Các cuộc tập trận của Trung Quốc ở Biển Đông vào tháng trước, và phản ứng mạnh mẽ của Mỹ, cho thấy những vùng biển tranh chấp này sẽ không sớm lắng dịu. Nếu các cuộc diễn tập quân sự là chủ yếu thì việc tranh chấp về các vị trí pháp lý cũng đang nông dần lên. Năm ngoái, cả Mỹ và Úc đều chọc giận Trung Quốc khi chính thức tuyên bố những yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông là bất hợp pháp. Các đối tượng tranh chấp khác đều hài lòng với sự thay đổi trong chính sách này, nhưng không ai công khai lên tiếng.
Tàu cá Trung Quốc (màu trắng phía xa) cập bến trước khi mạo hiểm vào Biển Đông (Artyom Ivanov / TASS qua
Tuy nhiên, vấn đề không phải là Trung Quốc đang ngang nhiên vi phạm luật pháp quốc tế - mà là họ cùng lúc tạo ra một vỏ bọc hợp pháp cho lập trường của mình.
Sự khôn ngoan thường tình là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với " hầu hết các hòn đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận của chúng ". Các tuyên bố của họ "cực đoan" và bao quát hơn so với tuyên bố của bất kỳ đối thủ nào khác. Năm 2009, Dai Bingguo, khi đó là quan chức hàng đầu của Trung Quốc, lần đầu tiên gọi Biển Đông là "lợi ích cốt lõi", một thuật ngữ thường được sử dụng cho Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Mặc dù Trung Quốc không nói cụ thể về mức độ yêu sách của mình, nhưng họ sử dụng "đường chín đoạn", "vạch xuống, đi qua Việt Nam và Philippines, rồi hướng về Indonesia, bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông", để phân định các yêu sách của mình.
Thoạt nhìn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ như đang dựa vào một lập luận lịch sử để củng cố các tuyên bố của họ - Trung Quốc đề cập đến sự giao tiếp của họ với Biển Đông từ thời Tây Hán. Do đó, câu chuyện về các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh bắt đầu từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, khi người Trung Quốc đi thuyền trên Biển Đông và khám phá ra một số đặc điểm trên đất liền trong khu vực.
Phô trương lực lượng : Sàn bay trên hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt cùng Nhóm tàu tấn công chiến lược hàng không mẫu hạm Nimitz (chấm nhỏ phía xa) của Hải quân Hoa Kỳ trên Biển Đông ngày 9/2/2021 (Ảnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ / Flickr)
Các nhà nghiên cứu đã liệt kê tỉ mỉ tính chất đáng ngờ của lịch sử này. Ngoài ra, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) không cho các bên ký kết quyền đưa ra yêu sách dựa trên di sản lịch sử, và khái niệm "yêu sách lịch sử" thiếu cơ sở rõ ràng trong luật pháp quốc tế.
Nhưng thực ra, đây không phải là cách Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với 90% Biển Đông. Việc Trung Quốc lạm dụng và áp dụng sai luật pháp quốc tế phức tạp hơn một chút. Có bốn cấp độ được xây dựng dựa vào nhau.
Thứ nhất, Trung Quốc tuyên bố họ có các quyền tương tự các quốc gia quần đảo, những quốc gia này chủ yếu được tạo thành từ các hòn đảo. Một trong những lợi thế của quy chế quần đảo là vùng nước giữa các đảo được coi là nội thủy, giống như các con sông bên trong một quốc gia. Các quốc gia khác không có quyền quá cảnh các vùng biển này nếu không được phép. Quy chế quần đảo được Liên Hiệp Quốc thông qua và chỉ có 22 quốc gia tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc không phải là một trong số những quốc gia đó.
Trung Quốc không thể phủ nhận mình là một quốc gia lục địa. Tuy vậy, họ vẫn vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh quần đảo Hoàng Sa và tuyên bố vùng biển giữa các hòn đảo là nội thủy. Bắc Kinh không công khai điều này đối với khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng phản ứng của họ trước các hoạt động của các nước khác cho thấy đó là cách diễn giải của họ. Các cuộc thảo luận của tôi với các chiến lược gia Trung Quốc cho thấy Trung Quốc có thể sẽ vạch rõ các đường cơ sở để tuyên bố chủ quyền vùng nội thủy giữa quần đảo Trường Sa, một khi họ có đủ khả năng quân sự để thực hiện. (Đây không phải là việc dễ dàng, vì vùng biển của Trường Sa có diện tích gấp 12 lần Hoàng Sa, bao gồm 160.000 đến 180.000 km vuông nước).
Sau đó, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đường cơ sở Hoàng Sa, không phải từ các đảo riêng lẻ, và ở Trường Sa, từ nhiều địa điểm mà theo luật pháp quốc tế không được hưởng quyền này, chẳng hạn như các đảo nhân tạo. Ngoài ra, cách giải thích của Trung Quốc về lãnh hải là nhà nước có độc quyền đưa ra, áp dụng và thực thi luật pháp của mình trong không gian đó và nước ngoài không thể can thiệp.
Nhưng theo UNCLOS, tất cả các tàu, dân sự hay quân sự, có quyền thoải mái đi qua lãnh hải của các quốc gia khác. Hơn nữa, vùng tiếp giáp được coi là một phần của vùng biển quốc tế, và các quốc gia không có quyền giới hạn hàng hải hay tiến hành kiểm soát vì mục đích an ninh.
Cuối cùng, Trung Quốc tuyên bố 200 hải lý tính từ cuối lãnh hải là vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, nơi họ có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự.
Bản đồ hiển thị vị trí các căn cứ của Trung Quốc ở Hải Nam và cơ sở hạ tầng các bãi đá chiếm bất hợp pháp ở Biển Đông.
Mỹ khẳng định rằng, tự do hàng hải của các tàu quân sự là một thông lệ được thiết lập và chấp nhận trên toàn cầu, được quy định trong luật pháp quốc tế. Nói khác, các quốc gia không có quyền hạn chế hàng hải hoặc thực hiện bất kỳ sự kiểm soát nào vì mục đích an ninh trong các vùng đặc quyền kinh tế.
Úc chia sẻ quan điểm này, nhưng không phải tất cả các nước đều chấp nhận cách hiểu này. Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Malaysia, Maldives, Oman và Việt Nam đồng ý với Trung Quốc rằng, tàu chiến không có quyền tự động vô tư đi lại trong lãnh hải của họ. 20 quốc gia đang phát triển khác (gồm cả Brazil, Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam) nhấn mạnh rằng, các hoạt động quân sự của một quốc gia, như giám sát và do thám, trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác là vi phạm lợi ích an ninh của các quốc gia ven biển, và do đó không được bảo vệ theo quyền tự do hàng hải.
Nói cách khác, trong khi luật pháp quốc tế có thể ủng hộ quan điểm của Hoa Kỳ và Úc về hành vi pháp lý trong các vùng đặc quyền kinh tế, các nước cần phải nỗ lực hơn nữa để củng cố rộng hơn quy phạm này.
Chỉ tính riêng 3 vị trí nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền khoảng 80% Biển Đông. Sau đó, Trung Quốc sử dụng đường chín đoạn để nuốt trọn phần lãnh thổ còn lại bằng cách tuyên bố "vùng nước lịch sử"một lần nữa - tức là Trung Quốc đã kiểm soát môi trường biển này trong lịch sử -, một quan điểm vốn không có cơ sở trong luật pháp quốc tế.
Theo Trung Quốc
- Vùng nước giữa các đảo và các đối tượng địa lý được coi là vùng nội thủy ; việc quá cảnh thương mại phải có sự cho phép của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (đã tuyên bố rõ ràng về Hoàng Sa).
- Lãnh hải 12 hải lý tính từ chu vi ngoài của các nhóm đảo ; đảo nhân tạo và hầu hết các đối tượng địa lý đều có lãnh hải.
- Có thể điều chỉnh hoạt động quân sự trong EEZ.
- Yêu sách các quyền đối với "vùng nước lịch sử" trong đường chín đoạn ; Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vẫn chưa làm rõ đầy đủ vị trí.
Theo luật pháp quốc tế
- Chỉ rất ít quốc đảo được coi là quần đảo và có quyền coi các đảo như một nhóm ; không áp dụng cho các đảo SCS (South China Sea islands) đang tranh chấp.
- Lãnh hải được đo từ từng đối tượng địa lý đã được công nhận hợp pháp ; hầu hết các tính năng mà Cộng hòa nhân dân Trung Hoa yêu sách không đáp ứng tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế.
- Chỉ có thể điều chỉnh hoạt động kinh tế ở đó.
- "Vùng nước lịch sử" có ý nghĩa là không rõ ràng, không có cơ sở pháp lý, không có quyền.
Mỹ đã thực hiện các bước để thách thức cơ sở pháp lý sai lầm trong các tuyên bố của Trung Quốc. Đây là mục đích chính đằng sau các hoạt động tự do hàng hải hay còn gọi là FONOPS. Thông qua hành động, Mỹ cho thấy họ không chấp nhận quan điểm của Trung Quốc khi quốc gia này tuyên bố các khu vực không phải là vùng biển quốc tế mà là vùng nội thủy hoặc lãnh hải. Trong các trường hợp khác, Mỹ đưa ra tín hiệu không chấp nhận một khu vực nằm trong EEZ của Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc không có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự ở đó.
Nhưng việc chống phá các tuyên bố pháp lý sai lầm của Trung Quốc đòi hỏi nhiều hơn các hoạt động quân sự và những tuyên bố gay gắt. Năm 2016, Tòa án La Haye đã phán quyết rằng, yêu sách về các quyền lịch sử ở Biển Đông của Trung Quốc thiếu cơ sở pháp lý, các hành động của Trung Quốc trong khu vực vi phạm quyền của Philippines và các đối tượng ở Trường Sa không được hưởng các đặc quyền kinh tế hoặc vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, việc Washington liên tục từ chối phê chuẩn UNCLOS khiến hiệu quả chung trong việc đẩy lùi Bắc Kinh bằng công cụ pháp lý của chính phủ bị suy yếu. Ngoài ra, Washington đã lãng phí cơ hội giúp Philippines thực thi phán quyết năm 2016 của Tòa án Quốc tế theo hướng có lợi cho mình, khiến việc thách thức Bắc Kinh trên cơ sở pháp lý đối với các nguyên đơn khác càng kém sức hấp dẫn.
Mỹ không nên phạm sai lầm tương tự hai lần. Họ nên hỗ trợ các nguyên đơn có thể đang muốn khởi kiện Trung Quốc (Việt Nam hiện đang xem xét việc này). Sau đó, khi tòa án đưa ra phán quyết mới chống lại Trung Quốc, Mỹ nên dẫn đầu trách nhiệm thực thi phán quyết.
Trung Quốc đang sử dụng tất cả các công cụ của chính phủ để giành quyền kiểm soát tuyến đường thủy chiến lược quan trọng này. Mỹ và các đồng minh cũng nên làm như vậy.
Oriana Skylar Mastro
Nguyên tác : How China is bending the rules in the South China Sea, The Interpreter, 17/02/2021
Hoàng Thủy Ngữ chuyển ngữ
(19/02/2021)
Tác giả Johannes L. Kurz đã có bài phân tích "Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và cách biến thành lãnh thổ Trung Quốc một cách lịch sử vào năm 1975", được đăng trên ấn phẩm Tập 3 có tiêu đề "Quan điểm Xuyên văn hóa về Trung Quốc Hiện đại" do Barbara Mittler và Natascha Gentz biên soạn, của Tạp chí "Trung Quốc và Thế giới – Thế giới và Trung Quốc".
Bài viết phân tích và phản biện các quan điểm nêu trong một những tài liệu sớm nhất của Trung Quốc khẳng định quan điểm chính thức về chủ quyền của họ đối với quần đảo ở Biển Đông do tác giả "Shi Dizu" xuất bản năm 1975 là những bằng chứng lịch sử không đáng thuyết phục và không thể sử dụng được trong việc bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển này. Nghiencuubiendong xin đăng tải lược dịch bài viết của Johannes L. Kurz
Đảo Itu Aba (Ba Bình) thuộc quyền quản lý của Đài Loan - Ảnh minh họa
"Biển Nam Trung Hoa và cách biến thành lãnh thổ Trung Quốc một cách lịch sử vào năm 1975
Giới thiệu
Sau khi Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát quần đảo Tây Sa (hay theo cách gọi của Việt Nam là Hoàng Sa) vào tháng 1 năm 1974, ngay lập tức vào tháng 3 và tháng 4 cùng năm, Bảo tàng Quảng Đông và Cục Văn Hóa Đặc khu hành chính Hải Nam đã cho các nhà nghiên cứu đến khảo sát khu vực này. Họ đã tìm thấy một số bằng chứng cổ vật như đồng xu, đồ gốm sứ Trung Quốc, và nhật ký hải trình của ngư dân Hải Nam ; và dựa vào đó cho rằng "Quần đảo Hoàng Sa từ xa xưa đã là lãnh thổ linh thiêng của Trung Quốc".
Sau các cuộc khảo sát đó, trên báo chí của Hồng Kông cũng đã xuất hiện ba bài viết khẳng định lại các yêu sách lịch sử của Trung Quốc. Hai bài viết đầu muốn khẳng định sự chiếm hữu liên tục của Trung Quốc tại các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa sẽ biến các quần đảo này thành lãnh thổ của Trung Quốc. Bài thứ ba tập trung vào lịch sử thế kỷ 19-20 để lập luận rằng quần đảo Hoàng Sa từ lâu đã thuộc về Trung Quốc. Sự kiện Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa có thể chính là động lực cho các tác giả viết những bài đó.
Biển Đông trong các tài liệu cận đại : Bài viết của "Shi Dizu" năm 1975
Vào năm 1956, Shao Xunzheng (Thiệu Tuần Chính), nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Lịch sử số 3 của Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc, đã giải thích trên tờ Nhân dân nhật báo rằng các thiết chế trên biển xuất hiện trong các tài liệu cận đại của Trung Quốc chính là các nhóm đảo ở biển Biển Đông. Qua điều tra các tài liệu lịch sử, Shao đã cho thấy Trung Quốc đã biết về quần đảo Hoàng Sa kể từ năm 1292 đến thời hiện đại. Quần đảo Hoàng Sa đã được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau qua các thời kỳ.
Gần 20 năm sau, vào năm 1975, bài viết của "Shi Dizu" (là bút danh của 1 nhóm thành viên thuộc Nhóm nghiên cứu Địa lý Lịch sử nằm trong Viện Địa lý Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc) đã cung cấp bằng chứng "mang tính lịch sử hơn" về quyền lực của Trung Quốc ở biển Biển Đông, nhằm bác bỏ phản đối của chính quyền miền Nam Việt Nam về hiện diện của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa. Bài viết lập luận đanh thép rằng Trung Quốc từ trước đến nay vẫn luôn có thẩm quyền không thể chối cãi được đối với các khu vực yêu sách của mình. Số lượng khu vực yêu sách và tài liệu được sử dụng cũng nhiều hơn trước. Về nguyên do, vào năm 1975, Trung Quốc tự tin rằng sự chiếm đóng thực tế của mình không thể bị thách thức bằng quân sự. Hơn nữa, việc sử dụng yêu sách lịch sử đồng nghĩa với việc các quốc gia Đông Nam Á không thể thách thức được Trung Quốc, vì bản thân các quốc gia này cũng không có đủ bằng chứng. Các bộ quy tắc chung về biển (như UNCLOS 1982) lúc này vẫn chưa được hình thành.
Những tài liệu "Shi Dizu" sử dụng đều nhằm ủng hộ phỏng đoán rằng Trung Quốc đã biết về các đảo ở biển Biển Đông hơn một nghìn năm, và được các học giả Trung Quốc trích dẫn lại thường xuyên. Tuy nhiên "Shi Dizu" nhìn chung chỉ tổng hợp việc đặt tên sớm các đảo và các hành động khai phá, chăn nuôi qua các thời kỳ, chứ không đưa ra bằng chứng. Đôi lúc cũng có tài liệu lịch sử được trích lại, nhưng không ghi rõ nguồn ở đâu. Ngay cả những thiết chế quan trọng trong yêu sách của Trung Quốc ở biển Biển Đông cũng theo nguyên tắc "đã được đặt tên rồi thì coi như là của mình". Những nguồn mà "Shi Dizu" tham khảo bao gồm các bản ghi chép chính thức và không chính thức, bản đồ, ghi chép, và cả báo chí.
Trung Quốc khẳng định quan điểm chính thức về chủ quyền của họ đối với quần đảo ở Biển Đông - Dân quân biển từ đảo Hải Nam ra quân tràn xuống Biển Đông - Ảnh minh họa
Nguồn tài liệu mà "Shi Dizu" dựa vào để củng cố yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông
Để minh chứng cho việc chính quyền Trung Quốc trước đây có quản lý hành chính đối với các đảo ở Biển Đông, cuốn "Shi Dizu" dựa vào nhiều nguồn tài liệu từ Trung Hoa cổ nhằm củng cố cho ba lập luận chính bao gồm : (i) "Phát hiện địa lý từ lâu trong lịch sử" ("Geographical discovery with a long history") ; (ii) "Sự phát triển liên tục" (Continuous diligent development) ; và (iii) "các chính quyền xưa đã có quản lý hành chính đối với các đảo ở Biển Đông" (Administrative jurisdiction of past governments over the South China Sea Islands). Tuy nhiên, các bằng chứng này đều chưa đủ thuyết phục để làm cơ sở cho lập luận của Trung Quốc tại Biển Đông.
