có được một nhà nước dân chủ pháp trị đúng đắn, tin tưởng vào kinh tế thị trường và khai thác triệt để mọi ưu điểm của nó.

Một thành quả cũng rất vô tình nhưng vô cùng vĩ đại của chế độ cộng sản là đã tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại. Lúc đi du học trong thập niên 1960, tôi ngỡ ngàng khám phá ra là Việt Nam không có cộng đồng hải ngoại như các dân tộc cùng tầm vóc khác. Đó là một thiệt hại rất lớn. Cộng đồng hải ngoại là những đầu cầu thương mại, văn hóa, khoa học và kỹ thuật rất quí báu nhưng, điều còn nhiều lần quí báu hơn, nó cũng là con mắt của một dân tộc để nhìn và hiểu thế giới. Một dân tộc không có cộng đồng hải ngoại không khác gì một người mù. Không có cộng đồng hải ngoại thì không có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta thiển cận, mù quáng, hẹp hòi, bất dung, cố chấp, và sau cùng lạc hậu. Tất cả các quốc gia mới vươn lên gần đây đều đã nhờ sự đóng góp tích cực của một cộng đồng hải ngoại hùng mạnh.

Đảng cộng sản đã không chủ đích thành lập một cộng đồng người Việt hải ngoại vì nhìn thấy vai trò của nó. Họ không có một viễn kiến quốc gia nào. Chính sự bạo ngược của họ đã làm cho hàng triệu người phải liều chết vượt biển ra đi, và họ còn cấm cản một cách dã man làn sóng vượt biên. Sau cùng chính họ cũng đứng ra tổ chức vượt biên, nhưng chỉ để làm tiền và trục xuất người Việt gốc Hoa theo một quan niệm dân tộc hẹp hòi. Họ đã làm mất đi một tài nguyên nhân lực quan trọng của đất nước, đồng thời cũng khiến cộng đồng người Việt hải ngoại không có được tiềm năng đóng góp mà đáng lẽ số lượng của nó phải đem lại bởi vì phần lớn người Hoa khi còn ở Việt Nam là những người Việt gốc Hoa nhưng khi ra nước ngoài chỉ còn là những người Mỹ, người Pháp, người Úc gốc Hoa. Tuy vậy, kết quả vẫn còn đó, một cộng đồng người Việt hải ngoại gần ba triệu người, trong đó phân nửa sinh ra tại hải ngoại đã thành hình. Và đây là một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại nhất từ ngày lập quốc.

Một lời sau cùng trước khi sang phần khác : chúng ta sẽ rất lầm nếu căm thù đảng cộng sản và chế độ cộng sản. Chế độ cộng sản là một giai đoạn chuyển tiếp lô-gích từ chế độ quân chủ Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ. Chủ nghĩa cộng sản, dù được văn bản hóa tại châu Âu, chỉ là một cải tiến của Khổng Giáo. Về bản chất, cộng sản và Khổng Giáo chỉ là một ; ý thức hệ cộng sản đã cải tiến Khổng Giáo bằng cách đem vào, ở một mức độ thấp, một số ý niệm mới : luật pháp và nhân quyền, cùng với một kỹ thuật tổ chức hiệu lực hơn. Đó là điều sẽ được trình bày trong phần sau.

Ở đây, tôi chỉ xin đưa ra hai nhận định. Một là, lý do chính khiến đảng cộng sản đã được hưởng ứng và đã thành công là vì chủ nghĩa cộng sản rất phù hợp với văn hóa Khổng Mạnh mà chúng ta đã thấm nhuần và trân trọng trong suốt dòng lịch sử. Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản bởi vì đó là một giai đoạn chuyển tiếp tự nhiên trừ khi chúng ta làm một bước nhảy vọt về văn hóa và tâm lý, nhưng bước nhảy vọt này đã không có. Hai là, chế độ cộng sản, nhìn như một giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ quân chủ tuyệt đối đặt nền tảng trên Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ, đã kéo dài bởi vì chúng ta chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo một cách quá nặng nề.

Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản vì, do thiếu kém tư tưởng, chúng ta đã không dám hoặc không muốn vứt bỏ một cách dứt khoát và nhanh chóng Khổng Giáo để quả quyết chọn lựa dân chủ. Không thiếu những người vừa chống cộng kịch liệt vừa đề cao Khổng Giáo như một đạo lý cao đẹp chỉ cần cải tiến để thích nghi với thời đại mùới mà không ý thức được rằng chủ nghĩa cộng sản chính là một cải tiến lớn của Khổng Giáo. Không phải là một sự tình cờ mà phong trào cộng sản đã thành công ở cả ba nước theo Khổng Giáo : Trung Quốc, Cao Ly và Việt Nam (trái với một nhận định hời hợt, Nhật Bản không phải là một nước Khổng Giáo). Cũng không phải là một sự tình cờ mà ba trong bốn nước cộng sản còn lại là những những nước thuộc văn hóa Khổng Giáo. Cộng sản không phải là một tai họa từ trên trời rơi xuống, nó tự chính chúng ta mà ra. Đó là một di sản của lịch sử mà chúng ta phải nhìn nhận và quản lý đúng đắn để thoát khỏi.

Published in Tư liệu

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Một - 1

 

Đất nước và con người

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 1

 

*******************

Sơn hà gấm vóc

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 2

 

Tôi còn nhớ một bài thơ học thuộc lòng lúc ở lớp Nhất tiểu học, không biết của tác giả nào :

     Trên dải đất chạy ven bờ biển cả

     Dưới trời Đông Nam Á rạng màu xanh

     Một giống người nhỏ bé nhưng tinh anh

     Đã xây đắp một sơn hà gấm vóc...

Trong trí óc non yếu của tôi, nước Việt Nam ta rộng rãi và phì nhiêu, người Tàu chen chúc nhau phải di dân sang nước ta lập nghiệp. Đất nước ta, theo những bài học đầu đời của tôi và được nuôi dưỡng cho đến tuổi thanh niên, đầy tài nguyên phong phú. Nước ta đầy hứa hẹn và có một tương lai vô cùng xán lạn.

Ý nghĩ đất nước ta có tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú là ý nghĩ rất lan tràn. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu người quả quyết như vậy. Sau 30/4/1975, trong trại cải tạo, tôi được nghe rất nhiều sĩ quan, công chức của miền Nam cũ lên án đế quốc Mỹ là đã tới Việt Nam để cướp bóc tài nguyên. Một anh cựu trung úy và tốt nghiệp văn khoa còn phát biểu rằng sở dĩ đế quốc Mỹ lập căn cứ Khe Sanh là vì ở đấy có một mỏ uranium lớn. Một công chức khác nói rằng Mỹ đến Việt Nam, hất Pháp ra là vì những giếng dầu khổng lồ của Việt Nam. Có anh còn nói các giếng dầu của Việt Nam, so với các giếng dầu ở Trung Đông như con voi so với con tem. Anh ta không giải thích tại sao Mỹ lại rút lui, bỏ rơi những giếng dầu khổng lồ đó.

Dĩ nhiên họ phát biểu vì hoàn cảnh. Họ thua trận, họ vào tù, họ phải mạt sát chế độ Việt Nam Cộng Hòa và đế quốc Mỹ để mong được khoan hồng. Nhưng những điều họ nói về tài nguyên đất nước là thành thực. Họ tin như thế. Tôi hỏi anh sĩ quan đã nói về mỏ uranium ở Khe Sanh thì anh ta không có một dữ kiện nào cụ thể cả, nhưng anh ta tin như thế và tin chắc như đinh đóng cột.

Không hiểu vì lý do nào mà hầu hết mọi người Việt Nam đều có niềm tin sai lầm rằng đất nước Việt Nam bao la, tài nguyên của Việt Nam vô tận. Cuốn Địa Lý Kinh Tế Việt Nam (Văn Trai, chủ nhiệm bộ môn Địa Lý Kinh Tế Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh, xuất bản lần thứ 4 năm 1990) khẳng định : "Các tài nguyên quặng mỏ ở nước ta có nhiều loại trữ lượng lớn, chất lượng cao, dễ khai thác, bảo đảm phát triển công nghiệp trong nước lâu dài và mạnh mẽ, đồng thời còn có thể xuất khẩu nữa". Niềm tin ở tài nguyên to lớn của đất nước rất thường gặp trong nhiều bài viết, bài nói và tác phẩm của các tác giả thuộc mọi khuynh hướng chính trị. Niềm tin này tạo ra một sự yên tâm tai hại. Hình như mọi người Việt Nam đều tin rằng đất nước mình thế nào rồi cũng sẽ phú cường, do đó mà mất đi sự lo lắng cần thiết để giữ gìn đất nước và xây dựng tương lai. Và cũng vì thế mà có tâm lý phá hoại và vô trách nhiệm.

Sự yên tâm này không những chỉ tai hại mà còn làm chết người. Đó là tâm lý ngự trị trong đầu óc những người lãnh đạo đảng cộng sản. Năm 1945 họ thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, họ đập phá tất cả các thành phố, đường bộ, đường sắt. Trong chiến tranh họ không bao giờ lưỡng lự khi phá hoại bất cứ một công trình nào. Một bài "tình ca yêu nước" của người cộng sản có hai câu :

     Em đi phá lộ Đông Dương,

     Anh về đánh bốt Mỹ Lương, Đông Hà.

(Đánh bốt có nghĩa là đánh đồn. Trẻ em thường hát sai thành đánh đốt).

Thơ mộng quá ! Còn ông Hồ Chí Minh ? Ông phát biểu quyết tâm chinh phục miền Nam như sau : "Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không thể nào thay đổi". Ghê gớm không ! Sẵn sàng chấp nhận chiến tranh đến sông cạn, núi mòn, không lý gì đến sự tàn phá mà đất nước có thể phải chịu đựng. Một lần khác ông tuyên bố rằng đế quốc Mỹ có thể gia tăng ném bom tại Bắc Việt, có thể phá hoại đường sá, hay tiêu hủy nhiều thành phố nhưng sẽ không bao giờ làm cho đảng cộng sản Việt Nam nhụt ý chí đấu tranh.

Độc giả đừng vội nghĩ rằng tôi đang chống cộng và kể tội người cộng sản. Tôi nghĩ rằng trong thâm tâm không nhiều thì ít ai cũng yêu nước, và người cộng sản cũng thế. Có lẽ sai lầm cơ bản là chúng ta không đánh giá đúng tiềm năng của đất nước và mức độ chịu đựng tối đa của nó. Chúng ta nghĩ rằng nước ta có tiềm năng vô tận và vì thế có bị đập phá cũng không sao.

Nếu ngược lại ta ý thức rằng đất nước ta nhỏ bé chật hẹp, tài nguyên của ta ít ỏi, có lẽ ta sẽ hành xử rất khác. Ta sẽ quí từng con đường nhỏ, từng cây cầu, từng dãy phố, từng căn nhà. Chúng ta sẽ tránh được những phí phạm và những cuộc chiến tranh làm chết hàng triệu người và tàn phá đất nước.

Mà sự thực ta có gì đâu ?

