Donald Trump là người trong đó ông Hyde mạnh hơn bác sĩ Jekyll. Ông đã đánh thức và giải phóng nhân vật Hyde nơi nhiều người. Những người cuồng Trump khó có thể thay đổi vì trong họ, nhân vật Hyde đã khuất phục bác sĩ Jekyll. Họ giận dữ khi có người phê phán Trump bởi vì Trump đang thể hiện một phần bản chất của chính họ và họ thấy như chính mình bị xúc phạm.
Hiện tượng cuồng Trump là có thực
Hiện tượng cuồng Trump có thực và chính tôi có thể làm chứng.
Tôi có viết một vài bài phê phán Trump trong đó tôi chỉ bình luận dựa trên những sự kiện có thực. Ngay sau đó một số người từ trước vẫn là bạn của tôi, có người còn thường xuyên bày tỏ cảm tình, phản ứng một cách dữ dội.
Một cô viết : "Thằng già lẩm cẩm, mày chết đi cho rồi !". Vài người khác chửi tôi là "đồ chó !", hay "càng già càng ngu!", hay "bài viết hoang tưởng, chẳng ra đâu vào đâu", hay "Fake News !" v.v. Nhiều lắm.
Những "bình luận" khác tuy không đến nỗi hung bạo như vậy nhưng cũng không kém quả quyết : "Nguyễn Gia Kiểng vì tuổi già nên đã mất sáng suốt", hoặc : "Tôi đã từng đồng ý với anh trên nhiều điểm trước đây nhưng bây giờ thì phải nói anh sai hoàn toàn, anh đừng viết gì nữa thì hơn". Phản ứng thân thiện nhất là "với lòng ưu ái tôi khuyên bác nên dừng lại ở cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, bác đã mất sáng suốt rồi".
Lời lẽ khi không dữ tợn cũng vẫn nhắm đánh cho thật đau. Cũng có những người biện luận rất dài và rất nhiều nhưng với những sự kiện hoàn toàn không có thực trong mục đích phá đám. Tôi đã bất đắc dĩ phải chặn một số người để tránh làm phiền lòng những người muốn thảo luận nghiêm chỉnh.
Tại sao vì một khác biệt quan điểm về một chính khách Mỹ lại có thể khiến người Việt Nam căm thù nhau đến thế ? Tại sao vì một khác biệt quan điểm người ta có thể quên văn hóa truyền thống Việt Nam để lấy tuổi già làm một lý do thóa mạ ? Phải mê cuồng mới ứng xử như vậy.
Hơn nữa điều đáng ngạc nhiên và đáng sợ là 2/3 người Việt Nam trong cũng như ngoài nước ủng hộ Trump (theo một thăm dò cách đây vài tháng, bây giờ có thể đã thay đổi chút đỉnh) trong khi tất cả mọi dân tộc trên thế giới được thăm dò đều chống Trump trong tuyệt đại đa số. Ngay tại chính nước Mỹ đa số cũng không tán thành Trump. Có một cái gì đó rất không bình thường cần phải được quan tâm và tìm hiểu.
Không thể thảo luận
Điều hiển nhiên mà tôi nhận thấy là tất cả những người công kích tôi đều không đọc, hoặc chỉ đọc rất qua loa, những gì tôi viết về Trump. Đa số chỉ mượn cớ bình luận để hùng hổ cãi cọ và mạt sát. Thảo luận với họ vô ích vì họ nhất định giữ quan điểm. Những người lý luận nhiều nhất cũng chỉ vận dụng mọi lý cớ để bênh vực một lập trường đã có sẵn. Khi một lập luận bị chứng minh là sai vì dựa trên một sự kiện không có hoặc không đúng thì họ đi tìm một lập luận khác chứ không thay đổi ý kiến.
Thí dụ như khi Trump mới đắc cử, họ nói là Trump có chính sách kinh tế hiệu lực bằng cớ là đã khiến chỉ số chứng khoán Dow Jones tăng vọt, nhưng sau đó, trong năm 2018 khi chỉ số này tụt xuống thì họ vẫn ủng hộ Trump như trước. Khi Trump phản bội, bỏ rơi đồng minh Kurk (Lực Lượng Dân Chủ Syria) thì họ biện luận là Trump muốn chuyển quân qua Biển Đông để đánh Trung Quốc mặc dù chính Trump và bộ tham mưu của ông không bao giờ nói như vậy. Họ còn nói đó là một cao kiến mà mọi người đều thán phục trong khi thực tế là mọi người, kể cả bộ trưởng quốc phòng James Mattis, đều phản đối và lên án. Họ ca tụng Trump đã khiến Kim Jong-un khiếp sợ dù Trump không ngừng nói là ông ta nể phục và yêu Kim. Họ tôn vinh Trump chống Trung Quốc quyết liệt – và vì thế sẽ đánh sập chế độ cộng sản Việt Nam - dù Trump không ngừng nói là ông ta yêu Trung Quốc và kính trọng Tập Cận Bình, ông ta chỉ muốn một thỏa ước thương mại công bình hơn. Và khi Trump ca tụng chế độ cộng sản Việt Nam thì họ nói rằng đó là ngôn ngữ ngoại giao.
Như vậy thay vì thảo luận với họ, cần cố gắng tìm hiểu lý do thực sự đã khiến họ gắn bó với Trump.
Con người Donald Trump
Trước hết Donald Trump là con người như thế nào ?
Dr Trump và Mr Trump
Điều rõ rệt nhất trong suốt cuộc đời ông, từ lúc sinh ra trong một gia đình tỷ phú đến khi lớn lên kinh doanh bất động sản và các sòng bài rồi trở thành tổng thống Mỹ, Trump chưa bao giờ bày tỏ bất cứ một ưu tư nào cho sự trang nhã và các giá trị đạo đức, dân chủ, nhân quyền. Trái lại ông ta ăn nói và đối xử tàn nhẫn đối với những người nghèo khổ và những người di dân muốn tới Mỹ để tìm cuộc sống mới. Ông ta gọi các nước nghèo ở Nam Mỹ và Châu Phi là những hố phân, gọi những người di dân là bọn buôn lậu, trộm cướp, hiếp dâm, coi họ là những đe dọa cho an ninh Mỹ, nhưng lại ủng hộ việc buôn bán súng, mối nguy cụ thể hàng ngày của nước Mỹ. Đây không phải là cách ăn nói bạt mạng mà là cách ăn nói phải bị lên án một cách tuyệt đối và dứt khoát vì vừa là một xúc phạm lớn đối với loài người vừa phơi bày một tâm hồn cực kỳ xấu xa. Ông ta phỉ báng các nước dân chủ và ca tụng những tên độc tài sát nhân như Putin, Tập Cận Bình, Kim Jong-un.
Những con người như Donald Trump cũng có quyền được sống theo ý muốn trong xã hội bởi vì không thể đòi hỏi thế giới phải hoàn hảo nhưng chắc chắn phải bị loại bỏ trong sinh hoạt chính trị. Đây là lý do chính và đủ để không thể chấp nhận một cấp lãnh đạo chính trị như Trump. Tất cả các lý do khác đều là phụ.
Tại sao ?
Đó là vì chính trị là một cố gắng thể hiện, qua pháp luật, lẽ phải và các giá trị đạo đức trong xã hội. Để khiến đất nước phồn vinh, con người ngày càng được quý trọng hơn, dân tộc ngày càng hòa hợp hơn, thế giới ngày càng hòa bình và ổn vững hơn, các dân tộc ngày càng thân thiện hơn, môi trường ngày càng sạch đẹp hơn. Trump không quan niệm chính trị như thế.
Đó là vì những đức tính bắt buộc phải có nơi một cấp lãnh đạo chính trị là sự hiểu biết về quốc gia và thế giới, về cơ cấu bộ máy nhà nước và các định chế quốc tế, là sự dũng cảm, lòng thương yêu, sự lương thiện và nhất là lý tưởng phục vụ con người và xã hội. Những đức tính này Trump hoàn toàn không có.
Trong những yếu tố phụ có thể kể Trump thiếu hẳn giáo dục và đào tạo về chính trị. Chính trị mở cửa cho mọi người vì đó là việc chung (politics), nhưng điều này không có nghĩa là ai cũng có khả năng chính trị. Việc mọi người đều có quyền làm chính trị, như bầu cử và ứng cử, không có lý do kỹ thuật. Nó có lý do triết học. Đó là niềm tin, hay đúng hơn quy ước, rằng con người là giá trị cao nhất. Nhưng quyền không đồng nghĩa với khả năng, và Trump là người không có khả năng vì không có giáo dục và đào tạo chính trị. Ông đã chia rẽ các nước dân chủ như chưa bao giờ thấy. Ông chia rẽ và làm suy yếu nước Mỹ đến nỗi không giúp giải quyết nổi một vấn đề đáng lẽ phải có giải pháp dễ dàng như việc chấm dứt chế độ Maduro tại Venezuela.
Tệ hơn nữa Trump không chỉ thiếu kiến thức chính trị mà còn không thể cải tiến. Chính bác sĩ Dunning, một trong hai người khám phá ra hội chứng Dunning – Kruger đã xác nhận Trump mắc hội chứng này. Đó là một bệnh tâm thần khiến bệnh nhân mất khả năng nhìn thấy những yếu kém và thiếu sót của mình để cải tiến. Đúng là trường hợp của Trump. Ông ta nói một cách rất tự nhiên rằng mình giỏi về quân sự hơn các tướng lĩnh, giỏi về kinh tế hơn các kinh tế gia, nhất là nói mình là tổng thống lỗi lạc nhất trong lịch sử nước Mỹ. Mới đây luật sư George Conway, chồng của Kellyanne Conway cố vấn của Trump, cũng lên tiếng tố giác Trump là mắc bệnh tâm thần narcissism, bệnh tự sùng bái mình.
Trump là Mr Hyde trong mỗi người
Vậy tại sao vẫn có nhiều người cuồng nhiệt ủng hộ Trump ? Đây là câu hỏi quan trọng nhất và đáng quan tâm nhất.
Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng The strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde của Robert Louis Stevenson
Cách đây gần một thế kỷ rưỡi, vào năm 1886, đã xuất hiện cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Trường hợp lạ lùng của bác sĩ Jekyll và ông Hyde (The strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde) của Robert Louis Stevenson. Cuốn sách đã rất thành công và được nhiều lần lên phim vì nói lên một bản chất của con người. Đó là trong hầu hết mọi con người, nếu chưa hẳn là tất cả, đều có hai nhân vật trái ngược nhau do mâu thuẫn giữa xấu và tốt, thiện và ác, đúng và sai. Tất cả vấn đề chỉ là nhân vật nào mạnh hơn và thể hiện thường hơn. Bác sĩ Jekyll là một người tốt và hiền, tận tụy chăm sóc và giúp đỡ mọi người nhưng ban đêm, khi không còn bị ánh mắt của người chung quanh kiểm soát, ông biến thành Hyde, một con người của bản năng, gian ác và hung bạo. Đó là hai mặt của cùng một con người.
Donald Trump là người trong đó ông Hyde mạnh hơn bác sĩ Jekyll. Ông đã đánh thức và giải phóng nhân vật Hyde nơi nhiều người. Những người cuồng Trump khó có thể thay đổi vì trong họ nhân vật Hyde, nhờ Trump, đã khuất phục bác sĩ Jekyll. Họ giận dữ khi có người phê phán Trump bởi vì Trump đang thể hiện một phần bản chất của chính họ và họ thấy như chính mình bị xúc phạm. Không thể thuyết phục họ bởi vì ta lý luận để chứng tỏ rằng Trump sai và xấu nhưng đó chính là lý do khiến họ thích Trump, dù đôi khi họ biện luận loanh quanh. Ta tưởng mình nói chuyện với bác sĩ Jekyll trong khi trước mắt chúng ta là ông Hyde.
Cái tốt cũng như cái xấu đều có dấu ấn của thời đại. Nhân vật Hyde của Donald Trump trong thế kỷ 21 cũng có những nét đậm riêng so với nhân vật Hyde của bác sĩ Jekyll trong thế kỷ 19. Chúng ta có thể nhận diện hai nét chính.
Một là tâm lý chống tiến hóa. Không gì nghịch lý bằng việc tuyệt đại đa số tín đồ của hệ phái Tin Lành Phúc Âm (Evangelical) khá đông đảo tại Mỹ ủng hộ Trump (70% theo một thăm dò gần đây). Những gì Trump nói và làm hoàn toàn trái ngược với phúc âm của Giê Su Kitô, dù là Bài Giảng Trên Núi hay kinh Lạy Cha. Lý do là vì những người của hệ phái này phẫn nộ trước đà tiến hóa đang khiến con người xa dần với các tôn giáo kể cả tôn giáo của họ. Con người hôm nay ngày càng chỉ nhìn các tôn giáo như những cỗ xe chuyên chở các tư tưởng, ngày càng ít tin vào các phép lạ và những ân sủng do lời cầu nguyện. Hệ phái Phúc Âm, cũng như một số đông đảo những người Công Giáo da trắng, cảm thấy tôn giáo của họ đang bị đe dọa. Cũng tương tự như những người da trắng cảm thấy địa vị ưu đãi của họ đang bị đà tiến hóa của nhân quyền phủ nhận, hay các công nhân trong một số ngành sản xuất truyền thống cảm thấy bị tụt hậu do những tiến bộ về truyền thông, tự động, robot và trí khôn nhân tạo. Họ muốn quay lại quá khứ dù thực ra cuộc sống hiện nay của họ khá hơn trước nhiều.
Cũng không khác một số người Việt muốn quay lại với chế độ Việt Nam Cộng Hòa dù nó đã vĩnh viễn thuộc vào quá khứ và Việt Nam chắc chắn sẽ có một tương lai tươi đẹp hơn nhiều với dân chủ đa nguyên trên cả nước. Những người chống tiến hóa này ủng hộ Donald Trump vì ông ta cũng muốn đảo ngược thời gian và quay về với quá khứ như họ. Ông ta chống phong trào toàn cầu hóa, chủ trương trở lại chính sách cô lập của Monroe cách đây hai thế kỷ, phục hồi kỹ nghệ than, v.v. Họ nhìn thấy ở Trump tâm lý phản tiến hóa mà cho tới nay họ không dám mạnh dạn nói ra.
Hai là bản năng vị kỷ và gian ác. Điều cũng nghịch lý không kém là những người da trắng tương đối thoải mái lại ganh ghét những người di dân nghèo khổ mới tới thay vì tranh đua với những người thành đạt để vươn lên. Vô lý hơn nữa là nhiều người Việt Nam vừa mới nhập cư vào nước Mỹ cách đây không lâu lại ủng hộ một cách cuồng nhiệt một ông tổng thống ghét người di dân. Đó là sự thể hiện của nhân vật Hyde cổ điển trong mỗi con người. Đó là cái bản năng nhỏ mọn, vị kỷ, độc ác, đội trên đạp dưới mà mỗi người chúng ta phải phấn đấu để kềm chế nếu chưa tiêu diệt hẳn được. Chính vì thế mà thảo luận với những người cuồng Trump rất khó. Người ta chỉ có thể giúp họ vượt thoát bằng gương mẫu.
Di sản Donald Trump và người Việt
Trái với sự lo âu (hay hy vọng ?) của nhiều người tôi tin rằng Trump sẽ thất cử năm 2020 nếu không bị bãi nhiệm trước đó.
Trump là một ngoặc đơn đang khép lại trong lịch sử nước Mỹ. Cũng trái với nhiều người thiện chí, tôi tin là Donald Trump đỡ tệ hơn Hillary Clinton. Hillary Clinton nếu đắc cử chỉ kéo dài thêm một tình trạng xuống cấp của tư tưởng và văn hóa chính trị đã rõ rệt từ khi chồng bà đắc cử tổng thống với sự đồng lõa của bà. Trump ít nhất, một mặt, báo động với nước Mỹ và thế giới rằng chế độ tổng thống là vùng đất mầu mỡ cho chủ nghĩa dân túy và, mặt khác, phải khởi động lại cuộc thảo luận về tư tưởng chính trị trong cả chiều sâu lẫn bề mặt, bổ sung và tăng cường các giá trị nền tảng.
Lý do khiến tôi tin Trump không có tương lại rất giản dị : cái xấu và cái tồi chỉ có sức thu hút khi vừa mới xuất hiện. Khi chúng trở thành quen thuộc cũng là lúc chúng phơi bày bản chất nhảm nhí và trở thành đáng ghét. Tôi vừa nói là hiện có 70% tín đồ hệ phái Phúc Âm ủng hộ Trump. Con số này trước đây một năm là trên 80%.
Còn đối với Việt Nam ?
Tôi nghĩ tất cả những ai quan tâm tới tương lai đất nước đều phải rất cánh giác. Dù biết trước nhiều đặc tính của dân tộc ta, tôi đã rất bàng hoàng khi thấy 2/3 người Việt Nam ủng hộ Donald Trump. Trong số những dân tộc được thăm dò, chúng ta là dân tộc duy nhất ủng hộ Trump và, không những thế, ủng hộ một cách điên cuồng với một đa số áp đảo. Tại Châu Âu và Châu Á, tỷ lệ những người chống và ghét Trump là trên 70%, tại Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh trên 80%.
Vậy chúng ta là một dân tộc như thế nào ?
Phải nói cái ác và cái xấu thể hiện một cách lộ liễu trong ngôn ngữ Việt Nam. Chúng ta mạt sát những người đáng lẽ phải được thương hại và giúp đỡ, những người "khốn nạn", "ăn mày ăn nhặt", "bần tiện", "chết đường chết chợ", v.v. Nhưng ủng hộ Trump với tỷ lệ 2/3 thì quả là khó tưởng tượng. Không lẽ cả thế giới lầm chỉ có chúng ta là đúng ? Phải nói thẳng chúng ta là một dân tộc bị chấn thương tâm thần rất nặng. Đó có lẽ chính là lý do khiến chúng ta vẫn chưa rũ bỏ được một chế độ đã chứng tỏ sự tồi dở một cách quá rõ ràng trên mọi mặt.
Ở một góc độ nào đó Donald Trump đã giúp chúng ta hiểu rằng phải nâng tâm hồn lên để xứng đáng với một tương lai khác.
Nguyễn Gia Kiểng
(22/03/2019)
Donald Trump và Kim Jong-un đang gặp nhau tại Hà Nội để thương thuyết giải trừ vũ khí nguyên tử trên bán đảo Cao Ly. Tác dụng tức khắc của cuộc gặp gỡ này là khiến chính quyền cộng sản Việt Nam hãnh diện. Nó cũng được một số người Việt Nam tự coi là dân chủ nhìn như một cơ hội và một hy vọng.
Donald Trump được Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc long trọng tiếp đón tại Hà Nội. Ảnh minh họa
Hình ảnh của chính quyền cộng sản Việt Nam chắc chắn là khá hơn trong lúc này bởi vì bất cứ một nước chủ nhà nào cũng gây được thiện cảm khi tiếp đãi một hội nghị có mục tiêu giảm bớt căng thẳng và tăng cường hòa bình. Ngành du lịch Việt Nam sẽ chỉ có thể có lợi và quan hệ thương mại với Mỹ sẽ không gặp khó khăn ít nhất trong một thời gian. Hơn nữa chính quyền cộng sản Việt Nam còn được tổng thống Mỹ ca tụng như một mẫu mực thành công hiếm có, sau khi được phát ngôn viên bộ ngoại giao Mỹ đánh giá như là như là một bạn thân, close friend.
Tuy nhiên ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ rất sai lầm nếu quá hân hoan. Thiện cảm ban đầu có thể nhanh chóng qua đi nhường chỗ cho một cái nhìn chán ghét, thậm chí một sự lên án nghiêm khắc.
Donald Trump và Kim Jong-un giả náo động Hà Nội trước khi Donald Trump và Kim Jong-un thật xuất hiện - Ảnh minh họa
Việt Nam có vinh dự gì khi tiếp đón long trọng Trump và Kim ? Kim Jong-un đang là nguyên thủ quốc gia đáng ghét nhất và cũng bị ghét nhất thế giới. Một người hung bạo đã hành quyết chú mình, đồng thời cũng là thầy và cố vấn của mình, bằng đại bác, đã ám sát anh ruột mình bằng hơi độc tại phi trường Kuala Lumpur, đã giết vô số người khác và đã đẩy dân tộc mình xuống đáy vực đói khổ. Một người vô văn hóa với tâm hồn của một con rắn độc. Phải là Donald Trump mới có thể coi Kim Jong-un là một bạn thân và một thiên tài.
Donald Trump là tổng thống Mỹ duy nhất hoàn toàn không hề có một ưu tư nào về tự do, dân chủ, nhân quyền và các giá trị đạo đức. Trump coi các nước dân chủ như đối thủ và ca tụng các chế độ độc tài. Ông ăn nói thô lỗ bộc lộ một tâm hồn nhớp nhúa. Không một nước văn minh nào mời ông thăm viếng. Ông phá mọi kỷ lục của một tổng thống Mỹ có cộng sự viên bị truy tố vì gian dối và chính bản thân ông cũng đang bị điều tra. Chưa bao giờ một tổng thống Mỹ chia rẽ nước Mỹ như Trump và cũng chưa bao giờ một tổng thống Mỹ bị khinh thường như ông.
Kim Jong-un được Việt Nam long trọng tiếp đón khi vừa ra khỏi toa xe lửa. Ảnh AFP
Có bao nhiêu quốc gia chấp nhận trải thảm đỏ cùng một lúc dưới chân hai con người như thế ? Nhất là cuộc thương thuyết này vừa không quan trọng vừa khó có kết quả. Không quan trọng vì Triều Tiên (Bắc Cao Ly) chỉ dọa chứ không dám và cũng không thể chế tạo vũ khí nguyên tử ở mức độ thực sự nguy hiểm, bằng cớ là Nhật và Hàn Quốc (Nam Cao Ly), hai nước trên nguyên tắc bị đe dọa nhất không nhiệt tình với cuộc thương thuyết này. Khó có kết quả vì đe dọa vũ khí nguyên tử là tất cả tài sản của chế độ Triều Tiên ; bỏ đe dọa này nó không còn gì, kể cả khả năng tồn tại.
Chế độ cộng sản Việt Nam sẽ khó hy vọng được coi là đã có công đóng góp cho hòa bình trong vùng. Trái lại nhờ hội nghị Trump – Kim này từ nay thế giới sẽ chú ý nhiều hơn tới Việt Nam. Để thấy rõ chân dung của một đất nước đang quằn quại dưới một chế độ chà đạp nhân quyền một cách cực kỳ thô bạo, một chế độ có thể dựa vào những bản cáo trạng rất tùy tiện và vớ vẩn để kết án mười năm tù những phụ nữ có con thơ.
Ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã có lý khi cố gắng tách dần khỏi quỹ đạo Trung Quốc và sáp lại với Mỹ nhưng họ sẽ rất sai lầm nếu nghĩ rằng có thể giữ quan hệ mật thiết với Mỹ mà vẫn giữ nguyên chế độ độc tài toàn trị. Điều này đúng với Donald Trump nhưng Donald Trump chỉ là một ngoặc đơn ngắn đang đóng lại trong chính trị Mỹ.
Điều đáng buồn cần được nói ra nhân cuộc gặp gỡ này là cung cách của một số trí thức Việt Nam tự nhận là dân chủ.
Có những người ủng hộ Trump một cách cuồng nhiệt và vô điều kiện. Một người dân chủ Việt Nam có lý do gì để ái mộ một người vô đạo đức, coi thường dân chủ và coi thường mọi nước nghèo như Trump ? Chân dung của người dân chủ Việt Nam phải rõ rệt.
Cũng có những người thấy nên gửi thư thỉnh cầu Trump giúp đỡ Việt Nam có dân chủ hay để chống lại chính sách bành trướng bá quyền của Trung Quốc. Hoàn toàn vô ích, Trump chống Trung Quốc hay thân Trung Quốc chỉ tùy theo ông ta nghĩ thế nào là có lợi cho Mỹ và cho uy tín cá nhân của ông. Cầu khẩn Trump chỉ khiến dáng đứng của mình mất thẩm mỹ.
Hiện tượng Donald Trump và hội nghị này cho thấy một sự thật đáng buồn là những người dân chủ chân chính không nhiều. Có những người tưởng lầm mình là người dân chủ và cũng có những người dân chủ chưa hiểu rằng vũ khí duy nhất nhưng vô địch của cuộc vận động dân chủ là lẽ phải và niềm tin.
Lẽ phải và niềm tin thể hiện qua chân dung và dáng đứng của những người dân chủ hôm nay. Đó cũng sẽ là chân dung và dáng đứng của đất nước ngày mai.
Nguyễn Gia Kiểng
(27/02/2019)
Từ mấy năm gần đây dân chủ có vẻ bị đe dọa. Phong trào dân túy trỗi dậy khắp nơi, các chế độ độc tài lộng hành gần như vô tội vạ. Nhưng rồi sự sụp đổ của chế độ Maduro đảo ngược tất cả. Chế độ cộng sản Trung Quốc và chế độ độc tài Putin tại Nga bắt đầu giai đoạn cáo chung. Làn sóng dân chủ thứ tư, mà logic cốt lõi là dứt điểm các chế độ độc tài còn lại, sẽ mạnh lên và đạt tới cao điểm trong tương lai gần. Không phải vì Venezuela quá quan trọng mà vì một lý do nền tảng hơn nhiều. Đó là vì loài người đã tiến vào một kỷ nguyên mới trong cuộc hành trình về tự do. Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội. Điều mới trong lịch sử thế giới là từ nay xã hội mạnh hơn.
Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội.
Điều đáng ngạc nhiên nhất tại Venezuela là Nicolas Maduro đã không đàn áp như thường lệ mỗi khi bị chống đối, dù ông ta không thiếu thủ hạ, vũ khí và sự hung bạo. Trái lại ông ta đề nghị đối thoại và thỏa hiệp trong khi đối thủ của ông ta, một thanh niên 35 tuổi không có lực lượng vũ trang nào và mới cách đây hơn một tháng không ai biết tới, từ chối và đòi ông ta đầu hàng. Kết quả là vào lúc này Venezuela đang có hai tổng thống kình địch nhau. Phải hiểu rằng có một cái gì đó đã thay đổi. Venezuela vừa quá xa vừa quá lạ đối với Việt Nam nhưng chúng ta sẽ sai lầm lớn nếu không dành cho nó một quan tâm đặc biệt.
Một lịch sử ngắn và điên loạn
Venezuela mới trước đây không lâu còn là một đất nước đầy hứa hẹn với một lãnh thổ rộng gần một triệu cây số vuông cho 34 triệu dân, một khí hậu tốt, một bờ biển dài và đẹp và một trữ lượng dầu lửa lớn nhất thế giới được ước lượng vào khoảng 300 tỷ thùng (ba-rin). Ngoài ra còn khí đốt và nhiều mỏ khác, nhất là vàng. Đó đã có thể là một đất nước rất đáng mơ ước. Nhưng trường hợp Venezuela, cũng như các nước Châu Mỹ La-tinh khác, một lần nữa nhắc lại một cách hùng hồn rằng, ngay cả nếu có những điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi, người ta không thể xây dựng được một quốc gia thịnh vượng và hạnh phúc nếu không có tinh thần dân tộc, nghĩa là tình liên đới và ý muốn xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung.
Venezuela là quốc gia đầu tiên giành được độc lập từ tay người Tây Ban Nha. Chính tại Angostura (hiện nay là thành phố Ciudad Bolivar) mà cách đây đúng 200 năm, vào ngày 15/02/1919, Simon Bolivar, một người Venezuela nhưng được coi là anh hùng của tất cả các nước Nam Mỹ, đã triệu tập đại hội tuyên bố độc lập cho Châu Mỹ La-tinh, để rồi nhờ tình trạng suy sụp của Tây Ban Nha sau cuộc chiến của Napoleon I giành được độc lập cho Venezuela một năm sau đó.
Dầu vậy, cũng như các nước Châu Mỹ La-tinh khác, Venezuela không phải là một dân tộc đúng nghĩa. Nói chung đã chỉ có những người thống trị thẳng tay bóc lột và người bị trị hừng hực căm thù sẵn sàng nổi loạn. Đất nước Venezuela vì vậy liên tục quằn quại trong nghèo khổ, bạo lực và tội phạm. Độc lập chỉ có nghĩa là những kẻ bóc lột Tây Ban Nha được thay thế bằng những kẻ bóc lột bản xứ toa rập với các thế lực tài phiệt nước ngoài, chủ yếu là Mỹ. Nền dân chủ hình thức chỉ bắt đầu từ 1958 để ngay sau đó trên thực tế nhường chỗ cho một cho một chế độ độc tài quân phiệt đương đầu với các lực lượng cộng sản võ trang trong một cuộc nội chiến kéo dài gần hai mươi năm. Nội chiến chỉ chấm dứt khi quân cộng sản kiệt quệ và chấp nhận hạ vũ khí để tranh đấu bất bạo động chứ không hề có hòa giải dân tộc.
Venezuela được hưởng mười năm tương đối yên bình cho đến năm 1989, khi chính quyền Carlos Perez thực hiện cuộc cải tổ kinh tế hữu khuynh do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) khuyến cáo. Cuộc cải tổ này về nguyên tắc là đúng. Nó nhắm chấm dứt tình trạng cả nước chỉ sống nhờ xuất khẩu dầu lửa, các cơ quan và công ty nhà nước đầy những công chức và công nhân chỉ lãnh lương chứ không có việc làm, với hậu quả là khối nợ ngày càng phình ra. Tuy vậy ngay cả một cải tổ đúng cũng cần được thực hiện một cách có bài bản và phù hợp với hiện trạng xã hội. Chính quyền Perez đã không hiểu như vậy, họ áp đặt một cách thô bạo và đàn áp thẳng tay khi bị chống đối. Hàng ngàn người đã bị giết trong những cuộc biểu tình, hơn 3000 người riêng trong ba ngày đầu tháng 3-1989. Sự thô bạo này càng khó hiểu vì đảng Hành Động Dân Chủ của Perez tự xưng là thuộc cánh tả và chính tổng thống Carlos Perez lúc đó đang là phó chủ tịch của Quốc Tế Xã Hội Chủ Nghĩa.
Không có gì hợp lý tại Châu Mỹ La-tinh, nhất là tại Venezuela, các từ ngữ chẳng có nội dung chính xác nào. Tình hình kinh tế sau đó có phần cải tiến, lôi kéo hàng trăm ngàn di dân từ các nước chung quanh, nhưng tác dụng của cuộc cải tổ kinh tế này và các biện pháp đàn áp đẫm máu đi kèm đã là đa đẩy một phần lớn quần chúng về phía liên minh dân túy cực tả dưới danh xưng Cộng Hòa Thứ Năm bao gồm Đảng Cộng Sản và các đảng cùng ý thức hệ Mác-Lênin. Cuối cùng, năm 1999, lãnh tụ Hugo Chavez của liên minh này lên cầm quyền sau khi đắc cử tổng thống trong một cuộc bầu cử dân chủ và lương thiện. Từ năm 2007 liên minh này đổi tên thành Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Thống Nhất.