Thứ nhất, các dẫn chứng do "Shi Dizu" đưa ra không đủ để chứng minh có "phát hiện địa lý từ lâu trong lịch sử". Bằng chứng ghi lại cho thấy tàu thuyền đi từ Tây Nam sang vùng Đông Bắc đã gặp phải đá và bãi ngầm từ dưới biển rất mơ hồ, có thể là các chuyến hải trình của người dân các nước Đông Nam Á, chứ không phải của Trung Quốc. Hơn nữa, minh chứng Trung Quốc từ lâu có sự quản lý hành chính đối với Biển Đông như "Shi Dizu" đưa ra chỉ miêu tả hải trình đi lại khó khăn, không tạo thành chứng cớ thuyết phục về có sự tuần tra. Các bằng chứng từ nguồn lịch sử và hải đồ mà "Shi Dizu" lấy dẫn chứng chỉ cho thấy cảnh báo tàu thuyền Trung Quốc tránh các vật cản (các bãi ngầm, bãi cạn…) ở Biển Đông, không cho thấy sự đi lại qua các thực thể này. Qua đó, những ghi chép này có lẽ cảnh báo người dân Trung Quốc về nguy hiểm khi vượt biển, chứ không thể minh chứng cho sự phát hiện ban đầu của Trung Quốc đối với các đảo và thực thể ở Biển Đông.
Trung Quốc cũng chủ đích sử dụng từ ngữ để đánh lạc hướng dư luận thế giới bằng cách sử dụng từ "zhanghai qitou" (涨海崎头) và dịch sang tiếng Anh là "large boulders" mà mang nghĩa bao gồm tất cả các thực thể như "đảo, bãi cạn, đá… ở Biển Đông bao gồm cả ở Hoàng Sa và Trường Sa", không phân biệt bãi cạn nổi, chìm hay nửa nổi nửa chìm. Việc này khiến độc giả nước ngoài cảm thấy yêu sách của Trung Quốc là đúng đắn và nếu không có kiến thức về ngôn ngữ thì khó có thể lập luận lại được. Hơn nữa, học giả Trung Quốc đánh tráo khái niệm bằng cách biến khái niệm về các thuật ngữ như "đá" thành "đụn cát, bãi cạn…", "tàu thuyền nước ngoài" thành "tàu thuyền tuần tra", hay từ "zhanghai" (涨海) thành "Biển Đông". Từ đó, họ lập luận rằng các ghi chép lịch sử cho thấy Trung Quốc có tuần tra và quản lý hành chính các đảo, thực thể ở Biển Đông. Trên thực tế, thuật ngữ "zhanghai" không nhất thiết là đề cập tới một vùng biển cụ thể, mà có thể là một khu vực biển không xác định nào đó trải rộng từ Quảng Đông tới Ấn Độ Dương.
Thứ hai, về lập luận sự phát triển liên tục (continuous diligent developments), tác giả bác bỏ bằng chứng do cuốn "Shi Dizu" đưa ra về việc người Trung Quốc đã ở trên các đảo ở Biển Đông từ thời nhà Đường (bằng chứng về di tích trồng một số cây dừa, một số di tích nhà ở). Tuy nhiên, các bằng chứng này quá ít ỏi và khó có thể cho thấy có sự trồng trọt trên các đảo ở Biển Đông. Thậm chí, các bằng chứng này có khả năng là miêu tả thiệt hại do bão gây ra trên đảo Hải Nam (không tìm thấy các bằng chứng cho thấy bão ảnh hưởng tới các vùng khác ngoại trừ Hải Nam).
Thứ ba, các bằng chứng đưa ra trong cuốn "Shi Dizu" không thể minh chứng cho sự kiểm soát hành chính của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông. Cuốn "Shi Dizu" đưa ra bằng chứng từ thời nhà Tống bao gồm "Yudi jisheng" (ghi chép về các nơi nổi tiếng), "Wujing zongyao" (các yếu tố về quân sự cổ đại) – đề cập tới các bãi chìm ở Hoàng Sa, và "Yangfang jiyao" (Tổng kết về Phòng thủ trên biển) – nói tới bản đồ "Zhisheng haiyang zongtu" (Bản đồ tổng hợp về các tỉnh trên biển) mà đề cập tới toàn bộ các đảo Biển Đông. Tuy nhiên, bản đồ "Zhisheng haiyang zongtu" thực ra chỉ miêu tả về "ten-thousand-miles sandbank" (các bãi cạn cách hàng chục nghìn dặm) từ tỉnh Hải Nam, chứ không phải miêu tả toàn bộ các đảo và thực thể ở Biển Đông. Hơn nữa, các bằng chứng trên không thể giúp xác định chính xác vị trí của các đá và bãi cạn tại Biển Đông. Trên thực tế, các thủy thủ không thể xác định vị trí của các thực thể hay các bãi cạn này do nó phần lớn thời gian là chìm dưới biển.
Tổng kết
Vào năm 1974, cách làm của Trung Quốc là dùng sức mạnh quân sự giành quyền kiểm soát lãnh thổ, rồi sau đó nhờ các học giả và nhà báo lục lại những tư liệu cận đại làm bằng chứng cho quyền "lịch sử" của họ. Tuy nhiên những bằng chứng này không quan trọng trong con mắt của các cơ quan, tổ chức ngoài Trung Quốc.
Cấu trúc và cách lập luận trong bài báo của "Shi Dizu" đã trở thành một mô hình quen thuộc, như có thể thấy trong tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc năm 2000. Tầm quan trọng của bài báo được thừa nhận vào năm 2009, và sau đó bài báo được coi là một phần bằng chứng lịch sử chống lại yêu sách của Việt Nam và Philippines tại biển Biển Đông.
Tuy nhiên, sau hơn 4 thập kỷ, những nhà báo và nhà nghiên cứu Trung Quốc vẫn chỉ đi theo lối mòn : Viết về chủ đề cũ, dùng những phương pháp cũ và tham khảo từ nguồn cũ. Lý do là vì nếu chỉ dựa trên cơ sở các tài liệu cận đại không rõ ràng, yêu sách của Trung Quốc sẽ yếu. Vậy nên Trung Quốc muốn có càng nhiều người khẳng định lại những gì mình đã nói, để cho thấy cơ sở của mình là đáng tin cậy. Những bài viết về quyền lịch sử của Trung Quốc không hướng đến đối tượng ngoài nước, mà thay vào đó là nhóm học giả, công chúng trong nước chưa ủng hộ yêu sách của mình.
Trong tranh chấp đảo Điếu Ngư, Trung Quốc cũng sử dụng cách làm tương tự. Tuy nhiên, vì đây là tranh chấp với Nhật Bản – một cường quốc kinh tế khu vực, Trung Quốc đã phải chuyển hướng sang sử dụng luật quốc tế thay vì sức mạnh quân sự.
Thái độ của Trung Quốc về cải tạo lại các nhóm đảo vẫn nhất quán với các luận điểm và yêu sách chủ quyền, tuy nhiên vẫn không đủ sức thuyết phục những người phản đối về mặt luật pháp.
Johannes L. Kurz
Nguyên tác : The South China Sea and how It Turned into "Historically" Chinese Territory in 1975, Volume 3 : Transcultural Perspectives on Modern China, in China and the World – the World and China, Edited by Barbara Mittler, Joachim & Natascha Gentz and Catherine Vance Yeh,
Hồ Hạnh (tóm dịch)
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 21/12/2020
Cheng Li, Nghiên cứu quốc tế, 18/11/2020
Việc cài đặt lại quan hệ Mỹ-Trung sẽ không hề dễ dàng.
Chưa bao giờ Bắc Kinh lại quan tâm đặc biệt đến kết quả của một cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ như cuộc bầu cử lần này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng sự cạnh tranh sẽ định hình quan hệ Mỹ-Trung trong tương lai dù cho ai là ông chủ tiếp theo của Nhà Trắng. Tuy vậy, họ cũng tin rằng chiến thắng của cựu Phó Tổng thống Joe Biden trước Tổng thống đương nhiệm Donald Trump sẽ tạo ra cơ hội để tạm ngừng, hoặc ít ra là làm chậm lại, việc tiến đến quan hệ đối đầu đang rất đáng báo động giữa hai nước.
Kênh truyền thông nhà nước CCTV phát sóng về Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ Joe Biden tại Bắc Kinh, Trung Quốc, hồi trung tuần tháng 11/2020
Quan hệ giữa hai nước đã xấu đi với tốc độ đáng kinh ngạc dưới nhiệm kỳ tổng thống của ông Trump. Chiến tranh thương mại là ví dụ dễ thấy nhất của sự bất hòa, nhưng những căng thẳng mang tính chiến lược lớn hơn cũng làm nguy cơ xung đột tăng cao hơn. Nhiều quan chức cấp cao của Đảng cộng sản Trung Quốc bị sốc trước hàng loạt lời lẽ quy trách nhiệm, những bình luận phân biệt chủng tộc công khai, các chính sách tách rời kinh tế hai nước, cũng như luận điệu ủng hộ sự thay đổi chế độ ở Trung Quốc của chính quyền Trump.
Không có gì ngạc nhiên khi sự nhẹ nhõm và lạc quan là tâm trạng phổ biến trên mạng xã hội Trung Quốc sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ mặc dù quan điểm về Trump trong công chúng là không giống nhau. Một tấm ảnh lan truyền rộng rãi trên Internet đã thể hiện sự ủng hộ của công chúng đối với nhiệm kỳ tổng thống của Biden khi đổi tên Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (Forbidden City) thành "For-Biden City" (tạm dịch : Tòa thành của Biden).
Nhưng tâm trạng lạc quan có thể thay đổi nhanh chóng. Chỉ bốn năm trước, Trung Quốc nhận được tin Trump đắc cử với sự nhiệt tình tương tự. Nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Trump, với xuất thân doanh nhân, sẽ là người dễ làm việc cùng hơn. Thực tế cho thấy đó chỉ là một mơ tưởng. Giới hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc tỏ ra nghi ngờ nhưng đồng thời cũng lạc quan một cách thận trọng về một mối quan hệ tốt hơn với chính quyền Biden. Tuy nhiên, nhiều yếu tố định hình chính sách đối với Trung Quốc của chính quyền Trump vẫn còn tồn tại và việc "cài đặt lại" quan hệ giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới sẽ không hề dễ dàng.
Vấn đề với chính quyền Trump
Trong những cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường tránh thể hiện sự ủng hộ đối với một ứng viên cụ thể. Quan điểm chính thống lâu đời là "Trung Quốc không bao giờ can thiệp vào công việc nội bộ của Hoa Kỳ". Tuy vậy ban lãnh đạo Trung Quốc nhìn chung bi quan về triển vọng cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ chừng nào Trump còn tại vị. Mặc dù một số nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc tin rằng sự hỗn loạn cùng kiểu "thùng rỗng kêu to" của một nhiệm kỳ Trump nữa sẽ càng làm Trung Quốc lớn mạnh hơn, nhưng họ cũng đã chứng kiến các chính sách đối ngoại không thể đoán trước của Tổng thống Mỹ đẩy cả hai nước ngày càng tiến tới xung đột như thế nào.
Trung Quốc đặc biệt quan ngại các hành động của chính quyền Trump đối với Đài Loan. Với việc Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Đi lại với Đài Loan năm 2018 và Đạo luật Đài Bắc năm 2019 (Taipei Act) – các đạo luật nhằm tăng cường quan hệ Mỹ – Đài được Trump ký thành luật – Bắc Kinh lo ngại rằng Washington đang tiến dần tới việc công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập. Những hành động và lời lẽ của chính quyền Mỹ trong vấn đề này đã làm gia tăng ác cảm đối với Trump trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc và thúc đẩy các quan chức này tìm tới một cách tiếp cận đối đầu hơn với Hoa Kỳ.
Bắc Kinh tin rằng chính quyền Trump muốn đánh bại Trung Quốc giống như cách mà Hoa Kỳ đã đánh bại Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh. Một số quan chức của chính quyền Trump, trong đó có Ngoại trưởng Michael Pompeo và cố vấn thương mại cấp cao Peter Navarro, thậm chí đã kêu gọi thay đổi chế độ ở Trung Quốc. Do đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc không hề ảo tưởng về khả năng chung sống hòa thuận và yên bình với chính quyền nhiệm kỳ hai của Trump. Trong một sự kiện vào tháng 10 ở Bắc Kinh kỷ niệm 70 năm Chiến tranh Triều Tiên, ông Tập đã thúc giục quân đội Trung Quốc chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc xung đột có thể xảy ra với Hoa Kỳ. Theo cách nói của ông ấy, Trung Quốc sẽ "sử dụng chiến tranh để ngăn chặn chiến tranh".
Triển vọng với chính quyền Biden
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rằng sự thù địch của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc không chỉ giới hạn trong chính quyền Trump. Cả đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ đều lên án Bắc Kinh một cách gay gắt và ủng hộ việc đưa các chuỗi cung ứng của Mỹ rời khỏi Trung Quốc. Nhưng đồng thời, nhiều quan chức Trung Quốc không tin rằng có sự nhất trí trong chiến lược chống Trung Quốc ở Washington. Một tình tiết đáng chú ý trong buổi tranh luận giữa hai ứng viên phó tổng thống đã thu hút sự quan tâm của Bắc Kinh khi cả Phó Tổng thống đương nhiệm Mike Pence và Thượng nghị sĩ California Kamala Harris đều không thể đưa ra câu trả lời rõ ràng về việc Hoa Kỳ coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh (competitor), kình địch (rival) hay kẻ thù (enemy). Điều đó dường như cho thấy rõ việc thiếu một khuôn khổ chiến lược cho quan hệ Mỹ-Trung ở Washington.
Biden cũng thường mô tả chính sách đối với Trung Quốc của chính quyền Trump là thất bại, một dấu hiệu cho các quan chức Trung Quốc thấy rằng chính quyền kế nhiệm sẽ không áp dụng tất cả các quan điểm đối đầu của chính quyền Trump, bao gồm cả mục tiêu tách rời kinh tế hai nước. Các nhà phân tích trong cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc cũng lạc quan khi nhận thấy nhóm hoạch định chính sách đối ngoại của Biden có nhiều chuyên gia dày dạn kinh nghiệm và nổi tiếng về phong cách ngoại giao có lý trí (sensible).
Ở cả Trung Quốc và Hoa Kỳ, người ta đã chứng kiến mối quan hệ làm việc lâu dài và thân thiện giữa Biden và Tập trong thời gian Biden làm phó tổng thống và Tập làm phó chủ tịch Trung Quốc. Theo Daniel Russel, một cựu quan chức cấp cao trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống Barack Obama, Biden và Tập đã gặp nhau ít nhất tám lần và dành khoảng 25 giờ cho các cuộc gặp riêng trong vòng 18 tháng từ năm 2011 đến 2012. Trong các cuộc tranh luận tổng thống, Biden đã chỉ trích gay gắt ông Tập và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tuy vậy các quan chức Trung Quốc hiểu rằng những lời lẽ đó chỉ để lấy lòng người dân trong nước, không phải là dấu hiệu báo trước về chính sách đối ngoại của Biden.
Nói rộng hơn, các nhà quan sát Hoa Kỳ của Trung Quốc đã nhận ra quan điểm lâu đời của họ có từ thời Tổng thống Richard Nixon rằng đảng Cộng hòa thân thiện và dễ làm việc hơn đảng Dân chủ đã không còn đúng nữa. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc chỉ ra rằng tất cả 15 thành viên quốc hội của Ban Đặc nhiệm về Trung Quốc (China Task Force), một nhóm nổi tiếng về cách tiếp cận diều hâu đối với Bắc Kinh, đều là đảng viên Cộng hòa ; 229 thành viên Đảng Dân chủ tại Hạ viện đã bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết của Quốc hội hồi tháng 9 lên án mọi hình thức phân biệt đối xử với người Trung Quốc nhưng chỉ có 14 thành viên Đảng Cộng hòa ủng hộ nghị quyết (164 người phản đối) ; và nhiều cuộc thăm dò dư luận Hoa Kỳ cho thấy đảng Cộng hòa thù địch với Trung Quốc nhiều hơn so với đảng Dân chủ.
Thiết lập lại quan hệ giữa hai nước như thế nào ?
Nhưng ngay cả khi Bắc Kinh mong muốn được làm việc với chính quyền Hoa Kỳ thuộc đảng Dân chủ hơn, thì việc cài đặt lại một cách đáng kể quan hệ song phương cũng sẽ rất khó khăn. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có xu hướng cho rằng sự xấu đi trong quan hệ Mỹ-Trung hoàn toàn là do chính quyền Trump muốn kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Không có sự thừa nhận nào ở Bắc Kinh về những lo ngại chính đáng của Hoa Kỳ liên quan đến các hoạt động kinh tế và công nghệ không công bằng của Trung Quốc cũng như các hành vi gây hấn của nước này ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Về phía Hoa Kỳ, sự chỉ trích Đảng Cộng sản Trung Quốc từ các đảng viên Cộng hòa trong chính quyền Trump và trong Quốc hội, cùng thái độ thù địch của công chúng đối với Trung Quốc, đặt ra một rào cản lớn cho nỗ lực thiết lập lại quan hệ hữu nghị giữa hai nước của chính quyền mới. Khả năng Thượng viện vẫn do đảng Cộng hòa kiểm soát sau cuộc bầu cử khiến việc đảo ngược tiến trình càng trở nên khó khăn hơn.
Các quan chức Trung Quốc hiểu rằng sự chia rẽ chính trị nghiêm trọng bộc lộ trong kết quả bầu cử với việc xã hội Hoa Kỳ phân cực mạnh sẽ buộc Biden phải xoa dịu những căng thẳng trong nước và có thể khiến ông không có đủ hậu thuẫn chính trị để thay đổi hoàn toàn chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng lo ngại rằng trong nỗ lực thu hẹp sự cách biệt đảng phái, chính quyền Biden có thể coi chính sách hiếu chiến với Trung Quốc như một phương tiện để tìm điểm đồng với đảng Cộng hòa. Nếu vậy, đối đầu giữa hai nước có thể vẫn tiếp tục, thậm chí là gia tăng, thay vì hướng tới sự cân bằng giữa hợp tác và cạnh tranh một cách ổn định hơn.