Mỏ quan trọng nhất trong đất liền của ta là than đá anthracite với trữ lượng 6 tỷ tấn. Sản lượng hàng năm là 8 triệu tấn, nếu khai thác tối đa có thể đạt tới 20 triệu tấn. Có nên khai thác tối đa hay không lại là một vấn đề khác. Nhưng ngay cả như thế sản lượng than đá của ta cũng chỉ bằng ba phần ngàn sản lượng hàng năm của thế giới, thua xa Cao Ly (77 triệu tấn), Ba Lan (150 triệu tấn), Đức (77 triệu tấn), Anh (93 triệu tấn). Đó chỉ là để kể một vài nước có diện tích tương đương hay nhỏ hơn nước ta. Và tất cả những nước này còn nhiều tài nguyên phong phú khác mà ta không có.

Mỏ sắt của ta, được kể như một tài nguyên lớn, chỉ có trữ lượng tổng cộng 540 triệu tấn - nghĩa là rất khiêm nhường, tương đương với sáu tháng sản xuất trên thế giới -, đã thế lại phân tán ra trên 200 mỏ, cho nên không thể khai thác qui mô được.

Các mỏ khác của ta đều không đáng kể. Thí dụ như nickel, một trong những tài nguyên được coi là quan trọng của ta chỉ có một trữ lượng tổng cộng cho các mỏ là 3 triệu tấn, nhưng phần lớn lại pha lẫn trong chrome, ở Cô Định (Thanh Hóa), tương đương với một năm sản xuất của hòn đảo nhỏ xíu Nouvelle Calédonie.

Ngoài ra ta có hai mỏ khác có triển vọng khá là mỏ chrome ở Thanh Hóa (trữ lượng 21 triệu tấn) và mỏ apathite ở Lào Cai (trữ lượng công nghiệp 135 triệu tấn).

Từ vài năm gần đây, Việt Nam trông đợi rất nhiều vào dầu khí. Nhưng đây cũng chỉ có thể là một hy vọng rất khiêm nhường. Trữ lượng của ta, theo những ước đoán lạc quan, không bao nhiêu, chỉ vào khoảng 400 triệu tấn (thế giới : 400 tỷ tấn). Sản lượng dầu lửa hợp lý của ta sau này chỉ có thể đạt tới mức tối đa 15 triệu tấn mỗi năm, nghĩa là tương đương với một tuần lễ sản xuất của Mỹ, hoặc Nga, hoặc Saudi Arabia, trừ khi ta áp dụng chính sách ăn xổi ở thì, khai thác cho hết thực nhanh chóng và bất chấp tương lai. Trong trường hợp này những đầu tư thiết bị vào dầu lửa sẽ thành vô dụng sau một thời gian ngắn. Mặt khác, nhu cầu năng lượng của ta sẽ tăng lên mau chóng (ít ra ta phải hy vọng như vậy) cùng với đà phát triển, và các mỏ dầu chỉ giúp ta giảm nhẹ hóa đơn dầu nhập cảng mà thôi.

Khí đốt, hy vọng mới của Việt Nam cũng vậy, với một trữ lượng 100 tỷ mét khối (hy vọng rằng ta còn tìm được thêm), 1% của trữ lượng trong vùng và 7 phần mười ngàn (7/10.000) trữ lượng thế giới, ta cũng chỉ có thể hy vọng bớt đi phần khí đốt phải mua vào mà thôi.

Nếu cần một con số nói lên sự nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên của ta thì đó là con số 13. Hiện nay, năm 2000 chúng ta đứng hàng thứ 13 trên thế giới về dân số với 78 triệu người, nếu không kiểm soát được đà gia tăng thì đến đầu thế kỷ 21 chúng ta sẽ qua mặt Đức (80 triệu dân) để lên hàng thứ 12, nhưng ta không đứng trong số 13 nước đầu, mà cũng không đứng trong số 30 nước đầu, về một tài nguyên nào cả.

Tài nguyên đã giới hạn như thế hiện nay chúng ta lại rất nghèo, rất lạc hậu, rất thua kém. Liệu chúng ta có một tương lai nào không ? Và nếu muốn có thì phải làm thế nào ? Hãy khoan trả lời những câu hỏi đó. Nhưng ngay tại đây ta có thể nói rằng ý thức được hoàn cảnh khó khăn của mình tự nó cũng đã là một hành trang quí báu, bởi vì nó cho ta một cách ứng xử đúng đắn, nó đem lại cho ta một thái độ lo lắng và thận trọng trong việc dựng nước, nó giúp ta ý thức được sự cần thiết của cố gắng.

 

********************

 

Rất đượm hương và rộn tiếng chim

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 3

 

Không biết ông Tố Hữu có phải là nhà thơ theo đúng nghĩa của một nhà thơ không. Nhưng ông có tài làm thơ, hiểu theo nghĩa những câu ngắn có vần ở cuối, và tài làm thơ đã góp phần quyết định đưa ông lên gần tới tột đỉnh của danh vọng và quyền lực. Ông biết dùng những hình ảnh rất đẹp và giản dị ngay cả khi để diễn tả những tình cảm giả tạo với những mục đích rất thực tiễn. Như khi ông dùng hình ảnh đứa bé tập nói để ca tụng Stalin, hay khi ông dùng hình ảnh một người con ân cần nắm tay cha để nịnh Hồ Chí Minh. Bài thơ "Từ ấy" của ông được người cộng sản ca tụng như một bài thơ hay. Nó bắt đầu như sau :

     Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

     Mặt trời chân lý chiếu qua tim

         Hồn tôi là một vườn xanh lá
     Rất đượm hương và rộn tiếng chim.

Qua những câu thơ này, ông Tố Hữu muốn diễn tả nỗi hân hoan của ông khi tìm ra chân lý Mác-Lênin và dấn thân tranh đấu trong Đảng Cộng Sản Việt Nam. Còn gì đẹp bằng màu xanh của lá và tiếng hót của chim ?

Ông Tố Hữu đã tranh đấu và đã thành công. Lý tưởng của ông đã đạt được. Con đường thắng lợi của đảng ông đã đi qua hàng triệu xác chết. Để đi đến kết quả nào ?

Trong mùa hè 1992, một người bạn Pháp, sau chuyến đi công tác một tháng tại Việt Nam, kể cho tôi nghe là anh ta thường thức dậy sớm vì sai biệt giờ giấc. Anh ta nói khu anh ta ở không có chợ vì nằm ngoài thành phố và buổi sáng im lặng một cách lạ thường vì hoàn toàn không có một tiếng chim.

Anh ta có nhiều chuyện quan trọng hơn để nói cho tôi nghe và tôi cũng có nhiều chuyện để hỏi anh ta ; những số liệu, những cuộc gặp gỡ, những nhân vật đã tiếp xúc, nhận định, cảm tưởng v.v... Và tôi không lưu ý tới chi tiết này.

Ít lâu sau, lại một người bạn khác, hay đi về Việt Nam, kể cho tôi nghe chuyện qua bắc Mỹ Thuận. Tôi thình lình nhớ tới những quán bán chim nướng và hỏi anh ta có ăn chim nướng ở đó không. Anh ta trả lời rằng có, nhưng đó chỉ là gà con mới nở được đem chiên thay cho chim chứ chim không còn nữa. Tôi bắt đầu lưu ý tới đàn chim Việt Nam.

Trong mùa hè 1993, nhiều anh em trong nhóm Thông Luận về thăm nhà. Tôi dặn mọi người để ý xem Việt Nam còn nhiều chim không. Họ đều thuật lại như nhau, và điều họ nói làm tôi sửng sốt : Việt Nam không còn chim ! Chỉ có một người bạn đi từ Nam ra Bắc mới thấy một con chim ở Vịnh Hạ Long, anh ta vội vã lấy máy hình ra chụp ảnh con chim ấy đem về cho tôi.

Cà Mau trước đây có một rừng cò lớn, có rất nhiều loại cò, nhiều đến nỗi có những người chuyên đi vào rừng lượm trứng cò và mỗi ngày lượm được cả rổ đem ra chợ bán. Tôi dặn một người bạn nhớ viếng khu rừng cò đó và anh ta cho tôi hay khu rừng cò chỉ còn rất ít cò, ít một cách không đáng kể.

Thế là cuộc cách mạng của ông Tố Hữu thành công và Việt Nam hết chim.

Còn màu xanh của lá ?

Những người qua lại Việt Nam đều đồng ý. Rừng bị phá hoại thẳng tay. Cho tới năm 1993, hàng ngàn công ty thi nhau đốn cây lấy gỗ xuất khẩu. Hàng trăm ngàn gia đình sống bằng nghề phá rừng lấy củi đem bán cho hàng triệu gia đình cần chất đốt. Chỉ tới giữa năm 1993, nhà nước mới ra lệnh cấm xuất cảng gỗ, và mới bắt đầu có một cố gắng rất hình thức để trồng lại rừng, nhưng rừng vẫn tiếp tục bị phá nhanh chóng. Nhà nước cộng sản cũng không giấu giếm việc này, và nhiều báo chí đã lên tiếng báo động. Nhưng còn gì để báo động ? Những con số đã thực kinh khủng : 3/4 rừng Việt Nam đã bị phá, chỉ riêng trong 20 năm từ 1975 đến 1995, kể từ ngày đất nước thống nhất hơn một nửa diện tích rừng trên toàn quốc bị phá hủy. Mùa hè 1999, tôi lại được đọc một nguồn tin của nhà nước theo đó thì khoảng 1/3 diện tích rừng đã bị phá từ năm năm qua. Rừng Việt Nam còn lại bao nhiêu có lẽ không ai biết được một cách chính xác, nhưng tôi nghĩ sự thực có lẽ còn bi đát hơn các con số.

Báo chí thế giới đã nói tới rất nhiều, và chính quyền còn nói nhiều hơn, về những tàn phá gây ra cho rừng vì những thảm bom B52 và nhất là chất độc màu da cam của Mỹ. Điều đó đúng, và rừng cây Việt Nam đã bị thiệt hại rất nhiều. Nhưng không thấm vào đâu so với những tàn phá của 25 năm quản lý đất nước bất chấp môi sinh !

Người ta cứ tưởng đất nước Việt Nam vô tận, thiên nhiên Việt Nam vô tận nên cứ thẳng tay tàn phá.

Vô lý nhất là việc cho phép xuất cảng gỗ cho tới vài năm gần đây, cũng vô lý và đần độn như việc xuất khẩu kim loại phế thải trước đây với giá rẻ mạt, rồi bây giờ phải mua lại với giá đắt gấp mấy chục lần. Việt Nam chưa bao giờ dư gỗ cả. Chúng ta có gỗ để xuất khẩu chỉ vì chúng ta quá nghèo. Không cần nói tới miền Bắc và miền Trung, nơi cuộc sống nông thôn chỉ là một sự đày đọa và ở đó chẳng làm gì có chuyện sắm bàn ghế, giường gỗ, tủ gỗ. Tôi đã đi qua các tỉnh miền Tây Nam phần trù phú, ở đó hầu như tất cả các căn nhà đồng quê đều dựng lên bằng tre, và mỗi gia đình chỉ có một hai chiếc giường bằng gỗ ; bàn ghế hầu như không có. Khi mức sống đã tăng lên, và phải hy vọng là mức sống sẽ tăng lên, chúng ta sẽ phải nhập cảng một số lượng gỗ lớn.

Đất nước ta đã chật hẹp, đã không có tài nguyên thiên nhiên, còn bị phá hủy và trở thành cằn cỗi. Không còn rừng xanh và bặt tiếng chim !

