Ký giả, nhà giáo Bùi Văn Phú từ California điểm lại một số hoạt động chính mà cộng đồng người Việt tự do tại Hoa Kỳ tổ chức, tưởng niệm biến cố 30/4/1975 ở những nơi ông có dịp chứng kiến, tham dự, từ sân khấu cộng đồng tới các giảng đường đại học và trên đường phố.
Nguồn : VOA, 04/05/2024
30 tháng Tư về, da diết nhớ hòa bình…
Trần Hiếu Chân, RFA, 02/05/2024
Nhớ đến hòa bình những ngày này sau gần năm thập kỷ, vẫn là trạng thái tinh thần sang chấn. Sang chấn nhưng không thể không ghi lại hàng loạt sự kiện lẫn biến cố để giữ lấy những khoảnh khắc xuyên suốt không – thời gian.
Một viên công an đi qua một tấm biển cổ động kỷ niệm ngày 30/4 trên đường phố Hà Nội hôm 25/4/2024 - AFP
----------------------
Nửa thế kỷ bom đạn đã qua… Tuy vẫn còn tranh cãi về tên gọi cuộc chiến, nhưng các bên đã trở thành ‘đối tác chiến lược toàn diện’ của nhau (CSP). Là nói giữa hai chính quyền, Mỹ và Việt. Còn giữa Việt Nam cộng sản với Việt Nam Cộng hòa, dù cả hai chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, thì vẫn còn đó bộ phận không nhỏ, nhìn nhau bằng "những ánh mắt hình viên đạn". Nhớ hòa bình những ngày này là nhớ về trạng thái bị sang chấn. Sang chấn nhưng không thể không ghi lại hàng loạt sự kiện lẫn biến cố để giữ lại những khoảnh khắc xuyên thế kỷ... Bên tai ta vẫn "đùng đùng đùng, đoàng đoàng đoàng" từ trên thượng tầng Bộ Chính trị và Trung ương tận Ba Đình… Cố nhận diện "các khuôn mặt Beria" – Lavrenty Pavlovich Beria (1) luôn rình mò, "tiến bước tiến, đi theo dò…" các đồng chí chưa hoặc sắp bị lộ "từ đống rơm" để cưa tiếp các chân ghế còn lại... Các Phó Thủ tướng, những Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội… các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương… ai dám tự nhận "bàn tay mình chưa từng nhúng chàm". Tất cả đều như "cá nằm trên thớt". Nấp từ các "boong-ke", bắt tay nhau xong các đồng chí’ vẫn phải đếm lại xem, bàn tay mình còn đủ năm ngón ? 30 tháng Tư về, chưa dám "rời nơi trú ẩn".
Việc người đứng đầu nhánh Hành pháp "từ chức" dẫn đến một tình trạng hỗn loạn chính trị trên cả thượng tầng lẫn người dân. Luật sư Lê Quốc Quân viết trong Facebook cá nhân về việc Vương Đình Huệ "ngã ngựa’ : ‘’Chưa bao giờ chính trường Việt Nam mâu thuẫn căng thẳng và xung đột gay gắt như bây giờ. Cũng chưa bao giờ báo chí bị bịt kín thông tin, nhân dân chỉ biết đứng ngoài (tròn xoe mắt) xem vị chủ tịch của cái ‘Cơ quan quyền lực cao nhất’ ấy bị hạ bệ một cách bí mật, bất ngờ… Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng cộng sản Việt Nam) sẽ đi vào lịch sử như một lực lượng chiếm đóng tại một xứ sở, nơi người dân và ngay cả 5 triệu đảng viên của họ cũng hoàn toàn không được biết và không có quyền được tham gia vào công cuộc quản trị đất nước" (2). Một bộ phận mạng xã hội hoan hỉ, từng có Facebookker viết, Vương Đình Huệ bị đuổi về là phúc lớn của dân... (3) Bởi vì, trong hành trình thăng tiến từ Bộ trưởng Bộ Tài chính, lên Phó Thủ tướng, Vương Đình Huệ đã "lập công dâng Đảng" bằng nhiều chủ trương có hại cho người dân, nhất là trên lĩnh vực y tế, dẫn đến bao cái chết trong thời bình của nhiều người già lẫn trẻ nhỏ.
Bỉnh bút Zachary Abuza bình luận trên RFA ngày 27/4/2024 : "Chắc chắn là chính trị Việt Nam chưa bao giờ tồi tệ như hiện nay cũng như chưa bao giờ mang tính tàn phá thể chế đến vậy. Những gì đã được làm nhằm chính danh hóa/hợp pháp hóa ĐCS lấm bẩn bởi tham nhũng, giờ đây, đã khiến đảng này trở nên mất uy tín hơn trong mắt người dân – những người nhìn thấy vấn nạn tham nhũng đã xảy ra trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao như thế nào" (4). Cùng ngày, trên VOA, Blogger Trân Văn đã trích các dòng trạng thái : Toàn bọn lưu manh chính trị, bọn hại nước hại dân ! "Minh triết chính trị" là đây, việc gì phải để ai dạy bảo. "Có thể nói mô hình phát triển gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam lúc này đã hoàn toàn sai đường. Còn sống được chỉ nhờ kiều hối, FDI chống đỡ, không có chắc rã rồi. Thấy sai mà vẫn bắt dân phải theo mình là một tội ác. Người ra khỏi nhà nước này cảm thấy cuộc đời mình thật vô nghĩa khi cống hiến cho ảo tưởng giả dối, tưởng đẹp nhưng hại người biết bao nhiêu..". (5). Hơn hai trăm đồng chí được cho là tinh hoa của Đảng, nào là Tổng bí thư, nào là Bộ tam, Bộ tứ. Lú hết cả rồi hay sao, thấy sai mà vẫn bắt dân làm bừa ? Khỏi chờ lịch sử lên án. Đấy chính là tội ác !
Các vị có nghe thấy gì không ? Một vị từng là Bí thư Đảng đoàn của Bộ Ngoại giao… Đại sứ Nguyễn Đình Bin, hơn một lần khẩn thiết kiến nghị, khẩn thiết đề xuất cháy bỏng lên Đảng nhân dịp 30/4. Theo Nguyễn Đình Bin, Đảng cộng sản Việt Nam phải từ bỏ học thuyết Mác – Lê-nin đã thực sự lỗi thời. Đấy chính là cội nguồn đẻ ra đặc quyền đặc lợi, các nhóm lợi ích vị kỷ, làm cho kinh tế thị trường méo mó, không phát huy được đầy đủ các mặt mạnh vốn có ; ngược lại, đã tạo ra mảnh đất mầu mỡ cho các mặt tiêu cực phát triển, nạn tham nhũng và các quốc nạn khác, ngày càng trầm trọng, đang tiếp tục hoành hành, phá hoại chính đảng, nhà nước và xã hội ta, đến tận cội rễ là con người, đặc biệt nguy hiểm là người nắm quyền sinh, quyền sát quốc gia (6). Ngoại giao ngày nay phải là thế, không phân biệt nội trị với đối ngoại, đó là hai mặt của một đồng tiền. Nguyễn Phú Trọng và Ban bí thư động não đi chứ ! Cuộc nội chiến về tư tưởng này lúc nào mới chấm dứt, mới có hòa bình ?
Và cùng một ngày, ngày 25/4, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cao giọng, "yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam ; không làm phức tạp thêm tình hình, đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, trật tự ở khu vực Biển Đông" (7). Cũng ngày hôm ấy, vẫn bà Phạm Thu Hằng, quyết liệt phản đối "báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam, về các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người…" (8) Chúng ta như sống lại những năm 80 của thế kỷ trước. Hồi ấy Đảng lấy đâu ra nhiều kẻ thù vậy, coi Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm, cảnh cáo Mỹ là kẻ thù lâu dài… Và đến giờ phút này, sau khi thề thốt "cùng chia sẻ tương lai chung" (một biến tướng của CCD) với Bắc Kinh và nâng cấp quan hệ "đối tác chiến lược toàn diện" (CSP) với Washington, vậy mà trong nội bộ Đảng vẫn còn một bộ phận nhìn đâu cũng thấy "kẻ thù trước mắt và truyền kiếp", "kẻ thù vĩnh viễn và lâu dài". Nhớ hòa bình da diết…
Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, tình trạng Hà Nội cho giết hại người dân một cách phi pháp, tùy tiện ; các giới chức chính phủ tra tấn, đối xử vô nhân đạo, độc ác ; hoạt động cưỡng bức điều trị tâm lý, y tế ; bắt giữ, giam cầm tùy tiện ; hệ thống tư pháp không độc lập ; đàn áp xuyên biên giới đối với những cá nhân tại nước khác ; hạn chế nghiêm trọng quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, quyền tự do Internet ; quyền tự do hội họp ôn hòa, tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo – tín ngưỡng, quyền tự do đi lại ; người dân không có quyền tự do ứng cử, bầu cử, quyền tự do tham gia các đảng phái chính trị ; hạn chế việc cổ xúy cho nhân quyền và quyền tự do lập nghiệp đoàn công nhân ; làm ngơ trước các tệ nạn tham nhũng, buôn người… (9). Từ EU, Đạo luật của Liên bang Đức từ năm 2023 cũng nhấn mạnh đến việc cần bảo vệ các quyền con người trong chuỗi cung ứng toàn cầu và ngăn chặn tình trạng lao động trẻ em và lao động cưỡng bức, cấm những chất gây hại cho con người và môi trường. Đạo luật cũng chống phân biệt đối xử, phải trả lương đủ sống và thời gian làm việc đúng mức (10).
Mỹ, Trung là nước lớn, lắm duyên nợ với Việt Nam đã đành, nhưng đến cái vương triều Hun Sen – Hun Manet cạnh ta nay cũng gây chuyện om sòm. Mới đây, ông Hun Sen nay là Chủ tịch Thượng viện Campuchia cho biết, Campuchia "không nhượng bộ hay đàm phán" về kênh đào Phù Nam, bất chấp Việt Nam phản đối. Tại một buổi tiệc của Hiệp hội Oknha Campuchia hôm 26/4, liên quan đến kênh đào Phù Nam Techo, ông Hun Sen nó : "Tôi sẽ không lùi bước về vấn đề này và tôi muốn thẳng thắn nhấn mạnh rằng không cần phải đàm phán. Đừng cố ép Campuchia vào bàn đàm phán… Tôi sẽ không để bất cứ ai đốt nhà của mình để luộc một quả trứng, cho dù đó là đồng minh hay là kẻ thù đi chăng nữa". Ông nói thêm rằng, Việt Nam thịnh vượng là nhờ bảo vệ lợi ích cho chính người dân của mình, điển hình là nhiều công trình xây dựng đập. Vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8, khi lũ lụt đe dọa mùa màng, Việt Nam đã đóng các đập để bảo vệ lúa gạo và mùa màng, gây lũ lụt ở các tỉnh Campuchia giáp biên giới Việt Nam, đặc biệt là ở Kandal, Prey Veng, Svay Rieng, Takeo và Kampot… (11)
*
Điểm qua một số thời sự những ngày này, rõ ràng đã đến lúc Việt Nam phải kiến tạo một chính sách hòa bình toàn diện nhằm thúc đẩy sự ổn định và hợp tác với các quốc gia bên ngoài, cũng như sự hóa giải trong cộng đồng nội địa. Chính sách này bao gồm một chiến lược nhiều mặt nhằm ngăn ngừa và giải quyết xung đột, trước hết trong cuộc tranh giành quyền lực trên thượng tầng ngõ hầu tìm con đường để chuyển đổi thể chế. Thông qua ngoại giao, tôn trọng nhân quyền, thúc đẩy phát triển bền vững và một môi trường có lợi cho an ninh quốc gia lẫn khu vực. Thiếu vắng một chính sách hòa bình là thiếu vắng các nguyên tắc chỉ đạo để quốc gia điều hướng mạng lưới quan hệ quốc tế phức tạp, giảm thiểu căng thẳng tiềm ẩn và mở đường cho mội trường hòa bình và thịnh vượng hơn. Để đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế phát triển và người dân có thu nhập cao vào năm 2045, chắc chắn Việt Nam không thể duy trì thể chế quản trị quốc gia và mô hình tăng trưởng như cũ, dựa trên các ngành công nghiệp thâm dụng lao động và tài nguyên, hay phụ thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài (12).
Trần Hiếu Chân
Nguồn : RFA, 02/05/2024
Trần Hiếu Chân là một blogger, đồng thời cũng là nhà báo độc lập tích cực tham gia vào mạng lưới xã hội đấu tranh vì tự do báo chí, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Blogger này cũng là một trong những nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế và đường lối ngoại giao của Việt Nam và các nước ASEAN.
Tham khảo :
(1) https://vi.wikipedia.org/wiki/Lavrenty_Pavlovich_Beria
(4) https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/and-a-hue-we-go-04272024083220.html
(5) https://www.voatiengviet.com/a/ong-hue-la-chuyen-nho-the-che-moi-la-chuyen-lon/7586538.html
(9) https://www.voatiengviet.com/a/7580677.html
(10) https://vietnam.diplo.de/vn-vi/%C4%91%E1%BB%A9c-vi%E1%BB%87tnam/aktuelles/-/2543812
****************************
Bốn mươi chín năm, nhìn lại...
Viết từ Sài Gòn, RFA, 30/04/2024
Tuổi trẻ của tôi đi qua một mùa lúa không thể nào quên, mùa lúa đen đúa và hôi hám, năm ấy lụt toàn miền, các hợp tác xã chính thức bỏ đồng, người nông dân đua chen nhau gặt mót những bông lúa thối, đương nhiên, nó sẽ được phơi khô, sấy, giã lấy gạo để nấu cháo. Và đương nhiên, tôi không thể nào quên mùi cháo đó, nó còn đáng sợ hơn rất nhiều so với mùi cơm độn khoai mì khô xắt lát hay hạt kê. Nhưng đó là bữa cháo may mắn toàn gạo thời kinh tế tập trung bao cấp, cái thời mà cả nước rồng rắn nối đuôi, bà lương thực như bà chúa, ông thuế vụ tợ ông vua.
Thường dân và quân đội lên một tàu Hải quân quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc sơ tán thành phố Huế ở miền Nam Việt Nam vào ngày 26/3/1975 (Hình : UPI/Bettmann Archive/Getty Images)
Thế rồi cái thời khốn nạn và kinh hoàng ấy cũng đi qua, thay vào đó là thời kinh tế thị trường, mở cửa nhưng phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thống soái, điều hành đất nước và lãnh đạo tiên phong của đảng cộng sản.
Năm 1986, năm mở cửa kinh tế bắt đầu, cũng là năm bắt đầu mùa bội thu của những kẻ biết cơ hội và cán bộ cộng sản.
Khi kinh tế mở cửa, có nhiều thứ được nới lỏng, trong đó cơ hội làm giàu của người thuộc chế độ cũ cũng được mở ra. Tuy nhiên, nó chỉ mở rộng và dễ chịu với những kẻ biết cơ hội, những kẻ trước 30 tháng 4 còn là cán bộ miền Nam, sau 30 tháng 4 bỗng chốc đội nón cối, mang túi xách theo đoàn đi lùng sục nhà từng người để tịch biên tài sản.
Cú đánh vào tư sản sau 30 tháng 4 khiến cho gia đình ông bác họ của tôi lụn bại đúng nghĩa, cả nhà bị tịch biên mọi thứ, ông là người liều lĩnh và thông minh, trước đó đã cho một ít vàng vào nồi canh khi nghe đoàn công tác tới. Đoàn tới ngay bữa cơm trưa, vậy là đoàn tha hồ khám xét và kê biên, cả nhà chỉ còn biết ngồi như tượng đất, và chẳng ai dám múc canh vì sợ tiếng leng keng.
Thế rồi người cán bộ - cũng là đồng nghiệp cũ của ông, người thuộc cấp của ông và bây giờ đã theo cơ hội mới - liếc thấy gia đình không ai dám múc canh cả, ông ta hoài nghi, lấy cái vá khuấy vào nồi canh, tiếng leng keng khiến ông ta cười đắc chí, còn ông thì ngã ngửa vì đau đớn, gia đình thì mất mọi thứ và mất cả nồi canh hến, thứ rất quí hiếm sau ngày 30 tháng 4.
Sau đó gia đình ông bác tôi trở nên bần hàn đúng nghĩa, kéo nhau về quê, lam lũ, vất vả với đám ruộng tập thể, đất đai ở quê cũng bị tịch biên sung công cả, tự mình đi làm công điểm trên đám ruộng của mình. Đương nhiên, gia đình ông bị xếp vào diện tư sản và phong kiến, bị đẩy vào những chỗ dơ dáy, rác rưởi và đầy phân heo, phân bò để đứng cấy, đứng cào cỏ.
Người anh cả trong gia đình cũng không được thi vào đại học vì lý lịch đen, may sao đến thời tôi thì nhà nước đã bỏ thứ qui định quái quỉ ấy nên các anh họ khác cùng lứa với tôi vào đại học. (Thực tâm mà nói, tôi cho rằng nhà nước bỏ thứ qui định đó là còn biết khôn, chứ nếu cứ giữ, chả có mấy đứa đi học đại học, trường đại học cũng không còn bao cấp như xưa, có mà phá sản à. Đó là chưa muốn nói đến lượng chất xám bị vứt đi một cách ngu xuẩn !).
Thời gian trôi qua, khốn cùng trôi qua, thế rồi gia đình ông bác tôi cũng gượng dậy dưới thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này, những đứa cơ hội bắt đầu toa rập, áp phe với cán bộ địa phương, rồi leo dần lên những nấc thang cao hơn để qua lại, áp phe làm ăn. Những đại gia mọc ra như nấm sau đêm mưa, sau một trận mưa thị trường nhà đất thì người ta đếm đại gia không xuể, toàn tiền tỉ này tỉ nọ, thậm chí trăm tỉ, ngàn tỉ...
Tất cả các đại gia trên đều không có khả năng sản xuất nổi một con ốc hay gói mì tôm theo dây chuyền đúng nghĩa, tất cả các đại gia trên đều trở thành ăn mày nếu như đất có sự cố thị trường, nếu như cái dù che họ bị bật gốc, hay nói khác đi là nếu như kẻ chống lưng quyền lực bị rớt, mọi thứ coi như xong.
Cho đến lúc này, hàng loạt các đại gia bị tó, kèm theo việc này là hàng loạt quan chức cấp cao, cao khủng khiếp cũng bị tó, nếu không bị tó thì bị xua về vườn một cách nhục nhã. Mọi thứ đã nói lên vấn đề, chắc không nên bàn thêm.
Nghe con số vài ngàn tỉ, thậm chí vài triệu tỉ đồng cứ như giấy lộn, lá mít, những con số đầy nhức nhối ấy mọc ra giữa một mặt bằng dân sinh hết sức lổm chổm, có nhiều người vì nợ vài chục triệu đồng (khoản tiền tương đương một miếng bò dát vàng ăn lót bụng của giới quan chức) mà phải bỏ nhà đi biệt xứ.
Có nhiều người cả đời loay hoay với căn nhà vá chằng vá đụp, chẳng biết bao giờ có được bữa cơm, và miếng ăn ngon, bữa no vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi.
Mà đâu riêng gì những người thiếu ăn, thiếu mặc mới bị ám ảnh về miếng ăn. Ngay cả những kẻ giàu nứt đố đổ vách hay những người thuộc hạng trung lưu, tiền bạc rủng rẻng vẫn cứ bị ám ảnh về miếng ăn. Văn hóa về miếng ăn như một tập khí dân tộc, mọi thứ hoạt động văn hóa, mọi thứ sinh hoạt đều qui về miếng ăn cho đến lúc này.
Thử nghĩ có quốc gia nào giống quốc gia của chúng ta, một quốc gia có quá nhiều kỉ lục về miếng ăn, từ chiếc bánh chưng nặng hàng tấn cho đến bát hủ tiếu nặng cả tấn, rồi dĩa bê thui cho cả ngàn người ăn, tô mì Quảng cũng cho cả ngàn người ăn, một cái bánh xèo cho cả ngàn người ăn, và gần đây nhất là cây chả mực nặng hơn hai trăm ký, dùng hơn bốn ngàn lít dầu để chiên... Tất cả đều có chung một nghi thức : Dâng lên tổ tiên ! Lẽ nào tổ tiên của chúng ta phàm ăn tục uống đến vậy ? !
Tôi nghĩ là không, chính nỗi ray rứt, cơn ám thị về cái đói, miềng ăn của một dân tộc đã tạo ra những thứ kỉ lục quái thai và bế tắc trên. Khi nhìn những thứ kỉ lục của Việt Nam, người ta chỉ còn biết lắc đầu ngán ngẫm, nhẹ thì cho rằng cụt ý tưởng, nặng hơn thì cho rằng đó là biểu hiện của sự dốt nát, chưa thoát khỏi miếng ăn. Nhưng, sâu xa hơn nữa, nó cho thấy căn tính của dân tộc, một căn tính rỗng nhưng ưa vĩ đại.
Thứ căn tính rỗng nhưng ưa vĩ đại này hiện rõ trong hành xử thô lỗ và kệch cỡm của giới quan chức, cho đến lúc này, có quá nhiều nhân vật để ví dụ chứ chẳng còn tính chất đại diện hay điển hình nữa rồi !
Sau bốn mươi chín năm, đất nước có phát triển về kinh tế, đất nước được thống nhất hai miền Nam - Bắc, người miền Nam có thể thăm Hà Nội, thăm các tỉnh thành phía Bắc và người miền Bắc có thể thăm Sài Gòn, thăm Huế, thăm Đà Nẵng và thăm mọi nơi trên đất nước này. Đó là một sự thành công về địa lý.
Chỉ mang theo vài thứ trên lưng, một gia đình khóc trên đường chạy loạn khi đi bộ dọc theo Quốc Lộ 1, cách Nha Trang 30 km về phía bắc hướng tới Qui Nhơn. Ước tính có khoảng 1,5 triệu người bị mắc kẹt ở Đà Nẵng, nơi nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản trước ngày 30/4/1975. (Ảnh : Getty Images)
Nhưng, có một thứ địa lý khác đã ăn chết trong tâm hồn người Việt, hễ cứ người miền Nam, cụ thể là Nam vĩ tuyến 17 đều không ưa người miền Bắc, ngược lại, người miền Bắc cũng coi thường người miền Nam vì họ cho rằng "người miền Nam hời hợt, không sâu sắc". Tất cả những biểu hiện trên chiếm con số đại trà chứ không riêng lẻ.
Ranh giới, khoảng cách và hố ngăn chia rẽ tâm hồn Nam - Bắc ngày càng nặng nề, sự tổn thương và có cả thù hận của bên thua cuộc sau một quá trình dài bị phân biệt đối xử, bị tịch biên tài sản, gia đình tứ tán, bỏ mạng trên biển Đông, bỏ mình nơi rừng thiêng nước độc trại cải tạo và mất cơ hội tương lai do chính sách phân biệt lý lịch... Mọi vết thương, mọi nỗi đau dường như vẫn còn đó, vẫn còn mưng mủ và rưng đau khi trái gió trở trời.
Trong khi đó, một mặt kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc, một mặt phân biệt đối xử và ưu tiên cho con ông cháu cha, thái tử đảng xử sự như một ông kễnh địa phương, thậm chí chẳng coi ai ra gì, ăn chơi bạt mạng, trác tán, cán bộ chỉ biết hưởng lạc và sẵn sàng bóp chết tương lai, số phận của bất kì người dân nào thấp cổ bé miệng...
Với tất cả những gì có được sau bốn mươi chín năm kẻ buồn thối ruột, người vui ngoác miệng như vậy thì e rằng, không có câu nào để mô tả đúng bản chất hơn câu của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng : "Đất nước có bao giờ được như hôm nay !".
Đúng, sau bốn mươi chín năm, kinh tế có phần phát triển, phát triển nhanh và một số kẻ quyền thế, cơ hội giàu phất lên. Nhưng, cũng sau bốn mươi chín năm, cả dân tộc bị thụt lùi vào hố lạc hậu, chúng ta đứng qua xa sự văn minh, tiến bộ.
Có phát triển mà không có tiến bộ, ấy là sự phát triển của chuồng trại. Thế giới loài người cần văn minh và tiến bộ trước, rồi sau đó phát triển trên nền tảng văn minh, tiến bộ đã đạt được. Còn chúng ta, hoàn toàn ngược lại sau gần nửa thế kỉ !
Viết từ Sài Gòn
Nguồn : RFA, 30/04/2024
******************************
Học lấy chữ khôn
JB Nguyễn Hữu Vinh, RFA, 30/04/2024
Đến hẹn, lại lên của con nghiện
Kỷ niệm biến cố Sài Gòn thất thủ trước đội quân Miền Bắc cộng sản - kết thúc một giai đoạn tồn tại của chính thể Việt Nam Cộng Hòa - vào ngày 30.04.1975 là một dịp để "Bên Thắng cuộc" hàng năm có dịp thể hiện "tầm vóc, vĩ đại, thành quả" của sức mạnh của "Chiến tranh nhân dân do đảng lãnh đạo".
Một buổi đọc báo bằng loa giấy bồi tự chế trong một xí nghiệp ở miền Bắc trước 1975 - Ảnh minh họa
Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, việc nhà cầm quyền Việt Nam hàng năm diễn đi diễn lại các màn kịch, bài viết, hoạt động nhằm kỷ niệm một ngày mà Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Việt Nam (không bị đuổi) đã nói : "Đó là ngày mà có triệu người vui, nhưng cũng có triệu người buồn" đã trở thành một thói quen, một "phản xạ có điều kiện". Các màn diễn ấy hàng năm, được tung hứng, được ca ngợi, được thể hiện bằng nhiều hình thức để kỷ niệm cái gọi là "Chiến thắng vĩ đại" do Đảng cộng sản Việt Nam là "Người tổ chức và lãnh đạo".
Đó là cuộc chiến mà người cộng sản Miền Bắc gọi là "Giải phóng" cho đồng bào Miền Nam thoát khỏi sự "xâm lăng của Đế quốc Mỹ" và "Ngụy quyền Sài Gòn" làm tay sai cho Mỹ. Tuy nhiên, nhìn lại bản chất, thì đó là một cuộc xâm lăng trắng trợn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là quốc gia cộng sản vào Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia được công nhận tại Miền Nam.
Điều khác nhau ở hai quốc gia ấy, là ở Miền Bắc có một chính quyền độc tài do phe đảng cộng sản, là thành viên của Cộng sản Quốc tế dựng lên. Còn Miền Nam, có một chính quyền được bầu chọn từ người dân bằng những cuộc bầu cử tiến bộ và dân chủ hơn nhiều. Chính vì vậy, chế độ Việt Nam Cộng Hòa lúc đó, dù có thể là một chế độ chưa đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của người dân, vẫn có những khuyết tật của nó, nhưng ở đó, quyền con người, quyền công dân được tôn trọng, được thể hiện bằng hành vi của chính phủ chứ không chỉ bằng mấy tờ giấy như ở Miền Bắc cộng sản dưới chế độ "Độc lập, Trừ Tự do, Trừ Hạnh phúc" như trên cái gọi là Quốc hiệu đã ghi và trở thành câu chuyện tiếu lâm thời cộng sản trong dân chúng.
Hậu quả của cuộc chiến mà Đảng cộng sản Việt Nam là "Người tổ chức và lãnh đạo" tiến hành. Bởi khi đó Việt Nam tự nhận là "Tiền đồn của Phe Xã hội Chủ nghĩa" để chống lại Đế quốc, thực dân ấy, đã gây ra cái chết cho khoảng từ 2 đến 4 triệu người Việt (tính cả binh lính và dân thường tùy theo từng nguồn thống kê khác nhau).
Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Ảnh theo internet
Và cuộc chiến ấy không chỉ có sự tổn thất của người Việt. Theo số liệu hiện nay được công bố từ wikipedia, thì ngoài Việt Nam, các quốc gia liên quan đã tổn thất tại đó những con số không nhỏ về người và của. Hoa Kỳ có số thương vong cao nhất với khoảng 58.200 binh sĩ chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Hàn Quốc có từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ chết và khoảng từ 11.000 đến 17.000 người bị thương, Trung Quốc có 1.446 binh sĩ chết (Trong đó 18 người chết và 67 bị thương trong Hải chiến Hoàng Sa cướp lãnh hải, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam).
Australia có khoảng 500 binh sĩ chết và hơn 3.000 người bị thương, New Zealand có 38 binh sĩ chết và 187 người bị thương, Thái Lan có 351 binh sĩ chết, Liên Xô có 16 cố vấn quân sự chết, Bắc Triều Tiên có 14 phi công chết, còn Philippines có 9 binh sĩ chết và 64 người bị thương.
Đó là chưa nói đến sự tàn phá cơ đồ đất nước được xây dựng từ bao đời bị xóa sạch, nguồn lực quốc gia tan hoang bởi chiến tranh với mấy chục năm bom đạn.
Và điều đau đớn nhất, lớn lao nhất là vết thương hận thù trong nội tại của một quốc gia đã trải qua cuộc chiến huynh đệ tương tàn chỉ vì những lý tưởng, vì những hệ tư tưởng viễn vông giữa hai miền Bắc – Nam Việt Nam với mục đích rõ rệt là để bảo vệ, gieo rắc và chống lại hệ thống tư tưởng cộng sản lan truyền ở khu vực Đông Nam Á.
Lẽ thường, người ta vẫn quan niệm rằng mọi cuộc chiến tranh là một nỗi bất hạnh, dù đó là những cuộc chiến tranh chính nghĩa. Và vì thế, sau mỗi cuộc chiến, dù là cuộc chiến chính nghĩa hay phi nghĩa, thì người ta coi như đó là một hoạn nạn và mong xóa nó ra khỏi ký ức đau đớn của mình, để xây dựng lại đất nước, non sông.
Vậy nhưng, ở Việt Nam, nơi có một chính quyền cộng sản, điều đó đã không xảy ra, mà ngược lại. Đã gần nửa thế kỷ nay, cứ mỗi lần đến ngày này, khi mà hai miền đất nước, tại hàng triệu gia đình, khói hương đang nghi ngút tưởng nhớ đến những nạn nhân của cuộc chiến, thì trên Tivi, báo chí, đường phố, loa công cộng và mọi nơi, mọi lúc, nhà cầm quyền lại lên gân hò hét, ca ngợi, tự sướng đủ mọi cách, mọi thể loại, mọi hình thức như để khoét thêm một lần nữa vết thương của từng cá nhân, từng gia đình đã mấy chục năm qua chưa được hàn miệng.
Và đảng coi những hành động như vậy, là sự vinh danh cho đảng qua những ngôn từ xủng xoảng tiếng súng gươm là "Chiến thắng", là "Giải phóng", là "Tiêu diệt" là "Xóa sổ", là "Trừng trị"…
Quan sát hiện tượng này, người ta có cảm giác rằng đảng giống như một con nghiện. Nhân tố gây nghiện ở đây là bạo lực, là hình ảnh của sự tàn bạo, sự giết chóc để thỏa mãn bản chất bạo lực của Đảng của Giai cấp vô sản" chuyên nghề lật đổ và cướp từ chính quyền cho đến lợi ích, tài sản.
Hết thiêng hay cơ hội ?
Năm nay, là kỷ niệm lần thứ 49 biến cố "Giải Phóng" trên đất nước Việt Nam không được hò hét, tung hứng bằng những màn trình diễn, bằng văn nghệ, bằng tuyên truyền như mọi năm.
