Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nhật Bản, Philippines và Mỹ tăng cường hợp tác để "bảo vệ Biển Đông"

Trọng Thành, RFI, 05/11/2023

Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, hôm qua 04/11/2023, trong bài phát biểu trước Quốc hội Philippines tại Manila, khẳng định ba nước Nhật, Mỹ, Philippies "đang tăng cường hợp tác" để bảo vệ "quyền tự do" ở Biển Đông.

biendong1

Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida phát biểu trước Quốc hội Philippines, ngày 04/11/2023. AP - Aaron Favila

Thủ tướng Kishida là lãnh đạo chính phủ Nhật đầu tiên phát biểu trước Quốc hội Philippines. Thủ tướng Nhật nhấn mạnh Tokyo "sẽ tiếp tục đóng góp vào việc nâng cao năng lực an ninh của Philippines, từ đó góp phần vào hòa bình và ổn định trong khu vực". Theo lãnh đạo chính phủ Nhật, "tự do hàng hải, được điều chỉnh bởi luật pháp quốc tế" sẽ được bảo vệ nhờ các nỗ lực này.

Phát biểu của thủ tướng Nhật được đưa ra một ngày sau khi Hoa Kỳ và Trung Quốc có cuộc đối thoại đầu tiên liên quan đến các bất đồng trên biển, trong đó Biển Đông là một trọng tâm. Trong cuộc họp tại Bắc Kinh, phía Mỹ đã lên án các hành động "nguy hiểm và phi pháp" của Trung Quốc tại vùng biển này. Cũng trong ngày 03/11, ngày đầu tiên của chuyến công du của thủ tướng Nhật, Tokyo và Manila đã thông báo chính thức khởi sự đàm phán về một hiệp ước an ninh Nhật – Philippines, tương tự như giữa Philippines với Hoa Kỳ.

Tokyo hoàn toàn không có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, nhưng các hành động lấn lướt của Trung Quốc tại khu vực gây lo ngại. Nhật Bản đã tham dự các cuộc tập trận Mỹ-Philippines hồi tháng 3 với tư cách quan sát viên. Đến tháng 06/2023, lực lượng tuần duyên Philippines và Nhật Bản đã lần đầu tiên diễn tập chung. Thủ tướng Kishida hồi tháng 12/2022 công bố kế hoạch xây dựng quân đội Nhật Bản lớn mạnh hơn nhằm đối phó với sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc.

Trọng Thành

**************************

Ottawa tố cáo chiến đấu cơ Trung Quốc liên tục gây nguy hiểm cho trực thăng Canada trên Biển Đông

Trọng Nghĩa, RFI, 05/11/2023

Nhiều sự cố đã liên tiếp xảy ra giữa phi cơ Trung Quốc và Canada trên Biển Đông. Vào hôm qua, 04/11/2023, Bắc Kinh đã lên tiếng cáo buộc Quân Đội Canada về việc tiến hành các phi vụ trực thăng "nguy hại và khiêu khích" ở Biển Đông. Trước đó, chính quyền Ottawa đã tố cáo chiến đấu cơ Trung Quốc về những vụ liên tiếp ngăn chặn trực thăng Canada một cách nguy hiểm trên vùng biển quốc tế ở Biển Đông.

biendong2

Một chiếc trực thăng Cyclone của Không quân Hoàng gia Canada, năm 2017. © Wikimedia Commons CC BY SA 2.0 Dennis Jarvis

Vụ gần đây nhất xẩy ra ngày 29/10/2023 khi chiến đấu cơ J-11 của Trung Quốc đã ba lần áp sát máy bay trực thăng quân sự của Canada trên hải phận quốc tế tại Biển Đông. Trước đó, chiến đấu cơ Trung Quốc cũng áp sát để uy hiếp một trực thăng khác của Hải Quân Canada đang bay cách Quần Đảo Hoàng Sa 23 dặm về phía Bắc.

Thông tín viên RFI Pascale Guéricolas tại Canada giải thích them :

"Đây là lần thứ hai trong vòng chưa đầy ba tuần mà chiến đấu cơ Trung Quốc đã áp sát các trực thăng Canada đang hoạt động trên Biển Đông. Hôm 29/10 vừa qua, một chiếc máy bay Trung Quốc đã bay sát trên đầu một trực thăng Canada, tạo ra tình trạng nhiễu động không khí nguy hiểm. Cùng ngày hôm đó, một chiến đấu cơ Trung Quốc khác đã bắn pháo sáng ngay phía trước một trực thăng Canada, bất chấp nguy cơ pháo sáng lọt vào cửa hút gió của máy bay Canada.

Bộ trưởng quốc phòng Canada đã tố cáo những thao tác bị đánh giá là rất nguy hiểm cho các phi cơ đang thực hiện các cuộc tập huấn bình thường.

Các sự cố kể trên là dấu hiệu cho thấy căng thẳng đang gia tăng giữa Bắc Kinh và Ottawa, đặc biệt kể từ khi Canada bắt giữ bà Mạnh Vãn Châu, nhân vật số 2 của tập đoàn Trung Quốc Hoa Vi cách nay 5 năm. Gần đây hơn, Ottawa đã lên án sự can thiệp của Bắc Kinh vào các cuộc bầu cử ở Canada cũng như chiến dịch tố cáo một số quan chức dân cử Canada trên các tài khoản mạng xã hội của họ.

Về phía Trung Quốc, Bắc Kinh chỉ trích Canada về việc điều chỉnh chính sách Trung Quốc theo hướng đi theo Hoa Kỳ".

Trọng Nghĩa

**************************

Đối thoại an ninh : Mỹ lên án hành động "phi pháp" của Trung Quốc ở Biển Đông

Trọng Thành, RFI, 04/11/2023

Hoa Kỳ và Trung Quốc có cuộc đối thoại đầu tiên liên quan đến các bất đồng trên biển, trong đó Biển Đông là một trọng tâm. Trong cuộc họp tại Bắc Kinh hôm qua, 03/11/2023, phía Mỹ đã lên án các hành động "phi pháp" của Trung Quốc tại Biển Đông.

biendong3

Tàu hải cảnh Trung Quốc tiến gần đến các tàu đánh cá Philippines ở ngoài khơi Bãi cạn Scarborough ở Biển Đông ngày 23/09/2015. AP - Renato Etac

Tham gia cuộc đối thoại có ông Mark B. Lambert, người phụ trách chính sách Trung Quốc của bộ ngoại giao Mỹ, và vụ trưởng vụ Biên giới và Hải dương, bộ ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lượng (Hong Liang). Sau cuộc họp, bộ ngoại giao Mỹ ra một thông báo nhấn mạnh đến "các quan ngại" của Hoa Kỳ về "các hành động nguy hiểm và phi pháp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ở Biển Đông, bao gồm việc tàu Trung Quốc ngăn chặn Philippines tiếp tế cho lực lượng đồn trú tại Bãi Cỏ Mây (Seconde Thomas Shoal) hôm 22/10, và việc máy bay Trung Quốc tiếp cận ở khoảng cách không an toàn với phi cơ Mỹ hôm 24/10".

Thông báo của bộ ngoại giao Mỹ cho biết : "Những cuộc tham vấn này là một phần trong nỗ lực không ngừng nhằm duy trì các kênh liên lạc cởi mở và quản lý một cách có trách nhiệm quan hệ Mỹ-Trung", "Hoa Kỳ nhắc lại việc cần thiết nối lại các kênh liên lạc về quân sự, bao gồm cả giữa các cấp điều hành, để tránh thông tin bị sai lệch và tính toán sai lầm". Việc chiến đấu cơ J-11 của Trung Quốc áp sát oanh tạc cơ B-52 của Không Quân Mỹ ở cự ly chỉ vài mét hôm 24/10 tại Biển Đông cho thấy nguy cơ căng thẳng Mỹ - Trung vượt tầm kiểm soát, bùng nổ thành xung đột, là nhãn tiền, theo ghi nhận của cựu trợ lý ngoại trưởng Mỹ, phụ trách Trung Quốc và Đài Loan, Rick Waters, giám đốc điều hành của Eurasia Group (trả lời South China Morning Post - SCMP hôm 02/11).

Theo SCMP, bộ ngoại giao Trung Quốc hôm nay, 04/11, cũng ra một thông báo về cuộc tham vấn song phương đầu tiên về các vấn đề hàng hải, bày tỏ "mối quan ngại nghiêm trọng" về việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực và thường xuyên tiến hành các hoạt động trinh sát nhắm vào Trung Quốc, đồng thời kêu gọi Washington ngừng xúi giục "các nước liên quan" tại Biển Đông "có các động thái gây hấn".

Hai phía Mỹ, Trung đều nhận định cuộc trao đổi hôm qua diễn ra "thẳng thắn" và "mang tính xây dựng". Theo SCMP, đây là một diễn đạt ngoại giao ngụ ý "các đàm phán đạt được ít tiến bộ". Tuy nhiên, "nhiều nhà quan sát ghi nhận chỉ riêng việc Mỹ - Trung nối lại đàm phán cũng là điều quan trọng, trong bối cảnh quan hệ thế đối đầu song phương gia tăng từ nhiều năm nay".

Cuộc họp nói trên của giới chức ngoại giao hai nước diễn ra tiếp theo một số cuộc hội kiến cấp cao, trong đó có cuộc gặp giữa ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và cố vấn an ninh quốc gia Jake Sullivan với ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi) tại Washington hồi tháng trước.

Trọng Thành

****************************

Nhật Bản và Philippines đàm phán về một hiệp ước an ninh song phương

Trọng Thành, RFI, 03/11/2023

Hôm qua, 03/11/2023, ngày đầu tiên trong chuyến công du của thủ tướng Nhật Fumio Kishida tại Manila, lãnh đạo hai nước đã thông báo chính thức khởi sự đàm phán về một hiệp ước an ninh song phương. Hiệp ước an ninh, tương tự như giữa Philippines và Hoa Kỳ, cho phép quân đội nước này triển khai lực lượng trên lãnh thổ nước kia.

biendong4

Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. (P) và thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida (T), tại dinh tổng thống ở Manila, Philippines, ngày 03/11/2023. AP - Aaron Favila

Mối đe dọa từ Trung Quốc là lý do chủ yếu thúc đẩy Tokyo và Manila nâng cấp quan hệ hợp tác. Thông tín viên RFI Frédéric Charles từ Tokyo cho biết thêm :

"Hồi tháng Hai vừa qua tại Tokyo, tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. đã đưa ra sáng kiến về một thỏa ước an ninh ba bên, Philippines, Nhật Bản và Hoa Kỳ, tương tự với thỏa ước đã có giữa ba nước Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ.

Đối mặt với áp lực của Trung Quốc tại khu vực, Manila đã cho phép các lực lượng Mỹ sử dụng thêm bốn căn cứ tại Philippines, bên cạnh năm căn cứ đã có. Giờ đây Philippines muốn thương lượng một hiệp ước về an ninh với Nhật Bản. Tokyo đã quyết định cung cấp cho Manila một hệ thống radar giám sát bờ biển, nhiều tàu tuần tiễu để tăng cường hoạt động bảo vệ luật biển.

Do vị trí địa lý, Nhật Bản và Philippines sẽ trực tiếp bị ảnh hưởng nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan. Tại Châu Á, chiến lược của Mỹ được thực thi với việc triển khai các lực lượng trên các quần đảo đối diện với Trung Quốc, trải dài từ Nhật Bản, Đài Loan đến Philippines". 

Trọng Thành

Published in Châu Á

Thời gian vừa qua, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Trung Quốc và Philippines trở lên căng thẳng, tiềm ẩn nguy cơ đụng độ trực tiếp dẫn đến đối đầu quân sự. Mới đây nhất, ngày 4/10, Trung Quốc đã triển khai tàu Hải cảnh ngăn chặn quân đội Philippines tiếp tế cho binh lính đồn trú trên Bãi Cỏ Mây bằng cách di chuyển cắt mũi tàu tuần tra BRP Sindangan của Philippines ở khoảng cách 4 mét, khiến tàu này buộc phải đảo chiều động cơ để tránh đâm vào tàu Trung Quốc. Trước đó vào ngày 5/8, tàu Hải cảnh Trung Quốc đã tiến hành xịt vòi rồng vào tàu của Philippines để ngăn chặn hoạt động tiếp tế tại đây.

tqbd0

Quốc tế lo ngại vì tình hình Biển Đông và Hoa Đông ngày càng căng thẳng. Ảnh minh họa

Tại địa điểm khác trên Biển Đông là Bãi cạn Scarborough, hai bên đã có những cuộc đối đầu gay gắt. Đáng chú ý, ngày 20/9 Trung Quốc thả dây phao tại bãi cạn Scarborough để ngăn ngư dân Philippines tiến vào khu vực tranh chấp. Năm ngày sau, Philippines đã đáp trả bằng một chiến dịch táo bạo khi một đội thợ lặn của Cảnh sát Biển Philippines đóng giả làm ngư dân, dùng thuyền gỗ nhỏ bí mật vượt qua được sự giám sát của tàu Hải cảnh Trung Quốc để lặn xuống và dùng dao cắt đứt dây phao.

Có nhiều lý giải cho việc Trung Quốc chủ động đẩy cao căng thẳng với Philippines trên Biển Đông. Một phần do chính sách cứng rắn với Trung Quốc của tân Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr, đồng thời xích lại gần hơn với Mỹ thông qua việc công bố thêm 4 địa điểm mới mà quân đội Mỹ được tiếp cận trong khuôn khổ Thỏa thuận Hợp tác quốc phòng nâng cao giữa hai nước. Tuy nhiên, những căng thẳng này cũng có thể được lý giải bởi "truyền thống" của Trung Quốc là khi tình hình chính trị nội bộ bất ổn, giới lãnh đạo Trung Quốc có khuynh hướng đẩy căng thẳng với bên ngoài để xoa dịu các bất ổn bên trong.

Trở lại thời điểm đầu năm 2012, khi đó Trung Quốc chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng lần thứ 18 và chuyển giao quyền lực từ Hồ Cẩm Đào sang Tập Cận Bình, đây là quãng thời gian đặc biệt nhạy cảm khi Trung Quốc muốn duy trì ổn định nội bộ để quá trình chuyển tiếp quyền lực được êm đẹp. Tuy nhiên, vào thời gian này Trung Quốc đã xảy ra vụ bê bối chính trị tồi tệ nhất kể từ sự kiện Thiên An Môn. Tháng 2/2012, Giám đốc công an tỉnh Trùng Khánh là Vương Lập Quân chạy trốn đến Lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô xin tị nạn và tiết lộ việc bà Cốc Khai Lai, vợ ông Bạc Hy Lai – bí thư Tỉnh ủy Trùng Khánh – là hung thủ sát hại doanh nhân người Anh là ông Neil Heywood. Tiến trình điều tra sau đó đã dẫn đến việc cách chức và bỏ tù Bạc Hy Lai. Cũng trong thời gian này Bắc Kinh đã chủ động gây hấn với Philippines tại Bãi cạn Scarborough, cuộc đối đầu căng thẳng trên thực địa kéo dài 10 tuần, kết hợp đối đầu về ngoại giao, kinh tế đã khiến Philippines bỏ cuộc, rút hết các tàu quân sự và mất quyền kiểm soát Bãi cạn Scarborough đến tận ngày nay.

Bối cảnh hiện nay cũng tương tự năm 2012 khi Trung Quốc đang gặp những khó khăn đáng kể về chính trị nội bộ. Vấn đề nhân sự cao cấp của Trung Quốc đã có sự xáo trộn nghiêm trọng trong khi nhiệm kỳ Đại hội Đảng 20 mới diễn ra được một năm. Điển hình là việc Trung Quốc cách chức ngoại trưởng Tần Cương, khiến ông Vương Nghị phải quay trở lại Bộ Ngoại Giao chỉ đúng 7 tháng sau khi chính Vương Nghị bàn giao lại chức vụ này cho Tần Cương, cho thấy sự bế tắc nhân sự trong ngành ngoại giao Trung Quốc.

Trên lĩnh vực quốc phòng, cuộc khủng hoảng nhân sự còn nghiêm trọng và rộng lớn hơn với việc Bộ trưởng Quốc phòng Lý Thượng Phúc đã hoàn toàn "biến mất" trên chính trường Trung Quốc. Nguyên nhân theo nguồn tin của Reuters cho biết ông Lý Thượng Phúc cùng 8 quan chức cao cấp trong Cục Hậu cần của quân đội Trung Quốc đang bị điều tra tội tham nhũng. Ở cấp độ thấp hơn, lãnh đạo lực lượng tên lửa chiến lược là Tư lệnh Lý Ngọc Siêu và Chính ủy Từ Trung Ba đã đồng loạt bị thay thế. Đáng chú ý, hai nhân vật thay thế hoàn toàn không xuất thân từ lĩnh vực tên lửa, cụ thể tân tư lệnh Vương Hậu từng là Phó Tư lệnh Hải quân, còn tân chính ủy Từ Tây Thịnh là chính ủy chiến khu miền Nam. Sự "thay tướng" triệt để này cho thấy sự thiếu tin tưởng của Đảng đối với nội bộ binh chủng tên lửa, một binh chủng chiến lược có nhiệm vụ phụ trách kho tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân.

Ngoài những biến động nhân sự cấp cao nhất trong ngành ngoại giao và quốc phòng, chính phủ Trung Quốc được cho là phải đối mặt với sức ép từ các lãnh đạo cao cấp về hưu. Trong một nền chính trị coi trọng tuổi tác và thứ bậc như Trung Quốc thì ý kiến của các bậc lão thành có thể gây ra một sức ép đáng kể đến quyết sách của các nhà lãnh đạo đương nhiệm.

Theo các nguồn thạo tin tiết lộ với tờ Nikkei Asia cho biết tại cuộc họp bí mật Bắc Đới Hà vừa qua, ông Tập Cận Bình đã bị các lãnh đạo lão thành chỉ trích vì tình hình hiện tại khó khăn của đất nước. Trước hội nghị Bắc Đới Hà, các đảng viên lão thành đã triệu tập một cuộc họp riêng ở ngoại ô Bắc Kinh để thống nhất ý kiến, sau đó cử 3 đại diện lão thành là Tăng Khánh Hồng, Trì Hạo Điền và Trương Đức Giang đến hội nghị Bắc Đới Hà để trình bày ý kiến với ông Tập Cận Bình. Các nhà cựu lãnh đạo cho rằng Trung Quốc đang ở trong tình trạng hỗn loạn chính trị, kinh tế và xã hội ; nếu tình hình không được cải thiện thì Đảng có thể mất đi sự ủng hộ của công chúng, gây ra mối đe dọa cho sự lãnh đạo của Đảng. Sau khi hội nghị Bắc Đới Hà kết thúc, Trung Quốc thông báo việc lần đầu tiên ông Tập Cận Bình không dự Hội nghị thượng đỉnh G20 tổ chức tại Ấn Độ, phản ánh những khó khăn trong nước đang cần chờ ông Tập giải quyết.

Dự báo tình hình và kiến nghị giải pháp với Việt Nam

Có thể thấy Trung Quốc hiện nay phải đối phó với nhiều bất ổn trong nội bộ cũng như tình hình khó khăn trong nước, vì vậy nước này sẵn sàng có những hành xử cứng rắn với các nước láng giềng trong xử lý tranh chấp nhằm tạo lý do củng cố nội bộ và đánh lạc hướng sự chú ý của người dân, điều này tiềm ẩn các nguy cơ gia tăng xung đột trong thời gian tới, nhất là tại trên Biển Đông.

Cụ thể hơn, Trung Quốc có thể triển khai số lượng lớn quân số trên thực địa tại Bãi Cỏ Mây và Bãi cạn Scarborough, đồng thời tiếp tục thực hiện các biện pháp cứng rắn như phun vòi rồng, đâm va trực tiếp, thả phao phong tỏa… nhằm ngăn chặn Philippines trở lại khu vực này. Theo một kịch bản xấu, Trung Quốc có thể tiến hành bồi đắp Bãi cạn Scarborough thành tiền đồn quân sự nhằm trả đũa việc Philippines cho Mỹ dùng thêm 4 căn cứ quân sự. Nếu kịch bản này xảy ra Trung Quốc sẽ có thêm một tiền đồn quân sự quy mô lớn chỉ cách bờ biển Philippines 230km. Điều này sẽ khiến Mỹ tăng cường hiện diện quân sự để đáp trả và dẫn đến sự đối đầu Mỹ – Trung trực tiếp tại Biển Đông.

Tình hình đối đầu hiện nay giữa Trung Quốc và Philippines đặt ra những thách thức cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông, đồng thời duy trì môi trường hòa bình giữa các nước trong khu vực. Trong bối cảnh hiện nay Việt Nam cần :

Thứ nhất, tiếp tục duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc thông qua tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhất là trong chuyến thăm Việt Nam sắp tới của Chủ tịch Tập Cận Bình (theo Reuters sẽ diễn ra vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11 sắp tới). Trong các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo Trung Quốc cần chú ý chia sẻ về những khó khăn nội bộ của Trung Quốc và bày tỏ tin tưởng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Tập Cận Bình sẽ sớm vượt qua những khó khăn trước mắt để tiếp tục ổn định và phát triển.

Thứ hai, Việt Nam cần tích cực giữ vai trò trung gian hòa giải xung đột trên biển thông qua tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc. Đặc biệt, Việt Nam cần sớm chủ động hợp tác với chính phủ Lào để góp ý giúp Bạn xây dựng nội dung chương trình của năm ASEAN 2024 do Lào làm Chủ tịch, với trọng tâm để Lào chủ động dẫn dắt quá trình đàm phán COC trên cơ sở xây dựng lòng tin và giảm căng thẳng, cũng như giúp đảm bảo vai trò trung tâm của ASEAN trong vấn đề Biển Đông.

Thứ ba, các lực lượng vũ trang của Việt Nam cần đề cao cảnh giác, bám sát các diễn biến trên thực địa nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông, nhất là tại những nơi từng diễn ra những vụ việc gây hấn trong quá khứ như khu vực phía nam đảo Tri Tôn (2014), khu vực Bãi Tư Chính (2019) nhằm không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống.