Hugo Chavez có thể được nhìn như một sản phẩm trung thực của lịch sử hai thế kỷ lập quốc của Venezuela trong đó nét đậm rõ nhất là sự thiếu vắng toàn diện của tư tưởng chính trị và tinh thần dân tộc. Xã hội gần như chia làm hai thành phần, một giai cấp tư bản trục lợi gồm những người có tài sản và bằng cấp từ các trường đại học Mỹ hoặc Tây Ban Nha nhưng thiếu cả tư duy lẫn tâm hồn và chỉ có một mục đích là làm giầu tối đa và một quần chúng nghèo khổ uất ức. Hugo Chavez đã thực sự muốn phục vụ quần chúng, chính vì thế mà ông đã được ái mộ trong suốt thời gian cầm quyền (1999 – 2013) và ngay cả sau khi đã chết.
Chavez là một bằng chứng rằng một người cầm quyền ngu dốt càng có ý chí và dũng cảm bao nhiêu càng tác hại bấy nhiêu. Lên cầm quyền trong một thời cơ thuận lợi –dầu lửa, tài nguyên chính của Venezuela, tăng giá từ 20 USD lên 140 USD một ba-rin- Chavez phung phí đến nỗi khiến Venezuela không giầu lên mà còn lụn bại và mắc nợ thêm. Chavez đã trợ giúp người nghèo và giảm bất công xã hội một cách đáng kể, ông cũng đã nâng cao chi phí về giáo dục, y tế, gia cư và hạ tầng cơ sở. Các biện pháp xã hội này đã nâng cao mức sống lôi kéo thêm hàng trăm nghìn người khác đến Venezuela từ các nước lân cận. Vấn đề là ông ta chỉ biết chi tiêu chứ không biết đầu tư và hoàn toàn không có một kiến thức nào về quản trị quốc gia.
Chavez tăm tối đến mức coi chủ nghĩa Mac-Lênin như một chân lý tuyệt đối dù bức tường Berlin đã sụp đổ từ hơn mười năm trước. Ngay khi lên cầm quyền ông đã quốc hữu hóa tất cả các công ty có tầm vóc, bổ nhiệm vô số tay chân và đồng đảng vào các chức vụ lãnh đạo dù họ không có khả năng và kinh nghiệm chuyên môn nào. Quyền lực đã chỉ làm cho ông ta mê man mất trí và làm những việc điên cuồng, như ra mặt tuyên chiến với Mỹ, dù chỉ bằng lời, coi Cuba, Nga và Trung Quốc như những nước anh em. Không thể phủ nhận sự câu kết giữa các công ty Mỹ và các chính quyền tham nhũng Venezuela trước đó nhưng cũng không thể đồng hóa nước Mỹ với các công ty này và càng không thể vì thế mà chống Mỹ. Venezuela vừa quá yếu vừa quá tùy thuộc vào Mỹ, chống Mỹ chẳng khác gì đập đầu vào vách đá.
Một hành động điên rồ vào năm 2003 của Chavez đã làm kinh tế Venezuela sụp đổ là quyết định sa thải tức khắc 30.000 (ba chục ngàn !) kỹ sư và kỹ thuật viên của Công ty Dầu khí PDVSA khi họ biểu tình phản đối việc bổ nhiệm các cấp lãnh đạo theo tiêu chuẩn chính trị. Kết quả là công ty PDVSA suy sụp, sản xuất giảm từ 3,5 triệu ba-rin xuống còn không đầy một triệu ba-rin mỗi ngày trong khi PDVSA là 96% xuất khẩu của Venezuela. Kết quả của 13 năm cầm quyền của Hugo Chavez là, dù gặp thời cơ rất thuận lợi nhờ giá dầu tăng vọt, nền kinh tế Venezuela đã gần như phá sản, nợ nước ngoài tăng từ 28 tỷ USD lên 130 tỷ USD.
Venezuela phá sản thực sự ít lâu sau khi Hugo Chavez chết và Nicolas Maduro lên thay năm 2013. Xuất thân là một vệ sĩ chuyên nghiệp rồi tài xế xe buýt, Maduro là một tay anh chị chỉ được huấn luyện chính trị sơ sài trong Đảng Cộng Sản Venezuela trước khi trở thành cộng sự viên thân tín của Chavez. Maduro còn thiếu kiến thức hơn nhiều so với Chavez, lại không có tài hùng biện và sức thu hút của Chavez, nhưng thô bạo hơn hẳn. Việc ông ta đắc cử tổng thống năm 2013, với 50,6%, bị tố giác là gian lận.
Sau đó Maduro nhanh chóng kéo Venezuela xuống địa ngục. Trước sự phẫn nộ ngày càng lên cao Maduro đã chỉ biết phản ứng như một tay côn đồ vô học, bất chấp cả sinh mạng người dân lẫn hiến pháp và luật pháp. Cuối năm 2015, sau khi đối lập dân chủ giành được đa số quá 2/3 trong quốc hội, Maduro ngang ngược cho Tòa Án Tối Cao mà ông ta mua chuộc được tuyên bố tước quyền của Quốc hội. Hành động này làm cả nhân dân Venezuela lẫn thế giới phải kinh ngạc vì sự vô lý của nó khiến sau cùng Maduro phải rút lại. Tuy vậy Maduro cũng vẫn ngang ngược cho bầu ra một "Quốc hội lập hiến" khác sau một cuộc bầu cử gian trá một cách lố lăng. Hiện nay không còn ai nói đến cái quốc hội lập hiến này nữa. Tháng 5/2018 Maduro bất chấp luật pháp đột ngột tổ chức bầu cử tổng thống bẩy tháng trước hạn kỳ chính thức, liên minh đối lập không kịp trở tay đã kêu gọi tẩy chay. Đã chỉ có không tới 33% cử tri tham gia cuộc bầu cử tổng thống này, một số đông vì sợ bị sách nhiễu, nhưng Maduro cũng chỉ được 67,6%. Cuộc bầu cử này bị Quốc hội Venezuela và đa số các nước trên thế giới phủ nhận. Maduro không còn chính danh nữa.
Những số liệu kinh tế và xã hội thật kinh khủng : lạm phát năm 2018 được ước lượng là 10.000.000%, nghĩa là đồng Bolivar mất hết giá trị ; 90% người Venezuela sống dưới mức nghèo, 50% dưới mức nghèo khổ cùng cực ; tiền lương tháng của công nhân chỉ còn tương đương với 6 USD và chưa đủ để sống một ngày ; trọng lượng trung bình của một người Venezuela giảm 7 kg so với hai năm trước vì thiếu ăn ; 5% dân chúng chết vì cướp bóc, đói và thiếu thuốc ; hàng ngàn người bị giết trong những cuộc biểu tình phản đối chính quyền ; khoảng ba triệu người Venezuela phải tỵ nạn sang các nước bên cạnh vì lý do thực phẩm.
Maduro cáo buộc Mỹ và các đồng minh đã gây ra thảm trạng này bằng những biện pháp trừng phạt và cô lập. Điều này có phần đúng nhưng làm sao có thể trách Mỹ khi đã coi Mỹ là kẻ thù ? Vả lại, lý do chính của thảm trạng này là do sự sụp đổ của các công ty, kể cả công ty dầu lửa PDVSA, do Chavez và Maduro gây ra, khi họ bổ nhiệm vào vai trò lãnh đạo những đồng chí không biết gì về quản trị xí nghiệp. Sự sụp đổ kinh tế của Venezuela cũng khá giống như sự sụp đổ của kinh tế miền Nam Việt Nam say ngày 30/04/1975.
Năm 2019 đã bắt đầu với những cuộc biểu tình lớn của một quần chúng không còn gì để mất, hưởng ứng lời kêu gọi của một đối lập dân chủ mà trước đây đa số đã bất tín nhiệm. Dĩ nhiên Maduro đã ra lệnh cho quân đội và cảnh sát đàn áp thẳng tay. Hơn ba mươi người đã bị giết. Chính trong thảm kịch quốc gia này mà chủ tịch quốc hội Juan Guaido đã tự xưng làm tổng thống lâm thời đồng thời tuyên bố Nicolas Maduro bất hợp pháp. Phản ứng của Maduro là cho quân đội bắt Guaido và chuẩn bị đàn áp tiếp.
Tuy nhiên một điều rất không bình thường đã xẩy ra. Vài giờ sau Guaido được thả ra và từ đó các cuộc biểu tình không bị đàn áp nữa. Chắc chắn không phải vì Maduro bỗng nhiên hiền lành. Ngay chính các đồng minh Nga và Trung Quốc cũng đã khuyến cáo ông ta thỏa hiệp thay vì đàn áp. Ông ta đã hiểu là chính mình đang lâm nguy.
Một kế hoạch lật đổ có chuẩn bị
Cho tới ngày 05/01/2019 trừ một số người Venezuela không ai biết đến Juan Guaido, một dân biểu 35 tuổi mà thành tích duy nhất là đã tham gia các cuộc biểu tình chống Chavez rồi Maduro. Hôm đó ông ta thình lình được bầu làm chủ tịch quốc hội.
Khi nhìn lại các diễn biến người ta nhận ra là tất cả đã được chuẩn bị. Ngày 10/01/2019, theo dự trù Maduro sẽ chấm dứt nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất và sẽ tuyên thệ nhận chức tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Ông ta không thể tuyên thệ trước Quốc hội như hiến pháp Venezuela quy định bởi vì cuộc bầu cử tổng thống tháng 5/2018 đã bị Quốc hội tuyên bố là vô giá trị và cũng bị đa số các nước dân chủ đánh giá là gian lận. Ngay cả các đồng minh của Maduro như Nga, Trung Quốc và Cuba cũng chỉ im lặng chứ không thể nói Maduro đã được bầu một cách lương thiện. Maduro đã tuyên thệ nhận chức một cách dấm dúi trước tòa án tối cao gồn toàn những thẩm phán chân tay của ông ta. Điều này có nghĩa là từ ngày 10/01 Maduro không còn là tổng thống chính đáng và hợp pháp nữa.
Theo hiến pháp Venezuela thì khi không còn tổng thống chủ tịch quốc hội sẽ tạm thời đảm nhiệm chức vụ tổng thống với trách nhiệm tổ chức cuộc bầu cử một tổng thống mới. Như thế chắc chắn sẽ có một cuộc đụng độ sống còn giữa Quốc hội và Maduro, trong đó phương tiện duy nhất của Quốc hội là kêu gọi dân chúng xuống đường vì quân đội và cảnh sát đang ở trong tay Maduro. Juan Guaido được bầu làm chủ tịch năm ngày trước là để chuẩn bị cho cuộc đụng độ này vì là một thanh niên dám và biết tổ chức biểu tình. Một lý do khác là đối lập dân chủ Venezuela cũng cần một khuôn mặt mới bởi vì nhân sự chính trị cũ đã bị gắn liền với bất tài và tham nhũng.
Những gì xẩy ra sau đó đã xác nhận kịch bản đối đầu này và còn cho thấy là nó đã được chuẩn bị từ lâu một cách khá chu đáo. Juan Guaido đã lập tức tổ chức các cuộc xuống đường sau ngày 10/01, Maduro đã phản ứng dã man như thường lệ làm hơn ba mươi người chết. Ngày 20/01 một đơn vị quân đội nổi dậy chống Maduro ngay tại thủ đô Caracas. Dù bị dẹp ngay sau đó cuộc nổi loạn này cũng chứng tỏ rằng đã có cố gắng lôi kéo quân đội bỏ Maduro. Rồi ngày 23/01 Juan Guaido tuyên bố đảm nhận chúc vụ tổng thống lâm thời, đương nhiên đặt Maduro ra ngoài pháp luật. Ngay lập tức Mỹ tuyên bố nhìn nhận chính quyền lâm thời của Juan Guaido và sẵn sàng ủng hộ bằng tất cả mọi phương tiện, không loại trừ can thiệp bằng quân sự. Tiếp theo là Canada và hầu hết các nước Châu Mỹ La-tinh. Rồi đến hầu hết các nước Châu Âu. Tất cả như diễn ra theo một kịch bản đã sắp đặt trước.
Kết quả và hậu quả
Sự đào thải của chính quyền Maduro là điều chắc chắn.
Trước hết là vì chế độ Maduro phải cáo chung để đất nước Venezuela có thể sống. Nó đã thất bại ngoài tất cả mọi tưởng tượng trên mọi mặt và kéo nước Venezuela xuống địa ngục.
Sau đó là vì tương quan lực lượng quá chênh lệch.
Phe Maduro có quân đội và công an với đầy đủ vũ khí chống biểu tình tối tân mua của Nga và Trung Quốc. Vấn đề là họ khó có thể đàn áp mà không gặp những phản ứng dữ dội của Mỹ và các nước láng giềng với hậu quả là thảm bại nhanh chóng và ngay cả tính mạng của những người cầm đầu, kể cả Maduro, sẽ rất mong manh. Các đồng minh của Maduro đều ở quá xa và không có cả khả năng lẫn quyết tâm để bảo vệ Maduro. Nga là đồng minh tích cực nhất nhưng ngay từ ngày 05/12/2018, gần hai tháng trước khi Juan Guaido tự phong tổng thống, khi tiếp Maduro tại Moscow, tổng thống Nga Vladimir Putin đã công khai yêu cầu Maduro tìm cách thỏa hiệp với đối lập. Nga đã quá kiệt quệ để có thể giúp Maduro trong một cuộc đối đầu quân sự với Mỹ. Trung Quốc mạnh hơn Nga nhưng cũng đang gặp khó khăn kinh tế nghiêm trọng và quá lệ thuộc vào thương mại với Mỹ và Châu Âu để dám thách thức. Hơn nữa, từ ít nhất 5 năm nay, Venezuela đã trở thành một gánh nặng cho cả Nga lẫn Trung Quốc. Lý do khiến Maduro đã không ra tay đàn áp là vì ông ta không được Nga và Trung Quốc bật đèn xanh.
Theo các thăm dò dư luận, Maduro cũng vẫn còn được khoảng 18% dân chúng ủng hộ, nhưng chính những người này cũng hiểu là không còn hy vọng gì ở ông. Họ thù ghét cánh hữu hơn là gắn bó với Maduro. Còn quân đội và công an ? Sự thật giản dị là khi một lực lượng phải đàn áp mà không thể đàn áp nó sẽ không sớm thì muộn tự tan rã. Hơn nữa, trừ một số sĩ quan cao cấp, đa số gia đình họ cũng lâm vào cảnh nghèo khổ, cũng là nạn nhân của chính quyền Maduro.
Phe Guaido trái lại có ưu thế hơn hẳn. Hơn 80% người Venezuela mong muốn một thay đổi chế độ và ủng hộ Guaida dù trong lòng không ưa các chính quyền cánh hữu trong quá khứ. Có lẽ tranh thủ nhân tâm đã là một lý do khiến liên minh cánh hữu chọn Guaido làm biểu tượng vì ông là một thanh niên 35 tuổi không dính líu với các chính quyền trong quá khứ.
Guaido thuộc đảng Ý Chí Nhân Dân (Voluntad Popular), một đảng nhỏ thuộc khuynh hướng xã hội chỉ có 14/167 ghế trong quốc hội. Quốc hội Venezuela là định chế duy nhất được bầu ra một cách lương thiện, Guaido thực ra là một tổng thống lâm thời hợp pháp, được hơn 50 quốc gia nhìn nhận. Yếu tố quyết định là sự hỗ trợ và bảo vệ tận tình của Mỹ và các nước láng giềng. Chiến lược của các nước này là giúp Guaido mọi phương tiện để tranh thủ quần chúng và tổ chức đội ngũ đồng thời phong tỏa Venezuela cho đến khi chính quân đội và công an cảm thấy không còn lối thoát và quay lưng lại với Maduro. Trong khi chờ đợi dùng viện trợ nhân đạo để lố bịch hóa và vô hiệu hóa Maduro.
Hai bên đã có cuộc thử sức đầu tiên ngày 12/02 vừa qua. Cả hai bên đều biểu tình. Theo báo chí, phe Maduro tập trung được khoảng mười ngàn người ở trung tâm thủ đô Caracas trong khi phe Guaido động viên được cả trăm ngàn người tại nhiều thành phố lớn. Hậu thuẫn quần chúng của Guaido hơn hẳn Maduro nhưng chưa đủ. Đáng lẽ trong một tình trạng bi đát như thế phải có vài triệu người xuống đường. Guaido đã không động viên được quần chúng như ông và dư luận thế giới chờ đợi. Ông tuyên bố ngày ngày 23/02 sẽ giải tỏa biên giới để các đoàn xe cứu trợ nhân đạo vào được Venezuela nhưng rồi quân đội vẫn theo lệnh Maduro ngăn chặn được mà không gặp khó khăn nào đáng kể. Cũng như ngày 12/02, Guaido đã không động viên được quần chúng ở mức độ cần thiết để giải tỏa tình thế.
Tại sao ? Lý do có một tên gọi : Donald Trump.
Quần chúng Venezuela vốn đã không mặn mà gì với các chính quyền cánh hữu trong quá khứ và họ đã ít nhiều đánh đồng Juan Guaido với phe này. Tuy vậy họ cũng sẽ hưởng ứng lời kêu gọi xuống đường chống Maduro một cách mạnh mẽ hơn hẳn nếu thấy thế giới ủng hộ một cách nồng nhiệt hơn. Quân đội Venezuela cũng sẽ bỏ Maduro nếu thấy ông ta bị cả thế giới lên án. Nhưng thực tế đã không như vậy.
Juan Guaido được hơn 50 nước thừa nhận nhưng không một nước nào ủng hộ nhiệt tình. Lý do là vì kế hoạch lật đổ Maduro đã do Mỹ cùng chủ động và Donald Trump đã thành công trong việc làm tê liệt liên minh giữa các nước dân chủ và khiến cả thế giới dị ứng với Mỹ. Những gì Mỹ làm, ngay cả đúng như trong trường hợp này, cũng không được hưởng ứng.
Nước Mỹ cô lập như chưa bao giờ thấy. Không chỉ cô lập mà còn tê liệt vì chia rẽ nghiêm trọng giữa những người ủng hộ và những người chống Trump. Vả lại chính quyền Trump đã ứng xử một cách quá thô vụng trong vụ này. Tổng thống Trump, phó tổng thống Pence, ngoại trưởng Pompeo và cố vấn an ninh Bolton đã chỉ biết đe dọa Maduro và giải thích lý do can thiệp là vì Châu Mỹ La-tinh thuộc vùng ảnh hưởng của Mỹ. Không một lời cho nhân dân và đất nước Venezuela. Thế giới và người Venezuela dù muốn cũng không có lý do để phấn khởi. Kết quả là cuộc khủng hoảng Venezuela đã không kết thúc nhanh chóng như đáng lẽ nó phải kết thúc. Nước Mỹ sẽ không bao giờ nhìn thấy hết những tác hại của Donald Trump.
Dầu vậy tình trạng bế tắc dai dẳng này chỉ kéo dài sự đau khổ của nhân dân Venezuela chứ không thay đổi được tình thế, kết cục vẫn là sự đào thải của chế độ Maduro. Sau đó có thể dự đoán là Venezuela sẽ nhanh chóng trở lại tình trạng bình thường, nghĩa là đạt tới một sinh hoạt tương tự như các nước Nam Mỹ khác, trước khi bắt đầu hàn gắn những vết thương trầm trọng mà hai mươi năm cầm quyền của Chavez và Maduro để lại. Tương lai của Venezuela chắc chắn sẽ không đen tối vì những người sắp cầm quyền không thể nào không rút ra những bài học đau đớn của giai đoạn vừa qua. Tuy vậy Venezuela sẽ chỉ thực sự phục hồi để tận dụng được tài nguyên thiên nhiên của mình nếu những người lãnh đạo mới biết thực hiện một chính sách hòa giải dân tộc thành thực và quả quyết.
Hậu quả đối với thế giới sẽ quan trọng hơn nhiều, rất nhiều
Cả Nga và Trung Quốc, hai cột trụ của một "liên minh quốc tế chống dân chủ" đều sẽ rất điêu đứng. Cả hai nước đều đã dồn rất nhiều của cải vào Venezuela trong tham vọng thiết lập một đầu cầu tại Nam Mỹ.
Không ai biết chính xác Venezuela nợ hai nước này bao nhiêu nhưng vào tháng 11/2017, vào lúc tình hình kinh tế Venezuela chưa đến nỗi quá bi đát, công ty thẩm định tài chính Standard and Poor's, ước lượng số tiền mà Trung Quốc đã cho vay là 56 tỷ USD. Nga theo con số chính thức đã cho vay 8 tỷ USD nhưng con số thực sự chắc chắn phải cao hơn nhiều. Từ đó, trong năm 2018, Nga và Trung Quốc đã cho Venezuela vay thêm ít nhất 7 tỷ USD.
Nhưng khoản cho vay không quan trọng bằng khoản đầu tư của hai nước này, nhất là Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư vào tất cả các tài nguyên thiên nhiên của Venezuela, nhất là dầu và khí, và cũng rất tích trong việc xây dựng các kết cấu hạ tầng. Đầu tư vào dầu lửa của Venezuela là một cám dỗ lớn. Việt Nam cũng đã tốn 8 tỷ USD trước khi bỏ cuộc. Trung Quốc chắc chắn phải đổ của vào gấp vài chục lần, có khi cả trăm lần Việt Nam.
Sự sụp đổ của chế độ Maduro sẽ là bi kịch cho Nga và Trung Quốc, bởi vì cả hai nước đã ủng hộ tận tình Chavez và Maduro và sẽ bị chính quyền mới nhìn như đồng phạm của thảm kịch Venezuela. Chính quyền mới sẽ không cần phủ nhận những cam kết của Chavez và Maduro, nhưng họ sẽ không dành cho chúng một ưu tiên nào, và như thế là đủ vì thời gian là tất cả đối với hai chính quyền tại Nga và Trung Quốc, cả hai đều đang sống những năm cuối cùng.
Thiệt hại tài chính của Nga, trên dưới 20 tỷ USD, tuy tự nó không lớn nhưng quan trọng đối với một nền kinh tế mà GDP chỉ là 1.400 tỷ USD lại đang ôm một khối nợ công tương đương và hơn nữa còn đang bị phong tỏa vì vi phạm công pháp quốc tế. Vấn đề của Nga không phải là thể chế vì Nga có một hiến pháp dân chủ mà là Putin. Putin dựa vào những thành tích chinh phục bên ngoài như sáp nhập bán đảo Crimea, chiếm một phần lãnh thổ của Ukraine, chiến thắng Syria v.v. để vi phạm hiến pháp và áp đặt một chế độ độc tài cá nhân. Putin đã đầu tư vào Venezuela trong một cố gắng mở rộng ảnh hưởng của Nga. Sự sụp đổ của chế độ Venezuela sẽ chấm dứt mọi ảnh hưởng Nga tại Châu Mỹ và là sẽ một thất bại chiến lược lớn làm sụp đổ thần tượng Putin, nền tảng của chế độ.
Hậu quả đối với Trung Quốc còn bi thảm hơn. Thiệt hại tài chính rất nặng vào giữa lúc những khó khăn kinh tế đang dồn dập xuất hiện, lố bịch hóa những con số tăng trưởng giả tạo của chính quyền Tập Cận Bình. Khủng hoảng kinh tế đã rất gần và Venezuela sẽ là một thảm bại khiến nó càng gần hơn, thậm chí khởi động sự sụp đổ kinh tế. Nhưng không phải chỉ có thế. Các lãnh tụ Trung Quốc đều đồng ý rằng từ khi Đặng Tiểu Bình thi hành chủ trương "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" sự sống còn của chế độ cộng sản dựa trên một tăng trưởng kinh tế mạnh. Khủng hoảng kinh tế đồng nghĩa với sự sụp đổ của chế độ và sau đó sự tan vỡ của chính Trung Quốc vì chủ nghĩa cộng sản đang là xi măng thay thế Khổng Giáo gắn liền các vùng của Trung Quốc.
Venezuela cũng sẽ không giúp gì được cho Donald Trump. Ngược lại nó còn phơi bày sự thực là ông đã làm nước Mỹ cô lập và yếu đi đến nỗi không giải quyết gọn nhẹ được một vấn đề đáng lẽ đã có thể giải quyết dễ dàng và nhanh chóng. Việc Donald Trump tái cử nhiệm kỳ hai không còn đặt ra nữa. Ông sẽ thảm bại, trừ khi bị truy tố và bãi chức trước.
Hai nhận định nền tảng
Hai nhận định lớn có thể, nên và cần được nắm chắc từ những gì đã, đang và sẽ xẩy ra tại Venezuela.
Một là, làn sóng dân chủ vẫn tiếp tục tràn tới. Từ mấy năm gần đây dân chủ có vẻ bị đe dọa. Phong trào dân túy trỗi dậy khắp nơi, các chế độ độc tài lộng hành gần như vô tội vạ, Trung Quốc bành trướng ra khắp thế giới, Putin sáp nhập Crimea và chiến thắng tại Syria v.v. Nhưng rồi sự sụp đổ của một chế độ nhỏ, chế độ Maduro, đảo ngược tất cả. Chế độ cộng sản Trung Quốc và chế độ độc tài Putin tại Nga bắt đầu giai đoạn cáo chung. Làn sóng dân chủ thứ tư, mà logic cốt lõi là dứt điểm các chế độ độc tài còn lại, sẽ mạnh lên và đạt tới cao điểm trong tương lai gần. Không phải vì Venezuela quá quan trọng mà vì một lý do nền tảng hơn nhiều.
Đó là vì loài người đã tiến vào một kỷ nguyên mới trong cuộc hành trình về tự do. Các xã hội đã trở thành mạnh hơn các chính quyền. Không còn một chế độ độc tài nào, dù chủ trương toàn trị hung hăng tới đâu, có thể kiểm soát được toàn bộ và áp đặt được hướng đi của một xã hội và một dân tộc nữa. Dù có thể bị cản trở, các xã hội sau cùng vẫn tiến tới theo hướng khiến con người ngày càng tự do hơn và được kính trọng hơn, nghĩa là các quốc gia ngày càng dân chủ hơn. Chống lại dân chủ chỉ có nghĩa là mù quáng chọn sự đào thải chắc chắn. Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội. Điều mới trong lịch sử thế giới là từ nay xã hội mạnh hơn.
Hai là, Venezuela là một nước rất được thiên nhiên ưu đãi, có khả năng khiến mọi người đều giầu có nhưng đã chỉ quằn quại trong độc tài, áp bức, bạo loạn, nội chiến và nghèo khổ vì thiếu tinh thần dân tộc và đồng thuận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung, điều mà chỉ có một tư tưởng chính trị lành mạnh mới có thể đem đến. Tư tưởng chính trị là thuốc phòng chống và chữa bệnh điên của xã hội. Một dân tộc không có tư tưởng chính trị chắc chắn sẽ điên, sẽ chia rẽ và xung đột để đi từ tai họa này đến thảm kịch khác, như một con tầu không la bàn, không đụng vào đá ngầm thì cũng đâm vào băng đảo. Mỹ đã hơn hẳn các nước Châu Mỹ La-tinh -dù được thành lập cùng một lúc ở cùng một trình độ- nhờ đã có hoặc đã biết thu nhận tư tưởng dân chủ của những Locke, Jefferson, Stuart Mills, De Tocqueville, James v.v.
Từ hai nhận định rất quan trọng đó người Việt Nam chúng ta có thể rút ra kết luận nào cho đất nước mình ?
Trước hết là niềm tin sắt đá rằng chúng ta nhất định sẽ có dân chủ trong một tương lai gần. Đảng cộng sản sẽ chỉ có một chọn lựa là tích cực tham gia tham gia vào tiến trình dân chủ hóa để làm tác nhân thay vì nạn nhân của lịch sử. Sau đó là cần chuẩn bị cho hạn kỳ đó vì dân chủ chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để xây dựng một đất nước Việt Nam mà mọi người Việt Nam có thể yêu và tự hào. Dân chủ không thay thế cho những chính sách và những con người mà chúng ta cần có.
Chuẩn bị nền tảng nhất là một tư tưởng chính trị mà trí thức Việt Nam cần có, nhưng rất đáng tiếc là vẫn chưa có, để đảm nhiệm vai trò hướng dẫn dân tộc trong cuộc hành trình về tương lai.
Nguyễn Gia Kiểng
(26/02/2019)
Lời tòa soạn : Nguyễn Gia Kiểng (sinh 1942) là cựu công chức Việt Nam Cộng Hòa. Sau 30/04/1975 ông bị đi tù cải tạo hơn 3 năm. Khi được thả, ông được cộng sản sử dụng làm chuyên viên cho đến khi Pháp can thiệp để được đi định cư tại Pháp năm 1982. Nguyễn Gia Kiểng, cùng một số trí thức của miền Nam Việt Nam đã từng trải qua các trại tập trung cải tạo sau ngày 30/04/1975, thành lập một nhóm chính trị sau này trở thành Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Ông chủ trương đấu tranh cho dân chủ bằng đường lối bất bạo động trong tinh thần hòa giải dân tộc, do đó bị đả kích từ những người chống cộng cực đoan khác. Trẻ xin giới thiệu bài phỏng vấn của Phạm Thị Hoài về quan điểm và phương pháp đấu tranh dân chủ cho Việt Nam của ông.
Báo Trẻ Online, 15/02/2019
******************
Phỏng vấn ông Nguyễn Gia Kiểng , Thường trực Tập họp Dân chủ Đa nguyên
Phạm Thị Hoài : Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, từ nhiều năm nay anh cảnh báo và thậm chí lên án cách hoạt động đối lập của người Việt mà anh gọi là "làm chính trị nhân sĩ". Trong bài viết gần đây nhất, thảo luận về "Yêu sách tám điểm năm 2019 của người dân Việt Nam", một lần nữa anh yêu cầu "chấm dứt lối hoạt động chính trị nhân sĩ để tiến tới đấu tranh có tổ chức". Thế nào là "làm chính trị nhân sĩ", trước hết xin anh một định nghĩa.
Nguyễn Gia Kiểng : Rất đồng ý. Trước khi thảo luận cần đồng ý trên ý nghĩa của các từ ngữ. "Nhân sĩ" là một khái niệm của Nho giáo để chỉ những người "kẻ sĩ", nghĩa là những người có học, có chút tiếng tăm. Các nho sĩ ngày xưa chỉ cố gắng một mình để học và thi lấy bằng cấp với ước mơ được phục vụ cho một chính quyền và cho như thế là vinh quang. Họ không có văn hóa đấu tranh thay đổi chính quyền để thay đổi xã hội, mục tiêu của họ chỉ là làm thế nào để có danh giá và có địa vị xã hội cao hơn người khác. Do đó họ không thấy cần thiết phải kết hợp với nhau thành tổ chức để có sức mạnh của tổ chức, điều kiện bắt buộc để có thể đương đầu với chính quyền và áp đặt sự thay đổi. Khổng Tử dạy các nho sĩ rằng "nước nguy thì đừng tới, nước loạn thì đừng ở, chế độ lành mạnh thì xin phục vụ, chế độ vô đạo thì ở ẩn" (nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc kiến, thiên hạ vô đạo tắc ẩn). Nhân sinh quan tồi hèn này thay vì bị khinh bỉ đã được coi là cao quý trong hàng ngàn năm và đã ăn sâu vào tiềm thức của trí thức Việt Nam, hậu duệ của những kẻ sĩ, trong khi dù muốn hay không trí thức bao giờ cũng phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo.