Quan sát trên lĩnh vực báo chí, người ta thấy rõ điều đó.
Hàng năm, cứ đến những ngày này, Tuyên giáo cộng sản đều có kế hoạch hò hét cả ngàn tờ báo với chỉ tiêu rõ ràng, mục đích cụ thể cho mỗi tờ báo, mỗi tạp chí, đài truyền hình, thậm chí là từng chi bộ, phố xóm, từng loa phường… phải có bao nhiêu bài viết "Cúng cụ" để nâng đảng lên thành thánh, thần và đủ mọi trò nhiều khi đến hài hước.
Đọc qua các báo năm nay, hầu như không mấy tờ đề cập đến biến cố "Giải phóng" và "Chiến thắng" dày đặc như mọi năm. Mặc dù theo quán tính, thì tờ báo Đảng cộng sản và tờ Công an Nhân dân vẫn lên gân lên cốt bằng vài bài viết với tư duy "cả vú lấp miệng em" nói lấy được về cái gọi là "Ý nghĩa của chiến thắng 30.04". Tuy nhiên, đọc những bài viết ấy, người ta thấy cái sự đuối, sự lúng túng, sự gượng gạo bất ổn ngay cả trong tư duy người viết.
Dân oan căng biểu ngữ đòi chính phủ và Quốc hội giải quyết dất bị chiếm đoạt ăn nằm dưới panô tuyên truyền tại Hà Nội - Ảnh minh họa
Mặc dù trên các đường phố Hà Nội và nhiều nơi, hệ thống quan chức địa phương vẫn coi đây là một cơ hội để có thể rỉa rói ngân sách quốc dân bằng cờ, bằng khẩu hiệu, bằng cổng chào… như một căn bệnh kinh niên. Nhưng, tâm trí người dân hầu như không coi điều đó như một sự lạ hay để gây chú ý cho ai. Cũng bởi từ xưa đến nay, người dân Việt đã quen với cảm giác cứ chỗ nào nhiều cờ đảng, cờ đỏ và băng rôn, khẩu hiệu thì phản xạ đầu tiên là cẩn thận, cảnh giác. Bao nhiêu cuộc cướp bóc tài sản, đất đai của người dân đã chẳng tràn ngập cờ đỏ, ảnh Hồ Chí Minh và khẩu hiệu đó sao.
Nhiều người tỏ ra ngạc nhiên và tự hỏi là tại sao, có vẻ như năm nay, đảng quên mất ngày "Chiến thắng, Giải phóng miền Nam" ? Nhưng lập tức đã có người phản bác rằng làm sao có chuyện đảng lại quên đi được việc ăn mày dĩ vãng đó được. Đó là nghề của đảng xưa nay.
Bởi đảng có gì để lấy làm tự hào nữa, nếu không lôi ra mà gặm nhấm mấy cái cuộc chiến và mấy cái "Chiến thắng" ấy. Chẳng lẽ đảng lại lôi mấy cái thành tích như đã ký văn bản Hiệp định với giặc để mất đi cả chục ngàn cây số vuông lãnh thổ trên bộ rồi cả các di tích quốc gia như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc.
Chẳng lẽ đảng lại tự hào rằng sau nửa thế kỷ Tổng bí thư Đảng tuyên bố : "Tổ quốc chúng ta từ nay vĩnh viễn sạch bóng xâm lăng" thì bây giờ cả một Quần đảo Hoàng Sa và một loạt đảo Trường Sa đang nằm dưới gót giày quân xâm lược mà quân ấy, lại là bạn vàng, là quan thầy của đảng ?
Nhiều người giải thích rằng : Chẳng phải vậy, mà đảng đang tập trung nhân tài, vật lực để kỷ niệm "Giải phóng Điện Biên" vì đây là năm chẵn. Nhưng lại có người đáp trả rằng : Vậy thì cái ngày kỷ niệm lần thứ 45 đảng gọi là "Chiến thắng" ở cuộc chiến Biên giới phía Bắc năm 1979 mới qua đây, sao không thấy đảng hé răng nửa lời.
Ngày 13/12/2023, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và phu nhân đón tiếp Chủ tịch Tập Cận Bình cùng phu nhân trong một buổi tiếp tân tại Hà Nội. Ảnh VNA
Và câu giải thích khả dĩ được mọi người thấy đúng, đó là làm sao Đảng có thể dám mở miệng nói về cuộc chiến ấy hay những hành vi của giặc với biển, đảo quê hương với lãnh thổ đất nước hiện nay. Bởi những hành vi đó, đều do quan thầy của đảng, đều do bạn vàng của đảng gây ra. Mà Tổng bí thư đã khẳng định : "Nếu có đụng độ trên biển, liệu có thể ngồi bàn Đại hội Đảng được không ?". Trong khi đảng lại đang chuẩn bị cho Đại hội đảng, thì việc lên án kẻ thù xâm lược lãnh thổ, lãnh hải cũng bằng việc xúi đảng "sờ dái ngựa".
Nhưng, đảng thì không dại đến thế. Mất lãnh thổ là của quốc gia, còn cái ghế cai trị là của đảng.
Và người ta lại đặt câu hỏi rằng : Tại sao, cũng sự kiện ấy, nghĩa là cũng là "Giải phóng Miền Nam" cũng là "Chiến thắng Sài Gòn" mà mỗi năm, Đảng lại có thái độ khác nhau ? Phải chăng, năm trước thì có ý nghĩa trọng đại, quan trọng và nhất định phải gào lên cho cả thế giới biết là chúng tao tài giỏi, đánh đâu thắng đấy, là vĩ đại, là bất khả chiến bại… còn năm nay nó không còn vĩ đại nữa, không còn ý nghĩa nữa ?
Cũng có người giải thích rằng : Không hề, đảng vẫn nhớ, vẫn cứ tự hào, nhưng năm nay tự hào trong im lặng vậy thôi. Không ồn ào, vì đảng mới cố gắng thiết lập được mối quan hệ với Mỹ ở tầm cao hơn, ở mức độ "Chiến lược Toàn diện" nên đảng im, đảng lượng tình cho kẻ thù của mình.
Và người khác đáp lại : À, thì ra vậy, điều đó có nghĩa là cái vĩ đại, cái tuyệt đối, cái giòn giã, cái quan trọng ấy nó phụ thuộc vào thời điểm, vào đối tượng ấy khi nào đảng cần và khi nào đảng không cần chứ không phụ thuộc vào chính sự kiện đó nó ra sao.
Có nghĩa rằng đó là một sự kiện mang tính cơ hội như đảng ta vẫn là đám cơ hội xưa nay. Để rồi nếu ngày mai, mối quan hệ xấu đi hoặc cần cho mục đích nào khác, thì những sự kiện bị bỏ qua hôm nay, lại có ý nghĩa ngay lập tức trên miệng của đảng.
Học lấy cái khôn
Ba người (x) bao quanh Nguyễn Phú Trọng đều đã bị loại ra khỏi Tứ Trụ - Ảnh minh họa
Nhiều người coi rằng việc Đảng không lên gân, không hò hét nhai lại món ăn đã quá ôi thiu gọi là "Chiến thắng" là "Giải phóng" ấy, vì mỗi lần nhai lại, thì không gây đau bụng cũng gây ngộ độc trong xã hội nên Đảng từ bỏ.
Nhưng cũng có người cho rằng, đó là cái khôn, nhưng cái khôn đó không xuất phát từ nhận thức vì nó đem lại điều có hại cho xã hội, mà cái chính là từ đảng.
Bởi Đảng càng hò hét bao nhiêu, thì người ta hỏi lại những câu hỏi mà chắc chắn là đảng chỉ biết… ngọng. Chẳng hạn :
Rằng : Vậy thì qua nửa thế kỷ sau "chiến thắng" ấy, Đảng đã lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối cđưa ả đất nước "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Thiên đường xã hội chủ nghĩa" thì nó đi đến đoạn nào rồi ?
Liệu con đường mà "Đảng và bác đã chọn" ấy, có đi đến Xã Hội Chủ Nghĩa theo các định nghĩa mà người dân đã đưa ra – nghĩa là Xuống Hố Cả Nút ? Hay Xuống Hàng Chó Ngựa ?
Rằng : Tại sao Đảng đã lãnh đạo tài tình, sáng suốt đưa cả nước tiến lên Thiên đường xã hội chủ nghĩa đã nửa thế kỷ, vậy mà con dân Việt hễ cứ có cơ hội là bằng mọi cách để thoát khỏi "sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng quang vinh là vì sao" ? Vậy thì có khác gì dân Việt ngầm bảo rằng tránh xa Đảng ra như tránh hủi ?
Tại sao Đảng ta là "tài tình, đạo đức, văn minh" mà lại có hàng trăm ngàn đảng viên tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp ?
Rằng : Vậy Đảng "tài tình, đạo đức, văn minh" thì con số hàng trăm ngàn đảng viên tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp kia nó thuộc thành phần nào ? Ai đẻ ra cái đống ấy và vì sao Đảng tử tế vậy mà sản phẩm đảng lại thối tha đến thế ?
Rằng : Tại sao Đảng vẫn ra rả là đảng chiến thắng, Đảng chửi Mỹ, chửi đế quốc như hát hay, vậy mà Đảng hành động ngược lại : Con cái của Đảng, gia đình của lãnh đạo đảng cứ sểnh ra là đến Mỹ, đến các quốc gia đế quốc sài lang, là tư bản giãy chết.
Rằng : Còn cái nội bộ Đảng trong sạch, vững mạnh và là đội quân tiên phong của Giai cấp, của dân tộc. Vậy sao trong cái đội quân ấy, tiên phong ở mức nào mà hễ sểnh ra là người ta biết đều là một lũ ăn cắp, ăn cướp công quỹ, ngân sách hơn cả đám lục lâm thảo khấu, đầu đường xó chợ.
Rằng : Cách nào mà Đảng dạy được cái đám từ Ủy viên Trung ương và thậm chí là Ủy viên Bộ Chính trị như Đinh La Thăng, Phạm Bình Minh, Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ… nếu chưa hiện nguyên hình là kẻ cướp, thì đều là những chính trị gia lão luyện, những người thầy giảng dạy, rao giảng đạo đức cho cả dân tộc mà không hề biết ngượng ?
Với những câu hỏi đó, nếu Đảng đối diện, e rằng sẽ "sập nguồn" nếu cón chút liêm sỉ và tự trọng.
Thế nên, Đảng im lặng, cũng là cách để may ra học được phần nào cái chữ "Khôn".
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Nguồn : RFA, 30/04/2024
48 năm !
Gần một nửa thế kỷ trôi qua, vết thương vẫn chưa lành. Và chắc sẽ không bao giờ lành đối với hàng triệu gia đình, trong khi có những người khác, đứng đầu là nhà nước, có cơ hội "hát trên những xác người" để ăn mừng chiến thắng. Có cơ hội để khoe khoang, đánh bóng quá khứ, để dân quên thực tại đất nước không có gì đáng kiêu hãnh.
Vài câu hỏi nhức nhối nhiều người đặt ra, hay tự hỏi.
Thứ nhất, có nên tổ chức tưởng niệm ngày 30/4, nửa thế kỷ sau ?
Thứ hai, có nên tiếp tục hoạt động chống Cộng, trong khi "càng chống, Cộng sản càng mạnh ?"
Thứ ba, mỗi người, dù chân yếu tay mềm, dù không phải là anh hùng, có thể làm gì, đóng góp gì cho công cuộc chung ? (1)
Thị trưởng Chí Charlie Nguyễn phát biểu tại buổi lễ hôm 30/4/2023.
1. Có nên tưởng niệm mỗi năm ?
Có người nghĩ nửa thế kỷ sau, có lẽ nên quên chuyện cũ, để hướng về tương lai.
Trái lại, muốn chuẩn bị tương lai, phải ôn lại quá khứ.
Một cộng đồng, một dân tộc không có quá khứ, sẽ không biết mình là ai, không biết phải đi ngả nào. Không có quá khứ, sẽ không có hiện tại, không có tương lại. Ôn lại quá khứ, rút tỉa những kinh nghiệm xương máu, để tìm đường đi cho mình và cho thế hệ sau.
Tưởng niệm ngày 30 tháng Tư để không quên hàng trăm ngàn người đã bỏ mạng trên rừng, trên đường mòn biên giới, trên biển cả với hy vọng được sống tự do.
Quốc gia văn minh nào cũng tưởng niệm những người đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế chiến, hay xa hơn nữa, bởi vì người chết bị quên lãng sẽ chết lần thứ hai
Forgive, but not forget . Có thể tha thứ, không có thể quên.
Người Việt có phong tục rất hay, là cúng giỗ. Đặt bàn thờ, hương hoa, hay cả thức ăn, không phải là dấu hiệu của mê tín dị đoan, trái lại, là một cách rất văn minh, để chứng tỏ người chết vẫn ở đâu đó, bên cạnh. Người chết không bao giờ thực sự chết.
Ngày 30/4 là ngày giỗ của hàng triệu gia đình.
Người ta hy vọng, nhưng chắc khó toại nguyện, trong khi hàng triệu đồng bào của mình đang khóc những người chết oan, tức tưởi, những người khác, nhất là những người cầm quyền, không nên nhẫn tâm reo hò, nhẩy múa. Đó là một thái độ man rợ nhất.
Dù hăng say chiến thắng tới đâu, vẫn còn 364 ngày mỗi năm, để tha hồ reo hò, mạ lỵ, chửi rủa, đấu tố, oán thù.
Một lý do nữa để tưởng niệm ngày 30/4 : nhắc lại cho thế hệ sau những gì đã xẩy ra nửa thế kỷ trước, cho gia đình, cho cha mẹ của họ.
Hàng triệu người đã liều mạng vượt biển, với cái hy vọng mơ hồ là trôi dạt đến một nơi nào đó có tự do.
Bỏ nước ra đi là một chuyện kinh thiên, động địa với một dân tộc gắn liền với đất nước-đất và nước-đa số chưa hề rời làng mạc, khu phố mình đã sinh ra, lớn lên.
Hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển cả.
Người Cộng Sản, sở trường trong việc viết lại lịch sử, đã bôi nhọ những người ra đi là chạy theo Mỹ, và sau đó, khi cần tiền họ gởi về, thân ái phong cho họ là những "khúc ruột ngàn dậm".
Howard Zinn nói "khi những con thỏ chưa có sử gia, lịch sử sẽ được viết bởi những người đi săn".
Tưởng niệm ngày 30/4 là nhắc lại sự thực lịch sử. Lịch sử của chiến tranh, lịch sử của một trong những cuộc di cư lánh nạn khủng khiếp, kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại
Liên hội người Việt tị nạn cộng sản tại Cộng hòa Liên bang Đức phối hơp với Mạng lưới Nhân quyên Việt Nam biểu tình Ngày quốc tế Nhân quyền 10/12/2022 đòi nhân quyền cho Việt Nam
2. Có nên tiếp tục tranh đấu cho tự do ?
Nhiều người tự hỏi : có nên tiếp tục tranh đấu chống Cộng hay không, bởi vì nửa thế kỷ sau, Cộng sản vẫn còn đó, hung hăng, tàn bạo ? Chưa thấy một hy vọng tự do nào le lói cuối đường hầm
Điều đó khó chối cãi.
48 năm sau, xã hội Việt Nam băng hoại hơn bao giờ hết.
Biển đảo bị chiếm đóng, môi trường bị huỷ hoại, bất công tràn lan, tham nhũng khủng khiếp, khiến người Việt, sau nửa thế kỷ đất nước thống nhất, "tự do, dân chủ, cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc", chỉ hy vọng được trốn ra nước ngoài, để lấy chồng, để trồng cần sa, bán dâm, để làm nô lệ.
Trong bối cảnh đó, người Việt hoàn toàn thụ động
Sau nửa thế kỷ cai trị miền Nam, 3 phần tư thế kỷ miền Bắc, Cộng Sản đã thành công trong công cuộc "thụ nhân" (trồng người), đào tạo một thế hệ vô cảm.
Một mặt, sự đàn áp dã man, chà đạp nhân quyền, ngồi xổm trên những quyền tự do tối thiểu của con người, chế độ đã tạo một dân tộc biết sợ. Và trên cả cái sợ, cái cùm tự kiểm duyệt, coi như đó là một nhân sinh quan, một triết lý sống
Mặt khác, kinh tế phát triển nhờ nhân công rẻ, ngoan ngoãn, trong một thời đại hoàn cầu hoá, nhờ hàng chục tỷ dollars của các "khúc ruột ngàn dậm" đổ về, nhờ tiền xuất cảng lao động, xuất cảng phụ nữ, Việt Nam biến thành một xã hội tiêu thụ.
Một số người được tiêu pha, chơi bời thả cửa, có ảo tưởng được tự do, hài lòng với thân phận của mình, chấp nhận hay ủng hộ chế độ. Việt Nam trở thành một nhà tù lộ thiên, trong đó tù nhân không muốn vượt ngục nữa (2).
Trong bối cảnh đó, những phong trào tranh đấu cho tự do, dân chủ yếu dần.
Trong nước, những người tranh đấu bị đàn áp dã man : 10, 15 năm tù, cái án dành cho những người cướp của giết người ở những nước bình thường, chỉ vì đã lên tiếng chống cướp nhà, cướp đất, hay đòi quyền thở, quyền sống.
Ở đây, phải bày tỏ sự khâm phục đối với những người vô danh, hay nổi tiếng, đã can đảm tranh đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, và nhất là trong sự cô đơn, giữa một biển vô cảm.
Ở hải ngoại, phong trào cũng yếu dần, vì chia rẽ, vì bệnh cá nhân chủ nghĩa, vì cái tôi quá lớn (3), vì tổ chức luộm thuộm, khái niệm rất mơ hồ về dân chủ, rất mơ hồ về sự hữu hiệu của mỗi hành động.
Nhiều người cho cảm tưởng họ chống nhau, hơn là chống Cộng. Sẵn sàng chụp mũ nhau là Cộng Sản, chỉ vì một câu nói vụng về, một câu trích khỏi một bài, trái hẳn với ý của người viết. Đôi khi chỉ vì tỵ hiềm cá nhân, vì ganh ghét, vì độc ác. Trong khi đó, Công Sản gộc, thứ thiệt, ngang nhiên mua nhà cửa, họp hành, ra báo, lập đài phát thanh, truyền hình, lộng hành trước mắt bàn dân, thiên hạ, ngay giữa cộng đồng tỵ nạn.
Nhiều khi những người chống Cộng hăng say chống nhau, quên cả chống Cộng.
Quả thực là tình trạng đáng ngao ngán, khiến nhiều người muốn bỏ cuộc.
Nhưng suy nghĩ lại, có quả thực là các hoạt động có hoàn toàn vô bổ không ?
Nếu Việt Nam chưa phải là Bắc Hàn, bởi vì Cộng Sản không muốn đóng cửa để mất nguồn ngoại tệ khổng lồ, nhưng cũng bởi vì có những người kiên trì tranh đấu ở hải ngoại, tiếp tay với những người tranh đấu trong nước, lên tiếng tố cáo các chính sách đàn áp, các hành động đàn áp dã man của nhà nước.
Cộng sản chùn tay, không phải vì muốn được kính trọng đôi chút, nhưng bởi vì còn muốn làm ăn, buôn bán với thế giới bên ngoài.
Những hoạt động hải ngoại, dù chưa đạt kết quả mong muốn, dù có nhiều khuyết điểm, vẫn chứng tỏ có những người không bỏ cuộc, nửa thế kỷ sau ngày 30/4/75.
Tại sao không thể bỏ cuộc lúc này. Bởi vì cuộc chiến trở thành một mặt trận văn hoá. Ai cũng nghĩ và mong có thay đổi chính trị ở Việt Nam, bởi vì một nhóm người cai trị gần 100 triệu dân, vô thời hạn, là một chuyện quái đản ở thế kỷ 21.
Nhưng chỉ có thay đổi nếu hội đủ 2 điều kiện.
Thứ nhất, người dân ý thức mình đang sống trong một nhà tù không tường, mặc dù được hưởng những tự do phù phiếm như ăn chơi, tiêu thụ. Thứ hai, mọi người nghĩ những thay đổi sẽ có hậu quả tốt cho chính mình, cho gia đình mình.
Dân chủ đối với đa số vẫn còn là một ý niệm mơ hồ, nếu không phải là đề tài để nhạo báng. Đa số vẫn chưa ý thức rằng tất cả những vấn đề của Việt Nam, từ bất công khủng khiếp, tới tham nhũng kinh hoàng, giáo dục bế tắc sẽ không bao giờ giải quyết được, nếu không có một thể chế dân chủ.
Việc thuyết phục người đồng hương là chuyện của mỗi chúng ta, mỗi ngày.
Hãy tiếp tay tố cáo với thế giới bên ngoài về đàn áp tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam
3. Mỗi người có thể làm gì ?
Không phải ai cũng là anh hùng, không phải ai cũng là những nhà hoạt động, sẵn sàng hy sinh. Nhưng mọi người đề có thể đóng góp.
Khi tôi giải thích cho con cháu lịch sử cận đại của Việt Nam, tôi đóng góp cho việc chống lại âm mưu viết lại lịch sử của tập đoàn cầm quyền
Khi tôi kể cho bạn bè trong nước những sinh hoạt dân chủ nơi tôi đang sống, tôi đóng góp vào việc phát triển ý thức, và kiến thức dân chủ.
Khi tôi liên lạc với các giới chức, các hội đoàn nơi tôi đang sống, hay với những du khách tới Việt Nam, để nói về những vi phạm nhân quyền, tôi đóng góp vào việc cho thế giới bên ngoài biết về thực trạng Việt Nam.
Đó chỉ là những thí dụ. Còn hàng ngàn những chuyện khác, mọi người có thể làm. Nếu một triệu người làm những việc nhỏ, kết quả sẽ rất lớn.
Một câu nói nổi tiếng mà người ta gán cho Lão Tử : Hãy thắp một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối. Đôi khi chúng ta quên cả nguyền rủa bóng tối, vì còn say sưa nguyền rủa nhau.
Những khuyết điểm, những sai lầm của những người chống Cộng đã khiến hai chữ "chống Cộng" mất dầ ý nghĩa.
Nhiều người xa lánh, không muốn liên luỵ tới những chuyện đánh phá cá nhân, bè phái.
Albert Camus nói cuộc đời là những cuộc tranh đấu, nếu không tranh đấu cho lẽ phải, không nổi giận trước những bất công, cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng Camus nói thêm : nổi loạn, hay phẫn nộ phải có đối tượng, không bao giờ mù quáng, vô vạ, miễn phí (la révolte est ciblée, jamais aveugle ni gratuite).
Chống Cộng, nửa thế kỷ sau, không phải vì oán thù, không phải vì bị cướp nhà cướp đất, nhưng bởi vì nghĩ rằng, biết rằng chế độ Cộng Sản đưa tới bế tắc cho dân tộc. Bế tắc và diệt vong.
Tôi chống Cộng bởi vì không muốn nước tôi không có giáo dục, chỉ có nhồi sọ ; không có văn hóa, chỉ có tuyên truyền ; không có quyền làm người, chỉ có quyền tuân lệnh ; không có quyền suy nghĩ, chỉ có quyền ăn chơi.
Hiểu theo nghĩa đó, chống Cộng là một nghĩa vụ trong sáng nhất, khẩn cấp nhất. Không phải là chuyện phù phiếm, như nhiều người nghĩ. Có người thành thực nghĩ như vậy, có người mượn đó là một cái cớ để buông tay, hay đồng loã với cái ác.
Từ Thức
(04/05/2023)
1. Thời gian qua đi. Lịch sử Việt Nam sẽ có thêm nhiều sự kiện, nhiều ngày vui, nhiều ngày buồn nhưng ngày 30 tháng Tư năm 1975 mãi mãi là một ngày đau buồn lâu dài và mất mát quá lớn của người dân Việt Nam, của lịch sử cận đại Việt Nam. Là một cột mốc lớn của lịch sử, mãi mãi mai sau người dân Việt Nam, từ nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, triết học, đến người dân lao động lam lũ còn phải soi vào cột mốc 30/4/1975 mà suy ngẫm để nhận ra những điều nhắc nhở của lịch sử. Thời gian càng qua đi, những áp đặt của tuyên truyền giả dối càng lộ rõ, càng giúp con người nhận ra sự thật lịch sử sáng rõ, minh triết.
Lịch sử Việt Nam sẽ có thêm nhiều sự kiện, nhiều ngày vui, nhiều ngày buồn nhưng ngày 30 tháng Tư năm 1975 mãi mãi là một ngày đau buồn lâu dài và mất mát quá lớn của người dân Việt Nam, của lịch sử cận đại Việt Nam. Ảnh "Vá cờ" Courrtesy of Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh
Là người trong cuộc, dù ở bên thắng cuộc, có may mắn hơn cả chục triệu người đã phơi xác trong bom đạn trên khắp dải đất Việt Nam, có may mắn hơn mấy triệu người mất lí tưởng quốc gia để thờ phụng, mất danh dự, niềm tin, mất cơ đồ, sự nghiệp, phải sấp ngửa bỏ nước ra đi, dù có rủng rỉnh cả mớ huân chương lấp lánh của người lính thắng trận nhưng 30/4/1975 như một tia chớp loé sáng trong nhận thức của tôi. Tia chớp ấy đã đảo ngược hoàn toàn nhận thức mà tôi đã được nạp, đã được lèn bài bản, công phu, kĩ càng từ khi là đứa bé học trò dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, đến khi lớn lên là người lính của quân đội cách mạng chuyên chính vô sản.
Nhận thức tôi được nạp, được lèn là đường lên hạnh phúc rộng thênh thang của người dân miền Bắc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và cuộc sống lầm than, nghèo khổ, khốn cùng, mất tự do, mất phẩm giá con người của người dân miền Nam dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn bán nước và trong ách cai trị thực dân kiểu mới của Mỹ. Vì vậy dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, người dân miền Bắc cũng quyết đánh Mỹ, diệt nguỵ, giải phóng miền Nam, cứu nhân dân miền Nam khỏi đau thương, nô lệ.
30/4/1975 đến. Những quyển sách lặng lẽ ở đường sách vỉa hè Sài Gòn cho tôi thấy đời sống văn hóa nhân loại, tầm vóc con người nhân loại của người dân miền Nam, khác với con người giai cấp, hằm hằm hận thù giai cấp và sắt máu đấu tranh giai cấp như con người tôi nhỏ bé, méo mó đến tội nghiệp. Người dân không những được đọc Alekxandr Solzenitsyn, đọc Boris Pasternak, những nhà văn Xô Viết mà còn được đọc tất cả những nhà văn Việt Nam nổi tiếng đang là những công thần ở miền Bắc, từ Nguyễn Tuân đến Chế Lan Viên, từ Nguyên Hồng đến Tế Hanh cho tôi thấy tự do tư tưởng có từ cách mạng dân chủ tư sản mấy thế kỉ trước, đến nay vẫn chưa có ở miền Bắc thì đang hiển hiện rạng rỡ ở miền Nam. Xã hội nào cũng có người nghèo nhưng số đông gia đình người dân miền Nam có cuộc sống phong lưu, đầy đủ tiện nghi hiện đại, nhất là phong thái đĩnh đạc, tự tin, hồn nhiên bộc lộ con người thật, bộc lộ cá tính, chẳng cần e dè, chẳng có gì phải né tránh, chẳng có gì co ro, rúm ró làm cho tôi kinh ngạc.
Lại nghĩ đến cuộc sống thường xuyên thèm khát từ một bữa cơm no. Nghĩ đến quyền năng ban phát mọi tiêu chuẩn sống, mọi giá trị sống cho con người làm cho con người luôn sợ sệt không dám bộc lộ mình, phải giấu mình đi, luôn lựa mình theo quyền năng, luôn nghĩ theo, nói theo khuôn mẫu có sẵn trong xã hội, không dám bộc lộ cái riêng, cái khác biệt để thành lạc hậu, chậm tiến, cản trở cách mạng. Nghĩ và bỗng nhận ra kiếp người chưa được sống của mình, một nỗi buồn mất mát, một nỗi đau thân phận làm đảo ngược lại nhận thức của tôi. Nỗi buồn mất mát, nỗi đau thân phận cứ lớn lên theo năm tháng làm cho nhận thức của tôi càng thay đổi mạnh mẽ, triệt để, quyết liệt, không khoan nhượng như để chuộc lại những năm tháng đã mất.
30/4/1975 cho tôi nhìn lại quãng đời dẫn tôi đến ngày 30/4/1975, cũng cho tôi nhìn lại một thời kì đất nước tôi vận động, chuyển mình đau đớn trong cách mạnh và chiến tranh, trong máu và nước mắt đến ngày 30/4/1975
Ảnh minh họa tự do báo chí và tự do bầu cử ở miền Nam Việt Nam năm 1967
2. Người ta bảo ngày 30/4/1975 có một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn. 30/4/1975 có vui, có buồn, đó là cái nhìn chỉ thấy bề nổi hiện thực trong thoáng chốc. Cái nhìn đó tuy có bớt vô cảm, bớt nhẫn tâm nhưng vẫn là cái nhìn bề ngoài mà không thấy cốt lõi, cái nhìn hời hợt, dễ dãi mà bỏ qua, che giấu, quên đi cội nguồn dẫn đến cái kết thúc đau buồn, mất mát 30/4/1975.
30/4/1975 chỉ là ngày kết thúc, là điểm dừng của một biến cố, một tai họa lịch sử kéo dài ba mươi năm. Tôi là thế hệ trong cuộc, là người lính vào sống ra chết trong tai họa của đất nước tôi, của cuộc đời tôi. Tôi đã góp năm tháng cuộc đời, góp mồ hôi và cả máu trong tai họa lịch sử đó. Tôi đã mang cả quãng đời dài nhất, quí nhất, đẹp nhất, giá trị nhất làm cho đất nước tôi mất đi một thời đại, làm cho nhân dân tôi phải mang nỗi đau buồn thế kỉ. Soi vào điểm dừng 30/4/1975 của tai họa lịch sử ba mươi năm là soi vào chính cuộc đời tôi, tôi càng nhận thức sâu sắc cái mất mát đau buồn đó.
Có ngày đau buồn 30/4/1975 vì có cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 do những người cộng sản phát động cướp chính quyền của chính phủ chính danh, phù hợp tiến trình lịch sử rồi cho ra đời nhà nước ngược tiến trình lịch sử có tên là nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhưng thực chất là nhà nước cộng sản phong kiến.
Nhà nước phong kiến xa xưa là nhà nước của một gia tộc, cha truyền con nối. Nhà nước phong kiến hiện đại là nhà nước của một tổ chức chính trị, quyền lực vừa truyền nối theo dòng máu gia tộc, trong nội bộ gia tộc, vừa truyền nối theo dòng máu đảng, trong nội bộ đảng. Nhà nước phong kiến xa xưa hay hiện đại đều tồn tại bằng độc tài tước đoạt quyền con người, quyền làm chủ đất nước của người dân, đưa con người về bầy đàn, đưa dân tộc vào nô lệ, đưa xã hội vào độc tài. Nhà nước phong kiến xa xưa hay hiện đại đều độc quyền chân lí, độc quyền lẽ phải, độc quyền luật pháp, độc quyền sự thật, độc quyền cả lãnh thổ quốc gia. Lãnh thổ quốc gia thời phong kiến xa xưa là của vua, thời phong kiến hiện đại là của đảng chính trị độc tài đương quyền.