Thứ tư, Việt Nam cần thận trọng trong việc triển khai các dự án thăm dò, khai thác dầu khí tại các khu vực nhạy cảm trên Biển Đông ; đồng thời công khai minh bạch các hoạt động giao lưu, hợp tác quân sự, quốc phòng với các nước đối tác nhằm không tạo cớ để Trung Quốc tiến hành các hoạt động trả đũa hoặc gây hấn trên Biển Đông.

Hùng Nguyễn

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 14/10/2023

Hùng Nguyễn là người nghiên cứu tự do đang sinh sống tại Cộng hòa liên bang Đức.

Published in Diễn đàn

Biển Đông là địa bàn trọng yếu nhằm đề kháng sự bành trướng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương

Thái tử và Vương phi Nhật Bản sẽ thăm chính thức Việt Nam từ ngày 20 đến 25/9 tới đây. Trước đó, hôm 23/8, ông Matsuo Yamaguchi, lãnh đạo Đảng Komeito, Nhật Bản, đã đến thăm Việt Nam để "thắt chặt quan hệ Việt- Nhật". Sau đó ông Yamaguchi đã hủy chuyến thăm Trung Quốc ngày 26/8/2023.

biendong1

Hai tàu hải quân Nhật Bản JS Kashima và JS Shimayuki tập trận với tàu sân bay lớp Nimitz USS Ronald Reagan ở Biển Đông, ngày 7 tháng 7 năm 2020. (Ảnh minh họa) - Photo : RFA

Trước những diễn biến đó, RFA phỏng vấn Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudson Institute về quan hệ Việt Nam Nhật Bản. 

RFA : Xin ông cho biết Nhật Bản quan tâm đến Việt Nam ở mức độ nào, nếu so sánh Việt Nam với các nước Châu Á- Thái Bình Dương khác ? 

Nagao Satoru : Nhật Bản rất chú trọng đến Việt Nam. Khi cố Thủ tướng Shinzo Abe và cựu Thủ tướng Suga Yoshihide tuyên thệ nhậm chức thủ tướng, chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của họ là tới Việt Nam và Indonesia. Còn chuyến thăm Ấn Độ - Thái Bình Dương đầu tiên của Thủ tướng đương nhiệm Fumio Kishida sau khi nhậm chức là 4 quốc gia gồm Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và Ấn Độ. Vì vậy, có thể nói Việt Nam là một trong những quốc gia được Nhật Bản ưu tiên hàng đầu. Rất rõ ràng, chuyến thăm sắp tới của Thái tử Nhật Bản trong tháng 9 và chuyến thăm của Chủ tịch đảng Komeito hôm 23 tháng 8 nằm cùng một định hướng đối ngoại đó của Nhật Bản đối với Việt Nam.

RFA : Nguyên nhân sâu xa của sự quan tâm đặc biệt nói trên là gì ? Đó là nguyên nhân kinh tế, an ninh, khoa học công nghệ hay cái gì khác ?

Nagao Satoru : Nguyên nhân sâu xa khiến cho Việt Nam nhận được sự ưu tiên hàng đầu từ Nhật Bản là vấn đề an ninh quốc gia. 

Kể từ khi ông Shinzo Abe tuyên thệ nhậm chức đến giai đoạn hiện nay, Nhật Bản đã chuyển hướng chiến lược về chính sách đối ngoại. Ông Shinzo Abe liên tục nhấn mạnh đến mối đe dọa từ Trung Quốc. Vì vậy, đối với Nhật Bản, các quốc gia ưu tiên đều có liên quan đến chiến lược đề kháng Trung Quốc.

Chiến lược đề kháng chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc bao gồm cả hai mặt quân sự và phi quân sự. Về quân sự, Việt Nam nổi tiếng là nước mạnh. Trước đây, cả nước Pháp, Mỹ, Trung Quốc đều bị Việt Nam đẩy lui. Vì điều này, cả Việt Nam và công đồng quốc tế đều tự tin khi nói rằng Việt Nam sẽ là chìa khóa để đối phó với mối đe dọa quân sự từ Trung Quốc.

Biển Đông, nơi Việt Nam đang đối mặt với thách thức từ Trung Quốc, là địa bàn cốt lõi trong chiến lược đề kháng sự bành trướng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. 

RFA : Tại sao Biển Đông lại trở thành một địa bàn quan trọng như vậy ?

Nagao Satoru : Nếu có thể chiếm đóng toàn bộ Biển Đông, Trung Quốc có thể triển khai lực lượng hải quân và không quân tới bất kỳ nơi nào ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương một cách rất dễ dàng.

Ngoài ra, nếu Trung Quốc tạo được nơi an toàn để cất giấu tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hạt nhân, họ có thể tạo ra sức mạnh răn đe mạnh mẽ đối với Mỹ. 

Hiện nay, Trung Quốc đang phát triển tên lửa đạn đạo JL-3 có thể vươn tới Washington DC từ Biển Đông. Trung Quốc đang xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông và triển khai sức mạnh hải quân và không quân từ các đảo nhân tạo này. 

Các lực lượng này của Trung Quốc có thể loại trừ tất cả các lực lượng quân sự nước ngoài có thể phát hiện tàu ngầm của Trung Quốc ở Biển Đông. 

Nếu tình thế này phát triển đầy đủ, như Thủ tướng Abe đã chỉ ra trong bài viết "Viên kim cương an ninh dân chủ Châu Á"  thì "Biển Đông dường như sẽ trở thành một cái "hồ Bắc Kinh" (Beijing lake)". Các nhà phân tích cho rằng nếu trường hợp này  xảy ra, Biển Đông đối với Trung Quốc sẽ giống như Biển Okhotsk đối với nước Nga Xô viết, tức là một vùng biển đủ sâu để Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đặt căn cứ cho các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân, có khả năng phóng tên lửa mang đầu đạn hạt nhân.

Ngoài ra, Biển Đông còn là nơi cho thấy chiến lược điển hình kiểu Trung Quốc để bành trướng lãnh thổ. Họ tận dụng bất cứ khi nào họ thấy có khoảng trống quyền lực. Pháp rút khỏi Đông Dương sau 1954 thì họ chiếm một nửa Hoàng Sa. Mỹ rút khỏi Miền Nam Việt Nam năm 1973 thì năm 1974 họ đánh chiếm nốt nửa còn lại. Liên Xô giảm lực lượng ở Cam Ranh thì năm 1988 họ đánh Gạc Ma ở Trường Sa. Philippines yêu cầu Mỹ rút quân năm 1995 thì ba năm sau họ đánh chiếm luôn đá Vành Khăn (Mischief Reef) do nước này kiểm soát. 

Trung Quốc sẽ áp dụng nguyên tắc bành trướng này không chỉ ở Biển Đông mà còn ở các khu vực khác như Biển Hoa Đông, Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và biên giới đất liền Ấn Độ-Trung Quốc. Khi Trung Quốc tìm thấy khoảng trống quyền lực ở chỗ nào, họ sẽ cố gắng chiếm lấy chỗ .

Vì vậy, trong bài "Viên kim cương an ninh dân chủ Châu Á", cố Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã viết rõ ràng rằng "nếu Nhật Bản nhượng bộ, Biển Đông sẽ càng trở nên khó giải quyết hơn". 

RFA : Cách nhìn nói trên của cố Thủ tướng Abe có ảnh hưởng đến chính sách của Nhật đối với Việt Nam hay không ?

Nagao Satoru : Có. Cái nhìn này của cố Thủ tướng Abe đã ảnh hưởng đến chính sách của Nhật Bản đối với Việt Nam. Hai bên đã tăng cường hợp tác về an ninh và quân sự. Giữa Nhật Bản và Việt Nam đã hình thành thỏa thuận chia sẻ thông tin quân sự (thỏa thuận loại G-SOMIA), chia sẻ thiết bị (buôn bán vũ khí) và hậu cần (thỏa thuận loại ACSA). 

Năm 2018, đây là lần đầu tiên Nhật Bản công bố tàu ngầm của mình ghé cảng Việt Nam. Và máy bay tuần tra chống ngầm của Nhật Bản cũng đã đến thăm sân bay Việt Nam. Cùng với lực lượng tàu ngầm mới thành lập của Việt Nam, sự hợp tác chống tàu ngầm này sẽ hạn chế các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông.

Nhật Bản đã tặng một số tàu tuần tra cho Việt Nam. Và Nhật Bản sẽ bắt đầu một chương trình hỗ trợ an ninh chính thức. Trong tương lai gần, Nhật Bản sẽ cung cấp thêm vũ khí và thông tin hợp tác quân sự như tàu hải quân mới và tàu đã nghỉ hưu, cũng như máy bay tuần tra, v.v.

RFA : Nhật Bản và đồng minh nghĩ đến bản đồ các mối quan hệ quân sự với ASEAN như thế nào ? Họ tính toán vị trí của Việt Nam trên bản đồ đó ra sao ?

Nagao Satoru : Nếu Bộ tứ QUAD (Mỹ, Nhật, Ấn, Úc), Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Ấn Độ hợp tác với nhau, chúng ta có thể chia chi tiêu quân sự khổng lồ và các nguồn lực khác của Trung Quốc cho nhiều mặt trận. 

Hiện tại, tất cả các nước QUAD và Đài Loan đều nỗ lực sở hữu tên lửa hành trình tầm xa 1000-2000km (trong trường hợp của Australia, tên lửa hành trình được trang bị cho tàu ngầm hạt nhân và được triển khai gần Trung Quốc). 

Quả thực, Việt Nam đã có tên lửa Khub cho tàu ngầm lớp Kilo có thể tấn công các căn cứ trên bộ như căn cứ hải quân, căn cứ không quân ở đảo Hải Nam và các đảo nhân tạo v.v. Việt Nam (và Philippines) cũng mua tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos từ Ấn Độ. Tên lửa này cũng có khả năng tấn công mặt đất. Vì vậy, Trung Quốc không thể bỏ qua các cứ điểm tên lửa tấn công này. Nếu Trung Quốc quyết định tấn công Đài Loan, họ cần chia sẻ lực lượng ở một mức độ nhất định để phòng thủ biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, và ngược lại, họ không thể bỏ qua hướng Đài Loan nếu muốn phát động một hướng tấn công khác. Như vậy, nếu Việt Nam hợp tác với QUAD+, việc buộc Trung Quốc phải phân chia lực lượng ra nhiều mặt trận, phân chia mức độ chi tiêu quân sự khổng lồ của Trung Quốc trên nhiều mặt trận là điều có thể.

Như tôi đã nói ở trên, chiến lược mở rộng lãnh thổ của Trung Quốc là dựa trên cách tận dụng khoảng trống quyền lực, do cán cân quân sự chênh lệch gây ra. Việc các quốc gia kết hợp thành một mạng lưới trên nhiều mặt trận như vậy sẽ góp phần duy trì cân bằng quân sự trong khu vực. Bằng cách tạo ra sự cân bằng quân sự như vậy, chúng ta có thể duy trì hòa bình một cách thực tiễn.

Nguồn : RFA, 29/08/2023

Published in Diễn đàn
jeudi, 08 juin 2023 22:13

Hai xung đột, một nguy cơ

Trung Quốc kéo đại quân ra vào EEZ của Việt Nam vào thời điểm căng thẳng Trung – Mỹ lên cao trên mọi phương diện. Việc Bắc Kinh "càn quét" trên Biển Đông vừa qua chỉ là một "nhát cắt", một "mảnh ghép" của toàn khối mâu thuẫn Trung – Mỹ.

paxsinaca1

Bắc Kinh muốn thực thi một "Trật tự Thiên triều – Chư hầu" riêng biệt (Pax Sinica), thay thế cho "Trật tự dựa trên luật lệ" ở khắp mọi nơi, mọi lúc.

Tại sao xung đột bị đẩy lên ?

Chính vì "con voi ở ngoài phòng" là thêm một nguyên nhân trực tiếp nữa, khiến cho Trung Quốc "slammed" (đóng sập cửa) trước lời kêu gọi đối thoại của Mỹ . Theo giới quan sát, chính cuộc chiến tranh xâm lược tàn độc của nước Nga – Putin ở Ukraine đã đẩy khối mâu thuẫn Trung – Mỹ lên cao trào trong thời gian trước, trong và sau Đối thoại Shangri-La lần thứ 20 (SLD20) diễn ra ở Singapore từ 3 đến mồng 4/6. Nước Nga của "Sa hoàng Putin" đã không tham gia SLD20, vì sợ bị cô lập. Nhưng Hoa Kỳ thừa biết, Trung Quốc đã lợi dụng thế sa lầy của Moskva ở Ukraine để "làm mưa làm gió" quanh Eo biển Đài Loan, trên Biển Đông, chia rẽ các đồng minh Châu Âu với Mỹ và ngay tại SLD20 vừa qua. Thậm chí, còn chia rẽ luôn cả nước Mỹ. Tập đã có trong tay mọi thứ, từ cái ghế Đảng trưởng đến ngôi vị Chủ tich nước suốt đời, trong khi Biden thì chật vật với "nợ trần" và đang lo chuẩn bị tranh cử. Tập không cương lên trong mọi chuyện mới là lạ !

Bản chất mọi xung đột do Trung Quốc gây ra với thế giới, trong đó có chuyện "cà khịa" với cả Mỹ lẫn Việt Nam – hết thảy đều nằm ở tham vọng bá quyền và bành trướng của họ Tập. Bắc Kinh muốn thực thi một "Trật tự Thiên triều – Chư hầu" riêng biệt (Pax Sinica), thay thế cho "Trật tự dựa trên luật lệ" ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Ngày 3/6/2023, tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã đề cập trực tiếp, nêu đích danh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) trong phát biểu chính thức của mình. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ cho rằng, đối với những vị lãnh đạo quốc phòng có trách nhiệm, thì thời điểm phù hợp để nói chuyện là bất cứ lúc nào, bất cứ khi nào và giờ đây là lúc thích hợp (For responsible defense leaders, the right time to talk is any time, the right time to talk is every time, and the right time to talk is now !). Theo Bộ trưởng Austin, đối thoại không phải là một món quà để tưởng thưởng  mà đấy là một tất yếu, bởi lẽ càng trao đổi, thì càng tránh được hiểu lầm và tính toán sai lệch dẫn đến khủng hoảng hay xung đột.

Trước đấy một hôm, vào ngày 2/6, hai Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ và Trung Quốc tuy có bắt tay nhau trước bữa tiệc tối tại SLD20, nhưng cả hai đã không nói gì với nhau cả. Cho nên, trong phát biểu chính thức hôm 3/6, Bộ trưởng Lloyd Austin nhắc lại đầy ngụ ý rằng, cái bắt tay xã giao tại bữa tiệc tối không thể thay thế cho một cuộc tiếp xúc nghiêm túc thực sự. Ông Lloyd Austin chỉ trích Trung Quốc tiếp tục tiến hành một số vụ khiêu khích ở mức đáng cảnh báo, như việc chặn đầu máy bay Hoa Kỳ và đồng minh hoạt động hợp pháp trong không phận quốc tế. Nhưng đặc biệt là vụ Trung Quốc suýt "choảng" tàu chiến Mỹ ngay trong Eo biển Đài Loan. Hôm 5/6, Nhà Trắng cho hay cuộc đụng độ giữa các lực lượng Mỹ và Trung Quốc tại Eo biển Đài Loan và Biển Đông phản ánh sự hung hăng ngày càng gia tăng của quân đội Trung Quốc. Nhưng mặc cho "tiếng gươm khua" trên khắp các mặt trận, từ Đài Loan, qua Hoa Đông đến Biển Đông, Mỹ vẫn khẳng định sẽ "không tìm đối đầu", còn Bộ trưởng Lý Thượng Phúc hôm 4/6 cũng nói, Trung Quốc "sẵn sàng đối thoại" .

Làm gì với vị thế dễ tổn thương ?

Hướng Dương Hồng 10 cuối cùng cũng đã rời vùng EEZ của Việt Nam, sau 28 ngày liên tục "cày nát" trong vùng biển Trường Sa. Giới phân tích lý giải sự hung bạo của Bắc Kinh : Sau một thời gian Trung Quốc đã phát triển về kinh tế và quân sự, tích lũy được nhiều nguồn lực. Nay Trung Quốc có tham vọng mở rộng phạm vi ảnh hưởng, không chỉ trên các biển Châu Á, mà còn vươn tới Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Thời cơ với Trung Quốc là cuộc chiến Ukraine. Cuộc chiến này tạo ra các khoảng trống quyền lực để Trung Quốc "đục nước thả câu". Đây là thời điểm Bắc Kinh quyết định leo thang trong "vùng xám", đẩy mạnh "tam chủng chiến pháp". Trung Quốc lợi dụng cơ hội này để "đá" Nga khỏi các dự án dầu khí trên Biển Đông, vì Moskva hiện đang ở "kèo dưới" của Bắc Kinh. Trung Quốc gây sức ép với Việt Nam từ cả phía Đông lẫn phía Tây mà Hà Nội vẫn "đơn thương độc mã" xin Bắc Kinh dừng xâm lấn. Trước tình cảnh Hà Nội đang "như gà mắc tóc" trong đấu đá nội bộ và chần chừ nâng cấp quan hệ với Mỹ lên "Đối tác chiến lược", hẳn nhiên Bắc Kinh đã không đếm xỉa gì đến lời van nài đó .

Phân tích một cách tổng thể và rốt ráo hơn toàn bộ chiến dịch "vây lấn" vừa qua của Trung Quốc, càng thấy rõ tính phức hợp, liên hoàn và tiến trình triển khai hàng loạt trên nhiều vị trí chiến lược đồng thời trong cùng một thời điểm. Trung Quốc đã huy động đến năm lực lượng tham gia thế trận liên hoàn lần này  với những nhiệm vụ "vây", "lấn" và "tấn" cụ thể bao gồm : dân binh, hải cảnh, hải tuần, hải quân và cuối cùng là các tàu khảo sát hàng hải. Lần này, hãy để tư duy vượt qua Biển Đông, với chủ quyền bị xâm phạm trên thực tế, mà hãy hướng xa hơn một chút, khi cuộc chiến tranh tổng lực có thể lơ lửng treo trên đầu toàn bộ đất nước. Nhìn xa hơn Biển Đông, không cần phải là nhà quân sự cũng thấy rõ mức độ nguy hiểm của Căn cứ hải quân Ream từ Campuchia. Hun Sen có giải thích kiểu gì, thì người Việt Nam nào cũng thấy sức răn đe của tiền đồn quân sự khổng lồ chỉ cách đảo Phú Quốc 30 cây số. Nghĩa là nếu chiến sự bùng phát, pháo binh của đối phương có thể nã vào các tỉnh miền Tây, kết hợp với hỏa tiễn tầm xa từ phía Bắc, bạn hãy hình dung chuyện gì có thể xảy đến ?

Giải pháp tiên quyết nào có thể giúp Việt Nam thoát khỏi "kịch bản chiến tranh" đầy nguy hiểm này ? Ai cũng có thể biết nếu chịu khó động não, chỉ có "chế độ" trong nước (regime) là không muốn biết hay không cần biết ! Trong thời gian diễn ra SDL20 vừa qua, một "Bộ Tứ" thứ hai đang manh nha trong khu vực. Đó chính là cuộc họp chưa từng có với ý nghĩa vừa là hoạt động lớn, vừa mang tính biểu tượng, nhằm ngăn chặn sự hống hách và càn quấy của Trung Quốc trong khu vực. Chương trình nghị sự của "tân Bộ Tứ" – gồm lãnh đạo quốc phòng của bốn nước : Nhật, Úc, Philippines và Hoa Kỳ – là đề xuất các cuộc tuần tra chung bốn bên ở Biển Đông vào cuối năm nay. Nếu được tổ chức, nó sẽ đánh dấu một cột mốc quan trọng đối với chiến lược "răn đe tích hợp" đang phát triển. Tại SLD20, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Carlito Galvez đã có lập trường kiên quyết đối với các tranh chấp ở Biển Đông, báo hiệu đường lối cứng rắn của Manila. "Chúng tôi coi phán quyết trọng tài năm 2016 không chỉ đặt ra chân lý và lẽ phải ở Biển Đông, mà còn là nguồn cảm hứng cho cách thức các quốc gia đối mặt với hoàn cảnh thách thức tương tự nên xem xét các vấn đề", ông Galvez phát biểu trước những người đồng cấp ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương .

Liên kết với các nước trong khu vực là giải pháp trước mắt có thể giúp Việt Nam thoát khỏi thế "tứ bề thọ địch" hiện nay. Tuy nhiên, giải pháp này giờ đây đang bị ngăn trở một cách triệt để, không phải vì Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn nặng lòng với ý thức hệ, mà bởi vì khi hội nhập cùng các nước dân chủ, cũng có nghĩa là cắt mất mọi quan hệ bóng tối với Bắc Kinh, thứ bóng tối tạo nên những Việt Á, chuyến bay giải cứu và hàng ngàn vụ tham nhũng lớn nhỏ khác. Trong toàn bộ "dây chuyền tham nhũng" ấy, Trung Quốc luôn đóng vai trò chủ đạo.

"Tứ bề thọ địch" không phải là mối lo đầu tiên của lãnh đạo Việt Nam. Mối lo lớn nhất vẫn là làm sao Đảng phải tồn tại, dù tồn tại dưới danh nghĩa nào cũng được, kể cả danh nghĩa tay sai. Tình huống này càng nguy hiểm hơn, khi Trung Quốc đã thành công trong việc gia tăng sự thống trị của mình đối với các vùng biển quốc tế thông qua các chiến thuật vùng xám bất đối xứng. Hệ quả là làm xói mòn đáng kể uy tín của Mỹ, mạng lưới đối tác và đồng minh cũng như "Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở" (FOIP). Xem thế để thấy, cả hai tình huống xung đột Trung Quốc gây ra cho cả Mỹ, các nước trong khu vực lẫn Việt Nam đều có chung một nguy cơ : "Trật tự quốc tế" vốn đã tạo nền tảng cho một thời kỳ ổn định và thịnh vượng lâu dài có thể bị phá vỡ, đồng thời thay thế nó sẽ là một "Hệ thống triều cống khu vực" do Đảng cộng sản Trung Quốc thống trị, với cái định danh "Trật tự Trung Hoa" (Pax Sinica).