Chính quyền Biden chắc chắn sẽ tiếp tục nêu lên những quan ngại về các hành vi xâm phạm nhân quyền của Trung Quốc ở Hồng Kông, Tây Tạng và Tân Cương. Thậm chí, Biden có thể còn gây áp lực lớn hơn, kết hợp chúng với một sứ mệnh đạo đức rộng lớn hơn nhằm bảo vệ quyền con người cũng như đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại quê nhà. Ông có thể sẽ làm tốt hơn Trump trong việc khai thác quyền lực mềm của Mỹ nhằm phục vụ cho mục đích tiếp cận người dân Trung Quốc của chính quyền Hoa Kỳ. Tất nhiên, việc Bắc Kinh sẽ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế về những vấn đề này là rất khó ; Chính quyền Trung Quốc coi tình trạng bất ổn ở các khu vực ngoại vi là mối đe dọa đối với chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và sự ổn định của đất nước. Và do vậy, hành động của Bắc Kinh trong những khu vực bất ổn này sẽ không phải là chủ đề thích hợp để đàm phán.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đang cân nhắc tất cả những kịch bản khả dĩ này về chính sách của Biden đối với Trung Quốc và dường như đang cố gắng "đặt cược nước đôi" về chính quyền Mỹ sắp tới. Một mặt, Bắc Kinh sẽ mong muốn tái hợp tác với Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực. Trong suốt 8 năm cầm quyền của Obama, có tới 105 cuộc đối thoại song phương do chính phủ tài trợ về các chủ đề bao gồm vai trò lãnh đạo của phụ nữ, giáo dục mầm non, thám hiểm không gian, tội phạm mạng và biến đổi khí hậu. Trong hai năm đầu tiên cầm quyền, chính quyền Trump đã thu hẹp các kênh đối thoại đó thành bốn kênh và sau đó ngưng hoàn toàn.
Để phù hợp với chính sách đối ngoại của Biden, Trung Quốc sẽ đặc biệt quan tâm đến việc hợp tác trong các vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu (đặc biệt là cuộc chiến chung chống lại COVID-19), biến đổi khí hậu, không phổ biến vũ khí hạt nhân, chống khủng bố, an ninh mạng cũng như ổn định kinh tế và tài chính toàn cầu. Mùa hè vừa qua, Yang Jiechi (Dương Khiết Trì), một trong những nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc, đã vạch ra các chủ đề này như những lĩnh vực mà Mỹ và Trung Quốc có thể phối hợp và hợp tác chặt chẽ. Ngoài ra, ông cũng nhìn thấy triển vọng hợp tác với Hoa Kỳ trong việc giải quyết các thách thức địa chính trị ở Afghanistan, Bán đảo Triều Tiên và khu vực Trung Đông.
Tuy nhiên, cùng lúc đó Bắc Kinh tin rằng sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc, việc kiểm soát thành công đại dịch COVID-19 ở trong nước, chính trị- xã hội tương đối ổn định cùng với ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng sẽ giúp Trung Quốc có thêm đòn bẩy trong mối quan hệ song phương. Ban lãnh đạo Trung Quốc có thể đáp ứng các yêu cầu của Hoa Kỳ trong một số lĩnh vực nhất định, nhưng họ có thể vẫn sẽ kiên quyết và không khoan nhượng với bất kỳ thứ gì động đến những điều mà họ tuyên bố là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc : yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan và đảm bảo sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Triển vọng hòa giải
Một điều chắc chắn là căng thẳng với Trung Quốc vẫn tiếp tục tồn tại khi chính quyền Biden hoạch định các lĩnh vực sẽ hợp tác và các lĩnh vực sẽ cạnh tranh với Bắc Kinh. Tuy vậy một số học giả có ảnh hưởng ở Trung Quốc vẫn nhìn thấy triển vọng về một mối quan hệ hiệu quả hơn đằng sau chiến thắng của Biden. Shi Yinhong (Thời Ánh Hồng), giáo sư nghiên cứu về Mỹ tại Đại học Nhân dân Trung Quốc và là cố vấn cho chính phủ Trung Quốc, gần đây cho rằng Biden sẽ mang lại sự ổn định và khả năng dự đoán được về những chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo quan điểm của ông, cơ hội để ngăn chặn căng thẳng kiểu "ăn miếng trả miếng" leo thang với chính quyền Biden sẽ rất ngắn ngủi. Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trên trường quốc tế và môi trường chính trị trong nước đầy biến động ở Hoa Kỳ sẽ khiến mối quan hệ song phương trở nên khó hàn gắn hơn. Ông cho rằng cả Bắc Kinh lẫn Washington đều không nên bỏ lỡ cơ hội quý giá có được trong những tháng tới để đánh giá những sai lầm trong quá khứ và cài đặt lại quan hệ. Ông Shi có quan điểm phần nào khác với quan điểm của Đảng khi mong muốn rũ bỏ "tư duy có tổng bằng 0" (phần lợi của bên này luôn tương đương với phần mất của bên kia – ND), phản ánh thiện chí mà nhiều trí thức cũng như người dân Trung Quốc dành cho Hoa Kỳ và đặc biệt là cho chính quyền sắp kế nhiệm của ông Biden. Thời gian sẽ trả lời liệu những quan điểm trên có giúp định hình những quyết định của ban lãnh đạo Trung Quốc hay không.
Cheng Li
Nguyên tác : "Biden’s Election Raises Hopes and Doubts in Beijing", Forreign Affairs, 13/11/2020.
Nguyễn Thanh Hải dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 18/11/2020
******************
Nguyễn Duy, Thoibao.de, 18/11/2020
Kết quả xem như ngã ngũ, tổng thống Trump đã không còn lý do gì để phủ nhận chiến thắng của Joe Biden nữa. Tất cả các bang đều đã được kiểm và chứng cứ trong vấn đề kiện cáo của tổng thống Trump cũng bị tòa án bác bỏ gần hết. Ngày 20/1/2021 sẽ là ngày tổng thống đắc cử Joe Biden chính thức trở thành tổng thống của hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Dù muốn hay không ông Joe Biden cũng phải xử lý những gì mà người tiền nhiệm Donald Trump đã để lại. Từ vấn đề quốc nội cho đến quan hệ quốc tế, Joe Biden cần phải chỉnh sửa lại rất nhiều. Vậy việc mà Joe Biden sẽ chỉnh sửa khi lên làm tổng thống là gì ? Chính sách đối ngoại mà người dân Mỹ và thế giới quan tâm nhất, đó là mối quan hệ với Trung Quốc. Đây là đối thủ đang đe dọa vị trí siêu cường của Hoa Kỳ nhiều nhất nên nó là chiến lược mà Joe Biden phải ưu tiên hàng đầu.
Ông Joe Biden trong vai trò phó tổng thống Hoa kỳ tổ chức tiệc trưa cho Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình vào ngày 25/9/2015
Phải nói rằng chiến thắng của ông Joe Biden đặt ra một thách thức mới cho Trung Quốc. Chính sách của tổng thống Trump đối với Trung Quốc thực sự đã làm cho suy nghĩ của người dân và các chuyên gia về kinh tế – chính trị ở Trung Quốc đánh giá rất khác nhau. Người dân cho rằng Bắc Kinh sẽ mừng khi không còn thấy Donald Trump. Vì chính Trump là người đánh Trung Cộng mạnh nhất trong 4 năm qua như gây chiến tranh thương mại, áp dụng các biện pháp trừng phạt nặng và lên án Trung Quốc đã gây ra dịch virus corona.
Thế nhưng một số nhà phân tích cho rằng lãnh đạo Trung Quốc có thể đang âm thầm thất vọng lúc này. Không phải bởi vì họ yêu mến ông Trump, mà vì viễn cảnh ông Trump trong Nhà Trắng thêm bốn năm nữa hứa hẹn một phần thưởng lớn hơn cho Trung Quốc. Ông ta chia rẽ trong nước, bị cô lập ở nước ngoài – ông Trump đối với Bắc Kinh dường như là hiện hình của quyền lực Mỹ suy giảm mà Trung Quốc hy vọng và mong đợi lâu nay.
Tất nhiên, Trung Quốc có thể tìm được lợi thế trong việc ông Joe Biden sẵn sàng tìm kiếm hợp tác trong những vấn đề lớn như biến đổi khí hậu. Nhưng ông cũng hứa hẹn sẽ làm việc để sửa chữa mối quan hệ với các đồng minh Mỹ, đây là giải pháp hữu hiệu trong việc kiềm chế tham vọng quyền lực của Trung Quốc so với cách làm một mình một kiểu của Trump.
Chính sách của Biden với quốc gia đông dân số 2 thế giới như thế nào ?
Từ thời Barack Obama, nước Mỹ đã xoay trục sang Châu Á. Và tất nhiên hai cường quốc đông dân nhất thế giới được Mỹ để ý đến đầu tiên. Việc Mỹ cạnh tranh với Trung Quốc thì rõ ràng ai cũng biết. Nhưng với Ấn Độ thì Mỹ chưa đến mức phải cạnh tranh mà Mỹ chỉ xem Ấn là đối tác lớn. Đối tác về kinh tế để các công ty Mỹ chuyển từ Trung Quốc sang Ấn Độ nếu chiến tranh thương mại Mỹ – Trung vẫn tiếp tục. Nói chung, Ấn Độ là giải pháp dự phòng cho Mỹ khi Mỹ và Trung Quốc có mối quan hệ không tốt.
Gốc gác xuất thân của bà Kamala Harris sẽ khiến Ấn Độ tự hào, nhưng ông Narendra Modi có lẽ sẽ tiếp đón ông Biden lạnh nhạt hơn so với người tiền nhiệm. Ấn Độ từ lâu nay là một đối tác quan trọng của Hoa Kỳ – và điều này nhìn chung sẽ không thay đổi dưới thời ông Biden. Quốc gia đông dân nhất Nam Á này sẽ tiếp tục là một đồng minh then chốt trong chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc và chống chủ nghĩa khủng bố toàn cầu. Và chắc chắn bà phó tổng thống Kamala Harris sẽ là cầu nối quan trọng để hai nước đi đến ký kết những hiệp ước quan trọng cả về kinh tế lẫn quân sự.
Thulasendrapuram, ngôi làng quê ở Ấn Độ của thân mẫu Phó Tổng thống đắc cử Kamala Harris
Ông Donald Trump đã tránh việc chỉ trích các chính sách đối nội gây tranh cãi của ông thủ tướng Modi, cho nên giữa 2 vị nguyên thủ này có một tình cảm nhất định. Đây được xem là hành động tế nhị hiếm hoi mà tổng thống Donald Trump giành cho đối tác. Với Joe Biden thì rõ ràng ông Modi phải dè chừng vì ông này khác tính ông Trump rất nhiều. Vậy nên sự kết nối cá nhân giữa ông Biden và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi có lẽ sẽ có những điểm tế nhị cần phải vượt qua.
Người ta tưởng ông Donald Trump ăn nói thẳng thừng vì ông hay dùng Twitter để giao tiếp hằng ngày đã cho công chúng thấy được tính khí của ông, nhưng thực chất thì giới chuyên môn đánh giá ông Biden lại thẳng thừng hơn cả ông Donald Trump. Điều này trái ngược với vẻ bề ngoài của ông, bình thường thấy ông Joe Biden rất điềm đạm.
Trang web của ông Joe Biden kêu gọi khôi phục lại quyền của mọi người tại Kashmir, chỉ trích Luật Đăng ký Công dân và Luật Sửa đổi Quốc tịch, hai luật đã làm dấy lên các cuộc biểu tình phản đối rộng khắp. Dù rằng chưa chính thức làm tổng thống nhưng ông Modi đã cảm thấy lo ngại về quan điểm của ông Joe Biden. Phó tổng thống đắc cử Kamala Harris – người mang một nửa dòng máu Ấn Độ – cũng đã lớn tiếng nói về một số chính sách mang tính chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ của chính phủ. Mẹ của bà Kamala Harris được sinh ra và lớn lên tại thành phố Chennai, giờ đây con gái của một phụ nữ Ấn đang sắp trở thành người đứng thứ hai tại Nhà Trắng là thời điểm làm dâng cao lòng niềm tự hào quốc gia của người dân Ấn Độ. Chính vì thế khó khăn được hy vọng là hóa giải dễ dàng.
Vấn đề bán đảo Triều Tiên
Có một điều ai cũng biết là Bắc Hàn có cảm tình với tổng thống Donald Trump hơn là với ông Joe Biden. Bắc Hàn từng gọi ông Joe Biden là "chó điên", nhưng nay ông Kim Jong-un sẽ có những tính toán thận trọng trước khi tìm cách khiêu khích tân Tổng thống Hoa Kỳ. Bản tính của Kim Jong-un là vậy, không ngán ai và với con người tỏ ra kiên nhẫn như tổng thống Donald Trump mà đàm phán với ông chủ tịch Bắc Hàn còn không đi đến kết quả gì thì với ông Joe Biden không biết thế nào. Kim Jong-un chưa bao giờ biết nhường nhịn ai, và với tân tổng thống Joe Biden thì có thể nói, ông ta cũng đang chuẩn bị cách đối phó với vị tân tổng thống Mỹ này.
Trong nhiệm kỳ 4 năm của ông Doanld Trump đã có 3 cuộc gặp Kim Jong-un trong đó có một cuộc gặp tại Việt Nam. Đây là điều mà chưa một tổng thống nào trước đó làm được. Liệu rằng ông Joe Biden có tiếp bước ông Donald Trump thực hiện nhiều cuộc gặp gỡ hơn không ?
Theo giới chuyên gia dự đoán thì vấn đề ngoại giao giữa Bắc Hàn và Mỹ sẽ không mặn nồng như thời ông Donald Trump nữa. Có thể ông Joe Biden sẽ cứng rắn với Bắc Hàn hơn người tiền nhiệm.
Tổng thống Donald Trump và chủ Tịch Kim Jong-un ở Hà nội
Có thể nói, cuộc họp giữa Doanald Trump và Kim Jong-un là vô tiền khoáng hậu giữa hai nhà lãnh đạo và những diễn tiến sau đó đã tạo nên những hình ảnh cực kỳ ấn tượng trong sử sách. Tuy nhiên, về mặt nội dung, hai bên hầu như không đạt được gì, cũng không có gì được ký kết sau đó. Chẳng có bên nào đạt được điều họ muốn từ các cuộc đàm phán này : Bắc Hàn vẫn tiếp tục xây dựng kho vũ khí hạt nhân, và Hoa Kỳ vẫn tiếp tục áp các lệnh trừng phạt khắc nghiệt.
Có lẽ rút ra bài học từ thời ông Trump nên ông Joe Biden đã có ý đòi Bắc Hàn phải chứng tỏ rằng họ sẵn lòng từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân của mình trước khi ông có bất kỳ cuộc họp nào với ông Kim Jong-un. Nhiều nhà phân tích tin rằng trừ phi nhóm của ông Biden chủ động đưa ra sáng kiến thương thảo với Bình Nhưỡng trong thời gian rất sớm, những ngày cái "lửa giận" sẽ trở lại.
Ông Kim có lẽ sẽ muốn thu hút sự chú ý của Washington với việc quay trở lại thực hiện các vụ thử hạt nhân tầm xa, nhưng ông sẽ không muốn làm gia tăng căng thẳng tới mức quốc gia vốn đã rất đói nghèo này sẽ bị thêm các lệnh trừng phạt nữa.
Seoul có lẽ đã lúc này lúc khác gặp khó khăn với ông Trump, nhưng Tổng thống Moon rất muốn kết thúc cuộc chiến đã kéo dài 70 năm trên bán đảo Triều Tiên, và ông đã ca ngợi ông Trump về việc "can đảm" gặp gỡ với ông Kim. Miền Nam sẽ theo dõi chặt chẽ xem liệu có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy ông Biden có sẵn lòng thực hiện điều tương tự hay không.
Với đồng minh lâu đời Anh Quốc
Boris Johnson chúc mừng Tổng thống đắc cử Joe Biden giành chiến thắng trong cuộc Bầu cử
"Mối quan hệ đặc biệt" giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc là mối quan hệ than thiết lâu đời. Từ nhiều đời tổng thống, 2 quốc gia này luôn sát cánh bên nhau về các vấn đề lớn trên thế giới. Vậy nên dự đoán là quan hệ giữ Mỹ và Anh Quốc cũng sẽ như truyền thống chứ không có gì thay đổi, bởi cho dù thay đổi cũng không thể thay đổi nhiều.
Quay ngược về thời điểm năm 2016, khi đó ông Donald Trump thắng cuộc đua vào Nhà Trắng và nước Anh bỏ phiếu rời khỏi EU, cả ông Joe Biden và Tổng thống Barack Obama, đều không giấu diếm gì về việc họ muốn có một kết quả khác đối với kỳ trưng cầu dân ý của Anh. Và thực sự ở điểm này, tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama đã có mối quan hệ lạnh nhạt với chính phủ Đảng Bảo Thủ của bà Teresa May.
Theo giới phân tích thì những chính sách gần đây của chính phủ thủ tướng Boris Jonhson trong vấn đề với Brexit đã không diễn ra như mong muốn của các gương mặt chủ chốt phe Dân, trong đó có vị tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hai ông Joe Biden và Boris Johnson vẫn có với nhau một số điểm chung. Hai quốc gia mà họ dẫn dắt rốt cuộc là có mối quan hệ dài hạn, sâu sắc trong lĩnh vực ngoại giao, chưa kể còn các mối quan hệ thân thiết trong những lĩnh vực khác như an ninh và tình báo.