Ra đời ngày 2/9/1945, nhà nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lúc đầu còn che giấu nhưng càng ngày càng thể hiện đầy đủ đặc trưng, phẩm chất của một nhà nước phong kiến. Nhà nước phong kiến cộng sản đã chặt đứt tiến trình lịch sử Việt Nam, kéo Việt Nam lùi lại cả trăm năm. 30/4/1975 chỉ là hậu quả tất yếu của ba mươi năm máu và nước mắt khởi đầu từ 2/9/1945.
Tôi xin diễn giải về nhà nước Việt Nam ra đời từ 2/9/1945 đưa xã hội Việt Nam vừa chập chững bước vào văn minh công nghiệp, văn minh đô thị lại lùi trở về thời văn minh nông nghiệp từ ngàn năm trước, đưa dân tộc Việt Nam vào chiến tranh phong kiến liên miên và đẫm máu. 30/4/1975 ngày kết thúc cuộc chiến tranh giành lãnh thổ cho thế lực phong kiến mới, phong kiến cộng sản, ngày đại thắng của phong kiến cộng sản nhưng là ngày đại bại của cả dân tộc Việt Nam.
Chiến tranh phong kiến là cuộc chiến tranh do lãnh chúa phong kiến phát động núp dưới những mĩ từ giả dối, lừa bịp : giải phóng, độc lập, cứu nước nhưng thực sự chỉ để lãnh chúa cộng sản, thâu tóm quyền lực, áp đặt sự thống trị độc tài cộng sản trên cả nước. Chiến tranh Việt Nam ba mươi năm, 1945 – 1975 thực sự là cuộc chiến tranh phong kiến và ngày 30/4/1975 là ngày kết thúc. Giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh phong kiến tương tàn, áp đặt thể chế độc tài cộng sản trên cả nước, đảng cộng sản có cả xã tắc Việt Nam còn người dân Việt Nam thì mất trắng. Năm 1954, người dân nửa nước Bắc Việt bị lùa về thời bầy đàn. 30/4/1975, đến lượt người dân Nam Việt chung số phận với người dân Bắc Việt. Cả nước bị lùa về thời bầy đàn. Cả dân tộc Việt Nam trong ai oán nô lệ cộng sản. Cả xã hội Việt Nam trong ngột ngạt độc tài.
Trước 30/4/1975, bị hấp dẫn bởi những mĩ tử độc lập, giải phóng, cứu nước, hàng loạt trí thức miền Nam bỏ khoa học, bỏ sự nghiệp, bỏ nhung lụa, theo những người cộng sản vào rừng nằm gai nếm mật với niềm tin chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc. Sau 30/4/1975 những trí tuệ như Luật sư Trương Như Tảng, Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa mới cay đắng nhận ra độc lập, giải phóng, cứu nước chỉ là chiêu bài, chỉ là bánh vẽ ! Sự thật là những quyền con người cơ bản, người dân cũng không có thì độc lập làm gì ? Người dân đang tung tăng tự do. Tự do kiếm sống. Tự do tiếp nhận thông tin. Tự do bộc lộ chính kiến chính trị. Tự do ra báo tư nhân. Tự do ứng cử, bầu cử. Tự do rầm rộ biểu tình phế bỏ chính phủ không thuận lòng dân. Nay người dân chỉ còn là bầy cừu, không được ho he điều gì trái ý quyền lực, người dân chỉ là rô bốt cầm lá phiếu bầu cử theo ý quyền lực thì giải phóng nỗi gì ? Người Việt giết người Việt, người Việt tước đoạt quyền sống của người Việt, người Việt có quyền lực nhà nước tù đày người Việt lương thiện mà là cứu nước ư ? Nước Việt là sở hữu độc quyền của lãnh chúa cộng sản, người dân đâu còn nước mà cứu !
Vì vậy, 30/4/1975 là ngày đau buồn của cả dân tộc Việt Nam. Làm gì có triệu người vui !
Còn đâu những cuộc vận động bầu cử tự do như ở miền Nam Việt Nam..
3. Tiến trình lịch sử loài người là : Con người đi từ bầy đàn đến cá nhân, xã hội đi từ độc tài đến dân chủ và lịch sử loài người là lịch sử giải phóng. Giải phóng cá nhân khỏi bầy đàn. Giải phóng dân tộc khỏi nô lệ. Giải phóng xã hội khỏi độc tài. Cả ba cái giải phóng này, giải phóng khỏi bầy đàn, giải phóng khỏi nô lệ, giải phóng khỏi độc tài đều nhằm giải phóng sức sáng tạo vô tận của con người khỏi mọi tù hãm, trói buộc. Sức sáng tạo vô tận của con người được giải phóng mới có những con người khổng lồ Steve Jobs, Bill Gates, Elon Musk… Tất cả phải bắt đầu từ giải phóng cá nhân và giải phóng cá nhân là trung tâm, là cội nguồn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Nhưng lí luận của ông thủy tổ cộng sản K. Marx lại cho rằng lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trang bị lí luận đấu tranh giai cấp và bơm liều đô pinh cho giai cấp vô sản : Làm cách mạng vô sản, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay nhân dân, giai cấp vô sản chỉ mất xích xiềng nô lệ mà được cả thế giới, rồi ông Marx đẩy những người vô sản nghèo khổ, không của cải, không trí tuệ vào cuộc đấu tranh giai cấp ảo tưởng nhưng đẫm máu và triền miên. Thế kỉ 20 là thế kỉ biến động dữ dội nhất của lịch sử loài ngươi. Thế kỉ chia đôi loài người. Nửa loài người rầm rộ bước vào văn minh công nghiệp thì cũng có nửa loài người sôi sục đấu tranh giai cấp, say máu chiến tranh ý thức hệ. Máu người Việt lênh láng trong cuộc chiến tranh ba mươi năm kết thúc ngày 30/4/1975 ở nửa thế giới đẫm máu đó.
Trên thế giới, hầu hết những nơi có đảng cộng sản đều có lật đổ, cướp chính quyền, đều có chiến tranh ý thức hệ đẫm máu dân. Cướp được chính quyền, chiến thắng bằng máu dân, nhà nước phong kiến cộng sản ra đời lại đưa dân về bầy đàn. Lịch sử Việt Nam ba mươi năm qua là một minh chứng xác đáng. 2/9/1945, nhà nước phong kiến cộng sản ra đời. 1954, người dân nửa nước Việt Nam phía Bắc về bầy đàn. 30/4/1975 người dân cả nước về bầy đàn.
Con người còn là bầy đàn công cụ trong tay lãnh chúa phong kiến thì xã hội mãi mãi trong nền sản xuất nông nghiệp theo thói quen, theo kinh nghiệm. Ngàn năm sau vẫn như ngàn năm trước. Cách mạng tư sản dân quyền 1789 thực chất là cuộc cách mạng giải phóng cá nhân khỏi bầy đàn. Cái Tôi được nhìn nhận, trí tuệ tài năng con người được khai thác mới tạo ra dồn dập những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, đưa loài người vào xã hội công nghiệp. Văn minh công nghiệp với luật pháp dân chủ nhân quyền lại đưa xã hội đi từ độc tài đến dân chủ. Đó là tiến trình lịch sử tất yếu của xã hội loài người.
Cách mạng tư sản dân quyền rầm rộ ở Tây Âu thế kỉ 18 đã đưa nước Pháp từ nền sản xuất nông nghiệp trì trệ bước vào nền sản xuất công nghiệp phát triển. Công nghiệp hóa cho nước Pháp sức mạnh chinh phục thế giới, xâm chiếm thuộc địa, tìm nguyên liệu, tìm thị trường cho nền sản xuất công nghiệp. Thế kỉ 18, 19, Pháp xâm lược Việt Nam và nhiều nước chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh để làm công nghiệp hóa nước Pháp, khác với suốt mấy ngàn năm trước, hết lần này đến lần khác, Đại Hán xâm lược Việt Nam chỉ nhằm bành trướng mở rộng lãnh thổ Đại Hán.
Biến lãnh thổ Đại Việt thành lãnh thổ Đại Hán thì phải xóa sổ văn hóa Việt, xóa sổ giống nòi Việt bằng cách tuyệt diệt nền văn hóa làm nên linh hồn người Việt, tuyệt diệt tầng lớp trí thức tinh hoa người Việt, nơi kết tinh nền văn hóa Việt và đồng hóa khối dân thường còn lại bằng cách thay dòng máu Đại Việt bằng dòng máu Đại Hán trong con người Việt. Các triều đại nhà Hán xâm lược Việt Nam từ Hán, Tống, Nguyên, Minh đều triệt để đồng hóa, xóa sổ dân tộc Việt Nam. Hàng ngàn năm Bắc thuộc, Đại Hán không đồng hóa được cộng đồng người Việt bé nhỏ bởi hồn văn hóa của nền văn minh sông Hồng bền bỉ trong lời ăn tiếng nói, trong phong tục tập quán, trong văn hóa làng xã người Việt. Như trống đồng Đông Sơn bền bỉ trong lòng đất phù sa sông Hồng.
Pháp xâm lược Việt Nam, đàn áp dã man tinh thần dân tộc Việt Nam, bóc lột tàn bạo tài nguyên Việt Nam nhưng nước Pháp của cách mạng tư sản dân quyền, của văn minh công nghiệp vẫn chăm chút giữ gìn, bảo tồn nền văn minh sông Hồng tạo nên hồn vía dân tộc Việt. Xây khá nhiều bảo tàng trên khắp đất nước Việt Nam từ rất sớm bảo tồn văn hóa Việt. Xây dựng nhiều trường học hiện đại từ tiểu học tới đại học và thực hiện nền giáo dục khai sáng, nhân văn, đào tạo lớp người Việt tài năng, phát hiện và nuôi dưỡng những tinh hoa người Việt.
Xâm lược Việt Nam, đưa những nhà cai trị của triết học Ánh sáng đến Việt Nam, Pháp cũng đưa lí tưởng cách mạng tư sản Pháp : Tự do – Bình đẳng – Bác ái đến Việt Nam và đưa luật pháp dân chủ tư sản, nhìn nhận sự có mặt của cá nhân vào Việt Nam, tạo ra sự xuất hiện đội ngũ trí thức khai sáng người Việt.
Khai thác thuộc địa, Pháp cũng tạo nên nền móng cơ sở vật chất đầu tiên của văn minh công nghiệp, văn minh đô thị, tạo ra những trung tâm công nghiệp và đô thị thương mại sầm uất, tạo ra môi trường sản xuất kinh doanh công nghiệp, làm xuất hiện tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam khá đông đảo, đầy tài năng làm giầu và sắt son lòng yêu nước.
Đội ngũ tư sản non trẻ và nồng nàn lòng yêu nước cùng đội ngũ trí thức tài năng trẻ trung và đông đảo mang hồn Việt Nam : Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Lâm Triều Phát, Trương Văn Bền, Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện, Phạm Chấn Hưng, Ngô Tử Hạ, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn . . . đang đua tranh cùng tư sản Pháp đưa Việt Nam vào văn minh công nghiệp, hòa nhập với thời đại công nghiệp hóa trên thế giới.
Thế kỉ 20, đội ngũ tư sản non trẻ và trí thức tài năng là lớp người tiêu biểu, lớp người tiên tiến tạo ra động lực mạnh mẽ chấn hưng đất nước Việt Nam. Đội ngũ tư sản non trẻ và trí thức tài năng đang gắng gỏi mở ra thời kì mới cho đất nước Việt Nam, chấn hưng đất nước bằng công nghiệp hóa, đưa xã hội Việt Nam ngàn đời dậm chân trong văn minh nông nghiệp chập chững bước vào văn minh công nghiệp cùng tiến trình lịch sử nhân loại.
Văn minh công nghiệp không chỉ là động lực của kinh tế. Văn minh công nghiệp còn là động lực của lịch sử. Sức mạnh thời văn minh nông nghiệp chỉ là sức người. Do đó đấu tranh giành độc lập dân tộc thời phong kiến Trung Cổ chỉ có con đường máu, con đường bạo lực, khởi nghĩa vũ trang. Sức mạnh của văn minh công nghiệp là sức mạnh khoa học kĩ thuật, là trí tuệ sáng tạo, là dân trí và luật pháp dân chủ tư sản mà lí tưởng cao nhất của luật pháp dân chủ tư sản là : Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng và mọi dân tộc đều có quyền tự quyết.
Khi loài người đã bước vào văn minh công nghiệp, đấu tranh giành độc lập dân tộc không còn là con đường bạo lực đẫm máu nữa mà là con đường luật pháp, con đường khai dân trí để người dân sử dụng luật pháp dân chủ tư sản giành quyền dân tộc tự quyết, giành độc lập. Mahatma Gandhi (1869 – 1948) đã đưa Ấn Độ đi con đường không bạo lực, con đường đấu tranh chính trị, đấu tranh nghị trường và Ấn Độ đã giành được độc lập không đổ máu từ 1947.
Những liên danh tranh cử Tổng thống ở miền Nam Việt Nam năm 1967 – Tuần báo Life
Khai dân trí, đưa người dân vào cuộc đấu tranh không bạo lực, giành độc lập bằng luật pháp dân chủ tư sản cũng đưa người dân vào tư thế làm chủ đất nước. Người dân tự do lập đảng chính trị, tự do tham gia đảng chính trị đấu tranh giành độc lập, người dân tự do cầm lá phiếu bầu chọn đảng chính trị lãnh đạo đất nước. Không bạo lực, giành độc lập không bằng máu dân mà bằng luật pháp dân chủ tư sản, bằng sức mạnh công lí và sức mạnh thời đại, từ 1947, Ấn Độ giành được độc lập thực sự và có nhà nước dân chủ thực sự.
Từ đầu thế kỉ 20, Phan Châu Trinh cũng đã nhận ra con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc không bạo lực mà cách mạng dân chủ tư sản mở ra là con đường của Việt Nam. Khai dân trí, tập hợp sức mạnh nhân dân và sức mạnh luật pháp dân chủ tư sản đấu tranh giành độc lập là con đường duy nhất đúng khi loài người đang từ bỏ văn minh nông nghiệp bước vào văn minh công nghiệp. Phan Châu Trinh mất. Chính phủ Trần Trọng Kim tập hợp những trí thức và tư sản dân tộc mang tinh thần cách mạng dân chủ tư sản cũng mang tinh thần Phan Châu Trinh có sức ảnh hưởng và có vai trò dẫn dắt xã hội lúc đó thực sự là chính phủ cần thiết của Việt Nam, đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử
Dù bị những người cộng sản gán cho tội thân Nhật, do Nhật dựng lên nhưng chính phủ Trần Trọng Kim còn tồn tại khi Nhật đầu hàng thì lực lượng đồng minh vào Việt Nam giải giáp quân Nhật sẽ giải tán chính phủ Trần Trọng Kim và lập chính phủ mới vẫn mang tinh thần cách mạng dân chủ tư sản, vẫn tập hợp những trí thức và tư sản dân tộc đưa Việt Nam hòa nhập với thế giới đang công nghiệp hóa trong bình yên của luật pháp dân chủ tư sản. Việt Nam vẫn trong tiến trình đi tới cùng loài người văn minh.
Nhưng những người cộng sản đã cướp chính quyền của chính phủ phù hợp tiến trình lịch sử nhân loại, chính phủ hội tụ trí thức và tư sản dân tộc, dựng lên chính phủ công nông mang ý chí sắt máu đấu tranh giai cấp, ngược tiến trình lịch sử của loài người.
Chính phủ của trí thức và tư sản dân tộc đương nhiên phải đưa Việt Nam đi cùng nửa loài người đang rầm rộ làm cách mạng công nghiệp. Cướp chính quyền của chính phủ trí thức và tư sản dân tộc, đương nhiên chính phủ công nông đấu tranh giai cấp phải đưa Việt Nam đi với nửa loài người đang sôi sục đấu tranh giai cấp, đang say máu chiến tranh ý thức hệ. Và Việt Nam đã bị chính phủ cộng sản Hồ Chí Minh đẩy vào vòng xoáy máu lửa cách mạng vô sản thế giới từ năm 1945 đến tận 30/4/1975.
Kết thúc cuộc nội chiến đẫm máu người Việt cộng sản bắn giết, thanh toán người Việt không cộng sản suốt ba mươi năm bằng chiến thắng của những người cộng sản, những người sắt máu phát động cuộc chiến tranh tương tàn chỉ để giành lãnh thổ Việt Nam cho đảng cộng sản Việt Nam, cho giai cấp vô sản thế giới, chỉ để áp đặt lên cả nước Việt Nam thể chế độc tài cộng sản còn đau thương, bạo liệt hơn cả độc tài Trung Cổ.
Ngày 30/4/1975 chỉ là ngày đau buồn của cả dân tộc Việt Nam. Làm gì có triệu người vui !
Phạm Đình Trọng
(01/05/2023)
Mười chín năm trước, 2004, nguyên Thủ tướng cộng sản Võ Văn Kiệt nói : "Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm sẽ "có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn".
Kết quả bầu cử Tổng thống tại miền Nam Việt Nam năm 1967 (trước tòa nhà Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, Sài Gòn) - Ảnh minh họa
Trong cuộc phỏng vấn của báo Quốc Tế thuộc bộ Ngoại giao phổ biến ngày 30/3/2005, ông Kiệt khuyên : "Vết thương chung của dân tộc như vậy cần được giữ lành, "thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu". Và muốn để mọi người Việt Nam chung tay hàn gắn thì chúng ta, người chiến thắng và đang lãnh đạo đất nước, "phải thực tâm khoan dung và hòa hợp".
Nhưng 48 năm qua, đảng cầm quyền cộng sản vẫn chưa có bất cứ hành động nào để hòa giải và hòa hợp dân tộc. Ngược lại, từ ngôn ngữ đến hành động, chỉ thấy người cộng sản gây chia rẽ và hận thù thêm cho dân tộc.
Về ngôn ngữ, đảng và báo chí nhà nước vẫn gọi Chính quyền Việt Nam Cộng hòa là "ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Đế quốc Mỹ". Trong hành động, xuyên qua Nghị quyết 36 và Kết luận 12, Đảng vẫn bảo thủ và kiêu ngạo cộng sản khi không nhìn nhận những ngưới bất đồng chính kiên trong và ngoài nước là "một thực thể chính trị" cần được gặp gỡ và thảo luận về hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Vì vậy, sau 19 năm ra đời của Nghị quyết 36 "Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài", ban hành ngày 26/3/2004, sau đó bổ xung Kết luận 12-KL/TW ngày 12/8/2021 "về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới", mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ.
Lý do vì trong hàng ngũ lãnh đạo, vẫn còn những kẻ tự mãn là bên thắng cuộc không cần phải nói chuyện với người bại trận. Theo họ, hàng ngũ thua cuộc phải tìm cách hội nhập để xây dựng đất nước dưới quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, đảng đã nhìn nhận trong Kết luận-12 : "Công tác người Việt Nam ở nước ngoài còn một số hạn chế. Có nơi, có lúc công tác người Việt Nam ở nước ngoài chưa được các cơ quan, tổ chức quan tâm đúng mức ; công tác nắm tình hình cộng đồng, tham mưu, kiến nghị và phối hợp triển khai chủ trương, chính sách chưa sâu sát, chặt chẽ và kịp thời ; chưa phát huy được tiềm năng, thế mạnh của đồng bào ta ở nước ngoài" (Kết luận 12-KL/TW, ngày 12/8/2021).
Bộ Chính trị cho rằng "công tác người Việt Nam ở nước ngoài cần tiếp tục được triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn", đặt lên hàng đầu "chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc".
Kết luận-12 cũng lập lại những gì đã viết trong Nghị quyết-36, theo đó : "Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, linh hoạt trong triển khai vận động người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là thế hệ trẻ, gắn bó với quê hương, đóng góp tích cực vào sự phát triển của nước sở tại, trở thành cầu nối, góp phần thúc đẩy quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước. Kiên trì vận động những kiều bào còn có định kiến để củng cố niềm tin, yên tâm hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc. Tiếp tục coi trọng, quan tâm hỗ trợ và phát huy vai trò của các lực lượng nòng cốt, những người có uy tín, ảnh hưởng trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài".
Chủ trương này rõ ràng là nhà nước cộng sản muốn thao túng hàng ngũ các tổ chức của người Việt ở nước ngoài để kéo họ vào qũy đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhưng Kết luận-12 cũng như Nghị quyết-36 đã không che được bản chất "nói một đường làm một nẻo" của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản, vì ngay đối với người trong nước mà nhà nước chưa "hòa giải" được thì làm sao nói chuyện phải trái với người Việt phải bỏ nước ra đi chỉ vì không sống nổi với chế độ.
Đây cũng là lý do tại sao trong số trên 70.000 trí thức trẻ ở nước ngoài là những chuyên viên khoa học-kỹ thuật, chỉ có một số ít đếm trên đầu ngón tay đã về giúp Việt Nam.
Nỗi buồn Phạm Đình Trọng
Vì vậy, mọi người nên đọc tâm sự của cựu Đại tá, Nhà văn cộng sản Phạm Đình Trọng : "30/4/1975 chỉ là ngày kết thúc, là điểm dừng của một biến cố, một tai họa lịch sử kéo dài ba mươi năm".
Ông nói : "Tôi là thế hệ trong cuộc, là người lính vào sống ra chết trong tai họa của đất nước tôi, của cuộc đời tôi. Tôi đã góp năm tháng cuộc đời, góp mồ hôi và cả máu trong tai họa lịch sử đó. Tôi đã mang cả quãng đời dài nhất, quí nhất, đẹp nhất, giá trị nhất làm cho đất nước tôi mất đi một thời đại, làm cho nhân dân tôi phải mang nỗi đau buồn thế kỉ. Soi vào điểm dừng 30/4/1975 của tai họa lịch sử ba mươi năm là soi vào chính cuộc đời tôi, tôi càng nhận thức sâu sắc cái mất mát đau buồn đó" ("Ngày đau buồn" trên Facebook cá nhân, ngày 30/04/2023)
Vì nhận ra được những tuyên truyền xảo trá của đảng, Nhà văn Phạm Đình Trọng đã cùng với một số nhà văn khác đã tuyên bố ra khỏi đảng.
Ông tuyên bố : "Tôi là Phạm Đình Trọng, nhà văn, là đảng viên cộng sản lớp Hồ Chí Minh từ 19/5/1970. Đến nay, 20/11/2009, tôi tự thấy đảng cộng sản không còn phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng. Thiếu vài tháng nữa, tôi tròn 40 năm là người cộng sản. Từ lúc tự nguyện đứng vào hàng ngũ cộng sản, đến tự rút ra khỏi đảng là một quá trình chuyển biến trong tôi, từ nhận thức bằng tình cảm sang nhận thức bằng lí trí và cũng là quá trình chuyển biến của chính đảng cộng sản, từ ý chí vì dân, vì nước sang ý chí chỉ vì sự tồn tại của đảng".
Nhà văn Phạm Đình Trọng viết tiếp trong "Ngày đau buồn" : "Năm 1954, người dân nửa nước Bắc Việt bị lùa về thời bầy đàn. 30/4/1975, đến lượt người dân Nam Việt chung số phận với người dân Bắc Việt. Cả nước bị lùa về thời bầy đàn. Cả dân tộc Việt Nam trong ai oán nô lệ cộng sản. Cả xã hội Việt Nam trong ngột ngạt độc tài".
"Sau 30/4/1975 những trí tuệ như Luật sư Trương Như Tảng, Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa mới cay đắng nhận ra độc lập, giải phóng, cứu nước chỉ là chiêu bài, chỉ là bánh vẽ ! Sự thật là những quyền con người cơ bản, người dân cũng không có thì độc lập làm gì ?"
Nói về cuộc sống thanh bình của người dân miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ông Trọng hỏi Đảng : "Người dân đang tung tăng tự do. Tự do kiếm sống. Tự do tiếp nhận thông tin. Tự do bộc lộ chính kiến chính trị. Tự do ra báo tư nhân. Tự do ứng cử, bầu cử. Tự do rầm rộ biểu tình phế bỏ chính phủ không thuận lòng dân. Nay người dân chỉ còn là bầy cừu, không được ho he điều gì trái ý quyền lực, người dân chỉ là rô bốt cầm lá phiếu bầu cử theo ý quyền lực thì giải phóng nỗi gì ?".
Nhà văn hỏi tiếp : "Người Việt giết người Việt, người Việt tước đoạt quyền sống của người Việt, người Việt có quyền lực nhà nước tù đày người Việt lương thiện mà là cứu nước ư ? Nước Việt là sở hữu độc quyền của lãnh chúa cộng sản, người dân đâu còn nước mà cứu !
Vì vậy, 30/4/1975 là ngày đau buồn của cả dân tộc Việt Nam".
Bích chương tranh cử Tổng thống của Liên danh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ năm 1967 - Ảnh minh họa
Ai nổi dậy ?
Quả thật là như thế, vì sau 48 năm mệnh danh "Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975", Đảng cộng sản Việt Nam đã để lại cho đất nước muôn vàn tang thương và đổ vỡ từ tinh thần đến vật chất.
Hành động hủy diệt đau buồn này xẩy ra chỉ sau 7 năm Đảng thực hiện "cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968" với những vụ thảm sát thường dân kinh hoàng ở cố đô Huế.
Tài liệu của Bách khoa toàn thư mở viết : "Trận Mậu Thân tại Huế, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968, và kéo dài tổng cộng 26 ngày, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh. Số liệu từ các nguồn khác nhau có sự không thống nhất.
Theo Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu Việt Nam Cộng Hòa khu vực Thừa Thiên, trong 22 địa điểm tìm được các mồ chôn tập thể, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, các gia đình kê khai có người chết hoặc mất tích là 4.000 gia đình. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được họ xác định là đã bị mất tích, bắt cóc hoặc bị giết. Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc, bị tra tấn và đôi khi bị chôn sống".
Tài liệu viết tiếp : "Võ Văn Bằng, quan chức Việt Nam Cộng Hòa, Trưởng ban Cải táng trả lời Đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008 thì cho rằng : "Các hố cách nhau. Mỗi hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…".
Phía quân cộng sản phủ nhận đã gây ra các vụ thảm sát. Tuy nhiên, nhiều người sống sót là nhân chứng xác nhận đã có các vụ quân cộng sản hành quyết các viên chức và cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa khi chiếm Huế.
Tuy nhiên không hề có các cuộc được gọi là "nổi dậy" của quần chúng đi theo và ủng hộ "quân giải phóng" Việt Cộng trong hai vụ Tết Mậu Thân 1968 và Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975.
Ngược lại, hàng trăm ngàn dân đã bỏ nhà chạy về phía Quân đội quốc gia khi bị Việt Cộng tấn công. Đây là bằng chứng cho thấy những cuộc "nổi dậy" của dân đã được ngụy tạo để tuyên truyền.
Đảng cộng sản Việt Nam cũng không thể phủ nhận lý do vượt biển và vượt biên tìm tự do của hàng trăm ngàn người Việt từ 1975, sau khi Chính quyền cộng sản tiêu diệt nền kinh tế tự do thời Việt Nam Cộng Hòa.
Tài liệu của Bách khoa Toàn thư (Wikipedia) mở viết : "Theo Cao ủy Tỵ nạn Liên Hợp Quốc (UNHCR) thì trong khoảng thời gian 20 năm từ 1975 đến 1995 có 796.310 người từ Việt Nam vượt biên bằng đường biển. Cũng theo số liệu của tổ chức này, trong khoảng thời gian 1975-1995 đã có 849.228 người từ Đông Dương vượt biên bằng đường biển hoặc đường bộ (tính cả người Campuchia). Theo số liệu của Indonesia, trong khoảng thời gian 1975-1996 đã có 250.000 người từ Việt Nam và Campuchia tới tá túc trên đảo Galang. Tuy tới từ Việt Nam, nhưng theo thống kê thì 2/3 số người vượt biên là người gốc Hoa.
Theo quan điểm của chính quyền cộng sản Việt Nam thì việc vượt biên là do các thế lực đế quốc thù địch với Việt Nam (ngầm chỉ Mỹ và Trung Quốc) muốn phá hoại làm suy yếu đất nước, hòng mở cuộc gây hấn với Việt Nam...".
Tài liệu của Wikipedia tiếng Việt cũng cho biết : "Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn ước tính có từ 200.000 đến 400.000 thuyền nhân chết trên biển do mọi nguyên nhân (bệnh tật, tai nạn, bão tố, gặp hải tặc...). Những ước tính khác cho rằng có từ 10 đến 70 phần trăm thuyền nhân chết trên biển do mọi nguyên nhân".
Vậy ai đã gây ra thảm cảnh vượt biên và vượt biển cho người miền Nam, nếu không phải là chính quyền cộng sản, sau khi cưỡng chiếm được Việt Nam Cộng Hòa ? Cũng chính quyền này đã tiêu diệt hàng ngũ trí thức và tiêu diệt nền văn hóa nhân bản của miền Nam, sau ngày quân cộng sản vào Sài Gòn.
Trách nhiệm lịch sử này sẽ mãi mãi tồn tại với nỗi đau buồn thắt ruột của ngày 30/4/1975. Cũng vì ngày này mà tuy đất nước đã thống nhất nhưng lòng người Nam, kẻ Bắc vẫn xa nhau vời vợi.
Và trái với những hứa hẹn đoàn kết dân tộc để xây dựng đất nước phồn vinh thì Đảng cộng sản cầm quyền lại tiếp tục độc tài cai trị, độc quyền báo chí để kìm kẹp tư tưởng và dùng bạo lực và tù đầy để đàn áp dân chủ, nhân quyền.
Như vậy, ngày 30/4/1975 có xứng đáng là "ngày giải phóng" hay đã biến thành "ngày nô lệ" cho cả dân tộc
Phạm Trần
(30/04/2023)
Mời quí vị theo dõi buổi hội luận với chủ đề "Việt Nam : 48 năm sau 30/4/1975" với sự tham gia của các Giáo sư Tiến sĩ Ngô Thanh Nhàn, Đại học New York ; Trang Phạm Kelly, Đại học thành phố New York và La Thị Thanh Thủy, Đại học Hawaii.
Nguồn : RFA, 30/04/2023
Người học lịch sử sau này sẽ tự hỏi tại sao chế độ đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau ở các nước Đông Âu và Nga, để dân Việt Nam được sống tự do sớm hơn, có cơ hội phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn ?
Một bài học kinh nghiệm mà người Việt Nam năm 2075 có thể nghĩ ra là đừng bao giờ chấp nhận sống dưới một chế độ độc tài. Nhất là một chế độ dựa trên một hệ thống tư tưởng giáo điều, hủ lậu, cố chấp. Ảnh minh họa V.I. Lê-nin - Lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới /Tư liệu
Ký giả này đã nhiều lần tự hỏi một cuốn lịch sử Việt Nam in năm 2075 sẽ nói gì về ngày 30 tháng Tư trước đó 100 năm ?
Nhà viết sử sẽ ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975 là ngày cuộc nội chiến đã chấm dứt giết chết hai triệu người Việt ; sau đó ba, bốn trăm ngàn người Việt đã vùi xác trên Biển Đông khi tìm đường chạy trốn một chế độ độc tài khắc nghiệt. Sách có thể ghi chú rằng dân số cả nước lúc đó khoảng 35 triệu.