Trần Đông A

Nguồn : VOA, 08/06/2023

Published in Diễn đàn

Cách thức mà Việt Nam cần tham khảo để có hành động pháp lý trước Trung Quốc

Quốc Phương, RFA, 02/06/2023

Việt Nam có thể tham khảo phương cách đấu tranh pháp lý của một số quốc gia trong khu vực và ở Châu Á trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, trong đó có những trường hợp mang tính gợi ý như Philippines, Malaysia hay Nhật Bản, qua các vụ kiện hoặc xử lý tranh chấp của các nước đó thời gian gần đây hay hiện nay, theo một nhà nghiên cứu về lịch sử chủ quyền Việt Nam và đồng thời là nhà quan sát an ninh Biển Đông từ Châu Âu.

lanap1

Đường "lưỡi bò" mà Trung Quốc tự vạch ra trên Biển Đông - AFP

"Có hai phương pháp cần nói tới, đó là phương pháp của Philippines và phương pháp của Malaysia. Tôi nghĩ rằng phương pháp của Malaysia là phương pháp hay và thông minh, mặc dù nặng về kỹ thuật. Trước hết về phương cách của Philippines, chúng ta thấy họ đã đạt được một kết quả rất cụ thể, họ đã minh bạch hóa được một vùng xám, họ đã cho thế giới thấy rằng giữa Philippines và Trung Quốc ‘không có tranh chấp’ gì hết, mà tất cả những yêu sách của Trung Quốc trên thềm lục địa hay là phần hải phận đặc quyền kinh tế của Philippines (vùng EEZ) đều vi phạm luật quốc tế hết," ông Trương Nhân Tuấn, nhà biên khảo từ Marseille, Pháp nói với Đài Á Châu Tự Do hôm 01/6/2023 trên quan điểm riêng.

"Tại sao lại nói như vậy ? Philippines đã đề nghị Trung Quốc tham gia vụ kiện, nhưng Trung Quốc không tham gia thì Philippines đơn phương đi kiện, và Philippines đã tận dụng một phụ lục trong bộ luật quốc tế về Biển (Công ước LHQ về Luật biển, năm 1982) (1), theo đó, một quốc gia có quyền đơn phương đi kiện một quốc gia khác nếu những biện pháp khác để giải quyết những tranh chấp bằng ngoại giao, bằng thương thảo… đều bế tắc. Và ngay cả khi quốc gia khác kia từ chối không tham gia phiên tòa, phán quyết của tòa vẫn có ý nghĩa bắt buộc cho các bên, cho cả hai bên.

Đã có ý kiến rằng Việt Nam nên bắt chước Philippines để đi kiện Trung Quốc, nhưng theo ý kiến của tôi, Việt Nam có thể có biện pháp đơn giản hơn và thông minh hơn, đó là đi theo biện pháp của Malaysia.

Do chính quyền Việt Nam còn có mối quan hệ giữa hai đảng là đảng Cộng sản Việt Nam và đảng Cộng sản Trung Quốc, trong mối quan hệ giữa hai đảng này cực kỳ phức tạp, họ ‘vừa là đồng chí, vừa là anh em’, nhưng mà là ‘anh em thù nghịch’, do đó giải quyết bằng một vấn đề pháp lý tức là gây một cuộc chiến tranh khác không bằng tiếng súng, mà bằng ‘tiếng búa của Pháp đình’, vấn đề đó sẽ xúc phạm vô cùng lớn đối với lãnh đạo của Trung Quốc, và việc này có thể gây một xích mích không thể hàn gắn giữa hai đảng."

lanap2

Ảnh vệ tinh chụp một đảo ở Trường Sa ngày 21/4/2017. AFP

‘Kiện mà không kiện’

Và ông Trương Nhân Tuấn trình bày tiếp quan điểm riêng của mình :

"Theo tôi Việt Nam có thể vượt qua trở ngại đó bằng cách gián tiếp ‘kiện Trung Quốc mà không kiện’, tức là thông qua một thủ thuật pháp lý để thông qua được sự đồng ý của nhiều quốc gia về một vấn đề, trong luật học có một thuật ngữ gọi là ‘actio popularis’ (2), tức là khi nhiều quốc gia, hay nhiều người, tập thể những người nào đó cùng đồng ý xem một điều nào đó là luật, cùng xem xét và cùng tôn trọng một nguyên tắc nào đó, thì điều đó theo tập quán quốc tế có thể trở thành luật để áp dụng cho tất cả các bên đồng ý.

Phương pháp của Malaysia sử dụng Ủy ban Ranh giới Thềm Lục địa của Liên Hợp Quốc (Commission on the Limits of the Continental Shelf – CLCS) (3), nước này đệ trình một hồ sơ về thềm lục địa của Malaysia, trong đó Malaysia nhìn nhận phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế (PCA) về vụ án mà Philippines đơn phương kiện Trung Quốc là có hiệu lực trong những vùng biển có liên quan Malaysia. Thông qua cái đó, Việt Nam cũng nộp đơn đồng ý vấn đề đó, và tôi thấy nhiều quốc gia khác, nhất là Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc và tất cả những quốc gia thấy rằng họ có lợi ích ở Biển Đông mà nhận thấy rằng những yêu sách của Trung Quốc là phi lý, đều ủng hộ phán quyết đó (của tòa PCA.)

Vô hình chung, nếu chúng ta nghĩ lại về nguyên tắc ‘Actio Popularis’ của tập quán quốc tế, chúng ta thấy rõ ràng rằng Việt Nam có thể sử dụng phương pháp đó, để làm sao phán quyết đó trở thành một ‘Erga omnes’ (4), tức là thành một chuyện bắt buộc cho tất cả các bên, ngay cả với Trung Quốc.

Trên đây là hai phương pháp mà tôi thấy là hay, một là của Philippines và một của Malaysia, bây giờ nhìn lại xem Việt Nam nên có giải pháp gì để giải quyết tranh chấp, theo tôi Việt Nam nên áp dụng phương pháp của Philippines để đơn phương đi kiện Trung Quốc ở vấn đề Hoàng Sa, chứ không ở Trường Sa.

Và trong vấn đề ở vùng biển Trường Sa, Việt Nam có thể đệ đơn nhờ một tòa án, mà tôi nghĩ hay nhất là nhờ Tòa Công lý Quốc tế (của LHQ) (5), để nhờ tòa phán rằng khi những quốc gia này, liệt kê là các quốc gia A, B, C, D…, nhìn nhận hiệu lực của án tòa (phán quyết) này, thì án tòa đó trở thành một phán quyết Erga omnes có hiệu lực ngay cả với Trung Quốc.

lanap3

Hình chụp hôm 27/4/2021 : Tuần duyên Philippines theo dõi các tàu Trung Quốc ở bãi Sabina ở Biển Đông. AFP

Trường hợp tham khảo khác

Theo nhà nghiên cứu và biên khảo Trương Nhân Tuấn, ngay tại khu vực Châu Á, Việt Nam cũng có thể học hỏi và tham khảo thêm từ cách thức mà Nhật Bản đòi lại chủ quyền ở vùng lãnh thổ ở phía Bắc của nước theo cách gọi của Nhật Bản, trước quốc gia láng giềng là Nga hiện nay, ông nói :

"Tôi xin nói về trường hợp tranh chấp giữa Nhật Bản và Nga ở một nhóm đảo chừng bốn đảo mà Nhật gọi là Vùng lãnh thổ phương Bắc mà Nga gọi là quần đảo Nam Kuril. Nhật nói đó là lãnh thổ của Nhật, mà không bị ảnh hưởng bởi những hiệp ước như là hiệp ước San Francisco năm 1951 hay là những hiệp ước khác trong thời kỳ Thế chiến II.

Trong Thế chiến II, Nhật Bản chiếm một số lãnh thổ của một số quốc gia khác, như là chiếm Mãn Châu, chiếm Đài Loan, và chiếm một đảo lớn ở về phía bắc của nước Nhật. Những đảo đó có một thời kỳ thuộc Nhật Bản. Nếu xét về lịch sử thì rất rườm rà, nhưng khái lược, về bằng chứng lịch sử, theo tôi Nhật Bản có lý khi nói rằng bốn đảo đó là vùng lãnh thổ hiển nhiên của Nhật Bản, và chủ quyền của Nhật trên vùng lãnh thổ đó không bị chi phối bởi các quyết định của phe Đồng minh, phe thắng trận, hay là qua các hiệp ước trước đó.

Liên Xô vào thời điểm cuối Thế chiến II, tám ngày trước khi Nhật Bản đầu hàng, tuyên bố chiến tranh rồi đổ quân qua chiếm đảo Sakhalin trước và chiếm toàn bộ các đảo mà Liên Xô cũ (và Nga nay) gọi là đảo Nam Kuril, bao gồm các đảo mà Nhật đã thụ đắc, vấn đề này đã lưu cữu từ năm 1945 cho tới nay.

Cái hay của Nhật Bản là họ có những bằng chứng cụ thể và tất cả các chính phủ Nhật, từ chính phủ mà lúc Thiên Hoàng Nhật Bản còn quyền lực, cho đến khi trải qua thời kỳ Hiến pháp mà Mỹ áp đặt cho Nhật, và tiếp tục cho đến ngày hôm nay, chưa có một lúc nào mà Nhật từ bỏ các vùng lãnh thổ đó. Và chính phủ của Nhật Bản thường xuyên yêu sách với Liên Xô trước đây, Nga hiện nay, khẳng định chủ quyền...

Theo tập quán quốc tế về tranh chấp lãnh thổ, người ta không đặt ra thời gian bao lâu là sẽ mất thời hạn đòi chủ quyền, nhưng nếu một quốc gia im lặng trong một thời gian dài, chủ quyền của quốc gia trên vùng lãnh thổ đó coi như là mất. Điểm hay của Nhật Bản về lịch sử, cũng như về pháp lý, và ngay cách ứng xử của các chính phủ của Nhật, là luôn khẳng định Nhật có chủ quyền với các vùng lãnh thổ đó."

Theo ông Trương Nhân Tuấn, Việt Nam cũng có thể còn học được cách thức đáng tham khảo ngay trong tranh chấp Trung – Nhật, Nhật – Trung đối với quần đảo Senkaku theo cách gọi của Nhật Bản, hay đảo Điếu Ngư theo cách gọi của Trung Quốc, tuy nhiên ông cho rằng so với hai trường hợp tranh chấp Nhật – Nga và Trung – Nhật về chủ quyền biển, đảo nói trên, Việt Nam có những điểm khó khăn riêng, ông trình bày tiếp :

"Việt Nam có những điểm cực kỳ khó khăn do lịch sử để lại, sau Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam bị chia làm hai. Có người nói rằng Việt Nam bị chia thành hai hay thậm chí là ba quốc gia, chuyện đó tôi nghĩ mỗi người có một lập luận của mình về quan điểm thế nào là quốc gia, nhưng theo quan điểm của tôi, Việt Nam nên có lựa chọn phù hợp…, lựa chọn cách nào có lợi cho Việt Nam nhất…

Việt Nam bị kẹt rất nhiều so với vụ tranh chấp của Nhật Bản về quần đảo Nam Kuril với Nga, hay so với Trung Quốc trong vụ tranh chấp đảo Điếu Ngư với Nhật. (Ví dụ với Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958), Việt Nam gặp điều cực kỳ khó, nếu không giải quyết được những rắc rối do lịch sử để lại. Do đó Việt Nam bây giờ phải có biện pháp kế thừa di sản của Việt Nam Cộng Hòa, bởi vì Việt Nam Cộng Hòa là pháp nhân duy nhất giúp cho thấy xuyên suốt từ trong lịch sử cho tới năm 1975 rằng Việt Nam luôn có chủ quyền ở trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Do đó, Việt Nam phải làm như thế nào để chứng minh rằng bằng pháp lý những tuyên bố trước đây (không phù hợp) của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có hiệu lực trước luật pháp quốc tế…

Còn ý kiến cuối cùng mà tôi muốn nói trong dịp này là Việt Nam bây giờ cần một giải pháp pháp lý chứ chúng ta không cần phân tích sự kiện nữa, ba mươi năm ở Tư Chính, Vũng Mây, 50 năm ở Hoàng Sa đã quá lâu dài rồi, một giải pháp pháp lý bây giờ đã trở thành cấp bách rồi, và nay là lúc mà Việt Nam nên đưa ra một giải pháp như thế," nhà nghiên cứu độc lập nêu quan điểm riêng từ Marseille, Cộng hòa Pháp hôm 01/6/2023.

Mời quý vị bấm vào đường dẫn sau để theo dõi bài viết giới thiệu phần trước của cuộc trao đổi giữa nhà biên khảo Trương Nhân Tuấn với Đài Á Châu Tự Do, liên quan thực trạng an ninh tại Biển Đông và việc thử đi tìm giải pháp cho đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại khu vực này.

Quốc Phương

Nguồn : RFA, 02/06/2023

Tham khảo :

Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển

https://luatkhoa.org/2020/07/ve-kha-nang-khoi-kien-trung-quoc-theo-nguyen-tac-actio-popularis/

https://www.un.org/depts/los/clcs_new/clcs_home.htm

https://en.wikipedia.org/wiki/Erga_omnes

https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a_%C3%A1n_C%C3%B4ng_l%C3%BD_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF

********************

Việt Nam cần yêu cầu Trung Quốc minh bạch hóa yêu sách "cấm biển" và chuẩn bị "ra tòa quốc tế"

Trương Nhân Tuấn, Quốc Phương, RFA, 01/06/2023

Để ngăn chặn các hành vi "xâm phạm chủ quyền" trên Biển Đông đối với Việt Nam, Chính phủ Hà Nội cần yêu sách Trung Quốc minh bạch hóa những căn cứ về "quyền tài phán" của họ và cơ sở của việc nước này hàng năm ra lệnh "cấm biển", ngăn cấm ngư dân Việt khai thác ngay trên ngư trường truyền thống của mình tại Biển Đông. Song song đó, Chính phủ cũng cần chuẩn bị cho biện pháp "đấu tranh pháp lý" đưa vụ kiện ra tòa án quốc tế, một nhà nghiên cứu lịch sử chủ quyền Việt Nam và quan sát an ninh Biển Đông, từ Châu Âu nêu quan điểm riêng với Đài Á Châu Tự Do hôm 01/6/2023.

lanap4

Một người lính hải quân Việt Nam đứng canh ở đảo Thuyền Chài, quần đảo Trường Sa hôm 17/1/2013 - Reuters

"Trước hết ở vùng biển Hoàng Sa, mỗi năm Trung Quốc cấm biển khoảng sáu tháng, ngư dân Việt Nam không làm ăn gì được hết, tức là ngư trường Hoàng Sa, ngư trường truyền thống của ngư dân Việt Nam từ xưa đến nay, từ thời lập quốc đến bây giờ, tự nhiên bị người khác cấm. Trước hết xin hỏi tại sao từ 20 năm nay rồi, nói chính xác là 10 năm theo luật quốc gia của Trung Quốc, nhưng là 20 năm theo luật nội bộ của đảo Hải Nam, mỗi năm Trung Quốc đều ra lệnh cấm biển ở khu vực này như thế ? Theo lẽ, Chính phủ Việt Nam phải đặt vấn đề về việc này" - ông Trương Nhân Tuấn, nhà nghiên cứu Biển Đông từ Marseille, Pháp đưa ra bình luận với RFA Tiếng Việt về điều mà ông cho là diễn biến đáng lưu ý hiện nay và tới nay, do Trung Quốc gây ra ở vùng biển đang có tranh chấp chủ quyền gay gắt.

"Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam có trách nhiệm, bổn phận bảo vệ lợi ích và an ninh của người dân Việt Nam, và thứ hai phải đặt vấn đề với nhà cầm quyền Trung Quốc rằng Trung Quốc đã dựa vào căn cứ nào để nói rằng họ có quyền cấm biển ở vùng biển Hoàng Sa. Ngoài ra, từ đầu tháng 5/2023 đến giờ, Trung Quốc cho tàu bè đi rà trên thềm lục địa của Việt Nam, trên hải phận kinh tế độc quyền hay vùng đặc quyền kinh tế EEZ của Việt Nam, đặc biệt ở vùng mà Việt Nam đặt tên là bãi Tư Chính, Vũng Mây (Vanguard Bank) và Trung Quốc đặt tên là Vạn An Bắc (Wan'an Tan). Khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút tàu bè và các phương tiện khảo sát vùng biển ở đó đi, thì Trung Quốc trả lời rằng Trung Quốc đang thực thi quyền tài phán của họ ở vùng biển đó.

Tranh chấp ở vùng biển Tư Chính, Vũng Mây này, nếu nói theo lịch sử, bắt nguồn từ năm 1993, đến nay đã là 30 năm, và nên biết rằng cuộc khủng hoảng năm 1993 rất sâu sắc, sâu sắc nhiều lần hơn bây giờ, tức là Trung Quốc cho đấu thầu khai thác vùng biển đó, mà họ gọi là Vạn An Bắc, tức là vùng Tư Chính, Vũng Mây, vốn chỉ cách bờ biển của Việt Nam từ 150 đến 200 km thôi, tức là hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và thềm lục địa, cả về mặt pháp lý lẫn địa lý của Việt Nam. Khi Trung Quốc cho đấu thầu để khai thác, Việt Nam lúc đó phải đưa tàu hải quân ra, lúc đó phải nói là tình trạng rất căng thẳng.

Năm 1995, Việt Nam thiết lập bang giao với Mỹ, từ khi Mỹ thiết lập bang giao với Việt Nam, thấy rằng tình hình Biển Đông êm dịu hẳn đi, mặc dù tới năm 2014, Trung Quốc có biện pháp gọi là ‘tằm ăn dâu’, tức là họ xây dựng các đảo, các đá chiếm của Việt Nam hồi năm 1988 trở thành các đảo nhân tạo. Và sau đó, bắt đầu từ năm 2015-2017, khi chuyện xây dựng trên xong, thì họ liền quân sự hóa các đảo đó.

Như vậy, cuộc tranh chấp đó đã kéo dài 30 năm nay (1993-2023), mà Việt Nam không có bất cứ một biện pháp nào để giải quyết vấn đề hết, chính vì vậy, trọng tâm ngày hôm nay, chuyện mà nên được nói ngày hôm nay mà vào thời điểm này tôi chưa thấy ai nói là Việt Nam phải có một phương pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này, chứ không thể nào nói khơi khơi rằng ‘Việt Nam có cách tự bảo vệ hay lắm’, hay rằng ông Thủ tướng chính phủ Phạm Minh Chính đi lên thắp nhang các liệt sĩ ở nghĩa trang Vị Xuyên tức là hành vi đủ để đáp trả những hành vi trên Biển của Trung Quốc v.v., theo tôi đó không phải là giải pháp."

Lẽ ra cần yêu cầu Trung Quốc bạch hóa "quyền" và thăm Văn phòng đại diện tòa PCA

Theo quan điểm riêng của nhà nghiên cứu độc lập này, ba mươi năm đã trôi qua, nhưng việc xử lý vẫn không căn bản ở trên Biển Đông. Trung Quốc, một bên tranh chấp chủ quyền ở khu vực, tiếp tục xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, mà không thấy Chính phủ Hà Nội Nam "giải quyết được chuyện gì hết". Trái lại, vẫn theo nhà nghiên cứu này, "tình trạng mỗi ngày một trầm trọng thêm" với việc Trung Quốc được cho là ngày một chèn ép và lấn lướt chủ quyền của Việt Nam, do đó đã tới lúc Việt Nam có hành động theo một hướng đi khác. Từ Marseille, Pháp quốc, ông Trương Nhân Tuấn nói tiếp :

"Theo tôi, Chính phủ Việt Nam trước hết phải yêu sách Trung Quốc, yêu cầu họ phải bạch hóa ‘quyền’ mà họ nói là có ở vùng Tư Chính, Vũng Mây của Việt Nam, xem ‘quyền’ đó dựa trên căn bản, cơ sở nào ? Còn theo tôi thấy rằng thay vì chuyến đi của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính vừa đi lên tỉnh Hà Giang để thăm nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên, ông nên đến Văn phòng của Tòa trọng tài thường trực quốc tế (PCA) mà mới được mở đại diện, chi nhánh ở ngay Hà Nội (1), theo một thỏa thuận hợp tác mà văn phòng này được mở tại Việt Nam.

Tôi đặt câu hỏi là tại sao ông Phạm Minh Chính không đi tới đó thăm ? Tức là nếu ông đi tới đó, thì cái đó cho người dân Việt Nam thấy rằng Chính phủ Việt Nam có một khuynh hướng giải quyết vấn đề trên Biển Đông, còn bây giờ chỉ đi lên viếng nghĩa trang Vị Xuyên, tức là ông ra một dấu hiệu cho thấy rằng Việt Nam sẵn sàng dùng vũ lực, đổ máu để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ? Theo tôi nếu như thế thì là sai, đưa ra một dấu hiệu như thế là hoàn toàn sai.