Ngày xưa, Nguyễn Trãi kể tội quân Minh tàn phá nước ta : "Tàn hại cả côn trùng thảo mộc" Quân Minh không phải là người Việt Nam và vì thế có thể không quí trọng thiên nhiên Việt Nam. Ngày nay chính người Việt Nam tàn phá đất nước Việt Nam.

Khi đất nước Việt Nam đã bị tàn phá đến nỗi không còn sinh sống được nữa thì cũng không còn gì để nói và làm nữa.

Tôi đã có dịp ghé thăm nước Tunisie. Quốc gia bé nhỏ này đang bị thiên nhiên tiêu diệt từ từ. Sa mạc ngày càng lấn lên từ miền Nam, nước Tunisie đã nhỏ lại càng nhỏ lại. Sự thiếu thốn thảo mộc đang làm thay đổi cả thời tiết. Mưa đổ ào xuống trong vòng 10 ngày mỗi năm, rồi sau đó là hạn hán. Những con sông trung bình chỉ có nước một hai ngày mỗi năm, những ngày còn lại chúng để trơ lòng sông nứt nẻ. Cả một cố gắng vĩ đại và tuyệt vọng được tung ra để trồng cây ngăn chặn sự gậm nhấm của sa mạc. Nhưng đó là một thiên tai. Ở Việt Nam tai họa do con người và do người Việt Nam. Tuy vậy Tunisie vẫn còn chim, mắt tôi đã nhìn thấy nhiều đàn chim.

Việt Nam không còn chim.

-------------------------

Chú thích cho lần tái bản (2004)

Một cách không ngờ, đoạn văn trên đây đã gây khá nhiều chú ý và bàn cãi. Một giáo sư đại học Hà Nội nhắn qua phê bình tác giả Tổ Quốc Ăn Năn là quá khích. Ông bảo đảm nhận định Việt Nam không còn chim là sai, bằng cớ là ngay tại làng ông, bên cạnh Hồ Tây, đã có một đôi chim đến làm tổ và ông đã quay phim. Nhiều người mới về thăm Việt Nam cũng thuật lại đã nhìn thấy chim, dù rất ít. Trong một bài viết gần đây về Tổ Quốc Ăn Năn, Nguyễn Vũ Bình báo tin mừng : cân bằng sinh thái đã phần nào được phục hồi, đã có những đàn chim năm, bảy con.

Bỏ qua sự kiện những nhận xét trên đây đã được một số người sử dụng để bài xích cuốn sách, tác giả phân vân giữa hai cảm nghĩ : một niềm vui và một sự lo âu. Vui vì môi trường đã khá hơn, nhưng lo âu vì ưu tư về môi trường của người Việt chúng ta còn ít quá. Chúng ta dễ tính quá. Không thể hài lòng với vài đàn chim năm, bảy con. Chúng ta cần vài trăm triệu chim trên đất nước.

Chúng ta cần chim lắm. Chim cần cho môi trường nhưng cũng cần cho con người. Tiếng chim làm cho cuộc đời vui, tâm hồn sạch ra và dịu lại. Cánh chim bay là hình ảnh thôi thúc của tự do, của sự vượt thoát. Chim khiến con người trở thành hiền hòa và cao thượng.

******************

Sơn xuyên chi cương vực ký thù

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 4

 

Nguyễn Trãi (1380-1442) mở đầu bài Bình Ngô Đại Cáo như sau :

     Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân,

     Điếu phạt vi sư mạc tiên khử bạo.

     Duy ngã Đại Việt chi quốc,

     Thực vi văn hiến chi bang,

     Sơn xuyên chi cương vực ký thù,

     Bắc Nam chi phong tục diệc dị.

Trong Việt Nam Sử Lược, học giả Trần Trọng Kim cung cấp một bản dịch mà nhiều người nói là của cụ Bùi Kỷ : "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác".

Bình Ngô Đại Cáo là một áng văn bất hủ, lời lẽ hùng tráng mà ý kiến cũng rất sâu sắc. Được sáng tác vào năm 1427 khi nước ta vừa giành lại được độc lập từ tay quân Minh, Bình Ngô Đại Cáo có giá trị của một bản tuyên ngôn độc lập. Nó xác nhận văn tài xuất chúng và ý thức chính trị phi thường của Nguyễn Trãi, một trong những anh hùng kiệt xuất nhất trong suốt dòng lịch sử của nước ta.

Hầu hết mọi người Việt Nam đều chỉ biết đến Bình Ngô Đại Cáo qua bản dịch của Trần Trọng Kim (hay Bùi Kỷ ?). Bản dịch đó cũng là một tuyệt tác. Tuy nhiên, phù hợp với văn phong của thời các cụ Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, nó chú trọng đến lời văn và âm hưởng nhiều hơn là ý, và dịch giả đã bỏ qua một chi tiết có tầm quan trọng rất lớn trong sự tồn tại của đất nước ta mà Nguyễn Trãi có thể đã muốn nêu ra. "Sơn xuyên chi cương vực ký thù" được dịch là "Sơn hà cương vực đã chia" thay vì "núi sông bờ cõi riêng biệt" hay "lãnh thổ có núi ngăn chia". Cụm từ "sơn xuyên", có nghĩa là núi sông nhưng cũng có thể có nghĩa là cách núi. Nguyễn Trãi có thể đã muốn nhấn mạnh sự kiện Việt Nam và Trung Quốc cách nhau một dãy núi. Câu mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo có thể dịch sát nghĩa hơn như sau :

"Chính trị chủ yếu mưu tìm hòa bình, chiến tranh chỉ là để khử trừ bạo ngược. Nước Việt Nam là một nước văn hiến, lãnh thổ ta và Trung Quốc có núi ngăn chia, phong tục Bắc Nam cũng khác nhau...".

Mặc dù Nguyễn Trãi chủ ý nói thế nào đi nữa thì "vách núi" cũng vẫn là một yếu tố rất quan trọng của nước ta. Chính nhờ núi mà nước ta còn đến ngày nay. Dọc theo biên giới Trung Quốc là cả một vùng núi non dày đặc, dày gần một trăm cây số. Dọc theo biên giới Lào là dãy Trường Sơn. Hai dãy núi này kết hợp với nhau làm một tường thành kiên cố che chở và cô lập các đồng bằng miền Bắc và miền Trung nước ta. Chính nhờ núi mà Trung Quốc đã không thể thôn tính và đồng hóa nước ta, và cũng nhờ núi mà nước Lào đã không bị Việt hóa.

Trước đây khi nước ta chưa thực sự hình thành, thế lực còn đơn sơ đến độ một đạo quân nhỏ cũng đủ để chinh phục, Trung Quốc đã đặt được sự thống trị lên quận Giao Chỉ, nhưng số người Tàu đủ mạo hiểm để vượt núi qua nước ta lập nghiệp đã rất giới hạn. Vì thế mà một ngàn năm Bắc thuộc đã không thể biến Việt Nam thành một vùng hoàn toàn hội nhập vào Trung Quốc. Khi người Việt Nam trở thành đông đảo với thời gian và giềng mối xã hội trở thành gắn bó, ta đã đuổi được quan cai trị người Tàu rồi bảo vệ được nền độc lập. Từ khi giành hẳn được độc lập, năm 939, ta chỉ bị rơi vào ách Bắc thuộc hai mươi năm, từ 1407 đến 1427, trong một bối cảnh suy đồi đặc biệt. Cuộc chiến tranh giải phóng do Lê Lợi cầm đầu đã rất vẻ vang, nhưng khách quan mà nói lực lượng Trung Quốc xa hậu cứ và khi phải đương đầu với cuộc chiến tranh giải phóng Trung Quốc đã không chứng tỏ một quyết tâm đặc biệt nào để duy trì nền thống trị.

Các đạo quân xâm lăng phải vượt qua những đường mòn chật hẹp dài cả trăm cây số nên vận tải lương thực rất khó khăn, và làm mồi ngon cho các cuộc phục kích. Muốn xâm nhập nước ta, quân Trung Quốc thường phải đi đường biển đổ bộ xuống vùng Nghệ An, rất xa địa điểm xuất phát xét theo phương tiện di chuyển ngày xưa, hay cửa Bạch Đằng, tuy gần hơn nhưng vẫn còn phải đi một chặng đường hiểm trở để tiến về Hà Nội.

Nhờ thường xuyên đánh thắng quân xâm lăng phương Bắc, chúng ta hay tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc, mà ít khi chịu khiêm tốn để nhìn nhận rằng sự tồn tại của nước ta chỉ được bảo đùảm nhờ vách núi dày đặc và hiểm trở. Nhiều nhà lý luận nặng đầu óc dân tộc đã biện bạch rằng dân ta đứng vững được nhờ có một nếp sống riêng, một nền văn hóa dân tộc cao, một tinh thần dân tộc cao và một tinh thần chiến đấu đặc biệt kiên cường.

Những yếu tố đó đều đúng nhưng chỉ đúng một phần mà thôi. Ta đã phóng đại và huênh hoang quá đáng.

Thực ra tinh thần dân tộc của ta không lấy gì làm mạnh và khả năng chiến đấu của ta tuy khá nhưng không thể nói là phi thường.

Về văn hóa, ta đã bắt chước người Tàu một cách mê mải và vô điều kiện. Nếu văn hóa của ta vẫn còn khác văn hóa Tàu thì cũng chỉ vì ta bắt chước chưa xong mà thôi. Văn hóa ta khác văn hóa Trung Hoa không phải ở chỗ ta thực sự khác mà là ở chỗ ta chưa bằng. Sự khác biệt ở trình độ nhiều hơn là ở bản chất.

Sau này khi lệ thuộc người Pháp, chúng ta cũng đã mê mải chạy theo văn hóa Pháp. Nhiều người còn muốn quên hẳn gốc gác Việt Nam.

Những người "vong bản" này không hẳn là những người "phản quốc", ngay cả "phản quốc" hiểu theo nghĩa cộng sản. Năm 1980, tôi có dịp nghe một bài nói chuyện của ông Phạm Văn Đồng, lúc đó là chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông Phạm Văn Đồng là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của cuộc chiến tranh cam go chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông Đồng là người đã giữ chức vụ thủ tướng lâu nhất tại Việt Nam, trong gần 40 năm. Trong các lãnh tụ cộng sản, ông là người được các đảng viên kính trọng nhất sau ông Hồ Chí Minh. Ông được coi là lãnh tụ cộng sản kỳ cựu có văn hóa cao. Điều đặc biệt là ông Phạm Văn Đồng, mặc dầu đảm nhiệm chức vụ chính trị quan trọng đã tỏ ra đặc biệt ưu tư tới tiếng Việt. Ông viết một loạt bài dưới đề tựa "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt".