Các sử gia sẽ so sánh : Cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, 18 là do hai dòng họ các tướng quân tranh quyền, chiến tranh kéo dài đến vài trăm năm. Cuộc nội chiến thế kỷ 20 không lâu như lần trước, chỉ có 16 năm, từ tháng 5 năm 1959, khi toán quân Bắc Việt đầu tiên theo đường Trường Sơn xâm nhập miền Nam. Nhưng số người chết cao gấp mấy chục lần.
Chắc các nhà viết sử sẽ phải nhìn rộng hơn để tìm hiểu cái gì gây nên cuộc nội chiến thứ nhì này ? Tìm đến gốc thì đó là một phần trong lịch sử của cả loài người, cái gọi là "Chiến tranh Lạnh" giữa hai khối tư bản và cộng sản. Gốc rễ bắt đầu là phương thức kinh tế tư bản phát triển vào thế kỷ 18 ở Âu Châu, đưa tới một phản ứng là lý thuyết Mác xít. Từ đó, có cuộc cách mạng năm 1917 thành lập một chế độ cộng sản ở nước Nga. Rồi thế giới chia hai, nhiều quốc gia cũng bị cắt đôi theo hai ý thức hệ.
Trong lịch sử Việt Nam thì cuộc nội chiến chấm dứt năm 1975 chỉ là một đoạn trong một cuộc tranh chấp lâu dài hơn giữa hai chủ trương lập quốc sau khi thoát nạn thực dân. Một bên là những người muốn đưa nước ta vào làm một thành phần, một đội quân đi hàng đầu trong mặt trận quốc tế do Liên Xô lãnh đạo. Bên kia là những người chủ trương lấy dân tộc làm mục đích chính yếu, liên kết với các nước chống lại Nga Xô. Một bên muốn thiết lập chế độ chuyên chính của đảng cộng sản, tổ chức kinh tế theo lối hoạch định tập trung. Bên kia muốn tùy nghi học hỏi theo kinh nghiệm các chế độ chính trị tự do dân chủ, với hệ thống kinh tế thị trường, cũng gọi là kinh tế tư bản, có thể tùy nghi lựa chọn vì ở mỗi nước mỗi khác.
Nhưng không phải bất cứ một nước Châu Á và Châu Phi nào cũng trở thành bãi chiến trường cho hai khối cộng sản và tư bản tranh hùng giết hàng triệu người, như ở Việt Nam. Ấn Độ không, Thái Lan không, các cựu thuộc địa như Phi Luật Tân, Malaysia, Indonesia, vân vân, cũng không lâm cảnh tương tàn bi thảm như nước mình. Những nước đã bị chia đôi như Đức, Hàn Quốc sau năm 1954, cũng không bị cảnh nội chiến kéo dài như ở Việt Nam. Có phải các quốc gia này tình cờ, gặp may mắn hay chăng ? Hay là giới lãnh đạo ở các nước đó khôn ngoan hơn người Việt ?
Vì vậy Việt Nam là một trường hợp đặc biệt, và rất đáng thương. Sự kiện đầu tiên đẫn tới cuộc nội chiến là ông Hồ Chí Minh lập Đảng cộng sản Việt Nam, nhắm mục đích đưa người Việt vào chủ nghĩa cộng sản, một tín ngưỡng duy vật. Ông theo đường lối Stalin bên Moskva muốn dùng phong trào Cộng sản Quốc tế mở rộng ảnh hưởng của Nga ra khắp thế giới.
Lúc Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (sau bị Stalin bắt đổi tên là Đảng cộng sản Đông Dương), nước Việt Nam đang bị người Pháp cai trị và bóc lột. Người Việt Nam đã nổi lên chống Pháp suốt từ cuối thế kỷ 19. Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước đều chống Pháp. Tất cả đều mong đuổi người Pháp đi, xây dựng một nước Việt Nam độc lập. Những chiến sĩ bị người Pháp hành quyết trong năm đó là 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Các nhà cách mạng đều muốn nước Việt Nam sau khi độc lập sẽ theo một chế độ dân chủ, tự do giống như thể chế của nước Pháp sau các cuộc cách mạng 1789 và nước Trung Hoa từ năm 1911.
Ông Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam nghĩ khác. Họ nêu chủ trương rõ rệt là sau khi được độc lập thì sẽ thiết lập ở nước ta một chế độ theo kiểu của Stalin gọi là "vô sản chuyên chính". Họ nhắm biến Việt Nam thành một phần của mặt trận vô sản thế giới chống chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Theo ông Stalin, các khái niệm về quốc gia, về tổ quốc là các tư tưởng lạc hậu.
Các người nghiên cứu có thể thấy rõ ý nguyện của Hồ Chí Minh trong báoThanh Niên do ông xuất bản ở Quảng Châu. Ngày 18/10/1925 báo này in trên tiêu đề khẩu hiệu : "Vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết lại !" Đó là kết luận của bản Tuyên ngôn Cộng sản, do hai nhà triết học Đức, Karl Marx và Friedrich Engels viết vào tháng 2/1848. Câu này vẫn còn trên bia mộ của Karl Marx ở nghĩa trang Highgate, London.
Ngày 20/12/1926 ông Hồ viết trên báoThanh Niên : "Cái danh từ tổ quốc là do các chính trị gia đặt ra để đè đầu nhân dân... để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có tổ quốc, cũng chẳng có biên giới". Không có quốc gia, không có tổ quốc, đó là quan điểm rõ rệt của ông Hồ Chí Minh.
Đảng cộng sản ra đời năm 1930 đặt cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước một ngã rẽ : Phải lựa chọn giữa khuynh hướng quốc gia, dân tộc và một chủ nghĩa quốc tế.
Ông Hồ Chí Minh đã chọn đường lối quốc tế, sau khi "hãnh diện đã được giác ngộ" ở Pháp, rồi được huấn luyện các kỹ thuật nghề gián điệp, tuyên truyền, ở Moskva. Nhiều nhà cách mạng Việt Nam không đồng ý, họ chỉ nhắm mục tiêu giành độc lập dân tộc.
Từ đó, ở nước ta có hai xu hướng chính trị đối nghịch, quốc gia và quốc tế, mối xung đột càng ngày càng nặng nề. Khi thế giới chia ra hai khối theo ý thức hệ tư bản và cộng sản, Việt Nam cũng chia làm hai, giống ở Đức và Hàn Quốc. Vì vậy nước ta trở thành chiến địa cho hai thế lực quốc tế, làm nơi thí nghiệm các loại vũ khí của Nga và Mỹ.
Các nước Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân không lâm cảnh tương tàn vì họ không có những đảng cộng sản trung kiên và tàn bạo như ở Việt Nam. Những nhà cách mạng xu hướng quốc gia ở các nước này không bị cộng sản sát hại trước khi bắt đầu cuộc tranh đấu vũ trang đòi độc lập. Ở Việt Nam thì Đảng cộng sản lo thanh toán tất cả những lãnh tụ quốc gia có uy tín, như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ, vân vân trước khi đánh nhau với Pháp. Hồ Chí Minh cũng theo đúng chỉ đạo của Stalin, sát hại những chiến sĩ Đệ tứ Quốc tế như Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu. Đảng cộng sản thành công vì họ dám vứt bỏ đạo lý, bất chấp các quy tắc pháp luật, nói lời gian trá không ngượng miệng, giết người không ghê tay.
Các nhà viết sử sau này có thể ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975 cũng là ngày bắt đầu giai đoạn suy yếu của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Khi chiến tranh chấm dứt, người dân có dịp so sánh hai chế độ ở miền Nam và Bắc. Nhiều nhà trí thức nhìn thấy những dấu vết của một xã hội tự do tương đối ở miền Nam, dễ thở hơn so với miền Bắc. Đảng cộng sản để lộ bộ mặt thật, là một guồng máy cai trị bằng công an, độc tài, tham nhũng, bất lực trước vấn đề hiện đại hóa đất nước. cộng sản Việt Nam khó biện minh cho các chính sách chuyên chế, tàn bạo như cũ, phải thay đổi.
Đến những năm 1980 thì Đảng cộng sản Việt Nam quay đầu ngược lại, cũng chập chững đi theo kinh tế tư bản như khi họ bắt đầu phát triển hồi thế kỷ 19. Cảnh sụp đổ của các nước cộng sản ở Âu Châu càng giúp người Việt thấy rõ những nhược điểm của guồng máy cai trị mà ông Hồ Chí Minh đã gây dựng lên theo kiểu mẫu ông học ở Nga xô.
Người học lịch sử sau này sẽ tự hỏi tại sao chế độ đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau ở các nước Đông Âu và Nga, để dân Việt Nam được sống tự do sớm hơn, có cơ hội phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn ? Vì một guồng máy chuyên chính, độc quyền rất khó thay đổi. Những người nắm quyền trong tay sẽ không bao giờ muốn bị giảm bớt, đừng nói đến bị mất quyền. Hệ thống công an được nuôi dưỡng để bảo vệ quyền hành cho các đảng viên, họ nói thẳng rằng "Đảng Còn thì Mình Còn". Hệ thống kiểm soát các nguồn thông tin khiến người dân chỉ còn biết lo nhu cầu "cơm áo gạo tiền", không nghĩ tới ước vọng nào cao hơn. Nếu nới lỏng hai gọng cùm kiểm soát này, dân Việt nếm mùi rồi đòi thêm tự do thì các đảng viên sẽ mất hết ưu quyền, không thể ngồi trên đầu dân mãi được.
Đến năm 2075 người Việt đọc lịch sử nước mình sẽ thấy Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, thật đáng tiếc. Giữa thế kỷ 19 khi bắt đầu tiếp xúc với Tây phương, nếu chính quyền nhà Nguyễn biết canh tân đất nước, thì chắc nước mình đã khá, nếu không tiến nhanh bằng Nhật Bản thì cũng phải theo kịp Thái Lan. Vào cuối thế kỷ thứ 20 nếu chế độ cai trị thay đổi toàn diện và nhanh chóng sau năm 1990 thì chắc nước Việt Nam không đến nỗi thua kém các nước lân bang như Mã Lai, Cam Bốt, Phi Luật Tân. Nếu Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn tại thì bây giờ cũng có thể tiến gần bằng Đại Hàn Dân Quốc hay Đài Loan. Sẽ không đến nỗi người dân hãnh diện kiếm được tiền nhờ làm công nhân lắp ráp trong cơ xưởng của Sam Sung hay Foxconn, mà khi họ cần đến một cây đinh ốc mình cũng không cung cấp được.
Một bài học kinh nghiệm mà người Việt Nam năm 2075 có thể nghĩ ra là đừng bao giờ chấp nhận sống dưới một chế độ độc tài. Nhất là một chế độ dựa trên một hệ thống tư tưởng giáo điều, hủ lậu, cố chấp, mà các vua quan cộng sản còn tham những gấp vạn lần vua quan thời phong kiến.
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 26/04/2023
Người mẹ phi thường
Trần Quốc Việt, 30/04/2022
Ngày hôm nay Đinh Việt vẫn còn xúc động khi nhớ lại cảnh tượng xảy ra cách đây hàng chục năm : tại một hải cảng ở Malaysia mẹ ông dùng chiếc rìu tưởng chừng như lớn hơn cả người bà để đục những cái lỗ ở mạn thuyền để bà cùng năm con không phải bị đuổi trở lại ra biển.
Ông Đinh Việt là cựu Trợ lý Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ từ 2001 đến 2003. Hiện nay ông là giáo sư luật ở Đại học Georgetown, Hoa Kỳ.
Chuyện ấy vào năm 1978 lúc Việt lên mười. Cha ông là người tù chính trị đang bị giam cầm ở quê hương từng bị chiến tranh tàn phá, khi mẹ ông, bà Nguyễn Thu Nga, cố trốn thoát khỏi Việt Nam bằng đường biển cùng với Việt và các con khác. Họ chen chúc cùng với 80 người tỵ nạn khác trên chiếc thuyền rò rỉ dài độ 4 mét rưỡi. Trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại từ nhà bà ở Garden Grove mẹ ông Việt hồi tưởng "Sau ba ngày, thuyền bị hỏng. Sau bảy ngày không còn lương thực hay nước uống".
Sau 12 ngày, bà gần như mất tất cả hy vọng. Nhưng họ tình cờ gặp các ngư dân người Thái. Những người này cho họ lương thực và dầu, giúp họ sửa lại thuyền và chỉ họ hướng đất liền. Họ đến Malaysia thì bị tàu tuần cảnh sở tại chào đón bằng những tràng súng. Người Malaysia không muốn dính dáng gì đến họ. Họ đành bơi vào bờ và thuyền họ được vào cảng, nhưng bà Nga hiểu rõ rằng sáng mai cảnh sát cảng sẽ buộc họ phải ra đi, cho nên khuya hôm ấy bà một thân một mình cầm rìu rón rén trở lại thuyền. Bà nói, "Tôi cứ chém hoài chém mãi để thuyền bị lủng lổ khắp nơi", bà kể. Bà làm thế để chắc chắn không một viên chức Malaysia nào có thể ra lệnh cho các con bà trở lại biển cả. Mối liên hệ cuối cùng của gia đình với Việt Nam chìm mất dạng vào biền Đông.
Sau sáu tháng tỵ nạn ở Malaysia, gia đình Việt cuối cùng đến được bang Oregon vào dịp lễ Tạ Ơn năm 1978. Họ kiếm được chút tiền công ít ỏi từ công việc hái dâu và gởi tiền cho cha và người anh đang lẩn trốn ở Việt Nam. Sau khi núi lửa St. Helen phun vào 1980, do hoa màu bị thiệt hại nên gia đình Việt phải dọn đến Fullerton, bang California.
Ở Quận Cam, Việt cùng với mẹ làm việc ở một tiệm may và sau giờ học còn làm thêm ở các tiệm bán thức ăn nhanh. Sự bền chí của gia đình đã mang lại kết quả khi người cha cuối cùng cũng đến được Mỹ vào 1983. Còn Việt nhờ học giỏi và cần cù cuối cùng nhận được học bổng vào đại học Harvard. Cha mẹ muốn Việt trở thành bác sĩ. Nhưng chính trị là niềm say mê của ông, niềm say mê ấy do chính mẹ nuôi dưỡng.
"Con tôi ghét cộng sản vì tôi dạy cho cháu hiểu rằng chính cộng sản đến nhà bắt cha cháu đi và giam trong tù", bà Nga nói. "Từ thuở nhỏ tôi đã khắc sâu điều này trong tâm khảm cháu".
Việt tốt nghiệp Á khoa cao học luật ở Harvard rồi làm thư ký cho Thẩm phán Tối cao Pháp Viện Hoa Kỳ Sandra Day O’Connor, người mà đã nhận xét về ông như sau : "Ông là người thư ký luật tuyệt vời. Tôi rất cảm phục trước hoàn cảnh xuất thân của ông và chuyện ông đến Mỹ mà trên người chẳng có gì cả ngoại trừ bộ áo quần, nhưng ông đã rất bền chí".
Cha mẹ ông ngồi gần ông trong cuộc điều trần bổ nhiệm ông vào chức vụ Trợ Lý Bộ Trưởng Tư Pháp ở Thượng Viện Hoa Kỳ vào năm 2001. Tại cuộc điều trần này ông bày tỏ sự cảm phục trước gương can đảm của mẹ và "muôn vàn gian khổ mà cha mẹ tôi cũng như bao nhiêu người khác đã trải qua để tìm thấy được miền đất hứa của tự do và cơ hội". Ông được Thượng Viện chấp thuận bổ nhiệm với tổng số phiếu thuận là 96 và 1 phiếu chống duy nhất của thượng nghị sĩ Hillary Clinton.
Hôm ấy nhiều người ắt hẳn rất xúc động khi nghe ông kể lại hình ảnh không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng ông về người mẹ dùng hết sức lực vung rìu chém không ngừng nghỉ vào chiếc thuyền nhỏ dưới bóng màn đêm. Hành động xuất phát từ tình mẹ ấy đã đưa người con đến bến bờ tự do, đến giảng đường đại học danh tiếng, đến trung tâm quyền lực chính trị Hoa Kỳ. Câu chuyện của ông là minh chứng cho giấc mơ Mỹ được dệt nên từ tài năng, quyết tâm và kiên trì.
Trần Quốc Việt
(30/04/2022)
Tài liệu tham khảo :
1. Katie Biber, "Viet Dinh : An American Story", The Harvard Law Record, 16/4/2003
2. Eric Lichtblau, At Home in War on Terror, The Los Angeles Times. 19/9/2002
Không có lòng thương người Việt
Bùi Diễm, Trần Quốc Việt dịch
Sách của Robert McNamara bàn về Việt Nam, tuy nhiên sau khi đọc kỹ hai lần từ đầu đến cuối 390 trang, tôi không thể nào tìm thấy một lời nào qua đó ông bày tỏ lòng cảm thương đến người Việt hay đến nỗi đau khổ của họ. Hoa Kỳ can dự vào Việt Nam nhân danh một chính sách ngăn chặn mà, ít ra phần nào về lý thuyết, sẽ giúp cho người Việt bảo vệ mình chống lại độc tài cộng sản. Nhưng ông McNamara viết như thể nhân dân Việt Nam không bao giờ tồn tại.
Vào tháng 5 và tháng 5/1972, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chặn đứng cuộc tấn công của Bắc Việt vào Sài Gòn tại thị xã An Lộc. Ảnh chụp ngày 7/7/1972 khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm An Lộc
Ông cho là chính quyền ở Nam Việt Nam tham nhũng. Chúng tôi, những người đã mất tất cả và đã phải chịu đựng biết bao nhiêu tủi nhục trong các trại tập trung cộng sản hay với tư cách những người tỵ nạn ở hải ngoại, không có trách nhiệm bảo vệ chính quyền Nam Việt Nam trước tố cáo tham nhũng. Chúng tôi chỉ yêu cầu ông McNamara hãy nhìn tệ nạn tham nhũng đang hoành hành hiện nay ở Việt Nam. Chúng tôi cũng không biết phải chăng kinh nghiệm của ông ở Ngân hàng Thế giới kể từ khi ông bắt đầu có quan điểm như thế về chính quyền Nam Việt Nam đã khiến ông biết chút gì về tệ nạn tham nhũng ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Ông McNamara viết về sự thiếu quyết tâm đấu tranh cho tự do và dân chủ của nhân dân Miền Nam Việt Nam. Hơn 300.000 đồng bào tôi đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh này từ một dân số thậm chí chưa bằng một phần mười dân số Hoa Kỳ. Vào tháng Tư và tháng Năm của năm 1972, quân đội Nam Việt Nam, chỉ được tiếp tế bằng máy bay, đã bị lực lượng địch quân hùng hậu bao vây trong thị xã An Lộc nhỏ bé. Họ đã tử thủ qua cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra ở từng căn nhà một và đã chặn đứng cuộc tấn công của Bắc Việt vào Sài Gòn. Không có sự tham chiến của bộ binh Mỹ.
Người bảo vệ An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng, đã tự sát ngay sau khi Sài Gòn sụp đổ. Ba vị tướng khác, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai và Lê Nguyên Vỹ, lúc ấy cũng tự sát.
Ông McNamara viết : "Tôi tin chúng ta có thể rút ra và đáng lẽ rút ra khỏi Nam Việt Nam hoặc vào cuối năm 1963, giữa cuộc biến động sau cuộc ám sát Diệm, hay vào cuối năm 1964, hoặc đầu năm 1965. "Tại sao một người được để cao là một trong những người "giỏi nhất và thông minh nhất "của nước Mỹ lại tàn nhẫn đến thế ? Trực tiếp hay gián tiếp, Hoa Kỳ đã đứng đằng sau cuộc đảo chính chống Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng Mười Một năm 1963, nhưng ông McNamara lại ủng hộ cuộc rút lui ngay sau vụ đảo chính. Đạo đức nào cho phép Hoa Kỳ đến và đi tùy ý, ngay cả sau khi góp phần vào tình hình rối ren ở Sài Gòn, mà chẳng suy xét gì đến chuyện gì sẽ xảy ra với người Việt ?
Bùi Diễm
Nguyên tác : "No Feeling for the Vietnamese People", The Washington Post, 11/05/ 1995.
Trần Quốc Việt dịch
Bùi Diễm là cựu đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ từ năm 1967 đến năm 1972
Tội ác đã đẩy hàng trăm ngàn người ra ngoài biển khơi
Harrison E. Salisbury - Trần Quốc Việt dịch
Những câu chuyện buồn nhất trong tất cả các câu chuyện ở cuộc hội thảo là những câu chuyện của chính những người Việt. Họ nói nước Mỹ thua cuộc chiến. Chúng tôi mất nước.
Tội ác đã đẩy hàng trăm ngàn người ra ngoài biển khơi
Giọng nói trầm của họ hầu như không truyền xa quá chiếc micro, nhưng câu chuyện của họ quả là bi thảm. Tại sao Mỹ đến Việt Nam nếu Mỹ không tôn trọng những cam kết với đồng minh nhỏ bé ? Mục đích của Mỹ ở Việt Nam là gì ? Phải chăng Mỹ thực sự mang lại tự do và dân chủ cho Đông Nam Á ?
Những tiếng nói này không chỉ là những tiếng nói của những người ủng hộ chính phủ cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Những tiếng nói này còn là những tiếng nói đối lập với chính quyền ông Thiệu, nhiều người trong họ đã ở lại vì họ tin vào thống nhất và hòa giải. Nhưng khi những chiếc trực thăng cuối cùng bay khỏi Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, ta tưởng như Việt Nam đã bị xóa tên trên bản đồ Mỹ. Việt Nam bị phó mặc để cho chìm vào sự hoang tàn của miền đất bị khai quang, vào sự căm thù và đau thương của cuộc chiến kinh hoàng, vào mưu đồ bất thành của chế độ cộng sản bất tài và đôi khi bất cần.
Buồn nhất là những lời của thuyền nhân. Họ nói trước đây chưa từng có ai phải rời bỏ quê hương Việt Nam. Chưa từng có ai bỏ nước ra đi trong lịch sử tự hào của Việt Nam. Chưa từng có ai bỏ nước ra đi trong hai ngàn năm đấu tranh chống Trung Quốc, bất chấp sự đô hộ rất tàn bạo. Chưa từng có ai bỏ nước ra đi trong nạn đói vào năm 1945, khi ngoài Bắc có rất nhiều người chết, và cuộc chiến tranh chống Pháp càng làm cho nạn đói trở nên khốc liệt hơn. Dù vậy người ở ngoài miền Bắc cũng không vào miền Nam, nơi lương thực dồi dào. Hai triệu người chết đói.
Bây giờ, và chỉ bây giờ, mọi người mới rời bỏ Việt Nam-bất kỳ ai có thể vượt biên bằng thuyền hay trốn đi bằng mọi cách.
Tiếng nói của người Việt
Một người tỵ nạn Việt Nam :
Hàng triệu người tỵ nạn đã trốn khỏi Việt Nam. Đặc biệt những ai liều mình ra đi bằng thuyền đã bỏ lại sau lưng tất cả, gia đình và quê hương, để đến thế giới tự do. Nếu quý vị nghĩ rằng họ đến đây vì bất kỳ lý do gì ngoại trừ lý do Việt Nam hiện nay không có nhân quyền thì cho phép tôi chỉ ra rằng vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến, khi có nạn đói ở miền Bắc Việt Nam, hàng triệu người chết mà đã không tìm cách trốn khỏi miền Bắc Việt Nam, hay thậm chí vào Nam, nơi nguồn thực phẩm dồi dào. Họ không ra đi chỉ vì sự ràng buộc gia đình rất mạnh. Nhưng bây giờ, dưới chế độ Cộng sản, họ đã bất chấp tất cả để trốn thoát cho được. Thậm chí họ từ bỏ mọi quan hệ gia đình, bởi lẽ chính quyền hà khắc không tôn trọng con người. Họ không ra đi để có cuộc sống tốt đẹp hon ở xứ người. Không có nhân quyền chính là nguyên nhân phong trào người tỵ nạn tìm đến thế giới tự do. Nói rằng bất kỳ chính quyền nào xuất hiện ở Việt Nam sau chiến tranh cũng đều như vậy thì thật không đúng.
Một người tỵ nạn Việt Nam :
Những gì xảy ra sau chiến tranh đã biện minh cho sự tham chiến của quân đội Mỹ tại Việt Nam, vì quân đội Mỹ đã thực sự giúp nhân dân chúng tôi bảo vệ tự do của chúng tôi-dẫu không thành, nhưng họ đã làm hết sức mình. Chính bao tội ác đã đẩy hàng trăm ngàn người ra ngoài biển khơi đã biện minh cho sự hiện diện của quân đội Mỹ.
Harrison E. Salisbury
Nguyên tác : "Vietnam Reconsidered : Lessons From A War", nhà xuất bản Harper & Row, 1984, trang 214 & 240. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.
Trần Quốc Việt dịch
Thuyền nhân là nhân chứng cho Chính nghĩa
Bob Kerrey, 5/5/2000
Cuộc chiến tranh khó khăn nhất của thế kỷ qua không phải là Việt Nam mà là Đệ Nhất Thế Chiến. Vào 1943, năm tôi ra đời, các cựu chiến binh của cuộc Đại Chiến ấy đang tưởng niệm 25 năm ngày đình chiến trong lúc con họ đang chiến đấu ở Ý và Pháp chống lại những kẻ thù mà do những ký ức thất bại cay đắng từ Thế Chiến Thứ Nhất nên sức mạnh quân sự của họ bị coi thường.
Hình ảnh những người Miền Nam Việt Nam leo lên cầu thang để lên đến trực thăng đáp trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn là biểu tượng cho cả xấu hổ lẫn danh dự của chúng ta
Vì vậy, khi tôi nhớ ngày 30/04/1975, tôi cũng sẽ nhớ ngày 11/11/1918 và những gì xảy ra khi Mỹ tự cô lập với thế giới. Nhưng tôi cũng sẽ nhớ niềm tự hào tôi đã cảm thấy khi tôi ngồi trong những buổi họp lưỡng viện Quốc hội lắng nghe Vaclav Havel, Kim Dae-jung, Lech Walesa và Nelson Mandela cảm ơn những người Mỹ đã hy sinh rất nhiều cho tự do của họ.
Bức hình nổi tiếng về những người Miền Nam Việt Nam leo lên cầu thang để lên đến trực thăng đáp trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn là biểu tượng cho cả xấu hổ lẫn danh dự của chúng ta. Xấu hổ là chúng ta cuối cùng quay lưng lại với Việt Nam và với sự hy sinh của hơn 58.000 người Mỹ.
Chúng ta buông xuôi trước mệt mỏi và thiếu tự tin, chúng ta không giữ lời hứa ủng hộ người Miền Nam Việt Nam, cho nên cộng sản mới có thể đánh bại đồng minh chúng ta.
Danh dự là trong khi Sài Gòn sụp đổ, chúng ta đã cứu được hàng ngàn người bạn Miền Nam Việt Nam của mình, và trong những năm sau đấy chúng ta đã chào đón hơn một triệu người Việt nữa đến đất nước chúng ta.
Chiến tranh đã dạy cho người trai trẻ học vấn đại học từ miền trung Mỹ vốn lạc quan nhiều bài học giá trị. Chuyến đi Việt Nam của tôi giúp tôi cảm nhận được thế giới rất rộng lớn và muôn vẻ của chúng ta. Tôi cũng đã kinh ngạc trước một điều mà hôm nay vẫn còn làm cho tôi xúc động : người Mỹ sẵn sàng liều chết cho tự do của người khác. Ở Bệnh viện Hải quân Philadelphia tôi biết mọi người, ngay cả tôi, đều cần đến lòng tốt của người Mỹ.
Trong chiến tranh, tôi biết chiến đấu cho tự do là lý do chủ yếu chúng tôi hiện diện ở Việt Nam. Nhưng sau chiến tranh, tôi trở nên tức giận khi tôi biết nhiều hơn về quá trình đưa ra những quyết định quan trọng của chính quyền Mỹ. Tôi giận là họ đã không biết gì về những động cơ của kẻ thù Bắc Việt của chúng ta và lịch sử Việt Nam.
Các nhà lãnh đạo của chúng ta dường như không hiểu quyết tâm cao độ của kẻ thù của chúng ta nhằm tạo ra một nước Việt Nam độc lập theo cách của họ. Tôi rất ghét Tổng thống Nixon vì sự tráo trở của ông trong cuộc tranh cử với lời hứa kết thúc chiến tranh nhưng rồi, một khi đương chức, lại mở rộng chiến tranh sang Cambodia. Nhưng thời gian dạy tôi rằng tức giận cũng vô ích. Vì thế, mới đây tôi bảo cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara, tôi tha thứ các nhà lãnh đạo của chúng ta trong thời kỳ Việt Nam.
Tôi có thể tha thứ, không phải do tôi rất rộng lượng gì mà vì thời gian trôi qua và những hành động của chính quyền cộng sản Việt Nam chứng tỏ cho tôi thấy chúng ta đã chiến đấu cho lẽ phải. Qua cách họ đối xử hà khắc với người dân Việt Nam, qua việc không cho phép người dân có thuốc men và những hàng hóa tiêu thụ thiết yếu, và qua việc đàn áp các hoạt động tôn giáo, cộng sản Việt Nam trong thời hậu chiến đã chứng tỏ họ chính là cộng sản.
Lời bình luận hùng hồn nhất về đời sống dưới thời cai trị của những kẻ kế thừa Hồ Chí Minh là cuộc trốn chạy của hàng triệu người Việt Nam thà liều chết trên đại dương còn hơn sống dưới chế độ ấy. Giá như có phiên tòa để quyết định liệu chiến tranh Việt Nam có đáng tham chiến, tôi sẽ gọi Thuyền Nhân ra làm nhân chứng duy nhất của tôi.
Cuộc trốn chạy của hàng triệu người Việt Nam thà liều chết trên đại dương còn hơn sống dưới chế độ ấy.
Phải chăng cuộc chiến tranh này xứng đáng với bao nỗ lực và hy sinh ấy, hay phải chăng cuộc chiến ấy là sai lầm ? Những ai bị cuộc chiến này chạm đến phải tự mình trả lời câu hỏi ấy. Khi tôi về nước vào năm 1969 và suốt trong nhiều năm về sau, tôi đã không tin chiến tranh ấy xứng đáng. Ngày nay, theo thời gian trôi qua và cùng với bao trải nghiệm về việc nhìn thấy những lợi ích của tự do đạt được nhờ sự hy sinh của chúng ta và sự hủy diệt con người do các chế độ độc tài gây ra, tôi tin sự nghiệp ấy là chính nghĩa và hy sinh ấy không phải là hoài phí.
Bob Kerey
Nguyên tác : "Was Vietnam War worth it ?", Star-News, 5/5/2000. Tựa đề của người dịch.
Trần Quốc Việt dịch
Bob Kerey là thượng nghị sĩ dân chủ Hoa Kỳ thuộc bang Nebraska. Ông từng được trao Huân chương Danh dự cho sự phục vụ của ông tại Việt Nam.
Chuyến đi tìm mộ cuối cùng
Liz Mak, The World, 25/06/2018
Carina Hoàng đang chuẩn bị cho chuyến đi. Đến một nơi hầu hết mọi người không bao giờ nghe đến : Đảo Kuku, ở vùng Anambas xa xôi, ở Indonesia. Chị sẽ đi tìm mộ.