Chúng ta chưa rũ bỏ được di sản văn hóa này vì chúng ta chưa ý thức được sự tầm thường của nó. Hậu quả là cho tới nay ngay cả đa số những trí thức có tâm hồn nhất cũng chỉ hoạt động chính trị kiểu nhân sĩ, nghĩa là hoạt động với tư cách cá nhân, thỉnh thoảng ký tên vào một kiến nghị hay tham gia một hành động nhất thời chứ không dấn thân vào một tổ chức nào cả. Cách hoạt động chính trị nhân sĩ này sai một cách bi đát. Tổ chức cho chúng ta sức mạnh, điều này ai cũng biết, nhưng nó cũng khiến chúng ta mạnh dạn hơn, nó cũng là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến. Không có tổ chức thì hậu quả tự nhiên là bất lực, nhút nhát và thiếu chính xác. Nếu có một điều cần nhấn mạnh nhất thì đó là đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức.
Chế độ cộng sản thực ra không mạnh. Nó đã phân hóa ở mức độ hiểm nghèo và chỉ còn là một liên minh giả dối của những người thù ghét nhau vì tranh giành quyền và tiền. Trở ngại chính của cuộc vận động dân chủ hóa đất nước là văn hóa nhân sĩ, là cách hoạt động chính trị nhân sĩ.
Phạm Thị Hoài : Trong một bài viết khác về "giai đoạn Ngô Đình Diệm" anh cũng nhận định rằng "cách làm chính trị của ông Diệm và ông Nhu là cách làm chính trị nhân sĩ". Điều trớ trêu là những người cầm đầu cuộc đảo chính, giết hai anh em họ Ngô năm 1963, đã lập nên một "Hội đồng Nhân sĩ" như một cơ quan dân sự đóng vai trò cố vấn. Hội đồng này sau đó nhanh chóng bị giải tán, song một định chế như thế – có thể tương đương với các assemblée des notables – không chỉ có ở Việt Nam. Như vậy khái niệm "nhân sĩ" không hẳn được quan niệm rõ ràng trong tiếng Việt. Nguồn gốc của nó cũng không sáng tỏ. Có vẻ như nó là tất cả những khái niệm như thân hào, nho sĩ, chí sĩ, danh sĩ, kẻ sĩ, văn thân, sĩ tử… và nhân vật cộng lại. Để tránh hiểu lầm, anh có thể khoanh vùng rõ nét hơn cho cái "văn hóa nhân sĩ" mà anh vừa nói đến không ?
Nguyễn Gia Kiểng : Ông Diệm và ông Nhu đúng là làm chính trị kiểu nhân sĩ như tôi đã mô tả ở trên. Mục tiêu thầm kín của các nhân sĩ là xây dựng uy tín cá nhân cho mình rồi chờ cơ hội để nắm hay tham gia vào chính quyền. Cả ông Diệm lẫn ông Nhu đều không có tổ chức nào cả. Ông Diệm đi Mỹ rồi đi Pháp tranh thủ sự yểm trợ để được đưa lên cầm quyền nhưng thất vọng rồi sang Bỉ sống trong một nhà tu công giáo để chờ thời. Ông hoàn toàn không có lực lượng Việt Nam nào sau lưng. Thời cơ đã đến khi người Pháp sắp thua tại Điện Biên Phủ và đưa ông Diệm lên cầm quyền vì họ nhìn thấy nơi ông một lối thoát danh dự.
Chỉ đến khi đã cầm quyền, ông Diệm và ông Nhu mới thành lập Đảng Cần lao Nhân vị để có lực lượng nhưng không thành. Đảng Cần lao Nhân vị có tới vài trăm ngàn đảng viên nhưng đã bốc hơi tức khắc sau khi ông Diệm bị lật đổ. Thực ra nó đã chết trước đó mấy năm. Ông Ngô Đình Nhu, người sáng lập ra nó, không muốn nhắc tới nó nữa vì nó chỉ tạo ra vấn đề chứ không giải quyết được gì cả. Tình trạng này cùng giống hệt như Đảng Dân chủ của ông Nguyễn Văn Thiệu trước năm 1975. Không ai có thể thành lập một chính đảng một khi đã nắm được chính quyền vì lúc đó không thể phân biệt được những người vào đảng vì lý tưởng chính trị với những người chỉ chạy theo quyền lợi. Cuối cùng thì ông Diệm chỉ còn tin tưởng ở anh em họ hàng. Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu sau đó, cho thấy rằng một người không có một chính đảng làm hậu thuẫn, ngay cả nếu vì một sự tình cờ ngàn năm một thuở có được chính quyền, cũng thất bại chắc chắn.
Cô Hoài nhắc lại "Hội đồng Nhân sĩ" (assemblée des notables) do các tướng lãnh lập ra sau khi đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Định chế này đã xuất hiện trong giai đoạn Cách mạng Pháp 1789 và cũng được lặp lại sau này trong vài nước lạc hậu như là một liều thuốc chữa chạy cho tình trạng trống vắng chính trị. Các tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa lập Hội đồng Nhân sĩ sau khi lật đổ ông Diệm vì họ không có một sự chính đáng nào và cần dựa vào những người có chút uy tín để được dư luận chấp nhận. Đây là một nhu cầu rất tạm thời nên không ngạc nhiên khi hội đồng này bị giải tán sau đó. Đây cũng là dịp để các vị nhân sĩ phơi bày sự trống rỗng kiến thức chính trị, một kiến thức chỉ có được trong sinh hoạt chính đảng.
Cô Hoài cũng thêm ra một loạt các khái niệm của xã hội Nho giáo thân hào, nho sĩ, chí sĩ, danh sĩ, văn thân, sĩ tử và nhân vật, có thể thêm kẻ sĩ, nho gia và vài danh xưng khác nữa. Điều này chứng tỏ văn hóa nhân sĩ ăn rễ rất sâu vào xã hội ta.
Nhân sĩ là một nho sĩ – hay sĩ tử, văn thân, kẻ sĩ, nói chung là một người có đi học – có tiếng tăm. Các nhân sĩ có tiếng tăm lớn được gọi là danh sĩ, nếu có thể có một vai trò lãnh đạo thì được gọi là chí sĩ. Như vậy điều cốt lõi của văn hóa nhân sĩ là tiếng tăm, là chữ Danh. Đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Nguyễn Công Trứ). Chữ Danh gần như là tất cả đối với các nhân sĩ và trong hầu hết mọi trường hợp nó được coi là đồng nghĩa với "công danh", nghĩa là làm quan lớn, càng lớn càng vinh quang. Và mỗi nhân sĩ cố gắng một mình để tìm công danh cho riêng mình.
Văn hóa nhân sĩ như vậy ít nhất để lại cho trí thức Việt Nam hai thương tật :
Một là coi hoạt động chính trị là để làm quan, là tranh giành công danh cho riêng mình, bằng cố gắng cá nhân.
Hai là tâm lý phục tùng chính quyền thay vì đấu tranh để thay đổi nó, ngay cả khi đó chỉ là một chính quyền tồi dở và thô bạo.
Hai tật nguyền này khiến các trí thức Việt Nam không kết hợp được với nhau để xây dựng một lực lượng có tầm vóc để đấu tranh dân chủ hóa đất nước. Đa số không có văn hóa tổ chức hoặc ý chí thay đổi xã hội, hoặc cả hai.
Phạm Thị Hoài : Trong hai cụ Phan, hai nhà ái quốc lớn thời Pháp thuộc, có vẻ như Phan Châu Trinh đáp ứng hình mẫu của một nhân sĩ mà anh miêu tả. Cụ hoạt động cá nhân, cùng một vài người bạn đồng chí hướng chứ không ở trong một tổ chức nào đáng kể. Cụ dành phần lớn cuộc đời cho công cuộc duy tân, khai hóa dân tộc và viết những bản kiến nghị, điều trần gửi nhà cầm quyền thực dân chứ không trực tiếp đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ thuộc địa. Phan Bội Châu khác hẳn, sáng lập các tổ chức, vận động các phong trào, thậm chí theo đuổi cả các hoạt động bạo lực nhằm giành lại độc lập cho dân tộc. Anh cổ xúy cho tinh thần Phan Châu Trinh hay tinh thần Phan Bội Châu ?
Nguyễn Gia Kiểng : Tôi kính trọng cả hai nhà chí sĩ họ Phan nhưng chọn lựa của tôi rất rõ ràng : Phan Châu Trinh đúng và Phan Bội Châu sai. Tôi đã viết một bài trong chiều hướng này .
Phan Châu Trinh không hoạt động cá nhân, ông luôn luôn tìm cách liên kết với những người có tâm huyết để có thêm sức mạnh. Năm 1904, ngay khi từ quan, ông đã kết thân với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng, rồi ba người cùng vào Nam liên kết với nhiều người khác. Sau đó ông cũng ra Bắc gặp Đề Thám, sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu và sang cả Nhật, để nhận định hướng đi cho cuộc đấu tranh, những mục tiêu cần phải đạt tới, những gì cần làm và những gì có thể làm. Và ông đã làm những gì có thể làm. Ông đấu tranh có phương pháp.
Ngày nay các nghiên cứu về đấu tranh chính trị không thiếu và anh em chúng tôi trong Tập hợp Dân chủ Đa nguyên đã đúc kết trong các dự án chính trị, kể cả dự án gần đây nhất : Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai . Đấu tranh thay đổi xã hội phải qua năm giai đoạn trong đó hai giai đoạn đầu cũng là hai giai đoạn dài và khó khăn nhất : một là xây dựng một tư tưởng chính trị đúng thể hiện qua một dự án chính trị lành mạnh và khả thi ; hai là xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt. Phan Châu Trinh đã hành động như thế. Ông cho rằng việc đầu tiên phải làm là khai dân trí, nghĩa là phổ biến một tư tưởng chính trị. Ông là người Việt Nam đầu tiên quả quyết xác nhận lập trường dân chủ và trình bày dân chủ một cách có bài bản. Ông không kêu gọi đấu tranh xóa bỏ ngay tức khắc chế độ thuộc địa vì ông nhìn thấy một điều mà nhiều nho sĩ không nhìn thấy là Việt Nam chưa bao giờ tiến bộ nhanh bằng trong giai đoạn Pháp thuộc về tất cả mọi mặt khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, giáo dục và ngay cả nhân quyền.
Phan Châu Trinh công khai và dứt khoát chọn lập trường tranh đấu giành độc lập nhưng ông cho rằng dân tộc ta cần trước hết xứng đáng với độc lập, để độc lập khiến chúng ta tiến bộ nhanh hơn và con người được tôn trọng hơn. Phạm Quỳnh sau đó cũng có một lập trường tương tự dù không đủ dứt khoát và gây tranh cãi. Phan Châu Trinh hoàn toàn có lý nhưng ông không thể làm hơn được, cuộc sống của ông trong những năm cuối cùng tại Pháp quá thiếu thốn, ảnh hưởng nghiêm trọng lên tình trạng sức khỏe của ông và ông mất năm 1926 sau khi về nước không đầy một năm, ở tuổi 54.
Phan Bội Châu trái lại chỉ hành động theo nhiệt huyết, ông chủ trương giành độc lập bằng bạo lực dù không có phương tiện bạo lực, ông chủ trương phục hồi Khổng giáo mà không ý thức rằng đó là một văn hóa độc hại, ông cầu viện Nhật dù đó là một chế độ quân phiệt hung bạo. Ông lầm to.
Phạm Thị Hoài : Song giới nhân sĩ trong và ngoài nước hiện nay cũng rất đề cao tinh thần Phan Châu Trinh và hoạt động theo sát các chủ trương của cụ. Và từ những rụt rè thận trọng ban đầu, nay họ đã tập hợp thành một đội ngũ nhất định, tuy chưa phải là những tổ chức quy củ và mạnh mẽ nhưng đã có sức lan tỏa. Và quan trọng nhất : họ cũng không thể làm hơn được. Mọi tổ chức đối lập đều bị chính quyền bóp nát từ trong trứng nước. Vậy họ phải làm gì ?
Nguyễn Gia Kiểng : Không biết trong câu hỏi này cô Hoài có ý định khiêu khích để tôi phản đối hay không nhưng tôi không nghĩ là các "nhân sĩ hiện nay", để dùng từ của cô Hoài, đã làm tất cả những gì có thể làm theo gương Phan Châu Trinh.
Phan Châu Trinh là nhà dân chủ đầu tiên của nước ta. Ông đã vượt hẳn tư tưởng của thời đại mình, dứt khoát đoạn tuyệt với Khổng giáo và chọn lập trường dân chủ nhân quyền. Điều này đặc biệt đáng thán phục vì Phan Châu Trinh không biết tiếng Pháp và chỉ đọc một vài cuốn sách dịch tư tưởng phương Tây được gọi là "Tân thư", ông đã cần một cố gắng suy tư cá nhân rất lớn để hiểu và hấp thụ những tư tưởng mới. Ông cũng đã từ quan, dứt khoát từ bỏ mọi ân huệ của chế độ quân chủ và thẳng thắn bác bỏ nó đến nỗi bị án đày chung thân, suýt bị tử hình nếu người Pháp không can thiệp. Sau này tại Pháp ông cũng từ chối không chấp hành lệnh động viên vào quân đội Pháp trong Thế chiến I, dù đó chỉ là hình thức, để bị tù và mất việc làm, rơi vào cảnh đói khổ đến nỗi cả ông lẫn con trai đều chết vì hậu quả của thiếu thực phẩm và thuốc. Phan Châu Trinh rất dũng cảm dù ông chủ trương đấu tranh bất bạo động.
Các trí thức hiện nay nói chung còn một khoảng cách xa so với Phan Châu Trinh. Họ không đi trước và dẫn đường như ông. Nhiều kiến nghị và yêu cầu còn tụt hậu so với ý thức của quần chúng. Nhiều người vẫn còn không dám nói hết những điều mình nghĩ, một số tuy đã về hưu vẫn hãnh diện xưng ra những chức vụ từng giữ trong chế độ cộng sản, dù xét cho cùng đó chỉ là tiếp tay cho một chế độ bất chính và độc hại. Một số trí thức ưu tú đã đề cao Phan Châu Trinh, tôi chỉ có thể tán thành họ, nhưng cũng xin phép nhắc nhở rằng Phan Châu Trinh đã qua đời từ gần một thế kỷ rồi và cách tôn vinh đúng các nhà cách mạng tư tưởng không phải là làm theo họ mà là đi xa hơn họ, như họ đã đi xa hơn di sản lịch sử của chính họ.
Tôi cũng không nghĩ là các trí thức hiện nay đã làm tất cả những gì họ có thể làm. Chúng ta phải có một tổ chức mạnh để giành thắng lợi cho cuộc vận động dân chủ và đó là điều chúng ta có thể làm được ngay trong tình trạng hiện nay, dù chủ trương của chính quyền cộng sản là không để nhen nhúm thành lập các tổ chức như họ đã nhiều lần nhắc lại. Trong hơn 40 năm qua đã diễn ra một cuộc giằng co giữa một bên là nhân dân Việt Nam vùng vẫy để tự cởi trói và bên kia là Đảng Cộng sản Việt Nam cố siết lại để duy trì chế độ toàn trị, với kết quả là Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải nhượng bộ khá nhiều. Hiện nay mọi người Việt đều có thể công khai nói rằng mình ủng hộ dân chủ, không thích chủ nghĩa Mác-Lênin, thậm chí đả kích chế độ cộng sản mà cùng lắm chỉ bị thiệt hại về quyền lợi chứ không bị đe dọa về an ninh. Đó là điều mà hàng ngàn người đang làm công khai mỗi ngày trong đời thường cũng như trên các mạng xã hội. Mức độ tự do này đủ để chúng ta có thể thành lập một tổ chức dân chủ mạnh nếu thực sự có quyết tâm từ bỏ cách hoạt động nhân sĩ để đấu tranh có tổ chức.
Có hai điều kiện chính. Điều kiện thứ nhất là phân công. Mỗi người tùy cương vị của mình – ở trong hay ngoài nước, ở trong hay ngoài bộ máy đảng và nhà nước cộng sản v.v. – làm những gì mình có thể làm thay vì tranh giành những vai trò mà mình không thể đảm nhiệm. Điều kiện thứ hai, quan trọng hơn nhiều, là niềm tin sắt đá vào sức mạnh của lẽ phải, là niềm tin rằng bao nhiêu triệu công an võ trang cũng vẫn thua lẽ phải, nếu chúng ta thực sự biết vận dụng lẽ phải.
Phạm Thị Hoài : Cuộc Cách mạng Hòa bình ở Đông Đức năm 1989 chấm dứt chế độ chuyên chính vô sản ở Cộng hòa dân chủ Đức và dẫn đến thống nhất nước Đức diễn ra không do tổ chức nào lãnh đạo. Ngược lại, các tổ chức chính trị đối lập mà trước đó không thực sự hiện diện đã hình thành qua đêm, từ phong trào tự phát lan rộng của quần chúng.
Song dường như cuộc cách mạng đó cũng như tất cả các chuyển đổi thành công từ một chế độ độc tài cần ít nhất một trong ba điều kiện : Một, ý chí thay đổi chế độ hiện hành của đa số người dân ; hai, một khoảng trống quyền lực đủ lớn ; và ba, một hoàn cảnh chính trị quốc tế đủ thuận lợi.
Đông Đức năm 1989 đáp ứng cả ba điều kiện đó. Việt Nam năm 2019 dường như không đáp ứng cả ba. Đa số dân chúng không màng chuyện chính trị. Chính quyền đảng trị và nhà nước công an không thực sự suy yếu dù chúng ta cấp sẵn giấy báo tử cho nó từ rất lâu rồi. Còn thế giới thì có đủ thứ khác đáng bận tâm hơn chế độ cộng sản giả hiệu hạng nhì ở Việt Nam, chưa kể chỗ dựa vững mạnh của chế độ ấy ở một Trung Quốc cộng sản giả hiệu hạng nhất đang chuẩn bị thống soái thế giới. Lẽ phải, trong hoàn cảnh như vậy, có vẻ rất cô đơn ?
Nguyễn Gia Kiểng : Lẽ phải không bao giờ cô đơn và luôn có sức mạnh vô địch của nó nếu biết vận dụng. Không thể so sánh Việt Nam hiện nay với Đông Đức năm 1989. Đông Đức lúc đó giống như một tỉnh của Đức bị nước ngoài chiếm đóng, nước ngoài bỏ đi và một nước mẹ phồn vinh giang tay đón nhận. Trong một hoàn cảnh như thế thì dù có hay không có các tổ chức chính trị, thay đổi vẫn đến.
Việt Nam hiện nay là một quốc gia đang phải chịu đựng một chính quyền tồi dở đặt nền tảng trên một chủ nghĩa độc hại. Chúng ta phải thay đổi cả chính quyền lẫn chế độ và văn hóa chính trị. Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước Việt Nam là một cuộc cách mạng đúng nghĩa. Chúng ta mong muốn cuộc cách mạng này sẽ diễn ra trong hòa bình và trong tinh thần hòa giải dân tộc nhưng đó vẫn là một cuộc cách mạng rất lớn, toàn diện và triệt để. Kinh nghiệm cũng như lý luận cho thấy là có bốn điều kiện cần và đủ để một cuộc cách mạng thành công, như Tập hợp Dân chủ Đa nguyên đã vạch ra trong các dự án chính trị từ ba thập niên qua và nhắc lại trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai :
Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi.
Điều kiện thứ hai là đảng hay giai cấp cầm quyền, vì mất đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hóa và đã mất bản năng tự tồn của một đoàn thể.
Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới.
Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới.
Dĩ nhiên không bao giờ có điều kiện nào được thực hiện xong 100%, nhưng tới một mức độ chín muồi nào đó ta có thể coi một điều kiện là đã đạt được. Đây là những điều kiện để một quốc gia tự thay đổi. Dĩ nhiên bối cảnh thế giới có thể gia tốc hoặc làm chậm lại tiến trình cách mạng nhưng yếu tố quyết định vẫn là cố gắng của chính dân tộc đang cần sự thay đổi. Nhìn vào tình trạng Việt Nam hôm nay chúng ta có thể nói là hai điều kiện đầu coi như đã có.
Điều kiện thứ ba cũng đã có được một phần đáng kể. Quần chúng Việt Nam hiện nay đều muốn một chế độ dân chủ pháp trị và một nền kinh tế thị trường, nhưng vấn đề gai góc còn lại là hiểu rõ những khái niệm nền tảng của dân chủ và đem lại cho chúng một nội dung vừa Việt Nam vừa cập nhật. Không đơn giản đâu, dân chủ không phải chỉ là khẩu hiệu "tam quyền phân lập". Chúng ta cần một nền tảng tư tưởng và những định hướng lớn cho mô thức Việt Nam như chúng tôi đã trình bày trong dự án chính trị của mình. Đất nước đang cần một đột phá về tư tưởng mà hình như trí thức Việt Nam vẫn tránh né, chính vì thế mà cuộc vận động dân chủ vẫn chưa khởi sắc.
Điều kiện thứ tư, cũng là điều kiện cụ thể nhất và quan trọng nhất, nghĩa là một tổ chức chính trị có tầm vóc, thì chúng ta gần như thiếu hẳn. Đó là lý do khiến chế độ cộng sản vẫn còn tồn tại dù đáng lẽ nó đã phải bị đào thải từ lâu rồi. Phải ý thức rằng ngay cả nếu chế độ này có ngã gục trên chính quyền thì chúng ta vẫn cần một lực lượng để kéo thi thể của nó đi chỗ khác, nhưng lực lượng này chúng ta vẫn chưa có.
Tại sao chúng ta vẫn chưa có một tổ chức dân chủ mạnh ? Lý do chính không phải là vì chính quyền cộng sản đàn áp. Với mức độ tự do đã giành được và các phương tiện giao thông và truyền thông hiện đại, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng được một tổ chức dân chủ lớn. Trở ngại chính là di sản văn hóa nhân sĩ, là cách hoạt động chính trị một mình hay trong khuôn khổ bạn bè thay vì tham gia xây dựng một tổ chức đúng nghĩa. Chúng ta chỉ có thể đưa cuộc vận động dân chủ ra khỏi thế èo ọt hiện nay nếu vất bỏ được cách làm chính trị nhân sĩ này. Tổ chức sẽ cho chúng ta sức mạnh, lòng tin và sự dũng cảm, nhưng nó cũng giúp chúng ta có được bước đột phá tư tưởng cần thiết mà tôi vừa nói tới trong điều kiện thứ ba, vì tổ chức cũng chính là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến.
Phạm Thị Hoài : Vì sao đó nhất thiết phải là một tổ chức dân chủ mạnh mà không thể là một liên minh, một tập hợp của rất nhiều tổ chức có thể tương đối nhỏ ? Đã có khá nhiều tổ chức như vậy ở Việt Nam và hải ngoại, song dường như phần lớn đều chưa sẵn sàng đứng chung trong một liên minh dân chủ ? Hai năm trước, Tập hợp Dân chủ Đa nguyên mà anh là chủ tịch phải trải qua một vụ ly khai. Bản thân anh với chủ trương đấu tranh ôn hòa cũng bị những người chống cộng cực đoan tẩy chay. Lý tưởng dân chủ không đủ mạnh để làm chất keo đoàn kết các lực lượng dân chủ, hay đơn giản là mô hình kinh điển của những tổ chức và đảng phái chính trị trước đây không còn phù hợp với những phương thức vận động quần chúng của thế kỷ 21 này, khi cá nhân một influencer có thể ảnh hưởng trực tiếp tới hàng trăm ngàn, thậm chí cả triệu người qua internet ?
Nguyễn Gia Kiểng : Chúng ta đâu có mô hình tổ chức kinh điển nào từ trước đến nay đâu. Sự thực là chúng ta chẳng có mô hình tổ chức nào cả, cứ tùy hứng mà lập tổ chức thôi. Đó thảm kịch văn hóa của chúng ta và cũng là lý do khiến chúng ta vẫn chưa có được một tổ chức dân chủ có tầm vóc. Khi chúng ta tưởng rằng mình đã học được kinh nghiệm của một đảng nào đã thành công tại một nước nào đó thì cùng chỉ là học phiến diện và vội vã chứ không hiểu. Muốn hớt tóc hay làm móng tay cũng phải học ít nhất nửa năm, nhưng đấu tranh để thay đổi số phận của cả một dân tộc thì nhiều người lại cho rằng không học cũng làm được. Kết quả là hợp rồi tan. Sau gần nửa thế kỷ dưới chế độ cộng sản đã có hàng trăm hàng ngàn tổ chức được thành lập để chống lại nhưng bây giờ còn lại bao nhiêu tổ chức có chút thực chất ? Không bằng số ngón tay của một bàn tay.
Nhưng tại sao cách hành động cẩu thả như vậy cứ tiếp tục ? Đó có lẽ là vì lý tưởng dân chủ và lòng yêu nước không đủ mạnh. Người ta chỉ hành động vì tức giận với chế độ cộng sản, hay tệ hơn nữa vì muốn có chút tiếng tăm nên không thấy cần phải nghiên cứu và học hỏi. Nếu thực sự đấu tranh vì dân chủ và tương lai đất nước thì người ta sẽ chăm chú quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ và sẽ hiểu rằng xây dựng một tổ chức dân chủ có tầm vóc là điều vừa bắt buộc phải làm vừa vô cùng khó khăn và sẽ có thái độ đóng góp khiêm tốn và thận trọng.
Anh em chúng tôi trong Tập hợp Dân chủ Đa nguyên đã dành trọn hai năm để chỉ nghiên cứu về mục tiêu, đường lối và phương thức đấu tranh trước khi quyết định thành lập tổ chức. Nhờ đó chúng tôi hiểu rằng muốn xây dựng một tổ chức phải có một tư tưởng chính trị đúng đắn thể hiện qua một dự án chính trị nghiêm túc và khả thi, sau đó cố gắng đầu tiên là phải xây dựng một đội ngũ nòng cốt. Hai giai đoạn này chiếm gần hết thời giờ và cố gắng của cuộc đấu tranh và có thể kéo dài nhiều thập niên nhưng đó là cái giá phải trả cho cuộc cách mạng dân chủ. Chúng ta có thể nhận xét là ngay cả các chính đảng có bề dầy lịch sử mà không cập nhật được tư tưởng chính trị cũng không thể tồn tại.
Thành lập tổ chức rất khó nhưng là điều không thể tránh né. Một cá nhân đứng ngoài mọi tổ chức dù xuất chúng và tận dụng mạng internet cũng chỉ có thể đóng góp cho cuộc vận động dân chủ trong việc khai dân trí, nhưng cũng chỉ giới hạn thôi vì điều cần khai dân trí nhất chính là phải chấm dứt lối làm chính trị nhân sĩ.
Công thức liên minh các tổ chức nhỏ cũng không phải là giải đáp cho nhu cầu có một lực lượng dân chủ mạnh. Từ 1975 tới nay đã có vài chục liên minh. Tất cả các liên minh này đều bế tắc ngay sau khi thành lập và trên thực tế tan rã ngay sau đó. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên có lập một ủy ban nghiên cứu về các kinh nghiệm liên minh để rút những kết luận cho tương lai.
Trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai chúng tôi đã nói đến sự cần thiết của một mặt trận, hay liên minh, dân chủ, nhưng đó chỉ là một liên minh giai đoạn ở cao điểm của cuộc vận động dân chủ và dù vậy cũng phải có hai điều kiện. Một là phải có một tổ chức mạnh và có uy tín để làm đầu tầu với vai trò lãnh đạo được các tổ chức thành viên khác chấp nhận. Hai là mỗi tổ chức thành viên đều phải có một tầm vóc nào đó, nếu không thì liên minh cũng giống như một cuộc tảo hôn và sẽ thất bại.
Cô Hoài có nhắc tới vụ ly khai hơn hai năm trước xẩy ra trong Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Những ai đã từng tham gia xây dựng các tổ chức đều hiểu rằng những trục trặc là thường. Lòng người phức tạp và văn hóa tổ chức của người Việt Nam chúng ta không cao, lý tưởng dân chủ và lòng yêu nước nơi một số người đôi khi cũng không đủ mạnh để chấp nhận những hệ lụy của sinh hoạt tổ chức. Chúng tôi có may mắn là ít gặp sự cố nhưng đây không phải là lần đầu có những người ra đi. Phần lớn ra đi trong sự nhã nhặn và vẫn giữ cảm tình với tổ chức, nhưng cũng có những người ly khai, nghĩa là ra đi và dứt tình với tổ chức. Đặc tính chung ở những người ly khai này là họ ngừng hoạt động chính trị một thời gian ngắn sau đó.
Vụ ly khai cách đây hai năm chỉ là một hành động phản bội vì bị cám dỗ tiền bạc quá lớn chứ tuyệt đối không phải vì một động cơ chính trị nào. Những người chủ mưu, trong đó có người phụ trách trang Thông Luận , đã cướp trang web này để lấy nó làm dụng cụ bênh vực ông Trịnh Vĩnh Bình trong vụ kiện chính quyền cộng sản Việt Nam. Ông Trịnh Vĩnh Bình, một người quen thân lâu ngày của họ, đòi bồi thường 1.050 triệu USD và hứa sẽ tặng 90% số tiền giành được cho các thân hữu. Họ không thể làm việc này trong Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên được vì đối với chúng tôi, đây chỉ là vụ kiện của một người làm giầu bất chính bằng cách câu kết với một chính quyền bất lương và bị chính quyền bất lương này phản bội. Cám dỗ quá lớn và họ đã bịa đặt đủ điều để đánh lừa một số anh em khác, thí dụ như bịa đặt một chúc thư của cố huynh trưởng Nghiêm Văn Thạch kêu gọi các chí hữu nổi loạn chống ban lãnh đạo ngay trong ngày đám tang của ông. Họ đã tan rã ngay sau khi vụ kiện kết thúc, chỉ còn vài người cố gian trá tới cùng thôi.
Cô Hoài cũng nói tới những người buộc tội chúng tôi thân cộng. Xin trả lời vắn tắt rằng chuyện này đã thuộc hẳn vào quá khứ. Phần lớn dư luận trong cũng như ngoài nước ngày nay đã hiểu lập trường của chúng tôi, dù đồng ý hay không. Không thể khác, không có sự hiểu lầm nào kéo dài mãi được.
Phạm Thị Hoài : Có thể có một hiểu lầm khác. Trên trang nhà, Tập hợp Dân chủ Đa nguyên khẳng định rằng mình "gần như là địa chỉ duy nhất cung cấp cho độc giả và mọi người Việt Nam những kiến thức cơ bản nhất về chính trị", "là ngoại lệ duy nhất" trong các tổ chức và đảng phái chính trị Việt Nam hiện tại có khả năng dự đoán và "có giải pháp cho tất cả các mọi vấn đề của Việt Nam". Chưa kể nguy cơ đánh mất thiện cảm của các đồng minh chính trị, tuyên xưng "duy nhất" ấy có phù hợp với diễn ngôn dân chủ đa nguyên không, và rốt cuộc, ít nhiều cũng rơi vào một khía cạnh của "văn hóa chính trị nhân sĩ" mà anh phê phán, khía cạnh một mình, chỉ riêng mình, duy nhất mình đạt được thành tựu không, thưa anh ?
Nguyễn Gia Kiểng : Cảm ơn lời nhắc nhở chân tình của cô Hoài. Cùng một lập trường nhưng mỗi người có cách phát biểu khác nhau.