Trước hết, phải thấy rằng, ở trên bộ thì không nói, nhưng nếu một cuộc chiến xảy ra ở trên biển, Việt Nam là một nước nhỏ, trong khi lực lượng hải quân của Việt Nam bây giờ tôi thấy đăng toàn tin là có tham nhũng thôi, tướng này tướng kia ăn chặn những nguồn này, ăn chặn những nguồn kia, thì thấy lực lượng hải quân của Việt Nam đang thế nào. Trong khi xét lực lượng hải quân của Trung Quốc, về mặt ngân sách quốc phòng nếu tính chung ra là khoảng 2% trên tổng sản lượng quốc nội GDP của họ thôi, nhưng số lượng lớn gấp 30 lần của Việt Nam. Còn Việt Nam có tỷ lệ là 5,5% tổng sản lượng quốc nội dành cho ngân sách quốc phòng, nhưng tôi thấy ngay cả khi hải quân của Trung Quốc phân chia ra làm ba lực lượng : một lực lượng là Bắc dương, một lực lượng là Đông dương và một lực lượng là Nam dương, trong đó Bắc dương để đối phó với Nhật Bản và Nam Hàn, Đông dương để đối phó với Đài Loan và Nam dương là để đặc biệt đối phó với vùng biển Đông Nam Á, thì lực lượng hải quân của Việt Nam cũng không thể nào so sánh được với lực lượng hải quân của Trung Quốc.

Vậy mà ông Thủ tướng Phạm Minh Chính của Việt Nam đi lên nghĩa trang Vị Xuyên đưa ra một tín hiệu như là Việt Nam sẵn sàng dùng vũ lực để bảo vệ lãnh thổ, tôi hoàn toàn đồng ý với việc là Việt Nam có sự chính đáng hoàn toàn để bảo vệ lãnh thổ của mình, nhưng Trung Quốc họ nói rằng họ thực thi ‘quyền tài phán’ của họ, thì ít nhất chính phủ Việt Nam phải yêu cầu làm rõ ‘quyền tài phán’ đó của Trung Quốc xuất phát từ đâu ? Chúng ta đâu có biết rằng tại sao vấn đề tranh chấp ở Tư Chính, Vũng Mây bắt đầu từ năm 1992-1993, sau khi Hội nghị Thành Đô kết thúc, mặc dù có những ‘đồn đại’ mà tôi phải mở ngoặc, nhưng biết đâu tại Hội nghị đó lãnh đạo Việt Nam đã nhìn nhận ‘quyền lịch sử’ của Trung Quốc ở Biển Đông ? Chúng ta không biết được liệu có chuyện đó không, nhưng vậy Trung Quốc phải có một ‘căn cứ’ gì để họ nói rằng họ có ‘quyền tài phán’ ở vùng biển của Việt Nam.

Thành thử theo tôi, điều chính yếu nhất, khẩn cấp nhất của Việt Nam là nhà nước Việt Nam phải yêu cầu mấy điểm sau : thứ nhất, Trung Quốc đã dựa trên căn cứ, cơ sở nào, thực thi quyền nào, để ra lệnh cấm biển đối với ngư dân Việt Nam trên những vùng biển truyền thống của Việt Nam ; thứ hai là Việt Nam phải yêu sách Trung Quốc làm rạch ròi ‘quyền tài phán’ của Trung Quốc ở vùng biển Tư Chính và Vũng Mây đó, xem nó đặt trên căn bản, cơ sở nào.

Để rồi từ đó, Việt Nam mới có một biện pháp để đối phó với những yêu sách của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc dựa trên, chẳng hạn, thí dụ cam kết giữa hai đảng cộng sản từ Hội nghị Thành Đô (9/1990), thì Việt Nam nay phải biết cách hóa giải điều đó như thế nào để không bị thiệt hại.

Và ngay cả vùng biển Hoàng Sa cũng vậy, ngay cả khi quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đi, chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn luôn thuộc về Việt Nam và vùng biển Hoàng Sa là ngư trường lịch sử của ngư dân Việt Nam, với bao nhiêu đời nay ngư dân Việt Nam đánh cá ở đó rồi. Do vậy, tôi xin nói rằng Việt Nam có quyền chính đáng, để dựa trên quyền chính đáng đó để nhờ một cơ quan trọng tài Quốc tế phân giải."

lanap5

Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn. Hình : tác giả cung cấp

Thời điểm đưa ra tòa trọng tài quốc tế và "vùng xám" nào cần được hiểu ?

Theo ông Trương Nhân Tuấn, hành động đưa một vụ kiện liên quan vấn đề chủ quyền nói trên ra một tòa án trọng tài quốc tế để phân giải là một lựa chọn sau khi đã có những lựa chọn khác được bên khiếu kiện tiến hành, mà không đạt kết quả, và nhà nghiên cứu từ Pháp đưa ra lời giải thích, tiếp tục trên quan điểm riêng của ông :

"Trường hợp đưa ra trọng tài phân giải là sau khi yêu sách của Việt Nam đặt ra cho Trung Quốc mà Trung Quốc từ khước giải thích, từ khước đàm phán, khi đó bắt buộc Việt Nam phải đi tới giải pháp pháp lý.

Và đến khi giải pháp pháp lý kiệt cùng rồi, lúc đó mới nhắm tới những giải pháp khác, và khi Việt Nam đã trải qua những thủ tục bắt buộc, giả sử như đàm phán, ngoại giao, hay là thương lượng, rồi qua đến pháp lý, mà tất cả đều bị Trung Quốc bác bỏ hết, thì Việt Nam lúc đó sẽ có một tư cách chính đáng để nói về quyền tự vệ chính đáng.

Khi Việt Nam có quyền tự vệ chính đáng đó, giả sử như là với Ukraine hiện nay, thì quốc tế mới có thể giúp đỡ chúng ta. Còn khi Việt Nam chưa đòi minh bạch hết căn cứ về các ‘quyền’ của Trung Quốc, mà đề cập vấn đề rằng ‘tôi sẵn sàng sử dụng vũ lực để bảo vệ’, thì liệu quốc tế có biết rằng hành vi sẵn sàng sử dụng vũ lực của Việt Nam, khi nói rằng là để ‘bảo vệ’, có thuyết phục hay không ?

Do đó, trước hết, điểm nóng nhất là Việt Nam phải cho quốc tế biết là những yêu sách, những hành vi của Trung Quốc mà họ đã và đang hiện thời làm, riêng từ hai thập niên nay ở Biển Đông, là không có một căn cứ nào hết, và điều đó phải được quốc tế nhìn nhận, hoặc được tất cả các quốc gia nhìn nhận như đã được thấy xảy ra trong ‘Cuộc chiến Công hàm’ ở Ủy ban Biên giới, thềm lục địa của Liên Hợp Quốc gần đây, khi đó có thể thấy một số lớn các quốc gia, những quốc gia lớn như là Mỹ hay ở Châu Âu, hay Nhật Bản, nhìn nhận phán quyết ngày 12/7/2016 của tòa PCA đối với vụ kiện của Philippines (2) là dù như thế nào, thì ở vùng biển phía Nam, tức là vùng biển Hoàng Sa, nó không còn là vùng xám nữa, mà ở vùng đó, pháp lý đã được minh bạch.

Vùng xám ở đây, tôi thấy nhiều người có quan điểm khác nhau về định nghĩa của ‘vùng xám’, có người hiểu theo tinh thần của địa lý chiến lược, có người hiểu theo giải thích của quân sự - tức là Trung Quốc sử dụng biện pháp mà ‘dưới chiến tranh một chút’, nhưng theo tôi, nếu đứng trên quan điểm pháp lý mà nói, vùng xám là những vùng, nói về mặt địa lý tiếng Anh gọi là ‘zone’, mà ở đó pháp lý chưa nói một cách rõ rệt. Chẳng hạn như vùng Trường Sa trước khi mà Tòa trọng tài thường trực Quốc tế ra phán quyết ngày 12/7/2016, theo phụ lục 7 của Bộ luật quốc tế về Biển (Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển - Unclos, 1982) (3), là một ‘vùng xám’.

Tức là Trung Quốc đưa ra những yêu sách này, kia, rằng đều có hiệu lực với tất cả các đảo nọ hết, và Trung Quốc có quyền vẽ vùng nước nội hải của một quần đảo ấy, thí dụ như vậy. Đó là tình huống nằm giữa hai sự phân tích, giải thích khác nhau, chẳng hạn Việt Nam giải thích khác, hay là Malaysia có sự giải thích khác về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chỉ đến khi tòa PCA ra phán quyết 12/7/2016 thì tất cả đều minh bạch, và ở vùng Trường Sa không còn là ‘vùng xám nữa’.

Nói tới ‘vùng xám’ là phải nói tới một phạm trù khác, mà theo tôi thấy Trung Quốc không sử dụng chiến thuật ‘vùng xám’ như nhiều người đã nói. Nhưng ở vùng biển Hoàng Sa thì hoàn toàn khác, ở đó sự tranh chấp chủ yếu là hoàn toàn giữa Việt Nam và Trung Quốc thôi, và yêu sách của Trung Quốc và Việt Nam có thể đối kháng nhau. Cho nên tới điểm thứ ba tôi muốn nói ở đây, là khi Việt Nam đòi làm minh bạch tất cả những yêu sách của Trung Quốc rồi, và khi những yêu sách của Việt Nam như thế này, của Trung Quốc như thế kia, mà không giải quyết được, thì phải đưa ra một Tòa trọng tài quốc tế phân xử.

Khi ấy ‘vùng xám’ ấy không còn nữa, lúc đó đã có sự minh bạch hóa với một vùng chưa có ‘luật lệ’. Còn khi luật lệ đã rõ rệt rồi, tất cả những hành vi quá lố của Trung Quốc sẽ đều là phạm luật hết, khi đó không còn có vấn đề ‘vùng xám’ hay ‘không vùng xám’ nữa.

Cho nên, trọng tâm của ngày hôm nay đối với Việt Nam, tôi xin nhắc lại, là phải làm rõ yêu sách của Trung Quốc như thế nào ở Hoàng Sa, Trung Quốc dựa trên những căn cứ gì, những yêu sách nào dựa trên những bằng chứng pháp lý, lịch sử nào, để mà họ ra lệnh cấm biển, cấm ngư dân Việt Nam khai thác trong vùng biển, mà là vùng đánh cá truyền thống của Việt Nam.

Và điều thứ hai là phải làm rõ ‘quyền tài phán’ của Trung Quốc ở vùng Tư Chính, Vũng Mây là đặt trên nền tảng nào, hay giả sử dựa trên hiệp ước nào (nếu có) giữa Việt Nam và Trung Quốc, và điểm thứ ba, kết luận từ điểm một và điểm hai ở trên, Việt Nam sẽ có một lối thoát, tức là minh bạch hóa tất cả những vùng xám về địa lý, những vùng mà pháp lý chưa được giải thích rõ rệt.

Khi mọi sự được bạch hóa rồi, nếu Trung Quốc đi ngược lại những gì mà luật pháp quy định, Việt Nam khi đó có một tính chính đáng để nói lên lời nói của mình, hay để thể hiện ý chí của Việt Nam qua hay bằng một hành động nào đó. Đó là ý kiến của tôi về vấn đề trọng tâm của Biển Đông hiện nay của Việt Nam, ấy là phải đi tìm giải pháp cụ thể, chứ không nên đi tìm những giải thích suy diễn chuyện này, chuyện kia được. Ba mươi năm nay ở vùng Tư Chính, Vũng Mây và 50 năm nay ở vùng biển Hoàng Sa là quá dài, theo tôi việc kéo dài đó cần phải chấm dứt."

Trên đây là ý kiến trên quan điểm riêng của ông Trương Nhân Tuấn, nhà khảo cứu, quan sát và nghiên cứu độc lập từ Pháp về lịch sử chủ quyền Việt Nam và an ninh trên Biển Đông, tác giả của cuốn sách biên khảo "Biên giới Việt Trung 1885-2000 : Lịch sử thành hình và những tranh chấp". Ở phần tiếp theo của cuộc trao đổi này, nhà nghiên cứu độc lập từ Pháp phân tích một số tiếp cận và phương pháp mà các bên tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông sử dụng, cũng như đề cập một số trường hợp và kinh nghiệm xử lý tranh chấp chủ quyền biển đảo tại ngay khu vực Châu Á, mà theo ông là Việt Nam có thể tham khảo, xin mời quý vị đón theo dõi.

Quốc Phương

Nguồn : RFA, 01/06/2023

Tham khảo :

(1)https://baochinhphu.vn/khai-truong-van-phong-dai-dien-toa-trong-tai-thuong-truc-pca-tai-ha-noi-102221124182354013.htm

(2)https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/toan-van-thong-cao-phan-quyet-cua-pca-vu-kien-philippines-trung-quoc-20160713085112372.htm

(3)http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208475

Published in Diễn đàn

Trung Quốc đòi Mỹ chấm dứt các chuyến bay do thám ở Biển Đông

RFA, 01/06/2023

Trung Quốc hôm 31/5 yêu cầu Mỹ chấm dứt các chuyến bay do thám ở Biển Đông mà Bắc Kinh cho là hành động khiêu khích nguy hiểm và khẳng định Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp để bảo vệ chủ quyền của mình.

trungmy1

Máy bay chiến đấu của Mỹ trên tàu sân bay Theodore Roosevelt ở Biển Đông hôm 10/4/2018 - AFP

Tuyên bố này được đưa ra sau khi có vụ máy bay Trung Quốc bay sát nguy hiểm đối với một máy bay do thám của Mỹ hôm thứ sáu tuần trước ở Biển Đông.

Hoa Kỳ hôm 30/5 ra thông cáo cho biết phi công một chiếc máy bay chiến đấu J-16 của Trung Quốc đã bay trực diện đến trước mũi chiếc máy bay RC-135 của Mỹ đang thực hiện hoạt động thường kỳ trên vùng trời quốc tế hôm 26/5.

Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ gọi hành động này của máy bay Trung Quốc là "nguy hiểm không cần thiết", đồng thời cho biết thêm là quân đội Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn trong năm năm trở lại đây với việc chặn máy bay và tàu chiến của Mỹ trong khu vực.

Vụ việc mới đây đã làm gia tăng thêm căng thẳng Mỹ Trung vào khi Mỹ ủng hộ một Đài Loan độc lập còn Trung Quốc tiếp tục khẳng định Đài Loan là một phần không thể tác rời của Hoa lục.

Căng thẳng giữa hai nước thêm gia tăng khi Trung Quốc mới đây cho biết Bộ trưởng Quốc phòng nước này sẽ không gặp Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin tại Đối thoại an ninh Shangri-La, Singapore, diễn ra vào cuối tuần này.

Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn diện tích Biển Đông bất chấp việc Tòa Trọng tài Thường Trực ở La Haye, vào năm 2016, đã bác bỏ những yêu sách chủ quyền rộng lớn của Trung Quốc trong một vụ kiện chống lại nước này của Philippines.

Nguồn : RFI, 01/06/2023

*************************

Biển Đông : Trung Quốc ngày càng hung hăng nhưng lại nói Mỹ cố tình khiêu khích

Trọng Nghĩa, RFI, 01/06/2023

Ngày 26/05/2023 vừa qua, khi đang hoạt động trong không phận quốc tế trên Biển Đông, một chiếc phi cơ do thám RC-135 của Mỹ đã bất ngờ bị một chiến đấu cơ J-16 của Trung Quốc cắt ngang đường bay, gây ra vùng nhiễu động không khí khiến phi cơ Mỹ bị rung mạnh. Washington ngày 30/05 đã lên tiếng tố cáo một "hành động gây hấn không cần thiết" của Trung Quốc, và đã lập tức bị Bắc Kinh đáp trả với lời lên án Mỹ có các "hành vi khiêu khích" trên Biển Đông.

mytrung2

Tàu hải cảnh Trung Quốc chặn một tàu tuần duyên Philippines tại khu vực Bãi Cỏ Mây, Biển Đông, ngày 23/04/2023. AP - Aaron Favila

Theo giới quan sát, cho đến nay, Trung Quốc đã liên tục có những động thái hung hăng gây sự trên Biển Đông, không chỉ nhắm vào Mỹ, mà còn nhắm cả vào các nước bên trong hoặc bên ngoài khu vực khác bị Bắc Kinh cáo buộc là xâm phạm vùng biển của Trung Quốc, dựa trên chủ quyền mà chính Bắc Kinh tự nhận, bất chấp phán quyết ngược lại của quốc tế, cụ thể là của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực La Haye.

Về sự cố mới nhất hôm 26/05, Bộ Tư Lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Quân Đội Mỹ INDOPACOM đã khẳng định phi cơ trinh sát Mỹ RC-135 đang hoạt động một cách bình thường trong không phận quốc tế thì bị tiêm kích Trung Quốc sách nhiễu, "áp sát một cách nguy hiểm".

Ngược lại, đối với phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Mao Ninh hôm 31/05, Mỹ đã thường xuyên triển khai phi cơ và chiến hạm áp sát Trung Quốc, gây tổn hại nghiêm trọng cho an ninh quốc gia của Bắc Kinh. Đối với phát ngôn viên này, bên gây nguy hiểm chính là Hoa Kỳ với các "hoạt động khiêu khích, nguy hiểm" vốn là nguyên do của các vấn đề an ninh trên biển.

Sự cố ngày 26/05 gần như là một kịch bản lập lại của một vụ đối đầu khác vào tháng 12/2022, khi cũng một chiến đấu cơ Trung Quốc áp sát một chiếc phi cơ do thám RC-135 của Mỹ, buộc phi cơ Mỹ phải "thực hiện các thao tác đổi hướng để tránh va chạm".

Đối với giới phân tích, nếu trước đây tương đối hiếm hoi, thì trong thời gian gần đây, các sự cố trên không và trên biển ở Biển Đông do các hành vi "thiếu chuyên nghiệp" từ phía Trung Quốc ngày càng tăng.

Một quan chức quốc phòng Mỹ cao cấp vào hôm qua ghi nhận với hãng tin Pháp AFP là số vụ can thiệp và đối đầu nguy hiểm trên biển do máy bay và tàu thuyền Trung Quốc đã "gia tăng một cách đáng báo động", với nguy cơ tiềm tàng là gây nên những "tính toán sai lầm hoặc sự việc không an toàn".

Điều đáng nói là khi nhận xét về hành vi của phi công Trung Quốc, quan chức Mỹ cho rằng đó không phải là những hành động tự phát, mà xuất phát từ một chiến thuật rộng lớn hơn. Đây là một chiến thuật hù dọa được Trung Quốc áp dụng không chỉ với Mỹ, mà cả với những quốc gia khác.

Trong một bài phân tích công bố hôm qua (31/05), trang mạng chuyên về quân sự Pháp Opex360 nhắc lại vào tháng 7 năm ngoái, ông Ely Ratner, một quan chức Lầu Năm Góc đã lưu ý : "Chúng ta đang chứng kiến ​​s gia tăng mnh ca các hành vi nguy him và thiếu chuyên nghiệp của tàu và phi cơ [Trung Quốc] không chỉ đối với lực lượng Hoa Kỳ mà còn đối với cả các lực lượng đồng minh hoạt động trong khu vực".

Theo Opex360, Hải quân Pháp, cũng từng phải trực diện với lực lượng Trung Quốc khi tuần tra tại Biển Đông, có cùng một nhận định rằng Quân Đội Trung Quốc ngày càng tỏ ra hiếu chiến, đặc biệt là ở những khu vực mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền.

Trọng Nghĩa

***********************

Biển Đông : Mỹ tố cáo phi cơ Trung Quốc hung hăng gây nguy hiểm

Chi Phương, RFI, 31/05/2023

Quân đội Hoa Kỳ hôm 30/05 đã lên án hành động "hung hăng", "vô cớ" của một chiến đấu cơ Trung Quốc, khi tiến đến gần một máy bay trinh sát của Hoa Kỳ, đang hoạt động tại trên không phận quốc tế ở Biển Đông. Hôm nay, Bắc Kinh đã bác bỏ cáo buộc và cho rằng Washington là bên "khiêu khích". 

mytrung0

Ảnh chụp từ video của Hải quân Mỹ cung cấp : Tiêm kích Trung Quốc J-16 bay sát gần phía trước máy bay do thám Mỹ RC-135 trên không phận quốc tế ở Biển Đông, ngày 26/05/2023. AP

Trong thông cáo, đăng tải ngày hôm qua, bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của quân đội Hoa Kỳ cho biết máy bay Trung Quốc đã bay "ngay phía trước và cách mũi máy bay trinh sát RC-135 khoảng 120 mét vào thứ Sáu (26/05), buộc máy bay của Mỹ phải bay qua vùng nhiễu động".

AFP dẫn lời một quan chức cấp cao của Hoa Kỳ xin giấu tên cho biết những vụ ngăn chặn, đối đầu nguy hiểm trên không và trên biển của tàu và máy bay Trung Quốc đã gia tăng đáng báo động. Vụ việc ngày 26/05 vừa qua không phải là một hành động độc lập của phi công Trung Quốc mà đã "lặp đi lặp lại trên quy mô lớn hơn". 

Hôm nay, Trung Quốc đã lên tiếng đáp trả lcáo buộc của Hoa Kỳ. Phát ngôn viên của bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng Mỹ nên chấm dứt những hành động khiêu khích nguy hiểm và khẳng định : "Việc Hoa Kỳ cử tàu và máy bay một cách thường xuyên và dài hạn (đến khu vực này) để giám sát chặt chẽ Trung Quốc, làm tổn hại nghiêm trọng chủ quyền và an ninh quốc gia của Trung Quốc… Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh của mình".

Vụ việc trên xảy ra vào thời điểm quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington vốn đã căng thẳng, liên quan đến các vấn đề về Đài Loan hay vụ một khinh khí cầu Trung Quốc bị bắn rơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ hồi đầu năm nay. 