Và tôi đã nghe ông Đồng nói những gì ? Bài nói chuyện của ông có ít nhất 20% là tiếng Pháp. Ông chêm tiếng Pháp bất cứ lúc nào ông có thể chêm được. Có khi ông nói cả những câu hoàn toàn bằng tiếng Pháp mà hầu hết cử tọa không hiểu. Tôi hỏi một người bạn đảng viên khá cao cấp đã nhiều lần nghe ông Đồng thuyết trình, anh ta cho hay ông Đồng lúc nào cũng nói như vậy vì "ông ấy học giỏi và quen miệng nói tiếng Pháp". Thực ra bác sĩ Đặng Văn Hồ (mà tôi gọi bằng chú do một liên hệ gia đình gián tiếp), bạn học của ông Đồng, cho tôi hay ông Đồng chưa học hết trung học bản xứ và đã từng nói với bác sĩ Đặng Văn Hồ rằng : "Mày đậu tú tài thì học tiếp, tao không có tú tài thì đi làm cách mạng". Như thế vốn liếng tiếng Pháp của ông Đồng tuy có thực nhưng không nặng đến nỗi sau hơn một nửa thế kỷ đấu tranh chống Pháp ông vẫn còn phải chêm tiếng Pháp luôn miệng như vậy. Tôi học và sử dụng tiếng Pháp nhiều hơn hẳn ông Đồng, tôi cũng sinh sống tại đất Pháp lâu năm, nhưng không có nhu cầu phải pha thêm tiếng Pháp trong khi viết và nói tới mức độ như ông Đồng. Ông Đồng chêm tiếng Pháp vì ông thích tiếng Pháp, cho rằng nói "tiếng Tây" là sang. Và ông nghĩ như vậy, bởi vì những người chung quanh ông cũng nghĩ như vậy. Người Việt Nam rất vọng ngoại về mặt văn hóa.

Đã nói tới người cộng sản thì cũng phải nói đến người quốc gia. Ông Nguyễn Văn Thiệu tuy vốn liếng tiếng Pháp chẳng hơn gì ông Đồng là mấy nhưng cũng luôn miệng nói tiếng Pháp. Trong biên lai mà ông ký cho tướng Trần Văn Đôn để nhận một triệu đồng tiền thưởng của tình báo Mỹ sau cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, ông viết "Bon pour 1.000.000 piastres". Một biên lai giữa người Việt với nhau lại viết bằng tiếng Pháp. Như thế mới sang. Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và Bộ Kinh Tế, tôi đã được đọc nhiều hồ sơ. Hồ sơ nào hầu như cũng pha tiếng Pháp, có hồ sơ hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Đó là sau khi Pháp đã ra đi gần 20 năm !

Sức chiến đấu kiên cường của ta cũng cần xét lại. Quả thật ta đã có những chiến công hiển hách, nhưng cũng có những lúc mà sức chiến đấu của ta kể như không có. Bảy người lính Pháp đã có thể vào chiếm tỉnh Ninh Bình, bắt quan quân Việt Nam quì gối hạ khí giới. Vài trăm lính Pháp đã có thể hạ được Thăng Long, đánh tan nhiều ngàn quân Việt Nam, một lần bắt sống Nguyễn Tri Phương, một lần buộc Hoàng Diệu phải tuẫn tiết.

Hồ Quí Ly chuẩn bị một đạo quân đông đảo và hùng hậu để đương đầu với quân Minh. Nhưng chỉ một đạo quân nhỏ của Trương Phụ đã đánh tan được toàn bộ quân nhà Hồ và bắt sống Hồ Quí Ly trong một thời gian chớp nhoáng.

Vậy phải giải thích thế nào những chiến công của ta ? Quan sát kỹ ta thấy người Việt Nam có tâm lý sợ và phục tùng uy quyền. Khi có những cấp chỉ huy cứng cỏi, họ chiến đấu có hiệu lực. Nhưng không nên vội đồng hóa tâm lý sợ và phục tùng cấp trên với ý chí sẵn sàng chiến đấu và chấp nhận hy sinh vì đất nước. Trong một đoạn khác tôi sẽ trở lại vấn đề này.

Tôi nói văn hóa đặc thù của ta không có bao nhiêu, tinh thần dân tộc và khả năng chiến đấu của ta chỉ giới hạn hoàn toàn không phải nhằm mục tiêu hạ nhục dân tộc ta. Để làm gì ?

Tôi chỉ muốn lưu ý rằng khả năng tự vệ của dân tộc ta thực ra chỉ vừa phải, chúng ta đã tồn tại được chủ yếu là nhờ có núi làm biên giới thiên nhiên. Ngày nay, trong thế giới hiện đại này, núi không còn là mộc che thân của ta nữa và biển lại là cửa vào xâm nhập lý tưởng ; sự xâm nhập không còn bằng quân sự mà bằng văn hóa, kinh tế, thương mại, sách báo, phim ảnh, âm nhạc, radio, tivi, internet, quần áo, và cả thực phẩm, đồ chơi. Ta phải hết sức lo lắng để giữ nước vì bài toán giữ nước đã thay đổi hoàn toàn. Chúng ta không còn trông vào núi được nữa. Muốn giữ nước từ đây ta phải có khả năng tự vệ thực sự, tinh thần dân tộc thực sự, lòng yêu nước thực sự.

Làm thế nào để có những yếu tố đó phải là ưu tư của mọi người quan tâm tới đất nước.

 

********************


Nước non nghìn dặm

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 5

 

Người Việt Nam nào hình như cũng biết câu ca dao "Nước non nghìn dặm ra điê. Cụm từ nước non nghìn dặm cũng đã là đầu đề của nhiều tác phẩm, và được dùng trong vô số bài hát, bài thơ. Nó đã làm cho nhiều người nghĩ đất nước ta rộng rãi, bao la.

Sự thực thì chúng ta rất thiếu đất. Với 78 triệu người (năm 2000) trên một diện tích 330.000 km2, nghĩa là 237 người trên một kilômét vuông, chúng ta là một trong những nước có mật độ cao nhất, gần gấp đôi Trung Quốc (120 người / km2) và xấp xỉ bằng Ấn Độ (270 người / km2), hai nước được coi là có nạn nhân mãn trầm trọng.

Nhưng không phải chỉ có thế. Tình trạng thiếu đất thật ra còn trầm trọng hơn nhiều. Nếu núi đã giúp ta giữ nước, thì núi và đồi cũng đã chiếm mất của ta ba phần tư lãnh thổ. Tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ, đồi và núi chiếm hơn 80% lãnh thổ. Tỷ lệ đất đai canh tác được của ta không tới 25%. Nếu trừ đi thành phố, nhà cửa, đường sá, sông ngòi thì diện tích còn lại để trồng lúa tối đa của ta không quá 7 triệu héc-ta.

Nói đến thiếu đất người ta nghĩ ngay đến hạn chế sinh đẻ. Chính quyền hiện nay theo đuổi một chính sách hạn chế sinh đẻ vừa rời rạc vừa hung bạo.

Trong truyện ngắn nổi tiếng "Tướng về hưu", nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể chuyện một vị tướng cộng sản về hưu đã phải bỏ ra đi tìm lại đơn vị cũ của mình để rồi thiệt mạng vì không thể chịu đựng được cảnh cô con dâu, một bác sĩ sản khoa, đem những thai nhi đã bị phá về nhà làm thức ăn nuôi chó béc-giê kỹ nghệ.

Trong cuộc Hội Luận Dân Chủ Đa Nguyên tháng 10/1990, nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp, vừa từ Việt Nam sang sau một chuyến nghiên cứu dài ba tháng về đời sống nông thôn, đã lên diễn đàn mô tả lại cảnh mà ông đã nhìn thấy, cảnh ba bốn phụ nữ bị bắt buộc phá thai trong các trạm y tế : họ nằm trần truồng bên nhau, dạng cẳng cố trục xuất thai nhi ra, sau khi đã nhận thuốc phá thai. Vì thiếu phương tiện, việc phá thai được phối hợp giữa thuốc và các biện pháp tay chân. Đinh Trọng Hiếu vừa kể vừa khóc.

Đọc báo trong nước, người ta cũng vẫn thường gặp những bài nói về các cán bộ, đảng viên bị phê bình, hay có khi bị kỷ luật vì có tới ba con.

Nhưng mặc dầu vậy, dân số nước ta vẫn tiếp tục gia tăng xấp xỉ 2%, tức khoảng một triệu rưỡi người, mỗi năm. Các biện pháp hạn chế dân số dã man đã chỉ làm xuống cấp con người chứ không ngăn chặn được nạn nhân mãn. Có lẽ vì con người trở thành rẻ rúng mà chính quyền không còn quan tâm tới sức khỏe. Sách báo không thấy đăng (hay có đăng mà tôi không đọc được ?) tỷ lệ người chết hàng năm. Tôi tìm được một cuốn sách địa lý trung học [Địa lý lớp 9 - Nguyễn Trọng Điều, Nhà xuất bản Giáo Dục, 1989] hai con số : tỷ lệ người chết là 6,3 phần ngàn năm 1979 và 6,95 phần ngàn năm 1986. Như thế có nghĩa là trong vòng 7 năm tỷ lệ người chết đã tăng lên 10%. Năm 1986 là năm bắt đầu chính sách mở cửa theo qui luật kinh tế thị trường. Từ đó hệ thống y tế của nước ta bị bỏ rơi và xuống cấp không ngừng. Hiện nay, năm 2000, y tế của ta có thể nói là đã sụp đổ hoàn toàn. Theo thống kê của nhà nước, số trẻ em chết trước khi được một tuổi đã tăng 10% trong năm 1998.

Hạn chế đà gia tăng dân số chắc chắn phải là ưu tư lớn của bất cứ một chính quyền Việt Nam nào. Nhưng trước hết phải nhìn vấn đề một cách đúng đắn, phải nhận định rằng vấn đề sinh đẻ nhiều trước hết là một vấn đề văn hóa, xã hội và nhân sinh quan chứ không phải là một vấn đề thuần túy kinh tế, và do đó không thể giải quyết bằng những quyết định hành chánh, duy ý chí.

Chính quyền cộng sản đã có một thái độ thiếu lương thiện trên vấn đề này. Trước năm 1975, đảng cộng sản hoàn toàn không đặt ra vấn đề hạn chế sinh đẻ. Lúc đi cải tạo sau ngày 30/4/1975, tôi còn được nghe một bài học tập lên án gay gắt "ngụy quyền Sài Gòn" là đã tiếp tay cho chính sách diệt chủng bằng cách hạn chế sinh đẻ. Chỉ sau Đại hội IV, năm 1976, vấn đề mới đặt ra. Và sau đó những dụng cụ và thuốc ngừa thai mới được khuyến khích, cùng với những quyết định hành chánh rất thô bạo.

Cũng cần phải phân biệt hai vấn đề hạn chế sinh đẻ và giải quyết tình trạng dân số cao. Có lẽ tất cả vấn đề là ở chỗ đó.

Nếu chỉ hạn chế sự gia tăng dân số mà thôi thì phải nói rằng đó là một cố gắng vô ích ngay cả nếu thực hiện được. Bởi vì ngay bây giờ với 78 triệu dân, chúng ta đã tuyệt vọng rồi nếu vẫn cứ là một nước nông nghiệp. Tỷ lệ đất canh tác của ta hiện nay là 10 người một héc-ta. Với tỷ lệ này thì dù có tăng năng suất tối đa và dù có luôn luôn mưa thuận gió hòa, chúng ta vẫn sẽ là một nước nghèo khổ.