Hai bài báo mà cô Hoài nhắc tới phản ánh cách phát biểu riêng của Việt Hoàng. Mỗi người chúng ta đều là một ngoại lệ duy nhất cả. Điều tôi có thể quả quyết là Việt Hoàng, một chí hữu đầy tiềm năng của Tập hợp, không viết như vậy vì tự mãn mà vì phiền lòng trước cách đấu tranh hiện nay trong phong trào dân chủ. Chúng ta phản bác chế độ cộng sản và đấu tranh để thay đổi nó thì chúng ta cũng phải biết chúng ta muốn thay đổi như thế nào, chúng ta muốn xây dựng đất nước Việt Nam nào. Chúng ta cũng phải biết đâu là những vấn đề lớn đang đặt ra cho đất nước và có thể có những giải đáp nào. Nhưng thực tế là trong vô số các tổ chức đã được thành lập, và đa số không còn nữa, đã có bao nhiêu tổ chức có được một dự án chính trị cho đất nước ?
Hãy lấy một thí dụ cụ thể là môi trường. Từ ba thập niên qua Tập hợp Dân chủ Đa nguyên đã liên tục cảnh báo rằng đất nước đang bị hủy hoại và đây là một trong những nguy cơ lớn nhất vì đất nước trước hết là đất và nước, và khi đất nước đã bị ô nhiễm đến độ không còn sống được nữa thì chúng ta chẳng còn gì để nói với nhau. Chúng tôi đã không nhận được sự đồng tình hưởng ứng nào cho đến khi xẩy ra thảm họa Formosa. Chúng tôi còn nêu ra nhiều vấn đề lớn khác với những đề nghị giải đáp, như những ai bỏ thì giờ đọc dự án chính trị của chúng tôi có thể thấy.
Niềm tin của anh em chúng tôi là muốn đấu tranh chính trị đúng nghĩa thì phải nhận diện được và có giải đáp cho những vấn đề lớn của đất nước, đồng thời chuẩn bị nhân lực để thực hiện những giải đáp đó. Muốn như thế thì phải có sức mạnh của tổ chức, phải hy sinh tư kiến, lòng tự ái và tham vọng cá nhân để đấu tranh có tổ chức. Cách phát biểu của Việt Hoàng có thể bị hiểu lầm là tự mãn nhưng hoàn toàn không có tâm lý nhân sĩ.
Một lời sau cùng : Lẽ phải có sức mạnh vô địch nhưng nó không chỉ giới hạn trong phạm vi đạo đức. Khi chúng ta lên án độc tài, tham nhũng và các thẩm phán tay sai trong những phiên tòa chính trị chúng ta có lẽ phải, nhưng chúng ta cũng có lẽ phải khi chúng ta nói một nền kinh tế lành mạnh phải cố gắng phát triển thị trường nội địa thay vì để cho ngoại thương chiếm 200% GDP như hiện nay. Và chúng ta cũng có lẽ phải khi bác bỏ lối làm chính trị nhân sĩ và khẳng định rằng đấu tranh chính trị luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức.
Phạm Thị Hoài : Xin cảm ơn anh Nguyễn Gia Kiểng.
Phạm Thị Hoài thực hiện
7/2/2019, Berlin, CHLB Đức
Nguồn : http://baotreonline.com, 15/02/2019
Ngồi trong khu vườn của một ngôi nhà mang kiến trúc khá đặc trưng Pháp ở vùng Lognes, ngoại ô thuộc mạn Đông Paris, tác giả của biên khảo "Tổ Quốc Ăn Năn" được biết đến từ vài chục năm trước chia sẻ với BBC về cuộc đời mình.
Ông Nguyễn Gia Kiểng từng làm Phụ tá Bộ trưởng Kinh tế thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa và phụ trách một số lĩnh vực cố vấn về kinh tế và kỹ thuật - Bản quyền hình ảnh BBC/BBC VIETNAM
Ông Kiểng kể câu chuyện ông du học, về lại Việt Nam, đi "học tập cải tạo" sau 30/4/1975, trở thành chuyên gia trong chế độ mới, rồi lại rời Việt Nam sang Pháp từ đó đến nay ra sao.
Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng kể :
"Tôi sang Pháp hai lần, lần đầu tiên là năm 1961. Sau khi học xong trung học, tôi được học bổng du học tại Pháp. Tôi du học sau sáu năm thì tốt nghiệp. Rồi tôi ở lại làm việc vì tôi nghĩ rằng mới ra trường thì không thể nào có kinh nghiệm được.
"Điều quan trọng là không phải học để tốt nghiệp lấy bằng cấp, mà là làm việc, tiếp xúc với người phương Tây, biết cách làm việc của họ. Cho nên tôi có làm việc, ở lại Pháp sáu năm. Tôi về Việt Nam phục vụ từ năm 1973.
"Lúc đầu tôi làm việc ở ngân hàng. Mới đầu, chúng tôi được quản lý một quỹ đầu tư. Sau đó tôi có sang bên Bộ Kinh tế, Việt Nam Cộng Hòa và làm Phụ tá Bộ trưởng Kinh tế cho đến ngày 30/4/1975.
"Sau đó cũng như số phận của các viên chức miền Nam, tôi có bị đi gọi là tập trung cải tạo" trong vòng ba năm rưỡi, rồi tôi ra và có làm chuyên gia dưới chế độ cộng sản trong một thời gian. Cho tới năm 1982 thì tôi được chính quyền Pháp can thiệp cho và tôi được sang Pháp từ cuối năm 1982. Tôi hành nghề kỹ sư, tôi về hưu cách đây 10 năm".
Hồi cố điều nổi bật sau những năm tháng đã qua, ông Nguyễn Gia Kiểng nói :
"Số phận của mình đều do những yếu tố bất ngờ hết. Khi phe Cộng sản chiến thắng ngày 30/4 đó, thì tôi là một Phụ tá Bộ trưởng, cấp bậc tương đương với một Thứ trưởng. Thì dĩ nhiên cấp bậc thấp hơn người ta đã phải đi học tập cải tạo rồi.
"Tôi không trình diện để đi học tập cải tạo và tôi tìm cách trốn khỏi Việt Nam, nhưng tôi bị bắt ở trở lại Việt Nam, do đó tội của tôi tương đối nặng hơn. Tôi có bị bắt giam hơn ba năm. Trước khi được làm hồ sơ để chuyển sang diện học tập bình thường, thì vào lúc đó họ lại nhận ra một điều.
"Đó là ở miền Nam lúc đó có những máy điện toán và là máy IBM. Trước đó, họ không biết chúng dùng vào việc gì nhưng sau đó họ thấy rằng các cố vấn Nga nói rằng những chiếc máy này rất cần thiết, thành ra họ có đi tìm.
"Lúc tôi được ra học tập, ra khỏi trại, tôi mới biết rằng có những văn kiện tìm kiếm tôi, vì hồi đó tôi có là Trưởng ban Điện toán của Bộ Kinh tế. Tôi là Phụ tá Bộ trưởng, nhưng tôi lại là chủ tịch ba ủy ban là ủy ban điện tin học, ủy ban thuế khóa và ủy ban kế hoạch.
"Có lẽ họ nhìn thấy rằng tôi có khả năng về tin học, hơn nữa hiểu về những máy điện toán rất nhiều, thành ra họ trả tự do cho tôi và biến tôi trở thành một chuyên viên của chế độ".
Hợp tác vì ai, cái gì ?
Kỹ sư, nhà biên khảo kể lại rằng lúc đầu ông cũng bị theo dõi, nhưng ông đã luôn tỏ ra nói thẳng, nói thật và chỉ mong muốn đóng góp, hợp tác phục vụ cho đất nước, dân tộc, ông Nguyễn Gia Kiểng nói tiếp :
"Mới đầu họ theo dõi, nhưng về sau họ thấy tôi nói thực, nói thẳng. Phải nói vào ngày 30/4 tôi đã chấp nhận thua trận và tôi cũng không ra đi vì tôi nghĩ rằng một dân tộc có lúc phải tranh đấu với nhau, có thể va chạm, nhưng một dân tộc không thể cứ tiếp tục nội chiến, cứ xung đột tới cùng thì không còn là dân tộc.
"Cho nên lúc đó tôi đã chấp nhận để đóng góp với tư cách là một người thua trận, tức là là một người đem khả năng khoa học kỹ thuật mà mình biết để góp phần đóng góp cho đất nước một phần nào hay phần đó. Nên khi tôi ra khỏi chỗ học tập, nhân tiện tôi xin kể một chuyện, tôi gặp một ông cựu Bộ trưởng của Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam của phe cộng sản. Đó là ông Trương Như Tảng.
Miền Nam Việt Nam đã từng trải nghiệm một mức độ phát triển nhất định về kinh tế, kỹ thuật và thị trường ở khu vực dưới thời Việt Nam Cộng Hòa - Ảnh GETTY IMAGES
"Lúc đó ông ấy bất mãn và ông là giám đốc một công ty, tôi lúc đó làm trong Ban kỹ thuật của Thành phố. Ông đó muốn đóng cửa một nhà máy. Nhưng lúc đó tôi ở ban kỹ thuật của thành phố, tôi không đồng ý.
"Ông hỏi tôi tại sao anh là một người chế độ cũ, tại sao anh lại ủng hộ chế độ mới như vậy, mà anh lại không đồng lòng đóng cửa luôn công ty đó đi ? Chế độ này đâu có phục vụ gì ai ?
"Tôi nói : tôi là một kỹ sư. Một kỹ sư mà nhìn thấy một nhà máy có vấn đề, gặp khó khăn, thì cũng giống như là một bác sỹ nhìn thấy một bệnh nhân. Bổn phận bác sỹ nhìn thấy một bệnh nhân là chữa, bổn phận của một người kỹ sư có lương tâm nghề nghiệp của mình là phải tìm cách cứu nhà máy đó. Nhà máy này tôi thấy có thể cứu được, thì tôi thấy là không đồng ý để ông đóng cửa".
Chia sẻ con đường từ quyết định "hợp tác" đó, rồi ra nước ngoài trở lại và trở thành nhà biên khảo mà cuốn sách "Tổ Quốc Ăn Năn" là một trong các tác phẩm, kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng nói :
Ông Nguyễn Gia Kiểng từng là chuyên gia về tin học và có thời gian làm việc dưới chế độ mới ở miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975 - Bản quyền hình ảnh BBC/BBC VIETNAM
"Phải nói rằng chữ hợp tác đó không phải là tôi hợp tác với chế độ, chủ nghĩa cộng sản là điều tôi đã phản bác từ thời thanh niên, cách quản lý đất nước của họ, cách phân biệt đối xử. Sự thực, theo tôi, cuộc nội chiến vẫn tiếp tục sau ngày 30/4, chỉ có điều là cuộc nội chiến đơn phương, một bên có bạo lực và một bên không có. Sau ngày 30/4 không có "hòa bình" trong dân tộc.
"Vẫn có những người thắng trận "đầy đọa" những người thua trận, cho nên về chế độ thì tôi hoàn toàn không hợp tác, tôi hợp tác với đất nước Việt Nam, tôi làm những gì mà tôi có thể làm cho đất nước Việt Nam trong hoàn cảnh của một người không thể làm gì khác. Tôi là người Việt Nam và lúc nào tôi cũng muốn phục vụ, trong tất cả mọi hoàn cảnh, tôi phục vụ đất nước Việt Nam, tôi hợp tác với đất nước Việt Nam, nhưng không phải là tôi hợp tác với chế độ.
"Sau đó, vai trò của tôi cũng không còn, dầu sao đặc tính của chế độ cộng sản như mọi người cũng biết, họ rất là nghi kỵ, họ vẫn nhìn chúng tôi như là kẻ thù, những người nào không thuộc đảng của họ, thì họ không thể duy trì ở một chức vụ cao, như là một chuyên viên, chuyên gia cao cấp được, cho nên vẫn có sự theo dõi, vẫn có sự nghi kỵ, mặc dù chúng tôi không làm gì cả".
Dám "bắt Tổ Quốc ăn năn" ?
Về lý do viết cuốn biên khảo "Tổ Quốc Ăn Năn" và cách hiểu thế nào là Tổ Quốc, tác giả Nguyễn Gia Kiểng chia sẻ :
"Cho đến lúc tôi được chính quyền Pháp can thiệp thì tôi sang bên này. Cùng với một số anh em, chúng tôi đã lập ra một Tập hợp Dân chủ Đa nguyên và chúng tôi chia sẻ với nhau là một dân tộc sau một cuộc nội chiến, cũng giống như một cặp vợ chồng, một gia đình sau một cuộc xung đột lớn, chúng ta chỉ có hai chọn lựa thôi : một là chúng ta hòa giải để cuộc sống chung tiếp tục, hai là chúng ta không chấp nhận hòa giải và chấp nhận tan vỡ.
"Không chấp nhận hòa giải sau một cuộc nội chiến tương đương với việc để quốc gia tan vỡ, nhiều người không biết điều đó. Cho nên trong tinh thần đó, để nói lên tinh thần đó, tôi có viết cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, tôi đặt ra câu hỏi Tổ Quốc là ai ? Theo định nghĩa của tôi, Tổ Quốc là mọi người Việt Nam, người Việt Nam phải nghĩ lại. Tôi nghĩ như thế.
"Tức là mọi người Việt Nam đều phải nghĩ rằng họ đã có một cái lỗi gì đó, mình phải ăn năn, mình phải xét lại cách ứng xử của mình đối với đất nước, nhiều người cứ nói là tôi coi thường Tổ Quốc, bắt Tổ Quốc phải ăn năn. Họ nghĩ rằng Tổ Quốc là thiêng liêng.
"Tôi không nghĩ như thế, tôi nghĩ Tổ Quốc là bạn với tôi, là con tôi, là cha tôi, là tổ tiên tôi, là những người thành công, cũng như những người thất bại - là tất cả chúng ta trong suốt dòng lịch sử. Đó là Tổ Quốc !
Tác giả Nguyễn Gia Kiểng bên một số cuốn sách mà ông viết hoặc tham gia soạn thảo - Bản quyền hình ảnh BBC/BBC VIETNAM
"Đáng lẽ chúng ta yêu nước trước hết là yêu đồng bào. Chúng ta phải thể hiện lòng yêu nước đó bằng cách yêu quý, khoan dung với người đồng bào của chúng ta. Trái lại trong dòng lịch sử, chúng ta nhân danh Tổ Quốc để "giết người" chống chúng ta, chúng ta nhân danh Tổ Quốc để "buộc tội", để "bỏ tù", có khi để xử tử tội phản quốc. Nhưng chúng ta không nhân danh Tổ Quốc để mà tha thứ, để mà hàn gắn với nhau, để quý trọng nhau.
"Theo tôi từ nay trở đi nếu có một điều chúng ta phải suy nghĩ lại, nhân tiện nói về Tổ Quốc, tôi nghĩ rằng chúng ta phải quan niệm Tổ Quốc là một tình yêu trước hết, chứ không phải là một sự thù hận".
Viết gì cho một chương mới ?
Vài chục năm trước, sau khi trở lại Pháp, ông Nguyễn Gia Kiểng đã hoàn tất và cho công bố cuốn biên khảo luận thảo luận về chính trị với tựa đề "Tổ Quốc Ăn Năn", khi được hỏi là nếu hiện nay muốn viết thêm một Chương bổ sung hay tiếp nối cho cuốn biên khảo, thì sẽ viết gì, tác giả nói :
"Tôi sẽ viết về những cơ hội đã bỏ lỡ. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã có những cơ hội mà chúng ta đã bỏ lỡ. Cơ hội thứ nhất là sau Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam với chương trình rất hoành tráng, rồi nó hoàn toàn thất bại, không thực hiện được bất cứ một phần nhỏ nào, trong bất cứ mục tiêu nào.
"Thời gian đó đáng lẽ đã phải là một thời gian nghĩ lại. Nghĩ lại trước hết là những người lãnh đạo ở chế độ cộng sản phải nghĩ lại, những ông như là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, những người đó, hay ông Lê Đức Anh v.v..., những người đó phải nghĩ lại.
"Nhưng phần còn lại, những người thuộc phe thua trận như chúng tôi cũng phải giúp họ nghĩ lại. Bằng một thái độ nói : thôi, những chuyện gì đã qua, chúng tôi cũng bằng lòng bỏ qua. Các ông không sợ gì cả nếu như các ông thay đổi, nếu các ông thực hiện đường lối hòa giải dân tộc thực sự thì có chúng tôi.
"Chúng tôi biết các ông có lỗi, chúng tôi cũng có phần có lỗi, nhưng chúng ta nên nhìn về tương lai hơn là về quá khứ. Tôi nghĩ đó là vào thời điểm 1980 khi chương trình hoành tráng của Đại hội IV thất bại.
"Tôi đã làm việc trong chế độ, tôi biết là có những hoang mang, có nhiều người biết là chủ nghĩa này không thành công, có nhiều biết là chế độ này thất bại, họ muốn nghĩ lại, nhưng một phần họ không đủ can đảm nghĩ lại và một phần vì điều kiện xã hội cũng làm cho họ không dám nghĩ lại.
"Lần thứ hai tôi nghĩ là một cơ hội rất là lớn cho nhiều dân tộc, như là các dân tộc ở Đông Âu, hay cả một nước ở Châu Á tôi nghĩ đến là nước Mông Cổ, Ngoại Mông, là khi mà bức tường Berlin sụp đổ. Đáng lẽ lúc đó chúng ta phải gạt tất cả những ưu tư về chủ nghĩa, chúng ta hãy nhìn nhau hãy nhìn là anh em, hãy nhận lại bạn bè. Đó là một cơ hội rất lớn.
"Thế nhưng ở trong nước có những người lại nghĩ rằng phải kiên trì, không còn Đảng thì không còn mình, họ nghĩ rằng sau những gì họ đã làm với người khác, những người khác sẽ không tha thứ cho họ, cái đó ở trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại và một phần những dư luận ở miền Nam lại cho rằng đây là một cơ hội để 'dứt điểm chế độ' và có thể để 'trừng phạt' những 'tội ác cộng sản' chẳng hạn.
"Cuối cùng là những người cộng sản tuy rằng họ ở trong thế lúng túng, có thể nói là khi bức tường Berlin sụp đổ thì như 'trời sập' trên đầu họ, nhưng họ là lực lượng duy nhất và họ vẫn trụ được. Và chúng ta bỏ lỡ một cơ hội".
Ông Nguyễn Gia Kiểng (phải) đang sống tại Lognes, thuộc ngoại ô mạn Đông Paris, Pháp
Sắp bỏ lỡ thêm một cơ hội ?
"Ngày hôm nay, chúng ta đang sắp sửa bỏ lỡ một cơ hội, tại vì Đại hội vừa qua của Đảng Cộng sản, tôi nghĩ rằng có một sự rập khuôn theo công thức của Trung Quốc, tức là cũng nhất thể hóa, cũng tập trung quyền lực vào một người, rồi cũng đặt trọng tâm vào vấn đề chống tham nhũng.
"Những điều đó theo tôi không có tác dụng, bởi vì nếu chúng ta thực sự muốn chống tham nhũng, phải hiểu bản chất của tham nhũng. Chúng ta phải hiểu đó là một vấn đề có tính cách đạo đức. Tham nhũng định nghĩa của nó là một vi phạm đạo đức bằng cách sử dụng công quyền cho lợi ích cá nhân, bản chất của nó là như thế.
"Như vậy nếu chúng ta duy trì chế độ độc tài có quá nhiều quyền lực dồn vào quá nhiều một đảng, chúng ta không thể chống được tham nhũng, bởi vì chừng nào có quyền lực, chúng ta đều hiểu là vẫn còn tham nhũng. Đó là vấn đề nguyên tắc, nhưng thực tế cũng cho ta biết đạo đức là những gì chúng ta chỉ có thể làm gương, chứ chúng ta không thể thuyết phục được.
"Cho nên như mọi vấn đề đạo đức, tham nhũng khi đã đạt tới một mức độ nào đó thì nó không thể sửa chữa được nữa. Ở một mức độ nào đó, người ta không thể cải tổ được một chính quyền tham nhũng để nó hết tham nhũng, mà người ta chỉ có thể thay thế một chính quyền tham nhũng bằng một chính quyền khác.
"Hiện nay, đáng lẽ ra - tôi nghĩ một chính quyền khác không nhất thiết phải là chính quyền 'chống cộng', không nhất thiết phải là chính quyền hoàn toàn độc lập với Đảng Cộng sản, cũng có thể có những người Cộng sản ở trong đó. Thì đây là một cơ hội mà tôi nghĩ rằng vào lúc này chúng ta đang sắp có một cơ hội. Cơ hội đó đến bởi vì công thức, mô hình gọi là Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã đến 'giai đoạn chót', đằng nào nó cũng sẽ bị 'đào thải'.
"Trung Quốc (kể cả Việt Nam) đang gặp những khó khăn... không phải chỉ là do Donald Trump gây cuộc chiến tranh thương mại đâu, mà bởi vì các quốc gia - dù các quốc gia phương Tây, các nước dân chủ giàu mạnh ở một mức độ nào đó - trong cuốn Dự án Chính trị của chúng tôi "Khai sáng Kỷ nguyên thứ hai" - chúng tôi đã nói rõ là bắt buộc phương Tây, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, phải xét lại sau một thời gian họ chấp nhận thâm thủng mậu dịch, dù là Donald Trump, hay không phải Donald Trump, cũng bắt buộc phải thăng bằng mậu dịch.
"Và thời đại vàng son [đã hết], giai đoạn ân huệ của chính sách Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mà về bản chất là xuất khẩu thật nhiều, với giá thật rẻ để xuất khẩu tối đa - có nghĩa là Trung Quốc cũng như Việt Nam xuất khẩu 'sự nghèo khổ' mà chính họ là tác giả. Tôi nghĩ mô hình đó dù có 'Donald Trump' hay không cũng chấm dứt và chúng ta sắp phải xét lại toàn diện.
"Tôi nghĩ vào giờ này là những người Việt Nam, nếu chúng ta quan tâm tương lai của đất nước mình, thì đây chính là lúc chúng ta nhìn nhau với một con mắt thân thiện hơn để cùng nhau tìm một giải pháp cho đất nước, để đừng làm lỡ thêm một cơ hội nữa. Và tôi nghĩ rằng, tôi hơi bi quan, bởi vì tôi thấy rằng trong thời gian vừa qua, chính quyền đã hành động ngược với nhu cầu và tình thế. Tức là thay vì có một thái độ khoan dung hơn để tìm một giải đáp chung cho tất cả đất nước, thì lại có những bản án rất thô bạo.
"Tôi nghĩ rằng chính quyền này họ không hiểu rằng cả mô hình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang bế tắc", ông Nguyễn Gia Kiểng nói với BBC từ nhà riêng tại Lognes, ngoại vi Paris, Pháp.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 04/02/2019
Ông Nguyễn Gia Kiểng, hiện sinh sống tại Pháp, là một nhà hoạt động, thành viên sáng lập của tổ chức Tập Hợp Dân chủ Đa nguyên, từng đi 'học tập cải tạo' sau biến cố 30/4/1975 ở miền Nam Việt Nam. Chia sẻ của ông nằm trong loạt bài thuộc chuyên mục 'Người Việt toàn cầu' của BBC Tiếng Việt.
Quan điểm cho rằng giải pháp duy nhất là cải tổ trong lòng chế độ hoàn toàn không đúng trong trường hợp của nước ta. Kinh nghiệm lịch sử của mọi dân tộc đã chứng tỏ rằng khi một chính quyền đã tham nhũng tới một mức độ nào đó thì không còn cải tổ được nữa và giải pháp duy nhất là thay thế nó bằng một chính quyền khác. Kinh nghiệm của các dân tộc cũng đã chứng tỏ rằng, do bản chất ý thức hệ của chúng, các chế độ cộng sản không thể cải tổ mà chỉ có thể thay thế.
Bản "Yêu sách tám điểm năm 2019" - Ảnh minh họa (RFA)
Chúng ta vừa bắt đầu một năm mới đầy ẩn số trong bối cảnh quốc gia cũng như quốc tế. Thử thách đan xen với cơ hội. Đây là thời điểm để thảo luận về hướng đi cho tương lai. Xin bắt đầu bằng một hành động gần đây nhất.
Bản "Yêu sách tám điểm năm 2019" (sau đây gọi là Yêu sách 2019) khởi động trong những ngày cuối năm đã được sự hưởng ứng của gần 2000 cá nhân và hơn 20 tổ chức. Sự hưởng ứng đông đảo này là một kết quả khả quan chứng tỏ bản yêu sách đã có những đòi hỏi tích cực đáp ứng với nhu cầu của đất nước. Tuy vậy nó đã nhanh chóng chìm vào im lặng. Nó đã không tạo ra được một sức bật hay đánh dấu được một bước tiến trong cuộc vận động dân chủ hóa đất nước. Tại sao ?
Một số bạn tôi đã ký tên ủng hộ bản yêu sách này nhưng qua trao đổi thì họ không tỏ ra nhiệt tình. Họ ký vì có cảm tình với những người đã ký trước chứ không phải vì tin rằng đó là lập trường đấu tranh phải có và cũng không nghĩ tới một bước tiếp theo nào. Đa số còn thấy trước là bản yêu sách này sẽ có cùng một số phận với các kiến nghị và yêu cầu trước đây, nghĩa là chìm dần vào quên lãng.
Ba lý do để khó tán thành
Bỏ qua những chi tiết nhỏ nhưng cũng đáng tiếc như phân biệt "tù nhân chính trị" và "tù nhân lương tâm", phân biệt "nhân dân Việt Nam" và "người Việt sống ở nước ngoài" v.v. có ít nhất ba lý do khiến một người hay một tổ chức đấu tranh cho dân chủ khó có thể ủng hộ ngay cả nếu muốn.
Một là, bản yêu sách này lấy làm mẫu mực và lý do ra đời một ngộ nhận : bản "Yêu sách của dân tộc An Nam" (Revendications du Peuple Annamite) năm 1919.
Các vị khởi xướng Yêu sách 2019 coi đây là một biến cố lịch sử và nhắc đến ông Hồ Chí Minh một cách trang trọng.
Trong thời niên thiếu tôi đã có dịp gần gũi và trò chuyện nhiều với ông Nguyễn Thế Truyền, một thành viên của nhóm Ngũ Long –gồm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành (tức Hồ Chí Minh sau này) và Nguyễn An Ninh- đồng tác giả của bản "Yêu sách của dân tộc An Nam"này, ký tên chung "Nguyễn Ái Quốc".
Theo những gì ông Nguyễn Thế Truyền kể lại thì ông Hồ Chí Minh không hề tham gia soạn thảo mà chỉ là người có phận sự mang bản này tới nhà một nhân vật Pháp nhờ trình lên Hội Nghị Versailles. Dĩ nhiên là bản yêu sách này không hề được biết tới trong hội nghị này. Tham vọng lôi kéo sự chú ý của hội nghị cũng chỉ là tham vọng rất ngây thơ của nhóm Ngũ Long. Hội nghị Versailles là một hội nghị quốc tế nhằm giải quyết những hậu quả của Thế Chiến I vừa chấm dứt trong đó hàng chục triệu người, kể cả đa số thanh niên Pháp và Đức trong lứa tuổi 18 – 30, thiệt mạng. Hội nghị này có những vấn đề nghìn lần quan trọng hơn để thảo luận. Kết quả là bản yêu sách này hoàn toàn không được biết đến và chỉ là một trong vô số tài liệu nằm trong hồ sơ của sở an ninh Pháp. Nó không hề là một biến cố, dù nhỏ. Chỉ sau này nó mới được Đảng cộng sản Việt Nam thổi phồng để đánh bóng ông Hồ Chí Minh được đồng hóa với Nguyễn Ái Quốc.
Cũng cần nói là ông Hồ Chí Minh từ sau Đại hội Tours, cuối năm 1920, đã tham gia Đảng cộng sản Pháp thuộc Đệ Tam Quốc Tế và không còn sinh hoạt với những người bạn cũ thuộc nhóm Ngũ Long nữa vì họ không chấp nhận Đệ Tam Quốc Tế. Từ đó ông tự cho phép dùng tên Nguyễn Ái Quốc như là tên riêng của mình và nhận là tác giả bản Yêu sách 1919 mà ông không hề viết một chữ nào. Các vị soan thảo "Yêu sách tám điểm năm 2019" đã lầm trên "tầm quan trọng lịch sử" của bản Yêu sách 1919 và nhắc tới ông Hồ Chí Minh một cách trân trọng.
Nhưng Hồ Chí Minh là ai và đã có những thành tích nào ? Ông đã góp phần quyết định đưa Việt Nam vào tai họa cộng sản với những hậu quả kinh khủng. Nếu vào năm 1945, sau Thế Chiến II, không có Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản thì đã không có đợt khủng bố kinh hoàng tàn sát hàng trăm hàng ngàn những người yêu nước trong các đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt, đã không có cuộc nội chiến kéo dài 30 năm làm đất nước tan hoang và gần sáu triệu người chết, và giờ này nước ta có thể đã ở một trình độ phát triển không xa Hàn Quốc hay Đài Loan là bao.
Trong suốt dòng lịch sử của chúng ta chưa có nhân vật nào đã gây thiệt hại cho đất nước bằng một nửa những thiệt hại mà Hồ Chí Minh đã gây ra. Ông Hồ Chí Minh cũng chỉ có một trình độ văn hóa rất sơ sài, khoảng lớp 8, và cũng chưa chứng tỏ một cố gắng tự học nào qua những gì ông đã viết và nói. Kiến thức của ông chủ yếu gồm những kinh nghiệm thực tiễn trong trường đời và những huấn luyện của Đệ Tam Quốc Tế về khủng bố và sách động. Trong cuộc sống cá nhân, ông đối xử tàn tệ với những người phụ nữ đã chia sẻ cuộc sống vợ chồng với ông – Tăng Tuyết Minh, Nông Thị Xuân-, chối bỏ cả con, chỉ để giữ hình ảnh bịp bợm của một người đạo hạnh chỉ sống vì đất nước. Ông say mê danh vọng một cách bệnh hoạn đến nỗi dùng tới hai bí danh (T. Lan và Trần Dân Tiên) để viết sách tự ca tụng mình, dù là danh vọng hão vì cuối đời ông đã chấp nhận mất hết quyền lực để chỉ còn là một đồ trang sức của chế độ cộng sản. Nói chung đó là một người rất dưới trung bình về nhân cách và đạo đức, hơn nữa còn có tội lớn với đất nước.
Chúng ta có thể để cho người chết yên nghỉ nhưng nhắc tới ông một cách trân trọng như trong Yêu sách 2019 là điều không nên bởi vì đó là một xúc phạm đối với đất nước và hàng triệu người đã chết oan, đồng thời cũng vô tình tiếp tay đánh lừa quần chúng.
Hai là, mục tiêu cốt lõi của những người dân chủ hiện nay là phản bác chế độ độc tài độc đảng và đấu tranh để thiết lập một nền dân chủ thực sự chứ không phải thứ dân chủ bịp bợm của Đảng cộng sản. Điều này phải luôn luôn được khẳng định một cách minh bạch.
Những vấn đề khác –thí dụ như "thi hành quyền tự do học tập, tự do học thuật, quyền tự trị đại học, phi chính trị hóa trường học" trong bản Yêu sách 2019- dù đúng cũng chỉ là phụ vì chỉ là hậu quả tất nhiên của một chế độ dân chủ thực sự. Chúng ta đều biết rằng một nền dân chủ đúng nghĩa phải bảo đảm trọn vẹn ít nhất ba quyền tự do căn bản : tự do ngôn luận và báo chí ; tự do bầu cử và ứng cử vào các chức vụ dân cử ; tự do kết hợp, nghĩa là tham gia và thành lập các tổ chức kể cả các chính đảng.