Chi Phương

*************************

Chiến lược bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, Nam Thái Bình Dương và đối phó của G7

RFA, 30/05/2023

"Hoạt động bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông, vùng biển Nam Thái Bình Dương, khu vực biên giới Trung Quốc - Ấn Độ và khu vực Ấn Độ Dương có nhiều điểm tương đồng với những gì nước này đã làm ở vùng biển xung quanh Nhật Bản và Đài Loan". Trao đổi với RFA, Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudson Institute nhận xét như trên về những động thái mới của cả Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng như khối G7 ở vùng biển Nam Thái Bình Dương. Theo nhà nghiên cứu ở Hudson Institute, những động thái của Trung Quốc ở Nam Thái Bình Dương có liên quan mật thiết tới Biển Đông vì cả hai đều nằm trong "chiến lược chuỗi đảo" của họ.

mytrung3

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken và Thủ tướng Papua New Guinea tại cuộc họp báo hôm 22/5/2023 - The US Department of State

Những điểm chung trong chiến lược bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc 

Điểm tương đồng đầu tiên của chiến thuật bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên cả ba vùng biển nói trên, Biển Đông, Hoa Đông và Nam Thái Bình Dương, là "coi thường luật pháp quốc tế hiện hành khi đưa ra yêu sách đối với lãnh thổ mới". Ông nói : 

"Ở Biển Hoa Đông, Trung Quốc không tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku trước năm 1971, nhưng thái độ của họ đã thay đổi kể từ đó. Quần đảo Senkaku nằm ở vị trí chiến lược để gây sức ép với Đài Loan và có tiềm năng trữ lượng dầu mỏ. 

Ở Biển Đông, Trung Quốc đã mở rộng yêu sách lãnh thổ, phớt lờ phán quyết của tòa án quốc tế và xây dựng các đảo nhân tạo. Và Trung Quốc đã bắt đầu triển khai tên lửa và máy bay quân sự trên các đảo, mặc dù khẳng định chúng không có mục đích quân sự. 

Thật vậy, đây là mô hình tương tự mà Trung Quốc đã làm theo khi thiết lập một căn cứ quân sự ở Djibouti. Trung Quốc tiếp tục xâm nhập dọc theo biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, mặc dù chính phủ lưu vong Tây Tạng đã tuyên bố rằng những khu vực này thuộc về Ấn Độ. 

Trung Quốc đã phớt lờ luật pháp quốc tế hiện hành và mở rộng yêu sách lãnh thổ của mình ở cả ba khu vực nói trên".

Đặc điểm thứ hai của chiến lược mở rộng lãnh thổ của Trung Quốc là chiến thuật lợi dụng tính thời điểm. Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng Bắc Kinh khai thác tình hình bất cứ khi nào họ tìm thấy một "khoảng trống quyền lực". 

Đối với Biển Đông, ông chỉ ra là chiến thuật "khai thác khoảng trống quyền lực" mà Trung Quốc thực hiện từ thập niên 1950s đến nay : 

"Trung Quốc đã chiếm một nửa quần đảo Hoàng Sa ngay sau khi Pháp rút quân vào những năm 1950. Đến năm 1974—một năm sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam—Trung Quốc chiếm nửa quần đảo còn lại. Trong những năm 1980, Trung Quốc đã mở rộng các hoạt động của mình ở quần đảo Trường Sa và chiếm đóng sáu thực thể ở đó vào năm 1988, ngay sau khi Liên Xô giảm bớt sự hiện diện quân sự ở Việt Nam. Và vào năm 1995, Trung Quốc đã chiếm Đá Vành Khăn ba năm sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Philippines. Các hoạt động này cho thấy Trung Quốc có xu hướng mở rộng phạm vi lãnh thổ của mình khi phát hiện thấy thay đổi về cán cân quân sự và khoảng trống quyền lực theo hướng có lợi cho họ".

Trong hơn mười năm vừa qua, Trung Quốc đã mở rộng các yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, Đài Loan, Nam Thái Bình Dương, biên giới Ấn Độ Dương và Ấn Độ Dương theo cùng một chiến thuật như trên, khi họ phát hiện thấy một khoảng trống quyền lực ở những khu vực này - Tiến sĩ Nagao Satoru nhận xét. Theo ông, có thể nhận thấy khoảng trống quyền lực này qua Cơ sở dữ liệu chi tiêu quân sự của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) : từ năm 2011-2020, Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự lên 76%, nhưng trong cùng thời kỳ, Nhật Bản chỉ tăng 2,4% còn Hoa Kỳ giảm 10% chi tiêu.

Chiến thuật thứ ba của chiến lược mở rộng lãnh thổ của Trung Quốc là kiểm soát phi quân sự. Theo Tiến sĩ Nagao Satoru, Trung Quốc kết hợp chặt chẽ các quân bài kinh tế với mục tiêu mở rộng lãnh thổ : 

"Trung Quốc đã sử dụng các dự án cơ sở hạ tầng nước ngoài—được gọi là Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI)—để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình. 

Các quốc gia có khoản đầu tư và nợ đáng kể của Trung Quốc ngần ngại chỉ trích Trung Quốc, ngay cả khi nước này vi phạm các quy tắc quốc tế. Trung Quốc cũng đang sử dụng "ngoại giao vắc-xin" đối với Covid-19 để thúc đẩy thiện chí giữa các nước nhận viện trợ. Do đó, đối với Trung Quốc, các phương pháp phi quân sự như các dự án cơ sở hạ tầng, sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng và vắc-xin nhằm mở rộng ảnh hưởng và quyền lực của họ.

Ngay cả đối với các nước phát triển như Nhật Bản và Úc, Trung Quốc cũng sử dụng phương pháp kiểm soát kinh tế này. Ví dụ, khi Úc khăng khăng yêu cầu một cuộc điều tra quốc tế để xác định nguồn gốc của Covid-19, Trung Quốc đã trì hoãn xử lý hàng nhập khẩu của Úc như rượu vang và tôm hùm. Sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc là vũ khí lợi hại để Bắc Kinh mở rộng ảnh hưởng, và cuối cùng là mở rộng lãnh thổ".

Các nước G7 "phản công"

Tiến sĩ Nagao Satoru cho biết hội nghị thượng đỉnh G7 tại Hiroshima đặc biệt quan tâm đến khu vực Nam Thái Bình Dương. Các động thái xâm nhập vào vùng Nam Thái Bình Dương của Trung Quốc nằm trong tổng thể chiến lược bành trướng trên biển và đất liền của nước này, trong đó có Biển Đông, với những chiến thuật tương đối giống nhau. 

Ông Nagao Satoru cho rằng không phải ngẫu nhiên mà Tổng thống Biden đã có kế hoạch thăm các lãnh đạo các đảo quốc ở Nam Thái Bình Dương, ngay sau hội nghị thượng đỉnh G7 tại Nhật Bản để bàn cách đối phó với Trung Quốc. Tuy rằng vào phút chót, ông Biden đã phải hủy chuyến thăm này, trở về Thủ đô Washington DC để giải quyết vấn đề trần nợ công với Quốc Hội Mỹ nhưng theo Tiến sĩ Nagao Satoru, lịch trình sắp xếp trước đó của Tổng thống Biden cho thấy vùng Nam Thái Bình Dương quan trọng như thế nào với Hoa Kỳ và các nước G7. Lý do là sau khi chiếm thế thượng phong ở Biển Đông, Trung Quốc đang mở rộng ảnh hưởng ở vùng biển Nam Thái Bình Dương. 

"Chiến lược chuỗi đảo" của Trung Quốc

Về lý do Trung Quốc không ngần ngại thể hiện tham vọng ở các đảo quốc Nam Thái Bình Dương, ông Nagao Satoru cho rằng có thể có hai lý do chủ yếu, một là các đảo này nhạy cảm về mặt địa quân sự với Hoa Kỳ và hai là vấn đề giữ thế mạnh ngoại giao cho Đài Loan. 

Theo ông Nagao các đảo Nam Thái Bình Dương tuy nhỏ nhưng có tầm quan trọng chiến lược và nhạy cảm. "Trong quá khứ, khi Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng ở Nam Thái Bình Dương, quan hệ của Nhật với Mỹ và Australia xấu đi, và sự bành trướng này của Nhật thời đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến Thế chiến II". 

Ngoài ra, các đảo ở Nam Thái Bình Dương và các đảo trên Biển Đông có một mối liên hệ trong chiến lược phòng thủ bằng các chuỗi đảo trên biển của Trung Quốc. Các quan niệm về chuỗi đảo này được xây dựng bởi chiến lược gia Hoa Kỳ John Foster Dulles năm 1951 trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Sau đó quan niệm này được Trung Quốc tiếp thu và phát triển. Các đảo trên Biển Đông là một phần của chuỗi đảo thứ nhất, còn các đảo ở Nam Thái Bình Dương thuộc về chuỗi đảo thứ hai và thứ ba. Tiến sĩ Nagao Satoru nhấn mạnh :

"Bây giờ, ở Trung Quốc, họ bắt đầu nói về chuỗi đảo thứ ba ở Thái Bình Dương, là tuyến phòng thủ của Trung Quốc với chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai. 

Và Mỹ đã bắt đầu lo ngại rằng các hoạt động quân sự của Trung Quốc sẽ mở rộng sang chuỗi đảo thứ ba. Nếu Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ở Nam Thái Bình Dương, Mỹ và Australia sẽ nhận thấy mối đe dọa của Trung Quốc trở nên nghiêm trọng hơn.

Ví dụ, nếu Trung Quốc thiết lập một căn cứ hải quân ở Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc sẽ dễ dàng triển khai các tàu hải quân của mình đến Hawaii, Bờ biển phía Tây của Hoa Kỳ và Úc, v.v. Mỹ và Úc cho rằng một động thái như vậy của Trung Quốc sẽ là một thách thức nghiêm trọng đối với họ".

Ngoài vấn đề phòng thủ thông qua kiểm soát các chuỗi đảo, các đảo quốc Nam Thái Bình Dương còn liên hệ mật thiết tới sức mạnh ngoại giao của Đài Loan. Tiến sĩ Nagao nói :

"Điều gì sẽ xảy ra nếu Đài Loan mất hết các mối quan hệ ngoại giao chính thức ở Nam Thái Bình Dương ? 

Những năm gần đây, Trung Quốc thuyết phục Kiribati và quần đảo Solomon ở Nam Thái Bình Dương cắt quan hệ ngoại giao chính thức với nước này và thiết lập quan hệ với Trung Quốc. 

Hiện tại, Mỹ đã bắt đầu cho rằng Trung Quốc sẽ là đối thủ quan trọng nhất đối với Mỹ. Nếu Mỹ cần đối phó với Trung Quốc, Đài Loan rất quan trọng. Nếu Trung Quốc thuyết phục thành công các quốc đảo Thái Bình Dương vốn có các quan hệ ngoại giao với Đài Loan lâu nay cắt quan hệ, Đài Loan sẽ phải đối mặt với sự cô lập ngoại giao nghiêm trọng hơn. Nếu Đài Loan có đủ hỗ trợ ngoại giao, Trung Quốc sẽ khó xâm chiếm Đài Loan hơn. Nhiều nước cho rằng nếu Đài Loan bị cô lập về ngoại giao thì trong trường hợp Trung Quốc xâm lược nước này, sẽ có ít quốc gia chỉ trích hành động xâm lược của Trung Quốc. Lập luận của những nước ủng hộ Trung Quốc sẽ là hành vi xâm lược đó không vi phạm luật pháp quốc tế nếu Đài Loan không phải là một quốc gia độc lập. Do đó, trạng thái quan hệ ngoại giao của Đài Loan là vấn đề nghiêm trọng liên quan đến cuộc xâm lược có thể có của Trung Quốc trong tương lai".

Khác Biển Đông, nơi Trung Quốc từ lâu đã chiếm đảo Hoàng Sa, cải tạo đảo và xây dựng hoàn tất cả căn cứ quân sự lớn ở Trường Sa, trở thành tay chơi chiếm thế thượng phong trong vùng biển này, tại các đảo Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc chưa hoàn toàn chiếm thế thượng phong.

Về khả năng đối phó với Trung Quốc ở khu vực Nam Thái Bình Dương, Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng ngay cả khi Trung Quốc đã mở rộng ảnh hưởng trong vùng, cũng không khó cho G7 xoay chuyển thái độ của các đảo này một lần nữa. Khác với các đảo ở Biển Đông nơi điều kiện tự nhiên vốn không thể duy trì cư dân cư trú, nhiều đảo Nam Thái Bình Dương là những quốc đảo dù quy mô của các đảo này rất nhỏ. Mỹ, Australia, Nhật Bản có thể chuẩn bị đầu tư quy mô tương đương với đầu tư của Trung Quốc. Ông cho biết :

"Đó là lý do tại sao sau hội nghị thượng đỉnh của nhóm G7 tại Hiroshima thì hội nghị thượng đỉnh QUAD diễn ra tại Sydney vào ngày 24/5/2023 sẽ tập trung vào các vấn đề Nam Thái Bình Dương. Tổng thống Biden cũng đã lên kế hoạch thăm các lãnh đạo các đảo Nam Thái Bình ngay trước hội nghị thượng đỉnh QUAD. Dù sau đó ông Biden phải hủy bỏ chuyến thăm vì vấn đề quốc nội những những động thái này sẽ có ảnh hưởng tác động để xoay chuyển tình thế. 

Vì vậy, nếu Trung Quốc tiếp tục mở rộng ảnh hưởng ở Nam Thái Bình Dương sẽ đẩy Mỹ, Australia, Nhật Bản thậm chí cả Ấn Độ vào thế bị ép quá đáng và các nước này phải ra đòn đáp trả.

Hiện Trung Quốc đã mở 8 đại sứ quán và lãnh sự quán ở các đảo Nam Thái Bình Dương (Micronesia, Kiribati, Samoa, Papua New Guinea, Solomon, Vanuatu, Fiji, Tonga). Mỹ mở 9 đại sứ quán và lãnh sự quán (Micronesia, Marshal, Kiribati, Samoa, Palau, Papua New Guinea, Solomon, Fiji, Tonga). Do đó, mặc dù Trung Quốc có lợi thế trong một số lĩnh vực, nhưng Mỹ đang đáp trả".

Tiến sĩ Nguyễn Khắc Giang ở Viện ISEAS của Singapore thì cho rằng các đảo ở Nam Thái Bình Dương quan trọng với Mỹ, nhưng đối với Úc thì còn quan trọng hơn. Do các đảo này nằm án ngữ vùng "phên dậu" của Úc. Sự xâm nhập của Trung Quốc vào vùng Nam Thái Bình Dương là lý do khiến cho Úc phải tăng cường phòng thủ, trong đó phải kể đến đại dự án tàu ngầm hạt nhân AUKUS hợp tác với Mỹ và Anh. 

So sánh về tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông với Việt Nam và các đảo trên vùng biển Nam Thái Bình Dương với Úc, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Giang cho rằng mức độ quan trọng là như nhau vì cùng nằm án ngữ "phên dậu". Nhưng về mức độ kiểm soát đối với các đảo tiền tiêu này thì Việt Nam yếu hơn Úc. Từ sau 1945, Việt Nam chưa thực sự bao giờ kiểm soát hoàn toàn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi đó, Úc luôn coi Nam Thái Bình Dương như là "sân sau". Úc đã đầu tư vào các đảo này khá nhiều, hơn nữa, mỗi khi có bạo động ở những hòn đảo như Tonga hay Papua New Guinea thì toàn Úc và New Zealand gửi quân gìn giữ hòa bình đến. 

Khi Trung Quốc tìm cách lấn vào vùng Nam Thái Bình Dương, vùng ảnh hưởng và quan trọng về mặt an ninh của Úc cũng như Mỹ, vùng này sẽ có những rủi ro nhưng cũng được hưởng lợi vì được quan tâm đầu tư nhiều hơn, theo nhận xét của Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudon Institute :

"Nhìn từ lợi ích của các quốc đảo này, họ sẽ lo lắng "khi voi đánh nhau, cỏ bị giày nát". Tuy nhiên, đồng thời, đầu tư của hai phía đang kéo đến vì ở đó có sự cạnh tranh. Và vì quy mô của các quốc đảo Nam Thái Bình Dương này, không có gì là quá muộn để Hoa Kỳ di chuyển vào khu vực. Trong tương lai gần, số lượng đại sứ quán và lãnh sự quán sẽ tăng lên và đầu tư cũng sẽ tăng lên".

Nguồn : RFA, 30/05/2023

****************************

Trung Quốc tiến hành khảo sát trong vùng EEZ của các nước ở Biển Đông và Nam Thái Bình Dương

RFA, 30/05/2023

Từ nửa đầu tháng 5/2023 trở lại đây, Trung Quốc liên tục đưa tàu khảo sát xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của các nước xung quanh Biển Đông và vùng biển Nam Thái Bình Dương cùng một lúc. 

mytrung4

Vị trí của 5 tàu khảo sát của Trung Quốc : Xiang Yang Hong 10, 14, 31, tàu Jia Geng ở Biển Đông và tàu Haiyang Dizhi 6 ở Nam Thái Bình Dương - Marine Traffic / RFA

Như RFA đã đưa tin, Trung Quốc tung tàu khảo sát Xiang Yang Hong 10 (Hướng Dương Hồng 10) xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam liên tục từ ngày 7 tháng 5 đến nay. Việt Nam điều tàu Kiểm Ngư 465 và 468 cùng tàu cảnh sát biển 7011 giám sát hiện trường. Đến hôm nay, tàu Xiang Yang Hong 10 vẫn đang khảo sát bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. 

Trong khi tàu Xiang Yang Hong 10 đang khảo sát vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, hôm 10/5/2023, một tàu khảo sát khác là Xiang Yang Hong 31 cũng tiến từ đảo Hải Nam xuống căn cứ quân sự đá Xu Bi mà Trung Quốc xây dựng ở Trường Sa, rồi từ ngày 23/5 tiến xuống đá Vành Khăn (Mischief Reef) thuộc quần đảo Trường Sa và nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines (cách đường cơ sở của nước này khoảng 120 hải lý.) Tàu Xiang Yang Hong 31 vẫn đang khảo sát ở đá Vành Khăn từ đó đến nay. 

Từ cuối tháng 4, trước khi tàu Xiang Yang Hong 10 tiến hành khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, tàu khảo sát Xiang Yang Hong 14 đã tiến đến căn cứ quân sự đá Xu Bi (Subi Reef) ở Trường Sa và di chuyển giữa đá Xu Bi và căn cứ quân sự đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef). Hôm nay, 30/5, tàu Xiang Yang Hong 14 vẫn đang ở căn cứ Xu Bi. 

mytrung5

Vị trí của tàu khảo sát Xiang Yang Hong 14 và 31 ở khu vực Trường Sa, Xiang Yang Hong 10 trong EEZ Việt Nam. Đồng thời, hiện nay tàu khảo sát Nga Akademik Oparin cũng đang hoạt động ở bãi Nam Côn Sơn trong một hợp tác giữa Việt Nam và Nga. (Ảnh : Marine Traffic / RFA)

Trong một diễn biến khác, trong khi Xiang Yang Hong 10 khảo sát vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, Trung Quốc tung tàu khảo sát khác là Jia Geng (Gia Canh) vào Biển Đông. Theo dữ liệu AIS mà RFA ghi nhận được, tàu Jia Geng xuất phát từ Macao hôm 13 tháng 5, tiến vào Biển Đông từ ngày 14, rồi đi thẳng vào vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ngày 20 tháng 5.

mytrung6

Tàu khảo sát Jia Geng khảo sát trong EEZ của Philippines, cách đường cơ sở chỉ khoảng 50 hải lý. (Ảnh : Marine Traffic / RFA)

Tàu Jia Geng đã khảo sát bên trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này đến 23 tháng 5 rồi tiến về phía nam. Trong thời gian đó, tàu Jia Geng có lúc khảo sát ở khu vực cách đường cơ sở của Philippines chỉ 50 hải lý. Hôm nay 30/5, tàu Jia Geng đi thẳng vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, khu vực đảo Ranai. Đảo Ranai có dân số hơn 20 ngàn người, là thủ phủ của quần đảo Natuna của Indonesia, có đủ điều kiện để có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng. 

Đây là lần Trung Quốc tiến hành xâm nhập và khảo sát đồng thời ở cả hai vùng biển là Biển Đông và biển Nam Thái Bình Dương cùng một lúc. Ông Raymond Powell, Giám đốc chương trình nghiên cứu Biển Đông tại Đại học Stanford, cho biết trong khi các tàu khảo sát Xiang Yang Hong 10, 14, 31 và Jia Geng xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Phillipines, Indonesia ở Biển Đông, thì Trung Quốc cũng điều tàu khảo sát Haiyang Dizhi Liuhao (Hải Dương Địa Chất Lục Hiệu, tức Hải Dương Địa Chất 6) tiến vào vùng biển Nam Thái Bình Dương, xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của đảo quốc Palau từ ngày 24 tháng 5 vào khảo sát ở đó đến nay. Có thời điểm tàu Haiyang Dizhi này khảo sát cách đường cơ sở của Palau chỉ khoảng 50 hải lý. Ông Powell cho biết "đây không phải là lần đầu tiên tàu khảo sát Trung Quốc vi phạm vùng biển của Palau". Động thái này của Trung Quốc diễn ra chỉ sau hai ngày, khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã tham dự lễ ký kết Thỏa thuận Hoa Kỳ-Palau 2023  vào ngày 22 tháng 5. Ông Raymond Powell nhận xét :

"Trung Quốc thường xuyên sử dụng các hoạt động khảo sát để khẳng định chủ quyền của mình. Tất nhiên, điều đó không áp dụng cho các cuộc khảo sát từ tuần trước ở vùng biển của Palau, vì họ không đòi hỏi chủ quyền ở vùng biển đó. Nhưng họ biết rằng Palau có rất ít khả năng phản đối các cuộc khảo sát của họ".

mytrung7

Tàu khảo sát Haizang Dizhi Liuhao đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của đảo quốc Palau ở Nam Thái Bình Dương. (Marine Traffic / RFA)

Trở lại với Biển Đông, theo dữ liệu AIS mà RFA ghi nhận được, có những thời điểm tàu Kiểm ngư của Việt Nam và tàu Hải cảnh Trung Quốc di chuyển gần nhau ở khoảng cách khoảng 300 mét đến 1.000 mét. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp ở Viện ISEAS của Singapore nhận xét về khả năng va chạm giữa hai bên trong thời gian tới, căn cứ vào những bài học trước đây và những động thái ngày càng gia tăng áp lực của Trung Quốc : 

"Hai tàu đi cách nhau 300 mét cũng chưa phải là một cái gì đó nguy hiểm. Trước đây, tàu hai bên có lúc còn phun vòi rồng và húc nhau

Có nhiều yếu tố tác động đến những chiến dịch xâm nhập EEZ Việt Nam như vậy của Trung Quốc, trong đó thời tiết là một yếu tố. Đợt xâm nhập 2019, Trung Quốc đã khảo sát EEZ Việt Nam từ tháng 7 đến 10. Từ nay đến tháng 7 là mùa biển lặng nên Trung Quốc có thể sẽ còn xâm nhập EEZ Việt Nam liên tục. Nếu hai bên không kìm chế, có thể tàu hai bên sẽ phun nước, húc nhau, dọa chĩa súng như một số lần trước".