Vấn đề thực sự để giải quyết nạn đất hẹp người đông là phải thay đổi chức năng của đất nước từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp. Trong dài hạn, nông nghiệp của Việt Nam chỉ có thể đảm bảo đời sống xứng đáng cho khoảng 10 triệu người, trong khi chúng ta sắp có 100 triệu dân. Phần còn lại phải chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Cuộc chuyển hóa này sẽ phải được coi là cố gắng vĩ đại nhất từ ngày lập quốc và sẽ chỉ có thể giải quyết bằng một cố gắng liên tục trong nhiều thập niên. Ngay từ bây giờ những người làm chính sách phải luôn luôn có trong đầu viễn ảnh này.

Cho tới nay, chính quyền cộng sản luôn luôn có một chính sách cư trú mâu thuẫn. Đại hội IV của đảng cộng sản (năm 1976) chủ trương tiến lên "sản xuất công nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa" nhưng đồng thời đảng lại thi hành chính sách đuổi dân ra khỏi thành phố, đưa dân về nông thôn hay đi các vùng kinh tế mới. Cho đến ngay bây giờ chuyển hộ khẩu về miền quê vẫn là chuyện dễ dàng, ngược lại chuyển hộ khẩu từ nông thôn ra thành phố vẫn là chuyện đội đá vá trời.

Nông thôn Việt Nam từ lâu đã dư người rồi và càng ngày càng dư người hơn nữa. Thêm người ở nông thôn chỉ có tác dụng chuyển sự nghèo khổ từ thành thị về nông thôn, cho khuất mắt các vị lãnh đạo, chứ không giải quyết được gì cả. Không những không giải quyết được gì cả mà còn làm giảm năng suất nông nghiệp. Đông người quá thì không thể cơ giới hóa và còn phải hạ thấp mức cơ giới hóa để sử dụng lao động dư thừa, mà đã không cơ giới hóa thì năng suất dĩ nhiên là thấp. Năng suất trung bình của ngành trồng lúa chỉ là 3,5 tấn hàng năm cho một héc-ta trong khi ruộng đất Việt Nam có thể đạt năng suất 6 tấn.

********************


Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình

 

Tổ Quốc Ăn Năn 6

Trong cuộc chuyển hóa vĩ đại từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ chúng ta gặp một trở ngại lớn : khí hậu. Chúng ta là một nước nhiệt đới, gần như nóng quanh năm, nhất là ở miền Nam. Sự phá hủy cây rừng từ nhiều năm nay, và vẫn chưa chấm dứt hẳn dù rừng không còn bao nhiêu, lại càng cho khí hậu thêm phần gay gắt khó chịu.

Khí hậu nóng làm cho con người uể oải, thiếu quyết tâm và mất kiên nhẫn. Các nước phát triển mạnh thường không phải là những nước nhiệt đới. Singapore là một ngoại lệ, nhưng Singapore không phải là một quốc gia theo đúng nghĩa của nó, mà là một thành phố và một hải cảng. Vả lại, đó là một đảo, được biển bao quanh và nhờ vậy gió biển cũng làm dịu bớt khí hậu, như tại Mã Lai. Có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định phát triển là đặc tính của các nước hàn đới và ôn đới. Bắc Mỹ phát triển hơn hẳn Nam Mỹ, Bắc Âu vượt hẳn Nam Âu. Các nước châu Á phát triển mạnh cũng thế : Nhật, Triều Tiên, Hương Cảng, Đài Loan và có lẽ sau này Hoa Lục, cũng đều là những nước lạnh, hoặc ít ra không nóng.

Có những nhà nghiên cứu xã hội lớn, như Max Weber và Alain Peyrefitte, không tin như vậy và giải thích bằng lý do văn hóa. Bắc Mỹ và Bắc Âu, theo họ, phát triển được nhờ tư tưởng Tin Lành phóng khoáng, trong khi Nam Mỹ và Nam Âu không phát triển vì ảnh hưởng giáo điều thủ cựu của Công Giáo. Phân tích này có phần đúng, nhưng cũng có thể giải thích rằng tại vì miền Bắc Âu lạnh, mà con người có chiều sâu, phát triển óc phê phán và sáng tạo rồi chấp nhận Tin Lành.

Dầu sao thì khí hậu nóng cũng vẫn là một trở ngại lớn.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đồng ý các vùng bờ biển phát triển mạnh hơn các vùng lục địa. Biển là kho tàng hải sản vô tận, là sự nới rộng của bờ cõi, và, quan trọng hơn hết, là khả năng giao thông vận tải quan trọng và quí giá vô cùng.

Khi vừa mới tốt nghiệp kỹ sư, tôi làm việc cho hãng Pechiney, công ty đứng hàng thứ nhì thế giới và thứ nhất tại châu Âu vào đầu thập niên 1970 về kỹ nghệ nhôm. Pechiney nhập cảng quặng nhôm từ Úc và châu Phi. Nhà máy luyện nhôm nơi tôi làm việc nằm ở trung tâm nước Pháp, cách cảng Marseille chừng 400 km. Chi phí chuyên chở bằng đường biển từ Úc tới Marseille gần 20.000 km, nhẹ hơn chi phí chuyên chở 400 km đường sắt từ Marseille đến nhà máy.

Ưu thế bờ biển - lục địa quan trọng không kém ưu thế lạnh - nóng. Người ta có thể quan sát rằng từ hai mươi năm nay tại Trung Quốc, vùng duyên hải đã phát triển vượt hẳn vùng lục địa. Ưu thế của bờ biển càng rõ nét trong trường hợp Trung Quốc nếu người ta nhớ lại rằng trong thập niên 1950 Mao Trạch Đông đã cho thi hành kế hoạch "đệ tam tuyến", chuyển hết kỹ nghệ vào lục địa để phòng ngừa một cuộc đổ bộ của Hoa Kỳ. Kế hoạch này đã biến Trùng Khánh thành thành phố đông dân nhất Trung Quốc, nó đã làm phá sản các vùng bờ biển.

Biển cũng làm cho khí hậu nóng bớt đi rất nhiều sự gay gắt. Nhờ biển và gió biển, khí hậu nước ta dễ chịu hơn nhiều so với khí hậu ở cùng vĩ độ tại Lào và Thái Lan. Trừ một vài tháng đặc biệt, ở vài nơi và trong vài năm khác thường, hàn thử biểu ít vượt quá 35º C. Nhiệt độ trung bình những tháng nóng nhất của nước ta chỉ là 28 hoặc 29º C, nghĩa là một nhiệt độ tuy không thoải mái nhưng vẫn còn chịu đựng được.

Chúng ta có rất nhiều bờ biển và biển của ta rất tốt. Bờ biển của ta dài 3.200 km, còn dài hơn cả chiều dài thực sự của nước ta. Cả nước ta là một dải bờ biển, điểm sâu nhất trong đất liền tại miền Bắc là 600 km, trung bình bề dày của đất nước ta là 150 km, tại Đồng Hới (Quảng Bình) bề dày này chỉ có 50 km.

Dọc theo bờ biển, chúng ta có khả năng thiết lập vô số hải cảng tốt. Hiện nay ta mới chỉ sử dụng một phần rất nhỏ của khả năng này với các hải cảng : Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn. Tiềm năng hải cảng hứa hẹn một tương lai xán lạn cho kỹ nghệ đóng tàu, bảo trì và sửa chữa tàu và chuyên chở hàng hải. Những ngành này cho tới nay ta hoàn toàn không khai thác. Tuy có nhiều cảng thiên nhiên nước sâu, nhưng nói chung bờ biển nước ta lại rất soải và có cát mịn, do đó chúng ta có nhiều bãi biển thiên nhiên tuyệt vời. Đó là những tiềm năng du lịch nếu được khai thác sẽ đem lại một nguồn lợi rất lớn vì bờ biển của ta giữ nhiệt độ quanh năm trên 25º C. Chúng ta là cửa mở ra Thái Bình Dương của cả bán đảo Trung-Ấn. Người ta có thể làm việc và kiếm tiền ở Thái Lan, Lào, Vân Nam, nhưng người ta bắt buộc phải nghỉ ngơi và tiêu xài tại bờ biển Việt Nam. Kỹ nghệ du lịch của nước ta, nếu được phát triển đầy đủ, trong trung hạn có khả năng thu hút vài chục triệu du khách mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người trong ngành du lịch cũng như trong các ngành liên hệ.

Vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam có khả năng cung cấp hai triệu tấn cá mỗi năm. Bờ biển dài và thuận lợi của Việt Nam cho phép đánh bắt thêm dễ dàng một trọng lượng cá tương đương trên biển cả. Ngư nghiệp và công nghiệp thực phẩm do nguồn hải sản cho phép ta nuôi sống một số người tương đương với nông nghiệp.

Bờ biển miền Nam còn cho ta một tiềm năng nuôi tôm cá rất quan trọng mà ta hiện chỉ khai thác được một phần rất nhỏ.

Ngoài ra, vùng Đồng Tháp thuộc đồng bằng Nam Bộ, với nguồn nước và nguồn cùá to lớn của sông Mê Kông, còn là một tài nguyên lớn lao nuôi cá nước ngọt mà ta hầu như chưa khai thác.

Biển là tài sản quí báu nhất của non sông hoa gấm, có khả năng cao hơn nhiều so với nông nghiệp. Nhưng không phải ta chỉ có biển tốt mà ta còn có một vị trí vô cùng thuận lợi. Chúng ta là đường ra biển của Cam-bốt, Lào, Thái Lan và miền Tây-Nam Trung Quốc, chúng ta nằm sát các trục giao thông hàng hải quan trọng và ở ngay trung tâm của một vùng phát triển mạnh.

Chức năng hiển nhiên của ta do biển đem lại là chức năng của một nước du lịch, công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nguồn lợi chính mà biển đem lại là nguồn lợi của giao thương với thế giới. Nhưng muốn phát huy chức năng đó, điều bắt buộc tự nhiên là ta phải hội nhập với thế giới, có một chế độ chấp nhận được cho cả thế giới. Nghĩa là dân chủ.

********************


Nước non nghìn dặm (II)

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 7

Cái cảm giác nước non nghìn dặm là có thực, và có ba lý do khiến cho người Việt, ngay cả khi có số liệu rõ ràng trong tay, vẫn có cảm giác đất nước xa xôi, bao la.

Lý do thứ nhất là vì nước ta dài thực, dài 2.500 km từ Bắc tới Nam, chiều dài đó khiến cho các miền của đất nước khác nhau về địa hình, địa chất, về khí hậu và cả về con người. Chúng ta chỉ có một điểm giống nhau lớn và cũng là một điều may : chúng ta nói cùng một ngôn ngữ thuần nhất. Toàn bộ 85% dân số được gọi là người Kinh sử dụng tiếng Việt, và càng ngày số người của 15% còn lại thuộc các sắc tộc ít người sử dụng được tiếng Việt càng thành đa số.

Ngay từ miền Thượng Du Bắc Việt xuống đồng bằng sông Hồng kế cận nhau mà con người và cách sinh sống đã rất khác biệt rồi. Vào đến miền Trung với những cánh đồng dài, hẹp và khô cằn, khí hậu và con người lại khác, ngay cả giọng nói nhiều khi cũng khó hiểu đối với người miền Bắc hay miền Nam. Giữa miền Trung và miền Cao Nguyên Trung Phần, mà hiện nay được gọi bằng danh xưng khó hiểu là Tây Nguyên, sự khác biệt trước đây còn lớn hơn cả giữa đồng bằng sông Hồng và miền Thượng Du Bắc Việt. Vào đất miền Nam mưa nắng hai mùa, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay, thì cảnh trí lại càng khác, và con người cũng khác.