Quan hệ với Putin
Điện Kremlin nổi tiếng về Tình Báo, cho nên họ có khả năng nghe ngóng rất nhạy. Vậy nên khi Joe Biden gần đây gọi Nga là "mối đe dọa lớn nhất" đối với Mỹ, họ nghe câu đó rất rõ ở Moscow. Việc làm này của ông Joe Biden hoàn toàn trái ngược với Donald Trump trước đây, khi ông Trump khen ngợi Putin là tổng thống tài năng. Có thể ông Trump chỉ khen xã giao, nhưng trong lời khen đó cũng cho thất thái độ của Donald Trump với nước Ngà là rất rõ ràng. So với nhiều tổng thống khác Donald Trump thân thiện với nước Nga hơn.
Điện Kremlin cũng có trí nhớ rất tốt. Năm 2011, Phó tổng thống Joe Biden được cho là từng nói nếu ông là Putin, ông sẽ chẳng tranh cử tổng thống lần nữa. Điều đó sẽ rất tồi tệ cho cả ông Putin và nước Nga. Tổng thống Putin vẫn chưa quên vụ đó. Đây là câu ám chỉ Putin là nhà độc tài.
Moscow lo ngại một nhiệm kỳ của ông Biden có nghĩa sẽ có thêm áp lực và trừng phạt từ Washington. Với một người theo đảng Dân chủ trong Nhà Trắng, có thể sẽ đến lúc trả thù cho sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử Mỹ 2016 ?
Nhưng với điện Kremlin, cũng có thể có cái may. Các nhà quan sát tình hình Nga dự đoán chính quyền Biden cuối cùng sẽ dễ đoán được hơn đội của Trump. Điều đó có thể khiến việc đạt được thỏa thuận về những vấn đề cấp bách trở nên dễ dàng hơn, như hiệp ước New Start – một hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân Mỹ – Nga sắp hết hạn vào tháng Hai tới. Nếu làm được điều này, ông Biden sẽ ghi điểm trước dân Mỹ trong vấn đề quan hệ quốc tế với cường quốc quân sự lớn thứ 2 thế giới này.
Thực ra Joe Biden đã có 8 năm làm phó tổng thống. Khi đắc cử ông sẽ biết đưa ra chiến lược như thế nào để đảm bảo cho quyền lợi nước Mỹ. Sẽ hứa hẹn một nhiệm kỳ tương tự như 2 nhiệm kỳ mà Obama đã thực hiện trước đây. Và dự đoán có thể Joe Biden sẽ làm tốt hơn.
Nguyễn Duy (Tổng hợp)
Nguồn : Thoibao.de, 18/11/2020
********************
Chính sách đối ngoại của chính phủ Biden và vấn đề Biển Đông
VOA, 18/11/2020
Từ khi giành được hơn 270 phiếu đại cử tri, Tổng thống tân cử Joe Biden đã tiếp xúc với lãnh đạo các nước đồng minh, cam kết hàn gắn các quan hệ đối tác đã bị sứt mẻ trong mấy năm qua, đồng thời tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ đối với các hiệp định an ninh hỗ tương từng bị đặt nghi vấn dưới quyền Tổng thống Trump.
Tổng thống Trump, Tổng thống tân cử Biden và chính sách đối với Trung Quốc
Trong 4 năm dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Trump, các đồng minh của Mỹ trong khu vực hay lo lắng, không biết liệu nhà lãnh đạo tính khí khó đoán của Mỹ có sẽ tôn trọng những cam kết của Hoa Kỳ hay không ?
Sau khi trấn an lãnh đạo các nước Châu Âu rằng "Mỹ đã trở về", ông Biden điện đàm với Thủ tướng Úc Scott Morrison, Tổng thống Hàn quốc Moon Jae-in và Thủ Tướng Nhật Bản Yoshihide Suga, 3 nhà lãnh đạo Châu Á đã gọi điện chúc mừng ông, bất chấp Tổng thống Trump chưa công nhận thất cử.
Các giới chức Nhật cho biết trong cuộc điện đàm, Thủ tướng Suga cảnh báo về "tình hình an ninh chung quanh khu vực đang ngày càng nghiêm trọng hơn". Đáp lại, Tổng thống tân cử Joe Biden tái khẳng định "cam kết của Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Nhật Bản", thực thi các trách vụ của Mỹ theo hiệp định an ninh đã ký cách đây nhiều thập niên, ban chuyển tiếp của ông Biden cho biết.
Trong một động thái có phần chắc sẽ gây phẫn nộ ở Bắc Kinh, ông Biden xác nhận cam kết an ninh của Mỹ bao trùm quần đảo Senkakus, một quần đảo không người ở mà cả Nhật Bản và Trung Quốc đều tuyên bố là thuộc chủ quyền của mình.
Trong một cuộc điện đàm riêng với Tổng thống Hàn quốc Moon Jae-in, ông Biden mô tả liên minh Mỹ-Hàn là "nền tảng của an ninh và thịnh vượng" trong khu vực, và ông cam kết sẽ hợp tác để giải quyết "những thách thức chung", đặc biệt là vấn đề Triều Tiên, và biến đổi khí hậu.
Trong khi đó Tổng thống Trump nhiều lần cho biết ông đang cân nhắc giải pháp rút quân ra khỏi Nhật Bản và Hàn quốc, nơi đồn trú của hơn 20.000 binh sĩ và nhân viên quân sự Mỹ mà mục đích là để răn đe một cuộc tấn công quân sự từ miền Bắc.
Văn phòng Tổng thống Hàn quốc cho biết ông Moon và ông Biden đồng ý sẽ gặp nhau "trong thời hạn sớm nhất có thể" sau lễ nhậm chức tổng thống.
Trong cuộc điện đàm với Thủ tướng Úc, ông Biden được Thủ tướng Scott Morrison mời đi thăm Úc trong năm tới để đánh dấu 70 năm hiệp định an ninh Úc-Mỹ.
Ông Biden lưu ý về tầm quan trọng của việc "đương đầu với biến đổi khí hậu" điều mà chính quyền bảo thủ của Úc dường như chưa đặt lên hàng ưu tiên cao, bất chấp nước này đã ký Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Thủ tướng Úc miêu tả cuộc điện đàm giữa hai nhà lãnh đạo là "nồng ấm".
Trong cương vị thành viên của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ trong nhiều thập niên, ông Biden đã đi thăm nhiều nước và gặp gỡ nhiều nhà lãnh đạo trên khắp thế giới.
Trong cương vị phó tổng thống Mỹ dưới thời Obama, ông Biden đã bỏ nhiều công sức để cổ vũ cho Hoa Kỳ như một "cường quốc Thái Bình Dương".
Các nước còn lại đạt được thỏa thuận TPP không có Mỹ
Nhưng sau khi nhiệm kỳ Tổng thống của ông Obama kết thúc, chính sách xoay trục sang Châu á của ông, và các nỗ lực kiên trì nhằm xây dựng một liên minh tại các hội nghị khu vực như ASEAN, APEC và hội nghị thượng đỉnh Đông Á… được thay thế bằng một mối quan hệ có tính thực dụng. Tổng thống Trump cũng rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), đạt được sau 8 năm thương thuyết gay go và nhắm cô lập Trung Quốc về mặt kinh tế, mở đường cho Bắc Kinh vận động để đạt Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) không có Hoa Kỳ, vừa được ký kết cách đây vài ngày.
Tổng thống Trump còn gây lo ngại cho các đồng minh ở Châu Á khi ông liên tục leo thang các tranh chấp thương mại với Trung Quốc, xích lại gần nhà độc tài Kim Jong-un của Triều Tiên, và công khai bàn tới khả năng Mỹ rút quân ra khỏi khu vực.
‘Joe Biden cũng sẽ cứng rắn với Trung Quốc, không kém Tổng thống Trump’
Trang mạng Intellasia trích lời ông Wu Shicun, người đứng đầu Viện nghiên cứu quốc gia về Biển Đông của Trung Quốc, nhận định rằng ông Biden "sẽ có hướng tiếp cận khác với Tổng thống Donald Trump".
"Ông Biden sẽ chú ý nhiều hơn tới vấn đề Biển Đông, nhưng các chính sách của ông cân bằng hơn và có tính kiềm chế hơn".
Các cuộc tuần tra đã khởi sự dưới thời Tổng thống Obama nhưng trở nên thường xuyên hơn dưới thời Tổng thống Trump khi nhà lãnh đạo Mỹ giao nhiều quyền hạn hơn cho Ngũ Giác Đài để linh động lập kế hoạch tiến hành các cuộc tuần tra của hải quân để khẳng định quyền tự do đi lại trong các vùng biển tranh chấp. Ông Wu dự đoán các cuộc tuần tra để khẳng định quyền tự do hàng hải như thế sẽ ít thường xuyên hơn dưới một chính phủ Biden, vì các hoạt động tuần tra tác động tới các quan hệ song phương và làm tăng căng thẳng Mỹ-Trung.
Về phần Trung Quốc, Bắc Kinh dự kiến các quan hệ với Washington dưới sự lãnh đạo của ông Biden sẽ ổn định hơn, dễ đoán hơn, không thay đổi thất thường và đột ngột như với ông Trump, tuy vậy các quan hệ với Washington sẽ không thay đổi đáng kể, về một số vấn đề quan trọng. Financial Times trích lời các nhà phân tích và cố vấn chính phủ Trung Quốc nhận định :
"Sẽ không có thay đổi đáng kể dưới quyền ông Biden về các vấn đề gai góc như Đài Loan, Hong Kong, Biển Đông, Tân Cương, Tây Tạng và tình hình tôn giáo và nhân quyền", theo ông Shi Hong, giáo sự đại học Renmin ở Bắc Kinh và là cố vấn Quốc vụ viện về các vấn đề đối ngoại. "Nhưng ông Biden tính khí không thất thường như ông Trump, ông ăn nói lịch sự hơn, dễ đoán hơn giúp ổn định chính sách của Washington đối với Trung Quốc.
Financial Times dẫn lời một chuyên gia về các vấn đề Mỹ tại Học viện Khoa học Xã hội ở Bắc Kinh, ông Lu Xiang, giải thích sự khác biệt giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ :
"Biden coi Trung Quốc là một nước cạnh tranh, trong khi ông Trump coi Trung Quốc là một đối thủ. Các quan hệ giữa hai nước cạnh tranh được dựa trên các quy định, luật lệ".
Vấn đề Biển Đông
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore, nói thành phần nhân sự do ông Biden chọn vào các chức vụ chính trong Bộ Quốc phòng sẽ ảnh hưởng tới các quan hệ với Bắc Kinh tại Biển Đông, nhưng bất kể họ là ai, Tiến sĩ Hiệp nói thêm, "căng thẳng trong khu vực khó có thể tan biến trong một sớm một chiều".
Trong số những người có triển vọng được chọn ra lãnh đạo Bộ Quốc phòng có bà Michele Flournoy, từng là thứ trưởng quốc phòng về chính sách dưới thời Tổng thống Obama. Bà là người chủ trương phải cứng rắn với Trung Quốc.
"Biển Đông đã trở thành một chiến trường quan trọng cho cuộc đối đầu chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nơi mà Hoa Kỳ có thể huy động các nước trong khu vực chống lại Bắc Kinh, và dùng các tuyên bố chủ quyền quá tham lam của Trung Quốc để tập hợp các đồng minh".
Tiến sĩ Hiệp nhận định :
"Vì vậy dưới một chính phủ Biden, Hoa Kỳ và các đồng minh có phần chắc sẽ tiếp tục duy trì, và ngay cả tăng cường, sự hiện diện của họ ở Biển Đông".
Tại một cuộc họp trực tuyến với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á hôm thứ Năm tuần trước, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nói đẩy mạnh các quan hệ với 10 nước ASEAN là một trong các ưu tiên của Bắc Kinh. Ông Lý kêu gọi đẩy nhanh cuộc đàm phán về một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Ông đề nghị một thời hạn 3 năm để tạo bộ quy tắc đó.
Ông Wu nói chính sách của Washington bác bỏ phần lớn những yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông, tình hình xáo trộn chính trị ở Malaysia, thay đổi thành phần lãnh đạo ở các cấp cao nhất có thể xảy ra ở Việt Nam và ở Philippines trong 2 năm tới có thể phức tạp hóa thêm tiến trình đàm phán.
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp nói bất chấp những trở ngại đó, Bắc Kinh vẫn nóng lòng muốn hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Đào sâu thêm sự thù nghịch Mỹ-Trung có thể khuyến khích Trung Quốc đẩy nhanh tiến trình đàm phán", ông nói.
"Mặt khác, nó có thể khiến Washington tăng hậu thuẫn cho các nước để kháng cự lại các yêu sách của Trung Quốc, như nên loại các nước ‘ngoài khu vực’ (như Hoa Kỳ), ngăn cấm các cuộc diễn tập quân sự hay các hoạt động kinh tế trên Biển Đông".
Tờ South China Morning Post trích lời các chuyên gia nói một chính phủ Joe Biden có phần chắc cũng cứng rắn không kém chính quyền Donald Trump liên quan tới các bất đồng giữa Washington và Bắc Kinh như vấn đề Biển Đông.
Tờ báo dẫn lời Giáo sư Jay Batongbacal, Viện trưởng Viện Hàng hải và Luật biển của Đại học Philippines, nói : "Xét quá trình của ông Biden là một nhà lập pháp lão thành, chúng ta sẽ chứng kiến sự tăng cường hợp tác đa phương nhằm tăng sức ép để giải quyết các vấn đề trên toàn cầu".
Chuyên gia về Đông Nam Á, Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales, nói rằng dưới quyền Tổng thống Biden, các nước trong khu vực sẽ ít bị áp lực hơn phải chọn phe giữa căng thẳng Mỹ-Trung.
Giáo sư Thayer nói liên minh Mỹ-Nhật-Hàn sẽ bớt đối đầu và hài hòa hơn dưới một chính phủ Biden. Mặt khác, Giáo sư Thayer lưu ý rằng lập trường của Tổng thống tân cử Joe Biden đối với Trung Quốc đã trở nên cứng rắn hơn trong thập niên qua. Ông Biden đặt nặng vấn đề nhân quyền hơn trong các quan hệ song phương. Trong chiến dịch vận động, ông Biden đã đả kích các hành động của Bắc Kinh ở Hong Kong, miêu tả chính sách của Trung Quốc đối với các nhóm thiểu số Hồi giáo ở Tân Cương là "vô lương tâm", và còn gọi Chủ tịch Tập Cận Bình là "côn đồ" trong một cuộc tranh luận với ứng cử viên Bernie Sanders hồi tháng Hai năm nay.
"Ông ta (Tập) là một kẻ côn đồ, thực tế là ông ta đã đẩy 1 triệu người Uighur vào các trại cải tạo, có nghĩa là các trại tập trung".
Ông Biden cho biết đã có lần ông nói thẳng với ông Tập rằng Hoa Kỳ sẽ thách thức "vùng cấm bay" của Trung Quốc trên Biển Đông, ông tuyên bố : "Chúng tôi sẽ điều máy bay thả bom B-1 bay qua vùng cấm bay", và ông nói thêm : "Chúng tôi sẽ khẳng định rõ, rất rõ, rằng tất cả các bên phải tuân thủ các quy định chung. Chấm hết, chấm hết, chấm hết".
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, các quan hệ với Trung Quốc không phải là ưu tiên số Một của tân chính phủ Biden. Một nhà phân tích Trung Quốc không cho biết danh tính nói với FT :
"Trong bối cảnh hiện nay, những vấn đề trước mắt đối với tân chính phủ Biden là các vấn đề đối nội, khởi sự với nỗ lực đối phó với dịch Covid-19, kế đến là vấn đề kinh tế và cấu trúc hạ tầng". Nhưng một khi các vấn đề này tạm ổn, thì các quan hệ với Bắc Kinh sẽ được nâng lên hàng ưu tiên cao nhất.
Nguồn : VOA, 18/11/2020
************************
Ông Biden ‘sẽ tập hợp đồng minh đối phó Trung Quốc’ ?
VOA, 18/11/2020
Chính quyền của Tổng thống đắc cử Mỹ Joe Biden sẽ có sự phối hợp chặt chẽ với các đồng minh để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc và tìm cách đưa nước này tuân theo những luật lệ của thế giới, một nhà quan sát chính trị từ Canada nhận định với VOA.
Ông Biden tiếp ông Tập Cận Bình đến thăm Washington hồi năm 2015 khi ông Biden làm phó tổng thống
Khác với chính sách của Tổng thống đương nhiệm Donald Trump ‘Nước Mỹ trên hết’ và tìm cách rút Mỹ ra khỏi các định chế quốc tế, ông Joe Biden tuyên bố nước Mỹ sẽ quay trở lại vũ đài quốc tế.
"Khi tôi nói chuyện với các nhà lãnh đạo nước ngoài, tôi đã bảo họ : Nước Mỹ sẽ quay trở lại. Chúng tôi sẽ quay trở lại cuộc chơi", ông Joe Biden viết trên Twitter vào tối ngày 10/11 sau khi ông điện đàm với các nhà lãnh đạo Anh, Pháp, Đức.
‘Mỹ cần đồng minh’
Nhận định về vấn đề này, Giáo sư-luật sư Vũ Đức Khanh từ Canada, chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế, nói ông ‘tin tưởng ông Joe Biden có thể tập hợp các đồng minh và tiếng nói của thế giới để kêu gọi mọi người tuân theo khuôn khổ luật pháp quốc tế’.