Carina Hoàng ngồi trên thuyền trong chuyến đi lần thứ tám và có lẽ chuyến đi cuối cùng đến Đảo Kuku.
"Thông thường ta không thấy ai thực sự quyết định trở lại rừng tìm mộ người không quen biết", chị nói. "Nhưng đến nay, bất kỳ lúc nào ai nhờ, tôi cũng không bao giờ từ chối - vì tôi biết đường còn họ thì không".
Người ta không biết đường đến Kuku vì hầu hết mọi người không bao giờ nghe đến đảo này ; thậm chí nó cũng không có tên trên hầu hết các bản đồ. Nhưng đối với Hoàng, Kuku có ý nghĩ đặc biệt. Đấy là nơi cách đây gần 40 năm chị bị bỏ rơi khi chị chỉ mới 16 tuổi. Đấy là nơi chị phải học cách sinh tồn.
"Đó không phải là trại tỵ nạn"
Hoàng là người gốc Việt Nam Cộng Hòa. Quốc gia này bị đảo lộn sau cuộc chiến Việt Nam. Những người Việt Nam ở miền Bắc chiếm Việt Nam và áp đặt chế độ cai trị cộng sản. Hàng vạn người bỏ nước ra đi.
Nhưng gia đình Hoàng không đi được. Cha chị, một cựu trung tá, bị tù đày, còn mẹ chị phải ở lại để trông coi con còn rất nhỏ. Vì vậy gia đình tìm cách cho Hoàng, lúc đó 16 tuổi ; em trai Sài Gòn, 12 tuổi ; và em gái Mimi 10 tuổi, vượt biên.
Năm 1979 Hoàng cùng với hai em bước lên thuyền để trốn khỏi Việt Nam.
Hoàng nhớ chiếc thuyền - dài độ 24 mét rộng 4 mét rưỡi-chở đầy đến 373 người.
"Chúng tôi ngồi bó gối", chị nhớ lại. "Không có chỗ cựa quậy hay duỗi chân ra".
Họ trải qua một tuần kinh hoàng trên biển cả.
Thuyền họ đến Malaysia, nơi Hoàng nói nhà chức trách địa phương cướp đoạt họ và rồi đẩy thuyền họ ra lại ngoài biển, không cho những người tỵ nạn lên bờ. Sau đấy thuyền hết lương thực và nước. Nhiều người bắt đầu chết trên thuyền.
Vào ngày thứ tám, thuyền đến một làng đánh cá nhỏ ở Indonesia. Tại đây thuyền trưởng làm chìm thuyền để mọi người không thể bị đẩy ra lại ngoài biển.
Những người tỵ nạn được ở lại trong làng, nhưng người ta báo cho họ biết họ sẽ được chuyển đến trại tỵ nạn ở trên đảo khác. Vì vậy Hoàng và hai em vui vẻ leo lên một chiếc thuyền cuối cùng.
"Thuyền đi rất lâu", chị hồi tưởng. "Phải mất mấy giờ chúng tôi mới đến đảo này. Chúng tôi thấy đảo hình bán nguyệt này, với bờ biển cát đẹp và cây cối".
Khi chị và những người khác rời thuyền để bơi vào bờ, Hoàng cảm nhận cái gì đấy không bình thường.
"Chúng tôi nhìn quanh", chị nói. "Chỉ thấy toàn là rừng rậm. Chúng tôi chẳng thấy bất kỳ nhà cửa, lều hay trại nào. Chỉ là đảo với cây cối và bụi rậm. Còn trước mặt chúng tôi là đại dương. Đó không phải là trại tỵ nạn".
Đảo hoàn toàn không có người ở. Không có nhà cửa, đường xá, tuyệt nhiên không có dấu hiệu gì của cuộc sống con người. Đấy là nơi hoàn toàn hoang dã. Sau khi họ lên bờ, chiếc thuyền bỏ đi.
Đêm ấy Hoàng và hai em ngủ trên bờ biển, dưới cơn mưa tầm tã.
Mọi người ngồi trên bờ biển, ngóng đợi thuyền quay lại. Một ngày trôi qua. Rồi hai ngày.
"Đến ngày thứ ba mọi người bắt đầu nhận thức rằng có lẽ chúng tôi sẽ ở lại nơi này". Hoàng nói.
"Người ta bắt đầu chết"
Đây là Đảo Kuku, thật ra nó là Bãi biển Kuku, trên Đảo Jemaja. Nhưng tất cả những người tỵ nạn chỉ biết quanh họ chỉ toàn rừng rậm và không có bóng thuyền bè lai vãng. Cho nên họ gọi đảo là Kuku.
Trên Kuku, không có công cụ, không có lương thực dự trữ, không có nhà vệ sinh. Người tỵ nạn chỉ có những thứ họ mang theo để giúp họ tồn tại.
"Có rất nhiều dừa", Hoàng nói. "Nhưng chúng tôi không thể trèo lên cây hái dừa. Mà dù có hái xuống thì chúng tôi cũng không có dao hay bất kỳ cái gì dùng để chặt dừa".
Người tỵ nạn không còn cách nào khác chỉ còn biết sống nhờ vào đảo. Đối với hầu hết mọi người, cuộc sinh tồn thật chẳng dễ dàng.
"Tôi sợ bơi ra biển để bắt mấy con vật", Hoàng nói. "Tôi không biết bắt cá hay săn bắn. Tôi sợ rắn rết và thú dữ. Tôi ngại đi vào rừng".
Ban đầu, Hoàng và hai em sống nhờ vào những gói mì họ mang theo. Mỗi ngày chị thường xé ra một gói mì rồi bẻ ra làm bốn góc. Một bữa ăn ba chị em ăn chung một góc gói mỳ. Họ làm mọi cách để sống, nhưng bệnh bắt đầu lan rộng ra. Người ta bắt đầu chết vì sốt rét và tiêu chảy.
"Người ta bắt đầu chết trên đảo đó sau ngày thứ 10", Hoàng nói.
Tình cảnh trở nên thê thảm đến mức chẳng mấy chốc Hoàng tuyệt vọng.
"Chúng tôi chẳng ăn gì trong mấy ngày trời", chị nhớ lại. "Em gái tôi và em trai tôi nằm ra đấy như xác chết. Chúng chỉ nói thì thầm : Chị ơi, em khát quá, đói quá và yếu lắm".
Nhiều lần tôi nghĩ, "chúng tôi sẽ không qua khỏi".
Nhưng ngay cả khi họ càng ngày càng trở nên yếu hơn, những người tỵ nạn vẫn không nản lòng.
Họ còn sống nhờ ăn cá và thằn lằn và bất kỳ con gì khác họ có thể săn được.
Họ sống được một tháng. Rồi hai tháng. Rồi ba tháng.
Trong tháng thứ ba ấy, họ giật mình khi nghe tiếng gì đấy bay trên trời.
"Chúng tôi nhìn lên và có chiếc trực thăng mang phù hiệu Hồng Thập Tự bay vòng quanh", Hoàng nói. "Mọi người nhảy tưng lên và la hét và vẫy tay không ngừng. Đến lúc ấy chúng tôi biết chúng tôi sẽ bình an. Và chúng tôi còn sống. Cả ba chị em chúng tôi".
"Đây sẽ là chuyến đi cuối cùng của tôi trở lại Đảo Kuku"
Sau khi Hồng Thập Tự đến, Hoàng và hai em ở lại Kuku thêm năm tháng khi Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc lập ra trại tỵ nạn trên đảo. Họ được chuyển đến trại tỵ nạn khác trên Golang thêm hai tháng trước khi cuối cùng họ được tái định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây, họ cố gắng quên đi Kuku.
"Tôi không bao giờ nghĩ tôi sẽ thấy lại hay muốn thấy lại Kuku", Hoàng nói.
Nhưng Kuku tìm đến chị. Vào giữa thập niên 1990, dì của Hoàng cũng từng trốn khỏi Việt Nam và bị kẹt trên một hòn đảo gần đấy ở Indonesia, nhờ Hoàng trở lại. Bà muốn Hoàng tìm hài cốt con đã mất ở đấy để dựng bia mộ tử tế.
Khi trên đảo Anambas có người qua đời, người tỵ nạn tìm bất kỳ tảng đá lớn nào để đánh dấu mộ.
Khi những người Việt khác nghe chuyện Hoàng đi đến các đảo Anambas, họ bắt đầu cũng nhờ chị đưa họ trở lại chốn xưa. Vào thời đó, có rất ít thông tin về các đảo này hay cách đi đến đấy. Khi Hoàng lần đầu đến Lãnh sự quán Indonesia, thậm chí các nhân viên ở đấy cũng chưa từng bao giờ nghe đến các đảo này.
Ngay cả hôm nay, chuyến đi cũng phải sắp đặt công phu, phải bay đến Singapore, đi thuyền đến Batam, bay tiếp đến Tanjung Pinang, rồi đi ba lần thuyền nữa đến Kuku. Hoàng nói mỗi chuyến đi chị phải mất hàng tháng trời chuẩn bị, chị phải báo trước cho các chính quyền địa phương. Không ai trả công cho chị để làm công việc này.
Những ai liên lạc với Hoàng cũng muốn tìm hài cốt của người thân và làm mộ tử tế cho họ. Vì thế Hoàng đồng ý trở lại Đảo Kuku một lần, rồi thành hai lần. Rồi ba, bốn lần. Đến nay, Hoàng đã trở lại bảy lần.
Rồi từ đó đến nay, Hoàng đã giúp đỡ khoảng 15 gia đình đi tìm lại mộ người thân. Nhưng, chị nói, tuy những chuyến đi tìm mộ làm cho chị mãn nguyện và hàn gắn vết thương lòng, nhưng cũng ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
"Sau rất nhiều chuyến đi tìm mộ", Hoàng nói, "Tôi cảm thấy đuối sức. Đã đến lúc tôi phải ngưng lại. Chuyến đi này sẽ là chuyến đi cuối cùng của tôi trở lại Đảo Kuku".
Hành khách ngồi trên chiếc thuyền cuối cùng đến Đảo Kuku
"Tôi đã cố gắng quên đi"
Tony Lưu, 57 tuổi, mẹ anh, Trương Ơn, 77 tuổi, và em anh, Daniel, tham gia vào chuyến đi cuối cùng của Hoàng đến Đảo Kuku.
Họ cùng nhau đi tìm mộ của Lưu Cao, cha của Tony Lưu, mất ở trên đảo cách đây gần 40 năm. Lưu nói anh lo lắng trước những gì anh có thể thấy.
Hoàng và Lưu cả hai đến Kuku vào tháng Sáu 1979. Họ là những người đi chính chuyến tàu đầu tiên đến đảo và họ trải qua những ngày tháng khó khăn nhất ở đấy.
Lưu 18 tuổi khi anh từ giã Kuku và bỏ lại lại sau lưng người cha nằm dưới nấm mộ vùi nông. Trong suốt thời gian về sau, anh chưa bao giờ nói với một ai về chuyện đã xảy ra ở đấy : cha anh, bị bệnh sốt rét, mất trên đảo như thế nào.
"Tôi không bao giờ nghĩ cha có thể chết", Lưu nói, "Cho nên tôi không bao giờ muốn nói đến chuyện đó nữa. Tôi thậm chí không bao giờ muốn nhớ đến. Tôi cố gắng quên đi".
Nhưng ngoài nỗi đau cha chết, trong suốt bốn chục năm qua Lưu còn mang nặng bên mình một nỗi đau khác còn lớn hơn nhiều. Anh nghĩ anh có can hệ đến cái chết của cha.
"Tôi là nguyên nhân khiến cha tôi mất", Lưu nói.
Lưu tin cha anh không bao giờ phải rời Việt Nam. Lưu 18 tuổi lúc họ ra đi vì cha mẹ anh lo lắng anh sẽ bị bắt đi quân dịch và rồi cuối cùng có thể đánh nhau trong cuộc xung đột biên giới giữa Việt Nam với Cambodia.
Lưu miễn cưỡng tham gia vào chuyến đi trở lại Đảo Kuku, nơi anh muốn quên đi mãi mãi. Anh đi chính vì mẹ, để mẹ thực hiện ước mơ của mẹ là dựng bia mộ cho cha và tỏ lòng thành kính trước mộ người.
"Nhưng trong thâm tâm tôi biết tôi phải làm điều này", anh nói. "Chỉ có tôi thôi, tôi cảm thấy tôi không có can đảm, tôi không có dũng cảm. Điều ấy khiến tôi buồn phiền".
Carina Hoàng, trái, và con gái, phải ôm nhau trên chuyến thuyền tới Đảo Kuku
Đảo Kuku giống như đảo nghỉ mát : những bóng dừa rải rác trên bờ biển đong đưa qua lại. Tiếng của sóng biển màu ngọc xanh tạo cho du khách cảm giác êm đềm giả tạo, vì ở phía xa đằng sau, rừng rậm lờ mờ hiện ra.
Hoàng khóc suốt từ lúc từ xa chị đã nhận ra Kuku . Bây giờ, nước mắt vẫn chảy xuống theo bước chân chị đi trên cát.
"Bây giờ tôi đang đứng ở đây, tôi cũng thật sự không biết tại sao chúng tôi vẫn còn sống", chị nói. "Đúng là phép lạ. Chẳng ai ở thế giới bên ngoài biết chúng ta đang ở đây. Chỉ có bụi rậm, cây cối và rừng thẳm".
Cả nhóm đi theo Hoàng, người biết rành địa lý trên Kuku sau bảy chuyến đi trở lại trong mười năm. Chị đi đến con suối nhỏ, nơi Trương Ơn nhớ đã chôn người chồng quá cố. Hoàng nói chị biết về một nghĩa địa lớn gần đấy. Trước đây chị đã tìm thấy những nấm mồ khác ở đấy.
Cổng được xây dựng để vinh danh những người tỵ nạn trên Đảo Kuku.
"Tôi đã đặt tảng đá ấy"
Một số mộ bên suối có những tấm bia lớn xây bằng xi măng đơn sơ có khắc tên và ngày tháng năm của người đã khuất. Đây là những mộ của những người mà gia đình họ đã quay trở lại với Hoàng và đã tìm thấy được.
Rồi có những nấm mộ không có ai trở lại tìm. Những tảng đá lớn nằm rải rác khắp nơi khiến ta không rõ đá nào đánh dấu mộ đá nào chỉ là đá thường.
Hôm nay, đi tìm mộ cha của Lưu, sẽ là chuyến đi tìm mộ cuối cùng của Hoàng trên Kuku. Lưu lúc 18 tuổi đã chọn tảng đá để đánh đấu mộ cha. Anh nhớ anh đã tìm được một tảng đá khá lớn, hình tam giác, có bề mặt láng.
Hoàng đưa những người dân địa phương đi cùng với chị ra đảo để giúp khai quang lá và đất che lấp kín các mộ. Khi nhóm đến khu vực nơi gia đình Lưu bắt đầu tìm kiếm cha, Hoàng chỉ những tảng đá khác nhau và hỏi gia đình có nhận ra tảng đá nào quen không. Một tảng đá đập vào mắt họ. Họ nhìn tảng đá đến mấy phút, cố gắng nhớ lại nơi họ đặt bia mộ cha cách đây gần 40 năm. Và rồi, sau dường như chỉ nửa giờ, Lưu chỉ tảng đá có hình tam giác.
"Tôi đã đặt tảng đá ấy", anh nói.
Không có cách nào chứng minh rằng đây thực sự chính là tảng đá mà Lưu còn nhớ chỉ bằng cách nhìn nó thôi. Cách duy nhất để biết có đúng là tảng đá ấy hay không là phải khai quật hài cốt để tìm đồ dùng cá nhân hay áo quần thân thuộc của cha họ. Nhưng gia đình quyết định họ không muốn dùng đến cách tàn nhẫn như thế. Họ không muốn động mồ mả.
Tony Lưu cùng mẹ, Trương Ơn, và Carina Hoàng cúng trước mộ cha của anh.
Đối với gia đình Lưu, dù hoàn toàn không chắc chắn, nhưng như vậy cũng đủ.
Trong bốn mươi năm qua mẹ Lưu thường muốn lo cho mồ mả chồng. Bà rửa tảng đá. Rồi bà đốt hương và cắm hương trên mặt đất bên cạnh trái cây cúng. Hai anh em mỗi người ở riêng với cha một lát. Tony bật khóc nức nở.
Hoàng đứng ở phía sau nhìn. Chị cũng khóc tự lúc nào.
"Tôi buồn khi thấy mộ sao mà thảm thương", chị nói.
Tảng đá đủ lớn để giữ trong hai tay. Đá không có nét chữ hay dấu khắc ; nó chỉ là tảng đá tốt nhất mà Tony tìm được lúc ấy, được đặt lên trên một khoảng đất trống, trên một hòn đảo hoang vắng giữa đại dương. Nó rất quan trọng, nhưng đồng thời, bia mộ tạm ấy sao có vẻ rất buồn thảm.
Hai anh em Tony và Daniel Lưu khắc chữ và ngày tháng vào bia mộ cha.
"Họ không bị lãng quên"
Mọi người quay về trước khi trời tối. Họ băng qua con suối, đi ra khỏi rừng, đi qua đám cỏ cao, qua bờ biển để leo lại lên thuyền.
Ngày hôm sau, tại nhà trọ, Lưu trầm tư về chuyện tìm thấy mộ. Anh nói mặc dù điều này sẽ giúp anh có được sự bình an để sống tiếp, nhưng anh cũng nói có những điều anh tin anh sẽ không bao giờ vượt qua được.
"Đôi khi", anh nói, "tôi hồi tưởng. Nếu như chúng tôi biết trước chúng tôi sẽ trả giá rất đắt như vậy thì liệu chúng tôi vẫn quyết định ra đi ?"
Còn Hoàng, thật khó hiểu điều gì đã khiến chị hết lần này đến lần khác sẵn sàng trở lại đảo nơi chị trải qua bao khổ đau. Hoàng nói điều thôi thúc chị bắt nguồn từ một ký ức chị không bao giờ có thể quên được.
"Khi chúng tôi ở trên Đảo Kuku, chúng tôi chẳng có thuốc men", chị nói. "Nhiều lúc tôi ở đấy ban đêm. Tôi đếm số người đang hấp hối ngồi quanh tôi. Buối sáng khi tôi trở lại, tôi biết sẽ mất đi một hay hai người".
"Trở lại đây, tôi nghĩ đó là điều tối thiểu tôi có thể làm được cho những người đã khuất ở đây. Và tôi nghĩ điều tối thiểu ai cũng có thể làm được là đưa gia đinh họ trở lại thăm viếng họ để họ biết rằng họ không bị lãng quên".
Liz Mak
Nguyên tác : "A former refugee leads families back to an Indonesian island so they can find graves", The World, 25/06/2018
Trần Quốc Việt dịch
********************
Nước Mỹ ơi, xin hãy giúp đỡ nhân dân tôi
Nguyễn Thị Anh, Los Angeles Times, 22/4/1975
Tôi là y tá chuyên nghiệp, sinh ra và được đào tạo tại Việt Nam, cho nên tôi cố gắng sống theo qui ước đạo đức nghề nghiệp của mình. Vì vậy tôi cất lên tiếng kêu đau khổ cho nhân dân tôi.
"Chúng tôi thuộc phe thua trận và gia đình tôi bị đàn áp". Photograph : Express Newspapers/Getty Images
Với tất cả những người dân Miền Nam Việt Nam đang chạy nạn đến hàng triệu người : đồng bào thật sự chạy đi đâu ? Số phận của đồng bào đang ở trong tay của những kẻ rất quyền thế mà đang quyết định đồng bào sẽ sống ở đâu vào khi nào và như thế nào, nếu đồng bào may ra còn sống.
Đồng bào đã không bao giờ được ai hỏi muốn sống như thế nào. Tiếng nói của đồng bào chẳng được ai nghe ở bất kỳ nơi đâu, dù ở miền bắc, ở miền nam, hay trên thế giới.
Những kẻ rất quyền thế ấy đã quyết định đất nước của đồng bào phải bị chia cắt thành hai, lòng người phải đau khổ và gia đình phải chia lìa, vì thế họ ký hiệp định Geneva. Rồi đồng bào bỏ chạy. Họ quyết định con của đồng bào phải đánh nhau, vì thế con của đồng bào đi và chết. Họ quyết định cho đồng bào lấy lại hơi một chút, vì thế họ ký hiệp định Paris. Rồi một trong những kẻ rất quyền thế ấy quyết định đồng bào không đáng được họ ủng hộ, vì thế họ trút bỏ trách nhiệm.
Phía bên kia quyết định đất đai của đồng bào trù phú, đồng bào thuộc về họ, vì thế họ đến để giành lấy đồng bào. Bây giờ đồng bào lại bỏ chạy. Đến đâu ? Để được gì ? Được tự do, được giải thoát, được bảo vệ, được chết ?
Tất nhiên đồng bào không muốn những kẻ độc tài cai trị mình : đồng bào cũng không muốn bị giết chết mà không có lý do. Tàn nhẫn thay đồng bào cũng không được phép có giấc mơ hoang tưởng nhất là mình và gia đình mình được bình an vô sự.
Chạy hay ở lại đối với đồng bào đều bế tắc. Bây giờ trước mặt đồng bào là đại dương. Đồng bào không còn chỗ để chạy tiếp. Bây giờ đồng bào cũng không có đến cả một bát cháo nhỏ dằn bụng để khỏi đói cồn cào, cũng không có những giọt sữa cho trẻ thơ.
Đâu đấy trong thế giới rất giàu mạnh này, họ nói thiếu thực phẩm sẽ ảnh hưởng đến não của con nhỏ của đồng bào, chúng sẽ trở nên khờ dại, chúng sẽ lớn lên thành những người lớn bị rối loạn cảm xúc. Làm sao đồng bào biết điều ấy ? Đồng bào bây giờ chỉ biết rằng đồng bào đang chờ, và đồng bào nhìn thấy con mình ngày một gầy hơn, và ngày nào đấy chúng chết. Đời là như thế đấy. Số phận là thế đấy. Không có thực phẩm, hay không có đủ. Không nơi lánh nạn. Thậm chí chẳng có gì đáp ứng nhu cầu căn bản của đồng bào.
Đồng bào đang chờ những kẻ rất quyền thế từ bên ngoài đến giúp. Đồng bào không bao giờ nghi ngờ : Họ sẽ đến giúp. Cuộc chiến này biết đâu vẫn chưa kết thúc. Đồng bào đang chờ. Đồng bào nhìn ra biển, đồng bào nhìn lên trời. Sự cứu giúp sẽ đến từ đấy. Họ không bao giờ làm cho đồng bào thất vọng. Ít ra bầu trời đủ lớn cho tất cả mọi người ; đồng bào có thể nhìn trời mà không bị những kẻ cầm quyền ở bất kỳ bên nào trừng phạt.
Với những kẻ rất quyền thế trên thế giới : Quý vị cho đến nay đã làm được gì ? Tại sao quý vị không làm nhanh lên ? Qúy vị đã lo được cho vài trăm trẻ mồ côi được chọn lọc kỹ càng. Còn tất cả những người khác thì sao ?
Có lẽ bây giờ đành trông chờ vào những cá nhân, rất nhiều những cá nhân như bạn sẵn sàng giúp đỡ. Bạn có thể gọi Washington hay hỏi tổ chức từ thiện địa phương của bạn cách thức giúp đỡ. Nhưng có lẽ bạn sẽ không giúp- điện thoại bận và bạn không thể chờ.
Quốc hội nói sẽ cho tiền, nhưng trong lúc ấy những người tỵ nạn đang chạy trốn, đang run rẩy. Trong nước này, hàng triệu công dân thường sẵn sàng cho, hoặc để xoa dịu lương tâm xã hội của mình hay vì những lý do thuần túy nhân đạo. Nhưng cho đến nay người ta mới chỉ có những nỗ lực thưa thớt nhằm cố gắng tổ chức giúp đỡ hàng triệu người tỵ nạn.
Vì thế bây giờ tôi kêu gọi những cá nhân người Mỹ. Hãy bỏ qua bao lo ngại và chính trị ; đã quá đủ về "Chúng tôi không biết tiền chúng tôi đi đâu" hay "Chúng tôi không muốn cho tiền chính phủ Thiệu". Hiện nay không còn chính phủ Thiệu. Bây giờ chỉ hãy nghĩ đến những người tỵ nạn, trẻ em, trẻ mồ côi.
Tôi lúc nào cũng nghĩ về họ. Cách đây nhiều năm anh tôi bị cộng sản sát hại khi anh tôi hoạt động với lực lượng "kháng chiến".
Bản thân tôi làm việc với chính quyền Sài Gòn trong 16 năm, dành nhiều năm trong thời gian ấy đấu tranh cho những thay đổi về giáo dục y tá và về sự phân phối tốt hơn công việc y tá. Nỗ lực của tôi thất bại, cho nên tôi xin chiếu khán xuất cảnh. Sau hai năm tôi được cấp chiếu khán, nhưng tôi không được phép dùng tiền của tôi cho việc học của mình.
Vì thế, bạn thấy, tôi xuất thân từ nhân dân ; khác biệt duy nhất là tôi có phương tiện để mưu cầu tự do cho mình, còn những người khác không có. Do vậy tôi hôm nay có thể khẩn cầu điều này : Nước Mỹ ơi, xin hãy giúp đỡ nhân dân tôi.
Họ chẳng còn biết trông cậy vào ai khác. Họ tin cậy vào bạn là người tin vào những quyền tự do thiết yếu của nhân loại và tin vào sự gìn giữ sinh mạng của con người.
Nguyễn Thị Anh
Nguyên tác : ‘Please, America, Help My People’, Los Angeles Times, 22/4/1975
Trần Quốc Việt dịch
Nguyễn Thị Anh là sinh viên cao học về giáo dục ở đại học UCLA.
*******************
Tình cha như núi, lòng con như biển
James Zumwalt, The Washington Post, 09/10/1994.
"Lòng tôi rất đau buồn trước cảnh như thế", cựu Đề đốc Trần Văn Chơn, 74 tuổi, nguyên tư lệnh Hải quân miền Nam Việt Nam trước đây nói. "Cuối cùng tôi nhận thức hiện thực là tôi đang chứng kiến những giờ phút tự do cuối cùng của nước tôi". Ông hồi tưởng những ngày tháng Tư 1975 khi những đơn vị cộng sản ở ngay sát bên ngoài Sài Gòn (chẳng bao lâu sau đó bị đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh), đang chờ đợi cuộc di tản cuối cùng của các nhân viên Mỹ. Hỗn loạn bao trùm khi hàng ngàn người Việt tràn ngập phi trường thành phố, bến cảng và tòa đại sứ Mỹ, để tìm mọi cách ra khỏi nước.
Ông Chơn may mắn. Vài ngày trước đó, Tòa đại sứ Mỹ báo cho ông biết bạn hữu của ông ở Washington đã sắp xếp cho ông di tản cùng với vợ, Lâm Thị Loan, 10 người con và cha mẹ ông đã ngoài tám mươi. Khi thời điểm di tản đến gần, ông Chơn tụ họp con cái ở độ tuổi từ 7 đến 29 lại và đi đón mẹ ông, Lê Thị Đô, và cha ông, Trần Văn Núi, cách nhà độ 72 cây số ở Vũng Tàu, quê hương thời niên thiếu của ông. Ông giải thích họ sẽ phải ra đi. Cha ông chẳng nói gì, nhưng ông Chơn thấy mắt cha ngấn lệ.
Ông Chơn thấu hiểu nỗi khổ tâm của cha. Vũng Tàu là nơi cha ông chôn nhau cắt rốn ; nơi có mồ mả ông bà tổ tiên. Bây giờ ở tuổi gần đất xa trời, cha ông sẽ phải rời bỏ nơi chốn duy nhất cha ông biết này. Ông Chơn nghĩ thời gian qua đi cha ông sẽ chấp nhận số phận này. Tuy nhiên trong thời gian gia đình chờ ra đi, cha ông vẫn lặng lẽ chẳng nói năng gì.
Cuối cùng nhận được điện thoại báo ra đi, ông Chơn tập trung cả gia đình lại. Nhưng khi ông thấy cha ông rất đau khổ lúc sắp phải cất bước ra đi, lòng ông Chơn đã quyết định dứt khoát rõ ràng.
"Cả gia đình ta nghe đây", ông tuyên bố, "chúng ta sẽ không đi !". Mọi người đều im lặng trước quyết định phút cuối này trong lúc ông Chơn liếc nhìn cha.
Một vài ngày sau, 30 tháng Tư, 1975, sau khi Mỹ di tản xong, quân đội chiến thắng của cộng sản tiến vào Sài Gòn.
Tất cả các nhân viên quân sự miền Nam Việt Nam dù tại ngũ hay giải ngũ đều buộc phải ra trình diện cộng sản. Các con trai của ông Chơn là Trúc, Trung và Chánh cũng phục vụ trong quân đội. Trúc đã thoát bằng tàu vào lúc Sài Gòn thất thủ. Hai người con còn lại và ông Chơn không chịu ra trình diện, lẫn tránh trong vài tuần lễ và cố gắng tổ chức phong trào kháng chiến. Tuy nhiên, sự sụp đổ nhanh chóng và hoàn toàn của chính quyền miền Nam Việt Nam khiến bao nỗ lực của họ không thành. Cả ba người trở thành những kẻ tội phạm sống ngoài vòng pháp luật ở trong nước mình.
Nhận thức rằng nếu cứ tiếp tục lẫn trốn họ sẽ làm hại chính những người che giấu họ, ông Chơn quyết định tốt nhất nên ra trình diện. Trước khi đi, ông trở về Vũng Tàu thăm cha mẹ, biết đâu đây là lần cuối cùng ông thấy họ.
Trở lại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Chơn tạm biệt gia đình. Ông nhờ con ông Trung đưa ông đến địa điểm trình diện. Lúc những bộ đội đứng gác quay mặt đi, cha con ôm nhau lần cuối cùng. Vài ngày sau, Trung và Chánh, theo gương cha, cũng ra trình diện.
Ba người bị giam ở những trại tù khác nhau. Trong trại họ bị "cải tạo", mà được coi là cần thiết để xóa bỏ ảnh hưởng tuyên truyền của Mỹ. Cải tạo được tiến hành qua một chế độ lao động nặng nề và học tập về chủ nghĩa cộng sản.
Vì không bao giờ bị đưa ra tòa xét xử và chính thức bị kết án nên ông Chơn và các con, cũng như bao nhiêu người tù khác, đều không biết họ sẽ bị giam giữ đến bao lâu. Đây là khía cạnh khó khăn nhất trong cảnh lao tù khắc nghiệt của họ. Sau ba năm Trung bất ngờ được thả ra ; còn Chánh ở tù đến bảy năm. Đề đốc Chơn bị giam suốt 12 năm trời trước khi được thả ra vào ngày 2 tháng Chín, 1987, chủ yếu nhờ những nỗ lực vận động của bạn bè tại Mỹ.
Từ nhà tù ở miền Bắc Việt Nam, ông Chơn lên tàu lửa về lại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi gia đình và bạn bè chào đón ông. Họ tưởng đâu gặp lại một người đã bị suy sụp về thể xác lẫn tinh thần bởi hoàn cảnh lao tù rất hà khắc và thiếu sự chăm sóc y tế. Nhưng mái tóc bạc trắng phủ đến vai của ông Chơn bao quanh khuôn mặt thanh xuân. Đôi mắt ông ánh lên tinh thần mạnh mẽ.