Các nước ở Biển Đông và Nam Thái Bình Dương bị Trung Quốc xâm nhập trái phép cùng lúc nhưng không hành động cùng nhau để phản đối Trung Quốc. Mỗi nước có một cách riêng để chống lại "người khổng lồ" này. Philippines liên minh với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Palau ký kết thỏa thuận tương trợ Hoa Kỳ - Palau. Ông Raymond Powell ở Đại học Stanford nhận xét : 

"Các quốc gia trong khu vực hiếm khi cùng nhau hành động đối với các vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Điều này mang lại lợi ích cho Bắc Kinh. Trung Quốc tuyên bố công khai là họ ưu tiên cho các cuộc thảo luận song phương. Họ làm bất cứ điều gì có thể để ngăn cản những hành động tập thể trong khu vực".

Ông Raymond Powell nhận xét về cách phản ứng của Hà Nội với chiến dịch xâm nhập của Trung Quốc :

"Tôi nghĩ rằng, cho đến nay Hà Nội đã thực sự cố gắng giảm thiểu sự cố này để tránh leo thang. Chính phủ đã trì hoãn bình luận cho đến khi sự chú ý của quốc tế đạt đến mức mà tại đó họ không thể giữ im lặng một cách đáng tin cậy nữa. Ngay cả khi đó, báo chí do Nhà nước kiểm soát của Việt Nam cũng đề cập khá ít đến vấn đề này".

Nguồn : RFA, 30/05/2023

****************************

Tàu khảo sát Trung Quốc bám tại EEZ Việt Nam : Bắc Kinh muốn gì ?

RFA, 30/05/2023

Đến ngày 30/5, tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 của Trung Quốc vẫn hoạt động trong vùng biển Việt Nam.

mytrung8

Tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 vẫn hoạt động trong vùng biển Việt Nam vào ngày 30/5. Ảnh : MarineTraffic

Theo thông tin từ trang web của nhà báo, nhà nghiên cứu Biển Đông Duân Đặng, ngoài hai tàu hải cảnh 5305 và 3303, cùng một số tàu dân binh, đội hình hộ tống của tàu Hướng Dương Hồng 10 dường như được bổ sung thêm tàu Hải cảnh 4103.

Về phía Việt Nam, hai tàu kiểm ngư KN-465 và KN-469 vẫn bám sát đội hình này.

Trung Quốc muốn gì ?

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho biết theo luật quốc tế về biển thì tàu thuyền của các quốc gia khác được đi qua vùng biển của Việt Nam, nhưng phải tuân theo nguyên tắc "Đi qua không gây hại", nghĩa là không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của các quốc gia khác :

"Thế nhưng, trường hợp này nó (tàu Hướng Dương Hồng 10 - PV) không phải là đi qua mà nó đến đấy để thực hiện những hoạt động thăm dò không được phép và họ bảo rằng đó là biển của họ, thì đó là một hoạt động không còn là vô hại nữa".

Theo ông Hà Hoàng Hợp, hành động của Trung Quốc có bốn mục tiêu chính. Thứ nhất là Trung Quốc muốn quấy rầy, xâm phạm trắng trợn chủ quyền Việt Nam :

"Họ (Trung Quốc - PV) làm vậy để chứng tỏ đó cũng là vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Trung Quốc, dù là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Họ đưa các hoạt động thực địa ra để tái khẳng định cái đòi hỏi đó". 

Thứ hai, ông Hà Hoàng Hợp cho biết nếu để ý đường đi của tàu khảo sát thì "sẽ thấy rằng nó muốn phá các hoạt động khai thác dầu khí của Liên doanh Nga và Việt Nam.

Thứ ba là Trung Quốc muốn thử nghiệm một động tác mới, nằm trong tổng thể chiến thuật vùng xám của Trung Quốc :

"Cái mới ở đây là họ lần đầu tiên dùng các tàu cá có trang bị vũ trang của dân binh đi hộ tống. Từ trước đến nay chỉ có tàu hải cảnh của Trung Quốc đi kèm thôi".

Mục tiêu thứ tư, theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, là Trung Quốc liên tục sử dụng chiến thuật vùng xám thách thức Việt Nam, tuyên bố chủ quyền một cách vô lý, vô pháp của họ.

Nhận định về vụ việc lần này, giáo sư Carl Thayer, một nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam, cho biết các yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông là không có căn cứ theo luật pháp quốc tế, và trong trường hợp này là vi phạm quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng biển và tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế của mình :

"Trung Quốc dường như đang phản ứng với các hoạt động thăm dò dầu mới ở khu vực gần Bãi Tư Chính. Bằng việc cử một tàu khảo sát cùng với các tàu hộ tống, Trung Quốc đang gửi một thông điệp tới Việt Nam rằng họ không công nhận quyền tài phán của Việt Nam ở khu vực này".

Trả lời RFA qua email, ông Vũ Xuân Khang, Nghiên cứu sinh Tiến sĩ ngành An ninh quốc tế tại Đại học Boston (Boston College) cho rằng lần này, ngoài mục đích chính là khẳng định chủ quyền của họ trên biển Đông, Trung Quốc còn có một mục đích khác ít người đề cậđến :

"Đó là cho Việt Nam thấy rằng bất chấp Hà Nội đi tìm sự ủng hộ quốc tế với vấn đề Biển Đông, sẽ không có nước nào sẵn sàng đứng về phía Việt Nam và ủng hộ Việt Nam thực chất.

Mỹ, Ấn Độ, Úc, hay Nhật Bản đều có quyền lợi ca riêng họ, và không có lý do gì họ phải giúđỡ Việt Nam cả, và Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy là Việt Nam cô độc trên biển Đông và đừng nên đối đầu với Trung Quốc vô ích". 

Phá hoại hoạt động thăm dò dầu khí của Việt - Nga

Theo Reuters, tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 đã di chuyển phần lớn qua lô khí đốt 04-03, do Vietsovpetro, một liên doanh giữa Zarubezhneft và PetroVietnam, vận hành.

Nó cũng thường xuyên đi qua các lô 132 và 131 mà Việt Nam đã cấp phép cho Vietgazprom, một liên doanh giữa tậđoàn khổng lồ Gazprom của Nga và PetroVietnam. Trung Quốc đã đưa ra các hồ sơ dự thầu cạnh tranh để cấp phép cho hai lô đó.

Theo ông Hà Hoàng Hợp, việc di chuyển lại gần khu vực khai thác nêu trên cho thấy Trung Quốc muốn quấy phá hoạt động khai thác bình thường, hợp pháp của liên doanh Nga - Việt :

"Tính chất của việc làm này là rất nặng nề. Trung Quốc thấy rằng nước Nga đang gặp phải vụ rắc rối ở Ukraine cho nên họ quấy phá, họ muốn đuổi người Nga đi khỏi vùng này, nhưng mà không bao giờ có thể đuổi được Nga bởi vì Nga không có một thỏa thuận nào để rút khỏi cái vùng biển đó".

Phân tích thêm về việc Trung Quốc quấy rối trong lô dầu khí mà Nga và Việt Nam đang vận hành, giáo sư Carl cho biết, trong năm 2017 và 2018, Trung Quốc đã phản đối các hoạt động thăm dò của Repsol của Tây Ban Nha và Rosneft của Nga ở vùng biển gần Bãi Tư Chính.

Năm 2019, Trung Quốc triển khai tàu khảo sát và hộ tống đến Bãi Tư Chính để quấy rối hoạt động thăm dò dầu khí của Repsol của Tây Ban Nha. Trung Quốc được cho là đã đưa ra những lời đe dọa buộc lãnh đạo Việt Nam khi đó phải ra lệnh dừng hoạt động và trả tiền bồi thường cho Repsol.

Trong thời gian gần đây, các quan chức Chính phủ Nga đã từ chối yêu cầu của Trung Quốc là ra lệnh cho Rosneft ngừng hoạt động. Tình hình lần này khác vì Nga phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc do cuộc chiến của Putin ở Ukraine.

Trong một bức tranh lớn hơn, tậđoàn Gazprom của Nga có lợi ích từ Lô Cá Ngừ của Indonesia. Tập đoàn này có kế hoạch dẫn khí đốt đến Việt Nam bằng cách kết nối với cơ sở hạ tầng trong khu vực Bãi Tư Chính. Trung Quốc muốn gây áp lực lên cả chính quyền Hà Nội và Jakarta để làm gián đoạn các kế hoạch vừa nêu.

Trung Quốc sẽ tăng cường quấy nhiễu

Theo Giáo sư Carl Thayer, khu vực chính mà Trung Quốc muốn nhắm đến hiện nay là Biển Tây Philippines, do hợp tác quốc phòng giữa Philippines và Hoa Kỳ được tăng cường. Trung Quốc không có lợi khi kích động sự đối đầu ở vùng biển mà cả Philippines, Indonesia và Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Do đó, ông đưa ra dự báo :

"Trung Quốc có thể sẽ ưu tiên tăng cường áp lực lên Philippines. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ không bỏ mặc Việt Nam và Indonesia. Tàu Trung Quốc rất có thể sẽ quay trở lại đồng thời Trung Quốc sẽ đưa ra lời cảnh báo và áp lực ngoại giao đối với Jakarta và Hà Nội".

Ông Vũ Xuân Khang dự đoán, sắp tới, Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền mà họ tuyên bố và cho Việt Nam thấy rằng Việt Nam không có cơ hội đối đầu với Trung Quốc trên biển :

"Cần nhớ rằng Việt Nam chưa bao giờ thắng một trận hải chiến ngoài khơi với Trung Quốc, nên Trung Quốc hoàn toàn tự tin vào khả năng bắt nạt Việt Nam trên biển". 

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh sử dụng chiến thuật vùng xám và chiến thuật này sẽ leo thang đến gần giới hạn giữa vùng xám và xung đột vũ trang :

"Trong trường hợđó, Việt Nam vốn là nước đã có kinh nghiệm trong việc tiến hành các biện pháđể phòng thủ quốc gia trong bối cảnh bất cân xứng, cho nên không có gì phải sợ cả. Tất nhiên là Việt Nam không bao giờ muốn phải đánh nhau, thế nhưng mà một khi đã bị tấn công thì ta sẽ đáp trả".

Tuy nhiên, theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, hiện Việt Nam vẫn còn nhiều phương cách phi quân sự khác nhau, như là các biện pháp về đối ngoại Nhà nước, quốc phòng, đối ngoại an ninh và đối ngoại nhân dân… để ngăn chặn xung đột từ sớm.

Nguồn : RFA, 30/05/2023

Published in Diễn đàn
dimanche, 27 novembre 2022 23:32

Hòa bình chưa quay lại ở Biển Đông

Tập Cận Bình dịu giọng ở các thượng đỉnh khu vực, nhưng hòa bình chưa quay lại ở Biển Đông

Những khoảnh khắc bất ngờ của Chủ tịch Tập Cận Bình tại các hội nghị thượng đỉnh ở Đông Nam Á hồi tuần trước đã mang đến những cái nhìn hiếm hoi về nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ và sự trấn an về chính sách ngoại giao thời hậu đại dịch của ông. 

tap1

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại APEC ở Bangkok hôm 19/11/2022 - AFP

Trái ngược với thái độ cứng rắn của ông tại Đại hội lần thứ XX của Đảng cộng sản Trung Quốc (Đại hội XX) vào tháng trước, nơi ông tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư nhiệm kỳ thứ ba chưa từng có tiền lệ, Tập Cận Bình tỏ ra thân mật và hợp tác tại Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Bali và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) ở Bangkok cách đây không lâu.

Con sói đã trở thành cừu ?

Đọc Tuyên bố chung nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được thông qua ngày 11/11 vừa qua và bài phát biểu của Tập Cận Bình tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á–Thái Bình Dương (APEC) hôm 17/11 tưởng chừng như các vấn đề ở Biển Đông đã kết thúc và một kỷ nguyên hòa bình đã bắt đầu với cách tiếp cận thay đổi của Trung Quốc. 

Tuyên bố chung trên nhấn mạnh về việc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau phù hợp với luật pháp quốc tế bao gồm cả Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982. Tuyên bố cũng nhấn mạnh cam kết duy trì và thúc đẩy một môi trường có lợi để thực thi đầy đủ, hiệu quả DOC và để sớm thông qua một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất và hiệu quả, dựa trên sự đồng thuận, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982. Trong khi "cam kết duy trì, thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông đã được tái khẳng định", tuyên bố cũng nhấn mạnh rằng "các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS 1982, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), năm nguyên tắc chung sống hòa bình, và các nguyên tắc được công nhận phổ quát khác của luật pháp quốc tế sẽ đóng vai trò là những chuẩn mực cơ bản chi phối quan hệ của các quốc gia" (1). 

Tương tự, bài phát biểu của Tập Cận Bình tại APEC (ngày 17/11/2022) cũng đi theo đường hướng trên. Ông Tập đã nói về sự cần thiết phải đi theo con đường phát triển hòa bình, cởi mở và bao trùm, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của tiêu chuẩn kết nối cao hơn nữa cũng như đặt kế hoạch cho "Sáng kiến phát triển toàn cầu" (GDI) của ông nhằm giải quyết sự mất cân bằng trong phát triển (2).

Cả hai bài phát biểu trên của Tập Cận Bình đều chỉ ra rằng đã có sự thay đổi quan điểm của Chủ tịch Trung Quốc và "kỷ nguyên chèn ép, bắt nạt" sẽ chấm dứt. "Chung sống trong tình trạng hỗn loạn" ở Biển Đông sẽ được chuyển thành "chung sống trong hòa bình" mà không có sự xâm phạm nào đối với các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia khác và khu vực này sẽ được quản lý bởi luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Không có kịch bản nào tốt hơn có thể được hình dung cho Biển Đông, nơi căng thẳng đang leo thang. Một số chuyên gia nhận định rằng sau khi đảm bảo nhiệm kỳ thứ ba, Tập Cận Bình đang cố gắng quảng bá hình ảnh của mình như một chính khách có trách nhiệm và là sứ giả hòa bình.

Sói vẫn là sói cho dù đội lốt cừu

Tuy nhiên, điều này quá xa vời. Những tuyên bố như vậy cũng đã được đưa ra trước đó. So sánh hai bài phát biểu trên với Tuyên bố chung được đưa ra năm 2021 nhân dịp kỷ niệm 30 năm Đối thoại ASEAN-Trung Quốc, cho thấy rằng những đảm bảo tương tự cũng đã được đưa ra khi đó. Tập Cận Bình đã đưa ra các cam kết tương tự trong tất cả các hoạt động tiếp xúc ngoại giao. Tại APEC, ông Tập đã cố gắng quảng bá Sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI) cũng như GDI của mình. GDI là ý tưởng mới của ông Tập trong khi BRI trở nên không bền vững và lu mờ. GDI ít đem lại rắc rối, trong khi đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, cả hai đều là một phần trong "ngoại giao bẫy nợ" của Trung Quốc. 

Với việc Tập Cận Bình sử dụng sự lừa dối, ép buộc, sức mạnh kinh tế cũng như sức mạnh quân sự như những công cụ trong "nghệ thuật cai trị" để đối phó với các nước ASEAN, Tuyên bố chung được đưa ra trong năm nay và bài phát biểu tại APEC có thể được xếp vào loại bài "phát biểu nước đôi" thường thấy của Chủ tịch Trung Quốc. Tập Cận Bình là "đệ tử vĩ đại" của Tôn Tử, người đã tuyên bố rằng "tất cả chiến tranh đều dựa trên sự lừa dối". Tập Cận Bình đã nắm bắt được khía cạnh này của cuộc chiến. "Phát biểu nước đôi" của ông Tập là một phần trong chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu bằng cách giữ cho các đối thủ yên tâm về việc Trung Quốc sẵn sàng giải quyết mọi vấn đề thông qua đàm phán, trong khi thực hiện các bước nhỏ, không thu hút bất kỳ phản ứng đáng kể nào từ những nước khác nhưng những điều này sẽ tích lũy dần theo thời gian và sẽ trở thành một thách thức chiến lược nghiêm trọng. 

tap2

Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại APEC hôm 19/11/2022 ở Bangkok, Thái Lan. Hình : Reuters

COC vẫn chỉ là mộng tưởng

Thực tế là ngay cả sau 20 năm, DOC vẫn chỉ là một văn bản chính trị trên giấy và đang được Bắc Kinh sử dụng thường xuyên để nhấn mạnh rằng cần phải tạo ra một môi trường phù hợp để thực hiện nó. Nỗ lực này là để phản ánh rằng các nước ASEAN phải chịu trách nhiệm về sự chậm trễ đó. COC mặc dù có một dự thảo duy nhất nhưng vẫn chưa thể hoàn thiện. Dự thảo duy nhất chỉ chứa các quan điểm không thể dung hòa của các bên liên quan.

Bài phát biểu của ông Tập tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng cộng sản Trung Quốc (Đại hội XX) đã tiết lộ chiến lược và mục tiêu của ông ở Biển Đông, trong đó nhấn mạnh về việc sử dụng vũ lực, giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh cục bộ cũng như kế hoạch phục hưng của Trung Quốc. Phục hưng ở đây có nghĩa là giành lại tất cả các khu vực ở ngoại vi mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Mục tiêu tổng thể của Trung Quốc cần phải được theo dõi kỹ càng. Hành vi hung hăng, hoạt động xâm lấn vào EEZ của các quốc gia khác, chèn ép, bắt nạt và sử dụng sức mạnh kinh tế của Trung Quốc cho thấy ý đồ của Bắc Kinh không chỉ nhằm chiếm đóng Biển Đông, mà còn nhằm phá vỡ các yếu tố cốt lõi của trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Trong vài năm gần đây, hành vi hung hăng của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể, trong đó gồm có việc đặt giàn khoan dầu trong EEZ của các quốc gia khác, cản trở hoạt động khoan dầu của các quốc gia khác trong khu vực của họ, thường xuyên tuần tra trong khu vực "Đường 9 đoạn", tận dụng các hoạt động gây ảnh hưởng để thao túng tâm lý của các mục tiêu bao gồm giới hoạch định chính sách, thu phục các chính trị gia tham nhũng của các đối thủ bằng các biện pháp bất hợp pháp, sử dụng nguồn nước làm vũ khí, tăng cường tuyên truyền để thuyết phục các nước khác về yêu sách của Bắc Kinh.

Trung Quốc cũng thường xuyên cấm các quốc gia khác đánh bắt cá, bề ngoài là để bảo vệ môi trường biển nhưng thực chất là để từ chối hoạt động đánh bắt cá của các quốc gia khác. Trong khi đó, lực lượng dân quân Trung Quốc vẫn tiếp tục các hoạt động đánh bắt cá. Trung Quốc không chỉ tạo ra các đảo nhân tạo mà còn quân sự hóa các thực thể này cho dù họ đã đưa ra lời đảm bảo với Mỹ vào năm 2015 là "sẽ không tiến hành các hoạt động như vậy". Hỗ trợ thương mại và tài chính được lợi dụng làm mồi nhử để lôi kéo các nước ASEAN ủng hộ Trung Quốc.

Để khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông, Trung Quốc đã thành lập các đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời trao quyền cho lực lượng Hải cảnh để ngăn chặn các tàu, thuyền nước ngoài.

Ở Biển Đông, Bắc Kinh có lợi ích gấp bốn lần - thiết lập quyền kiểm soát hoàn toàn đối với "Đường 9 đoạn", bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông và Đài Loan, thiết lập quyền bá chủ bằng cách loại bỏ tầm ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực, và dần mở rộng ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã tuyên bố rằng chủ quyền của họ ở Biển Đông là không thể thương lượng. Nước này cũng cho rằng đằng sau tranh chấp Biển Đông, có sự cạnh tranh giữa Washington và Bắc Kinh. Do đó, trọng tâm của Trung Quốc là thay đổi nguyên trạng trong khu vực bằng cách thiết lập quyền bá chủ của họ.

Hiện có cảm giác rằng một khi chiếc ô an ninh của Mỹ bị loại bỏ khỏi khu vực này, các quốc gia nhỏ hơn đang tranh chấp với các yêu sách của Trung Quốc sẽ phải chấp nhận chủ quyền của nước này trong "Đường 9 đoạn". Trung Quốc coi việc quyền kiểm soát không thể tranh cãi đối với khu vực ở Biển Đông là hoàn toàn cần thiết vì các lý do chiến lược, kinh tế và thương mại.

ASEAN cần tỉnh giấc

Giờ đây, các nước ASEAN đang nhận ra sự hai mặt của Tập Cận Bình. Sau khi Malaysia đệ trình (tháng 12/2019) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) yêu cầu quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, một số công hàm ngoại giao đã được 10 quốc gia trao đổi, trong đó có Malaysia, Indonesia, Việt Nam, Philippines và Trung Quốc. Đây là các bên có yêu sách trực tiếp liên quan đến Biển Đông. Ngoài ra còn có các quốc gia khác như Australia, Pháp, Đức, Mỹ và Anh là các bên hoàn toàn không có yêu sách ở Biển Đông.