Bản yêu sách chỉ đòi "bảo đảm quyền tự do lập hội" mà chế độ cũng nhìn nhận trên giấy tờ nhưng chỉ dành riêng cho những tổ chức ngoại vi, và không nói gì tới các chính đảng. Cũng không một lời cho đa nguyên và đa đảng. Thế thì có gì thực sự khác với chế độ độc đảng ? Chắc chắn không phải vì những người soạn thảo vô tình mà vì họ nghĩ rằng chế độ cộng sản sẽ không thể chấp nhận và dung túng vào lúc này. Nhưng nghĩ như vậy là sai, rất sai. Một điều đúng, nhất là hoàn toàn đúng, bao giờ cũng phải được nói ra. Không phải vì kẻ sai trái không chấp nhận mà chúng ta không được nói ra điều đúng.
Tự do kết hợp (chứ không phải 'tự do lập hội" như một cách dịch sai khá phổ biến và được dùng trong bản yêu sách này, từ "association" trong cụm từ freedom of association có nghĩa là "kết hợp" chứ không phải là "hội") bao gồm quyền tham gia và thành lập các chính đảng là một quyền đã được thế giới nhìn nhận và đặc tính của các chế độ cộng sản là chà đạp quyền này. Không nói tới quyền thành lập và tham gia các chính đảng trong một chế độ cộng sản là mặc nhiên chấp nhận nó. Phải chăng đây là chọn lựa chính trị của những người khởi xướng Yêu sách 2019 ? Nếu như vậy thì chúng ta không đứng cùng một phía của lằn ranh và những người dân chủ không có lý do gì để hưởng ứng. Hay là các vị này biện luận rằng họ cũng mong muốn quyền thành lập và tham gia các chính đảng nhưng hoàn cảnh chưa cho phép ? Nhưng hoàn cảnh nào ?
Thực tế là hiện nay tại Việt Nam hàng ngày có hàng ngàn người, trong đời sống cũng như trên mạng xã hội, công khai lên tiếng tán thành dân chủ đa nguyên. Cùng lắm họ chỉ bị thiệt thòi về quyền lợi và mất những đặc ân của chế độ mà thôi chứ không bị đe dọa về an ninh. Yêu sách 2019 đã rất tụt hậu so với quần chúng. Và đàng nào thì nói lên lập trường dân chủ cũng vẫn là bắt buộc tối thiểu của những người dân chủ.
Sức mạnh của chúng ta là Lẽ Phải, hay cái Đúng, vũ khí của chúng ta trong lúc này chủ yếu là Lời nói. Nếu vì quá thận trọng mà chúng ta không nói lên Lẽ Phải thì chúng ta không còn trọng lượng nào.
Ba là, nghiêm trọng hơn, bản Yêu sách 2019 kêu gọi tôn trọng hiến pháp, như thể bản hiến pháp hiện nay của chế độ cộng sản là một bản hiến pháp bình thường. Đây là điều tuyệt đối không thể chấp nhận.
Bản hiến pháp này không phải là một hiến pháp mà chỉ là một tuyên ngôn thống trị. Nó chỉ có mục đích "thể chế hóa cương lĩnh của Đảng cộng sản" như chính ông Nguyễn Phú Trọng đã nói. Nó đặt Đảng cộng sản lên trên Nhà nước và Xã hội, buộc quân đội phải trước hết trung thành với Đảng cộng sản. Nó chỉ là một quy định của một lực lượng chiếm đóng. Nó phải bị bác bỏ và thay thế, trên điểm này không thể có bất cứ một nhân nhượng nào. Có thể vì tương quan lực lượng giữa nhân dân Việt Nam và Đảng cộng sản còn chênh lệch và vì chủ trương chuyển hóa về dân chủ trong hòa bình tránh mọi đổ vỡ chúng ta đành phải tạm thời sống với nó trong khi vẫn tranh đấu để loại bỏ nó, nhưng chấp nhận nó là rất sai. Càng sai khi đa số các nhân sĩ ký tên đầu tiên vào bản yêu sách cũng chính là những người đã từng ký tên phản đối bản hiến pháp này cách đây 6 năm. Như vậy phải hiểu rằng Đảng cộng sản có thể áp đặt những điều rất vô lý mà chúng ta phản đối nhưng sau đó nếu họ bất chấp thì chúng ta vẫn phục tùng ? Vậy chúng ta là ai ?
Bản yêu sách có câu : "Chúng tôi kêu gọi mọi người dân Việt Nam hãy thực hiện các quyền hiến định của mình mà không đợi ai cho phép". Ý tốt nhưng cách diễn tả cần được xét lại. Chúng ta đòi chính quyền cộng sản phải tôn trọng luật chơi của chính họ nếu họ có chút lương thiện chứ chúng ta không chỉ dừng lại ở các "quyền hiến định" này. Cách đây 25 thế kỷ Plato đã khẳng định luật phải đúng, nghĩa là phải phản ánh Lẽ Phải, luật không đúng không phải là luật.
Bản hiến pháp 2013 của chế độ cộng sản không đúng và do đó không có giá trị của một luật pháp.
Trên nhiều điểm rất căn bản
Giờ này cuộc vận động chữ ký đã hoàn tất, tôi viết những dòng này trong tinh thần thảo luận thẳng thắn và tương kính với hy vọng rằng chúng ta sẽ cùng rút kinh nghiệm. Tôi tin rằng các vị chủ xướng yêu sách này cũng có những mong ước cho đất nước không khác anh em chúng tôi. Những người quý trọng nhau và theo đuổi cùng một mục tiêu đôi khi cũng có thể không đồng ý, và đây là một trường hợp. Cần thảo luận bởi vì có lẽ chúng ta không đồng ý trên nhiều điểm rất căn bản.
Nếu tôi không lầm thì yêu sách này phản ánh quan điểm cho rằng giải pháp duy nhất cho đất nước là cải tổ trong lòng chế độ. Quan điểm này hoàn toàn không đúng trong trường hợp của nước ta. Kinh nghiệm lịch sử của mọi dân tộc đã chứng tỏ rằng khi một chính quyền đã tham nhũng tới một mức độ nào đó thì không còn cải tổ được nữa và giải pháp duy nhất là thay thế nó bằng một chính quyền khác. Có ai không đồng ý rằng chế độ này không chỉ rất tham nhũng mà còn quá tham nhũng ? Kinh nghiệm của các dân tộc cũng đã chứng tỏ rằng, do bản chất ý thức hệ của chúng, các chế độ cộng sản không thể cải tổ mà chỉ có thể thay thế. Vậy thì nếu chúng ta suy nghĩ một chút vấn đề cải tổ hay cải tiến chế độ này không đặt ra.
Vả lại phải nhìn nhận một sự thực là Đảng cộng sản tuyệt đối không dành cho các kiến nghị cải tổ một quan tâm nào. Từ ba thập niên qua, Đảng cộng sản chỉ làm ngược lại với những thỉnh cầu cải tổ của các nhân sĩ. Họ chỉ xiết lại chứ không nới lỏng ra. Hiến pháp 2013 thô bạo hơn hiến pháp 1992 ; sự phân biệt Đảng và Nhà Nước –theo chiều hướng lấy pháp trị thay cho đảng trị trong Yêu sách 2019- hoàn toàn không còn gì, thay vào đó là chủ trương nhất thể hóa ; các vụ án chính trị trước đây bị xử 3 năm tù bây giờ bị xử 10 hay 15 năm.
Lập trường "cải tổ" này chủ yếu đến từ một tâm lý bất lực cho rằng chế độ này dù sao cũng còn quá mạnh, những thay đổi mong muốn chỉ có thể đến từ bên trong. Nhân định này xét cho cùng mâu thuẫn với chính nó. Quả nhiên những cố gắng thay đổi từ bên trong có thể có tác động rất mạnh vả rất đáng hoan nghênh nhưng nếu đã có những sức ép đủ mạnh từ bên trong, ngôn ngữ hiện nay là "tự diễn biến, tự chuyển hóa", thì chế độ đâu có mạnh? Vả lại những cố gắng thay đổi từ bên trong chỉ thành công nếu được kết hợp với những áp lực từ bên ngoài.
Chế độ này hung bạo nhưng không mạnh. Nó đã phân hóa nội bộ ở mức độ hiểm nghèo sau khi không còn một lý tưởng chung nào để đoàn kết các đảng viên. Nó chỉ còn là một liên minh giả dối của những người thù ghét nhau vì tranh giành quyền lực và quyền lợi. Những biện pháp thanh trừng nhân danh chống tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng chỉ làm nó nguy ngập hơn bởi vì, như vừa nói ở trên, không thể cải tổ một chế độ đã quá tham nhũng và cũng không thể cải tổ một chế độ cộng sản. Các chế độ không còn lý do tồn tại lâm nguy nhất vào lúc chúng tìm cách tự lành mạnh hóa.
Chế độ này vẫn còn đó chỉ vì đối lập dân chủ yếu. Nhưng chọn lựa đúng đắn là cố gắng nhận diện nguyên nhân và tìm ra giải pháp để ra khỏi thế yếu và mạnh lên chứ không phải là an phận với cái yếu rồi ứng xử theo mặc cảm yếu kém như nhiều người vẫn làm từ trước tới nay khi hài lòng với những kiến nghị và yêu cầu.
Giải pháp hiển nhiên để ra khỏi cái yếu là chấm dứt lối hoạt động chính trị nhân sĩ để tiến tới đấu tranh có tổ chức. Ai cũng biết phải có tổ chức mới có sức mạnh, cái khó là có chấp nhận được những hệ lụy của cố gắng xây dựng tổ chức và hành động có tổ chức hay không. Do di sản văn hóa nhân sĩ, mà đặc tính là phò kẻ cầm quyền và chỉ biết có mình, nhiều người sẽ không thể hy sinh tư kiến, lòng tự ái và tham vọng cá nhân để đấu tranh trong khuôn khổ tổ chức, nhưng cũng vẫn có những người đủ sức mạnh tinh thần để vươn lên khỏi cái tôi nhỏ mọn và tìm đến với nhau. Họ sẽ có đủ sức mạnh để thắng vì Đảng cộng sản không mạnh.
Họ sẽ hiểu rằng một tổ chức chỉ có thể mạnh và thành công nếu có một tư tưởng chính trị lành mạnh và một đội ngũ nòng cốt kiên trì. Hai điều kiện này đòi hỏi rất nhiều thời giờ và cố gắng nhưng một khi đã có thắng lợi là chắc chắn và có thể rất nhanh chóng. Họ sẽ biết phân công, thay vì giành nhau vai chính, giữa người trong nước, người ngoài nước và người trong bộ máy của chế độ.
Thí dụ như trong giai đoạn đàn áp hiện nay vai trò đại diện và phát ngôn nên trao cho người ngoài nước mà bạo quyền không thể bách hại, vai trò xây dựng lực lượng và nhận diện những vấn đề cùng những giải pháp cho đất nước chủ yếu do người trong nước, trong khi vai trò gửi một thông điệp thân thiện và hòa hợp sẽ do những người trong bộ máy. Họ tranh đấu chủ yếu bằng cách thuyết phục và lời nói của họ sẽ có sức thuyết phục bởi vì đó là những ý kiến đã được sàng lọc qua học tập và trao đổi trong tổ chức.
Lời nói đó ngoài sức mạnh của Lẽ Phải cũng sẽ có sức thu hút của tiếng nói chung của nhiều người gắn bó với nhau trong một lý tưởng cao đẹp. Nó sẽ đánh bại được sự ngoan cố của chế độ này. Soljenitsin, nhà đối lập dân chủ lưu vong thời Xô Viết, để lại một khẳng định tuyệt vời : "một lời nói phải nặng hơn trái đất". Vũ khí lời nói không yếu như nhiều người nghĩ. Nó còn là vũ khí vô địch khi là lời nói đúng, hợp lý và hợp tình.
Đất nước sẽ vươn lên
Năm 1944, khi Mahatma Gandhi đang ở tù thì được chính quyền thuộc địa Anh mời ra thảo luận vì họ thấy là chế độ thuộc địa không thể kéo dài. Khi nghe Gandhi trình bày lập trường của mình, họ ngạc nhiên và nổi giận : "Bộ ông đòi chúng tôi phải đầu hàng không điều kiện hả ?". Gandhi điềm đạm đáp : "Vâng, đúng như thế vì không thể có giải pháp nào khác". Người Anh sau đó đã hiểu là Gandhi có lý. Họ trả độc lập không điều kiện cho Ấn Độ rồi ra đi trong danh dự như một nước bạn thân. Gandhi không có một tấc sắt nào trong tay và cũng không muốn có, nhưng có sức mạnh của Lẽ Phải.
Tương lai không u ám, đất nước đã thay da đổi thịt
Có lẽ vì không tin ở sức mạnh của Lẽ Phải mà cho tới nay đối lập dân chủ vẫn chưa đoàn kết được và vẫn còn loay hoay trong những sáng kiến vụn vặt và nhất thời. Tuy vậy tương lai không u ám. Đất nước đã thay da đổi thịt. Đa số những người đầu tiên ký Yêu sách 2019 đã ngoài 70 tuổi, nghĩa là thuộc thế hệ của tôi, thế hệ đang đi qua.
Tôi may mắn được biết nhiều trí thức trẻ. Họ có cách suy nghĩ và hành động khác. Họ biết và tin ở sức mạnh của Lẽ Phải. Họ hiểu vai trò của trí thức là đi trước chứ không phải là đi sau quần chúng. Và họ cũng hiểu rằng bắt buộc phải đấu tranh có tổ chức. Nhờ họ đất nước sẽ có một tương lai khác.
Nguyễn Gia Kiểng
(09/01/2019)
"... Nhân loại, sau nhiều đấu tranh cam go và những hy sinh lớn, đã vượt qua được mức độ lãng mạn và nguyên tắc, mức độ zero, để đạt tới một định nghĩa tương đối rõ ràng cho một chế độ dân chủ : đó là một chế độ ít nhất bảo đảm tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và tham gia các tổ chức kể cả các chính đảng, tự do bầu cử và ứng cử. Đó là định nghĩa của dân chủ đã được quy định trong bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thành phần của hiến chương Liên Hiệp Quốc...".
Người Hồi giáo nghe nhìn Tổng thống Barack Obama phát biểu trên làn sóng truyền hình tại Cairo, thủ đô Ai Cập, ngày 04/06/2009
Không ai có thể phủ nhận rằng những gì mà một tổng thống Mỹ và bộ tham mưu của ông biết và nghĩ về những vấn đề lớn của thế giới có tầm quan trọng đặc biệt đối với mọi dân tộc.
Tôi chỉ biết George W. Bush qua tiểu sử chính thức, báo chí, những bài diễn văn và những bài phỏng vấn của ông nhưng tôi vẫn có cảm tưởng ông là một con người thực tiễn và giản dị, quyết định mọi vấn đề một cách nhanh chóng dựa trên đề nghị của bộ tham mưu thân cận, không hề biết tới kinh Koran và có thể nghĩ Khổng Tử là một bộ trưởng Nhật, núi Kilimanjaro ở Nam Mỹ. Obama, trái lại, tỏ ra biết nhiều và nghĩ nhiều về những vấn đề lớn của thế giới. Bài diễn văn ngày 4-6 vừa qua tại Cairo của ông là một thí dụ.
Về văn phong và hình thức đó là một mẫu mực về soạn thảo thông điệp chính trị. Bằng những câu và chữ thật giản dị Obama đã đề cập tới các vấn đề rất lớn một cách thuyết phục và truyền cảm. Bài viết đã hay, cách nói của Obama lại tuyệt vời, ông nói một cách tự nhiên, không cần giấy trong vòng gần một tiếng đồng hồ và nói một cách hùng hồn, thu hút. Ông đã thành công mỹ mãn, diễn văn của ông bị cắt ngang hơn 40 lần vì những tràng pháo tay nồng nhiệt của trí thức và sinh viên Ai Cập. Lý do thành công của Obama là ông đã chinh phục được cảm tình của cử tọa, ông tỏ ra hiểu họ và quý trọng họ - chào họ bằng tiếng Ả Rập assalamu alaikum, trích dẫn nhiều lần kinh Koran. Từ đó tất cả những gì ông nói đều dễ lọt tai.
Về nội dung Obama đã đề cập tới bẩy vấn đề của thế giới, đặc biệt là của thế giới Hồi giáo và vùng Trung Đông, trong đó Hoa Kỳ có vai trò chiến lược : cuộc chiến chống khủng bố, quan hệ Do Thái – Palestine, Iran và vũ khí nguyên tử, dân chủ, tự do tôn giáo, quyền phụ nữ, phát triển kinh tế. Tất cả đều là những vấn đề nền tảng và dài hạn. Người ta có thể lưu ý là Obama hoàn toàn không nói tới cuộc khủng hoảng kinh tế lớn đang làm điêu đứng cả thế giới. Trên tất cả những chủ đề này Obama đã đưa ra những nhận định, đôi khi kèm theo những biện pháp cụ thể đáng được hoan nghênh, hoặc không có gì để gây bất bình, ít nhất trong thời điểm này. Tuy vậy trong chiều sâu và trong lâu dài, nếu văn cũng là người, bài diễn văn này có thể khiến người ta lo ngại về "nhận thức Obama".
Hãy bắt đầu bằng những điểm đúng : Obama khẳng định quyết tâm của Hoa Kỳ đương đầu với các lực lượng quá khích hung bạo, ông hoàn toàn có lý khi coi chúng chỉ thuần túy là những lực lượng khủng bố theo đuổi những mục tiêu đen tối bằng cách giết hại những thường dân vô tội. Ông càng có lý khi nhìn nhận rằng Hoa Kỳ trong cơn chấn động sau ngày 11/09/2001 đã sử dụng những biện pháp sai trái; người ta chỉ có thể đồng ý với ông, một mục tiêu trong sáng phải được bảo vệ bằng phương tiện xứng đáng; người ta cũng chỉ có thể hoan nghênh quyết định cấm tra tấn và đóng cửa nhà tù Guantanamo, những tuyên bố như vậy chinh phục cảm tình của thế giới đối với Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Afghanistan.
Obama cũng đã nói rất khéo về Iraq : "Trái với Afghanistan, Iraq là cuộc chiến có chọn lựa. Mặc dù tôi tin rằng nhân dân Iraq sau cùng đã thoải mái hơn sau khi không còn chế độ bạo ngược của Saddam Hussein, tôi cũng tin rằng những gì đã xẩy ra tại Iraq đã nhắc nhở Hoa Kỳ rằng, mỗi khi có thể được, phải sử dụng ngoại giao và tạo đồng thuận quốc tế để giải quyết các vấn đề". George W. Bush cũng không thể phiền lòng. Obama đã rất thuyết thuyết phục khi viện dẫn lịch sử lập quốc của Hoa Kỳ để khẳng định Hoa Kỳ hoàn toàn không có tham vọng đế quốc và không hề nhòm ngó lãnh thổ và tài nguyên của một nước nào và sẽ triệt thoái quân đội khỏi Iraq và Afghanistan ngay khi tình hình cho phép. Việc nhắc lại lịch trình rút quân khỏi Iraq cũng rất khôn ngoan, đúng nơi và đúng lúc.
Trên vấn đề nhức nhối nhất tại Trung Đông, cuộc xung đột Do Thái – Palestine, Obama đã tỏ ra sáng suốt và can đảm, ông đã có thái độ phải có là nhắc lại một cách mạnh mẽ và dứt khoát lập trường của Hoa Kỳ là người Palestine có quyền và phải được có một quốc gia đúng nghĩa của riêng họ. Đây là điều đáng hoan nghênh nhất trong bài diễn văn này. Hoa Kỳ phải nói thẳng thắn như thế đối với người Do Thái vào lúc họ vừa bầu ra một chính quyền cực hữu với chủ trương bành trướng rõ rệt. Cuộc xung đột Do Thái – Palestine bế tắc không phải vì nó không có giải đáp mà vì nó có giải đáp hiển nhiên mà những người trong cuộc, kể cả hai dân tộc Do Thái và Palestine, không chịu chấp nhận, đó là hai nhà nước riêng biệt nhìn nhận quyền hiện hữu của nhau và sống chung hòa bình với nhau. Điều này Hoa Kỳ cần khẳng định một cách thật rõ rệt và quả quyết một lần cho tất cả để vô hiệu hóa khuynh hướng cực hữu Do Thái và đồng thời cắt cỏ dưới chân các lực lượng khủng bố sống nhờ lòng thù hận của người Palestine, và Ả Rập nói chung, đối với Do Thái. Chỉ Hoa Kỳ có thể làm được điều này bởi vì Do Thái chỉ tồn tại được nhờ sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Do Thái gần như một tiểu bang của Hoa Kỳ ; như Obama nói sự ràng buộc giữa Hoa Kỳ và Do Thái không thể cắt dứt được. Khuynh hướng quốc gia cực đoan tại Do Thái chỉ tồn tại vì thái độ của Hoa Kỳ chưa đủ rõ rệt.
Điều thực sự mới trong chính sách Trung Đông của Hoa Kỳ là đối với Iran và sự kiện nước này phát triển kỹ thuật nguyên tử. Obama đã phát biểu một lập trường mà đáng lẽ Hoa Kỳ đã phải có từ lâu. Từ ba thập niên qua hình ảnh khuôn mẫu,stereotype, của Iran trong đầu óc người Mỹ là một nước Iran cuồng tín, hiếu chiến, chống Phương Tây và Hoa Kỳ một cách hung hăng.
Trong hơn mười năm tôi có một cộng sự viên người Iran, Houshang, tiến sĩ vật lý nguyên tử và rất thông thạo tình hình Iran. Houshang không phải chỉ là một nhà khoa học mà còn là một nhà hoạt động chính trị. Houshang là một trong những cấp lãnh đạo của phong trào chống đối chế độ quân chủ Pahlevi mà biểu tượng là Ayatolla Khomeini. Sau khi chế độ quân chủ bị lật đổ Houshang trở thành bộ trưởng khoa học kỹ thuật rồi thất vọng và bỏ ra nước ngoài, hiện là một trong những lãnh tụ đối lập dân chủ lưu vong hàng đầu. Tôi đã thảo luận rất nhiều với Houshang về Iran và Houshang cũng giới thiệu cho tôi nhiều trí thức Iran khác. Tất cả đều cùng nói một điều : người Iran không hề chống Phương Tây và Hoa Kỳ, cũng không hề cuồng tín, trái lại đa số thích lối sống dân chủ Phương Tây, thành phần Hồi giáo Shia quá khích chỉ vào khoảng 5%. Ngay trong giới lãnh đạo hiện nay, đa số cũng chỉ quá khích ngoài mặt. Chính Houshang đã đứng đầu chương trình nguyên tử của Iran để có thể khẳng định rằng việc chế tạo bom nguyên tử của Iran chỉ là một đòn tháu cáy. Hình ảnh của nước Iran mà họ mô tả cho tôi hoàn toàn khác với hình ảnh mà chính giới Hoa Kỳ có. Chỉ tới cách đây hai tuần tờ Newsweek, trong một số đặc biệt về Iran mới trình bày nước này giống như hình ảnh mà các bạn tôi mô tả. Tít lớn ngoài bìa của số báo này là "All we know about Iran is wrong" (Tất cả những gì chúng ta biết về Iran đều sai). Nhiều khi tôi tự hỏi với những phương tiện và nhân lực hùng hậu như vậy tại sao chính giới Hoa Kỳ có thể hiểu sai về một quốc gia quan trong như vậy trong một thời gian dài như vậy ?
Tóm lại đó là một bài diễn văn rất hay. Tuy vậy tôi không thể xua đuổi cảm tưởng là Obama đã có những ngộ nhận lớn trên một số vấn đề cơ bản.
Vấn đề giữa Phương Tây và thế giới Hồi giáo có thực sự là mâu thuẫn tôn giáo như Obama trình bày hay không ? Đó là điều mà các tổ chức khủng bố như Al Qaeda, Hamas, Hezbollah v.v. muốn người ta nghĩ, nhưng cách nhìn này không đúng. Không hề có một nước Phương Tây nào chống Hồi giáo cả, trái lại các chính quyền Phương Tây, kể cả chính quyền Bush nổi tiếng là thô vụng về ngoại giao, còn hết sức cố gắng tránh mọi mâu thuẫn với Hồi giáo. Cũng không hề có xung đột giữa Thiên Chúa giáo và Hồi giáo, các giáo hoàng Công giáo La Mã từ hàng thế kỷ nay luôn luôn bày tỏ sự tương kính đối với các tôn giáo khác kể cả Hồi giáo, họ còn nhìn nhận những cuộc thập tự chinh trong quá khứ là sai lầm, xin lỗi và hòa giải với Do Thái giáo. Người ta cũng không bao giờ thấy một thái độ bài xích nào từ các hệ phái Tin lành.
Và nếu muốn thẳng thắn nói công khai sự thực -thay vì chỉ nói trong phòng khép kín như chính Obama kêu gọi trong bài diễn văn này- thì phải nói rằng những hành động và cử chỉ quá khích gần đây đã chủ yếu đến từ một số phần tử Hồi giáo. Vả lại Phương Tây có còn theo Thiên Chúa giáo hay không là cả một câu hỏi. Tại Mỹ có thể còn sấp xỉ 50% dân chúng còn đức tin Thiên Chúa giáo nhưng tại Tây Âu con số này chưa tới 10% và đang tiếp tục giảm đi, Thiên Chúa giáo chủ yếu chỉ còn là một di sản văn hóa. Hơn nữa nếu coi những khó khăn trong quan hệ của Trung Đông và đa số các nước Hồi giáo nói chung với phần còn lại của thế giới như là một xung đột tôn giáo thì không có giải pháp ổn thỏa nào cả. Đặc tính của mọi tôn giáo là đặt nền tảng trên đức tin và các đức tin không thể chứng minh và thảo luận.
Vậy vấn đề thực sự là gì ? Đó là sự thích nghi bắt buộc của Hồi giáo với thời đại mới, nghĩa là triệt thoái khỏi chính trị để trở về vị trí của một tôn giáo bình thường như các tôn giáo khác. Vấn đề theo đạo và sống đạo phải được coi như một chọn lựa cá nhân. Không nên tránh né một sự thực là mọi tôn giáo khởi thủy đều mang tính nhất nguyên, một tôn giáo không là một tôn giáo nếu chấp nhận rằng điều ngược lại với đức tin của nó cũng có thể đúng. Do đó dân chủ, mà triết lý nền tảng là chủ nghĩa cá nhân tự do, đã chỉ thành hình với sự phủ nhận quyền lực của các tôn giáo.
Nền dân chủ Hoa Kỳ đã được thành lập bởi những người ra đi tìm một quê hương mới để phản đối độc quyền tôn giáo. Trường hợp Hòa Lan cũng không khác. Cuộc cách mạng Pháp 1789 là cuộc cách mạng vừa chống chế độ quân chủ vừa chống giáo hội công giáo. Tước bỏ quyền lực chính trị của các tôn giáo là điều kiện tiên quyết của dân chủ. Thiên Chúa giáo đã phải trải qua Thế Kỷ Ánh Sáng, le Siècle de Lumière, (thế kỷ 18) trong đó các tín điều bị chất vấn rồi sau đó chính giáo hội trở thành nạn nhân của cuộc cách mạng. Khổng giáo, giữ vai trò một tôn giáo về mặt chính trị và xã hội, cũng phải bị đẩy lùi tại Đông Á trong cuộc gặp gỡ với Phương Tây để dọn đường cho các chế độ dân chủ. Đến lượt nó Hồi giáo cũng sẽ phải trải qua một cuộc xét lại rất lớn. Đó là điều kiện bắt buộc để các quốc gia hồi giáo có thể trở thành bình thường trong một thế giới toàn cầu hóa.
Cuộc xét lại này sẽ rất khó khăn và đau nhức vì những lý do xuất phát từ chính bản chất của Hồi giáo. Trái với các tôn giáo khác, Hồi giáo trên nguyên tắc không thể chấp nhận xét lại. Phật là một người giác ngộ nhưng cũng vẫn là một người, do đó kinh Phật không có giá trị tuyệt đối. Thánh kinh Thiên Chúa giáo do những tiên tri và những tông đồ của Jesus chép lại và cũng có thể không hoàn toàn chính xác. Nhưng đó không phải là trường hợp của kinh Koran. Koran là lời của chính Thượng Đế nhập vào Muhammad để nói ra vì thế không thể thay đổi. Xét lại kinh Koran là mặc nhiên nhìn nhận hoặc Allah có thể sai (và như thế không thể là Allah akbar), hoặc Allah đã không nhập vào Muhammad ; trong cả hai trường hợp Hồi giáo chỉ là một sự hiểu lầm. Đoạn 69 của kinh Koran qui định những kẻ thêm bớt kinh Koran sẽ bị chặt tay.
Nhưng Hồi giáo bắt buộc phải xét lại vì không thể tồn tại với kinh điển hiện nay. Nó can thiệp trực tiếp vào quyền lực và chứa đựng quá nhiều điều không phù hợp với thế giới văn minh. Các tôn giáo lớn nói chung đều ra đời vì lý do chính trị như một phản ứng với một trật tự xã hội sẵn có và sau đó trở thành nền tảng cho một quyền lực chính trị mới, nhưng với những quan điểm khác nhau về tương quan giữa tôn giáo và chính trị, hay giữa Thượng Đế và Vua.
Tựu chung có ba mô hình : trong quan điểm Thiên Chúa giáo, thượng đế và vua khác nhau và phân biệt với nhau (Jesus : hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, hãy trả cho Caesar những gì thuộc về Caesar) ; trong các xã hội khổng giáo và phật giáo, vua là thượng đế ; trong các xã hội hồi giáo, thượng đế là vua.
Đối với Hồi giáo chính thống, tôn giáo là chính quyền và luật pháp, Sharia chỉ là sự áp dụng trực tiếp luật của kinh Koran vào đời sống. Sự xét lại đã khiến Thiên Chúa giáo mất rất nhiều ảnh hưởng, nhưng nó sẽ còn đau nhức hơn rất nhiều đối với Hồi giáo.
Obama hoặc đã hời hợt hoặc đã mỵ dân khi đề cao Hồi giáo như là một tôn giáo bao dung đã góp phần quan trọng cho nền văn minh của thế giới. Đúng là Hồi giáo đã có đóng góp lớn, nhưng không lớn như ông đã nói. Còn bao dung thì chắc chắn là không, ngay chính những đoạn kinh Koran mà ông cắt để trích dẫn nếu đọc tiếp cũng thấy ngay những hình phạt ghê gớm dành cho kẻ bị coi là chống Hồi giáo.