Ông Chơn liền biết tại sao chỉ có ba con ra đón mừng ông. Giống như Trúc con ông, sáu người con khác đã vượt biên bằng thuyền hay bằng đường bộ.
"Ba má anh đâu hả mình ?". Ông hỏi vợ mà lòng rất sợ điều ông đã đoán. Bà quay sang em ông Chơn. "Sau khi anh đi tù hai năm thì má qua đời", người em nói chậm rãi, "Hai năm sau ba mất".
Mặc dù ông Chơn đã linh cảm trước, nhưng tin cha mẹ chết sao vẫn quá đau đớn. Ông cố gắng an ủi lòng mình rằng khi song thân ông qua đời, họ biết rõ tình thương, tấm lòng hiếu thảo và sự hy sinh của ông dành cho hai đấng sinh thành.
Ông Chơn cố gắng lắm mới giữ được sự bình an trong lòng. Vì cha mẹ ông đã rất cao tuổi rồi, liệu quyết định bắt gia đình ông ở lại Việt Nam có đáng không ? Đối với ông, quyết định ấy xứng đáng. Ông giải thích, "Nếu lập lại tôi vẫn quyết định như thế cho dù cha mẹ tôi chẳng sống được bao lâu chăng nữa - dù chỉ được vài tháng hay vài tuần. Tôi quyết định ở lại để tránh cho cha mẹ tôi đau khổ họ phải chịu đựng vĩnh viễn nếu tôi đưa họ rời xa quê hương. Đối với tôi điều quan trọng nhất trong đời là niềm hạnh phúc của cha mẹ mình".
Khi chọn ở lại, ông Chơn muốn cho cha mẹ được an lòng. Nhưng cuối cùng, cha ông không tìm thấy bình an. Người bạn của gia đình tiết lộ rằng sự hy sinh và cực khổ của ông Chơn đã trở thành nguồn đau khổ và ân hận vô cùng lớn đối với cha ông, mà từ đấy cha ông đã mang xuống tuyền đài. Người bạn ấy tin chính đau khổ này đã giết chết người cha.
"Khi tôi biết cha tôi đã đau khổ trong những ngày cuối đời vì thương con cực khổ, "ông Chơn kể lại, "tôi không thể nào cầm được nước mắt. Tôi nhận thức chẳng có gì tôi đã làm hay có thể làm mà có thể so sánh với tình thương bao la cha tôi dành cho tôi".
"Người ta hay nói "Có con rồi mới hiểu tình thương bao la của cha mẹ", tôi tin điều này là đúng.
Gần năm năm sau ông Chơn mới có thể rời khỏi nước. Vào ngày 9 tháng Mười Hai, 1991, một trong những chuyến bay đầu tiên trong 17 năm giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Mỹ đã đưa đề đốc Chơn, vợ và con gái út đến San Francisco.
Ngày nay ông Chơn sống ở San Jose cùng với vợ, hai con trai và hai con gái. Bốn người con khác sống ở California ; hai người con đã lập gia đình và sống ở Việt Nam. Ông Chơn nói bây giờ ông vẫn tin chắc chắn như ông đã tin vào năm 1975 rằng con người gánh vác nhiều trách nhiệm ở đời, nhưng trách nhiệm cao cả nhất là trách nhiệm đối với cha mẹ mình. Vì lý do này, ông nói, con cái ông không bao giờ chất vấn quyết định của cha. "Trong bất kỳ văn hóa nào", ông Chơn nhận xét, "con cái luôn luôn được dạy dỗ phải thương yêu và kính trọng cha mẹ. Thương yêu và kính trọng cha mẹ là trách nhiệm đạo lý chung của toàn nhân loại".
James Zumwalt
Nguyên tác : "A Son’s Sacrifice", The Washington Post, 09/10/1994. Tựa đề của người dịch
Trần Quốc Việt dịch
**********************
Bài học lớn nhất của lịch sử
Will Durant, Will Durant Foundation, 18/11/1945
Sử gia người Mỹ Will Durant đã viết bộ sử vĩ đại nhất có lẽ của mọi thời đại nhan đề Câu Chuyện về nền văn minh (The Story of Civilization). Từ đấy ông chắt lọc ra được bài học lớn nhất của lịch sử như sau :
Rồi bất ngờ Charlie xoay tít cây gậy lên trời, sửa mũ trên đầu lại cho chặc, và bước đi nghiêng qua nghiêng lại ra khỏi phim và vào cuộc đời - con người là thế đấy.
"Nhưng tôi sẽ không để các bạn nghĩ rằng lịch sử chỉ là bi kịch, và sự nghiên cứu lịch sử sẽ làm sụp đổ bao hy vọng của con người. Không, thật ra bài học quý giá nhất của lịch sử là con người bất khuất ; con người vượt qua được vô vàn các cuộc khủng hoảng, như con người sẽ vượt qua những cuộc khủng hoảng ngày nay mà khiến ta lo lắng.
Các bạn có nhớ phim "Đoàn Xiếc" của Charlie Chaplin ? Bạn chắc nhớ vào cuối phim Charlie mất việc ở đoàn xiếc ; và buổi sáng hôm ấy sau lần diễn cuối cùng những chiếc xe ngựa bít bùng lăn bánh đi bỏ anh ở lại một mình giữa những tàn tích, không bạn bè, không tiền bạc, buồn thảm cô đơn thấy rõ ; đấy chính là hình ảnh con người sau khi La Mã sụp đổ, hay sau Cuộc Chiến tranh Ba mươi Năm, hay Châu Âu sau Đệ nhị Thế Chiến ! Rồi bất ngờ Charlie xoay tít cây gậy lên trời, sửa mũ trên đầu lại cho chặc, và bước đi nghiêng qua nghiêng lại ra khỏi phim và vào cuộc đời - con người là thế đấy.
Dù con người tưởng chừng ngã rất nặng, dù tai họa tưởng chừng ập xuống quá lớn, nhưng con người đứng dậy, "đẫm máu nhưng không khuất phục", vẫn náo nức, tò mò, giàu tưởng tượng, và quyết tâm bước đi tiếp. Rồi ở đâu đó, bằng cách nào đấy, con người sẽ gầy dựng trở lại. Đấy là bài học lớn nhất của lịch sử".
Will Durant
Nguyên tác : "Invitation to History – The Map of Human Character", Will Foundation, 18/11/1945
Trần Quốc Việt dịch
Ngày 30 tháng Tư – Đã đến lúc đặt câu hỏi nhức nhối : Tại sao 47 năm sau vẫn chưa có thay đổi ở Việt Nam ? Tại sao thế giới đã biến đổi không ngừng, với một vận tốc chóng mặt, nhưng Việt Nam vẫn ù lì, dẫm chân một chỗ, vẫn còn là một trong những nước hiếm hoi bám chặt, như đười ươi giữ ống, một chủ nghĩa đã bị nhân loại chối bỏ ?
Nông dân Văn Giang, Hưng Yên cắm lều chống lại lệnh của chính quyền cưỡng chế thu hồi đất dành cho dự án Ecopack hôm 23/04/2012 - Reuters/Stringer
1001 lý do
Người ta đã nêu rất nhiều lý do, nhưng những lý do đưa ra có thực sự giải thích hiện tượng đáng buồn là chế độ cộng sản vẫn đứng vững ở Việt Nam ?
– Lý do lịch sử : Việt Nam là nạn nhân của chế độ thuộc địa, nhu cầu đòi độc lập, cuộc tranh đấu đòi tự do đã đẩy đất nước rơi vào quỹ đạo Cộng sản quốc tế. Tệ hại hơn nữa, quỹ đạo Trung Quốc. Nhưng rất nhiều quốc gia đã là nạn nhân của chế độ thuộc địa, rất ít rơi vào rọ. Rất nhiều quốc gia đã bị chủ nghĩa cộng sản cám dỗ lúc đầu, nhưng thức tỉnh kịp thời.
– Lý do địa lý : Việt Nam có cái bất hạnh là ở sát cạnh nước Tàu, nhưng Việt Nam không phải là trường hợp duy nhất. Trung Quốc giáp ranh với 14 quốc gia.
– Lý do chính trị : Chế độ cộng sản tàn bạo, cai trị bằng khủng bố, cái sợ trở thành một bản năng để sống còn, một dân tộc tính ; chính sách ngu dân, nhồi sọ của Cộng sản đã thành công trong nghĩa vụ biến người dân thành một đàn cừu.
Nhưng chế độ độc tài nào cũng tàn bạo, tàn bạo là một định nghĩa của độc tài. Điều đó đã không ngăn được các chế độ độc tài thi nhau sụp đổ. Chế độ cộng sản nào cũng cai trị bằng khủng bố, tẩy não, điều đó đã không ngăn được Xô Viết Nga tan rã, bức tường ô nhục Berlin sụp đổ, các nước Đông Âu tìm được tự do.
– Lý do văn hóa : Văn hóa Việt Nam, đặc biệt là văn hóa Khổng giáo, đã khiến người Việt phó mặc chuyện chính trị cho vua quan, chỉ lo việc gia đình. Nhưng văn hóa Á Đông đã không cấm Nhật Bản trở thành một cường quốc, văn hóa Khổng giáo, đã không cản Đài Loan, Đại Hàn trở thành những nước dân chủ kiểu mẫu.
Văn hóa gia đình rất cao ở Do Thái (từ ngữ "người mẹ Do Thái" -la mère juive- là biểu tượng của văn hóa gia đình rất nặng của dân tộc này), đã không cấm người Do Thái có tinh thần quốc gia rất cao.
Tóm lại, những vấn đề nêu trên có thực, nhất là khi nó tụ hợp tất cả trên đầu một dân tộc (sẽ đi sâu hơn trong một bài khác), đã đóng góp vào đại họa chung, nhưng không đủ để giải thích tại sao gần nửa thế kỷ sau ngày 30/4/1975, vẫn không có thay đổi lớn tại Việt Nam, bất chấp những yếu tố khách quan khiến người ta nghĩ, đáng lẽ chế độ cộng sản phải sụp đổ.
Bất công xã hội, tham nhũng tới độ kinh hoàng, đã phơi bày trước mắt mỗi người, qua những căn "lều của đầy tớ", nghĩa trang bao la của lãnh tụ, đời sống phè phỡn, bất nhân của giới cầm quyền.
Yếu tố khách quan
Những yếu tố khách quan khiến chế độ độc tài đáng lẽ phải khốn đốn :
– Internet, Facebook, nói chung mạng lưới xã hội, khiến thông tin khó bị bưng bít, sự thực khó che giấu, tẩy não khó thành công.
– Lưu thông, du lịch toàn cầu dễ dàng, khiến người Việt (khác với người Bắc Hàn) có cơ hội tiếp xúc với thiên hạ, để ý thức được thân phận cá chậu, chim lồng của chính mình.
– Trên 4 triệu người Việt sống ở nước ngoài, nhiều người về nước thường xuyên, trao đổi với gia đình, bè bạn, khiến những trò tuyên truyền rẻ tiền đối với người dân trong nước trở thành lố bịch.
– Nhờ kinh tế toàn cầu, kinh tế khả quan hơn ngày xưa, một giai cấp trung lưu ra đời. Trên lý thuyết, giai cấp trung lưu là động lực chính cho các phong trào dân chủ. Họ đủ sống để hết lệ thuộc cơm áo, đủ trình độ để có nhu cầu đòi hỏi tự do, không thuộc guồng máy Đảng để hết lòng bảo vệ chế độ. Ở những nước bình thường, một giai cấp trung lưu đông đủ là điều kiện tối cần cho thể chế dân chủ.
– Một nửa dân tộc, sống ở miền Nam trước 75, có kinh nghiệm sống để so sánh một xã hội trong tay cộng sản, vói một xã hội tự do.
– Sau nửa thế kỷ xâm chiếm miền Nam, người cộng sản đã lộ nguyên hình là một bọn cướp ngày, một mafia đỏ, buôn dân bán nước.
– Bất công xã hội, tham nhũng tới độ kinh hoàng, đã phơi bày trước mắt mỗi người, qua những căn "lều của đầy tớ", nghĩa trang bao la của lãnh tụ, đời sống phè phỡn, bất nhân của giới cầm quyền.
– Môi trường, danh lam thắng cảnh bị tàn phá một cách khủng khiếp để làm kinh tài.
– Công nhân, phụ nữ bị bán, xuất cảng như những nô lệ.
– Tôn giáo bị đàn áp, luân lý rã rời, xã hội tan rã.
– Tai họa lệ thuộc Trung Quốc càng ngày càng lớn, hiểm họa mất nước càng ngày càng gần. Người Việt có bệnh chia rẽ kinh niên, nếu có điều gì đồng thuận, đó là tinh thần chống Tàu, trong khi tập đoàn cầm quyền tình nguyện làm tay sai cho Bắc Kinh.
Tất cả những yếu tố khách quan đó, quá đủ, đáng lẽ phải đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của chế độ.
Nhưng sự thực phũ phàng là chế độ vẫn đứng vững.
Kỷ niệm 47 năm ngày mất miền Nam, đến lúc chúng ta phải đặt câu hỏi, khẩn cấp, không nhân nhượng, không né tránh : tại sao chế độ cộng sản chưa sụp đổ, tại sao chưa có một thay đổi gì về chính trị, dân chủ, dân quyền ở Việt Nam ?
Một chế độ nô lệ, trong đó, nhờ được tiêu thụ, được giải trí, những người nô lệ đâm ra yêu thích tình trạng nô lệ của mình"
Nhà tù không tường
Tại sao, bất chấp những yếu tố bất lợi nói trên, tập đoàn cầm quyền Hà Nội vẫn xây được cái mà Aldous Huxley gọi là nhà tù khổng lồ không tường, để giam 90 triệu tù nhân ?
Aldous Huxley : "Nhờ kiểm soát tư tưởng, nhờ khủng bố thường trực để giữ cá nhân dưới sự phục tòng, ngày nay chúng ta đã bước vào một chế độ độc tài hoàn hảo nhất, một chế độ có bề ngoài dân chủ, một nhà tù không tường, trong đó tù nhân không nghĩ tới chuyện vượt ngục, không nghĩ tới chuyện lật đổ bạo chúa. Một chế độ nô lệ, trong đó, nhờ được tiêu thụ, được giải trí, những người nô lệ đâm ra yêu thích tình trạng nô lệ của mình" (1).
Huxley không nói gì khác hơn Juvénal đã nói từ thời đế quốc La Mã : "Hãy cho dân bánh mì và các trò chơi (panem, circenses), họ sẽ hài lòng, bỏ quên mọi chuyện, vua chúa tha hồ cai trị".
Thời La Mã, ngoài bánh mì và trò chơi, lý thú nhất là trò giác đấu giữa các nô lệ.
Ngày nay giác đấu (gladiateurs) được thay bằng football, games đủ loại, bánh mì thay bằng ăn nhậu, tiêu pha, mua sắm.
Dân không đòi hỏi gì hơn.
Được "đi bão" sau một trận bóng tròn, được xếp hàng ăn Mc Donald’s, mua giầy Nike, Adidas, tuổi trẻ thấy mình có đủ tự do, hạnh phúc.
Ai đã không nghe người Việt trong nước khoe, một cách hãnh diện : "Ở Việt Nam ngày nay không thiếu gì cả, ông ơi. Có tiền là có mọi thứ".
Ít người nghĩ : thiếu một thứ, đáng quý hơn cả, là tự do, là cái hãnh diện được suy nghĩ, hành động như một con người có nhân phẩm, một con người có quyền làm người. Đáng gọi là con người.
Một chế độ độc tài cũng có thể làm thỏa mãn nhu cầu vật chất của chúng ta, nhưng chúng ta không phải là súc vật, chỉ có nhu cầu vật chất.
Cộng sản đã thành công trong việc đào tạo một thế hệ bạc nhược, hèn yếu, vô cảm, vô trách nhiệm, ích kỷ, vô luân, thụ động.
Hiện tượng cộng sản chưa có gì thay đổi ở Việt Nam, dân chủ tự do vẫn là chuyện xa vời
Gramsci và thuyết "thống trị văn hóa"
Để giải thích hiện tượng cộng sản chưa có gì thay đổi ở Việt Nam, dân chủ tự do vẫn là chuyện xa vời, có lẽ phải mượn lý thuyết Gramsci. Theo Gramsci, văn hóa giải thích tất cả.
Muốn có cải cách chính trị, phải có nền móng văn hóa, những yếu tố khác, thí dụ kinh tế, chỉ là thứ yếu. Muốn thay đổi xã hội, không thể hà tiện một cuộc cách mạng văn hóa, thay đổi tư duy. Nếu không, nếu có biến chuyển, chỉ là những cuộc đảo chánh, những thay đổi nhất thời, những cuộc nổi loạn, sau đó sẽ đâu trở lại đó.
Theo Gramsci, có 2 điều kiện để người dân tích cực tham gia cách mạng :
1. Cùng chung một ý thức hệ ;
2. Tin rằng thay đổi sẽ có hậu quả tốt cho chính mình.
Antonio Gramsci (1891-1937) là một lý thuyết gia thiên tả người Ý, trước đây là cẩm nang tranh đấu cho các phong trào cách mạng trên thế giới, ngày nay là sách gối đầu giường cho các chính trị gia thuộc mọi khuynh hướng, từ tả sang hữu, nhất là ở Âu Châu.
Tại Pháp chẳng hạn, phe cực hữu, đã mở một trường học ở Lyon để đào tạo cán bộ, vì đồng ý với Gramsci là nếu không tạo một nền móng văn hóa vững chắc, nếu tư tưởng quốc gia cực đoan của họ không ăn rễ trong dân chúng, dù họ có thắng cử cũng chỉ là những thắng lợi bề mặt, nhất thời.
Tạm tóm tắt lý thuyết Gramsci qua 2 chữ "hégémonie culturelle" (thống trị văn hóa) (2).
Muốn tiến tới chính quyền và đứng vững lâu dài, phải đi tới thống trị văn hóa.
"Gramsci phân biệt xã hội ra 2 thành tố mà ông gọi là 1. Xã hội chính trị, quyền lực chính trị (Société politique, hay pouvoir politique) và 2. Xã hội dân sự (Société civile).
Quyền lực chính trị, bao gồm các cơ chế nhà nước, bộ máy chính quyền : chính phủ, quân đội, công an, cảnh sát… Xã hội dân sự, là tất cả những gì thuộc địa hạt tư nhân, lãnh vực tinh thần, sở hữu của mỗi cá nhân, địa hạt của văn hóa, tôn giáo, tri thức, đạo đức, nhân sinh quan, triết lý sống tiềm tàng trong một xã hội. Tóm lại : Tư duy của một dân tộc.
Lật đổ một chính phủ, một tập đoàn cầm quyền, chiếm quyền lãnh đạo chính trị (pouvoir politique), chỉ là một cuộc đảo chánh.
Muốn bền vững, muốn thay đổi xã hội, phải đấu tranh và chiến thắng trên địa hạt văn hóa, phải nắm xã hội dân sự (société civile), phải thay đổi tư duy. Phải đặt một nền tảng văn hóa mới.
Chính quyền phải được một sự hậu thuẫn ngầm, đương nhiên, của một xã hội cùng chia sẻ những giá trị tinh thần tiềm tàng, sâu kín trong tiềm thức của một dân tộc.
Gramsci giải thích tại sao cách mạng "vô sản" chỉ thành công ở Nga nhưng thất bại ở Âu Châu. Bởi vì trong xã hội Nga, và nói chung, xã hội Đông Phương, nhà nước là tất cả, xã hội dân sự còn sơ khai, chỉ cần chiếm vài cơ sở huyết mạch là chiếm được quyền lực.
Trái lại, các nước Tây phương, xã hội dân sự, nói khác đi, quyền lực văn hóa phức tạp, sâu xa (với văn chương, nghệ thuật, triết học…), xã hội dân sự phong phú (với các hội đoàn, các nghiệp đoàn, báo chí, đảng phái…), nắm được chính quyền không dễ, áp đặt một chế độ mới là chuyện không thể xẩy ra.
Chính vì vậy, phe Cộng sản chỉ cần chiếm vài cơ sở chính yếu ở Nga đã thành công trong cách mạng 1917, người dân hầu như không hay biết gì. Nhưng sau đó, vì không có cỗi rễ văn hóa, không có sự đồng thuận tư duy, Stalin không có cách gì khác hơn để duy trì quyền lực là sự khủng bố (terreur).
Không có đồng thuận, nhà nước phải dùng khủng bố. Nhưng người ta không xây dựng gì trên sự khủng bố. Tất cả tài nguyên, nhân lực quốc gia chỉ dành cho ưu tiên hàng đầu : củng cố guồng máy đàn áp. Guồng máy quốc gia tê liệt, kinh tế khủng hoảng, luân lý suy đồi, xã hội băng hoại (3).
Sở dĩ chưa có thay đổi ở Việt Nam, Cộng sản vẫn đứng vững vì văn hóa dân chủ chưa thực sự ăn sâu trong đầu óc dân Việt
Hai mục tiêu
Áp dụng lý thuyết Gramsci, chúng ta có thể kết luận, sở dĩ chưa có thay đổi ở Việt Nam, Cộng sản vẫn đứng vững, bởi vì :
1. Văn hóa dân chủ chưa thực sự ăn sâu trong đầu óc dân Việt.
2. Đa số dân chưa tin những thay đổi chế độ sẽ cải thiện đời sống của mình.
Bổn phận của những người tranh đấu cho tự do, dân chủ là phải đóng góp vào việc thực hiện hai mục tiêu đó.
Đó không phải là điều dễ, bởi vì người ta chỉ thực sự tha thiết với dân chủ khi đã sống trong một xã hội dân chủ. Có người nói : "nếu chưa ăn táo, bạn sẽ không nhớ, không thèm táo".
Dân không tin thay đổi chế độ sẽ cải thiện đời sống của họ.
Tuyên truyền, nhồi sọ đã khiến người dân trong các nước độc tài hài lòng với đời sống của mình. Dân Bắc Hàn tin là nhờ cha con họ Kim mà dân Hàn khỏi đói khổ như các dân tộc khác trên thế giới. Dân Nga tin là nhờ Putin mà khỏi đói như thời Stalin. Rất nhiều người Việt nghĩ ở Việt Nam ngày nay không thiếu gì, miễn là có tiền, và mục đích ở đời là kiếm tiền.
Nếu không đi tới mục tiêu đó, bằng bất cứ giá nào, dưới bất cứ hình thức nào (hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội, media, văn học, nghệ thuật…), sẽ không hy vọng thực sự có thay đổi lớn ở Việt Nam.
Có người sẽ phản kháng : đó là việc làm quá lâu dài, trong khi tình trạng khẩn cấp như hỏa hoạn. Nhưng làm những việc khẩn cấp để chống độc tài không cấm người ta làm những việc lâu dài hơn, khi ý thức đó là chuyện cơ bản. Tướng Pháp Lyautey nói với quân sĩ : "Hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đấy".
Đấu tranh không còn là những cuộc giáp chiến, nhưng là những cuộc chiến văn hóa, tranh thủ trí não, mỗi phe tìm cách bành trướng ảnh hưởng của mình.
Chiến tranh vị trí
Theo Gramsci, đấu tranh không còn là những cuộc giáp chiến, nhưng là những cuộc chiến văn hóa, tranh thủ trí não, mỗi phe tìm cách bành trướng ảnh hưởng của mình.
Yếu tố quyết định của trận chiến đó, Gramsci gọi là chiến tranh vị trí ("guerre de position"), trái với chiến tranh di động ("guerre de mouvement"). Trong chiến tranh vị trí, võ khí là văn hóa. Văn hóa được coi là địa bàn hoạt động, bộ tổng tham mưu.
Khi tư duy đó đã trở thành mẫu số chung, người dân sẽ phân tách thời cuộc, thời sự, lịch sử dưới lăng kính đó. Người dân sẽ hành động dưới lăng kính đó. Đưa những dữ kiện khách quan không đủ thuyết phục, phải thay đổi tư duy.
Nếu người dân còn bị nhồi sọ, họ sẽ tìm mọi cách bào chữa cho chế độ. Trước những bằng chứng hiển nhiên về những tệ hại trước mắt, họ sẽ chui vào chỗ ẩn náu cuối cùng, nghĩ đó chỉ là lỗi lầm của lãnh tụ này, bộ trưởng kia, không phải lỗi của chế độ. Trong bất cứ trường hợp nào, việc thay đổi tư duy vẫn là mẫu số chung, không thể gạt sang một bên, chờ một lúc khác
Theo Gramsci, chế độ sẽ và chỉ sụp đổ khi nền tảng lung lay, và nền tảng chỉ lung lay khi đa số dân chúng chối bỏ xã hội đang sống, đồng thuận về một xã hội tương lai.
Việc vận động để thay đổi tư duy là nghĩa vụ của mỗi người. Ảnh minh họa Quảng trường dân chủ quốc gia ở Đài Bắc, Đài Loan
Từ sóng ngầm tới đột biến
Nghiên cứu những cuộc cách mạng, người ta thấy có 3 yếu tố khiến một chế độ sụp đổ :
1. Làn sóng ngầm (sự bất mãn, căm thù tiềm tàng trong lòng dân)
2. Đột biến (một cơ hội, một sự kiện thời sự nào đó khiến đợt sóng ngầm bùng nổ)
3. Lãnh đạo (hay các tổ chức đã chuẩn bị từ lâu, để hướng dẫn các đột biến đi tới mục tiêu.
Tới nay, hầu hết người Việt chống Cộng chỉ ngồi chờ đột biến.
"Người ta có thể rút tỉa gì từ Gramsci ? Khi nào tư duy của một dân tộc bị nhồi sọ gần một thế kỷ chưa thay đổi, chuyện thay đổi sẽ còn gian nan. Có thể những người bất mãn với chế độ cộng sản càng ngày càng đông, nhưng người ta khó xây dựng gì vững vàng trên sự chống đối. Chỉ có thể xây dựng xã hội mới trên tư duy mới, khi đa số tin tưởng ở những giá trị mới.
Người dân chỉ chủ động trong việc xây dựng dân chủ, khi nghĩ dân chủ sẽ thay đổi cụ thể đời sống cuả mình, tương lai của con cháu mình. Khi nào những ý niệm dân chủ chỉ là những khẩu hiệu, sự thờ ơ vẫn còn, và chính sách khủng bố vẫn hữu hiệu.
Tóm lại, mặt trân văn hóa luôn luôn là một ưu tiên, ngay cả trong hoàn cảnh cấp bách.
Ismaïl Kadaré, nhà văn hàng đầu của Albany, nói : ngay cả trong những lúc khốn cùng, người ta cũng phải có thái độ trân trọng đối với văn hóa" (3).
Việc vận động để thay đổi tư duy là nghĩa vụ của mỗi người. Ảnh minh họa Quảng trường Dân chủ ở Bangkok, Thái Lan
Mặt trận tư duy
Có người sẽ phản kháng : đó là việc làm quá lâu dài, trong khi tình trạng khẩn cấp như hoả hoạn. Nhưng làm những việc khẩn cấp để chống độc tài không cấm người ta làm những việc lâu dài hơn, khi ý thức đó là chuyện cơ bản. Tướng Pháp Lyautey nói với quân sĩ : "Hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đấy".
Đáng lẽ việc vận động để thay đổi tư duy là chuyện của trí thức.
Rất tiếc, Việt Nam không có một "intelligentsia" (hàng ngũ trí thức), được coi như lương tâm của dân tộc, có đủ kiến thức, và uy tín, để soi đường cho dân tộc.
Trong tình huống đó, việc vận động để thay đổi tư duy là nghĩa vụ của mỗi người.
Trên địa hạt của mình, với khả năng của mình, mỗi người có thể đóng góp vào cuộc tranh thủ tư duy. Không thể giao chiến để chiếm đất, người ta có thể, và phải giao chiến trên địa hạt trí não. Nghe có vẻ viển vông, nhưng từ cổ chí kim, tư duy vẫn dẫn dắt nhân loại, đi tìm thiên đàng hay xuống địa ngục.
Từ Thức
(26/04/2022)
Chú thích :
(1) Aldous Huxley, "Le Meilleur Des Mondes" : "Grâce au contrôle des pensées, à la terreur constamment martelée pour maintenir l’individu dans un état de soumission voulu, nous sommes aujourd’hui entrés dans la plus parfaite des dictatures, une dictature qui aurait les apparences de la démocratie, une prison sans murs dont les prisonniers ne songeraient pas à s’évader, dont ils ne songeraient même pas à renverser les tyrans. Système d’esclavage où, grâce à la consommation et au divertissement, les esclaves auraient l’amour de leur servitude".
(2) Antonio Gramsci, "Cahiers de prison".
(3) Từ Thức, "Gramsci : tất cả là một vấn đề văn hóa"
Nếu không có ngày 30/04/1975
Phạm Trần, 27/04/2022
Đôi khi ta tự hỏi : Nếu không có ngày 30/4/1975 thì đất nước và con người Việt Nam bây giờ ra sao ? Không ai có thể trả lời được, nhưng có một điều rõ ràng : Ngày ấy, tuy đất nước thống nhất nhưng lòng người Nam - Bắc vẫn xa nhau vời vợi.
Tòa Đô Chính Sài Gòn (1963)
trở thành Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2022)
Người Việt có cùng màu da, cùng tiếng nói và con một mẹ , nhưng nhiều khi chúng ta "bằng mặt nhưng không bằng lòng". Tại sao ? Có nhiều nguyên nhân, nhưng cốt lõi vẫn là chúng ta chưa thật lòng với nhau. "Kẻ thắng" vẫn "kiêu ngạo cộng sản" không muốn "hòa giải" mà chỉ muốn "người thua trận" phải "hòa hợp" vào với thể chế chính trị cộng sản của mình, là nguyên nhân đã đưa đến cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn trong 30 năm. Trong khi "Người thua" thì muốn "xóa bài làm lại" từ đầu về một Chế độ được cả hai phía đồng ý qua "trưng cầu dân ý " hay qua "bầu cử tự do-dân chủ" có Quốc tế kiểm soát.
Sự khác biệt ý thức hệ này là nguyên nhân của chia rẽ, sau 47 năm (1975-2022) chiến tranh kết thúc.
Hòa giải và hòa hợp
Đã có những người như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao cộng sản Việt Nam Nguyễn Đình Binh, nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ và nhạc sĩ Phạm Duy đã có những nỗ lực "hòa giải" nhưng không thành công.
Nguyên Thủ tướng cộng sản Việt Nam Võ Văn Kiệt từng nói : "Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu" (Phỏng vấn của báo Quốc Tế, ngày 31/03/2005).
Trong khi đó, nhân dịp 45 năm kỷ niệm ngày 30/04/1975, ông Nguyễn Đình Bin, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài đã giải bầy tâm sự của mình trong bài viết kỷ niệm 15 năm ra đời Nghị quyết 36 NQ/TW (26/03/2004 – 26/03/2019) do ông đóng vai chính hình thành.