Ngoại trừ Trung Quốc, các quốc gia khác đã đề cập rằng các yêu sách về quyền và quyền tài phán ở Biển Đông phải phù hợp với UNCLOS và để hỗ trợ cho quan điểm của mình, các nước này đã viện dẫn phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) năm 2016 ở La Haye (Hà Lan). Các bên không yêu sách nêu trên cũng ủng hộ việc giải quyết tranh chấp phù hợp với UNCLOS và thi hành phán quyết PCA. Các thành viên trong nhóm Bộ tứ (Mỹ, Australia, Nhật Bản và Ấn Độ) đang thúc đẩy trật tự quốc tế dựa trên luật lệ trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và chấp nhận vai trò trung tâm của ASEAN. Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương không thể đạt được nếu không có hòa bình ở Biển Đông.

Đã đến lúc phải nhấn mạnh việc thực thi phán quyết PCA hơn là dung thứ cho cách tiếp cận dối trá của Tập Cận Bình. Các nước ASEAN phải kiên quyết thúc đẩy việc thực thi phán quyết PCA. Việc "chiều lòng" Trung Quốc sẽ chỉ làm gia tăng hành vi chèn ép từ quốc gia này. Điều này chỉ có thể khả thi nếu cộng đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ các bên yêu sách trong ASEAN theo một phương thức thống nhất. Cần phải khẳng định rõ rằng "Đường 9 đoạn" của Trung Quốc là không có giá trị và phán quyết PCA sẽ là cơ sở cho mọi khiếu nại. Càng trì hoãn lâu, cơ hội giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình sẽ ngày càng xa vời.

Trương Minh Vũ

Nguồn : RFA, 27/11/2022

Tham khảo :

1. https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/202211/t20221114_10974284.html

2. https://news.cgtn.com/news/2022-11-18/Full-text-Xi-Jinping-s-speech-at-29th-APEC-Economic-Leaders-Meeting-1f3BQ4QMbte/index.html

Published in Diễn đàn

Trung Quốc ra sức tuyên truyền

Trung Quốc lại đang ra sức thực hiện chiến dịch truyền thông, nhằm đánh lừa dư luận về vấn đề Biển Đông.

biendong1

Hình vệ tinh chụp Đá Subi do Trung Quốc chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa hôm 21/4/2017 - Reuters

Ngày 3/8, ông Ngô Sĩ Tồn (Wu Shicun) (1), Viện trưởng Viện nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông đã đăng bài một bài viết trên Khmer Times (Campuchia) với tựa đề "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là con đường tốt nhất để duy trì yên bình ở vùng biển này" (2).

Trước đó không lâu, Ngô Sĩ Tồn cũng đăng một bài trên Khmer Times, với tựa đề "DOC và Bộ quy tắc ứng xử để ngăn ngừa Biển Đông trở thành chiến trường cho các nước lớn" (3).

Trong bài viết này, Ngô Sĩ Tồn khẳng định rằng : "Do đó, cách duy nhất để tránh vấn đề nêu trên là thúc đẩy hợp tác hàng hải trong khuôn khổ DOC theo hướng thực dụng hơn, đồng thời đẩy nhanh việc xây dựng các quy tắc và cơ chế an ninh ở Biển Đông với việc tham vấn COC (Bộ quy tắc ứng xử) như một điểm khởi đầu, để đạt được hòa bình và ổn định lâu dài ở Biển Đông" (4).

Trong bài viết ngày 3/8 thì ông Ngô Sĩ Tồn cũng nói thêm : "Phương thức duy nhất để tránh những nguy cơ nêu trên là áp dụng một cách tiếp cận thực tế hơn đối với hợp tác hàng hải theo khuôn khổ tuyên bố, đồng thời đẩy nhanh hơn việc xây dựng các quy tắc và cơ chế an ninh ở Biển Đông thông qua tham vấn COC, với mục đích cuối cùng là một nền hòa bình và ổn định bền vững ở Biển Đông. Đàm phán COC là một sứ mệnh chung của Trung Quốc và 10 nước ASEAN ; việc xây dựng COC sẽ giúp ổn định mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN về lâu dài ; và sự đồng thuận về COC sẽ làm cho các bên liên quan trong vấn đề Biển Đông được hưởng lợi. Ở giai đoạn này, cần hướng tới mục tiêu tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, xây dựng sự đồng thuận và tìm kiếm điểm chung, đồng thời bảo lưu sự khác biệt trong các cuộc tham vấn về COC" (5).

Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cũng có phát biểu gần đây rằng : "Là văn kiện chính trị đầu tiên được Trung Quốc và các nước ASEAN ký kết về Biển Đông, DOC đã thiết lập các nguyên tắc cơ bản và chuẩn mực chung để các bên xử lý các vấn đề liên quan. Với hành động tuân thủ DOC trong hai thập kỷ qua, chúng ta đã cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định và đảm bảo tự do và an toàn hàng hải ở Biển Đông. Trong hai thập kỷ qua, DOC đã là nền tảng cho đối thoại và hợp tác hàng hải tích cực của chúng ta, dẫn đến những thu hoạch sớm trong nhiều lĩnh vực. Trong hai thập kỷ qua, DOC cũng là một khuôn khổ cho phép chúng ta củng cố sự tin cậy lẫn nhau về chính trị và xây dựng các mối quan hệ sôi động. Việc ký kết và thực hiện thành công DOC đã mang lại cho chúng tôi những nguồn cảm hứng quan trọng" (6).

Ai là kẻ gây rối ở Biển Đông ?

Nếu chỉ đọc hay nghe những phát biểu của giới chức và học giả Trung Quốc thì có rất nhiều người sẽ tưởng Trung Quốc luôn "yêu chuộng hòa bình", và Biển Đông căng thẳng là do ai đó, chứ đâu phải do Trung Quốc.

Vậy ai là người đã gây ra các xung đột quân sự ở đây ? Chúng ta còn chưa quên, cuộc xung đột đầu tiên đã bùng phát khi quân đội Trung Quốc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi họ đang kiểm soát Hoàng Sa hồi năm 1974. Năm 1988, một cuộc đụng độ khác đã diễn ra giữa Trung Quốc và Việt Nam trên quần đảo Trường Sa. Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa nhờ sức mạnh hải quân. Năm 1992, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng Đá Vành Khăn - một rạn san hô đã được Philippines tuyên bố là lãnh thổ của họ.

Trong báo cáo "Những động cơ của các hành vi hung hăng ở Biển Đông" được Cục Nghiên cứu Châu Á Quốc gia (National Bureau of ASEAN Research - NBR) - một cơ quan nghiên cứu không lợi nhuận của Mỹ - công bố (7), học giả Andrew Chubb của Anh đã nghiên cứu các tranh chấp hàng hải và những thay đổi trong cách hành xử của chính phủ các nước có nhiều yêu sách nhất, bao gồm Trung Quốc, Philippines và Việt Nam. Báo cáo dựa trên các số liệu ghi nhận sự thay đổi hàng năm trong cách hành xử của ba quốc gia trên từ năm 1970 đến năm 2015. Chubb xác định bốn kiểu hung hăng mà các nhà nước thể hiện khi theo đuổi các lợi ích của mình ở Biển Đông, từ những khẳng định về chủ quyền bằng lời nói thông qua các tuyên bố và công hàm ngoại giao cho đến những lời đe dọa trừng phạt và sử dụng vũ lực. Một trong những phát hiện của báo cáo là thái độ hung hăng của Trung Quốc đã liên tục gia tăng Biển Đông, theo đó, kể từ năm 1970, hầu như năm nào Trung Quốc cũng thực hiện các động thái hiếu chiến.

Thêm vào đó, những hành vi hăm dọa của Trung Quốc, hay những hành vi liên quan đến những lời đe dọa trừng phạt, đã trở nên thường xuyên hơn sau năm 2007 - năm đánh dấu sự bắt đầu của các nỗ lực bành trướng, tăng cường kiểm soát và cải tạo đất ồ ạt của Trung Quốc. Báo cáo phát hiện ra rằng các hành vi hiếu chiến này của Trung Quốc chủ yếu nhắm vào Philippines và Việt Nam, và thường không bị chi phối bởi những động cơ trong mối quan hệ Trung-Mỹ, mặc dù Mỹ - nước không có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông - đã ngày càng lớn tiếng lên án cách hành xử của Trung Quốc trong thập kỷ qua. Gần đây hơn, Mỹ còn đẩy mạnh các chiến dịch tự do hàng hải và các cuộc tập trận quân sự tại những vùng biển này.

Hiện tại, Trung Quốc tuyên bố khoảng 90% Biển Đông là lãnh thổ chủ quyền của họ. Với sứ mệnh trở thành cường quốc thế giới, Trung Quốc coi Biển Đông là cơ hội để thể hiện cam kết hướng tới mục tiêu tuyên bố chủ quyền mà họ cho rằng trong lịch sử đã từng thuộc về mình. Kể từ khi tuyên bố chủ quyền trên vùng biển này hồi năm 2009, Trung Quốc đã thể hiện cam kết sâu sắc trong việc bảo vệ khu vực này. Trung Quốc bắt đầu xây dựng đảo nhân tạo vào năm 2012, bổ sung thêm 3.200 mẫu đất cho bảy thực thể tại Trường Sa và thay đổi Đá Chữ Thập thành một hòn đảo rộng 270 mẫu Anh. Việc biến các hòn đảo này thành các căn cứ quân sự và dân sự mang lại cho chúng nhiều giá trị chiến lược.

Mượn tay các bồi bút

Không chỉ các quan chức và học giả Trung Quốc ra sức "đổi trắng thay đen" cho các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Bắc Kinh còn huy động một số bồi bút để tiếp sức với họ.

Mới đây, trên Asia Times, Mark Valencia - một bồi bút của Trung Quốc đã viết một bài công kích một bài viết của Greg Poling - Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (Asia Maritime Transparency Initiative - AMTI) của CSIS, đăng trên Foreign Policy (8).

Bài viết của Mark Valencia với tiêu đề "’Sự hiện diện lịch sử’ không biện minh cho cách hành xử của Mỹ ở Biển Đông", trong đó nhận định rằng chuyên gia Gregory Poling của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Center for Strategic and International Studies - CSIS) đã cố biện minh cho chính sách và hoạt động của Mỹ ở Biển Đông bằng cách nêu chi tiết về "khoản đầu tư" lịch sử của Mỹ ở khu vực này.

Theo Valencia, mặc dù ông Poling đã công khai thừa nhận thành kiến của mình khi nói rằng nhiệm vụ của ông là "thúc đẩy lợi ích của Mỹ", nhưng việc đưa ra phân tích thiên lệch về các vấn đề quan trọng liên quan đến chính sách của Mỹ trong khu vực này không có lợi cho chính nước Mỹ.

Cần phải nói rõ với ông Valencia rằng, các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông, đặc biệt là đối với các quyền lịch sử trên toàn bộ cái gọi là "Đường 9 đoạn", đã đe dọa cam kết hàng thế kỷ của Mỹ về tự do hàng hải. Cam kết đó đã giúp tạo nền tảng cho sự thịnh vượng và an ninh của Mỹ. Ngày nay, cam kết bảo vệ trật tự tự do hàng hải giúp ổn định thương mại quốc tế, giảm bớt căng thẳng ở trên biển và đảm bảo tiếp cận công bằng các nguồn tài nguyên. Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea - UNCLOS) là kết quả của những nỗ lực trong nhiều thập kỷ để đàm phán và hệ thống hóa các quyền tự do đó. Giống với các quốc gia khác, Trung Quốc có nhiều tiếng nói trong quá trình soạn thảo Công ước. Và hầu hết các quốc gia láng giềng của Trung Quốc cũng vậy, đó là lý do tại sao họ kiên trì "bám" vào Công ước.

Các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc không chỉ làm suy yếu Công ước mà hơn thế, chúng phá hoại nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp quốc tế : sự bình đẳng giữa các quốc gia. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc sẽ đối xử với luật pháp quốc tế theo cách họ thực thi luật trong nước - sử dụng chúng như một công cụ quyền lực nhưng không bao giờ bị ràng buộc đối với nó. Việc làm suy yếu UNCLOS mà không phải trả giá sẽ càng xác nhận điều đó.

Trung Quốc vẫn đang cố gắng thúc đẩy chiến tranh thông tin bằng cách ra sức tuyên truyền và gây nhiễu các thông tin đến dư luận quốc tế. Thế nhưng bản chất luôn là bản chất. Con sói có đội lốt cửu thì nó vẫn hiện ra những tham vọng và đe doạ của con sói. Chính vì thế, dư luận thế giới cũng chả mấy ai tin giọng điệu hòa bình giả tạo của Bắc Kinh.

Trần Lâm

Nguồn : RFA, 22/08/2022

Tham khảo :

1. https://www.khmertimeskh.com/501120973/doc-and-code-of-conduct-to-prevent-s-china-sea-becoming-a-battlefield-for-major-powers/

2. https://www.khmertimeskh.com/501124385/south-china-sea-declaration-best-path-to-keep-waters-calm/

3. https://www.khmertimeskh.com/501120973/doc-and-code-of-conduct-to-prevent-s-china-sea-becoming-a-battlefield-for-major-powers/

4. https://www.khmertimeskh.com/501120973/doc-and-code-of-conduct-to-prevent-s-china-sea-becoming-a-battlefield-for-major-powers/

5. https://www.khmertimeskh.com/501124385/south-china-sea-declaration-best-path-to-keep-waters-calm/

6. https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/wjdt_665385/zyjh_665391/202207/t20220725_10727703.html

7. https://www.nbr.org/wp-content/uploads/pdfs/publications/sr99_dynamicsofassertiveness_may2022.pdf

8. https://foreignpolicy.com/2022/08/14/the-united-states-is-deeply-invested-in-the-south-china-sea/

Published in Diễn đàn

Trung Quốc thông báo tập bắn đạn thật trong eo biển Đài Loan giữa lúc căng thẳng với Mỹ

Anh Vũ, RFI, 30/07/2022

Trung Quốc thông báo tổ chức tập trận bắn đạn thật ngày 30/07/2022 trong khu vực eo biển Đài Loan, trong bối cảnh chủ tịch Hạ Viện Mỹ Nancy Pelosi có thể sẽ tới thăm Đài Bắc trong những ngày tới.

tq1

Ảnh minh họa : Một tầu hải cảnh Đài Loan tham gia cuộc tập trận thường niên Hán Quang (Han Kuang), ngày 26/07/2022, ngoài khơi Đài Loan, trong bối cảnh căng thẳng Trung Quốc dùng vũ lực chiếm hòn đảo và khả năng chủ tịch Hạ Viện Mỹ Nancy Pelosi thăm Đài Loan. AP - Huizhong Wu

Tuy nhiên, theo AFP, cuộc tập trận diễn ra trên quy mô nhỏ ở sát bờ biển của Trung Quốc. Thông báo về cuộc tập trận có từ hôm 28/07 nhưng một ngày sau mới được truyền thông Trung Quốc đưa tin. Thông cáo cho biết cuộc tập bắn đạn thật diễn ra trong khoảng thời gian từ 8 giờ 30 đến 21 giờ, giờ địa phương ở ngoài khơi đảo Bình Đàm (Pingtan), thuộc tỉnh Phúc Kiến. Bình Đàm là hòn đảo của Trung Quốc nằm gần Đài Loan nhất. Khu vực tập bắn đạn thật lần này chỉ cách bờ biển Đài Loan 120 km.

Thông báo tập bắn đạn thật trước cửa Đài Loan được đưa ra trong bối cảnh những ngày qua, thông tin chủ tịch Hạ Viện Mỹ có thể tới thăm Đài Loan đã khiến Bắc Kinh nổi giận. Vẫn coi Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, Bắc Kinh chống lại mọi sáng kiến có thể giúp Đài Loan có được tính chính đáng quốc tế, luôn phản ứng gay gắt với các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Đài Loan và các quốc gia khác

Gần đây, nhiều quan chức Mỹ đã tới thăm Đài Loan. Nhưng Trung Quốc cho rằng chuyến thăm Đài Loan của bà chủ tịch Hạ Viện Mỹ Nancy Pelosi, nếu diễn ra, sẽ là sự khiêu khích lớn và đe dọa sẽ có "hậu quả".

Không chỉ là nhân vật quan trọng lớn thứ 3 của chính quyền Mỹ, bà Nancy Pelosi từ lâu nay là người có quan điểm chống Trung Quốc. Trong chuyến thăm Bắc Kinh hồi năm 1991, khi đó trên cương vị một dân biểu, bà Pelosi đã tới quảng trường Thiên An Môn giương biểu ngữ tưởng nhớ các nạn nhân của phong trào đòi dân chủ bị đàn áp đẫm máu trước đó hai năm trên quảng trường này. 

Chủ tịch Hạ Viện Mỹ dự kiến trong chuyến công du châu Á bắt đầu từ hôm qua 29/07, sẽ ghé thăm Đài Loan. Tuy nhiên đến giờ, bà Pelosi vẫn không khẳng định vì lý do an ninh.

Trong cuộc điện đàm với tổng thống Mỹ Joe Biden hôm 28/07, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình còn tuyên bố "những ai đùa với lửa sẽ bị bỏng" khi đề cập đến vấn đề Đài Loan. Đồng nhiệm Mỹ Joe Biden cũng đáp lại lập trường của Hoa Kỳ về vấn đề Đài Loan là không thay đổi. Washington kiên quyết chống lại các ý đồ đơn phương thay đổi nguyên trạng, đe dọa hòa bình và ổn định trong eo biển Đài Loan

Washington đã tìm cách đấu dịu căng thẳng với Bắc Kinh. Hôm qua, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken ngỏ ý hy vọng hai nước có khả năng tiếp tục xử lý các bất đồng một cách sáng suốt để sao cho không dẫn đến nguy cơ xung đột như đã làm trong hơn 40 năm qua.

Phát ngôn viên Nhà Trắng John Kirby tuyên bố Trung Quốc "không nên có những lời lẽ hiếu chiến". Ông cũng cho biết thêm ở vào thời điểm này, Hoa Kỳ không thấy có hoạt động quân sự nào đặc biệt của Bắc Kinh đối với Đài Loan.

Anh Vũ

*********************

Ý thc v him ha Trung Quc trên Bin Đông, M tìm cách đi phó

VOA, 29/07/2022

M và các nước đu lo ngi v ý đ ca Trung Quc mun đc chiếm Bin Đông, thc hin bá quyn trong khu vc, các quan chc và hc gi M lên tiếng ti mt hi tho và cho biết Washington và các đi tác đang làm vic đ chn đng tham vng này ca Trung Quc.

tq2

Hàng không mu hm USS Ronald Reagan (trước) và USS Nimitz (sau) cùng đi vào Bin Đông hi tháng By năm 2020

Hi tho thường niên v Bin Đông do Trung tâm Nghiên cu Chiến lược Quc tế (CSIS) t chc th đô Washington DC hôm 26/7 đã quy t các quan chc chính quyn M cùng các hc gi M và các nước trong khu vc n Đ Dương-Thái Bình Dương đ đánh giá v tình hình trên Bin Đông mt năm qua.

Ti hi tho, các quan chc M t c nhánh lp pháp và hành pháp đu bày t quan ngi sâu sc v cách hành x ngày càng hung hăng ca Bc Kinh mà h cho là đe da v thế ca M, làm tn hi li ích ca các nước, gây bt n cho khu vc và cho biết Washington phi quyết lit đi phó.

Mi đe da t Bc Kinh

Dân biu Rob Wittman, thành viên Cng hòa thuc y ban Quân lc H vin, nhc li vic k t năm 2018 sau khi bi đp các đo nhân to trên Bin Đông, Trung Quc đã trin khai vũ khí, xây đường băng nhm quân s hóa các đo nhân to này.

"Trung Quc không th được phép hot đng đ khng đnh ch quyn khu vc mà h không có ch quyn", ông qu quyết. "Và nếu nước M và các nước khác không phn công thì mc nhiên Trung Quc có th nói rng không có ai phn đi nên Bin Đông là thuc ch quyn ca h".

M là nước duy nht thc hin các chuyến tun tra vì t do hàng hi trên Bin Đông (FRONOP), ông ch ra và khng đnh điu này hết sc quan trng mà Washington cn tiếp tc thc hin.

Nếu không có nhng hot đng FRONOP này thì ‘đùng mt cái Bc Kinh s có th ngăn cm tàu thuyn thương mi lưu thông qua vùng bin này.

Ông nói vic đy lùi Bc Kinh trên Bin Đông có ý nghĩa đi vi tm nhìn toàn cu ca M bi vì nếu Bc Kinh đy được M ra khi Bin Đông thì h cũng có th đy M ra khi nhng nơi khác trên thế gii".

V phn mình, bà Jung Pak, phó tr lý B trưởng Ngoi giao M ph trách các vn đ Đông Á và Thái Bình Dương, lên án mnh m nhng đòi hi ch quyn ca Trung Quc trên Bin Đông mà bà cho là quá đáng và bt hp pháp.

"Nhng đòi hi ch quyn này, cùng vi các hành đng khiêu khích đ áp đt ch quyn đó góp phn gây bt n cho khu vc, gây thit hi cho nn kinh tế ca các quc gia tranh chp khác, phá hoi trt t hin ti trên bin và đe da quyn và li ích ca tt c các nước vn da vào tuyến đường bin trng yếu này", bà Pak phát biu ti hi tho.

Bà Pak ch ra nhng hành đng ngày càng mnh bo ca Bc Kinh nhm cưỡng ép, hăm da các nước tranh chp cũng như các nước đng minh ca M trong khu vc, chng hn như chn máy bay ca Úc đang bay trên không phn quc tế trên Bin Đông hay quy ri các tàu thăm dò du khí hay tàu tiếp tế ca Philippines đang hot đng trên vùng đc quyn kinh tế hay thm lc đa ca nước này.

"Nhng hành đng khiêu khích này theo sau nhng n lc mi đây ca Bc Kinh là áp dng lut trong nước đ thc hin nhng đòi hi ch quyn phi pháp, bao gm thc thi đo lut cho phép s dng vũ lc đi vi tàu thuyn nước ngoài trong mt s trường hp", bà lên án.