Ông phân tích dù cho nước Mỹ mạnh đến đâu cũng ‘không thể nào đánh bật Trung Quốc ngay cả trên vấn đề kinh tế thương mại nếu không có sự phối hợp của các nước đồng minh’.
Luật sư Khanh dẫn chứng thậm chí vào lúc các nước phương Tây mạnh và Trung Quốc suy yếu như vào đầu thế kỷ 20 thì cũng phải cần ‘liên minh tám nước mới tấn công vào kinh thành Bắc Kinh của triều đình Mãn Thanh’.
Chỉ ra việc các đồng minh trụ cột của Mỹ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc vừa ký kết tham gia gia vào khối thương mại tự do với Trung Quốc có tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế Khu vực Toàn diện (RCEP), ông Khanh nói : "Có thể các nước đồng minh này không còn tin tưởng Mỹ nữa chăng nên mới đi đến bước đó ?"
Ông nhận xét khối RCEP sẽ giúp Bắc Kinh gia tăng ảnh hưởng lên các nước trong khu vực trong khi ‘nước Mỹ đang vật lộn với các vấn đề trong nước, chưa hàn gắn được với các đồng minh Châu Âu và chưa củng cố được trục tứ giác với Nhật, Ấn và Úc’.
Về phía Canada, nhà quan sát này cho biết nước này đã ‘chìa tay ra đón nhận chính quyền của ông Biden’ với việc mới đây Quốc hội Canada đã ra một nghị quyết được sự đồng thuận của tất cả các đảng để mời ông Joe Biden đến phát biểu trước Quốc hội.
Theo quan sát của ông thì trong bối cảnh thế giới hiện nay, ‘con đường duy nhất để đưa Trung Quốc vào quỹ đạo là cần có sự đồng thuận của các quốc gia trên thế giới’ vì ‘Trung Quốc sẽ không khoanh tay chịu trận’.
‘Hợp tác để đấu tranh’
"Chính quyền Biden với những nhân sự của họ và với lý tưởng mà họ theo đuổi mấy trăm năm qua thì không có chuyện họ quỳ lụy trước Trung Quốc", nhà phân tích này nhận định.
"Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đều thấy được hiểm họa từ Trung Quốc và có chính sách đồng thuận với nhau là bằng mọi giá phải kiềm chế và đưa Trung Quốc vào khuôn khổ, vào trật tự thế giới mới", ông diễn giải.
Giáo sư luật bán thời gian tại Đại học Ottawa cho rằng ‘không phải hành xử theo kiểu ăn to nói lớn mới là mạnh, là hiệu quả,’ đồng thời dự đoán rằng chính quyền của ông Joe Biden sẽ không chọn cách đối đầu với Trung Quốc – ‘sẽ không dựng lên bức tường như thời Chiến tranh Lạnh’ – mà sẽ hợp tác với Bắc Kinh để đưa họ vào quỹ đạo luật chơi của thế giới.
"Sự mềm dẻo của Đảng Dân chủ dựa trên sức mạnh của Hoa Kỳ trên 250 năm mà có, đó là sức mạnh từ giá trị của người Mỹ", ông Khanh nhận xét.
‘Cần điều chỉnh TPP’
Theo luật sư Vũ Đức Khanh, mặc dù trong bốn năm qua, chính quyền ông Donald Trump có những hành động mạnh trên Biển Đông nhưng Bắc Kinh vẫn tiếp tục sự lấn lướt chẳng hạn như củng cố các thực thể đã xây dựng, quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của các nước trong đó có sự đối đầu với Việt Nam ở Bãi Tư Chính.
"Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng ở Biển Đông. Họ chỉ nhượng bộ trước sức ép của cộng đồng quốc tế", ông nói và bày tỏ tiếc nuối trước việc Mỹ đã từ bỏ Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP mà chính quyền của ông Barack Obama đã mất 7 năm đàm phán.
"TPP là một thế trận để kiềm hãm Trung Quốc và đưa Trung Quốc vào trật tự và luật pháp quốc tế", ông nói và cho biết TPP cũng là một cơ chế tạo sự thịnh vượng chung cho những nước tham gia và từ đó mới gắn kết cùng với Mỹ đối phó Trung Quốc.
"Ông Trump đã bất chấp sự vận động vào phút chót của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe rằng Mỹ nên ở lại TPP mà dứt khoát rút khỏi TPP", ông Khanh chỉ trích và cho rằng hành động này ‘đã giáng một đòn mạnh vào thế giới tự do’.
Dù ông Biden từng nằm trong chính quyền ông Barack Obama nhưng cũng ‘khó mà quay trở lại TPP như trước,’ ông Khanh nói và bày tỏ hy vọng "Ông ấy sẽ xem lại đoạn đường đã qua và tìm cách điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình mới".
Về mối quan hệ Washington-Hà Nội dưới thời Biden, luật sư Vũ Đức Khanh nói ông ‘tin chính quyền Biden sẽ trân quý mối quan hệ Mỹ-Việt được phát triển trong 4 năm qua và sẽ tăng tốc mối quan hệ đó để làm sao Việt Nam vẫn là bạn của Mỹ để cùng các nước khác gìn giữ hòa bình và ổn định trong khu vực’.
‘Tiếp cận kiềm chế hơn’
Tờ South China Morning Post nhận định rằng dưới thời ông Joe Biden, Biển Đông sẽ vẫn là
‘điểm nóng tiềm tàng’ trong quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh nhưng Washington sẽ có cách tiếp cận ‘kiềm chế hơn’.
"Ông ấy có khả năng quan tâm nhiều hơn đến Biển Đông nhưng các chính sách của ông ấy sẽ cân bằng hơn và kiềm chế hơn", ông Wu Shicun, người đứng đầu Viện Nghiên cứu Biển Đông Quốc gia, vốn tư vấn cho chính phủ Trung Quốc, được SCMP dẫn lời nói.
Một thay đổi có thể xảy ra là Hải quân Hoa Kỳ sẽ ít tổ chức các cuộc tuần tra vì tự do hàng hải hơn ở Biển Đông, ông Wu nhận định.
Các cuộc tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông là một nội dung trong các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Barack Obama, nhưng đã trở nên thường xuyên hơn dưới thời ông Donald Trump, vốn cho phép Ngũ Giác Đài linh hoạt hơn trong việc lên kế hoạch tuần tra tại các vùng biển tranh chấp.
Mỹ đã có tám cuộc tuần tra vì tự do hàng hải trong năm nay, bằng với năm 2019, nhưng tăng so với sáu vào năm 2018 và bốn mỗi năm trong ba năm trước đó.
Ông Lê Hồng Hiệp, một học giả tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á Yusof Ishak ở Singapore, cho rằng ai được ông Biden chọn cho các vị trí trong Bộ Quốc phòng sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ của Washington với Bắc Kinh về Biển Đông.
Trong số những tên tuổi hàng đầu cho vị trí Bộ trưởng Quốc phòng hiện nay là bà Michele Flournoy, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng dưới thời ông Obama và được biết đến với lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc.
"Biển Đông đã trở thành chiến trường quan trọng cho cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, nơi Mỹ có thể huy động các nước trong khu vực chống lại Bắc Kinh, dùng yêu sách lãnh thổ quá đáng của Trung Quốc như lời hiệu triệu sự ủng hộ", ông Hiệp nói với SCMP.
"Như vậy, dưới thời ông Biden, Mỹ và các đồng minh có khả năng sẽ tiếp tục duy trì hoặc thậm chí tăng cường can dự của họ ở Biển Đông", ông Hiệp dự đoán.
Nguồn : VOA, 18/11/2020
***********************
Biden sẽ không đảo ngược cuộc chiến thương mại của Trump chống Trung Quốc ?
VOA, 18/11/2020
Việc Tổng thống Trump công kích Trung Quốc mạnh mẽ chưa đem lại nhiều lợi ích kinh tế lâu dài, nhưng đạt được một thành công cơ bản : Từ nay, bất cứ chính quyền nào của Mỹ cũng không thể nương nhẹ với Trung Quốc, đối thủ lớn nhất của Mỹ, theo một bài báo hôm 18/11 trên trang web của đài National Public Radio (NPR).
Tổng thống đắc cử Joe Biden nói về khôi phục kinh tế hôm 16/11/2020 ở Wilmington, Delaware. (AP Photo/Andrew Harnik)
NPR điểm lại rằng trong nghị trình thương mại "Nước Mỹ trên hết" của mình, ông Trump đặt trọng tâm vào việc đối đầu với Trung Quốc, tung ra các cuộc tấn công ráo riết vào các chính sách của Bắc Kinh và châm ngòi một cuộc chiến thương mại với việc áp thuế vào 2/3 hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trong thời gian tới, mặc dù Tổng thống đắc cử Joe Biden có thể sẽ nói với giọng điệu lịch sự hơn, song khó có chuyện ông sẽ nhẹ tay với Trung Quốc vì thái độ của nước Mỹ đã thay đổi theo hướng tiêu cực trong những năm gần đây khi xét đến thương mại và các hiệp định lớn tầm cỡ toàn cầu, bài báo của đài NPR cho biết.
Đồng thời, vẫn theo NPR, cả hai chính đảng lớn nhất của Mỹ đều ngờ vực Trung Quốc, đặc biệt là chính những người theo đường lối tiến bộ đã bầu cho ông Biden càng có thái độ như vậy.
"Tôi nghĩ những tuyên bố rực lửa liên tục mà Tổng thống Trump tung ra nói về Trung Quốc làm cho bất cứ chính quyền nào cũng không thể thay đổi đường hướng ngay lập tức khi họ lên nắm quyền", Chad Brown, nghiên cứu sinh cao cấp tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson nói với NPR.
Các chuyên gia ghi nhận rằng ông Trump đã thành công trong việc chuyển hướng cuộc tranh luận về Trung Quốc với việc ông liên tục cáo buộc Bắc Kinh có những chính sách "hung ác" làm rút ruột các ngành công nghiệp của nước Mỹ.
Một yếu tố khác, theo ý kiến của Arthur Dong, giáo sư Trường Kinh doanh McDonough thuộc Đại học Georgetown, đăng trên NPR, là tình trạng mất việc làm và các hãng xưởng đóng cửa kéo dài nhiều năm làm cho công chúng có cái nhìn khắt khe hơn về thương mại, đặc biệt là ở các bang có sức nặng đối với bầu cử như Pennsylvania, Ohio và Michigan.
"Tôi nghĩ ông Biden ý thức được về điều đó", giáo sư Dong nói.
Ứng cử viên Joe Biden chụp ảnh selfie với ủng hộ viên tại cuộc mít tinh với công đoàn ngành điiện, 20/7/2019, ở Las Vegas. (AP Photo/John Locher)
Các tổ chức công đoàn và các nhóm cánh tả đã góp phần bầu cho ông Biden cũng có thái độ thù địch đối với Trung Quốc. Bên cạnh đó, họ coi việc đảng Dân chủ ủng hộ cho một số hiệp định trước đây, trong đó có NAFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ), là một sự phản bội.
Vì vậy, Waleed Shahid, phát ngôn viên của nhóm Justice Democrats theo đường lối tiến bộ, đưa ra nhận định với NPR : "Tôi nghĩ đảng Dân chủ thời những năm 1990 không còn phù hợp với các khu vực bầu cử ngày nay và nền kinh tế ngày nay. Tôi hy vọng rằng Joe Biden bổ nhiệm nhân sự là những người hiểu được điều đó".
Áp lực từ cả hai phía tả-hữu như vậy có nghĩa là ít có khả năng ông Biden sẽ đảo ngược các mức thuế quan mà ông Trump đã áp.
Nhưng ông Biden có ít lựa chọn tốt để gây sức ép với Trung Quốc. Một trong những điều làm trói tay ông Biden là cảm tình trên thế giới dành cho nước Mỹ dưới thời ông Trump đã thay đổi.
Trong giai đoạn tranh cử, ông Biden chỉ trích việc ông Trump có chính sách đơn phương trong đương đầu với Trung Quốc. Theo ông Biden, Mỹ cần có đồng minh là Châu Á và Châu Âu để buộc Bắc Kinh tuân theo luật lệ thương mại.
Nhưng nói dễ hơn làm, theo NPR. Chính quyền của Tổng thống Obama thiết kế ra Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) để lập ra đại liên minh 12 nước ở vành đai Thái Bình Dương nhắm đến kiềm chế Trung Quốc.
Nhưng ông Trump đã vứt bỏ TPP ngay khi ông nắm quyền. Còn ông Biden nói ông sẽ không ủng hộ nó nếu không có những cải thiện lớn về việc bảo vệ môi trường và lao động.
Trong khi đó, thế giới vẫn tiến về phía trước mà không cần có Mỹ. Hôm 15/11, Trung Quốc, Việt Nam và 14 nước khác đã ký một hiệp định kinh tế của họ, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).
Ngoài ra, ông Biden còn vướng một rào cản nữa khi ông nỗ lực lãnh đạo các nước khác kiềm chế Trung Quốc.
Wendy Cutler, cựu Quyền Phó Đại diện Thương mại Mỹ, nói với NPR rằng ông Trump đụng độ trong lĩnh vực thương mại không chỉ với Trung Quốc mà cả các nước bạn như Canada và Mexico, làm các đồng minh chủ chốt tức giận và gây tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Mỹ ở nước ngoài.
Do vậy, "các đồng minh và đối tác rất không tin tưởng Mỹ, cụ thể là về thương mại. Và nói thẳng ra, các nước ngày càng chán chường về Mỹ", Cutler nói.
Nhưng trở ngại lớn nhất đối với việc Mỹ kiềm chế Trung Quốc là ông Biden phải dành ưu tiên cao nhất cho việc hồi phục kinh tế Mỹ từ suy thoái do đại dịch, phải gác lại các vấn đề khác, Cutler nhận định với NPR.
Chính quyền của Tổng thống Trump được ghi nhận đã tạo bước ngoặt trong đương đầu với Trung Quốc về thương mại.
Một bài báo gần đây của tạp chí Forbes cũng chỉ ra rằng ban vận động bầu cử của ông Biden từng đánh tín hiệu rằng ông Biden – nay là tổng thống đắc cử - sẽ ưu tiên làm việc về gói cứu trợ mới để xử lý đại dịch và đầu tư trong nước, trước khi xét đến các thỏa thuận thương mại mới.
Về câu hỏi liệu ông Biden có chuyển hướng những động thái thương mại mà ông Trump đã làm hay không, tạp chí Forbes cho rằng có thể có, nhưng sẽ phải sau một thời gian.
Còn trong giai đoạn đầu, chính quyền tương lai của ông Biden sẽ hàn gắn các quan hệ với các đồng minh để tạo ra một mặt trận thống nhất trong cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, vẫn theo Forbes.
Khi còn tranh cử, hồi tháng 9, cố vấn thương mại Tony Blinken của ông Biden nói rằng ông sẽ không loại trừ việc áp thêm thuế, nhưng sẽ "sử dụng thuế quan khi cần và phải có chiến lược và có kế hoạch", bài báo của Forbes cho hay.
Forbes chỉ ra rằng hiện chưa rõ ông Biden sẽ cứng rắn đến mức nào với Trung Quốc, song kế hoạch "Chế tạo tại Hoa Kỳ" của ông - có nhiều điểm giống với kế hoạch "Nước Mỹ trên hết" của ông Trump" - hứa hẹn có "các hành động chấp pháp mạnh mẽ về thương mại" để bảo vệ chống lại các hành xử bất công của Trung Quốc hay bất cứ nước nào khác "tìm cách chơi xấu nền chế tạo của Mỹ".
Điểm sáng của chính quyền Biden sắp tới, theo Forbes, là tính chất lường trước được. Những thay đổi về chính sách thương mại của ông Biden sẽ ít có khả năng làm các nhà đầu tư bất ngờ, và cũng ít có khả năng là ông sẽ thay đổi ý định hay đưa ra những tuyên bố hoặc lời đe dọa bất chợt giống người tiền nhiệm Donald Trump, Forbes tiên liệu.
Nguồn : VOA, 18/11/2020
Biển Hoa Đông : Bắc Kinh đặt tên 50 thực thể ngầm trong vùng tranh chấp với Nhật (RFI, 25/06/2020)
Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post hôm nay, 25/06/2020, Trung Quốc thông báo đặt một loạt tên mới cho các thực thể ngầm trong vùng biển Hoa Đông, đang có tranh chấp chủ quyền với Nhật.
Một khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Ảnh chụp năm 2012. © Reuters
Trang mạng bộ Tài Nguyên Trung Quốc tối 23/06, đăng thông báo về tên gọi mới cho 50 thực thể ngầm, bao gồm các đảo chìm, đảo nổi và bãi ngầm. Theo thông báo, mục đích của việc đặt lại tên gọi này là để "chuẩn hóa tên gọi địa hình bản đồ".
Các thực thể được đặt tên mới nằm trong quần đảo mà Trung Quốc gọi là "Điếu Ngư", Nhật gọi là "Senkaku". Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản tranh chấp chủ quyền đối với chuỗi đảo không có người ở, nhưng nằm giữa vùng biển giàu tài nguyên. Đây là điểm nóng trong quan hệ Trung-Nhật.
Theo nhật báo Hồng Kông, quyết định trên được đưa ra sau khi Bắc Kinh cảnh báo sẽ trả đũa việc chính quyền thành phố Ishigaki của Nhật hôm 22/06 thông qua quyết định đặt tên lại cho một nhóm đảo trên biển Hoa Đông, trong đó có cả quần đảo Senkaku. Hội đồng thành phố đã thay đổi tên gọi "vùng hành chính phía nam" của Nhật thành "vùng Tonochiro Senkaku", quản lý cả quần đảo Senkaku. Động thái này của chính quyền Nhật bị cả Trung Quốc và Đài Loan nhìn nhận như là ý đồ xác quyết chủ quyền với các đảo Senkaku, theo tên gọi của Nhật.