Ông viết : "Sau 15 năm đi vào cuộc sống, Nghị quyết 36 NQ/TW đã được thực thi phần nào, được cộng đồng hoan nghênh, tạo ra khá nhiều đổi thay. Nhưng tôi vẫn buồn : vết thương dân tộc thực sự vẫn chưa lành !!! Với các nước ngoài đã từng đô hộ, xâm lược nước ta, gây ra biết bao tội ác tầy trời, biết bao đau thương, mất mát, hậu quả khủng khiếp, nặng nề… mà nhân dân ta vẫn còn phải gánh chịu, với truyền thống khoan dung, hòa hiếu, chúng ta đã gác lại quá khứ, bình thường hóa quan hệ và kết bạn, trở thành những đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện… vì tương lai của mỗi quốc gia, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Vậy mà, vì sao, cuộc chiến ác liệt nhất đã kết thúc và đất nước đã thu về một mối hơn 4 thập kỷ mà dân tộc ta, nói cho cùng đều là nạn nhân của sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài nói trên, vẫn chưa hòa giải được với nhau ? Cũng chính sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài đó đã chia ly bao gia đình Việt và cả dân tộc Việt, gây ra cảnh huynh đệ tương tàn trên đất nước ta. Thế mà ta đã hòa giải được với họ, còn chúng ta, anh em một nhà "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng", thì lại chưa hòa giải được với nhau ?"
Về phần nguyên Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, ông đã về Việt Nam lần đầu tháng 01 năm 2003 qua trung gian của ông Nguyễn Đình Bin.
Phát biểu tại cuộc họp "giữa kiều bào và UBND Thành phố Hồ Chí Minh" (15/01/2004), ông Kỳ nói : "Sau 30 năm đất nước được thống nhất thì đây là lúc cần sự hợp tác của tất cả người Việt Nam trong và ngoài nước để đất nước trở thành một con rồng Châu Á. "Những ai muốn quay về dĩ vãng, thật là không tưởng. Tôi nghĩ rằng, nhiệm vụ của mỗi công dân trên toàn thế giới là đoàn kết nhau lại, hợp sức xây dựng đất nước. Hãy quên quá khứ để nhìn về tương lai" (VnExpress, 16/01/2004).
Tuy nhiên, sau vài cuộc vận động, ông Kỳ đã không thành công. Ông nói : "Tôi nghe dư luận và có cảm tưởng vẫn còn có khoảng cách giữa nói và làm. Cuối năm vừa rồi, Hội nghị Việt kiều (2009 ?) đã thu hút mấy ngàn người về dự. Trả lời phỏng vấn báo chí, nhiều vị đều bày tỏ mong muốn sớm hòa hợp. Điều đó có nghĩa mặc dù chính quyền đã cố gắng, nhưng ở đâu đó vẫn chưa thực sự tích cực".
Phóng viên hỏi : Việc tích cực hàn gắn như ông vừa đề cập, cần được hiểu thế nào ?
Ông Nguyễn Cao Kỳ : "Phải từ hai phía, nhưng cái chính vẫn phải từ phía những người trong nước. Chúng ta có thực sự muốn làm và tích cực làm hay không...
Nói về đoàn kết toàn dân tộc tôi có cảm giác dân tộc mình mỗi lần bị đe dọa đến vận mệnh thì lại đoàn kết. Thời xưa, chống giặc ngoại xâm phương Bắc thời nay đánh Tây, đánh Mỹ là tự khắc cả dân tộc đoàn kết và chiến thắng. Nhưng khi thắng rồi không hiểu làm sao mà tình cảm lại không được như trước
Theo tôi, cả hai phía vẫn có thiểu số còn quá nặng về dĩ vãng, chưa có tầm nhìn về tương lai. Một người không biết nhìn về tương lai, thì họ chỉ còn sống và ôm dĩ vãng. Mà như vậy thì tư duy của họ vẫn mãi bị ám ảnh bởi những chuyện hận thù, chủ nghĩa hay phe phái. Chúng ta phải thực tế nhìn vào điều này : muốn hòa hợp thì rất không nên nói nhiều mà phải làm.
Phóng viên : Liệu có cách gì để chúng ta không còn phải mất thêm thời gian cho việc hòa hợp, hàn gắn với đa số những người Việt ở bên ngoài đất nước ?
Ông Nguyễn Cao Kỳ : Chuyện quốc gia cũng giống như trong một gia đình. Những việc chung thì cần đánh tiếng để mọi người xúm tay vào làm. Tôi nghĩ đối với đa số người Việt ở bên ngoài thì sẵn lòng góp sức cùng trong nước. Với đất nước có gì phải ngại ngần. Vấn đề là họ cần được thông tin đầy đủ về tình hình và những nhu cầu thực sự mà nhà nước đang cần sự góp sức của họ.
Hòa hợp dân tộc sẽ tập hợp được sức mạnh. Cứ đặt lợi ích dân tộc lên trên thì chúng ta tự khắc biết phải ứng xử thế nào cho hợp lẽ.
Nhưng khi đã kêu gọi thì cũng phải tạo điều kiện thoải mái cho người ta về. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau (VietnamNet, ngày 27/04/2010).
Cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ qua đời ở Mã Lai ngày 23/07/2011, thọ 81 tuổi trong khi hoài bão hòa hợp dân tộc của ông còn dở dang.
Lá rụng về cội
Sau ông Kỳ, nhạc sĩ Phạm Duy, khi ấy 86 tuổi cũng về và ở luôn Việt Nam từ ngày 17/05/2005. Ông xin lại quốc tịch và làm thẻ công dân Việt Nam.
Thời đó, ông nói với BBC tiếng Việt : "Tôi về đây không phải là tôi đi tìm danh vọng, hay tôi tìm đồng tiền kinh tế. Không phải. Tôi về đây là vì tôi yêu nước thôi. Mà tôi phải về vì người già nào cũng muốn chết ở quê hương của mình, thế thôi".
Cuộc trở về quê hương cũ của nhạc sĩ Phạm Duy, một cựu kháng chiến theo Việt Minh rồi lại bỏ hàng ngũ quay về Hà Nội trước khi đất nước chia hai năm 1954, đã gây tranh luận trong và ngoài nước. Nhưng Phạm Duy nói : "Người Việt Nam ở Mỹ, hay đi hải ngoại rồi, muốn nghĩ gì thì nghĩ, tôi không quan tâm". Bởi những người đó vẫn còn nuôi oán thù. Mà tôi chủ trương là sau 30 năm trời, thì phải đến các lúc mà có sự hòa hợp dân tộc. Thì phải thế thôi".
Ngoài Phạm Duy, ba con trai của ông gồm Duy Quang, Duy Cường và Duy Minh cũng đã về ở luôn tại Sài Gòn. Nhưng Duy Quang, sau đó bị ung thư gan phải bay về Mỹ chữa trị rồi qua đời ngày 19/12/2012.
Trả lời câu hỏi : Nguyên nhân nào để ông quyết định trở về ?
Phạm Duy đáp : " Tôi có quyết định về Việt Nam từ năm 1988. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã cho thế giới thấy một Việt Nam cởi mở như thế nào. Từ chuyện muốn về nước, nên tôi đã viết ca khúc Hẹn em năm 2000 và khi nhà tôi mất năm 1999, tôi không còn vướng bận chuyện gia đình nữa, càng thôi thúc tôi phải về hơn. Từ đó đến nay, tôi đã về 10 lần, những gì mắt thấy tai nghe đủ cho tôi quyết định về hẳn.
Tôi đi nhiều nước, chưa có dân tộc nào yêu cuộc sống như dân tộc Việt Nam, quyến rũ cả người ngoại quốc. Đời sống của dân mình tôi thấy đã thay đổi hoàn toàn, ngay cả làng mạc nay cũng khang trang, sạch sẽ. Người nông dân tuy còn đi cày, nhưng trên bờ ruộng lại có chiếc Honda, không phải lội bộ như ngày xưa" (BBC, ngày 19/12/2012).
Nhưng chuyến trở về ở luôn nơi "chôn nhau cắt rốn" của Phạm Duy cũng chỉ kéo dài được 8 năm. Ông qua đời vì bạo bệnh ở Sài Gòn ngày 27/01/2013, thọ 94 tuổi.
Du sinh, một đi không về
Bên cạnh hai chuyến quay về Việt Nam của ông Kỳ và nhạc sĩ Phạm Duy, không thấy có thêm "nhân vật miền Nam cũ" nào muốn về Việt Nam sống luôn, ngoại trừ một số doanh nhân muốn đầu tư vào Việt Nam trong hai ngành du lịch và nhà đất.
Chính quyền cộng sản Việt Nam từng hy vọng sẽ có nhiều trí thức trẻ thuộc thế hệ thứ 3 của người Việt tị nạn ở nước ngoài sẽ về Việt Nam giúp nước, vì họ không bị ràng buộc bởi quá khứ chia rẽ do chiến tranh để lại, nhưng họ đã sai. Có nhiều lý do nhưng nguyên nhân chính vì phần đông cấp lãnh đạo trong nước vẫn tự kiêu là kẻ chiến thắng nên không sẵn sàng nghe và làm theo ý kiến của con em thuộc thành phần thua trận.
Bên cạnh đó là tư duy cầm quyền độc tài, hẹp hòi, gia trưởng, coi nhẹ các quyền con người, trong đó có các quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngường tôn giáo không được tôn trọng. Những bất công giầu-nghèo trong xã hội và chủ trương "không khoan nhượng" của Nhà nước chống lại những trí thức đòi dân chủ cũng đã làm nhụt chí quay về của những người trẻ ở nước ngoài. Đấy là chưa kể đến tình trạng quan liêu và tham nhũng dầy đặc trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên là những mảng xám đen của chế độ đã bị phơi bầy trước mắt những người muốn quay về giúp nước.
Do đó, hàng năm chỉ có chừng vai trăm, trong số 700.000 trí thức và chuyên viên người Việt ở nước ngoài, muốn về Việt Nam hợp tác mà không muốn quay về lập nghiệp. Con số khiêm nhượng này, trong số 5,5 triệu người Việt ở nước ngoài, cho thấy chính sách hợp tác trong-ngoài giữa Chính quyền và Kiều bào hãy còn cách biệt, nhưng nhà nước lại không muốn thay đổi chế độ chính trị nên xa cách cứ mỗi ngày một giãn ra. Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam cũng đã quy chụp những ai đòi dân chủ, đòi đa nguyên đa đảng, đòi bầu cử tự do là "những kẻ muốn chống phá chế độ", hay "những thế lực thù địch" muốn loại đảng khỏi vị trí cầm quyền.
Bằng chứng này được viết trong Tạp chí cộng sản, cơ quan lý luận hàng đấu của Tuyên giáo Việt Nam : "Đáng chú ý, trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn một bộ phận kiều bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới, nên nhận thức về quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ và chính xác. Thậm chí, có những cá nhân do còn thành kiến, mặc cảm đã thể hiện sự bất mãn, tiêu cực, đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, tuyên truyền sai sự thật, kích động kiều bào, phá hoại mối quan hệ giữa nước sở tại với Việt Nam, gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực thi chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước…" (Tạp chí Cộng sản, ngày 08/03/2022).
Trong thời đại điện tử hiện nay đâu cần phải về Việt Nam mới thấy những thay đổi của đất nước và con người Việt Nam sống trong chế độ cộng sản độc tài ? Chỉ riêng một chuyện trước mắt : người Việt Nam ở trong nước đã tìm mọi cách, nếu có khả năng và cơ hội, để rời quê hương sống ở nước ngoài cũng đủ để đánh giá ở đâu có tự do và dân chủ thì ở đó có công bằng xã hội thu hút khả năng lao động của con người.
Đó cũng là lý do tại sao cán bộ, đảng viên có chức có quyền và doanh nhân giầu có đã tìm mọi cách gửi con đi du học ở nước ngoài để thành tài rồi tìm cách nhập cư, tạo cầu nối "đoàn tụ" cho cha mẹ, anh em v.v... Theo Cục Hợp tác Quốc tế, Bộ Giáo dục và đào tạo, hiện đang có khoảng 190.000 du học sinh Việt Nam đang học tập, nghiên cứu tại nước ngoài.
"Các nước có nhiều du học sinh Việt Nam là Úc 30.000, Mỹ 29.000, Canada 21.000, Anh 12.000, Trung Quốc 11.000…" (VOH Radio - Voice of Hochiminh City Radio, ngày 26/07/2020).
Vẫn theo VOH : "Chính phủ Úc luôn dành tặng rất nhiều học bổng cho các du học sinh, đặc biệt, Việt Nam là một quốc gia được nhận rất nhiều học bổng từ chính phủ Úc, với khoảng 150 suất học bổng mỗi năm. Du học sinh có thể xin được học bổng từ chính phủ hoặc từ chính các trường đại học.
Một số trường đại học nổi tiếng ở Úc gồm Monash, Melbourne, Đại học Quốc gia Australia...
Hiện có khoảng 30.000 du học sinh Việt Nam đang học tại các trường đại học của nước này.
Úc được xem là một đất nước không quá khó để tìm việc và xin định cư. Theo quy định của pháp luật Úc, thì sau 2 năm làm việc toàn thời gian và đáp ứng đủ yêu cầu theo luật định cư thì du học sinh sẽ được xem xét quyền định cư".
Sự dễ dãi của Úc không phải là cá biệt mà còn ở các nước khác, kể cả Hoa Kỳ, vì các nước này có chính sách trọng dụng nhân tài để mở mang đất nước, không giống như Việt Nam chỉ biết lấy tiêu chuẩn "hồng hơn chuyên" và "hạt giống đỏ", con cái các đảng viên trung kiên, để được hưởng bổng lộc và tiếp nối cầm quyền.
Đó là lý do tại sao có hiện tượng : "100% du học sinh không muốn quay về. Và rất khó cho những người đã trở về áp dụng những gì được học vào thực tế tại Việt Nam", theo kết quả một nghiên cứu của Tiến sĩ Phạm Thị Liên, thuộc Đại học Công nghệ Sydney (BBC, ngày 24 tháng 9 2019)
BBC viết tiếp : "Sinh viên du học xong, trở về hay không trở về - một đề tài tưởng cũ, nhưng thỉnh thoảng lại được xới lên trên báo chí lẫn trên mạng xã hội.
Nhiều người cho rằng, lựa chọn - về hay ở lại - không chỉ là lựa chọn cá nhân, mà còn là phản ánh khả năng tiếp nhận nguồn vốn con người của một nền kinh tế".
Cũng nên biết tình trạng "đảng hóa xã hội" ở Việt Nam đã khiến cơ hội thăng tiến cho dân thường gặp nhiều khó khăn nên dân đã có câu "nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ", phản ảnh trung thực về nạn "con ông cháu cha" quan trọng hơn học vấn trong hệ thống cầm quyền.
Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2020, kiều bào đã đầu tư trên 360 dự án ở Việt Nam với tổng số vốn 1,6 tỉ USD.
Theo Ngân hàng Thế giới Việt Nam, Việt Nam đứng trong top 10 quốc gia nhận kiều hồi lớn nhất thế giới. Dự báo lượng kiều hối gửi về Việt Nam trong năm 2021 ước đạt 18,06 tỉ USD, tương đương 5% GDP của Việt Nam. Phần lớn số tiền này được gửi về giúp thân nhân thoát khỏi cuộc sống khó khăn.
Như vậy, giữa xây dựng đất nước và đoàn kết dân tộc trong ngoài, giữa chế độ một đảng cầm quyền và đòi hỏi dân chủ, nhân quyền của một bộ phận không nhỏ người dân vẫn còn một lằn ranh ngăn cách sau 47 năm ngày 30/4/1975.
Ấy là chưa kể thứ ngôn ngữ thù hận của phe Quân đội vẫn thường xuyên mạ lỵ những người không bằng lòng với chế độ. Tiêu biểu như đã thấy trên báo Quân đội Nhân dân của Bộ Quốc phòng Việt Nam. Báo này viết :
"Cứ đến dịp kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4), những kẻ "lật sử" lại tìm mọi cách để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, bôi nhọ lịch sử Việt Nam và công cuộc thống nhất đất nước của toàn dân ta.
Lợi dụng tính đại chúng của mạng xã hội, thành phần bất mãn mượn cớ khoa học hay tự xưng là "người cầm bút chân chính" đăng đàn các nội dung cho rằng, có những sự thật lịch sử, nhân vật lịch sử trong dịp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước cần phải xem xét lại (!). Một số kẻ giở trò "nước mắt cá sấu" để kêu thay, vái đỡ cho nhóm người bất mãn, "bên kia chiến tuyến" với luận điệu "thống nhất đất nước là sai lầm" (!) ; nhiều người đang tha hương, lưu lạc, vì sợ mà không dám trở về quê hương... Dù xảo quyệt đến đâu, ngôn từ có hùng hồn hay tỏ ra bi lụy thì tựu trung lại, chúng đều tỏ rõ bộ mặt thật của những kẻ có mưu đồ bất chính, hòng phủ nhận các giá trị lịch sử dân tộc, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết, thống nhất Bắc-Nam một nhà" (Quân đội nhân dân, ngày 20/04/2022).
Viết như thế chẳng khác nào "tự tay vả vào mặt mình", vì ngay ở trong nước cũng đã có nhiều trí thức muốn "viết lại lịch sử đảng cho rõ trắng đen công và tội" của những người cộng sản đối với đất nước và dân tộc, sau 92 năm ông Hồ Chí Minh thành lập đảng.
Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam cũng cần phải giải thích cho dân biết tại sao trong sách giáo khoa đã không có những trang sử viết chi tiết về cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam trong suốt 10 năm từ 1979 đến 1989 và hai cuộc chiến đấu hào hùng của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa chống Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19 tháng 01 năm 1974 và cuộc chiến của Hải quân Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với hải quân Trung Quốc ở Trường Sa ngày 14 tháng 03 năm 1988 ?
Đã có 74 chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh ở Hoàng Sa, trong khi ở Trường Sa cũng đã có 64 người lính Hải quân Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bỏ mình vì đất nước.
Lý do che đậy lịch sử và ai là người chỉ đạo làm việc xấu xa này cũng cần phải phanh phui và xử phạt nghiêm minh để tạ tội với những anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh xương máu bảo vệ quê hương.
Ngoài ra, lịch sử cũng muốn biết kẻ lãnh đạo nào trong Đảng cộng sản Việt Nam đã cấm nhân dân không được làm lễ truy điệu hàng năm để ghi ơn những quân và dân đã hy sinh trong 3 cuộc chiến lịch sử này ?
Cuối cùng, ta cũng không thể nào quên được cuộc vượt biển bi hùng và chồng chất đau thương của hàng trăm ngàn "thuyền nhân", đa số ra đi từ Việt Nam đã chết trên Biển Đông trên đường tìm tự do từ sau ngày 30/4/1975.
Theo thống kê của "Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn ước tính có từ 200.000 đến 400.000 thuyền nhân chết trên biển do mọi nguyên nhân (bệnh tật, tai nạn, bão tố, gặp hải tặc...). Những ước tính khác cho rằng có từ 10 đến 70 phần trăm thuyền nhân chết trên biển do mọi nguyên nhân" (Theo Bách khoa Toàn thư mở).
Cũng theo tài liệu của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hợp Quốc (UNHCR) thì : " Trong khoảng thời gian 20 năm từ 1975 đến 1995 có 796.310 người từ Việt Nam vượt biên bằng đường biển. Cũng theo số liệu của tổ chức này, trong khoảng thời gian 1975-1995 đã có 849.228 người từ Đông Dương vượt biên bằng đường biển hoặc đường bộ (tính cả người Campuchia). Theo số liệu của Indonesia, trong khoảng thời gian 1975-1996 đã có 250.000 người từ Việt Nam và Campuchia tới tá túc trên đảo Galang . Tuy tới từ Việt Nam, nhưng theo thống kê thì 2/3 số người vượt biên là người gốc Hoa".
Với Tất cả những chuyện đau lòng này liệu có xẩy ra nếu không có ngày 30/04/1975 ?
Phạm Trần
(kỷ niệm 30/04/2022)
*******************
Việt Nam : Ngày 30/04, sử mệnh và con người Nam-Bắc trước đây và tương lai
Nguyễn Hữu Liêm, BBC, 25/04/2022
Cách đây đúng 47 năm (2022-1975), tuần này, Quân đội Nhân dân miền Bắc mở đầu các mũi tiến công vào Sài Gòn, chấm dứt cuộc chiến Bắc - Nam đã kéo dài hơn 10 năm. Đất nước thống nhất, nhân dân hai miền thở dài mừng lo khi máu xương nay đã hết đổ.
Dinh Độc Lập trong ảnh chụp ngày 3/05/1975
Định mệnh lịch sử
Chúng ta hãy nhìn lại cuộc chiến Quốc - Cộng 10 năm đó để suy ngẫm ít nhiều về bản sắc nhân văn và con người của hai phía. Hình như ai cũng thấy rằng, miền Nam, phía Quốc gia, trước sau cũng phải thua.
Khi so sánh về bản sắc và tính chất nhân văn của hai miền Nam - Bắc, giữa Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (Việt Nam Cộng Hòa) và Quân đội Nhân Dân (QĐND), thì mặc dầu hai phía trong chiến tranh đều là quân nhân người Việt Nam, nhưng bên QĐND được trang bị nhiều ưu thế, từ tinh thần chiến đấu đến vũ khí, chiến thuật, lãnh đạo, chính trị và thời thế. Số phận Việt Nam Cộng Hòa hình như đã được an bài - không phải như là một mục tiêu chính sách - nhưng là của một định mệnh lịch sử.
Bỏ qua những yếu tố chính trị, lãnh đạo, hay quân sự thì phía miền Bắc có cả một chiều dài lịch sử sau lưng họ. Đó là ý chí độc lập, thống nhất đất nước. Miền Bắc phải hoàn tất thiết yếu tính cho một bản sắc sử mệnh mà thời đại đã giao cho họ.
Còn phía miền Nam thì bị lịch sử bỏ rơi. Nó tiếp nối một gia sản chính trị và tâm lý từ vai trò lệ thuộc ngoại bang. Họ thụ động chiến đấu - mà không hề mang một ý chí hay ý thức về sứ mệnh chiến tranh cho mình.
Người dân miền Nam, và cả quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đã giao hoán lòng yêu nước cho đối phương và vì thế đánh mất luôn linh hồn ái quốc. Chiến tranh đối với phe Quốc gia chỉ là một chuyện cực chẳng đã, một phản ứng tự vệ - họ thụ động tin vào vai trò và tính toán của người Mỹ cho chiến cuộc. Nhưng, chính vì điểm hời hợt và thụ động đó, miền Nam đã vô tình mang một bản sắc chính nghĩa vượt làn ranh Quốc - Cộng. Vì sao ?
Trái với miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vốn tập trung hoàn toàn năng lực tập thể cho mục tiêu chiến tranh, Việt Nam Cộng Hòa, trái lại, từ chính quyền cho đến quần chúng, là hiện thân của một ý chí tự do và nhân bản trên cơ sở cá nhân.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vận chuyển tiếp tế cho mặt trận gần Sài Gòn bằng xe đạp, năm 1972
Dù trong thời chiến, nhưng văn chương, âm nhạc, thi ca của miền Nam vẫn chỉ nói về tình yêu, về con người và số phận - chứ gần như không hề đề cập đến mối hiểm nguy độc tài áp bức mà họ đang phải đối đầu.
Dù bộ máy tâm lý chiến Việt Nam Cộng Hòa có cố gắng nhắc nhở về hiểm họa cộng sản, dân miền Nam vẫn không thèm nghe - vì họ coi chuyện đó là một thể loại tuyên truyền hạ đẳng. Dân miền Nam, qua tâm chất ôn hòa và thông thoáng, biểu lộ tinh thần tự do qua tâm lý chán ngấy và nghi ngờ chiến tranh.
Và đó là điểm yếu sinh tử cho họ khi phải đối đầu với một đối phương như là Đảng cộng sản Việt Nam. Trong khi dân miền Nam chỉ có mục tiêu là hòa bình, thì miền Bắc là chiến thắng.
Văn hóa Nam - Bắc : Tâm hồn Hy Lạp đối với khí chất Do Thái
Hiệp định Geneve 1954, chia cắt Việt Nam thành hai phía Nam - Bắc rõ rệt trên bình diện chính trị. Nhưng chính trị ở đây là sự thể hiện và kết thành từ một định mệnh văn hóa. Nó phát xuất từ tâm chất và bản sắc tâm lý của dân hai miền, vốn rất khác biệt nhau.
Chiến tranh Quốc Cộng đó, bỏ đi yếu tố ngoại bang, là một biểu lộ cho một mâu thuẫn văn hóa và con người Nam Bắc - mà sử mệnh Việt Nam đến lúc cần phải được tiêu hóa và hóa giải. Ba mươi tháng Tư 1975 chỉ là một hồi kịch cuối cùng vốn đã được viết sẵn từ trong bản sắc xung đột văn hóa Bắc - Nam. Như là một tuồng cải lương đầy bi tráng, nó đã đến hồi kết thúc, xả hơi, mà ngay cả phe thua trận cũng đã phải thở phào nhẹ nhõm.
Ta có thể suy rộng ra rằng, trên sân khấu chiến tranh Bắc - Nam thuở đó, phe miền Nam mang bản sắc tâm hồn văn minh Hy Lạp cổ đại, vốn thoải mái với ý chí thẩm mỹ, hài hòa, trật tự, và họ chỉ biết sống với hiện tại kéo dài gần như vô tận. Tức là, chiến tranh đối với họ không cho một mục đích nào cả. Họ chiến đấu để duy trì đời sống yên lành và yên ổn - và mong ước cao nhất vẫn chỉ là chấm dứt chiến tranh. Dân miền Nam hoàn toàn không mang ý chí lịch sử - vì sử hồn của dân tộc đã bị miền Bắc chiếm hữu. Trong khi miền Bắc mang linh hồn tập thể, thì miền Nam chỉ có tâm hồn cá nhân.
Dân Nam bộ muốn vĩnh cửu hóa hiện tại - như một bác xích lô ở Sài Gòn sau khi kiếm được cuốc xe, mua xị đế, đến gốc cây lề đường, ngủ một giấc an lành, không sợ trộm cắp, không màng chi ngày mai. Họ chỉ muốn biến cái hiện tại thuần thưởng ngoạn thành ra một vòng tròn vĩnh cửu bất tận cho đời sống tự nhiên, vô tư của mình. Có nghĩa rằng, họ không mang ý chí hay suy nghĩ về tương lai - dù họ đang mê muội bước dần đến một tương lai kinh hoàng.
Trong khi đó, miền Bắc là hiện thân của một bản sắc từ văn minh Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo khi họ đặt cứu cánh chiến tranh thành chân lý. Chiến thắng là chủ đích lịch sử. Dân Bắc bộ thì muốn xóa hiện tại bằng viễn cảnh tương lai - và chỉ mong cho thời gian phải chấm dứt bằng ý chí chinh phục thế gian.
Miền Bắc thấy ở cuối đường binh biến là một khả thể và cơ hội cứu rỗi khi đất nước thống nhất, khi tổ quốc sẽ sạch bóng quân thù xâm lược, và nhân dân sẽ sống ấm no hạnh phúc trong một trật tự thiên đường mới trên trái đất lãnh đạo bởi đấng cứu thế Hồ Chí Minh và giáo hội Đảng cộng sản Việt Nam.
Một người lính giải phóng ở Sài Gòn ngày 30/04/1975
Chuyển hóa suy thức không gian lên với thời gian
Trước chiến tranh, khi người miền Nam nhìn qua người khác nơi ngõ làng, họ chỉ thấy đó là những anh chị hàng xóm, thân cận với ta. "Bán anh em xa, mua láng giềng gần" là thế. Họ chỉ suy nghĩ trên bình diện không gian.
Người cộng sản miền Bắc thì khác. Họ muốn nâng cái nhìn không gian của dân Nam lên với phạm trù thời gian. Anh hàng xóm không còn là người bên cạnh nhà - mà nay hắn là vô sản, hay là địa chủ, hay là phản động. Tức là, người cộng sản khái niệm hóa cái nhìn mang tâm chất nông dân lên tầm mức ý niệm theo thời gian.
Vì thế, bản sắc siêu hình sâu xa của cuộc chiến vừa qua là cả một trường biện chứng đối nghịch và tiến hóa giữa hai phạm trù không gian và thời gian.
Miền Nam là không gian, miền Bắc là thời gian. Khi người cộng sản miền Bắc tiên phong đi trước nhân dân miền Nam, nắm được ý chí lịch sử với một cơ đồ khái niệm mới qua nghi lễ rửa tội bằng nước thánh ý thức hệ, họ cương quyết phá vỡ lề lối suy nghĩ thuần không gian (bờ cõi, thân xác) của nhân dân. Vì thế, làn ranh chia cắt Bắc - Nam phải được xóa bỏ. Theo đó, dự án lịch sử qua chân lý chiến thắng phải được hoàn tất nhằm thỏa mãn cơn khát khái niệm theo thời gian của những cán bộ cộng sản Việt Nam tiên phong nay đã say men ý thức hệ.
Một đức tin cứu rỗi mới
Có nghĩa rằng đối với người cộng sản Việt Nam thì chủ nghĩa Mác-Lê là một thể loại cứu rỗi luận - eschatology - vốn điều hướng tâm ý nhân gian về một biến cố lịch sử mang tính chất đồng quy của tất cả ước mong bằng một phán xét cuối cùng.
Điều nghịch ngẫu cao độ ở đây là điều rằng, khi chủ thuyết Cộng Sản phủ nhận toàn triệt gia tài và giá trị Thiên Chúa giáo - và người cộng sản hãnh diện tự coi mình đã tiêu diệt hết thần linh - thì chính họ lại hăng say hiện thực hóa bản sắc cứu rỗi luận của Thiên Chúa giáo vốn nay đã không còn hiệu năng. Vì vậy, thành công và chiến thắng của miền Bắc trong cuộc chiến đó là một chiến thắng tôn giáo tự bản chất.
Nhưng sau 1975, lịch sử hậu chiến đã theo thời gian biến hóa và hoán chuyển vai trò Bắc - Nam một cách ngoạn mục. Khi người Bắc chiến thắng vào tiếp quản miền Nam, kẻ mang niềm tin ý thức hệ và chân lý chiến tranh nay được trung hòa và khai mở bởi cái bản sắc vô chân lý, vô sử tính, không giáo điều của dân Nam.
Như một câu chuyện thời chiến kể rằng, trong trận Mậu Thân 1968, có mấy anh bộ đội xung kích mang súng AK và B40, đầu đội nón cối, đi lạc vào một con hẻm ở một thành phố miền Nam, có mấy bà Nam bộ ra chỉ đường cho họ để đến đánh căn cứ quân sự Việt Nam Cộng Hòa nơi mà chồng con, anh em của họ đang đồn trú. Cái hiện tại không cứu cánh của người miền Nam là lý do thất bại ; nhưng cũng với cái tâm ý thuần vô tư đó, nay nó đã trở thành nước thánh mới đang được rắc lên tâm hồn dân Bắc như một ý nguyện cứu rỗi lại cho những anh chị cộng sản kiên cường và khắc nghiệt vốn đã chiến thắng bằng niềm tin cứu rỗi.
Như là di sản văn minh Hy Lạp đã khai hóa văn minh Thiên Chúa giáo thời Trung cổ ở Tây Âu bằng cái đẹp, cái đúng vĩnh cửu, thì bản sắc tâm hồn an nhiên tự tại của dân Nam đã khai hóa khí chất hung hăng và hãnh tiến của người cộng sản Bắc Việt. Miền Bắc đã chiến thắng miền Nam bằng chính trị và quân sự - nhưng miền Nam lại dung hóa và khai thông miền Bắc với tâm hồn chân thật và nhân hậu. Người Bắc nhận ra được giá trị và cứu cánh cuộc đời ở nơi dân Nam.