Trong khi đó, dân biu Wittman cnh báo v vic hi quân Trung Quc trong nhng năm qua đã tăng cường xây dng lc lượng vi tc đ k lc và mi lĩnh vc t đóng tàu trên mt nước mi nht, trang b năng lc tân tiến cho khu trc hm cho đến t đóng hàng không mu hm mi Vic nâng cp lc lượng này theo ông cho thy quyết tâm ca Trung Quc.

Theo nhn đnh ca bà Shuxian Luo, nghiên cu viên hu tiến sĩ thuc Vin Brookings, thì Bc Kinh gn đây đã t b cách tiếp cn trước gi là phn ng th đng và chuyn sang ch đng đi đu vi các nước tranh chp khác.

"Có v như là Gii phóng quân Trung quc vn lâu nay ch yếu vn ym tr cho lc lượng hi cnh nay li đóng vai trò ngày càng ch đng trong các tranh chp trên Bin Đông", bà cho biết.

Riêng vic đng đ trên không gia Trung Quc và máy bay các nước, bà Luo cho là nguy him nht vì các may bay bay trên tri chm trán nhau tc đ nhanh hơn nhiu so vi tàu chiến trên bin. Điu này cho thy mc đ Bc Kinh sn sàng chp nhn ri ro cao hơn nhiu.

Gii thích cho thái đ này ca Bc Kinh, v hc gi này cho rng trước thm Đi hi Đng Cng sn Trung Quc ln th 20 vào cui năm nay có cm giác lo s ngày càng tăng Bc Kinh rng h cn phi hành đng khn trương hơn na đ ngăn chn điu mà h cho là sc mnh và nh hưởng ngày càng tăng ca M trong khu vc.

T nhng gì bà quan sát thy trong gii hc gi Trung Quc, bà Luo cho biết h đang quan ngi v khong cách năng lc quân s gia M và Trung Quc s li được ni rng khi Washington đang tăng cường đu tư đ cng c năng lc.

Hành đng ca M

Dân biu Wittman nói Washington nâng cp lc lượng hi quân ca h không ch s lượng mà còn năng lc, công ngh tác chiến mi nht đ đm bo ưu thế trước hi quân Trung Quc.

Theo li ông thì M phi có mt lc lượng răn đe đ khi cn thiết có th tn công mt cách nhanh chóng và quyết đoán.

Tuy nhiên, ông ch ra thc trng đáng quan ngi là hin gi s tàu chiến ca M được cho ngh hưu nhiu hơn s tàu được đóng mi và vi đà này, cho đến năm 2027, hi quân M ch có 270 tàu so vi con s 460 tàu mà phía Trung Quc d đnh có cho đến năm 2030.

Không ch v s lượng tuyt đi, mà v s tàu chiến có nhng công ngh mũi nhn c tn công và phòng th, hin gi Bc Kinh có nhiu hơn s s tàu có năng lc bng hoc hơn tàu chiến M, ông cnh báo.

V dân biu cng hòa này khng đnh M ‘không th hành đng mt mình trên Bin Đông mà cn phi có s hp tác vi các nước cùng chung chí hướng. "Đó là lý do ti sao B T (gm M, Nht, n, Úc) là hết sc quan trng", ông nói.

Ông cho rng điu quan trng là Washington phi gi vng cam kết ca mình đi vi nhóm B T cũng như đm bo làm đúng nghĩa v đã ha vi các nước ASEAN v các tha thun chiến lược và kinh tế.

V các đi tác ca M trong khu vc, ông ch ra nhng nước rt quan trng đi vi chiến lược ca M là Nht Bn, Philippines và Vit Nam nhng nước có tranh chp ch quyn vi Trung Quc Bin Đông và Bin Hoa Đông.

"Chúng ta cn làm vic vi nhng nước này đ tìm hiu làm sao đ đy lùi nhng tuyên b ch quyn ca Trung Quc và làm sao đy lùi nhng hành đng him ác ca Bc Kinh", ông nói. "Chúng ta phi nói vi h rng nếu quý v tiếp tc nhng hành đng him ác như vy thì s có hu qu".

"Tôi trông đi tháp tùng phái đoàn ca Quc hi M đi thăm đo Guam, Philippines, Vit Nam và Úc vào tháng ti", ông bày t.

Trên phương din ngoi giao, bà Jung Pak nhn mnh B Ngoi giao M vào năm 2020 đã công b chính sách cp nht trong đó bác b ‘đòi hi ch quyn bt hp pháp ca Trung Quc trên Bin Đông.

Chính sách hp tác ca M vi các đi tác trong khu vc bao gm xây dng năng lc, tp hp s lên án đa phương đi vi tuyên b ch quyn bt hp pháp ca Trung Quc, thc thi ngoi giao pháp lý chuyên sâu, bày t ng h đi vi tm nhìn ca ASEAN v n Đ Dương-Thái Bình Dương, trng pht các thc th Trung Quc đe da hòa bình và an ninh khu vc và tiến hành các cuc tp trn đa phương thường xuyên đ cng c lòng tin ca các đi tác v quyết tâm ca M, bà Jung Pak nói ti hi tho.

"Ti B Ngoi giao chúng tôi đang làm vic ct lc cùng vi các đng nghip trong chính quyn cũng như các đng minh và đi tác đ đm bo rng chúng tôi đnh hình môi trường chiến lược đ giúp các nước đông nam Á lèo lái mi quan h ca h vi Bc Kinh và đy lùi hành đng ngày càng qu quyết và nguy him ca Bc Kinh trong khu vc", bà cho biết.

Mc tiêu ca M là giúp các nước có tranh chp vi Bc Kinh có công c và sc mnh đ đng lên bo v quyn t quyết và ch quyn ca mình cũng như giúp xây dng khu vc n Đ Dương-Thái Bình Dương m, t do và thnh vượng.

Bà khng đnh cam kết ca chính quyn Joe Biden đi vi khu vc và dn chng mt lot các chuyến thăm đến khu vc ca các quan chc chính quyn t phó Tng thng, các b trưởng Quc phòng, Ngoi giao, các th trưởng cũng như hi ngh thượng đnh M-ASEAN va qua mà Tng thng Biden tiếp các nhà lãnh đo đông nam Á Nhà Trng.

"Hi ngh thượng đnh ASEAN hi tháng 10 năm 2021 là ln đu tiên Tng thng M quay tr li khu vc k t năm 2017", bà Pak ch ra đ khng đnh v cam kết ca M đi vi khu vc.

Nguồn : VOA, 29/07/2022

***************************

Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan trở lại Biển Đông

Thanh Hà, RFI, 28/07/2022

Hạm Đội 7 của Hải Quân Hoa Kỳ ngày 28/07/2022 xác nhận tàu sân bay USS Ronald Reagan quay trở lại Biển Đông. Đây là lần thứ hai trong cùng một tháng, hàng không mẫu hạm Mỹ hiện diện trong khu vực. Sự kiện diễn ra vào lúc căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng trước viễn cảnh chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ công du Đài Loan và vào lúc Joe Biden-Tập Cận Bình điện đàm.

tq3

Tầu sân bay USS Ronald Reagan và tầu sân bay USS Nimitz hoạt động ở Biển Đông ngày 06/07/2020.  AP - Petty Officer 3rd Class Jason Tarleton

Sau 5 ngày dừng lại cảng Singapore, tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan đã rời căn cứ quân sự Changi hôm 26/07/2022. Trong thông cáo gửi đến hãng tin Anh Reuters, phát ngôn viên Hạm Đội 7 của Hải Quân Hoa Kỳ, Hayley Sims nói rõ : Hàng không mẫu hạm "USS Ronald Reagan và đội tàu hộ tống hướng đến Biển Đông sau chặng dừng tham quan cảng Singapore".

Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ghi nhận lộ trình của USS Ronald Reagan được dự trù "đi qua eo biển Đài Loan", nhưng phát ngôn viên Hạm Đội 7 của Hải Quân Hoa Kỳ từ chối xác nhận tin này, chỉ ghi nhận là tàu sân bay Mỹ "tiếp tục các hoạt động bình thường đã dự kiến trong khuôn khổ chương trình tuần tra bảo vệ một vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và rộng mở".

Chuyên gia về các vấn đề an ninh tại Châu Á, Ian Storey, thuộc viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak, Singapore, được Reuters trích dẫn, dự báo Bắc Kinh sẽ cho các đội tàu theo dõi sát hoạt động của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan. Theo ông, thường các hoạt động tương tác của tàu hai bên đều "chuyên nghiệp và an toàn", nhưng vẫn có nguy cơ các tàu đó đến gần nhau quá, gây nên xung đột.

Đây là lần thứ hai trong cùng tháng, tàu sân bay Mỹ hoạt động tại Biển Đông. Lần trước là vào ngày 13/07/2022. Giới quan sát ghi nhận hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ trở lại Biển Đông tuần này đúng vào thời điểm Bắc Kinh một lần nữa cảnh cáo Hoa Kỳ về những hậu quả nghiêm trọng nếu như chủ tịch Hạ Viện Mỹ, Nancy Pelosi giữ nguyên kế hoạch công du Đài Loan vào tháng 8. Bà Pelosi chưa ra thông cáo chính thức về ý định có duy trì chuyến đi Đài Bắc hay không, cho dù tổng thống Biden từng cho rằng đây không phải là thời điểm "thuận lợi". Theo ông, kế hoạch đến Đài Bắc của bà Pelosi gây "lo ngại" cho bên quân đội Hoa Kỳ.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin hôm 27/07/2022 cho biết ông đã trao đổi và cung cấp thông tin về chủ đề này với chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ. 

Thông tin tàu sân bay USS Ronald Reagan trở lại Biển Đông từ đầu tuần được đưa ra vào lúc tổng thống Mỹ Joe Biden và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình điện đàm vào lúc 8 giờ 30 sáng, giờ Washington hôm nay (12 giờ 30 giờ quốc tế). Đài Loan là một trong những hồ sơ sẽ được lãnh đạo hai nước thảo luận.

Thanh Hà

**********************

M cáo buc Trung Quc gia tăng các hành đng khiêu khích Bin Đông

Reuters, VOA, 26/07/2022

Hoa Kỳ hôm th Ba 26/7 cáo buc Trung Quc gia tăng "các hành đng khiêu khích" đi vi các bên có tranh chp lãnh th Bin Đông và các quc gia khác hot đng đó.

tq4

Bà Jung H. Pak (nh tư liu)

"Các hành đng khiêu khích ca Cng hòa Nhân dân Trung Hoa th hin mt xu hướng rõ ràng và ngày càng tăng lên đi vi các bên có tranh chp Bin Đông và các quc gia khác hot đng hp pháp trong khu vc", bà Jung Pak, Phó Tr lý Ngoi trưởng chuyên trách Đông Á ti B Ngoi giao Hoa Kỳ, nói ti mt cuc tho lun ca mt t chc nghiên cu M.

Bà Jung Pak phát biu vi Trung tâm Nghiên cu Chiến lược và Quc tế rng máy bay Trung Quc ngày càng thc hin nhiu cuc nghênh chn không an toàn đi vi máy bay Australia trong không phn quc tế phía trên Bin Đông, và trong 3 v vic riêng r khác trong vài tháng qua, phía Trung Quc đã cn tr các hot đng nghiên cu bin và thăm dò năng lượng trong phm vi vùng đc quyn kinh tế ca Philippines.

(Reuters)

Published in Châu Á

‘Các hành đng khiêu khích’ ca Trung Quc Bin Đông có nguy cơ xy ra s c ln

Reuters, VOA, 27/07/2022

Hôm 26/7, Hoa Kỳ cáo buc Trung Quc gia tăng "khiêu khích" chng li các bên tranh chp Bin Đông và nói rng "hành vi gây hn và vô trách nhim" ca Bc Kinh cho thy s đến lúc xy ra mt s c hoc tai nn ln, theo Reuters.

park1

Bà Jung Pak, Phó tr lý Ngoi trưởng ph trách Đông Á thuc B Ngoi giao Hoa K.

Bà Jung Pak, Phó tr lý Ngoi trưởng ph trách Đông Á ti B Ngoi giao M, phát biu ti mt vin nghiên cu ca Hoa K rng có "xu hướng rõ ràng và gia tăng trong các hành đng khiêu khích ca Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chng li các bên tranh chp Bin Đông và các quc gia khác hot đng hp pháp trong khu vc".

Bà nói ti Trung tâm Nghiên cu Chiến lược và Quc tế (CSIS) rng các máy bay ca Trung Quc ngày càng tham gia nhiu hơn vào các v nghênh chn không an toàn máy bay ca Úc trong không phn quc tế phía trên Bin Đông và trong ba s c riêng bit trong vài tháng qua đã thách thc các hot đng nghiên cu bin và thăm dò năng lượng trong phm vi vùng đc quyn kinh tế ca Philippines.

park2

Ông Ely Ratner, Tr lý B trưởng Quc phòng ph trách các vn đ An ninh n Đ Dương - Thái Bình Dương.

Phát biu sau đó ti cùng s kin này, ông Ely Ratner, tr lý B trưởng Quc phòng ph trách các vn đ An ninh n Đ Dương - Thái Bình Dương, cho biết đã có "my chc" v vic xy ra trong na đu năm qua liên quan đến quân đi Trung Quc Bin Đông, tăng mnh trong 5 năm qua.

Ông Ratner nói : "Bc Kinh đang th nghim mt cách có h thng các gii hn ca quyết tâm tp th ca chúng ta".

"Theo quan đim ca tôi, hành vi hung hăng và vô trách nhim này th hin mt trong nhng mi đe da đáng k nht đi vi hòa bình và n đnh trong khu vc hin nay, bao gm c Bin Đông. Và nếu Quân đi Gii phóng Nhân dân Trung Quc (PLA) tiếp tc loi hành vi này, kh năng xy ra mt s c hoc tai nn ln trong khu vc ch là vn đ thi gian", ông nói.

Bà Pak nói rng Washington có "mi quan h rt phc tp vi Bc Kinh" và không c gng chng li mi th mà h đang làm Đông Nam Á và phn còn li ca thế gii đang phát trin.

Bà nói : "Chúng tôi mun đm bo rng các quc gia, khi h có mi quan h vi Bc Kinh, s có các công c và sc mnh, và kh năng đng lên giành quyn t ch và ra quyết đnh v ch quyn ca h".

Người phát ngôn B Ngoi giao Trung Quc Triu Lp Kiên cho biết bình lun ca bà Pak là s o ngược hoàn toàn, đi trng thay đen" vì Trung Quc và các nước khác trong khi ASEAN cam kết duy trì hòa bình Bin Đông.

Ông Triu nói ti mt cuc hp báo rng "mt s cường quc riêng l", nhưng không nêu c th nước nào, là "mi đe da thc s" đi vi hòa bình khu vc bng cách c sc duy trì "quyn bá ch" thông qua vic xây dng lc lượng quân s.

Theo Reuters

*************************

Quân đội Mỹ chuẩn bị phương án bảo vệ chuyến đi Đài Loan của chủ tịch Hạ Viện

Trọng Thành, RFI, 27/07/2022

Căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng với dự định của chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi đến thăm Đài Loan. Ngày 27/07/2022, Bộ Ngoại giao Trung Quốc một lần nữa tuyên bố "sẵn sàng đáp trả mạnh mẽ", nếu chuyến đi diễn ra. Theo nhiều nguồn tin, Lầu Năm Góc sẵn sàng các phương án để bảo vệ chuyến đi.

park3

Chủ tịch Hạ Viện Mỹ, Nancy Pelosi, phát biểu hôm 21/07/2022 tại Washington, Hoa Kỳ. AP - J. Scott Applewhite

Hãng tin Mỹ AP dẫn lời một số quan chức Hoa Kỳ xin ẩn danh hôm 26/07/2022 cho biết, nếu bà Pelosi đi Đài Loan, chắc chắc quân đội Mỹ sẽ điều động lực lượng tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương để bảo vệ an ninh trong thời gian chuyến bay, cũng như những ngày bà Pelosi viếng thăm Đài Loan. Theo các quan chức nói trên, rất có thể quân đội sẽ thiết lập một vùng đệm xung quanh chuyến phi cơ của chủ tịch Hạ Viện Mỹ

Hôm nay, khi được hỏi về vấn đề này, tướng Mark Milley, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ cũng xác nhận, tuy hiện tại còn sớm để đưa ra thông tin cụ thể, nhưng nếu chuyến đi diễn ra, quân đội Mỹ sẽ "có biện pháp bảo vệ".

Cho đến nay, chưa có chuyến đi nào của giới chức cao cấp Hoa Kỳ lại cần đến các biện pháp an ninh bổ sung như trên. Tuy nhiên, bối cảnh hiện tại rất khác. Theo chuyên gia Mark Cozad, quyền phó giám đốc Trung tâm Chính sách Quốc phòng và An ninh Quốc tế của công ty tư vấn quân sự Mỹ Rand Corp, không loại trừ có thể xảy ra "một vụ va chạm trên không, có thể là một cuộc thử nghiệm tên lửa nào đó", và như vậy, "luôn có khả năng xảy ra sự cố". 

Đầu tuần này, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ cũng cho biết quân đội Trung Quốc đã trở nên "hung hãn và nguy hiểm hơn nhiều", số lượng các vụ tiếp xúc không an toàn trên không và trên biển cũng gia tăng trong thời gian gần đây.

Hồi tuần trước, khi thông tin về chuyến đi dự kiến của bà Pelosi được tung ra, Nhà Trắng đã cho biết quân đội Hoa Kỳ lo ngại và không muốn một chuyến đi như vậy "diễn ra lúc này".

Chính bà Pelosi cũng nói đến việc quân đội sợ Trung Quốc liều lĩnh bắn hạ máy bay. Hiện tại, bà Pelosi chưa đưa ra thông báo chính thức về chuyến đi Đài Loan.

Biden-Tập có thể đối thoại ngày 28/07 

Hãng tin Anh Reuters dẫn một nguồn tin gần gũi với hồ sơ này, cho biết tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có kế hoạch đối thoại trực tuyến vào ngày 28/07/2022. Đây sẽ là lần thứ 5 hai lãnh đạo Mỹ - Trung hội đàm kể từ đầu nhiệm kỳ của ông Biden và là lần đầu tiên kể từ bốn tháng nay, tức từ đầu cuộc xâm lăng của Nga tại Ukraine. Cuộc xâm lăng Ukraine sẽ là chủ đề chính của đối thoại.

Trả lời báo giới hôm qua, điều phối viên truyền thông chiến lược của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ John Kirby cho biết các cạnh tranh về kinh tế giữa hai quốc gia cũng sẽ là một nội dung chính của cuộc hội đàm.

Trọng Thành

***********************

Tổng thống Đài Loan thị sát cuộc tập trận đẩy lùi xâm lược Trung Quốc

Thu Hằng, RFI, 27/07/2022

Đài Loan tổ chức cuộc tập trận hàng năm quy mô lớn trong vòng năm ngày, từ ngày 25/07/2022. Đích thân tổng thống Thái Anh Văn thị sát một phần cuộc tập trận từ một tầu khu trục có tên lửa dẫn đường đóng vai trò soái hạm của hạm đội.

park4

Ảnh do Văn phòng tổng thống Đài Loan cung cấp : Tổng thống Thái Anh Văn (giữa) chụp hình với lính hải quân Đài Loan khi thị sát cuộc tập trận Hán Quang ngày 26/07/2022. AP - Shioro Lee

Trong ngày tập trận thứ hai, không quân và hải quân Đài Loan bắn đạn thật ở Thái Bình Dương, ngoài khơi cảng quân sự ở huyện Nghi Lan (Yilan, đông bắc Đài Loan) với kịch bản chống các cuộc tấn công trên không và trên biển của Trung Quốc. Theo đài truyền hình Nhật NHK, lực lượng hải cảnh Đài Loan cũng tham gia tập trận và sẽ được đặt dưới sự chỉ huy của hải quân nếu xảy ra xung đột.

Trước đó, ngày đầu của đợt tập trận dành cho việc ngăn chặn kẻ thù tiến vào thủ đô Đài Bắc. Người dân được kêu gọi ở nhà trong nhiều giờ, quân dự bị được trang bị súng trường tập dượt trong các chiến hào theo kiểu "chiến tranh đô thị ở Ukraine". Thậm chí, nhiều tên lửa Stinger chống máy bay ở tầm thấp cũng được triển khai ở nhiều tòa nhà cao tầng trong vùng. Cùng lúc, nhiều khu phố tại các thành phố khác ở phía bắc cũng bị phong tỏa khoảng 30 phút trong khuôn khổ tập sơ tán vì không kích.

Theo bộ Quốc Phòng Đài Loan, được AFP trích dẫn, cuộc tập trận Hán Quang ( Han Kuang ) 2022 gồm cả những bài học từ chiến tranh Ukraine, mô phỏng "mọi hành động có thể" được Trung Quốc tiến hành để tấn công Đài Loan.

Phản ứng về đợt tập trận nói trên, Trung Quốc tái khẳng định không để Đài Loan độc lập. Họp báo ngày 26/07, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên đe dọa Đài Bắc đừng ảo tưởng có thể đối đầu quân sự với Trung Quốc và mọi ý đồ sẽ bị thất bại.

Quan hệ giữa Đài Bắc và Bắc Kinh trở nên căng thẳng hơn từ khi bà Thái Anh Văn được bầu làm tổng thống năm 2016. Bắc Kinh luôn coi Đài Loan là một tỉnh không thể tách rời. Lãnh thổ Trung Quốc. Theo giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) Bill Burns, dường như Trung Quốc kiên quyết dùng vũ lực đối với Đài Loan. Kinh nghiệm từ việc Nga tấn công Ukraine chỉ ảnh hưởng đến tính toán của Bắc Kinh về thời điểm và phương thức, chứ không phải về khả năng tấn công Đài Loan.

Trung Quốc đã gia tăng các vụ xâm phạm vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan. Chỉ từ đầu năm 2022 đến nay đã có hơn 600 vụ, trong khi cả năm 2021 có 969 vụ.

Thu Hằng

Published in Châu Á