Lý do thứ hai là người Việt Nam ta, do truyền thống nông nghiệp, do chiến tranh và do chính sách kiểm soát cư trú và hạn chế đi lại của chính quyền, không hay di chuyển. Đối với một người ở Thái Bình, Huế và Sài Gòn cũng xa xôi như Paris. Sự thiếu di chuyển không những làm cho nhận thức hạn hẹp và lệ thuộc vào thành kiến, mà còn tạo ra một tâm lý từ chối tìm hiểu đất nước mình. Nước non nghìn dặm cũng là nước non rất xa xôi, không liên hệ gì đến tôi ngoại trừ việc các quan chức bắt tôi phải đóng thuế và bắt con tôi đi lính !

Lý do thứ ba là sự coi thường môn địa lý của trí thức Việt Nam. Trí thức Việt Nam chủ yếu học để thi lấy bằng chứ không phải lấy kiến thức nên chỉ chú trọng học những môn cần cho thi cử. Địa lý không phải là một trong những môn đó.

Ở trung học, không có môn học nào chán bằng môn địa lý. Thầy cũng dốt, học trò cũng dốt, sách lại dở. Trong các kỳ thi, môn địa lý chỉ có một hệ số không đáng kể. Những người điều khiển đất nước, bất luận chế độ nào, và ngay cả các chuyên viên về kế hoạch cũng chỉ có một sự hiểu biết rất đại khái và mơ hồ về địa lý của đất nước.

Không nói gì xa xôi, ngay tại Sài Gòn cũng rất ít người biết rằng vào mùa thu cả một miền Đồng Tháp biến thành một biển nước ngọt mênh mang, sâu tới sáu mét, tàu biển cỡ trung bình chạy dễ dàng. Cũng rất ít người Sài Gòn biết rằng nông thôn miền Tây Nam Phần có một quan hệ nam nữ tự do vào bậc nhất thế giới. Ở đây rất ít đàn ông nào chỉ có một vợ - con số trung bình là ba - và cũng khó kiếm ra một người đàn bà nào chỉ có một đời chồng. Người ta hỏi nhau một cách tự nhiên : "Xin lỗi thím Tư, thím Tư là vợ cưới hay vợ dắt". Cưới hay dắt không quan trọng lắm. Con trai tới tuổi thanh niên gặp bạn gái vừa ý có thể dắt về nhà ở chung với cha mẹ. Sau một thời gian, nếu không hạp, bà mẹ chồng có thể dắt cô con dâu về trả lại cho cha mẹ. Trai gái làm quen nhau dễ dàng, luyến ái dễ dàng và chia tay nhau cũng rất dễ dàng.

Trong khi ở mọi nước phát triển môn địa lý được coi là tối quan trọng thì tại Việt Nam nó lại bị coi thường quá đáng. Sự thiếu hiểu biết về địa lý đất nước cũng là một trở ngại lớn cho những nhận thức. Chính vì không hiểu địa lý nước ta mà cho tới nay nhiều người vẫn tự hào rằng ta đã giữ được nước vì ta oai hùng chứ không phải vì nhờ lãnh thổ có núi ngăn chia. Chính vì thiếu kiến thức địa lý mà cho tới nay, trong những đề nghị về phát triển kinh tế, người ta chỉ thấy những chính sách chung cho cả một nước, như thể là tỉnh Hòa Bình có thể phát triển theo cùng một mô thức với Minh Hải. Tôi còn được đọc một đề nghị phát triển cho cả nước và cho suốt thế kỷ 21 !

Có thể kiến thức địa lý có trong đầu óc những người làm kế hoạch và những chuyên viên nhưng nó chưa hiện diện đủ mạnh để ảnh hưởng đến cách suy nghĩ.

Xin nêu hai thí dụ.

Nếu có phản xạ của nhà địa lý thì không thể có một đồng thuận kỳ quặc là cả nhà cầm quyền lẫn các chuyên gia mỗi khi có dịp đều bày tỏ quan điểm lo âu về một hiểm họa "rời bỏ nông thôn" [exode rural] của dân chúng. Thế rồi các chuyên gia lên tiếng báo động, và nhà cầm quyền khuyến khích hay bắt buộc dân chúng di dân về miền quê. Đó là vì chúng ta nhắc lại những gì đã được các chuyên gia viết ra cho các nước châu Mỹ La Tinh hay Pháp và một số nước tương tự, nơi mà nhiều khu đất mầu mỡ phì nhiêu bị nông dân rời bỏ. Không làm gì có một mối nguy như thế tại nước ta. Trái lại chúng ta cần một exode rural. Hiện nay hơn sáu mươi triệu người Việt Nam sống nhờ nông nghiệp trong khi ruộng đất của chúng ta chỉ đủ cho từ năm tới mười triệu người. Ta cũng không còn rừng để phá. Rừng của ta đã bị phá quá nhiều rồi, và vong hồn rừng đang báo oán chúng ta : lũ lụt đã trở thành thông lệ hàng năm tại miền Trung, kế tiếp là hạn hán vì không còn rừng để giữ nước nữa. Nông thôn của ta quá dư người, mà đông người quá thì không thể dùng những phương pháp canh tác hiện đại được và năng suất sẽ thấp mãi mãi. Chức năng của chúng ta là chức năng của một nước ngư nghiệp, hàng hải, công nghiệp và dịch vụ. Cần tổ chức cho nông dân rời nông thôn. Đi đâu và làm gì là một vấn đề khác sẽ được bàn tới trong một phần sau. Nhưng ngay từ bây giờ không nên ngăn cản người dân rời nông thôn. Trong giả thuyết xấu nhất ta cũng có thể nói như thế này : hiện nay với sáu mươi triệu người ở nông thôn chúng ta không đủ gạo ăn (ta có xuất cảng gạo nhưng bù lại một tỷ lệ quan trọng dân chúng lại thiếu đói), nếu chỉ có năm triệu người tại nông thôn thôi ta sẽ có năng suất cao, sản xuất dư gạo cho một trăm triệu người và còn có thể dư thừa để xuất khẩu.

Một thí dụ thứ hai về sự thiếu ý thức địa lý có thể tìm thấy trong nhĩều dự đoán dài hạn. Mọi người hình như đều lo âu về sự nghèo khó tại miền Trung. Đó là một lo âu chính đáng, nhưng là một vấn đề tương đối ngắn hạn. Trong cuộc chuyển hóa bắt buộc từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ, với hai ngành phụ là nông nghiệp và ngư nghiệp, bản đồ kinh tế của ta sẽ dần dần thay đổi, và trong vài thập niên nữa sẽ thay đổi hẳn (với điều kiện là nước ta vẫn còn tồn tại, một điều không hoàn toàn chắc chắn, trái với sự yên tâm chắc nịch của đại đa số người Việt !). Các tỉnh miền Trung nhờ bờ biển sẽ là những vùng phát triển mạnh nhất, trong khi vùng đồng bằng sông Hồng và miền Tây Nam Phần, nghĩa là những vùng nông nghiệp còn lại, sẽ tụt hậu vì giới hạn tự nhiên của nghề nông và vì tình trạng đất hẹp người đông.

********************


Mưu sự tại nhân...

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 8

Độc giả đọc tới đây có thể rút ra một kết luận tương đối bi quan. Chúng ta đất hẹp, người đông, thiên nhiên bị tàn phá, lại đang rất nghèo nàn lạc hậu. Lợi thế của chúng ta là biển và vị trí thì lại hầu như hoàn toàn chưa được khai thác và dân ta còn phải học hỏi nhiều mới có thể sử dụng được. Như thế có lẽ tương lai của ta mờ mịt lắm. Tôi xin cảnh giác trước độc giả về hai điều mâu thuẫn với nhau. Điều thứ nhất là độc giả sẽ còn phải chờ đợi ở những phần sau nhiều yếu tố tiêu cực hơn nữa, việc kiểm kê những điểm yếu của nước ta mới chỉ bắt đầu mà thôi. Điều thứ hai là, ngược lại, tất cả những nhược điểm vừa kể về địa lý thiên nhiên thực ra không quan trọng lắm và không đáng khiến ta phải quá bi quan, nhất là địa lý của chúng ta cũng không đến nỗi quá bất lợi.

Xin dẫn chứng một câu chuyện có thực mà tôi đã sống.

Trại học tập cải tạo của chúng tôi ngoài các sĩ quan công chức của chế độ cũ ra còn có cả một số thường phạm. Điều đó chứng tỏ là chúng tôi là tù chứ chẳng phải là "cải tạo viên" gì cả. Số tù thường phạm gồm đủ loại : móc túi, đánh bài, buôn lậu, ăn trộm, ăn cướp và một số cán bộ cộng sản bị phạt tù vì những lý do ngoài chính trị, thí dụ như một anh dược sĩ bán thuốc nhà nước cho chợ trời, một anh đại đội trưởng bắn chết người.

Trong số những thường phạm có Nguyễn Văn Khánh, một thành phần bất hảo rất nguy hiểm bị giam chung với tôi. Khánh là cháu ngoại Sáu Cường, võ sĩ khét tiếng miền Nam hồi thập niên 1930 đã từng thi đấu nhiều lần và chưa hề thua ai bao giờ. Mẹ Khánh cũng là một cao thủ võ lâm với cuộc sống rất phóng đãng. Khánh nói với tôi : "Ông thầy biết không, mẹ tôi đã qua tất cả mọi binh chủng". Ý Khánh muốn nói mẹ nó đã chung chạ với rất nhiều người, trong đó có những quân nhân thuộc mọi binh chủng của quân đội miền Nam. Khánh cũng như các anh em của nó đều mang họ mẹ vì không biết cha là ai. Khánh vạm vỡ, khỏe mạnh và lúc nào cũng sẵn sàng ẩu đả, lại sẵn có máu con nhà võ nên chẳng sợ ai cả. Lúc đó Khánh mới 20 tuổi mà thành tích đã ghê gớm, không biết bao nhiêu lần vào tù ra khám dưới chế độ cũ, và chỉ sáu tháng dưới chế độ cộng sản Khánh đã là bộ mặt rất quen thuộc đối với công an tỉnh Cà Mau. Tất cả là những tội trạng giống nhau : trộm cướp, đánh lộn, đưa dẫn và làm tiền gái bán dâm. Khánh không biết đọc, không biết viết, không biết gì cả, lại rất lười biếng và chỉ có một trí thông minh dưới mức trung bình. Khánh bị bắt trong một đợt càn quét tệ đoan xã hội và bị đưa đi cải tạo vô hạn định. Vì là thành phần bất hảo gan lì, Khánh bị quyện cả hai chân. Lúc vào tù, Khánh chỉ có một bộ quần áo, và dĩ nhiên không có người thăm nuôi. Mẹ Khánh không biết đã lưu lạc nơi nào, các anh em Khánh hoặc đang sống lang thang vô gia cư, hoặc cũng đang ở tù với một tội trạng tương tự như Khánh. Nói chung, Khánh đang ở trong một hiện tại bi đát, không có một tương lai nào và cũng không có ai ưa Khánh để có thể dìu dắt, giúp đỡ. Trong một đêm giao thừa Khánh nói với tôi : "Cuộc đời tôi tàn rồi !".