Những câu Obama trích ra (ai giết một người vô tội cũng như giết cả nhân loại, ai cứu một người cũng như đã cứu cả nhân loại) cũng cần được tương đối hóa : chúng chỉ áp dụng cho người Hồi giáo, những người không theo Hồi giáo không vô tội, họ là những kẻ không có lòng tin (unfaithful). Vô tình hay cố ý Obama cũng đã giải thích sai ý nghĩa của sự kiện nhiều phụ nữ đã được bầu vào địa vị lãnh đạo cao nhất tại những nước Hồi giáo lớn như Turkey, Indonesia, Pakistan, Bangladesh. Điều đó hoàn toàn không chứng minh Hồi giáo tôn trọng phụ nữ, cả kinh Koran lẫn luật Sharia đều không coi phụ nữ ra gì cả, những cuộc bầu cử đó đã chỉ chứng minh rằng quần chúng hồi giáo muốn thay đổi. Các lực lượng hồi giáo toàn nguyên biết như vậy và đã hành động hung bạo vì tuyệt vọng. Một tôn giáo có bao dung hay không không phải ở chỗ kinh sách có nói những điều nhân hậu, mà ở chỗ kinh sách không nói những điều nghiệt ngã, và cả Koran lẫn Sharia đều chứa đụng rất nhiều điều khắc nghiệt. Cũng không nên quên rằng bạo lực và thánh chiến nằm ngay trong bản chất của Hồi giáo, trong bốn giáo chủ kế tiếp Muhammad, ba người đã bị giết bởi chính những phe phái Hồi giáo. Obama đã quá cường điệu khi tuyên bố : "trách nhiệm của tôi trong cương vị tổng thống Mỹ là chống lại những hình ảnh đúc khuôn về Hồi giáo ở bất cứ nơi nào mà chúng xuất hiện". Đó là công việc của các nhà báo và các nhà nghiên cứu, tổng thống Mỹ có những trách nhiệm cần thiết và cấp bách hơn.
Nói như thế không phải là để chống Hồi giáo. Hồi giáo đã đem đến một tinh thần quan trọng, đó là sự liên đới giữa các tín đồ vào một lúc mà trên cả thế giới các xã hội được phân chia thành chủ và tớ, Thiên Chúa giáo đã biến chất để trở thành một dụng cụ cai trị của các vua chúa. Đó đã là sức mạnh của Hồi giáo khiến nó phát triển một cách mạnh mẽ và nhanh chóng như chưa bao giờ thấy trong lịch sử nhân loại. Mọi tôn giáo đều ra đời như một tiến bộ rồi dần dần không thích nghi với chính tiến bộ mà chúng tạo ra và trở thành một dụng cụ thống trị và một trở ngại cho tiến bộ. Hồi giáo cũng không phải là một ngoại lệ. Cũng như Thiên Chúa giáo và Khổng giáo, Hồi giáo sẽ phải trải qua một cuộc xét lại lớn, nhiều lần đau nhức hơn Thiên Chúa giáo. Trong thế kỳ 21 rất có thể Hồi giáo sẽ phải chịu chung số phận của Khổng giáo tại Đông Á, nghĩa là mờ nhạt dần đi. Đó là điều đang xẩy ra tại Turkey ; tại những thành phố lớn, ngay cả tại các công viên, vào giờ trưa khi tiếng gọi cầu nguyện vang lên inh tai nhức óc từ các tháp chuông không còn ai cầu nguyện, người ta vẫn đi lại, trò chuyện, hút thuốc, uống cà phê như thường lệ, vào các mosque thì chỉ thấy lác đác vài chục người. Một trong những chuyển hóa quan trọng nhất của thế kỷ 21 sẽ là sự hoàn tất một tiến trình đã được khởi đầu và đẩy khá xa trong thế kỷ 20 : bình thường hóa chỗ đứng của Hồi giáo trong xã hội.
Vấn đề thực sự của thế giới hồi giáo không phải là mâu thuẫn với Phương Tây, càng không phải là đụng độ với Thiên Chúa giáo mà là vấn đề của Hồi giáo với chính mình, nghĩa là hòa giải và thích nghi với dân chủ. Đó là sự thích nghi bắt buộc.
Dân chủ là một trong những vấn đề lớn mà Obama đề cập tới trong bài diễn văn Cairo. Đó cũng là đoạn mà ông nói ngắn nhất và khiến tôi thất vọng nhất. Ông là người sang trọng và quyền lực nhất thế giới, tôi chỉ là một người lưu vong, không có cả quyền đặt chân lên chính quê hương mình nhưng trong chừng mực một kẻ tầm thường cũng có thể có lý, tôi phải nói rằng Obama đã sai. Obama nói rằng không một nước nào có quyền áp đặt một hệ thống chính trị lên một nước khác. Đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Không phải hệ thống chính trị nào cũng chấp nhận được, có những giá trị mà mọi quốc gia phải tôn trọng và thể hiện. Và cộng đồng quốc tế phải áp đặt những giá trị này. Cũng như trong một nước không ai được quyền áp đặt một nhân sinh quan lên một cá nhân khác nhưng vẫn phải có luật pháp để bảo đảm một số giá trị chung được mọi người tuân thủ. Chúng ta không còn ở trong một thế giới man rợ.
Obama định nghĩa dân chủ như nguyên tắc theo đó chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của dân chúng, và mỗi chính quyền thể hiện nguyên tắc này theo cách riêng của mình, tùy theo truyền thống của mỗi dân tộc. Thật đáng buồn, đây đúng là ngôn ngữ của các chế độ độc tài bạo ngược. Theo Obama, những nguyện vọng của người dân là được nói những điều mình nghĩ, được có tiếng nói trong cách quản trị đất nước, được có một chính quyền không ăn cướp của dân và được sống theo cách mà mình chọn lựa. Cũng đúng, nhưng đây chỉ là dân chủ ở mức độ trừu tượng và mơ hồ, mức độ zero về mặt chính trị. Các chế độ độc tài cũng luôn luôn vỗ ngực tự xưng là phản ánh những nguyện vọng này của người dân. Chúng còn trâng tráo gọi bộ máy đàn áp là chính quyền nhân dân, ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân.
Nhân loại, sau nhiều đấu tranh cam go và những hy sinh lớn, đã vượt qua được mức độ lãng mạn và nguyên tắc, mức độ zero, để đạt tới một định nghĩa tương đối rõ ràng cho một chế độ dân chủ : đó là một chế độ ít nhất bảo đảm tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và tham gia các tổ chức kể cả các chính đảng, tự do bầu cử và ứng cử. Đó là định nghĩa của dân chủ đã được quy định trong bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thành phần của hiến chương Liên Hiệp Quốc. Dân chủ với định nghĩa trên đây nằm trong công pháp quốc tế mà Liên Hiệp Quốc và mọi quốc gia có nhiệm vụ bảo đảm sự tuân thủ. Các chế độ độc tài bạo ngược vi phạm công ước quốc tế, thái độ đúng và hợp với công pháp quốc tế là đánh đổ chúng trừ khi cái giá phải trả quá cao, trong trường hợp này cũng phải gây sức ép tối đa.
Đây không phải là lần đầu tiên Obama nói về dân chủ và tự do một cách hời hợt. Trong bài diễn văn nhận chức Obama đã nói : "Đối với các chính quyền bịt miệng những người đối lập, chúng tôi nói các vị đi sai chiều lịch sử, nhưng nếu các vị chìa bàn tay thân thiện chúng tôi cũng sẽ nắm lấy". Tôi ngạc nhiên khi đọc những bài bình luận của một số người Việt hân hoan vì Obama đã lên án các chế độ bịt miệng đối lập. Các chế độ độc tài, trong đó có chế độ cộng sản Việt Nam, không mong gì hơn là được "lên án" như vậy.
Tuy vậy tôi vẫn hoan nghênh việc Obama đắc cử tổng thống Mỹ. Sau hai nhiệm kỳ của George W. Bush, nó đã hòa giải thế giới với Hoa Kỳ, vừa đánh dấu một bước tiến ngoạn mục trong cuộc đấu tranh đẩy lùi tệ kỳ thị mầu da vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc chiến đấu chống khủng bố. Tôi cũng không lo ngại lắm về nhận thức mà tôi nghĩ là thiếu hụt của ông. Xã hội dân sự Hoa Kỳ có tiếng nói quyết định và các tổ chức bảo vệ nhân quyền Mỹ vẫn rất mạnh, họ còn có ảnh hưởng lớn hơn với một chính quyền thuộc đảng Dân chủ. Vả lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không thay đổi bao nhiêu dù là dưới một tổng thống dân chủ hay cộng hòa. Hoa Kỳ vẫn là một yểm trợ vững mạnh cho cuộc vận động dân chủ. Chính Obama phải thận trọng.
Mùa hè năm ngoái vào giữa lúc cuộc tranh cử tổng thống Mỹ đang sôi nổi, một người bạn thuộc đảng Dân chủ hoan hỉ khoe với tôi rằng Obama có một ban viết diễn văn rất trẻ. Sự tươi mát của tuổi trẻ quả nhiên thể hiện trong văn phong những bài diễn văn của ông. Chính Obama cũng rất trẻ. Nhưng tuổi trẻ không phải bao giờ cũng là một ưu thế, đôi khi tuổi trẻ cũng là khoảng đời mà người ta chưa đủ thời giờ nghiên cứu và rà soát để gạt bỏ những ngộ nhận và bổ túc những thiếu sót.
Tôi cũng nhận xét là trong bộ tham mưu của Obama không có một nhà tư tưởng chính trị nào dù đó là điều rất cần thiết ; tư tưởng khiến hoạt động chính trị có ý nghĩa lâu dài và cho phép người ta có thể uyển chuyển mà không mất định hướng.
Obama trong cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng bằng những bài diễn văn dễ lọt tai nhưng đôi khi hụt hẫng về nhận thức có thể gây thất vọng cho những người thực sự hiểu biết và có tầm nhìn, những người cuối cùng cũng vẫn có vai trò lãnh đạo tinh thần và tạo ra dư luận.
(Thông Luận 237, tháng 06/2009)
III. Một sự sụp đổ có thể là một tai họa toàn cầu
Đừng quên là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 đã nổ ra khi ngân hàng đầu tư Lehman Brothers phá sản. Lần này một sự phá sản đột ngột của kinh tế Trung Quốc sẽ kéo theo sự phá sản không chỉ của một mà nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư lớn. Chấn động sẽ dữ dội gấp nhiều lần và không chỉ nhân dân Trung Quốc khốn khổ mà nhiều nước, kể cả Việt Nam, cũng sẽ phá sản theo với những bi kịch không lường được. Khủng hoảng của kinh tế sắp tới của Trung Quốc vì thế phải được chuẩn bị và quản lý với tất cả thận trọng.
-------------------
Trong hai bài trước (1) (2) tôi đã trình bày một cái nhìn chung về Trung Quốc và cuộc phiêu lưu được gọi là "Sáng kiến Vành đai và Con đường". Lần này xin thảo luận về những gì sắp đến.
Trước hết là một cảnh giác. Phải rất thận trọng với những con số về kinh tế Trung Quốc. Chúng có thể rất khác nhau và khiến cuộc thảo luận bế tắc ngay từ đầu.
Thí dụ như tổng sản lượng nội địa (GDP) của Trung Quốc. Con số này có thể là 23.000 tỷ, hay 12.000 tỷ hay 7.000 tỷ USD tùy theo nguồn gốc của nó và cách nhìn của mỗi người. Một con số mơ hồ như vậy có giá trị gì trong một cuộc thảo luận ? Tuy vậy chúng ta vẫn cần đến nó để theo dõi tỷ lệ tăng trưởng, một chỉ số quan trọng để đánh giá tình trạng kinh tế của một quốc gia.
Phải loại con số 23.000 tỷ USD. Đây là "GDP tính theo mãi lực" của Trung Quốc do Ngân Hàng Thế Giới ước lượng. Nó có nghĩa là "nếu so với vật giá ở Mỹ thì phải coi như GDP của Trung Quốc là 23.000 tỷ USD" và chỉ có mục đích giúp ta có một ý niệm về mức sống tại Trung Quốc chứ hoàn toàn không có một giá trị nào trong quan hệ kinh tế quốc tế. Còn lại là GDP danh nghĩa (GDP nominal). Sau nhiều bàn cãi con số được phần lớn các định chế tài chính và cơ quan truyền thông ghi nhận là 12.000 tỷ USD. Các ước lượng về mức tăng trưởng của Trung Quốc dựa trên con số này.
Tuy nhiên đặc tính chung của các số liệu của Trung Quốc là rất không chính xác, nhiều chuyên gia nói rằng GDP của Trung Quốc nếu tính lại một cách nghiêm chỉnh chỉ vào khoảng 7.000 tỷ USD. Họ cũng có lý nếu loại khỏi GDP những "sản lượng" vô ích chỉ được làm ra để nâng GDP lên và sẽ hư hao với thời gian, thí dụ như những thành phố ma.
Số nợ của Trung Quốc được biết rõ hơn. Hầu như mọi định chế tài chính đều đồng ý rằng khối nợ của Trung Quốc cuối năm 2017 là trên 31.000 tỷ, nghĩa là 260% GDP nếu dùng con số GDP 12.000 tỷ USD, trong đó chính phủ nợ 5.500 tỷ, các công ty quốc doanh nợ 19.000 tỷ, các gia đình nợ 6.000 tỷ, phần còn lại là nợ của các ngân hàng. Như vậy khối nợ công của nhà nước Trung Quốc (nợ chính phủ và nợ của các công ty nhà nước) là khoảng 25.000 tỷ USD, nghĩa là hơn hai lần GDP. Ngoài ra, các chính quyền tỉnh còn nợ còn nợ khoảng 6.000 tỷ USD. Không hiểu vì sao khối nợ này ít khi được kể vào khối nợ công. Có thể chỉ vì nó chưa đầy đủ, nghĩa là chưa bao gồm tất cả các khoản nợ của tất cả các tỉnh ? Nếu như thế thì khối nợ công của Trung Quốc phải ít nhất là 31.000 tỷ USD, nghĩa là hơn hai lần rưỡi con số GDP 12.000 tỷ USD mà Trung Quốc chưa chắc đã có.
Nhưng chưa hết, các ngân hàng Trung Quốc còn một thủ thuật khác mà họ học được từ các ngân hàng Mỹ để giấu nợ. Họ lập những công ty tài chính ma để cho vay, rồi kể tài sản của các công ty này (trong đó có các khoản cho vay) như là đầu tư thay vì nợ. Đây không phải là một nghi ngờ của các quan sát viên mà là một phát hiện của Ủy Ban Kiểm Tra Ngân Hàng của Trung Quốc, do chính ông chủ tịch Shang Fu-lin công bố. Các khoản tín dụng trá hình này được ước lượng là ở mức ít nhất 2.000 tỷ USD.
Tóm lại, tuy các con số của Trung Quốc rất thiếu chính xác nhưng chúng ta có thể khẳng định là mức nợ công của Trung Quốc rất cao, cao hơn tất cả những gì được công bố, cao một cách nguy ngập. Chính vì nhận định khối nợ công của Trung Quốc thực sự đã quá nguy ngập mà ngày 23/05/2017 cơ quan thẩm định Moody's đã hạ điểm tín nhiệm của Trung Quốc khiến cho lãi suất công trái của Trung Quốc đã dần dần leo lên tới 3,2% cho các công trái hai năm và chắc chắn sẽ còn leo lên nữa. Với lãi suất này, Trung Quốc từ nay sẽ phải trả 1.000 tỷ USD mỗi năm cho tiền lãi của nợ công. Để so sánh, lãi suất công trái hai năm của Mỹ là 0,5%, chính phủ Mỹ phải trả khoảng 100 tỷ USD cho tiền lãi nợ công, nghĩa là bằng 1/10 số tiền lãi mà Trung Quốc phải trả.
Sở dĩ nhiều người vẫn còn tin là kinh tế Trung Quốc chưa thực sự lâm nguy là vì khối ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc vẫn còn khá lớn, dù đã giảm từ 4.000 tỷ USD xuống còn 3.000 tỷ USD. Nhưng nếu nhìn sát hơn thì trong khối dự trữ này 1.000 tỷ USD không còn động viên nhanh chóng được nữa vì đã được sử dụng trong các quỹ đầu tư, 2.000 tỷ USD còn lại chủ yếu để cấp cứu các ngân hàng, thị trường chứng khoán và đồng Nhân Dân Tệ.
Thị trường chứng khoán Thượng Hải đã giảm hơn 20%, Thẩm Quyến sụt gần 30% mặc dù chính quyền Trung Quốc không ngừng cứu giúp - Ảnh minh họa (zonebourse.com)
Khi tôi viết các dòng này thì từ đầu năm 2018 đồng Nhân Dân Tệ đã mất giá 9% so với đồng Đôla Mỹ, thị trường chứng khoán Thượng Hải đã giảm hơn 20%, Thẩm Quyến sụt gần 30% mặc dù chính quyền Trung Quốc không ngừng cứu giúp, trong khi các thị trường chứng khoán Mỹ, Nhật và Châu Âu hoặc thăng bằng hoặc chỉ sụt từ 5% tới 10%. Dự trữ của Trung Quốc tuy lớn nhưng vẫn thiếu.
Bàn về tình hình kinh tế Trung Quốc cũng sẽ thiếu sót nếu bỏ qua những nét đặc thù có ảnh hưởng quan trọng, nhất là trong tình trạng khó khăn hiện nay. Ngoài hàng trăm tỷ USD đào thoát ra nước ngoài hàng năm còn có ít nhất hai hiện tượng cần được lưu ý.
Một là loại "tín dụng tay đôi" (crowd lending, hay peer to peer, viết tắt là P2P). Loại tín dụng này có ở hầu như mọi nước nhưng không đâu mạnh như ở Trung Quốc. Tầm vóc của nó tại Trung Quốc lớn hơn hẳn tất cả phần còn lại của thế giới. Một cách vắn tắt, đó là những công ty được thành lập chung quanh một trang Web và dùng trang Web này kêu gọi quần chúng trực tiếp cho các công ty vay. Các công ty P2P này đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa tư nhân cho vay và các công ty cần vay tiền để kinh doanh, thường thường là những công ty không đủ tiêu chuẩn để vay tiền tại các ngân hàng. Sự hấp dẫn của công thức này là lãi suất rất cao, có thể đến 15% mỗi năm, cao gấp 4 hoặc 5 lần lãi suất tiết kiệm. Ngược lại rủi ro rất cao và lừa bịp cũng rất nhiều. Chính quyền Trung Quốc trong cố gắng kích thích tăng trưởng để thoát hiểm sau cuộc khủng hoảng 2008 đã để mặc cho các công ty P2P này phát triển, thậm chí còn khuyến khích. Đã có hàng chục ngàn công ty P2P ra đời, lôi kéo hơn 50 triệu người ghi danh cho vay, huy động trên 10.000 tỷ USD. Gần đây chúng ồ ạt phá sản, nhiều chủ công ty P2P ôm tiền của khách hàng trốn ra nước ngoài. Những người cho vay mất trắng. Theo tờ Hoa Nam Tảo Báo (South China Morning Post) thì tới nay đã có hơn 4.500 công ty P2P phá sản, với 225 vụ phá sản riêng trong tháng 7/2018 vừa qua. Vụ phá sản được nói tới nhiều trên báo chí Trung Quốc là công ty eZubao làm mất 6,7 tỷ USD. Sự phá sản của phong trào P2P này, sau khủng hoảng của thị trường chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến năm 2015 đã làm cạn kiệt khối tiền tiết kiệm tư nhân, khiến chính quyền Trung Quốc không còn nguồn vốn trong nước để động viên nữa.
Các công ty P2P này đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa tư nhân cho vay và các công ty cần vay tiền để kinh doanh, thường thường là những công ty không đủ tiêu chuẩn để vay tiền tại các ngân hàng - Ảnh minh họa (P2P Construction-The Star)
Một hiện tượng khác mà báo chí Trung Quốc nói đến là các công ty quốc doanh sau khi vay được tiền ở các ngân hàng nhà nước với lãi suất thấp đem cho các công ty tư nhân vay lại với lãi suất cao hơn để lấy lời. Càng làm gia tăng nguy cơ sụp đổ dây chuyền.
Trong cơn hốt hoảng
Chúng ta sẽ không thể hiểu vì đâu Trung Quốc đến nông nỗi này nếu không ý thức được sự hốt hoảng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng năm 2008, khi kinh tế thế giới sụp đổ vì hai bong bóng địa ốc và chứng khoán bể tại Mỹ. Cuộc khủng hoảng này sau hơn mười năm vẫn chưa chấm dứt vì đa số các chính quyền vẫn còn đang phải gánh những khối nợ công ngang với GDP.
Trước năm 2008 mô hình kinh tế Trung Quốc có thể gọi tắt một cách chính xác là "mô hình tăng trưởng dã man". Đó là mô hình tăng trưởng bất chấp cả con người lẫn môi trường, chỉ nhắm sản xuất thật nhiều với giá thành thật rẻ để xuất khẩu tối đa. Nói cách khác, chính quyền cộng sản Trung Quốc xuất khẩu sự nghèo khổ mà chính họ là nguyên nhân. Mô hình này đã khiến kinh tế Trung Quốc tăng trưởng liên tục trên 10% mỗi năm trong gần 30 năm, với cao điểm là 14% năm 2007 ngay trước cuộc khủng hoảng.
Người ta nói tới một phép mầu Trung Quốc mà không tìm hiểu tại sao các cấp lãnh đạo tuyệt đối không có một sự hiểu biết nào về kinh tế, hơn nữa còn suốt đời được đào tạo để phủ nhận kinh tế thị trường, lại có thể tạo ra một phép mầu như vậy. Trong cơn choáng váng người ta đã quên rằng mọi sự kiện đều có logic của chúng. Trung Quốc thật ra đã trả một giá kinh khủng cho sự tăng trưởng này. Môi trường đã bị tàn phá một cách triệt để và không thể phục hồi. Một phần lớn của miền Bắc Trung Quốc đã trở thành khô cằn ; hơn một nửa các dòng sông không còn nước, các con sông còn lại ô nhiễm tới mức mọi sự sống gần như biến mất.
Cuối năm 2007 tôi đã tham quan Trung Quốc và nhận xét rằng các thành tựu hoành tráng của Trung Quốc thực ra chỉ là những Vạn Lý Trường Thành mới tuy bề ngoài hào nhoáng nhưng chỉ làm Trung Quốc kiệt quệ về lâu về dài. Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm đó.
Cũng không phải chỉ có thế, lý tưởng công bằng xã hội mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc đề cao để biện minh cho việc gây ra cái chết của hàng trăm triệu người Trung Quốc trong nội chiến cũng như trong các chiến dịch Bước Nhảy Vọt và Đại Cách Mạng Văn Hóa đã hoàn toàn biến mất nhường chỗ cho một chênh lệch giầu nghèo chưa từng có, không chỉ giữa những con người mà còn cả giữa các vùng.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu tập trung ở khu vực Bắc Kinh và vùng bờ biển phía Đông, tổng cộng vào khoảng 1/5 lãnh thổ, nhưng ngay trong các vùng này bất công xã hội cũng cực kỳ thách đố. Hàng trăm triệu người đổ về Bắc Kinh, Thẩm Quyến, Thượng Hải và các thành phố duyên hải để bán sức lao động, họ sống chen chúc trong những khu nhà chật hẹp và dơ bẩn.
Vào cuối năm 2007 tôi đã thấy một đám đông mà tôi chưa bao giờ thấy. Tại quảng trường trước nhà ga Bắc Kinh hàng triệu người chen chúc nhau. Họ đứng, ngồi và nằm bên cạnh những bao hành lý lớn. Đó là các công nhân từ các tỉnh chờ xe lửa để về quê thăm gia đình. Họ chỉ là một thiểu số trong số những người tha hương cầu thực bởi vì những người này trung bình chỉ về quê thăm gia đình mỗi năm một lần.
Trên thực tế phải nói Trung Quốc không phải là một nước với 1.400 triệu dân như cách nhìn bình thường. Đó là một nước với khoảng 300 triệu dân và một khối nô lệ hơn một tỷ người bị bóc lột thẳng tay.
Cuộc di dân khổng lồ của hàng trăm triệu công nhân Trung Quốc về quê ăn Tết mỗi năm - Ảnh minh họa
Ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã hốt hoảng khi cuộc khi cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 nổ ra vì ít nhất hai lý do. Một là kinh tế Trung Quốc lúc đó chủ yếu dựa vào xuất khẩu trong khi xuất khẩu chắc chắn sẽ sút giảm rất nặng. Hai là, quan trọng hơn, chế độ Trung Quốc dựa trên một hợp đồng bất thành văn, theo đó chính quyền được quyền mặc sức hủy hoại môi trường và khai thác sức lao động của quần chúng cũng như của các tỉnh phía Tây, nhân danh một tỷ lệ tăng trưởng cao hứa hẹn một ngày mai tươi sáng ; hợp đồng này nếu không được tôn trọng sẽ đưa tới bạo loạn và ly khai.
Kết luận của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc mà Ôn Gia Bảo đã là người đầu tiên nói ra là phải giữ tỷ lệ tăng trưởng ở mức 8%. Trong một bài trước tôi đã trình bày là họ đã tìm đủ mọi cách để giữ tỷ lệ tăng trưởng này, dù là một cách giả tạo. Họ đã cố phát triển thị trường nội địa, nhưng cố gắng này đã không thành công mà còn có kết quả ngược lại là khiến hoạt động xuất khẩu trở thành khó khăn hơn. Họ đã dồn tiền vào các thị trường chứng khoán với mơ ước biến Thượng Hải và Thẩm Quyến thành những trung tâm tài chính lớn như New York, Tokyo hay London để có thể huy động các nguồn tài chính thế giới ; dự án này không chỉ thất bại mà còn là một thảm họa đến nay vẫn còn tiếp tục tàn phá một nền tài chính vốn đã rất nguy ngập. Cố gắng chuyển hóa từ một nền kinh tế dựa trên khối lượng sang một nền kinh tế phẩm chất cao là đúng nhưng đòi hỏi thời gian và những yếu tố khác mà các chế độ độc tài không có : tự do, ý kiến và sáng kiến.
Giải pháp cứu nguy còn lại là xây dựng, xây dựng trong nước rồi xây dựng ngoài nước khi không còn xây dựng thả cửa ở trong nước được nữa.
Như tôi đã viết trong một bài trước (2), giải pháp này, được gọi là "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (Belt and Road Initiative), thực ra chẳng có gì là độc đáo để đáng được gọi là một sáng kiến. Nó chỉ là một giải pháp dễ dãi. Ai cũng biết ngành xây dựng có tác dụng lôi kéo rất nhiều ngành khác. Người Pháp có câu "Khi xây dựng lên thì tất cả đêu lên" (Quand le bâtiment va, tout va).
Ngành xây dựng dễ tăng cường vì không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp lại có hiệu ứng lôi kéo lớn nên nó luôn luôn là cám dỗ của các chính quyền hoặc muốn tăng trưởng nhanh hoặc muốn thoát hiểm trong một bối cảnh kinh tế khó khăn. Điều mà một số người không lưu ý đúng mức là ngược lại khi ngành xây dựng bế tắc nó cũng khiến rất nhiều ngành khác bế tắc theo và gây khủng hoảng lớn. Đó là điều đã xảy ra tại Mỹ năm 2008 khi chiếc bong bóng địa ốc xì hơi. Đó cũng là lý do khiến Espana và Hy Lạp khốn đốn từ mười năm nay. Xây dựng có hiệu quả tức khắc nhưng nguy hiểm về lâu về dài. Nó như một thứ thuốc kích thích phải được sử dụng một cách rất thận trọng. Ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc chắc chắn phải biết điều này vì nó quá sơ đẳng nhưng họ không còn chọn lựa nào khác.
Càng chìm sâu thêm trong nguy ngập
Vấn đề của Bắc Kinh là họ không thể giảm bớt các hoạt động xây dựng vì ngành này và những ngành gắn bó chặt chẽ với nó đang nuôi sống hàng trăm triệu gia đình. Giảm xây dựng là dồn họ vào thế tuyệt vọng và chắc chắn sẽ có bạo loạn.
Khó khăn của Trung Quốc không dừng lại ở đó. Ngoài đe dọa kinh tế Trung Quốc còn phải đương đầu một cách tuyệt vọng với một tai họa còn to lớn hơn nhiều : môi trường. Một phần lớn của đất nước Trung Quốc gần như đã bị hy sinh trên bàn thờ thần Tăng Trưởng.
Năm 2007, khi bầu trời Bắc Kinh và Hà Bắc đã đen nghịt khói, tôi đọc được nhiều tài liệu cho biết là Trung Quốc dự định xây thêm mỗi năm hơn một ngàn nhà máy nhiệt điện than và nhiều ngàn nhà máy chạy bằng than khác như thép, phân bón, giấy v.v. Trong suốt một tháng đi đâu trên khắp Trung Quốc (xin nhấn mạnh là trên khắp Trung Quốc !), tôi cũng gặp những đoàn du lịch của Tổng Công Ty Than Khoáng Sản Việt Nam. Trung Quốc mua tất cả khối lượng than mà Việt Nam có thể bán. Đó là thời vàng son của than. Rồi đùng một cái các nhà lãnh đạo Trung Quốc khám phá ra là thời đại của than đã chấm dứt và thời đại của dầu khí cũng sắp chấm dứt nhường chỗ cho năng lượng tái tạo được, chủ yếu là năng lượng mặt trời. Họ không biết phải làm gì với những thiết bị đã chế tạo ra cho những nhà máy chạy bằng than được dự định thành lập nhưng sẽ không thành lập nữa. Chỉ còn một giải pháp là xuất khẩu chúng bằng mọi giá.
Để có thể xuất khẩu Trung Quốc đề nghị với tất cả các nước những hợp đồng xây dựng và lắp ráp các kết cấu hạ tầng cũng như các nhà máy với những điều kiện thật dễ dãi. Các ngân hàng của Trung Quốc, hoặc do Trung Quốc tài trợ như AIIB, cho các nước đối tác vay để trả tiền các công trình do các công ty quốc doanh Trung Quốc đấu thầu thực hiện. "Vành đai và Con đường" là một cụm từ mơ hồ bao gồm tất cả những công trình mà Trung Quốc thi công ở nước ngoài. Để thực hiện những công trình này, Trung Quốc cho vay để khách hàng thanh toán cho mình, và cho vay bất chấp cả khả năng hoàn trả của khách hàng. Những món nợ này dĩ nhiên là mất không trong đa số các trường hợp.
Nhưng Trung Quốc lấy tiền đâu để cho vay ? Câu trả lời giản dị là họ đi vay, chủ yếu của các quỹ đầu tư đủ loại trên thế giới. Từ vài năm nay tình hình kinh tế Trung Quốc có thể tóm tắt như sau : Trung Quốc nợ ngập đầu, phải vay nợ mới để trả nợ cũ, phải vay thêm để tiếp tục cho vay, và cho vay những con nợ ít khả năng hoàn trả. Tình trạng điên loạn này dĩ nhiên không thể kéo dài.
Bao giờ và phải như thế nào ?
Nhưng bao giờ nó phải chấm dứt ?
Cho tới nay nhiều chuyên gia đã dự đoán sự sụp đổ nhanh chóng của kinh tế Trung Quốc. Các dự đoán này đều hợp lý nhưng đã không thành sự thực vì ít nhất ba lý do :
Một là, các chuyên gia này đã phạm sai lầm là lý luận về Trung Quốc như là một nước trong khi Trung Quốc là một đế quốc và một đế quốc -hiểu theo nghĩa nhiều nước phục tùng một trung tâm- sụp đổ một cách khác, phức tạp hơn và lâu hơn.
Hai là, trong tình trạng của Trung Quốc hiện nay sự sụp đổ kinh tế có mọi triển vọng sẽ kéo theo cả sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự tan vỡ của Trung Quốc, chính quyền Bắc Kinh vì vậy phải tìm mọi cách để trì hoãn nó bằng mọi giá. Họ kháng cự tới cùng vì không còn gì để mất và để sợ.