Ngay hôm thứ Hai tuần này, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng phản ứng. Theo Bắc Kinh, việc thay đổi tên gọi địa phương nói trên của Nhật là "thách thức nghiêm trọng với chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc", đồng thời cảnh báo sẽ trả đũa hành động mà Bắc Kinh gọi là "bất hợp pháp".
Hôm Thứ Ba, bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Taro Kono thông báo đã phát hiện một tàu ngầm Trung Quốc gần một đảo ở phía tây nam Nhật hồi tuần trước.
Tranh chấp chủ quyền quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, cách đảo Okinawa khoảng 200 km về phía tây nam, dấy lên từ cuối năm 2012, khi chính quyền Tokyo quyết định chuyển quyền quản lý quần đảo này, từ tư nhân sang Nhà nước.
Trong một động thái khác, theo AFP, hôm nay, 25/06/2020, Tokyo khẳng định hủy bỏ việc triển khai hệ thống phòng thủ chống tên lửa Mỹ Aegis Ashore trên lãnh thổ Nhật. Quyết định được bộ trưởng Quốc Phòng Nhật thông báo trong cuộc họp với đảng cầm quyền Tự Do Dân Chủ. Dự án trị giá 4,2 tỷ đô la trên đã được chính phủ Shinzo Abe thông qua năm 2017.
Anh Vũ
*******************
Việt Nam và Nhật Bản lên tiếng quan ngại về tình hình Biển Đông (RFA, 25/06/2020)
Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh, bày tỏ quan ngại về những diễn biến gần đây tại Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Taro Kono trong một họp báo ở Tokyo hôm 11/9/2019 -Reuters
Phát biểu về vấn đề Biển Đông như vừa nêu của ông Phạm Bình Minh được đưa ra tại cuộc họp trực tuyến Hội nghị Cộng đồng Chính trị- An ninh ASEAN lần thứ 21 diễn ra vào ngày 24 tháng 6. Cuộc họp có sự tham dự của bộ trưởng ngoại giao 10 nước ASEAN và Tổng thư ký ASEAN.
Tại cuộc họp, ông Phạm Bình Minh cho rằng các nước cần phát huy tinh thần trách nhiệm, đối thoại và hợp tác vì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông.
Cũng tin liên quan tình hình Biển Đông, Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản, ông Taro Kono, cho rằng hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông hiện nay là ‘đáng báo động’.
Vào ngày 23 tháng 6 vừa qua, hai tàu huấn luyện của Nhật Bản là JS Kashima và JS Shimayuki đã có cuộc diễn tập với tàu tác chiến cận bờ của Hải quân Hoa Kỳ, USS Gabrirlle Giffords, tại Biển Đông.
Động thái này chứng tỏ quan ngại của Nhật Bản về tình hình tại Biển Đông mà căng thẳng được nói do Trung Quốc gây nên.
********************
Thư ngỏ kêu gọi các lãnh đạo giải quyết quan ngại về nhân quyền tại thượng đỉnh ASEAN 36 (RFA, 25/06/2020)
Các lãnh đạo tham dự hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 phải giải quyết quan ngại về vấn đề nhân quyền trong đợt dịch Covid-19.
Một người đàn ông đi qua tấm biển cổ động cho Thượng đỉnh ASEAN 36 ở Hà Nội hôm 25/6/2020 AFP
Đây là yêu cầu được nêu ra trong thư ngỏ ký bởi Chủ tịch Các Nghị Viên ASEAN về Nhân quyền, Charles Santiago, gửi đến Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, và đồng gửi đến thủ tướng của 9 nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á còn lại.
Thư ngỏ được gửi đi nhân tuần diễn ra hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 mà Việt Nam năm nay là chủ tịch luân phiên. Theo đó, những nghị viên thuộc mạng lưới khu vực Đông Nam Á cam kết cổ xúy và bảo vệ nhân quyền, thúc giục các lãnh đạo ASEAN phải bảo đảm đặt nhân quyền là trọng tâm cho công tác ứng phó dịch Covid-19 và hậu quả của dịch này.
Theo thư ngỏ, khu vực ASEAN trong khi nên được khen ngợi về thành công trong công tác ngăn chặn dịch Covid-19, tuy nhiên lại để lộ ra những yếu kém lớn và bất nhất trong hệ thống điều hành. Khu vực ASEAN không bảo vệ được những người rơi vào hoàn cảnh bị tổn thương nhất ; đặc biệt là những công nhân nhập cư và người tỵ nạn.
Đợt dịch Covid-19 cũng là lúc gia tăng những hạn chế về quyền tự do biểu đạt và giọng điệu hận thù đối với những nhóm bị gạt ra bên lề xã hội.
Thư ngỏ cho rằng dịp họp cấp cao ASEAN 36 trong tuần này dưới sự chủ trì của Thủ tướng Việt Nam, Nguyễn Xuân Phúc, là cơ hội để khối ASEAN có thể học hỏi và trưởng thành qua thời kỳ đầy thử thách hiện nay, bằng cách bảo đảm rằng từ thời điểm này trở đi, các chính sách của khu vực không loại trừ bất cứ ai và cổ xúy cho một xã hội công bằng hơn, bình đẳng hơn và bền vững hơn.
Trong cuộc phỏng vấn với BBC, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ Việt Nam khẳng định bốn kịch bản Trung Quốc có thể làm nếu bị Việt Nam kiện ra tòa quốc tế do ông Ngô Sỹ Tồn (Wu Shicun), Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông (National Institute for South China Sea Studies - NISCSS) công bố mới đây chỉ mang "tính chất hăm dọa, kích động, và không có gì mới" bởi "trong thực tế Trung Quốc đã làm những điều này từ lâu".
Tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi bị tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tại Hoàng Sa ngày 2/4
Trong kịch bản một, Trung Quốc dọa sẽ công bố hệ thống đường cơ sở ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ gọi là Nam Sa.
Trên thực tế, Trung Quốc đã làm điều này từ 1996, khi họ nối tất cả các điểm ngoài cùng của các thực thể thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, để tạo thành đường cơ sở, như là một quốc gia quần đảo. Đây là việc Trung Quốc giải thích và áp dụng hoàn toàn sai Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982).
Nhiều học giả đã phân tích về hành động sai trái này. Đặc biệt trong công hàm của phái đoàn thường trực của Việt gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vừa qua cũng khẳng định quan điểm của UNCLOS 1982, quy định rằng không thể nối tất cả các điểm của các thực thể ở ngoài cùng quần đảo Hoàng Sa để biến nó thành một đường cơ sở, như là một quốc gia quần đảo.
Ông Trục cho rằng Trung Quốc đang làm tương tự với quần đảo Trường Sa. Sở dĩ họ chưa công bố đường cơ sở ở đây là do bị lên án rất nhiều, cho nên họ đang tính toán. Họ cũng đang tính toán để mở rộng, chiếm đóng thêm một số bãi cạn nằm ngoài quần đảo Trường Sa, gần thềm lục địa đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia và Philippines.
Đây là việc cố tình giải thích, áp dụng sai công ước để hiện thực hiện yêu sách đường chín đoạn phi pháp. Bây giờ họ chỉ nhắc lại chuyện cũ này, nó không có giá trị gì về mặt luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, ông Trục nhận định đây là kịch bản mà Trung Quốc có khả năng làm được nhất bởi việc công bố đường cơ sở của quần đảo Nam Sa sẽ góp phần thực thi sách lược mà Trung Quốc gọi là Tứ Sa, biện minh cho yêu sách đường lưỡi bò phi pháp.
Đối với kịch bản hai, Trung Quốc đe dọa đẩy mạnh việc ngăn cấm, đánh đập, giam cầm các ngư dân Việt Nam hoạt động trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Điều này họ cũng làm lâu rồi. Năm nào Trung Quốc cũng công bố quyết định cấm đánh bắt cá, năm nào cũng đốt tàu, bắt giam, đánh đập ngư dân Việt Nam.
Quốc tế cũng đã đánh giá đây là hành động "cướp biển" mang tính chất nhà nước. Và Trung Quốc sẽ tiếp tục làm điều này chừng nào họ đạt được tham vọng khống chế, độc chiếm Biển Đông, chứ không cần chờ đến lúc Việt Nam kiện.
Tuy nhiên, theo ông Trục, việc Trung Quốc ngăn chặn hoạt động bảo vệ, quản lý của các lực lượng của Việt Nam trên các thực thể thuộc chủ quyền của Việt Nam trong tình hình hiện nay hoàn toàn không phải là việc đơn giản bởi Việt Nam đang nỗ lực hợp tác cùng các quốc gia khác để tăng cường sức phòng thủ và sức chiến đấu của mình.
Khi chạm đến lãnh thổ thiêng liêng thì theo truyền thống của người Việt Nam "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Dù kiềm chế xung đột, nhưng nếu lãnh thổ bị xâm phạm, thì chắc chắn người Việt Nam sẽ cầm súng đứng lên bảo vệ và chiến đấu đến phút cuối cùng. Do đó Trung Quốc không dễ dàng làm được điều này.
Đối với kịch bản ba, Trung Quốc dọa tăng cường ngăn cản Việt Nam quân sự hóa ở Trường Sa. Việc họ nói Việt Nam quân sự hóa là hoàn toàn bịa đặt. Trung Quốc mới chính là nước đang quân sự hóa trên Biển Đông.
VN có mặt ở đó, trên 21 vị trí trên quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, và có các lực lượng quân đội, khoa học kỹ thuật, nhân sự để quản lý và bảo vệ chủ quyền của mình trên các thực thể đó là điều rất bình thường mà Việt Nam vẫn làm từ trước đến nay để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Từ lâu Trung Quốc đã uy hiếp Việt Nam, thậm chí dùng vũ lực để đánh chiếm, gây ra thảm họa cho người Việt Nam trong lúc đang làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Hoàng Sa, như vụ Gạc Ma.
Trung Quốc sẽ tiếp tục các hành động này, nhưng trong bối cảnh hiện nay khi nhiều nước trên thế giới đã lên tiếng phản đối, Trung Quốc sẽ phải cân nhắc ít nhiều trước khi hành động.
Đối với kịch bản thứ tư, Trung Quốc dọa triển khai khai thác dầu khí ở Bãi Tư Chính. Trên thực tế Trung Quốc đã thực hiện rồi, nhưng mà làm không được.
Nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc ngang nhiên hoạt động ở khu vực bãi Tư Chính
Năm ngoái Trung Quốc đưa tàu địa chất Hải Dương vào hoạt động ở Bãi Tư Chính hơn một tháng để thăm dò điều kiện nhằm tiến hành khai thác ở đây.
Trung Quốc đã làm việc này nhiều lần và cho tới nay Việt Nam vẫn đứng vững ở đó, vẫn tiến hành thăm dò khai thác dầu khí và vẫn bảo vệ được các quyền hợp pháp của mình trong khu vực này.
Trong bối dịch bệnh Covid-19 hiện nay, dù Trung Quốc đang tính toán để "đục nước béo cò", "mượn gió bẻ măng", nhưng những nước khác trong khu vực, cả kể những nước trước đây mềm mỏng với Trung Quốc như Malaysia, Philippines, Indonesia nay cũng có những tiếng nói phản đối mạnh mẽ Trung Quốc và ủng hộ lập trường của Việt Nam.
Các nước mạnh trên thế giới như Mỹ, EU, Ấn Độ, Nhật Bản đều lên tiếng phản đối Trung Quốc và kêu gọi cộng đồng quốc tế thượng tôn pháp luật. Nếu Trung Quốc tiếp tục các hành động trắng trợn này thì nhân loại sẽ không để yên. Vì vậy, ông Trục nhấn mạnh dù Trung Quốc đe dọa, hung hăng, nhưng có làm được không còn là câu chuyện khác.
Cũng theo ông Trục, tại thời điểm này, Việt Nam chưa nên kiện Trung Quốc về Biển Đông.
Tàu ngầm lớp Kilo 636 của Nga được giao cho Việt Nam
Ông phân tích : "Cái có thể kiện hiện nay là như Philippines đã làm, kiện Trung Quốc về việc áp dụng sai công ước UNCLOS 1982. Nhưng nên nhớ rằng dù có phán quyết của tòa án, việc thực thi phán quyết lại không triển khai được do cơ chế thi hành án của các cơ quan tài phán quốc tế hiện nay phải thông qua Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc là thành viên thường trực, có quyền phủ quyết.
Nghĩa là, thắng kiện thì được lợi về chính trị, ngoại giao, pháp lý, dư luận, và kết quả thắng đó sẽ trở thành một thực tiễn trong luật pháp quốc tế để người ta căn cứ vào đó đấu tranh để bảo vệ công lý. Nhưng như đã nói, việc thi hành phán quyết trên thực tế là không có. Do đó Việt Nam phải tính. Việc tập hợp ý kiến của các chuyên gia, luật sư, dư luận để cùng nhau có tiếng nói thống nhất là rất cần thiết".
Vị chuyên gia cho rằng thời điểm nay Việt Nam cần tập hợp thêm dư luận để đấu tranh ngoại giao, tăng cường đoàn kết để duy trì công ước UNCLOS 1982.
Ông nói : "Trước việc Trung Quốc bất chấp tất cả để thực hiện các hành vi phi pháp thì trước mắt tự bản thân Việt Nam phải đoàn kết, đánh giá bản chất các sự kiện một cách bình tĩnh, khoa học chứ không phải trên cơ sở duy ý chí. Muốn như vậy phải thể hiện rõ ràng lập trường pháp lý của mình để bạn bè quốc tế đồng tình ủng hộ. Tôi nghĩ vừa rồi Việt Nam đã làm được một số điều trong các việc này, do đó nhận được sự ủng hộ của nhiều nước trên thế giới.
Tiềm lực quốc phòng của Việt Nam ngày càng được cải thiện hơn. Việt Nam đủ sức tự vệ trước hành động phi pháp của các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc".
Hiện nay, Trung Quốc đang đứng trước muôn vàn khó khăn, bế tắc từ đối nội cho đến đối ngoại.
Trong nước, đại dịch Viêm phổi Vũ Hán đã khiến hàng chục triệu người mất việc ở Trung Quốc, gây áp lực lên mạng lưới phúc lợi xã hội chắp vá và tạo ra thách thức lớn cho Bắc Kinh. Kinh tế giảm 6,8% trong quý đầu tiên và hiện tại là cuộc khủng hoảng thất nghiệp đã bộc lộ những vấn đề sâu sắc trong sự phát triển và phân phối tài sản ở Trung Quốc. Sau bốn thập kỷ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nhiều người lao động giờ đây thấy mình phải hoàn toàn tự lo cho bản thân hoặc sống dựa vào tiền tiết kiệm của gia đình. Trong khi đó năm 2020 được dự kiến sẽ là một cột mốc quan trọng, với mục tiêu quốc gia này sẽ trở thành "một xã hội thịnh vượng toàn diện" vào cuối năm, được thể hiện ở quy mô nền kinh tế tăng gấp đôi so với năm 2010, cùng với việc xóa đói giảm nghèo đã được thực hiện thắng lợi. Kế hoạch 2020 của ông Tập đã bị virus Vũ Hán làm cho phá sản, lời hứa của ông trước 1,4 tỷ người dân Trung Quốc sẽ trở thành lời hứa suông và hoàng đế Tập sẽ trở thành kẻ thất hứa.
Chưa kể khu vực phía nam Trung Quốc nhiều ngày liên tiếp mưa lớn gây lũ lụt, 24 tỉnh thành như Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quý Châu, Trùng Khánh, v.v, liên tiếp có thông tin về thảm họa, ít nhất 8,512 triệu người bị ảnh hưởng, 138.000 căn nhà bị hư hại. Chính quyền đưa ra cảnh báo, lũ lụt năm nay là trận lụt lớn nhất kể từ năm 1949 đến nay, nhất là lượng mưa lớn ở khu vực thượng du đập Tam Hiệp, sẽ gây ra thách thức nghiêm trọng đối với con đập khổng lồ này.
Thêm vào đó, thủ đô Bắc Kinh lại chứng kiến sự bùng phát dịch bắt đầu từ ngày 11/6 và đến nay đã xuất hiện hơn 200 ca nhiễm mới, đồng thời dịch bệnh cũng lan ra nhiều tỉnh thành khác. Chính quyền Bắc Kinh đã phải thừa nhận tình hình dịch bệnh tại thủ đô gay go và phức tạp, công tác phòng và kiểm soát dịch bệnh đang trong trạng thời điểm quan trọng.
Về đối ngoại, trong khi xung đột biên giới với Ấn Độ ngày một leo thang dẫn đến cuộc đối đầu lớn nhất giữa quân đội hai nước kể từ năm 1967 thì mới đây, Indonesia từ chối đàm phán với Trung Quốc về Biển Đông. Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi hôm 18/6 tuyên bố lập trường của nước này là dựa theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển (UNCLOS) năm 1982, không có tuyên bố chủ quyền chồng lấn với Trung Quốc ở Biển Đông nên "không có lý do để đàm phán". Bà Retno đưa ra tuyên bố này sau khi Trung Quốc ngày 02/6 gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc, mời Indonesia đàm phán về cái gọi là "những tuyên bố chồng lấn về các quyền và lợi ích" ở Biển Đông.
Siêu cường thế giới Hoa Kì thì không hề có dấu hiệu xuống thang với Trung Quốc khi mối quan hệ giữa hai nước đang ở mức xấu nhất kể từ khi bình thường hóa quan hệ.