Đêm hôm đó, từ chiếc radio của người công an gác đêm vọng ra lời chúc Tết của chủ tịch Tôn Đức Thắng. Cả nước biết ông Tôn Đức Thắng đã xấp xỉ chín mươi tuổi và đã yếu lắm. Tôi hỏi Khánh :

- Mày nói đời mày tàn rồi, thế nếu đổi cuộc đời mày lấy cuộc đời của chủ tịch Tôn Đức Thắng mày có chịu không ?

Khánh giẫy nẩy lên :

- Đâu được ! Ông nói giỡn sao, ông ấy sắp chết đến nơi rồi.

Cả hai chúng tôi đều phá ra cười.

Thì ra, cũng như hầu hết mọi người, Khánh quá chú tâm đến những thành công và danh vọng để quên rằng thực ra điều quí giá nhất trong một đời người là sức khỏe và tuổi trẻ. Còn sức khỏe và còn trẻ là còn hy vọng. Đối với một đất nước, điều quan trọng nhất là con người, còn con người là còn tất cả dù tình trạng hiện tại ra sao. Bởi vì con người có thể làm ra tất cả.

Nước Pháp không xa Hòa Lan. Tôi có nhiều người bạn ở đó, và có cả một nghĩa tử. Năm nào tôi cũng qua Hòa Lan nhiều lần. Đường đi lại dễ dàng, chỉ cần vài giờ lái xe. Từ cửa nhà tôi tới cửa nhà Đặng Minh Kỷ, phối trí viên của nhóm Thông Luận Hòa Lan, chỉ có 500 cây số.

Nước Hòa Lan chỉ rộng bằng một phần mười diện tích của Việt Nam, với một dân số 15 triệu. Hòa Lan có mật độ dân số cao vào bậc nhất thế giới, gần gấp hai lần Việt Nam, gấp bốn lần nước Pháp. Ngoài một mỏ khí đốt ở miền Bắc, tại Groningen, Hòa Lan không có một tài nguyên nào đáng kể cả. Đất của Hòa Lan thấp hơn mức nước biển nên ngập lụt là một đe dọa thường trực. Tên của nước Hòa Lan là Nederland, có nghĩa là "đất thấp". Đất hẹp và bất lợi, người đông, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, nhưng Hòa Lan là một thiên đàng hạ giới, do chính con người tạo ra. Người Hòa Lan thường tự hào : "Thượng Đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính chúng tôi đã làm ra đất nước này". Hoàn toàn đúng.

Dù nhỏ bé về cả đất đai lẫn dân số, nhưng Hòa Lan là một cường quốc kinh tế. Vào lúc tôi viết những dòng này, tổng sản lượng quốc gia của Hòa Lan trên 300 tỷ USD, gần 15 lần tổng sản lượng của Việt Nam với 78 triệu dân, gấp rưỡi tổng sản lượng gộp lại của tất cả lục địa châu Phi với trên 600 triệu dân.

Hòa Lan có mặt một cách tích cực trên mọi thị trường thế giới. Trên thềm thế kỷ 21, ngoại thương của Hòa Lan cao hơn hẳn ngoại thương của Trung Quốc ngay cả sau hơn hai thập niên theo đuổi chủ trương "giàu có là vinh quang", gấp năm lần ngoại thương của Ấn Độ và lúc nào cũng xuất siêu. Các công ty lớn của Hòa Lan như Philips, Royal Dutch, Unilever có chi nhánh trên khắp các lục địa và tại tất cả các quốc gia phát triển. Nông phẩm của Hòa Lan, nhất là sữa và thịt, tràn ngập các thị trường châu Âu.

Đất nước Hòa Lan đẹp đẽ với những xa lộ tuyệt vời chạy qua những cánh đồng xanh tốt, với những đàn bò béo mập và những cây xanh rất thẩm mỹ. Hòa Lan chưa phải trải qua một cuộc cách mạng nào, nhưng Hòa Lan là một nước dân chủ và tự do nhất thế giới. Không ở đâu con người được quí trọng như ở Hòa Lan và có lẽ cũng không ở đâu cái thú làm dân lại có thể lớn hơn ở Hòa Lan.

Tôi ưa sang Hòa Lan vì những người bạn quí ở đó, nhưng cũng vì tôi ngưỡng mộ vô cùng đất nước và con người Hòa Lan. Người Hòa Lan đã làm cho tôi hiểu một cách âm thầm và chắc chắn rằng mưu sự tại nhân mà thành sự cũng tại nhân. Tôi cám ơn sâu xa và thành thực Hòa Lan đã cho tôi hy vọng và niềm tin, nhờ đó mặc dầu những khó khăn và trở ngại ngày hôm nay tôi không bao giờ mất niềm tin rằng vẫn còn có thể có một nước Việt Nam tương lai xứng đáng để những người Việt hôm nay đầu tư cố gắng và để cho các thế hệ ngày mai có thể yêu mến và tự hào.

********************

 

Một dân tộc tinh anh ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 9

Trong cuốn sách "Việt Nam Sử Lược" quen thuộc với mọi người, Trần Trọng Kim viết về người Việt Nam như sau :

"Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức : lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn".

Trần Trọng Kim, xuất thân là một giáo viên, được gởi đi học và tốt nghiệp Trường Thuộc Địa [Ecole Coloniale] tại Pháp. Trường Thuộc Địa Pháp vào đầu thế kỷ này là một trường có trình độ trung học, có mục đích khai mở nền văn minh Pháp nói riêng và phương Tây nói chung cho những trí thức Việt Nam đầu tiên để họ về nước phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Năm 1911, ông Hồ Chí Minh, lúc đó làm bồi tàu và mới tới Pháp, cũng có làm đơn với lời lẽ thống thiết viện cớ có cha đậu tiến sĩ Hán học để xin vào trường này, nhưng bị từ chối.

Tuy vốn liếng khoa bảng không có bao nhiêu (nhưng vào thời đó trình độ của Trường Thuộc Địa cũng đã là cao lắm rồi), nhưng ông Trần Trọng Kim đã dày công học hỏi và nhờ trí tuệ xuất sắc ông trở thành một học giả lớn. Ngoài kiến thức uyên bác, Trần Trọng Kim còn là một người liêm khiết, lương thiện. Ông có uy tín rất lớn trong thời đại của ông. Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, trả độc lập trên nguyên tắc cho Việt Nam, ông Trần Trọng Kim, lúc đó đã về hưu, được vua Bảo Đại mời ra làm thủ tướng theo ý của người Nhật. Sự kiện ông được chỉ định làm thủ tướng là một ngạc nhiên cho rất nhiều người. Phần đông giới theo dõi thời cuộc lúc đó chờ đợi ông Ngô Đình Diệm, một cựu thượng thư, có uy tín, có tham vọng chính trị và nhất là đã giao dịch với Nhật từ lâu. Ông Diệm đã tham gia từ 1941 tổ chức Việt Nam Phục Quốc Hội của hoàng thân Cường Để do Nhật đỡ đầu. Người ngạc nhiên nhất chính là ông Ngô Đình Diệm. Thực ra ngay từ khi đổ bộ vào Việt Nam, Nhật cũng đã có ý định dùng Trần Trọng Kim như một lá bài thay thế cho Ngô Đình Diệm, có lẽ vì họ nghĩ Ngô Đình Diệm là một chính khách sắc bén hơn và có thể đòi hỏi họ nhiều hơn là Trần Trọng Kim. Tuy vậy ông Trần Trọng Kim cũng đã dần dần đòi hỏi được nơi người Nhật tất cả những nhượng bộ cần thiết. Nếu người Nhật coi Trần Trọng Kim là người không đáng lo ngại thì người Pháp sau này lại lo ngại Trần Trọng Kim và làm áp lực để Bảo Đại chọn Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng năm 1948 thay vì Trần Trọng Kim. Sau đó Trần Trọng Kim qua Phnom Penh sống với người con gái, ông mất vài năm sau đó, khi vừa trở về Việt Nam.

Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đời chính trị của ông trong thiên hồi ký ngắn "Một cơn gió bụi". Có lẽ những ai có ý định viết hồi ký đều nên đọc cuốn sách nhỏ này trước đã. Đó thực sự là một cuốn hồi ký. Nó được viết một cách thực thà, lương thiện, rành mạch, điều ít thấy trong các cuốn hồi ký khác. Hồi ký là một loại sách đặc biệt. Nó có tác dụng chính, và có thể nói là duy nhất, là ghi chép các sự kiện để làm chứng cho một giai đoạn. Đòi hỏi duy nhất của nó là phải trung thực, phải có giá trị của một tài liệu. Người Việt Nam, nhất là các tướng tá quân đội miền Nam cũ, hay dùng hồi ký để bóp méo sự thật, tán dương hay chạy tội cho mình, bôi nhọ người khác. Những hồi ký như vậy không thể dùng làm tài liệu.

Trần Trọng Kim được mọi người kính trọng, người ta kính trọng kiến thức của ông và người ta còn kính trọng hơn nơi ông nhân cách của một trí thức chân chính. Nếu không phải Trần Trọng Kim mà một người khác viết ra những dòng trên, thì chắc chắn sẽ bị cả một loạt bài đả kích và mạt sát thậm tệ vì đã dám coi thường người Việt. Nhưng vì là do Trần Trọng Kim viết ra nên không ai cãi lại, và hầu hết nhìn nhận là đúng. Tôi cũng có đọc trong nhiều cuốn sách cũ của các học giả Pháp một nhận định tương tự như vậy về người Việt, không biết có một sự tham khảo nào không. Điều chắc chắn là Trần Trọng Kim chỉ viết những điều ông tin là đúng.

Nói chung, Trần Trọng Kim nhận định người Việt Nam có cấu tạo cơ thể tốt, có trí óc tương đối tốt, siêng năng, hiếu học, biết trọng đạo đức, nhưng tâm lý thì rất dở. Ông không nói người Việt Nam nói chung có yêu nước hay không, đó cũng là một điều lạ trong cuốn sách sử.

Tôi đã đề cập phần trước tới nước Hòa Lan như là một kỳ quan của thế giới. Quan sát kỹ người Hòa Lan, thành thực tôi không thấy họ thông minh hơn người Việt, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Họ cũng không chăm chỉ hơn người Việt Nam, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Vậy mà họ đã tạo nên được quốc gia đáng phục nhất thế giới. Tôi làm việc với người Pháp và cũng đi tới một nhận định tương tự. Riêng người Anh thì phải nói tuy họ có nét độc đáo riêng, nhưng trí tuệ của họ cũng chỉ xấp xỉ như người Hòa Lan và người Pháp, ngoài ra họ lười biếng hơn hẳn người Việt Nam.

Vậy mà tại sao các quốc gia đó giàu mạnh đến thế, trong khi nước ta nghèo nàn lạc hậu và tang tóc đến thế ?