Ba là, các ngân hàng và các quỹ đầu tư đã cho Trung Quốc vay quá nhiều tiền cho nên mắc kẹt và dù muốn hay không cũng vẫn bắt buộc phải tiếp tục cho Trung Quốc vay vì sự sụp đổ của kinh tế Trung Quốc rất có thể sẽ kéo theo sự khủng hoảng, thậm chí sự sụp đổ, của chính họ và do đó một khủng hoảng lớn cho thế giới.
Tuy vậy, vào lúc này, ta có thể nói là khủng hoảng kinh tế của Trung Quốc không còn xa vì những dấu hiệu chắc chắn của khủng hoảng đã rõ ràng và ngày càng nhiều. Khối nợ kinh hoàng của Trung Quốc là điều mà cả thế giới đã biết và chỉ có thể tăng lên chứ không thể giảm đi, dự trữ của Trung Quốc rất mỏng manh, thị trường chứng khoán của Trung Quốc liên tục xuống nhanh chóng dù ngân hàng trung ương phải không ngừng cứu trợ, lãi suất của các trái phiếu Trung Quốc đã vượt quá 3% và còn đang tiếp tục lên. Các tin xấu đến hầu như hàng tuần.
Chúng ta không biết ngày nào nhưng chúng ta có thể biết khi nào Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế. Đó là lúc Trung Quốc không còn vay nợ được nữa và lúc đó không còn xa bởi vì các cơ quan giám định, như Moody's, đã đánh giá các món nợ Trung Quốc là rủi ro. Lãi suất các trái phiếu Trung Quốc hiện nay đã ở mức 3,2%. Nó sẽ tiếp tục tăng lên ngày càng nhanh và khi nó đạt tới mức 6% hay 7% thì không còn quỹ đầu tư nào dám chối bỏ sự thực để tiếp tục cho Trung Quốc vay nữa ; lúc đó kinh tế Trung Quốc sẽ sụp đổ với những hậu quả rất nghiêm trọng cho Trung Quốc và cho cả thế giới nếu sự sụp đổ đến một cách đột ngột.
Tháng trước tôi có nói chuyện với hai người bạn chuyên gia cao cấp. Chúng tôi chia sẻ cùng một phân tích về tình hình Trung Quốc, kể cả nhận định rằng kinh tế Trung Quốc sẽ sụp đổ vì những sai lầm của chính nó chứ hoàn toàn không phải vì cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ. Nhưng khi tôi nói rằng Trung Quốc có thể lâm vào khủng hoảng trong vòng hai năm nữa thì họ dè dặt. Theo họ kinh tế Trung Quốc đáng lẽ đã phải khủng hoảng lâu rồi nhưng nó vẫn còn đứng được chừng nào vẫn còn nhiều định chế tín dụng, dù tự nguyện hay miễn cưỡng, tiếp tục cho Trung Quốc vay và những định chế này vẫn còn khá nhiều.
Năm 2013, khi chính thức lên làm tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc kiêm chủ tịch nước, Tập Cận Bình đã long trọng công bố "Sáng kiến Một vành đai Một con đường".
Tập Cận Bình được bầu làm phó chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa từ đầu năm 2008 để chuẩn bị thay thế Hồ Cẩm Đào. Như vậy ông đã có vai trò quyết định trong chính sách kinh tế ngay khi cuộc khủng hoảng 2008 nổ ra. Năm 2013 khi chính thức lên làm tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc kiêm chủ tịch nước ông đã long trọng công bố "Sáng kiến Một vành đai Một con đường". Năm 2017 cũng ông đặt cho nó một tên mới : "Vành đai và Con đường". Ông có thể được coi như là cha đẻ của chính sách kinh tế của Trung Quốc trong hơn mười năm qua, một chính sách nhắm trước hết cứu nguy đảng và chế độ cộng sản Trung Quốc. Chính vì thế mà ông đã được Đảng Cộng Sản Trung Quốc dành cho mọi vinh dự và quyền lực. Tuy vậy có mọi triển vọng chính sách này sẽ làm kinh tế Trung Quốc sụp đổ, làm chấn động thế giới, làm sụp đổ chế độ cộng sản và làm Trung Quốc sau đó tan vỡ làm nhiều khối. Có triển vọng cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra ngay trong nhiệm kỳ thứ hai này của ông. Tại sao không ai tranh giành quyền lực với ông ? Có thể vì không ai muốn chịu trách nhiệm về một thảm bại chắc chắn sẽ đến.
Người ta có lý do chính đáng để ghét chế độ cộng sản Trung Quốc và mong nó sụp đổ nhưng không phải vì thế mà mong nó sụp đổ ngay tức khắc. Đừng quên là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 đã nổ ra khi ngân hàng đầu tư Lehman Brothers phá sản. Lần này một sự phá sản đột ngột của kinh tế Trung Quốc sẽ kéo theo sự phá sản không chỉ của một mà nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư lớn. Chấn động sẽ dữ dội gấp nhiều lần và không chỉ nhân dân Trung Quốc khốn khổ mà nhiều nước, kể cả Việt Nam, cũng sẽ phá sản theo với những bi kịch không lường được.
Khủng hoảng của kinh tế sắp tới của Trung Quốc vì thế phải được chuẩn bị và quản lý với tất cả thận trọng. Giải pháp đương nhiên là phải để các công ty quốc doanh Trung Quốc lần lượt phá sản theo một nhịp độ mà các định chế đầu tư có thể tiêu hóa được. Muốn như thế thì không thể đột ngột ngừng cho vay hàng loạt các công ty lớn của Trung Quốc. Chắc chắn thế giới đã rút được bài học Lehman Brothers.
Ảnh hưởng đến Việt Nam sẽ như thế nào ?
Nếu như thế thì ảnh hưởng đến Việt Nam sẽ không quá nghiêm trọng. Các đế quốc khác với các quốc gia ở chỗ chúng không hung hăng gây hấn với nước ngoài khi bị khủng hoảng nội bộ. Chúng ta sẽ không sợ những hành động liều lĩnh của Trung Quốc, kể cả trên Biển Đông. Tuy vậy cuộc khủng hoảng sắp tới tại Trung Quốc sẽ rất lớn và Việt Nam sẽ như sống bên cạnh một núi lửa đang phun trong một thời gian dài. Việt Nam cần những người lãnh đạo có kiến thức và tầm nhìn để tránh những tai họa đáng lẽ có thể tránh được. Cho đến nay những người kế tiếp nhau lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đều không chứng tỏ khả năng đó.
Một bằng chứng là họ rập khuôn theo Trung Quốc mà không nhìn thấy sự khác biệt căn bản giữa hai nước. Việt Nam có thể chuyển hóa về dân chủ mà vẫn nguyên vẹn với cùng một lãnh thổ và dân số trong khi đó không phải là trường hợp của Trung Quốc.
Nguyễn Gia Kiểng
(12/12/2018)
-----------------
(1) Trung Quốc 2018 - 1 : Sau mười năm thách đố
(2) Trung Quốc 2018 - 2 : Cuộc phiêu lưu lịch sử Vành Đai và Con Đường
II. Cuộc phiêu lưu lịch sử 'Vành Đai và Con Đường'
Số phận của "Sáng kiến Vành đai và Con đường" cũng là số phận của chế độ cộng sản Trung Quốc. Tập Cận Bình đã được tôn vinh vì ông đã vẽ ra một tương lai huy hoàng trong một tình trạng tuyệt vọng. Người ta tin ông vì người ta cần và muốn tin. Người ta thần thánh hóa ông vì người ta cần một phép mầu. Nhưng Vành đai và Con đường không thể tiếp tục, chưa nói thành công, vì nó là một thách đố đối với sự thực và lý trí.
Cuộc chinh phục của Thành Cát Tư Hãn đã diễn ra trong hoàn cảnh Trung Quốc không chủ động mà chỉ là nạn nhân.
Trung Quốc đã từng là đế quốc chế ngự Châu Á trong hơn 2000 năm và vẫn là nước đông dân nhất thế giới. Tuy vậy một đặc tính của Trung Quốc trong suốt dòng lịch sử là nó chưa bao giờ có tham vọng bành trướng ra khỏi vùng Đông Á. Cuộc chinh phục của Thành Cát Tư Hãn đã diễn ra trong hoàn cảnh Trung Quốc không chủ động mà chỉ là nạn nhân. Đặc tính này đang chấm dứt ngay trước mắt chúng ta với dự án khổng lồ được gọi là "Sáng kiến Vành Đai và Con Đường" (Belt and Road Initiative).
Trong một cố gắng thoát hiểm
Dự án này, cho tới gần đây vẫn còn được gọi là "Một vành đai, một con đường" được dự trù hoàn tất vào năm 2049, đánh dấu 100 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và sẽ đưa Trung Quốc lên ngôi vị cường quốc số 1 và vượt trội nhất thế giới với trọng lượng kinh tế lớn hơn cả Mỹ, Châu Âu và Nhật cộng lại. Nó được coi là sáng kiến vĩ đại của Tập Cận Bình và đã khiến ông được tôn vinh làm chủ tịch vô thời hạn của Trung Quốc và được đưa tên vào hiến pháp như Mao Trạch Đông. Tuy vậy người ta có lý do để nghĩ rằng "sáng kiến" này không thể hiện một viễn kiến mà chỉ do hoàn cảnh đưa đẩy để dần dần biến thành một cuộc chạy trốn bắt buộc về phía trước và không còn kiểm soát được nữa.
Sáng kiến này trước hết nằm trong khuôn khổ của cố gắng thoát hiểm của Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã hốt hoảng. Thủ tướng Trung Quốc lúc đó là ông Ôn Gia Bảo đã tuyên bố rằng nếu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thụt xuống dưới mức 8% thì Trung Quốc sẽ lâm vào bạo loạn. Lời tuyên bố này tương đương với một lời thú nhận tình trạng tuyệt vọng -bởi vì tăng trưởng 8% là một mục tiêu không thể thực hiện được trong một bối cảnh suy thoái toàn cầu và như thế Trung Quốc sẽ có bạo loạn- nhưng nó chắc chắn không phải là ý kiến cá nhân của ông Ôn Gia Bảo, bởi vì sau đó không có cấp lãnh đạo Trung Quốc nào phát biểu khác, trái lại mọi cố gắng của chính quyền Trung Quốc đều phản ánh mối lo sợ của ông.
Trước hết là nỗ lực phát triển nhanh chóng thị trường nội địa để bù lại sự sút giảm của hoạt động xuất khẩu. Lương công nhân nói chung được tăng gấp đôi trong vòng khoảng hai năm. Biện pháp này không thành công mà còn có tác dụng ngược lại với sự chờ đợi. Tiêu thụ nội địa không tăng bao nhiêu vì người Trung Quốc chủ yếu dùng số thu nhập mới để cất giữ phòng hờ khi đau ốm, nỗi ám ảnh thường trực của họ vì Trung Quốc không có bảo hiểm an sinh xã hội. Việc tăng lương công nhân đã chỉ khiến giá thành của hàng xuất khẩu tăng lên và khó bán. Một số công ty nước ngoài sau đó đã di chuyển sang các nước khác trong vùng như Bangladesh, Myanmar, Thái Lan và cả Việt Nam.
Mùa hè 2015 thị trường chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến đã sụp đổ khiến một phần quan trọng của giai cấp trung lưu phá sản.
Một sáng kiến khác được tung ra năm 2014 là dựa trên hình ảnh của Trung Quốc như là một thị trường có tiềm năng lớn và còn nhiều dự trữ ngoại tệ -vì còn cho Mỹ và Châu Âu vay trên 3.000 tỷ USD- để biến Thượng Hải thành một trong những trung tâm tài chính lớn, tương đương với New York hay ít nhất với London và Tokyo. Hy vọng của chính quyền Trung Quốc là như thế họ sẽ dễ huy động các nguồn vốn quốc tế. Người dân Trung Quốc, đặc biệt là giai cấp trung lưu, được hô hào dồn tiền mua cổ phần. Trong vòng không đầy một năm số vốn cũng như số người đầu tư vào thị trường chứng khoán Thượng Hải tăng gấp hơn mười lần. Chỉ số CSI 300 cũng tăng cũng tăng gần 100%. Người Trung Quốc đổ xô đi mua cổ phiếu, thị trường chứng khoán Thượng Hải gần như trở thành một sòng bài. Sáng kiến này sau không đầy hai năm đã trở thành một tai họa vì mùa hè 2015 thị trường chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến đã sụp đổ khiến một phần quan trọng của giai cấp trung lưu phá sản. Thị trường chứng khoán Trung Quốc sau đó đã liên tục suy sụp mặc dù chính quyền Bắc Kinh không ngừng can thiệp một cách rất tốn kém để cứu vãn. Từ đầu năm nay –cho đến khi tôi viết những dòng này- thị trường chứng khoán Thượng Hải đã xuống hơn 22%, Thẩm Quyến gần 30% (trong khi các thị trường chứng khoán Châu Âu xuống khoảng 5 tới 10%, Mỹ quân bình, Nhật xuống ít, riêng Ân Độ tiếp tục lên). Vấn đề phục hồi thị trường chứng khoán để làm dụng cụ động viên vốn hoàn toàn không đặt ra nữa nhưng các ngân hàng của nhà nước vẫn phải liên tục dồn tiền để tránh sự sụp đổ của thị trường chứng khoán kéo theo sự sụp đổ của cả nền kinh tế. Thất bại đã rất đau đớn.
Biện pháp kinh tế đã giúp Bắc Kinh giữ được mức độ tăng trưởng giả tạo cao là xây dựng. Kinh tế Trung Quốc là kinh tế chỉ huy và các tỉnh nhận được lệnh của trung ương là phải duy trì mức tăng trưởng 8% bằng mọi giá. Giải pháp khả thi duy nhất đối với họ là xây dựng. Xây dựng không đòi hỏi kỹ thuật cao và lại có tác dụng lôi kéo vô số hoạt động khác. Họ đã xây dựng tới tấp và vẫn còn tiếp tục xây dựng cho tới nay dù đã xây hàng trăm thành phố không người ở. Một nghiên cứu cho thấy là vào đầu năm 2017 số căn hộ (apartment) không người ở đã lên tới 64 triệu. Giờ này chắc phải trên 70 triệu. Trị giá các căn hộ này dĩ nhiên được tính vào tổng sản lượng quốc gia và khiến tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc không xuống nhiều so với trước năm 2008, mới đầu ở mức 8%, sau đó dần dần xuống 7% và bây giờ 6,5%. Điều mà mọi người đều có thể nhận thấy là kinh tế Trung Quốc luôn luôn "đạt chỉ tiêu". Lý do dễ hiểu là các cao ốc và các căn hộ được đánh giá một cách tùy tiện. Trên thực tế các căn hộ này có mọi triển vọng sẽ không bao giờ bán được và sẽ hư dần, như thế chúng không có một giá trị nào cả. Trị giá trung bình của mỗi căn hộ là 100.000 USD, trị giá của 70 triệu căn hộ không người mua như vậy vào khoảng 7.000 tỷ USD. Nếu trừ ra số tiền này khỏi GDP thì kinh tế Trung Quốc không tăng trưởng mà còn suy thoái nặng. Trung Quốc đã và vẫn còn đang trả giá rất đắt để giữ một tỷ lệ tăng trưởng giả tạo.
Biện pháp kinh tế đã giúp Bắc Kinh giữ được mức độ tăng trưởng giả tạo cao là xây dựng.
Cũng không phải chỉ có thế. Các thành phố ma không chỉ là những tốn kém vô ích mà còn làm mất đi nhiều vùng đất phì nhiêu lớn trong khi đất canh tác được của Trung Quốc ngày càng hiếm. Cũng nên nhắc lại rằng Trung Quốc tuy có diện tích 10 triệu km2 nhưng hơn một tỷ người sống chen chúc trên một phần đất được coi là cái nôi lịch sử của Trung Quốc ở phía Đông không tới 2 triệu km2 và phần lớn các thành phố ma mọc lên tại vùng này. Một thí dụ là tại Quảng Đông, nơi 115 triệu người sống trên 180.000 km2, có hai thành phố ma rất lớn, Đông Quản dự trù cho 10 triệu người và Đại Á Vịnh dự trù đón 12 triệu người nhưng sau sáu năm hơn 70% các căn hộ vẫn chưa có người mua và còn bỏ trống. Trung tâm Thương mại Nam Á (The South China Mall) tại Đông Quản được xây lên với tham vọng sẽ là trung tâm thương mại lớn nhất thế giới bây giờ trống trơn, nhắc nhở một mộng lớn không thành.
Trung Quốc không chỉ xây nhà và các thành phố, họ còn xây đủ loại công trình kết cấu hạ tầng : xa lộ, đường sắt, cầu, kênh đào, đường ống dẫn dầu khí (pipeline), phi trường, hải cảng v.v. Họ xây ở bất cứ nơi nào có thể xây, kể cả những nơi không nên xây như khu thắng cảnh Thạch Lâm mà tôi đã nói tới trong một bài trước (1). Trung Quốc không chỉ có những thành phố ma mà còn có xa lộ vắng và những tuyến đường sắt chỉ có một chuyến tầu mỗi ngày, thậm chí mỗi tuần (2). Một thí dụ mà tôi biết được trong chuyến thăm viếng Trung Quốc vừa qua là tuyến đường bộ dài 2000 km từ Shangri-La tới Lhassa không còn được sử dụng nữa dù mới hoàn thành gần đây.
Các thành phố ma không chỉ là những tốn kém vô ích mà còn làm mất đi nhiều vùng đất phì nhiêu lớn trong khi đất canh tác được của Trung Quốc ngày càng hiếm.
Để trả lời những thắc mắc ngày càng khó bỏ ngoài tai chính quyền Bắc Kinh nói rằng họ đang xây dựng cho ngày mai. Nhưng ngày mai nào vì phần lớn các thành phố, căn hộ và đường xá trống và do đó không được bảo trì này sẽ hư hỏng trong tương lai gần ? Trên đường từ Côn Minh tới Đại Lý tôi đã thấy một khu đất rộng trên đó có hàng trăm xe cần trục cao vút giống như những con sếu khổng lồ đứng yên. Hỏi ra thì được biết chúng không thể sử dụng được nữa vì không còn chỗ nào để xây. Một sự thực không thể chối cãi là Trung Quốc đã tốn rất nhiều tiền cho những công trình xây dựng không chỉ vô ích mà còn cướp đi tài nguyên ngày càng quý hiếm : đất.
Nhưng tại sao ? Cho tới nay giải thích thông thường vẫn là đã có sai lầm về ước tính nhu cầu trong kế hoạch, nhưng tại sao có thể sai lầm quá đáng như vậy ? Thăm viếng Trung Quốc lần này tôi nghĩ còn có một lý do khác : an ninh. Nhìn các toán cảnh sát võ trang hiện diện khắp nơi trong tư thế sẵn sàng can thiệp tôi chợt nhớ lại lời ông Ôn Gia Bảo là tăng trưởng kinh tế chậm lại chắc chắn sẽ đưa tới bạo loạn. Đó là nỗi ám ảnh của ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc khi kinh tế khựng lại và khuynh hướng ly khai mạnh lên. Họ cần xây đường, đường sắt cũng như đường bộ, để có thể điều động nhanh chóng đến bất cứ nơi nào một lực lượng vũ trang đủ mạnh để dập tắt mọi cuộc nổi dậy. Lo ngại về an ninh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thể hiện qua một sự kiện mà ít nhà báo nào để ý, đó là công an Trung Quốc hoàn toàn thuộc trung ương, ngay cả các tỉnh và các khu tự trị cũng không có quyền có công an riêng, chưa nói quân đội địa phương. Khuynh hướng ly khai có thật tại Trung Quốc, nó nổi bật tại Tây Tạng và Tân Cương nhưng cũng có ngay cả tại Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên và các tỉnh phía Tây nói chung. Điểm nổi bật của Trung Quốc hiện nay mà các quan sát viên đều đồng ý là trong giai đoạn phát triển ồ ạt các tỉnh được lợi nhất đã là các tỉnh phía Đông giáp bờ biển, thuộc vùng được coi là cái nôi của Hán tộc. Nói chung hiện nay các tỉnh phía Đông giầu gấp ba lần các tỉnh phía Tây (hay các tỉnh phía Tây nghèo gấp ba lần các tỉnh phía Đông).
Họ cần xây đường, đường sắt cũng như đường bộ, để có thể điều động nhanh chóng đến bất cứ nơi nào một lực lượng vũ trang đủ mạnh để dập tắt mọi cuộc nổi dậy - Ảnh minh họa trục xa lộ không có xe chạy
Chính sách xây dựng ồ ạt này như vậy nhắm hai mục tiêu, duy trì mức tăng trưởng giả tạo và kiểm soát các tỉnh miền Tây nơi sự chênh lệch giầu nghèo Đông Tây đang nuôi dưỡng khuynh hướng ly khai. Các cuộc tấn công của các nhóm "chống Hán" thường xuyên xảy ra tại Tân Cương, chính quyền Trung Quốc đã giam giữ hàng triệu người trong tỉnh 21 triệu dân này. Tại nhà ga Côn Minh đầu năm 2014 một nhóm khủng bố đã dùng dao đâm chết hơn 30 người. Việc xây dựng các đường giao thông dĩ nhiên có tác dụng phát triển các tỉnh phía Tây nhưng khi tới đây người ta nhận ra là chúng cũng đáp ứng nhu cầu quân sự. Phi trường Lhassa, thủ đô Tây Tạng, chỉ có một hay hai chuyến bay dân sự mỗi ngày nhưng đầy rẫy phi cơ chiến đấu và xe tăng. Và chính vì nhu cầu an ninh được coi là khẩn cấp sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, như lời ông Ôn Gia Bảo, nên chúng đã được xây dựng một cách dồn dập. Kết quả là sau đó Trung Quốc có một lực lượng xây dựng, trang thiết bị cũng như công nhân, quá dư thừa so với nhu cầu, và họ phải tìm cách sử dụng. Đó chính là nguyên nhân của "sáng kiến" Vành đai và Con đường.
Một vành đai, Một con đường
Tháng 9/2013 trong một bài diễn văn tại Kazakhstan ông Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc sẵn sàng hợp tác xây dựng một con Đường Tơ Lụa Mới nối liền Trung Quốc và Châu Âu. Một tháng sau, tại Indonesia ông kêu gọi hợp tác xây dựng các hải cảng cho một con đường biển nối liền các tỉnh bờ biển Trung Quốc và Địa Trung Hải thông qua Châu Phi. Hai bài diễn văn này được coi là đã chính thức khai sinh ra "Sáng kiến Một vành đai, Một con đường". Vành đai trên đất liền, con đường trên biển. Vành đai gồm bốn hành lang giữa Trung Quốc và Châu Âu và một hành lang ASEAN từ Côn Minh qua Lào, Campuchia, Malaysia tới Singapore ; mỗi hành lang bao gồm xa lộ, đường sắt, đường ống dẫn dầu khí và cả các nhà máy. Con đường là đường biển nối liền các hải cảng.
Dự án khổng lồ được gọi là "Sáng kiến Vành Đai và Con Đường" (Belt and Road Initiative).
Thực ra hai bài diễn văn của Tập Cận Bình chỉ đặt một tên gọi chung cho rất nhiều công trình xây lắp đủ loại đã được xúc tiến rất mạnh mẽ từ trước, ít nhất từ năm 2010, khi Trung Quốc thấy phải tìm mọi cách để sử dụng khả năng xây dựng quá dư thừa so với nhu cầu trong nước mà họ đã tạo ra để thoát hiểm trong cơn hốt hoảng 2008. Các công ty xây lắp Trung Quốc đấu thầu các công trình đủ loại –xa lộ, đường sắt, hải cảng, cầu, đường ống dẫn dầu khí, phi trường, nhà máy v.v.- ở khắp mọi nước, dĩ nhiên kể cả Việt Nam, với những điều kiện vừa dễ dãi vừa thuận lợi. Dễ dãi vì giá thấp hơn hẳn so với các công ty khác trên thế giới, thuận lợi vì Ngân Hàng Ngoại Thương Trung Quốc sẵn sàng cho vay chi phí xây dựng với lãi suất rất thấp hoặc không lấy lãi.
Một điều quan trọng cần được lưu ý là cũng vào lúc đó Trung Quốc nhận ra là phải gỡ bỏ dần thay vì thành lập thêm các nhà máy nhiệt điện, thép, giấy, phân bón chạy bằng than. Họ bán với giá gần như cho không các thiết bị dự trù cho các nhà máy sắp thành lập nhưng sẽ không thành lập nữa và còn đề nghị đảm nhiệm việc xây dựng với giá đặc biệt hấp dẫn. Nhiều nước, trong đó có Việt Nam, đã trở thành những bãi rác công nghiệp của Trung Quốc. Tập Cận Bình chỉ mở ra giai đoạn thứ hai của một chính sách tháo chạy hốt hoảng về phía trước, đã có từ ít nhất ba năm.
Vành đai và Con đường
Đầu năm 2017 một hội nghị quốc tế mới được triệu tập ở Bắc Kinh và lần này toàn thể những công trình này được trình bày như một chương trình hợp tác toàn cầu và được gọi bằng một tên mới : "Sáng kiến Vành đai và Con đường". Đức, Anh, Pháp và Mỹ tuyên bố không ủng hộ vì "sáng kiến" này không rõ rệt về nhân quyền và môi trường nhưng 68 quốc gia khác đã tuyên bố hưởng ứng. Hiện nay, sau hơn một năm, không còn ai có thể phân biệt những quốc gia nào và những dự án nào nằm trong khuôn khổ của sáng kiến Vành đai và Con đường. Nó trở thành tên gọi chung của toàn bộ các công trình xây dựng và lắp ráp đủ loại trong đó Trung Quốc giữ vai trò chủ động, kể cả tại Nam Mỹ.
Không thể liệt kê hết những công trình này vì chúng quá nhiều, hơn 8.000 hợp đồng đã được ký kết, người ta chỉ có thể nhận xét vài nét chính của nó.
Thứ nhất là Trung Quốc tài trợ gần như hoàn toàn các dự án này và không đặt bất cứ một điều kiện nào về bản chất cũng như phẩm chất của các chính quyền. Trung Quốc hợp tác với bất cứ chính quyền nào chấp nhận hợp tác với họ, dù là một chính quyền tham nhũng, quân phiệt, bạo ngược.
Thứ hai là chính quyền Trung Quốc trong tuyệt đại đa số các trường hợp không trực tiếp ký các hợp đồng. Đối tác của các quốc gia là các công ty quốc doanh Trung Quốc. Các công ty này cho vay vốn đầu tư và điều động công nhân của mình tới nơi cùng với các trang thiết bị và vật liệu cần thiết để thực hiện.
Thứ ba là để đổi lại với những dễ dãi, Trung Quốc đòi một điều kiện là trong trường hợp có tranh tụng các tòa án Trung Quốc sẽ phán quyết. Trung Quốc như vậy vừa là đối tác vừa là trọng tài.
Trong số những dự án được nói tới nhiều nhất người ta có thể kể tuyến đường sắt 12.000 km nối liền Nghĩa Ô (Yiwu) thuộc tỉnh Chiết Giang với London (trong đó Trung Quốc chỉ xây những đoạn đường mới để bổ túc cho những đoạn đường có sẵn), xa lộ nối liền thủ đô Nairobi và cảng Mombassa tại Kenya, nhà máy nhiệt điện chạy bằng than tại Bostwana, tuyến đường sắt 62 tỷ USD từ Khách Thập (Kashgar, Tân Cương) tới cảng Gwadar (Pakistan), đường ống dẫn dầu khí từ Turmenistan tới Thượng Hải, đường sắt xuyên Lào, Đập Diam - Basha tại Pakistan, cảng Hambantota tại Sri Lanka, chiếc cầu dài trên quần đảo Malidives, hay xa lộ Montenegro. Những dự án này được nói tới nhiều vì những sự cố chứ không phải vì chúng quan trọng hơn những dự án khác.
Thí dụ như cảng Hambantota sau khi hoàn tất không có tầu buôn nào ghé, do đó không có lợi tức để trả nợ, cuối cùng phải nhường cho Trung Quốc quyền khai thác trong 99 năm. Cảng Gwadar cũng trong trường hợp tương tự và phải nhường cho Trung Quốc trong 40 năm (Trung Quốc cũng đang đề nghị một giải pháp tương tự với cảng Kyauk Pyi với chi phí xây dựng 7,2 tỷ USD của Myanmar). Xa lộ Montenegro được xây bất chấp các kết luận của các nghiên cứu theo đó nước Montenegro hoàn toàn không cần xa lộ dài 100 km này, một xa lộ hơn nữa rất tốn kém vì phần lớn là những cầu bắt ngang các đỉnh núi cao. Trị giá dự trù của xa lộ là 950 triệu USD nhưng bây giờ số tiền này đã dùng hết và còn cần thêm 1.200 triệu USD. Montenegro là một nước rất nhỏ, chỉ có 630.000 dân và đã nợ gần 100% GDP rồi. Chắc chắn không ai cho vay nữa trừ Trung Quốc. Để được gì ?
Chiếc cầu 225 triệu USD trên quần đảo Maldives còn khó tưởng tượng hơn. Nó không có ngay cả lý do hiện hữu. Maldives (300 km2, 400.000 dân) là một nước Hồi giáo dữ tợn trong đó một thiếu nữ chưa có chồng mà có người yêu có thể bị đánh 100 hèo, trẻ con 10 tuổi phải chịu trách nhiệm về hành động của mình trước tòa và chịu án tù. Maldives hoàn toàn không có tương lai vì trong vòng 60 năm nữa sẽ chìm dưới mặt nước biển và người Maldives sẽ phải di tản đi nơi khác. Chiếc cầu này còn công dụng gì ? Điều chắc chắn là Maldives sẽ không bao giờ trả được món nợ 225 triệu USD cho Trung Quốc. Vậy Trung Quốc xây cầu này để làm gì ? Các quan sát viên đều đồng ý rằng Trung Quốc sẽ đòi chính quyền Maldives nhượng dài hạn quyền sử dụng chiếc cầu này rồi biến nó thành một đảo nhân tạo khi cả quần đảo đã chìm.
Chiếc cầu 225 triệu USD trên quần đảo Maldives
Nhà máy nhiệt điện chạy bằng than tại Botswana đã tốn 950 triệu USD của quốc gia chỉ có 2,2 triệu dân này nhưng ngay sau khi đưa vào hoạt động đã phát nổ. Chính quyền Botswana đề nghị trả 800 triệu USD cho hai công ty Nhật và Hàn Quốc để sửa chữa và nâng cấp nhà máy này nhưng các công ty này sau cùng đã từ chối.
Kết quả nào ?
"Sáng kiến Vành đai và Con đường" được báo chí Trung Quốc tưng bừng ca tụng như một dự án vĩ đại sẽ đưa Trung Quốc lên dài vinh quang của cường quốc số 1 và vượt trội. Điều mà mọi người đều phải đồng ý, vì quá hiển nhiên, là thế giới đang chứng kiến một dự án lớn nhất từ xưa đến nay, lớn gấp nhiều lần Vạn Lý Trường Thành và các kim tự tháp Ai Cập. Để có một ý niệm về tầm vóc của sáng kiến này nên biết là Trung Quốc đã sử dụng trong vòng ba năm từ 2011 đến 2013 một khối lượng bê tông lớn gấp rưỡi khối lượng bê tông mà Hoa Kỳ đã sử dụng trong suốt thế kỷ 20. Đây đang là diễn biến quan trọng và cần theo dõi nhất hiện nay vì sẽ quyết định tương lai của chế độ cộng sản Trung Quốc và sẽ có ảnh hưởng lớn lên toàn thế giới, trước hết là Châu Á và đặc biệt là Việt Nam.