Tại Hội nghị thượng đỉnh dân chủ Copenhagen 2020 được tổ chức trực tuyền ngày 19/6 vừa qua, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã tung ra một loạt chỉ trích nhắm vào Trung Quốc. Ông phát biểu : "Quân đội Trung Quốc đã làm gia tăng căng thẳng biên giới với Ấn Độ, nền dân chủ đông dân nhất thế giới. Họ đang quân sự hóa Biển Đông và tuyên bố chủ quyền phi pháp tại đó, đe dọa các tuyến đường biển sống còn".
Tại Hội nghị thượng đỉnh dân chủ Copenhagen 2020, ông Pompeo cũng cáo buộc Trung Quốc có hành vi "lưu manh" với các nước láng giềng.
Ngoại trưởng Pompeo nói : "Trung Quốc cũng đã nói dối về đại dịch Covid-19 và để cho lây lan ra toàn thế giới. Trong lúc đó, Trung Quốc gây sức ép lên Tổ chức Y tế thế giới (WHO) để hỗ trợ chiến dịch che đậy của họ. Hàng trăm ngàn người đã chết và nền kinh tế toàn cầu đã bị phá hủy một phần lớn".
Tại sự kiện trên, ông Pompeo nhận định : "Châu Âu đang đối mặt với ‘thách thức Trung Quốc ’, giống như nước Mỹ và những người bạn ở Nam Mỹ, Châu Phi, Trung Đông, Châu Á đang đối mặt".
Nhà lãnh đạo ngoại giao Mỹ cũng cáo buộc Trung Quốc đang "thúc đẩy các thông tin sai lệch và các chiến dịch mạng hiểm độc" nhắm vào chính phủ các nước và để chia rẽ quan hệ giữa Mỹ với Châu Âu.
Hải Yến (Hà Nội)
Nguồn : Thoibao.de, 23/06/2020
Đại dịch Covid-19 không tạo ra những cơ hội mới cho Bắc Kinh tại Biển Đông, mà thực chất Trung Quốc chỉ tiếp tục thực hiện chiến lược lâu nay của mình.
Tập Cận Bình phát biểu trước lực lượng hải quân Trung Quốc - Ảnh minh họa
Biển Đông ngày càng dậy sóng. Tháng trước, Trung Quốc bắt đầu tiến hành thăm dò địa chất trong Vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia (EEZ), và một tàu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm gần khu vực Quần đảo Hoàng Sa sau khi đối đầu với một tàu hải cảnh của Trung Quốc.
Một loạt phân tích gần đây đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc đang lợi dụng những cơ hội mà đại dịch Covid-19 tạo ra để cải thiện vị thế của nước này ở Biển Đông, trong khi các quốc gia khác bị sao nhãng hoặc không thể phản ứng lại Trung Quốc. Ẩn ý quan trọng đằng sau những tuyên bố như vậy là : nếu không có đại dịch, Trung Quốc có thể sẽ hành động khác và có lẽ sẽ kiềm chế hơn.
Chiến lược Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi
Trước khi đại dịch bùng phát, những động thái gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là nhằm tìm cách khẳng định các quyền lợi lịch sử của nước này tại vùng biển trên. Tuy nhiên, quan điểm về quyền lợi lịch sử của Bắc Kinh xung đột với định nghĩa về vùng EEZ theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), trong đó quy định các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với những nguồn tài nguyên nằm trong khu vực rộng 200 hải lý tính từ đường bờ biển của quốc gia đó. Năm 2016, Tòa trọng tài thường trực (PCA) giải quyết vụ việc do Philippines khởi kiện đã ra phán quyết rằng bất kể tuyên bố nào về quyền lợi lịch sử ở Biển Đông (ám chỉ "đường chín đoạn" trên các bản đồ của Trung Quốc) đều vô giá trị.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã chỉ trích Trung Quốc không tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của các nước láng giềng. Vậy câu chuyện ở đây là gì ?
Khi bác bỏ phán quyết của tòa PCA, Bắc Kinh lại càng quyết tâm hành động hơn bằng cách đưa ra một tuyên bố hiếm thấy để công khai khẳng định rằng "Trung Quốc có các quyền lợi lịch sử ở Biển Đông". Mặc dù Bắc Kinh vẫn chưa xác định nội hàm của những quyền lợi lịch sử này, song theo một nhà phân tích đáng tin cậy của Trung Quốc, có thể chúng bao gồm "quyền đánh bắt cá, quyền đi lại hàng hải và các quyền được ưu tiên khi khai thác các nguồn tài nguyên".
Để khẳng định các quyền lợi lịch sử này, trong những năm qua, Trung Quốc sử dụng ba căn cứ tác chiến tiền phương lớn mà nước này đã tạo ra trên các bãi đá ngầm ở Quần đảo Trường Sa thông qua hoạt động cải tạo quy mô lớn năm 2014-2015, nhằm tăng cường sự hiện diện và triển khai sức mạnh tại những vùng biển này.
Những tranh cãi gần đây nhất đã có từ trước khi đại dịch bùng phát
Tháng 12/2019, Bắc Kinh và Jakarta đã trực tiếp đối đầu nhau khi một đội tàu cá của Trung Quốc hoạt động gần đảo Natuna của Indonesia ở cực Tây Nam của Biển Đông. Tình thế đối đầu này kéo dài tới cuối tháng 1/2020, với việc các tàu hải cảnh của Trung Quốc hộ tống các tàu cá của nước này và các lực lượng vũ trang của Indonesia cùng thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình.
Cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Indonesia chỉ là ví dụ mới đây nhất cho thấy có một cuộc cạnh tranh kéo dài hơn liên quan tới việc đánh bắt cá ở vùng biển này, vốn bắt đầu gia tăng từ năm 2016. Trung Quốc coi khu vực đó là ngư trường truyền thống của nước này. Tuy nhiên, vùng biển này nằm trong EEZ của Indonesia, điều đó có nghĩa rằng Jakarta có quyền chủ quyền duy nhất đối với các nguồn tài nguyên ở khu vực này theo quy định của luật pháp quốc tế.
Đợt đánh bắt cá mùa Xuân thường châm ngòi những căng thẳng mới
Ngày 2/4, một tàu cá của Việt Nam đang hoạt động gần đảo Phú Lâm thuộc Quần đảo Hoàng Sa thì bị đâm chìm sau khi đụng độ với một tàu hải cảnh của Trung Quốc. Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với khu vực Quần đảo Hoàng Sa - vốn đang bị Trung Quốc chiếm đóng kể từ năm 1974. Những thảm kịch kiểu như vậy thường xảy ra ở khu vực xung quanh quần đảo này, đặc biệt trong giai đoạn cao điểm của mùa đánh bắt cá mỗi khi vào Xuân. Ví dụ, tháng 3/2019, một tàu cá khác của Việt Nam đã bị đâm chìm vì đụng độ với một tàu thực thi pháp luật của Trung Quốc gần Đá Lồi. Vụ đụng độ mới nhất hồi tháng trước phản ánh những biến động có tính chu kỳ giữa Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực này, và quyết tâm đáp trả một cách cay nghiệt của Bắc Kinh.
Trung Quốc cũng can thiệp vào hoạt động khai thác dầu khí của các nước khác
Cũng trong tháng 4, tàu Hải dương Địa chất 8 - một tàu thăm dò địa chất của Trung Quốc - bắt đầu hoạt động trong EEZ của Malaysia với sự bảo vệ của các tàu hải cảnh nước này. Đây không phải là nỗ lực mới của Bắc Kinh nhằm khẳng định chủ quyền đối với nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Năm 2017 và 2018, Trung Quốc từng gây sức ép nhằm buộc Việt Nam chấm dứt các hoạt động khai thác gần Bãi Tư Chính. Năm 2019, Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh đi tuần tra xung quanh, và đôi lúc quấy rối các hoạt động khoan thăm dò trong EEZ của Việt Nam và Malaysia. Trên thực tế, chính tàu Hải dương Địa chất 8 này đã từng tiến hành thăm dò bên trong vùng EEZ của Việt Nam từ đầu tháng 7 tới cuối tháng 10/2019.
Một nhân tố khác đó là việc Malaysia tăng cường các hoạt động khai thác dầu mỏ và khí đốt kể từ mùa Thu năm ngoái. Tháng 10/2019, giàn khoan West Capella của Công ty dầu khí quốc doanh Petronas của Malaysia đã bắt đầu hoạt động ở nhiều lô dầu trong vùng EEZ và thềm lục địa của Malaysia. Tháng 12/2019, Malaysia đã đệ trình lên Liên hợp quốc yêu cầu xin công nhận thềm lục địa mở rộng ở vùng trung tâm của Biển Đông, theo đó bao phủ vùng đáy biển của toàn bộ khu vực Quần đảo Trường Sa và trực tiếp thách thức các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Phản ứng của Trung Quốc cũng giống với phản ứng của nước này đối với Việt Nam hồi năm 2019. Bắt đầu từ tháng 12/2019, các tàu hải cảnh của Trung Quốc tuần tra xung quanh giàn khoan West Capella, và đôi khi còn hăm dọa các tàu dịch vụ. Sau đó, đến giữa tháng 4/2020, tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc bắt đầu hoạt động khảo sát trong EEZ của Malaysia, gần nơi West Capella đang khoan thăm dò.
Cũng trong tháng 4, Bộ Dân chính Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận hành chính mới ở cái được gọi là thành phố Tam Sa - được Bắc Kinh thành lập năm 2012 để quản lý các đảo và vùng biển ở Biển Đông. Đặt trên đảo Phú Lâm, "quận Tây Sa" sẽ quản lý Quần đảo Hoàng Sa cũng như bãi ngầm Macclesfield và bãi cạn Scarborough. Đặt trên Đá Chữ Thập, "quận Nam Sa" sẽ quản lý quần đảo Trường Sa. Mặc dù có thể là điển hình của chủ nghĩa cơ hội, song có vẻ như Bắc Kinh thành lập hai quận mới này để thể hiện rằng "quyết tâm và ý chí bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là điều không thể lay chuyển".
Liệu sẽ có thêm những động thái như vậy ?
Xem xét tổng thể, những động thái của Trung Quốc ở Biển Đông phản ánh sự tiếp nối của các hành động trước đó, không phải là chủ nghĩa cơ hội. Tương tự như vậy, bất chấp đại dịch Covid-19, những gì mà Mỹ đang làm hiện nay tại khu vực cũng phản ánh một sự tiếp nối. Kể từ tháng 1/2020, Hải quân Mỹ đã triển khai 4 chiến dịch tự do hàng hải xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và Hải quân Mỹ cũng công bố việc các tàu chiến của Mỹ đã 3 lần qua lại khu vực Eo biển Đài Loan vào tháng 1, tháng 2 và tháng 4/2020. Cả hai động thái này dường như phù hợp với nhịp độ hoạt động của Mỹ tại khu vực trước khi đại dịch xảy ra.
Vậy điều gì giải thích cho những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong bối cảnh đại dịch đang hoành hành ? Trung Quốc có thể coi việc thúc đẩy những tuyên bố chủ quyền của họ quan trọng hơn việc tạm dừng lại để tập trung vào đối phó với đại dịch hay cải thiện quan hệ với các nước khác. Ngoài ra, do tư duy chiến lược của Trung Quốc luôn cân nhắc sự tương quan giữa bạo loạn ở trong nước với các thách thức ở bên ngoài, nên các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đã cho rằng bất cứ việc tạm dừng hành động ở Biển Đông có thể sẽ phát đi tín hiệu thể hiện sự yếu đuối hay sự thay đổi giới hạn đáy của Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông.
M. Taylor Fravel
M. Taylor Fravel, Giáo sư Khoa học Chính trị, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu An ninh tại Viện Công nghệ Massachusetts. Bài viết được đăng trên The Washington Post.
Virus corona : Trung Quốc lại lấn át ở Biển Đông, Việt Nam còn trông đợi Mỹ được không ?
Mỹ Hằng, BBC, 30/03/2020
Trong lúc dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, Trung Quốc triển khai nhiều hoạt động mới ở Biển Đông ngay sau khi tuyên bố giải quyết xong ổ dịch Vũ Hán.
Quân đội Hoa Kỳ tập trận tái chiếm biển dảo trên Thái Bình Dương - Ảnh minh họa
Việt Nam có thể làm gì trong tình thế này khi cũng đang gồng mình chống dịch và liệu đồng minh Mỹ có đóng góp vai trò gì giúp Việt Nam khi cường quốc này vừa trở thành nước dẫn đầu thế giới về số ca lây nhiễm ?
Khai thác khí tự nhiên trên Biển Đông
Trung Quốc biến cải một bãi đá trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành một đảo nhân tạo - Ảnh minh họa
Mới đây nhất, ngày 26/3, Trung Quốc đã khai thác 861.400 mét khối khí tự nhiên từ khí metan, trong một tháng sản xuất thử nghiệm ở Biển Đông, truyền hình nước này đưa tin.
Giới chức năng lượng Trung Quốc phát biểu rằng đây là bước quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa khí metan.
Metan đã được xác định là một nguồn khí đốt mới tiềm năng cho Trung Quốc và Biển Đông được cho là có chứa một số lượng khí metan dồi dào nhất trên thế giới.
Đem tàu và máy bay đến Biển Đông
Không quân Trung Quốc diễn tập trên bầu trời quần đảo Trường Sa của Việt Nam - Ảnh minh họa
Trung Quốc đã đưa máy bay quân sự tới Biển Đông để diễn tập trong tháng này ở Biển Đông, dường như để đáp trả các cuộc tuần tra qua khu vực này của các tàu chiến Mỹ, theo truyền thông Trung Quốc.
Mới hồi tháng Hai, tàu sân bay USS Theredore Roservelt cập cảng Đà Nẵng của Việt Nam, một động thái được cho là nhằm tăng cường quan hệ Mỹ-Việt, khẳng định sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông, nhưng đã khiến Trung Quốc tức giận.
Tiếp đến, đầu tháng Ba, tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Mỹ đã đi vào Biển Đông để thể hiện rằng đây là tuyến đường thủy quốc tế mở thay vì nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc, theo Reuters.
Đáp lại, giữa tháng Ba, Trung Quốc tập trận chungvới Campuchia trên Biển Đông mặc dù có nguy cơ khiến Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác phẫn nộ.
Khánh thành hai trạm nghiên cứu ở Biển Đông
Trung Quốc cũng mới đưa vào hoạt động hai trạm nghiên cứu trên Đá Subi và Đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Hai cơ sở này sẽ theo dõi, đo đạc các thay đổi về sinh thái địa chất, môi trường tại các vùng biển này.
Hai cơ sở này được cho là cùng tổ hợp với một trung tâm nghiên cứu của Trung Quốc xây dựng trước đó ở Đá Vành Khăn ở Trường Sa.
Mỹ lo Covid-19 nên'không giúp được gì' ?
Chiến đấu cơ sẵn sàng can thiệp trên Hàng không mẫu hạm Mỹ Theodore Roosevelt - Ảnh minh họa
Nhưng chính phủ Hoa Kỳ, trong khi đang phải chống chọi với sự lây lan chóng mặt của Covid-19, không giúp đỡ gì các nước Châu Á khác chống lại Trung Quốc về lâu dài như đã từng trong quá khứ, theo các nhà phân tích trên VOA.
Theo Giáo sư Carl Thayer thì Mỹ không cho thấy vai trò lãnh đạo, và đó là một khoảng trống để Trung Quốc nhảy vào.
Mới hồi tháng Hai, một sự kiện được Việt Nam chào đón long trọng là việc tàu sân bay Theodore Roosevelt cập cảng Đà Nẵng. Theo các nhà phân tích, việc này cho thấy Việt Nam ủng hộ sự hiện diện của hải quân Mỹ. Và rằng ,Việt Nam hy vọng rằng việc tăng cường quan hệ quốc phòng với Mỹ sẽ ngăn chặn Trung Quốc tiếp tục bắt nạt.
Thế nhưng giới phân tích cho rằng mối liên minh này không thể kéo dài lâu.
Việt Nam và Mỹ 'không tin nhau' ?
Để chống lại sự đe dọa của Trung Quốc, chiến lược của Mỹ là củng cố các cam kết về quan hệ đối tác và đồng minh đã có, đồng thời mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ với các đối tác mới cùng chia sẻ quan điểm về tôn trọng chủ quyền, công bằng thương mại và luật quốc tế, theo phân tích của tác giả Mark J. Valencia trên SCMP.
Trung Quốc coi khoảng 90% Biển Đông là của nước mình - nơi các nước khác cũng khẳng định chủ quyền như Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.
Trung Quốc đã xây nhiều đảo nhỏ tại đây cho mục đích quân sự. Các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quóc định kỳ đi qua vùng viển mà các quốc gia khác khẳng định chủ quyền.
Chiến lược này nhằm thực hiện tầm nhìn vĩ đại của Mỹ về một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở, bao gồm tự do hàng hải, tôn trọng luật pháp, tôn trọng chủ quyền, doanh nghiệp tư nhân và thị trường mở...
Do tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc, từ lâu các nhà quan sát đã cho rằng Việt Nam là một nước chống Trung phò Mỹ mạnh mẽ nhất trong toàn khối ASEAN.
Thế nhưng, thực tế là Việt Nam không chia sẻ nguyên lý cốt lõi của một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở - tự do hàng hải cho các tàu chiến.
Việt Nam từ lâu đã có những chính sách hạn chế cho tàu chiến đi vào lãnh hải của mình - tương tự như Trung Quốc. Đặc biệt, Việt Nam có cả đường lãnh hải cơ sở và các nước phải được phép của Việt Nam mới được vượt qua các đường cơ sở này, theo ông Mark J. Valencia - nhà phân tích chính sách hàng hải, nhà bình luận chính trị và nhà tư vấn chính sách Châu Á nổi tiếng.