Khi một máy vi tính hoạt động dở thì chỉ có hai giải thích : một là cái hardware [phần vật liệu hay phần cứng] của nó dở, hai là cái software [phần trí liệu hay phần mềm] của nó dở. Chất liệu, nghĩa là cấu tạo cơ thể và trí óc, của người Việt Nam tốt. Vậy thì phải chăng cái software, nghĩa là cái văn hóa và tâm lý, của người Việt Nam tồi dở ? Tôi tin như thế. Một người bạn tôi sau hơn một thập niên làm cố vấn cho các chính phủ châu Phi đã chỉ rút ra được một kết luận rõ nét : các nước đó không vươn lên được vì trở ngại văn hóa và tâm lý.

Đọc những bài đóng góp gần đây của các tác giả Việt Nam về vấn đề phát triển đất nước, phần đông có giá trị, nhiều bài rất xuất sắc, tôi ít thấy đề cập đến yếu tố tâm lý (hay văn hóa cũng thế vì tâm lý và văn hóa rất gần nhau), trong khi đó tất cả các nhà bác học có thẩm quyền ở tầm vóc thế giới về vấn đề phát triển đều coi yếu tố tâm lý là yếu tố cốt lõi. Nhiều tác giả còn gọi phát triển là một cấu trúc tâm lý [structure mentale].

Tâm lý của một dân tộc, nhiều người thích dùng cụm từ hồn tính dân tộc, một phần do điều kiện thiên nhiên tạo thành, nhưng một phần lớn là do các giá trị đã được nhìn nhận từ lâu đời và đã tạo ra một nếp sống. Các giá trị ấy hình thành có khi do sự khám phá trong cuộc sống của dân tộc, có khi được du nhập và hấp thụ, được kiểm chứng và xét lại theo kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử vì thế đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành tâm lý dân tộc. Lịch sử là trí nhớ tập thể của dân tộc, một nguồn tài liệu và gợi ý. Lịch sử cũng là tấm gương để một dân tộc nhận diện được mình, hiểu mình, biết mình nên làm gì và có thể làm gì. Muốn như thế, lịch sử phải chính xác và cũng phải được phân tích và khai thác một cách sáng suốt và khách quan.

Nhưng một mặt lịch sử của ta không chính xác, và, mặt khác, chúng ta rút ra từ lịch sử những kết luận và những bài học sai lầm.

******************

 

Một dân tộc hiếu học ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 10

Người Việt Nam rất hiếu học. Tính hiếu học của người Việt là có thực. Điều này mọi người đều đồng ý và chính tôi cũng có thể kiểm chứng trong những môi trường mà tôi đã sống và những người mà tôi đã biết, ngay cả trong gia đình tôi.

Tại trung học Trần Lục, nơi tôi theo học từ đệ thất (lớp 6 bây giờ) tới đệ Tứ (lớp 9), các học sinh phần lớn là di cư từ ngoài Bắc vào, chính trường Trần Lục cũng là một trường di chuyển từ Phát Diệm vào. Trường do các linh mục Phát Diệm thành lập và mang tên linh mục Trần Lục, còn gọi là cha Sáu, một tu sĩ có đức hạnh và rất tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông Trần Lục có làm một tập thơ, mà tôi không nhớ tên, giáo huấn về đạo đức. Ông cũng xây dựng một nhà thờ lớn theo kiến trúc cổ truyền Việt Nam được coi là rất thành công về nghệ thuật. Nhìn trên ảnh, nhà thờ này giống như một ngôi chùa. Tôi vào học trường Trần Lục vì một lý do tình cờ. Anh em tôi sau tiểu học định thi vào trường Chu Văn An, trường mà mẹ tôi vẫn ca tụng là hay và mơ ước chúng tôi sẽ học tại đấy. Nhưng năm đó, bà có ý định mua một căn nhà trong một ngõ hẻm gần Tân Định nên chúng tôi thi vào Trần Lục để đi học cho gần. Về sau tuy việc mua nhà này không thành chúng tôi vẫn tiếp tục học ở đó.

Lúc đó là những năm 1955-1956, các học sinh trừ một hai ngoại lệ, đều rất nghèo, gia đình họ vốn đã không giàu có lại mất hết của cải trong đợt di cư nên càng nghèo. Đã thế, trường Trần Lục lại là một thứ trường tầm gửi, một thứ trường không có trường, phải học nhờ trường tiểu học Đồ Chiểu. Giải pháp tìm ra là học buổi trưa. Trường tiểu học Đồ Chiểu học sớm đi một chút buổi sáng và trễ một chút buổi chiều. Trường Đồ Chiểu tan học buổi sáng, vào lúc 10g30, trường Trần Lục học từ 10g30 đến 14g30, rồi trường Đồ Chiểu lấy lại trường sau đó. Học buổi trưa là cả một cực hình dưới trời nóng gay gắt. Cả thầy lẫn trò đều mệt mỏi, học sinh phần lớn đều không có tiền mua sách, có khi còn thiếu cả tiền mua vở và bút. Một cây bút chì, một quyển vở đều quí báu cả. Hầu hết các gia đình chúng tôi đều ở trong những căn nhà lụp xụp, nhiều nhà không có điện, tối phải thắp sáng bằng đèn dầu, vừa học vừa đập muỗi. Những buổi tập thể dục mặc quần xà lỏn để lộ đùi ra thì thấy đứa nào cũng đầy dấu muỗi chích. Vậy mà cả trường đều học hành chăm chỉ và đều giỏi cả.

Trong khu tôi ở cũng có nhiều học sinh, họ không sáng dạ lắm nhưng học chăm chỉ một cách kỳ lạ, họ học tới khuya, nhiều người uống thuốc Maxiton cho đỡ buồn ngủ. Tờ mờ sáng họ đã thức dậy, học to tiếng để chống buồn ngủ, tiếng họ học đánh thức anh em tôi dậy. Có những anh đã bắt đầu luyện thi tú tài khi tôi mới lên trung học, đến khi tôi đậu xong tú tài họ vẫn rớt dài dài, nhưng vẫn tiếp tục học. Có chí thì nên, khi tôi ở Pháp về, sau 12 năm vắng mặt, phần lớn đều đã tốt nghiệp đại học làm giáo sư, luật sư, dược sĩ. Điều không may cho họ là trong thời gian 12 năm ấy xã hội miền Nam đã đổi mới, những nghề trí óc không còn vinh hiển nữa và họ không sung túc bao nhiêu sau những cố gắng thật phi thường. Người khá nhất trong bọn họ là một anh thi mãi không đậu tú tài đi làm bánh mì, sau trở thành chủ. Những lần đi ăn nhậu với nhau anh ta đều trả tiền.

Tôi học xong đệ tứ thì bỏ trường Trần Lục đi làm ban ngày, buổi tối theo học lớp Khuyến Học Bổ Túc của Hội Bình Dân Giáo Dục và lại gặp một loại người khác. Họ là công chức, quân nhân, muốn lấy thêm một mảnh bằng để thăng tiến, là những người đã đi làm, và phần lớn đã có gia đình, muốn có thêm học vấn, hay những học sinh nghèo ban ngày phải đi làm kiếm tiền. Ở hàng đầu là các cô phần lớn đã đi làm, có người đã có chồng con. Trong một lớp bên cạnh có ông Cao Văn Viên, sau này là đại tướng tổng tham mưu trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ học say mê, miệt mài mặc dầu học rất khó khăn.

Lớp học của tôi sau này có nhiều người khá thành công. Trương Văn Vân sau học khoa học rồi tình nguyện đi sĩ quan Đà Lạt, làm tiểu đoàn phó binh chủng Dù, vợ Vân là Thúy, do tôi giới thiệu, làm dược sư, con một thương gia giàu có, học trò cũ của tôi lúc tôi đi dạy kèm để kiếm tiền. Vân đi học tập cải tạo 12 năm sau ngày 30/4/1975. Vân và Thúy hiện định cư ở Seattle, Hoa Kỳ. Nguyễn Thiện Tường sau làm luật sư. Tường thi rớt tú tài 1, tôi phải dành cả mùa hè năm đó để kèm Tường. Chúng tôi hẹn nhau ở mái hiên sau của Thư Viện Quốc Gia, bên cạnh trường Petrus Ký và Chu Văn An, nơi có một số bàn ghế vứt bỏ. Tôi đem theo tiểu thuyết để đọc, Tường ngồi học bên cạnh, có gì bí thì hỏi tôi. Anh của Tường là Nguyễn Thiệu Hùng cũng là một gương hiếu học. Anh đậu tú tài trước chúng tôi và đi dạy trung học vừa học văn khoa. Không những thế, anh còn làm thơ và làm thơ hay. Tập thơ "Bốn Mươi Bài Thơ" của Hùng (bút hiệu Mai Trung Tĩnh) làm chung với Lê Đức Vượng (bút hiệu Vương Đức Lệ) được giải nhất Thơ Văn Toàn Quốc năm 1960. Nguyễn Thiệu Hùng và Lê Đức Vượng gần đây tham gia nhóm Diễn Đàn Tự Do với Đoàn Viết Hoạt và bị bắt. Tháng 7-1993, Hùng bị kết án bốn năm tù, Vượng bị năm năm. Ra trước tòa, Vượng chỉ xin chính quyền trả lại cho anh tập thơ hai mươi ngàn bài mà anh đã sáng tác trong gần hai mươi năm qua, nhưng chính quyền trả lời là tập thơ đã thất lạc.

Trịnh Văn Thi sau này tốt nghiệp cử nhân luật, làm thiếu tá cảnh sát, không biết bây giờ ở đâu. Đinh Văn Hoạt cũng tốt nghiệp cử nhân khoa học, vừa làm giáo sư vừa dạy võ Việt Nam.

Một hôm đi ăn tiệm ở Paris, ông chủ nhận ra tôi, rồi tự giới thiệu là Nguyễn Văn Ngọ, học lớp bên cạnh, cùng với ông Cao Văn Viên. Ông ta sau này cũng đậu cử nhân luật, làm tham vụ ngoại giao và ở nước ngoài nên thoát nạn ngày 30/4/1975. Chính ông Viên, sau khi đậu tú tài và làm tướng vẫn tiếp tục học và đậu cử nhân văn chương.

Mỗi lần hồi tưởng lại thời gian ấy, tôi vẫn cảm thấy một sự cảm phục xâu xa và một niềm hãnh diện vô cùng về tính hiếu học của người Việt. Tôi còn nhớ mãi đôi mắt quầng thâm của chị bạn ngồi bàn trên tôi. Có lẽ chị đã thức đêm nhiều lắm để học.

Tôi vẫn tin tính hiếu học là hy vọng lớn nhất của dân tộc ta để vươn lên.

Published in Tư liệu
mardi, 17 janvier 2017 11:19

TQĂN - Trang bìa

Nghĩ lại đất nước trên ngưỡng cữa

một thế kỷ và thiên niên kỷ mới

 

 

Nguyễn Gia Kiểng 

TỔ QUỐC ĂN NĂN

tqan7

tqan2tqan3 (2)

 

 

Paris, 2001

ISBN 2-907857-05-3

© Nguyen Gia Kieng, 2001

All rights reserved - Tous droits réservés

Tác giả giữ bản quyền

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 


                              Tặng Hồ Quì, Hiền, Hòa

Tặng Quốc Phái

Tặng Lê Văn Đằng, Vũ Tiến Đạt

Lần in thứ hai tặng :

Phạm Quế Dương

Nguyễn Vũ Bình

Phạm Hồng Sơn

Lê Chí Quang

Đặng Phúc Lai   

Published in Tư liệu