Trung Quốc và những người bênh vực nó nói rằng Vành đai và Con đường là một sáng kiến hòa bình sẽ đem phúc lợi lại cho toàn thế giới, giúp các quốc gia chậm tiến vươn lên và đưa hàng tỷ người ra khỏi cảnh nghèo đói. Họ không hoàn toàn sai vì quả nhiên sáng kiến này đã giúp cải thiện một cách đáng kể, nhiều khi ngoạn mục, hạ tầng cơ sở của nhiều quốc gia kém mở mang, như tại Châu Phi.
Tuy vậy hầu hết các nhà nghiên cứu và các quan sát viên lại cho rằng mục tiêu của Trung Quốc chỉ giản dị là muốn gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới. Họ có lý bởi vì một mặt Trung Quốc chỉ nhắm xây dựng những công trình chiến lược chứ không hề quan tâm tới nước uống, nhà thương, trường học và mặt khác đã hợp tác ngay cả với những chính quyền rất tham nhũng và hung bạo, không những thế còn sử dụng tham nhũng và móc ngoặc để mua chuộc chúng. Cũng phải lưu ý một sự gian trá của Trung Quốc -và tất cả các chế độ độc tài- là khi nói đến hạ tầng cơ sở -hay kết cấu hạ tầng- họ chỉ nói đến những xây dựng vật chất như xa lộ, đường sắt, phi trường, hải cảng v.v. mà cố tình quên hai yếu tố của hạ tầng cơ sở quan trọng hơn nhiều là thể chế chính trị và con người.
Điều chắc chắn là Trung Quốc không phát động chương trình này vì lòng tốt. Như đã nói ở phần trên họ đã đẩy mạnh ngành xây dựng để thoát hiểm sau cuộc khủng hoảng 2008, rồi sau đó không xuống khỏi lưng cọp được nữa. Bành trướng thế lực thực ra chỉ là ước mơ sau khi đã bị bắt buộc phải lao vào một cuộc phiêu lưu hiểm nghèo mà bình thường chắc chắn họ không chọn.
Vậy sáng kiến Vành đai và Con đường đã đem lại cho họ những kết quả nào ?
Trung Quốc đã thành công lớn về mặt chiến lược. Các hành lang mở sang Châu Âu và sang Ấn Độ Dương (thí dụ như cảng Gwadar tại Pakistan và cảng Kyauk Pyi tại Myanmar) nếu tiếp tục được khai thác sẽ giúp Trung Quốc ra khỏi thế bị bao vây hiện nay trong đó phần lớn tiếp vận phải qua ngả Thái Bình Dương hoàn toàn do Mỹ và đồng minh khống chế. Ngoài ra sáng kiến này cũng đã khiến Trung Quốc trở thành nước có khả năng xây dựng vượt hẳn mọi quốc gia khác. Hiện nay bẩy trong số mười công ty xây dựng lớn nhất thế giới là của Trung Quốc.
Một kết quả cụ thể thấy rõ là Trung Quốc gần như đã làm chủ hai nước Lào và Campuchia. Thủ đô Viêng Chăn đã gần như trở thành một thành phố Trung Quốc và một thành phố Viêng Chăn mới, lớn hơn, sắp xây xong. Kinh tế Lào hoàn toàn nằm trong tay người Trung Quốc. Nếu tình hình này tiếp tục thì trong mười năm nữa Lào sẽ là một tỉnh của Trung Quốc trên thực tế. Một căp vợ chồng người Campuchia vừa về thăm quê hương. Bà vợ, thuộc hoàng gia, nói với tôi rằng bà ấy hoàn toàn tuyệt vọng. Campuchia đã trở thành một thuộc địa của Trung Quốc. Riêng Sihanoukville đã trở thành một thành phố cờ bạc và mại dâm, đã có 30 casino và còn sắp có thêm 70 casino mới, các nhà chứa mọc nên như nấm, người Campuchia đang dần dần dời đi nơi khác. Các hãng xưởng hầu hết là của người Trung Quốc. Bà ấy nói một cách giận dữ trước sự im lặng chua xót của ông chồng : "Campuchia không còn là nước của chúng tôi nữa, mất rồi !". Với Lào và Campuchia trong tay, Trung Quốc gần như đã bao vây Việt Nam.
Campuchia và Lào là mô hình thu nhỏ của những gì đang diễn ra tại Châu Phi. Trung Quốc ồ ạt đấu thầu các công trình kết cấu hạ tầng và các công ty Trung Quốc sản xuất những sản phẩm kỹ thuật thấp như may mặc cũng ồ ạt di chuyển sang đây vì nhân công rẻ hơn tại Trung Quốc hai ba lần. Một số khai thác các mỏ. Đã có hơn 10.000 công ty đủ loại của người Trung Quốc tại các nước Châu Phi, trong đó 90% là các công ty tư doanh. Châu Phi cũng như Lào, Campuchia và, ở mức độ nào đó, Afghanistan và Myanmar đang là nguồn cung cấp nhân công rẻ cho hàng Trung Quốc, nghĩa là đảm nhiệm vai trò của Trung Quốc trước đây. Trong nhất thời sự can thiệp của Trung Quốc đã có lợi cho các quốc gia này, cải thiện một cách ngoạn mục kết cấu hạ tầng và nâng cao mức sống của rất nhiều người.
Kết quả không khả quan tại các nơi khác. Các dự án do Trung Quốc cho vay vốn và đấu thầu thực hiện thường có những đặc tính chung là thiếu phẩm chất, gây ô nhiễm nặng, chậm trễ trong tiến độ thi công và đội giá. Đường sắt Cát Linh – Hà Đông là một thí dụ điển hình : phẩm chất không đạt yêu cầu, dự trù hoàn tất trong bốn năm, sau hơn bẩy năm vẫn chưa xong, chi phí dự trù 552 triệu USD bị đội lên thành 892 USD. Vũng Áng và Ninh Bình là những kinh nghiệm đau thương khác. Đây không phải là một vài ngoại lệ mà là số phận chung của gần như tất cả các dự án do Trung Quốc đảm nhiệm ở mọi nơi và mọi nước, nhiều khi còn bi đát hơn. Dự án xa lộ Montenegro bị đội giá từ 950 triệu USD lên 2.150 triệu USD và vẫn còn dở dang, nhà máy nhiệt điện than tại Botswana mới đưa vào hoạt động đã phát nổ. Các nước chủ nhà không thể kiện bởi vì nếu kiện tranh tụng sẽ do tòa án Trung Quốc phán quyết và kết quả sẽ quá hiển nhiên. Họ đành chịu và khi họ không còn khả năng vay nợ thêm thì Trung Quốc sẵn sàng đề nghị chuyển nhượng quyền khai thác, nghĩa là nhường một phần chủ quyền quốc gia, cho mình trong 99 năm. Người ta có thể đặt câu hỏi tại sao các nước chủ nhà có thể khờ khạo đến như thế ? Lý do rất giản dị là Trung Quốc đã mua chuộc các cấp lãnh đạo tham nhũng.
Dầu vậy, bên bị thiệt hại nhất, nghĩa là nạn nhân chính của "sáng kiến Vành đai và Con đường", chính là Trung Quốc. Thiệt hại đầu tiên là cách thi công gian lận và bê bối song song với thái độ thường thiếu nhã nhặn của những người điều khiển công trường, chưa kể ý đồ thường trực là muốn chiếm đoạt chủ quyền, đã tạo ra một phong trào bài Hoa tại nhiều nước chủ nhà. Việt Nam là một thí dụ. Malaysia và Myanmar ngừng những hợp đồng đang tiến hành, và việc Malaysia ngừng hợp đồng có nghĩa là hành lang ASEAN không thành. Sự bất mãn và phẫn nộ xuất hiện ở mọi nước nơi người dân có ít nhiều tinh thần quốc gia. Cũng rất may cho Trung Quốc là giai đoạn 3, giai đoạn "tổng tiến công" của sáng kiến Vành đai và Con đường, được tung ra đầu năm 2017 trùng với thời điểm Donald Trump lên làm tổng thống Mỹ. Donald Trump đã gây hấn với cả thế giới, làm rã rượi liên minh giữa các nước dân chủ, làm quên lãng phần nào môi trường và nhân quyền và khiến Mỹ trở thành đáng ghét hơn Trung Quốc dưới mắt nhiều dân tộc. Tuy vậy hình ảnh Trung Quốc cũng vẫn bị thiệt hại nặng.
Thiệt hại thứ hai là về mặt tài chính. Trung Quốc đấu thầu và cho vay vốn để thực hiện các công trình, nhưng phần lớn, nếu chưa phải là tất cả, các nước vay vốn đều không có tiền và cũng không muốn trả nợ. Trung Quốc làm gì được họ ? Giải pháp duy nhất là đành chịu, Trung Quốc không thể tịch thu xa lộ ở Nam Phi hay Ethiopia để đem về nước !
Nhưng mất mát tài chính không dừng lại ở đó. Vành đai và Con đường cũng là cơ hội để tiền và tài sản đào thoát khỏi Trung Quốc. Bên cạnh những xa lộ, đường sắt và hải cảng là những doanh nhân Trung Quốc mang vốn ra nước ngoài. Trong năm 2015 một nghiên cứu không bị phản bác cho thấy là đã có ít nhất 450 tỷ USD đào thoát ra nước ngoài từ Trung Quốc dưới hình thức đầu tư. Phong trào đào thoát của vốn từ đó chỉ tăng thêm chứ không giảm đi. Đây là một mất mát cho Trung Quốc chứ không phải là một sự bành trướng lực lượng. Hiện đang có khoảng 9.000 công ty tư của doanh nhân Trung Quốc được thành lập tại Châu Phi, có bao nhiêu trong số 9.000 doanh nhân này sẽ còn tự coi là công dân Trung Quốc trong mười năm nữa ? Có mọi triển vọng là sẽ không còn ai. Họ cũng giống như các doanh nhân Trung Quốc đầu tư tại các nơi khác.
Tương lai nào ?
Trong bài diễn văn tại hội nghị thượng đỉnh APEC họp tại Papua New Guinea tuần trước –một bài diễn văn đánh dấu một thay đổi chính sách đối ngoại quan trọng của Hoa Kỳ- phó tổng thống Mỹ Mike Pence đã mỉa mai sáng kiến Vành đai và Con đường của Bắc Kinh là "vành đai trói buộc và con đường một chiều". Nhưng ai bị trói và một chiều nào ? Có lẽ không hẳn như ông Pence nghĩ.
Như đã nói, sáng kiến Vành đai và Con đường về bản chất là sự tiếp nối của cố gắng thoát hiểm của chế độ cộng sản Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng 2008, một sự tiếp nối bắt buộc và càng ngày càng trở nên bắt buộc hơn cho sự sống còn của chế độ. Bắc kinh không thể ngừng xây dựng vì ngành này đang, trực tiếp hoặc gián tiếp, nuôi sống hàng trăm triệu gia đình. Chính họ bị trói buộc, dù hầu như chỉ có chi ra chứ không có thu vào. Như vậy số phận của Vành đai và Con đường cũng là số phận của chế độ cộng sản Trung Quốc.
Tập Cận Bình đã được tôn vinh vì ông đã vẽ ra một tương lai huy hoàng trong một tình trạng tuyệt vọng. Người ta tin ông vì người ta cần và muốn tin. Người ta thần thánh hóa ông vì người ta cần một phép mầu. Nhưng Vành đai và Con đường không thể tiếp tục, chưa nói thành công, vì nó là một thách đố đối với sự thực và lý trí. Để thực hiện những công trình mà phần lớn sẽ mất không Trung Quốc đã vay tiền để trả nợ cũ và tiếp tục cho vay. Tình trạng này không thể tiếp tục lâu. Nó sẽ kết thúc khi Trung Quốc không còn vay được nữa. Trong cuộc thăm viếng Trung Quốc vừa qua tôi đã có thể thấy là không khí tưng bừng và phấn khởi đang nhường chỗ cho sự lo âu.
Khi nào ? Trung Quốc hiện đã nợ trên 30.000 tỷ USD -phần lớn là của các quỹ đầu tư- trong đó trên 25.000 tỷ USD là nợ của chính phủ và các công ty nhà nước, nghĩa là nợ nhà nước. Các định chế thẩm định đã bắt đầu hạ điểm tín nhiệm của Trung Quốc và tình trạng này sẽ gia tốc trong những ngày sắp tới. Hiện nay lãi suất của các công trái và các trái phiếu hai năm của các công ty của nhà nước Trung Quốc đã ở mức 3,2% (lãi suất của các công trái hai năm của Hoa Kỳ, Nhật và các nước Châu Âu chỉ vào khoảng 0,5% là cùng). Trung Quốc hiện đang phải vay nợ mới để trả nợ cũ và phải trả khoảng 1.000 tỷ USD tiền lãi mỗi năm.
Ngày đó sẽ không xa vì các quỹ đầu tư ngày càng đánh giá Trung Quốc không phải là một con nợ đáng tin.
Nguyễn Gia Kiểng
(27/11/2018)
Khi nhận định về Trung Quốc các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung Quốc là một thế giới hay một đế quốc – hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Quốc- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Quốc vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.
Cho đến nay thực trạng Trung Quốc đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.
Kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.
Kinh tế Trung Quốc hết thuốc chữa
Hãy nói ngay về lớp vải điều đó. Trong gần ba thập niên Trung Quốc đã gây kinh ngạc cho thế giới vì tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống 8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính thức của Trung Quốc dĩ nhiên là không chính xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Quốc đã tràn ngập các thị trường thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các cao ốc đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản Trung Quốc đầu tư vào mọi quốc gia, từ Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung Quốc tỏa rộng. Có những dự đoán theo đó Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ trong một tương lai gần. Nhưng rồi bắt đầu có những ngờ vực.
Con rồng kinh tế Trung Quốc còn phun châu khạc lửa được bao lâu khi những chỉ số thực sự về kinh tế và tài chính được phơi bày ?
Năm 2001 có cuốn sách The Coming Collapse of China (sự sụp đổ sắp tới của Trung Quốc) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè đã tóm lược cho tôi cuốn sách này ; nó sai vì phạm một trong hai sai lầm cơ bản đã được nói ở đầu bài này nghĩa là lý luận về Trung Quốc như một quốc gia. Dần dần quan điểm của các quan sát viên về Trung Quốc thay đổi hẳn. Mới đầu người ta tự hỏi liệu Trung Quốc có thể lâm vào khủng hoảng không ? Rồi Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào ? Và bây giờ câu hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ còn che đậy được tình trạng suy thoái bao lâu nữa và lúc đó tương lai Trung Quốc sẽ ra sao ?
Tất cả những đèn báo động đều đã đỏ rực. Nợ công của Trung Quốc được ước lượng bởi mọi định chế thẩm định (rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một cách nghiêm trọng. Nhưng con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì không bao gồm những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong xã hội Trung Quốc. Thí dụ như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lãi xuất ưu đãi rồi cho các công ty nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lãi xuất cao, hay phần lớn các chính quyền địa phương không khai đúng số nợ.
Kinh tế Trung Quốc dựa trên xuất khẩu nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng hoảng 2008. Trong năm 2014 vừa qua ngoại thương Trung Quốc đã sụt 11% (xuất khẩu giảm 3,3%, nhập khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn là 7,3%. Nhưng làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể tăng trưởng 7,3 % trong khi ngoại thương suy sụp ? Công ty tham vấn Lombard Street Research của Anh vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền Trung Quốc nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn cho biết tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn này cũng không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các công ty sản xuất rồi bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản xuất, và khi sản phẩm đã hư hỏng cũng không khai v.v.
Một chỉ số đo lường lòng tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán SSE của Trung Quốc lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày nay hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục hồi được mức độ của năm 2007, các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức 2007, nhưng chỉ số SSE của Trung Quốc vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000. Lòng tin vào tương lai của kinh tế Trung Quốc còn thể hiện qua một con số khác. Kết quả của một cuộc thăm dò của Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia Trung Quốc đã hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Quốc đang tháo chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ đang theo dõi sự kiện rất nhiều phụ nữ Trung Quốc giầu có sang Mỹ sinh đẻ để con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lại Trung Quốc tươi sáng tại sao những người được ưu đãi nhất lại bỏ đi ? Trong mọi tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài các doanh nhân Trung Quốc không còn giấu giếm nữa. Họ nói thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải sản xuất theo kế hoạch.
Nhưng kế hoạch nào ? Từ năm 2008 trong khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng thì Trung Quốc đã có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành xây dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu thì càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây giờ nó không còn giải pháp. Năm 2013 khi mới lên cầm quyền Tập Cận Bình ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lãi xuất và kiểm soát tín dụng. Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp -đúng trên nguyên tắc- này trước nguy cơ sụp đổ tức khắc ; không những thế chính quyền Bắc Kinh còn phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty. Sự kiện này chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không có thuốc chữa, sự sụp đổ chỉ còn là một vấn đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần vì ngay cả biện pháp bơm tiền cũng không còn hiệu quả nhất thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền mà không được, hiện nay đại đa số các công ty từ chối vay vì không biết dùng tiền để làm gì.
Một sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không cứu vãn được. Giải pháp tự nhiên khi mô hình hướng ngoại không còn theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó là điều Trung Quốc đã làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế Trung Quốc nguy ngập hơn. Từ năm 2010 Trung Quốc đã liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa không hề gia tăng vì người công nhân Trung Quốc chỉ dùng khoản lợi tức mới có để tiết kiệm, phòng hờ khi đau ốm. Tuy vậy biện pháp tăng lương công nhân này đã có tác dụng làm tăng giá thành và khiến hàng hóa Trung Quốc khó bán trên các thị trường thế giới. Sự sút giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. Trung Quốc hiện đã mất gần hết các thị trường tại Châu Âu.
Chừng nào kinh tế Trung Quốc sẽ thực sự sụp đổ ? Câu trả lời là : khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng họ có sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung Quốc "có sụp cũng còn lâu" chủ yếu là ở chỗ Trung Quốc vẫn còn khoảng 2.000 tỷ USD công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ EUR công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù số tiền này chẳng là bao so với số nợ công của Trung Quốc –ít nhất 30.000 tỷ USD- nhưng nó đem lại ảo tưởng là Trung Quốc vẫn còn giầu có vì vẫn còn tiền cho Mỹ và Châu Âu vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng là họ sẽ tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển nhiên đối với mọi người.
Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt
Nhưng kinh tế suy thoái không phải mối nguy lớn nhất của Trung Quốc. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không khí tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn thở được nữa ; nước vừa rất thiếu vừa nhiễm độc.
80% nguồn nước ở Trung Quốc bị ô nhiễm - Ảnh Daxue Conseil
Một nghiên cứu phối hợp của bốn trường đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Thanh Hoa (Trung Quốc) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh khủng : tuổi thọ trung bình của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía Bắc đã giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi trường ô nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên báo China Daily, tờ báo tiếng Anh của chính quyền Trung Quốc, một nghiên cứu theo đó gần một nửa số sông của Trung Quốc đã hết nước.
Tháng 3-2013 một nghiên cứu công phu -từ năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và Viện Quốc Gia Thống Kê của chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ : Trung Quốc chỉ còn 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã biến mất. Mỗi con sông còn lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km vuông. Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến 2012 tình trạng thiếu nước đã xấu đi nhiều thay vì được cải thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400 thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ lòng đất lên. Kết luận của nghiên cứu này là thay vì gia tăng cung cấp nước từ nay chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân chúng tiết kiệm nước. Tình trạng xuống cấp nguy ngập của môi trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do chính sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trường.
Cần lưu ý là bảo vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn "sẻ núi lấp sông". Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.
Một xe đổ rác của sở rác thị xã thản nhiên đổ rác xuống sông Nộ Giang - Ảnh Nguyễn Gia Kiểng
Vài năm trước tôi đọc một bài phóng sự trên báo Le Monde nói về một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang, nghĩa là dòng sông giận dữ, chảy từ Trung Quốc sang Myanmar. Lý do khiến người ta đặt tên như vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày nay con sông này còn có một lý do chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành nơi đổ rác chính thức của các thị xã chung quanh. Chính quyền địa phương xây rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của các thị xã có thể đổ rác xuống sông một cách an toàn. Mỗi ngày hàng trăm tấn rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở thành một vấn đề của Myanmar.
Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi không nhìn thấy mặt trời dù biết nó ở ngay trên đầu mình vì đang giữa trưa và trời rất nóng. Không khí đục ngầu vì khói từ các nhà máy không xử lý khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ bao lâu rồi anh không còn nhìn thấy mặt trời nữa. Anh ta không nhớ. Năm 2000 lượng nước trung bình của mỗi người Trung Quốc chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Bây giờ tình trạng còn bi đát hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu xuống 30m mới tìm được nguồn nước, bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean. Một đất nước trước hết là đất và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí và nước đã ô nhiễm đến nỗi không thở được và uống được thì cũng chẳng còn gì để nói. Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều người muốn rời Trung Quốc bằng mọi giá. Họ sợ chết.
Một chế độ tuyệt vọng
Mối nguy nghiêm trọng thứ hai, cũng nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị. Các quan sát viên theo dõi tình hình Trung Quốc đều đồng ý rằng đàng sau chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung quyền hành về trung ương và về tay ông. Tham nhũng chỉ là lý cớ. Chính Tập Cận Bình cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản trị giá trên 200 triệu USD ? Không khác gì thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ ra rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán.
Chủ nghĩa Mác-Lenin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi. Các tỉnh cũng không thể chịu đựng mãi ách thống trị của trục Bắc Kinh - Thượng Hải và sự chênh lệch giữa các vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước một cuộc chiến tranh giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế đã có xung đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng một tỉnh, để tranh giành những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.
Nông dân Quảng Đông biểu tình chống chính sách cưỡng chiếm đất canh tác của họ bởi các tập đoàn bất động sản Trung Quốc (21/12/2011)
Cần nhắc lại để nhấn mạnh rằng Trung Quốc là một thiên hạ chứ không phải là một nước, lòng yêu nước đối với một người Trung Quốc chủ yếu là một tình cảm địa phương. Không cứ gì các sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở Côn Minh hoàn toàn không nhìn những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các tỉnh Trung Quốc còn lỏng lẻo hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu, đôi khi còn mang những thù hận chưa được hóa giải của quá khứ. Trong suốt dòng lịch sử dài của nó, sự thống nhất của Trung Quốc đã chỉ được duy trì bằng bạo lực và tàn sát. Thí dụ như giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung Quốc hầu như không có. Chính vì thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Mãn Châu đã có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên, Thanh sau cùng đã cáo chung vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là những ách thống trị ngoại bang.
Bế tắc chính trị của chế độ cộng sản Trung Quốc cũng đã chứng tỏ không có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền Hồ Cẩm Đào đã muốn nới lỏng dần dần những quyền con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về dân chủ trong trật tự nhưng trong những năm cuối, nhất là từ năm 2011 trở đi, ông đã phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn áp. Năm 2013 Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng. Tập Cận Bình thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đã tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.
Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng.
Nhưng việc phải làm đó là gì ? Đó chính là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và truyền thông đã thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế trong ba thập niên qua cũng đã cho người Trung Quốc thêm sức mạnh. Họ đã hiểu rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và ngày càng có thêm khả năng để đòi hỏi những quyền đó. Nhưng vấn đề là Trung Quốc không thể tồn tại với lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ vì các vùng của Trung Quốc quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đã trở thành ghê tởm. Trên trang Web www.ninecommentaries.com do phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng 11-2014 hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Số người ly khai hiện đã lên quá 200 triệu.
Lịch sử Trung Quốc nói chung là sự lặp lại của cùng một kịch bản, một kịch bản chưa thay đổi vì thể chế chính trị vẫn còn là một thể chế tập trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau : một chính quyền được dựng lên trong hoàn cảnh xã hội tan hoang và kiệt quệ ; chính quyền thành công trong những năm đầu và xã hội dần dần hồi sinh ; xã hội càng hồi sinh thì nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền càng cần tăng cường bộ máy cai trị ; bộ máy quan liêu vì thế tiếp tục phình ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền lực chính trị ; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần và tích lũy mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc xung đột làm xã hội suy kiệt ; và kịch bản bắt đầu lại từ số không. Kịch bản này hiện đã tới màn cuối dưới chế độ cộng sản. Tập Cận Bình đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực lượng mới. Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là "nhất quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lâp" ông ta chỉ nhắc lại một ám ảnh của quan thày Bắc Kinh.
Phải lo ngại cái gì ?
Chế độ cộng sản Trung Quốc còn trụ được bao lâu nữa ?
Như đã nói ở đầu bài này, đừng nên quên rằng Trung Quốc không phải là một quốc gia mà là một thế giới, một thiên hạ hay một đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như sự tàn lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói chung và của Trung Quốc nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có thể nhanh hơn rất nhiều.
Càng nhanh hơn vì một lý do khác. Chế độ cộng sản Trung Quốc tồn tại từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn dựa trên hai hợp đồng bất thành văn miễn cưỡng.
Hợp đồng thứ nhất là nhân dân chịu đựng chế độ toàn trị, và cả sự tàn phá của môi trường, với điều kiện là Đảng Cộng Sản duy trì được một mức tăng trưởng kinh tế cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra đã hiểu thỏa hiệp này khi ông nói rằng nếu mức tăng trưởng xuống dưới 8% thì sẽ có bạo loạn. Hợp đồng này ngày nay đã chấm dứt vì kinh tế suy thoái. Hợp đồng thứ hai là quần chúng Trung Quốc chịu đựng bất công xã hội để cho một thiểu số làm giầu với thỏa hiệp ngầm là như thế họ sẽ có thêm vốn để gia tăng đầu tư thúc đẩy kinh tế. Hợp đồng này đã bị phản bội khi những người giầu có bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản. Sự phẫn nộ có thể bùng nổ rất dữ dội.
Có cần lo sợ sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự tan vỡ gần như chắc chắn của Trung Quốc không ? Mối nguy thường được nói tới là chính quyền Bắc Kinh có thể gây hấn với bên ngoài để kêu gọi đoàn kết dân tộc và làm dịu những mâu thuẫn bên trong. Nhiều người đang lo âu trước việc Trung Quốc xây những phi trường trên những đảo nhân tạo tại Biển Đông. Nhưng sự lo ngại này không cần có. Nó là do cách nhìn Trung Quốc như một quốc gia thay vì một đế quốc. Thực tế cho thấy các đế quốc chỉ gây hấn trong những giai đoạn cường thịnh, trái lại rất nhu nhược đối với bên ngoài trong những giai đoạn cuối trào, để dồn sức đương đầu với những khó khăn bên trong. Trung Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Trong những lúc suy vi các hoàng đế Trung Quốc không những không xâm chiếm các biên quốc mà còn phải cống hiến những quý phi, có khi cả những công chúa, cho các vua các nước nhỏ chung quanh để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ chỉ là một trong rất nhiều thí dụ. Việt Nam và thế giới sẽ không phải lo ngại một sự gây hấn nào.
Cũng không cần lo ngại cho người Trung Quốc. Trung Quốc có phân chia thành bốn hay năm nước thì đó cũng vẫn là những nước lớn bậc nhất thế giới, nhưng đồng điệu hơn và hợp lý hơn Trung Quốc hiện nay. Điều mà chúng ta có thể chúc cho người Trung Quốc là những thay đổi cần thiết sẽ diễn ra trong hòa bình.
Thiên triều sụp đổ
Câu hỏi bao giờ chế độ cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ không đặt ra, hoặc đặt ra một cách rất khác, đối với chế độ cộng sản Việt Nam. Đối với một chư hầu, một đế quốc coi như đã sụp đổ khi không còn là một chỗ dựa nữa. Đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam chế độ cộng sản Trung Quốc coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với những khó khăn nội bộ để có thể hỗ trợ cho chế độ cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh lo cho mình cũng chưa xong còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam và Triều Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây. Nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại rất cần bám lấy Trung Quốc.
Trong cuộc tiếp xúc ngày 26/6/2014 tại Sài Gòn, ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không cải chính lời phát biểu của chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm theo đó Trung Quốc thỏa thuận viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ USD và cho vay 100 tỷ USD. Chế độ cộng sản Việt Nam rất cần yểm trợ tài chính này bởi vì do hậu quả của bất tài và tham nhũng kinh tế Việt Nam thực ra đang ở trong tình trạng phá sản. Theo phát biểu của chính ông Trương Tấn Sang tháng 11-2014 tại quốc hội thì tình trạng kinh tế Việt Nam "rất không thoải mái". Ba phần tư số thu ngân sách (khoảng 30 tỷ USD năm 2014, giảm nhiều so với năm 2013) được dùng để trả lương, phần còn lại không đủ để trả nợ. Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.
Một điều cần được nhìn thật rõ là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ là một đảng tự lập. Nó luôn luôn dựa vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra đời như một phân bộ của Đệ Tam Quốc Tế, nó đã tranh đấu, rồi cầm quyền, với sự bảo trợ của Liên Xô hoặc Trung Quốc hoặc cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Giữa thập niên 1980 khi Liên Xô suy yếu và không còn bảo trợ được nữa nó đã vội vã bỏ ngay lập trường thù địch để xin được phục tùng Trung Quốc. Trái với một nhận định hời hợt không phải Bắc Kinh cố thu phục Hà Nội mà chính Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để được lệ thuộc Trung Quốc. Trong mấy năm gần đây khi Liên Bang Nga có vẻ mạnh lên ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga. Văn hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một văn hóa chư hầu.
Tất cả những tính toán và kỳ vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước Nga của Putin đã bại sụi sau cuộc phiêu lưu Ukraine. Đến lượt Trung Quốc cũng chao đảo và sắp sụp đổ. Rất có thể là chính Bắc Kinh đã nói với Hà Nội là hãy tìm những nguồn hỗ trợ khác vì họ không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có thể giải thích những chuyến công du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam gần đây, kể cả chuyến đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những chuyến thăm viếng này đều do sáng kiến của Hà Nội.
Lịch sử không phải chỉ sắp sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt Nam đều phải sáng suốt để tránh những ngộ nhận tai hại. Những thành viên bộ chính trị và ban bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể thù ghét nhau vì tranh giành quyền lực và quyền lợi nhưng họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào Trung Quốc để duy trì chế độ độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều đồng ý rằng "đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" và tất cả đều đồng ý chẳng thà mất nước chứ không mất đảng. Không có một ngoại lệ nào cả. Nhưng bây giờ họ không còn chọn lựa nào khác là đi với Mỹ ("Mỹ" phải được hiểu là các nước dân chủ) vì họ không dựa vào Trung Quốc được nữa. Chiến lược của họ trong lúc này chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của chế độ và làm mất thêm thời giờ của nước ta trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ nhận nào cả.
Mọi ưu tư của chúng ta phải dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ nguyên dân chủ một cách nhanh chóng nhất trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để chúng ta có thể lập tức cùng nắm tay nhau chinh phục tương lai.
Nguyễn Gia Kiểng
(04/2015)