Một ngày nào đó sẽ có một chủ nhà, ví dụ, gốc Hải Phòng, nhìn thấy một chàng ăn trộm trên mái nhà của anh đành lên tiếng nghiêm trang nhưng ôn hòa khuyên người lạ mặt kia hãy cẩn thận kẻo té bị thương và bắc thang cho người ấy leo xuống đất an toàn - sau khi đã gọi cho công an đến xử lý. Đức tính nhân từ mang tính chất Nam bộ của vị chủ nhà sẽ cứu vớt kẻ trộm, biểu dương tinh thần ôn hòa và trọng pháp, với một nhân sinh quan đức độ ngay cả đối với kẻ đối nghịch nguy hiểm. Đối với chủ nhà này, cứu rỗi nằm ngay trong hiện tại, nơi những tác hành bình thường mà khi hành động ông đã không biểu lộ lòng hung dữ, thù hận, hay mong cầu điều gì cho mình.
Về lâu về dài, mẫu người và văn hóa miền Bắc sẽ - hãy nên - là một phiên bản của tâm chất người Nam. Khi quốc gia đi về phía Nam, hướng ra Biển Đông, ra thế giới thì cần một niềm tin mới - một đức tin không tôn giáo, không ý thức hệ chính trị, một hoài vọng nhân bản về một khả năng cứu rỗi từ văn hóa cho dân tộc hai miền - khi mà tất cả những di sản đau thương của chiến tranh Bắc Nam thế kỷ trước sẽ chỉ còn là một ký ức nhẹ nhàng đi vào quên lãng.
Nguyễn Hữu Liêm
Nguồn : BBC, 25/04/2022
Tiến sĩ triết học, luật gia Nguyễn Hữu Liêm cư ngụ tại San Jose, California.
Vài cảm nghĩ nhân ngày 30 tháng Tư
Phạm Phú Khải, VOA, 25/04/2022
Bởi vì không thể chống độc tài toàn trị bằng tư duy độc tài toàn trị khác. Nó vừa phản khoa học và vừa phản tác dụng.
Dân chủ hóa cũng là con đường và tiến trình để gỡ bỏ những cái xấu, cái không hiệu quả. Hình minh họa.
Người Việt đã lưu lạc đến những phương trời xa lạ, tận Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á, và nhất là Trung Quốc lẫn Ấn Độ, từ trăm năm đến cả ngàn năm qua. Nhưng chưa bao giờ số người Việt lưu vong nhiều như bây giờ. Và ngày càng gia tăng.
Sống xa quê hương mà vẫn còn giữ được truyền thống và bản sắc dân tộc, đặc biệt là ngôn ngữ, là điều quý hiếm, nhất là đối với thế hệ thứ hai và ba trở đi.
Gần 47 năm kể từ 30 tháng Tư năm 1975, người Việt lưu vong đã rất thành công về nhiều mặt, nhất là ở khía cạnh cá nhân, nhưng bên cạnh đó cũng đối diện với nhiều thử thách lớn, nhất là ở khía cạnh tập thể. Một, nạn phân hóa trong hoạt động nhóm, cộng đồng. Hai, thế hệ kế thừa phần lớn xa lánh hay chưa đủ tích cực để nhận lãnh trách nhiệm chung. Ba, các hoạt động chính trị để thay đổi Việt Nam thiếu sự liên minh, phối hợp điều hướng và không tạo được sự ảnh hưởng đáng kể lên vấn nạn độc tài tại Việt Nam.
Đầu tiên, về nạn phân hóa, những đảng phái chính trị, tổ chức hội đoàn, và Cộng Đồng (tức Ban Điều Hành các tổ chức cộng đồng người Việt) lần lượt chia năm xẻ bảy. Gần 47 năm sau, hiếm có một tổ chức nào vẫn còn nguyên vẹn. Thực ra, bất đồng ý kiến đưa đến phân rã cũng là điều bình thường trong sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa hay xã hội dân sự đối với mọi sắc dân, không riêng gì người Việt Nam. Cái khác ở đây, mà có thể tránh hay giảm thiểu phần nào, theo tôi là ba yếu tố sau. Một, phần lớn các tổ chức đều thiếu những yếu tố cấu thành của thiết/định chế (institution). Vì thế nên khi có bất đồng mà không giải quyết một cách hợp tình hợp lý, không công bằng và minh bạch, nó có nguy cơ gây phân rã. Hai, quy trình lấy quyết định hay giải quyết công việc chung có khi quan trọng hơn chính quyết định hay kết quả đưa ra. Những tổ chức có nền tảng thiết chế sẽ cố gắng xây dựng những giá trị của mình thành văn hóa để ăn sâu vào trong cách cư xử và hành động. Các tổ chức Việt Nam nên tìm hiểu và học hỏi từ phương thức điều hành và giải quyết xung đột. Ba, cách giao tiếp (communication) giữa người Việt dễ có vấn đề với nhau. Trong khía cạnh này, nó bao gồm cả cảm xúc, từ ngữ sử dụng, khả năng tự chủ (self-control), cộng với thói quen không nói thẳng nói thật mà nói quanh co, hay nói xấu sau lưng, cũng như tung tin đồn nhảm. Những tính cách này dẫn đến tình trạng nghi kỵ lẫn, gây tổn thương cho nhau, rồi coi nhau như kẻ thù nghịch. Mặc dầu những sự bất đồng ban đầu không lớn đến độ không thể ngồi xuống lắng nghe và giải quyết với nhau.
Kế đến, về thế hệ kế thừa, nhìn một cách tổng quát thì hiện nay giới trẻ Việt Nam tham gia chính trị vào dòng chính mạch tại Mỹ, Úc, Canada, có vẻ thành công hơn là tham gia vào sinh hoạt trong cộng đồng Việt Nam. Ngoài thành công phần nào về hoạt động chính trị, càng ngày càng cho thấy, giới trẻ Việt Nam đang đi những bước vững chắc vào nhiều lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật hay từ thiện v.v… Đây là điều rất tích cực và đáng hãnh diện. Nhưng sự tham gia của họ trong cộng đồng Việt Nam rất giới hạn. Điều này làm cho chúng ta đặt câu hỏi vì sao người trẻ Việt Nam, có tài năng và nhiệt huyết, lại không mặn mà hay tránh tham gia vào các sinh hoạt của cộng đồng người Việt ? Theo kinh nghiệm lẫn quan sát của tôi, nhất là qua một thời gian dài làm việc với người trẻ, tôi cho rằng ba yếu tố về thiết chế, quy trình và giao tiếp mà đã nói ở trên đã ảnh hưởng nhiều lên việc tham gia và sự cam kết của giới trẻ trong các hoạt động cộng đồng Việt. Nhưng yếu tố quan trọng nhất là tính cách dân chủ trong sinh hoạt. Người trẻ không thấy rằng ý kiến của mình, hay cá nhân mình, được tôn trọng trong môi trường hoạt động của người Việt.
Ba, với căn cước tị nạn, điều tự nhiên là nhiều tổ chức hội nhóm và cộng đồng Việt Nam đã hoạt động chính trị mạnh mẽ kể từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 với ước mong thay đổi Việt Nam. Nỗ lực liên minh giữa các tổ chức cũng có, nhưng cho đến nay cũng chỉ giới hạn và ngắn hạn. Chiến lược đường dài, và nhân sự chuyên môn để thực hiện, khá khan hiếm. Trong công cuộc này, biết người biết ta là điều vô cùng quan trọng. Đánh giá đối thủ không chính xác hay đánh giá khả năng của chính mình một cách sai lệch, tự ti hay tự cao, đều có hệ quả của nó.
Ngay cả cho đến gần đây, một số người, kể cả vài nhà hoạt động tại Việt Nam, lạc quan cho rằng chế độ cầm quyền sớm muộn gì cũng phải sụp đổ. Một lý do phổ biến thường đưa ra là mức nợ của nhà nước Việt Nam. Có người biện luận nhà nước Việt Nam đang nợ nần chồng chất và ngày càng gia tăng, nên mức nợ cộng với nạn tham nhũng tàn phá sẽ không thể duy trì được chế độ, như bài viết củaNguyễn Vũ Bình vào tháng 11 năm 2016. Nếu vậy thì khả năng Nhà nước Nhật sụp đổ phải là cao nhất, vì tỷ lệ nợ quốc gia so với tổng sản lượng GDP của Nhật là trên 200% từ nhiều năm qua. Khả năng Nhà nước Mỹ sụp đổ cũng cao v.v…
TheoStatista thì năm 2021, tỷ lệ này của Nhật là 256,86%, và sẽ còn trên 250% đến năm 2026. Việt Nam thì nợ quốc gia là 174,46 tỷ năm 2021, và đến năm 2026 thì ước đoán lên đến 291,58 tỷ. Tỷ lệnợ quốc gia so với GDP thì năm 2021 là 47,8% và năm 2025 là 45,25%. Như thế, tỷ lệ nợ quốc gia so với GDP của Việt Namthuộc hạng rất thấp so với đa số các nước khác.
Nhưng cho dầu tỷ lệ đó cao đi nữa, nó chưa phải là lý do duy nhất hay trọng yếu làm sụp đổ một chế độ.
Hiện nay nhà nước Việt Nam đang tập trung vào phát triển kinh tế, ổn định xã hội, và có lẽ chủ trương dần dần chuyển đổi chính trị một cách tiệm tiến theo quy trình và chủ động của họ. TheoNgân hàng Thế giới thì với mức phát triển trung bình khoảng 5%, trong 25 năm tới, Việt Nam mong muốn đạt được nền kinh tế với mức thu nhập cao (dù chỉ là thấp trong vòng cao đó, lower high income economy). Về mặt chính trị và xã hội, lực lượng dân chủ và xã hội dân sự chưa đủ mạnh để có thể thách thức chế độ hiện nay, tuy vấn nạn và hệ quả từ chính sách và cung cách cầm quyền của chế độ có rất nhiều bất cập và tai hại. Trong hai năm qua, nhà cầm quyền tiếp tục chủ trương bàn tay sắc đối với tất cả những nhà hoạt động dân sự, từ những người hoạt động dân chủ đến làm báo đến môi trường. Không gian xã hội dân sự ngày càng bị xiết lại. Chỉ trongnăm 2021 , chế độ đã kết tội 32 người bất đồng chính kiến và kết án 26 người khác vì quan điểm chính trị. Hiện có hơn150 tù nhân chính trị tại Việt Nam. Nhưng chế độ sẵn sàng chấp nhận sự phê phán của những tổ chức nhân quyền và các chính quyền dân chủ, từ Mỹ Anh Úc đến Liên Hiệp Châu Âu. Họ tính toán rằng nếu nới lỏng không gian này, một lúc nào đó họ sẽ không còn khả năng kiểm soát. "Giết từ trong trứng nước" hay "giết lầm còn hơn bỏ sót" vẫn là chủ trương không thay đổi.
Hoàn toàn chưa có dấu hiệu gì cho thấy họ sẽ từ bỏ độc đảng và chuyển đổi sang dân chủ.
Một cách khách quan, dựa trên những thông tin dữ kiện đang có hiện nay, các hoạt động của người Việt trong và ngoài nước nhằm tác động lên tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam trong thời gian qua là không đáng kể.
Muốn có tác động và tạo thay đổi, trước hết là nhu cầu phải cải tổ chính mình. Bắt đầu bằng tư duy, rồi hành động. Sau đó là nhu cầu cần cải đổi quan hệ một cách sâu sắc với các tổ chức bạn và cộng đồng quốc tế.
Nói một cách ngắn gọn, trong vòng ba chữ, là "dân chủ hóa". Nó là chìa khóa cho quan hệ "ta bạn thù". Dân chủ hóa sẽ giúp cho tổ chức mình mạnh hơn, liên minh được với các tổ chức bạn. Như vậy, chúng ta mới có thế và lực để đối diện với thù. Dân chủ hóa cũng sẽ là yếu tố nền tảng để hóa giải, một phần lớn, nạn phân hóa và vấn đề thế hệ kế thừa, như có trình bày trên. Khi đã cải tổ chính tổ chức của mình (nếu không thì cũng bị đào thải như nhiều đảng chính trị đã có tại Việt Nam trước đây), và chịu ngồi lại với nhau trong thế liên minh chung, nó vừa là thử thách vừa là cơ hội để làm quen môi trường đa nguyên dân chủ, với bao tiếng nói quan điểm khác biệt. Một khi thế và lực từ liên minh các tổ chức với nhau, trong lẫn ngoài nước, được hình thành và phát triển, đây sẽ là cơ hội để thúc đẩy và áp lực chế độ cầm quyền. Lẽ ra xây dựng thế liên minh phải được thực hiện lâu rồi, nhưng thà bây giờ còn hơn là sau này. Khi đã bỏ lỡ cơ hội, vực dậy tinh thần là việc làm khó khăn. Nếu như tiếp tục trong tình thế hiện nay, mỗi tổ chức cứ hoạt động riêng lẽ, thì hiệ u quả rất giới hạn và sự mỏi mệt qua thời gian sẽ không gặt hái được như thành quả mong đợi.
Dân chủ hóa cũng là con đường và tiến trình để gỡ bỏ những cái xấu, cái không hiệu quả. Trong văn hóa dân chủ đích thực, những sai lầm hay những việc làm vô hiệu quả sẽ được chỉnh sửa. Nó là cơ hội để xác định lại nguyên tắc, giá trị, mục đích và nhiệm vụ của mình. Thay đổi tư duy và tự làm mới mình để thích hợp với bối cảnh mới là cần thiết. Hiểu rằng chế độ cầm quyền tại Việt Nam hiện nay chưa bao giờ là cộng sản, và sẽ không bao giờ là cộng sản. Vì vậy, việc chống cộng, và chống một cách mù quáng, cuồng nhiệt có khi lại đi sai mục đích, đi lầm đường. Từ trước đến nay nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn là một chế độ độc tài toàn trị, không chấp nhận hay chia sẻ quyền lực với bất cứ ai. Để chống cộng, chỉ có thế lực dân chủ và con đường dân chủ hóa mới đủ khả năng và chính nghĩa để huy động sức mạnh hầu thay đổi. Trên bình diện thế giới, Mỹ và khối tự do đã chiến thắng độc tài toàn trị Liên Xô. Trên bình diện quốc gia, các nước Đông Âu đã chiến thắng những chế độ cầm quyền độc tài toàn trị bên trong nước mình. Nhật Bản, Nam Hàn v à Đài Loan là những ví dụ thành công điển hình. Xu hướng độc tài sẽ trở lại, bằng cách này hay cách khác, để thách thức dân chủ, cho nên chỉ khi nào mầm mống dân chủ thật sự vững chắc thì mới đứng vững lâu dài.
Việt Nam cũng phải đi qua con đường này để dân chủ hóa hầu canh tân Việt Nam.
Bởi vì không thể chống độc tài toàn trị bằng tư duy độc tài toàn trị khác. Nó vừa phản khoa học và vừa phản tác dụng.
Ngô Thảo
Thời gian là cỗ máy mài vô tình và tàn nhẫn đối với ký ức cá nhân. Trong biển thông tin hỗn loạn và nhiều kênh hôm nay, ký ức lại càng gặp nhiều thách thức thường trực và dữ dội. Một cách cổ sơ và thủ công cưỡng chống lại sự bào mòn vô tình và tàn nhẫn ấy là tìm dịp nhắc lại, thường xuyên nhắc lại.
Lễ bàn giao cờ cho Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 3, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tại Biên Hòa (Đồng Nai) diễn ra trước khi tiến vào Sài Gòn đầu tháng 4/1975. Ảnh tư liệu
Trong dịp tháng 4 này, là người còn lại của đội hình đông đảo những người lính làm văn nghệ đồng hành cùng các Binh, Sư đoàn ào ạt lao về phương Nam mùa Xuân 1975, giờ nhìn lại, một số rất nhiều những con người tài hoa dạo ấy đã thành người thiên cổ.
Sau tết Ất Mão, Văn nghệ Quân đội được mật lệnh cử các nhà văn xuống các đơn vị, chuẩn bị cho tình hình mới. Từ nhiều năm, mỗi nhà văn đã có những đơn vị thân quen như gia đình, họ từng đi về trong nhiều chiến dịch lớn : Hồ Phương & Hữu Mai, Nguyên Ngọc & Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Xuân Thiều, Thu Bồn và Phạm Ngọc Cảnh, Nam Hà và Xuân Sách, Mai Ngữ, Hải Hồ, Ngô Văn Phú, Văn Thảo Nguyên, Vương Trí Nhàn, Lê Thành Nghị… Cầm trịch ở nhà chỉ còn Chủ nhiệm Vũ Cao và Phó là nhà văn Từ Bích Hoàng. Nhà thơ Thanh Tịnh những ngày này trầm lặng trong tâm trạng khá nặng nề.
Cuộc hội ngộ lịch sử đầu tiên là cuối tháng 3, khi Thành phố Huế vừa được giải phóng. Theo trực thăng bay dọc Quốc lộ 1, chúng tôi chứng kiến quang cảnh hào hùng của những đoàn quân đi trên nhiều phương tiện khác nhau như dòng nước chảy một chiều về hướng Nam. Cùng chuyến bay là Hồ Phương, Phạm Ngọc Cảnh, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Hồng Duệ. Những người theo các đơn vị có mặt sớm hơn là Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải… Cả đội hình theo các đơn vị vượt đèo Hải Vân còn đầy dấu tích các trận chiến đấu, và quân tư trang vất ngổn ngang, để vào Đà Nẳng vừa được giải phóng. Nguyên Ngọc là người được gặp lại bà mẹ và gia đình sớm nhất. .Bửa tiệc đúng nghĩa đầu tiên là được tổ chức ở nhà mẹ Nhà văn, cũng là lần đầu tiên, các nhà văn miền Bắc biết mùi vị đặc biệt, tuyệt vời của món Mì Quảng. Cũng ở đây, có cuộc hội ngộ của Văn nghệ Quân đội với các bạn văn của Quân khu V do Nguyễn Chí Trung làm thủ lĩnh (nhà văn Nguyên Ngọc đã được điều ra Bắc từ cuối 1974 , Thu Bồn đưa vợ con ra từ 1969) : Bùi Minh Quốc, Nguyễn Bảo, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Khắc Phục, Thái Bá Lợi, Trần Vũ Mai, Cao Duy Thảo, Ngô Thế Oanh, Ngân Vịnh, Từ Quốc Hoài, Thanh Quế,Vũ Thị Hồng… Những năm trước, Khu V đã có mấy văn nghệ sĩ hy sinh : Dương Thị Xuân Quý (8/3/1969 – vợ Bùi Minh Quốc), Chu Cẩm Phong – Trần Tiến 1/5/1071), Phương Thảo. Nguyễn Mỹ, Nguyễn Hồng, Hà Xuân Phong…. Trung Trung Đỉnh bấy giờ đang ở với đơn vị bộ đội địa phương trong rừng Tây Nguyên, phải sau giải phóng cả tháng mới biết tin để tìm về.
Đạo quân văn nghệ đông đảo bám xe các cánh quân hầu hết đã có mặt ở thành phố Sài Gòn trong ngày 30-4. Hợp lưu ở đây còn có cánh Văn nghệ Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam, gồm những Nguyễn Trọng Oánh, Thanh Giang, Võ Trần Nhã, Triệu Bôn, Văn Lê, Trần Mạnh Hảo, Trần Ninh Hồ, Nguyễn Ngọc Mộc, Phạm Đình Trọng…Ngoài ra còn một lực lượng đông dảo các văn nghệ sĩ dân sự và thuộc các quân binh chủng như Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo... các đơn vị ở Trung ương Cục Miền Nam.
Trong ngày vui lớn của dân tộc, các nhà văn quê miền Nam gặp lại gia đình, người thân, vẫn không quên những đồng đội không trở về. Nhà văn Nguyên Ngọc giữ lời hứa với người bạn cùng trở lại chiến trường hơn 12 năm trước, đi tìm cháu Nguyễn Trang Thu, người con gái của nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn- Nguyễn Thi với chị Bình Trang, sinh 1954, ngày nhà văn lên tàu tập kết, bấy giờ đang ở với bà ngoại... Rồi Trang Thu đã gặp lại người mẹ từ miền Bắc trở về. Nhưng cuộc đoàn tụ hình như không êm đềm như ao ước. Nhiều chuyện buồn liên tục xảy ra trong gia đình nhà văn Liệt sĩ - Anh hùng. Có một lần, nhà văn Thanh Giang đã mời bà Thành Thị Du, mẹ nhà văn từ Nam Định vào Sài Gòn. Nhưng chuyến xích lô đưa người mẹ ôm bó hoa đi theo những con phố mà bà nghĩ là in dấu chân cuối cùng của con trai, nhưng hoa héo mà không biết đặt ở đâu. Cho đến nay, nơi hy sinh của nhà văn vẫn không xác định được. Nấm mộ trong nghĩa trang Liệt sĩ là mộ gió, ghi ngày hy sinh 24/5/1968, cùng ngày với Lê Anh Xuân- Ca Lê Hiến ! Gia đình nhỏ của Nguyễn Thi -bút danh lấy tên người con trai này- nhiều năm vẫn tồn tại trong khó khăn, và không bao giờ đoàn tụ được với những người thân.
Trở lại những cuộc hội ngộ nhờ ngày 30/4 năm ấy. Sau những phút giây bàng hoàng, ngây ngất như trong mơ, một giấc mơ dài của hàng mấy chục năm xa cách, là một hiện thực trần thế, với biết bao hệ lụy phải đối diện, và cần ngay cách cách xử lý. Thời gian xa cách quá lâu, hoàn cảnh sống quá khác. Những người mẹ, người con, người vợ bao năm vì người ra đi mà bị truy bức, o ép, thậm chí tù đày, tra tấn, không phải ai cũng giử được kiên trung. Giờ người đó trong phe chiến thắng trở về, với hai bàn tay trắng, vài bộ áo quần cũ trong ba lô. Nếu chẳng may có vài bà con từng làm việc cho phía bên kia, cũng không thể có cách gì cứu đỡ. Nhìn nhau, gặp lại, cay đắng trong bất lực. Rõ ràng, chỉ riêng tình cảm là không thể níu giữ, khi trong xa cách đã hy vọng và tin tưởng, mọi khó khăn vật chất trong cuộc sống sẽ được giải quyết ngay khi người chiến thắng trở về. Sau niềm vui ngày tái ngộ, cả hai phía, bỗng bàng hoàng nhận ra, một điều gì đó thật thiêng liêng, đã giúp họ vượt lên mọi nghịch cảnh chiến tranh vừa cất cánh bay biến khỏi cuộc sống hiện thực. Cũng trong tâm thế đó mà có hàng vạn đôi lứa chứng kiến những cái chết khác nhau của những tình yêu ngỡ rất lý tưởng, mà lỗi không phải tại một bên.
Thanh Tịnh là nhà thơ tiền chiến duy nhất suốt phần đời còn lại chung thủy với màu áo lính, 30 năm "ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân", năm 1946, từ Huế về họp Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, do Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập, rồi ở lại, lên Việt Bắc tham gia kháng chiến, về hưu với quân hàm Đại tá. Ngày ấy ra đi để lại người vợ trẻ và hai người con, có đủ trai gái. Nhưng từ mấy năm trước, đã biết, để bảo vệ con, bà đã tái giá với một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Phảng phất dư âm, bài thơ Mòn mỏi từng được in trong Thi nhân Việt Nam : Ngựa hồng đã đến bên hiên/ Chị ơi, trên ngựa chiếc yên vắng người. Hai người con phải mấy năm sau mới gặp lại. Nhà thơ lại trở về Hà Nội sống cho đến cuối đời.
Nhà văn Nguyễn Khải đã tìm gặp được người cha với gia đình bà vợ cả đã di cư từ 1954. Bóng dáng cuộc gặp, theo lối viết bám rất sát chuyện thực, được thể hiện trong vở kịch Cách mạng được đoàn kịch Điện ảnh và Kịch nói Quân đội dàn dựng. Nhưng thay vì được hàn gắn, nhiều nhân vật thấy bóng dáng mình trong kịch lại thấy mặc cảm nặng nề hơn. Khoảng cách trong gia đình không dễ khỏa lấp. Nguyên Ngọc, Thu Bồn có mẹ già, nhưng là những người lính tại ngũ, với nhiều nhiệm vụ tiểu phỉ Phun Rô, tham gia sản xuất ở Tây nguyên, Quảng Nam, chiến đấu ở hai đầu biên giới, nên cũng không có điều kiện gần gũi, săn sóc những bậc sinh thành, đã một đời chờ đợi. Mối tình đẹp được gìn giữ và nhiêu người bồi đắp trong chiến tranh giữa Thu Bồn và nữ bác sĩ Đỗ Thị Thanh Thu, với kết quả là hai người con trai có vóc dáng thật đẹp đã dần nguội lạnh, hai con trai nhiễm chất độc da cam, Hà Thảo Nguyên phải bẻ gập chân tay bó bột để khỏi dị tật ngay khi sinh trong rừng, cũng chính Bác sĩ ấy đã chăm sóc cho cháu những phút cuối 16 năm sau ở Bệnh viện Trung ương Quân đội. Hà Thảo Nguyên sinh ở Làng Ho – Quảng Bình 1969, cũng bị tâm thần phân liệt, không có khả năng lao động. Nhà thơ có thêm hai lần chung sống dài ngày với hai người nữa, nhưng không dám (hay không thể) có con.
Trong tập Dĩ vãng phía trước (2012), tôi có ghi lại lời kể của nhà văn Nguyên Ngọc, nhân chứng hiếm hoi còn lại của thế hệ chống Pháp, năm nay vào tuổi 90, chuyện của một nhà điêu khắc, bạn ông, nhưng mang tâm trạng của không chỉ một người : Cậu ấy là nghệ sĩ thôi, chẳng chính trị gì đâu, nhưng nói nghe thật đau : Mấy mười năm xa cách mẹ và em gái, mình đã luôn nhớ và nghĩ về họ với biết bao yêu thương đằm thắm. Tưởng gặp lại nhau, sẽ là những ngày đoàn tụ ấm áp, đầy tình yêu thương. Anh đã về, mọi việc diễn ra đúng như ao ước. Mấy mẹ con ôm nhau mà khóc. Nhưng ở với mẹ chỉ đầm ấm trọn ngày thứ nhất. Sang ngày thứ hai đã thấy khó chịu. Có những điều trái ý nhau. Chẳng hạn, bà cụ không thể chịu được, khi con trai đã có tuổi mà ra đường mặc bộ áo quần cháo lòng, không được là kỹ. Và quan trọng hơn, bà không thể hình dung được đứa con được học hành tử tế, mấy chục năm đi làm cách mạng, giờ về chỉ là anh cán bộ không chức, không quyền, không quân lính. Mà bà cụ là cơ sở của ta đấy. Cô em gái cũng thất vọng về ông anh. Họ quen đánh giá con người bằng chức vụ, của cải. Cả hai, người nghệ sĩ là anh đều không có. Có một sự vỡ mộng thật sự về nhau. Mà đau đớn là mẹ và em, cũng như hàng triệu người thân ở lại miền Nam, chịu đựng tù tội, truy bức, chờ đợi và hy vọng như thế là phải, là quá bình thường. Sự đoàn tụ thực tế là như thế đó. Ngày chiến thắng, niềm vui chung là lớn lao, nhưng ngay những người còn được trở về cũng có niềm đau, không nói nên lời. Đã có lúc, anh nghĩ, giá như trong mấy mươi năm chia cách, Mẹ và Em có mệnh hệ nào, ngày về, không được gặp, hẳn mình sẽ đau đớn vô cùng. Nhưng đó là nỗi đau có thể gào khóc thật to mà không xấu hổ ; không nói chính trị đâu, niềm đau ấy có thể chen cảm giác tự hào, vì họ đã hy sinh cho ngày thống nhất. Nhưng đằng này, người thân thì gặp, nhưng đã trở nên xa lạ. Mẹ mình như đã được thay bằng một người khác. Nhiều lần tôi tự hỏi : Có phải đây là người mẹ xưa của mình không ? Và em gái nữa ? Có lẽ không phải. Nhưng dứt khoát được như thế đã là may. Không, mà vẫn phải. Một gia đình, còn thế, nói gì cả quốc gia.
Có một sự vỡ mộng thật sự về nhau. Mà đau đớn là mẹ và em, cũng như hàng triệu người thân ở lại miền Nam, chịu đựng tù tội, truy bức, chờ đợi và hy vọng như thế là phải, là quá bình thường.
Trong hồi ký Đường Trần của nhà báo Trần Tố Nga, người nổi tiếng vì là nạn nhân chất độc da cam nhờ mấy mươi năm nay là công dân nước Pháp, nên khi hàng triệu nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam đã chịu thua trong mấy lần khởi kiện các công ty hóa chất Mỹ, thì riêng chị, với sự trợ giúp pháp lý của nước Pháp, và mấy luật sư tự nguyện, đã mấy lần buộc một số công ty hóa chất Mỹ phải cử luật sư tham gia đối chất. Cuốn Đường Trần cũng như cuốn sách viết bằng tiếng Pháp trước đó được xuất bản với mục đích có tiền theo đuổi vụ kiện. Qua hồi ký, người đọc được biết cuộc đời một học sinh miền Nam được tập kết ra Bắc, học xong Đại học, tự nguyện trở về Miền Nam tham gia chiến đấu. Do nhiệm vụ yêu cầu, dầu học khoa Hóa, Đại học Tổng hợp Hà Nội, chị trở thành nhà báo chiến trường. Lấy chồng, sinh con, cũng như một số đồng đội, có gia đình trong vùng Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát, gửi con về cho bà ngoại nuôi. Mà không phải chỉ nuôi con cho một cháu. Chị bị bắt, sinh con trong tù, Bà ngoại cũng vào thăm nuôi. Bởi gia đình bà có nhiều con cháu tham gia phía kháng chiến. Con gái bà - tức mẹ của Trần Tố Nga là Chủ tịch Hội Phụ nữ Giải phóng, mất tích trong một trận càn lớn. Cha chị đã mất trong kháng chiến chống Pháp. Vậy mà ngày Giải phóng trở về, các cơ sở làm ăn chỉ để thăm nuôi con cháu tù tội đều bị tịch thu, cải tạo. Cả một đàn con cháu trở về, để giữ vững lập trường, đã không ai đứng ra bảo vệ được. Cay đắng hơn, sau mấy mươi năm chịu đựng nghi ngờ, mẹ và cha Trần Tố Nga mới được xác minh là hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Không tìm thấy sự bình yên sau nhiều năm tận tụy và luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao - có thời là Hiệu trưởng trường Marie Curie – Trần Tố Nga đã định cư và lập lại gia đình mới ở Pháp. Việt Nam, vẫn là chốn đi về, và làm nhiều việc thiện cho những người Việt còn nghèo khổ. Đâu phải chỉ người phía bên kia mới phải tìm nơi định cư ở nước ngoài.
Vấn đề thống nhất sẽ còn nhiều khó khăn là vì thế. Một cái gì thật là của Việt Nam, thật là của văn học, mà sao những người viết cứ né tránh mãi !
Ngô Thảo
Nguồn : Viet-studies, 21/04/2022