Do đó, việc Hoa Kỳ đưa các tàu chiến đi vào trong vùng lãnh hải xung quanh Hoàng Sa không chỉ nhắm vào Trung Quốc mà còn vào Việt Nam.
Hơn nữa, Hoa Kỳ không công nhận các yêu sách của Việt Nam đối với các thực thể nằm dưới mực thủy triều ở Trường Sa, đồng thời phản đối việc quân sự hóa của Việt Nam, cũng giống như với Trung Quốc.
Sự va chạm trong các diễn giải và các chính sách pháp lý liên quan đến tự do hàng hải là biểu tượng cho sự lệch tông mang tính chiến lược cơ bản giữa Mỹ và Việt Nam.
Ngoài ra, dù chống Trung, Việt-Trung lại có mối quan hệ khăng khít giữa hai đảng, và về kinh tế.
Việt Nam cũng luôn kiên định chính sách 'ba không' - không tham gia vào các liên minh quân sự, không có căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và không phụ thuộc vào một quốc gia để chống lại một quốc gia khác.
Không có điểm chung về văn hóa, ý thức hệ, hệ thống chính trị hay thế giới quan - ngoại trừ mối đe dọa của Trung Quốc. Đó là bản chất của mối quan hệ chiến lược Việt -Mỹ, vẫn theo tác giả Mark J. Valencia.
Trên thực tế, Việt Nam và Mỹ không tin nhau - vì những lý do chính đáng và từ cả hai phía - và điều đó khiến cho việc xây dựng một mối quan hệ chiến lược vững chắc và lâu dài giữa hai bên là không thể, Tiến sỹ Mark J. Valencia bình luận.
Mỹ Hằng
Nguồn : BBC, 30/03/2020
*********************
Trung Quốc khai thác lượng khí băng lớn kỷ lục ở Biển Đông
Chi Mai, VNTB, 30/03/2020
Bắc Kinh có thể đẩy mạnh tập trận ở Biển Đông trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với quân đội Mỹ
Trung Quốc vừa đưa vào hoạt động 2 trạm nghiên cứu trên đá Xu Bi và đá Chữ Thập (ảnh) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Không quân và hải quân Trung Quốc đang theo dõi sát sao quyền tự do hàng hải của Hoa Kỳ ở Biển Đông trong khi cả hai vẫn còn phải đang lo chống lại đại dịch virus corona.
Quân đội Trung Quốc dự kiến sẽ đẩy mạnh các cuộc tập trận trong khu vực để tăng cường huấn luyện chiến đấu. Cuộc tập trận gần nhất là vào ngày 10/3 mô phỏng cuộc đối đầu trực diện với máy bay và tàu chiến nước ngoài xâm lược Biển Đông.
Các cuộc tập trận của Trung Quốc diễn ra cùng ngày với tàu USS McCampbell đang tiến hành một hoạt động tự do hàng hải lần thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ trong năm nay khi tàu này tiến gần đến Quần đảo Hoàng Sa nơi Trung Quốc và Việt Nam cùng tuyên bố chủ quyền.
Căng thẳng Mỹ Trung đã gia tăng trong những tháng gần đây. Hồi tháng 2, Hải quân Mỹ cho biết một khu trục hạm Trung Quốc đã rọimột tia laser vào máy bay do thám P-8A Mỹ trong trên vùng biển quốc tế cách tây Guam 610km (380 dặm) vì Trung Quốc cho rằng Mỹ đã lạm dụng quyền tự do hàng hải theo luật pháp quốc tế.
Ở Biển Philippines, các tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ do tàu USS Theodore Roosevelt dẫn đầu đã thực hiện một loạt cuộc tập trận trong những tuần gần đây.
Kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền vào cuối năm 2012, Bắc Kinh đã chi hàng nghìn tỷ nhân dân tệ để xây dựng tám hòn đảo nhân tạo, và hơn hai chục tiền đồn đảo xung quanh các rạn san hô và đảo nhỏ trong khu vực tranh chấp chủ quyền với Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đã cố gắng mở rộng sự hiện diện quân sự của họ trong khu vực nhưng cả hai đã rất thận trọng vì không bên nào muốn tạo ra xung đột quân sự thực sự.
Vì vậy Hải quân Hoa Kỳ chỉ đi lại nhiều ở vùng Biển Philippines và Eo biển Đài Loan vì Washington nhận ra rằng Bắc Kinh chịu để mất Đài Loan.
Bắc Kinh khoe hai thác được khối lượng khí đốt lớn kỷ lục thế giới ở Biển Đông
Hôm thứ Năm truyền thông Trung Quốc đưa tin Trung Quốc đã khai thác 861.400 mét khối khí đốt tự nhiên từ khí mêtan,hay băng cháy trong một tháng khai thác thử nghiệm ở Biển Đông.
Khí băng được khai thác từ độ sâu khoảng 1.225 mét tại một khu tranh chấp ở Biển Đông nơi được cho là có trữ lượng khí băng hứa hẹn nhất thế giới và Trung Quốc đã xác định đá băng cháy dễ cháy là một nguồn khí tiềm năng mới.
Thông báo của Trung Quốc được đưa ra để đáp trả vụ thử tên lửa bắn đạn thật của Hải quân Hoa Kỳ tại Biển Philippines gần đó vào tuần trước
Thử nghiệm này được coi là một bước quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa khí mêtan dựa một nền tảng kỹ thuật vững chắc để khai thác thương mại,Trung Quốc đã áp dụng một kỹ thuật khoan giếng ngang mới nhất và đã khai thác được lượng khi băng lớn nhất thế giới.
Trung Quốc lần đầu tiên tiến hành khai thác khí thử nghiệm khí băng metan hydrat ở Biển Đông vào năm 2017. Trong khoảng thời gian 60 ngày, Trung Quốc đã khai thác được 300.000 mét khối khí đốt tự nhiên.
Là quốc gia nhập khẩu dầu và khí đốt lớn nhất thế giới, Trung Quốc muốn tìm kiếm các nguồn nhiên liệu thay thế để tăng cường an ninh năng lượng trong bối cảnh giá dầu và khí đốt biến động gần đây. Bắc Kinh đặt mục tiêu đáp ứng 10% năng lượng trong nước từ khai thác khí đốt tự nhiên.
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền biển của Việt Nam
Chiều 26/3, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã lên tiếng về việc Trung Quốc vừa đưa vào hoạt động 2 trạm nghiên cứu trên đá Xu Bi và đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Bà Hằng lặp lại những lý lẽ Việt Nam trước giờ vẫn sử dụng để phản đối sự Bắc Kinh "Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế. Vì vậy Việt Nam cho yêu cầu mọi hoạt động tại 2 quần đảo này phải được sự cho phép của Việt Nam ".
"Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam ; không có các hành động gây gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình ở Biển Đông và khu vực ; tuân thủ quy định của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc".
Chi Mai
(2) https://www.breitbart.com/asia/2020/03/27/china-boasts-world-record-gas-extraction-south-china-sea/
Trung Quốc nhiều lần được đề cập tới trong Sách Trắng Quốc phòng "bốn không" của Việt Nam, nhất là trong các vấn đề liên quan tới Biển Đông, và Hà Nội cũng thừa nhận "sự khác biệt" với nước láng giềng phương bắc về tranh chấp từng nhiều lần gây sóng gió trong quan hệ song phương.
"Sự khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vấn đề chủ quyền trên Biển Đông cần được xử lý hết sức tỉnh táo, cẩn trọng, không để ảnh hưởng tiêu cực đến đại cục hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển của hai nước", Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam có đoạn.
"Giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp vì liên quan đến nhiều nước, nhiều bên. Hai bên cần tiếp tục đàm phán, hiệp thương tìm kiếm giải pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế".
Tài liệu quan trọng về chính sách quốc phòng của Việt Nam mới chính thức xuất hiện trên mạng của Bộ Quốc phòng Việt Nam hôm 10/12, nửa tháng sau khi được Thứ trưởng của Bộ này, ông Nguyễn Chí Vịnh, công bố ở Hà Nội.
Tài liệu lần đầu tiên xuất bản trong vòng một thập kỷ này viết thêm rằng "trong khi chờ đạt được một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc cần nỗ lực giữ ổn định tình hình ở Biển Đông" cũng như "tuân thủ luật pháp quốc tế" và "không có hành động làm phức tạp thêm tình hình hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không quân sự hóa, không có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực".
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore nhận định rằng "về chính sách quốc phòng, Sách Trắng không tiết lộ bất kỳ thay đổi đáng kể nào, ngoại trừ một điều chỉnh nhỏ đối với chính sách ‘ba không' nổi tiếng lâu nay".
Việt Nam từng tuyên bố "chủ trương không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác", và nay, theo Sách Trắng Quốc phòng 2019, chính quyền Hà Nội thêm cái "không" thứ tư, đó là "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Ông Hiệp cho rằng "việc bổ sung nguyên tắc không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực rõ ràng là nhằm làm nổi bật bản chất phòng thủ và hòa bình của chính sách quốc phòng Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang liên tục nỗ lực nâng cao năng lực quân sự của mình".
"Đồng thời, nguyên tắc này cũng có thể nhằm góp phần nhấn mạnh tính phi pháp của các hành vi gây hấn ở Biển Đông, nơi Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực và sự cưỡng ép ngày càng tăng, kể cả các lời đe dọa sử dụng vũ lực, từ Trung Quốc", ông Hiệp nhận định thêm.
Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam cũng nói rằng Hà Nội "ủng hộ và bảo vệ quyền tự do đi lại, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không trên Biển Đông".
Hoa Kỳ thời gian qua nhiều lần đưa tàu tới gần các đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông để thực hiện các hoạt động khẳng định quyền tự do hàng hải, khiến Bắc Kinh phản ứng giận dữ.
Liên quan tới việc "tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung", Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam viết rằng "tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế".
Ông Murray Hiebert từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế nói với VOA tiếng Việt rằng với tuyên bố như trên, Hà Nội "phát đi tín hiệu tới Bắc Kinh rằng Việt Nam buộc phải mở rộng các mối quan hệ quốc phòng nếu Trung Quốc tiếp tục gây áp lực lên Việt Nam".
Bên cạnh vấn đề Biển Đông, Trung Quốc cũng được nhắc tới trong Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam liên quan tới các hiệp định về biên giới giữa Hà Nội và các nước láng giềng, trong đó có "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc", vốn "chính thức có hiệu lực từ tháng 6 năm 2016".
Tháng Bảy vừa qua, Trung Quốc công bố "Bạch thư Quốc phòng", trong đó có cũng nhắc tới Việt Nam và Biển Đông, đồng thời nói rằng các lực lượng vũ trang của quốc gia đông dân nhất thế giới "quyết tâm bảo vệ chủ quyền" ở vùng biển tranh chấp.
Tài liệu có tựa đề "Quốc phòng Trung Quốc trong thời kỳ mới" viết rằng "tình hình Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông] nhìn chung ổn định và cải thiện trong khi các nước trong khu vực đang xử lý phù hợp các rủi ro và khác biệt".
Trong tuyên bố cho thấy Bắc Kinh nhiều khả năng sẽ không nhượng bộ trong vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh hải, "Bạch thư Quốc phòng" nói rằng "mục tiêu cơ bản" của chính sách phòng thủ quốc gia của quốc gia đông dân nhất thế giới là nhằm bảo vệ "các quyền lợi và chủ quyền hàng hải của Trung Quốc".
Viễn Đông
**********************
Việt Nam tiếp tục nêu quan ngại về căng thẳng Biển Đông ra Liên Hiệp Quốc (RFA, 11/12/2019)
Tại phiên họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc diễn ra hôm 10/12, Đại diện Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc tiếp tục nêu quan ngại về tình hình căng thẳng Biển Đông với những vụ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong thời gian qua.
Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hôm 28/9/2019 - AP - Hình minh họa.
Đây là lần thứ hai trong năm nay Việt Nam nói đến những hành động xâm phạm của tàu Trung Quốc ở vùng biển của Việt Nam nhưng tránh không nên tên Trung Quốc trực tiếp.
Hôm 28/9, Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng đã đưa vấn đề căng thẳng ở Bãi Tư Chính giữa Trung Quốc và Việt Nam ra Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc trong bài phát biểu của mình nhưng không nêu tên Trung Quốc.
Phát biểu tại phiên họp toàn thể ở Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, đại diện Việt Nam Phạm Hải Anh bày tỏ quan ngại về một số sự kiện diễn ra gần đây tại Biển Đông, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, kêu gọi các bên liên quan không tái diễn các vi phạm và tránh các hoạt động đơn phương làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông.
Ông Phạm Hải Anh cũng kêu gọi các bên kiềm chế, không quân sự hóa khu vực Biển Đông, thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đồng thời khẳng định lập trường của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp qua biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Cũng tại phiên họp lần này, đại diện một số nước như Mỹ, Đức, Nhật Bản, Australia cũng đề cập đến vấn đề tranh chấp Biển Đông, đề cao vai trò của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.
Từ khoảng giữa tháng 6 và đầu tháng 7 đến khoảng cuối tháng 10, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu hải cảnh, dân binh và cả tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần Bãi Tư Chính, quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng phản đối hành động này của Bắc Kinh và yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu.
Hoa Kỳ và EU cũng bày tỏ quan ngại về căng thẳng ở Bãi Tư Chính mà Bộ Ngoại giao Mỹ gọi là hành động bắt nạn Việt Nam của Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc trong khi đó khẳng định vùng nước gần Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam ngừng các hoạt động đơn phương tại khu vực này.
Mặc dù có những căng thẳng với Trung Quốc ở Biển Đông, Hà Nội và Bắc Kinh vẫn duy trì các đối thoại và hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, bao gồm việc tuần tra chung ở vùng Vịnh Bắc Bộ. Đợt tuần tra mới nhất giữa hải quân hai nước vừa diễn ra từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 12.
Biển Đông là vùng nước đang có tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước ở khu vực Đông Nam Á bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, và Đài Loan.
Trung Quốc đòi chủ quyền phần lớn diện tích Biển Đông với đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này tự vẽ ra trên biển.
Thời gian qua, Bắc Kinh đã đẩy mạnh việc tuyên truyền chủ quyền trên biển với đường đứt khúc này qua các ấn phẩm sách báo, phim ảnh và ứng dụng bản đồ, gây ra các phản ứng gay gắt từ các nước láng giềng.
Hôm 10/12, truyền thông trong nước đưa tin công ty Điện lực Long Thành (Đồng Nai) mới đây đã từ chối mua điện mặt trời áp mái của một khách hàng trên địa bàn vì phần mềm được cài đặt có bản đồ đường lưỡi bò.
Các bộ ngành của Việt Nam thời gian gần đây đã đồng loạt chỉ đạo việc kiểm tra chặt chẽ, cấm nhập những mặt hàng vào Việt Nam có bản đồ lưỡi bò.
****************
Nhà ngoại giao Việt Nam phản đối Mỹ can thiệp vào Hong Kong (RFA, 11/12/2019)
Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc CRI hôm 9/12/2019 dẫn lời ông Nguyễn Vinh Quang, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc, Cố vấn cấp cao Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế Việt Nam phản đối việc Hoa Kỳ can thiệp vào chuyện Hồng Kông.
Hình minh họa. Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc, ông Nguyễn Vinh Quang - Courtesy of CRI
Theo đó, nhà ngoại giao Nguyễn Vinh Quang cho biết, tình hình Hồng Kông không ổn định không những không lợi đối với người dân Hồng Kông, mà còn gây ảnh hưởng tới các nước liên quan trong đó có Việt Nam, mong Hồng Kông sớm khôi phục ổn định.
Ông Nguyễn Vinh Quang cho hay, Hồng Kông là một phần lãnh thổ của Trung Quốc, vấn đề Hồng Kông là công việc nội bộ của Trung Quốc, chúng tôi phản đối hành động can thiệp vào công việc nội bộ Trung Quốc.
Ông nhấn mạnh tôn trọng "Một nước hai chế độ" của Trung Quốc, tôn trọng "Luật Cơ bản Đặc khu hành chính Hồng Kông", cũng tôn trọng nguyện vọng của người dân Hồng Kông, đúng như Trung Quốc nêu ra chế độ "Người Hồng Kông quản lý Hồng Kông".
Ông Nguyễn Vinh Quang nói, các biện pháp áp dụng của Trung Quốc như tạm dừng phê duyệt tàu chiến Mỹ vào Hồng Kông và trừng phạt "Quỹ dân chủ Quốc gia Mỹ", là những quyết định được đưa ra theo nhu cầu bản thân của chính phủ Trung Quốc.
Hôm 27/11/2019, Tổng thống Mỹ Donald Trump ký thành luật 2 đạo luật Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông.
Bắc Kinh sau đó lên tiếng phản đối và cho rằng đây là việc làm can thiệp vào nội bộ Trung Quốc và cảnh báo Mỹ sẽ lãnh hậu quả.
Sau Bãi Tư Chính với nguồn trữ lượng dầu khí còn khá dồi dào, quần đảo Trường Sa đã trở thành mục tiêu thứ hai liên tiếp mà Bắc Kinh đặt vào tầm ngắm và có thể phát động chiến tranh xâm lược.
Một trạm gác di động của Việt Nam tại Trường Sa. Hình chụp 2010.
Bàn đạp của chiến tranh
Ngày 8/11/2019, Bắc Kinh đã tiến thêm một bước gây hấn khi Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Cảnh Sảng tái khẳng định ‘quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc’. Thông thường, Trung Quốc ra tuyên bố về chủ quyền đối với Trường Sa trong bối cảnh quan hệ Trung - Việt thật sự căng thẳng.
Trước đó vào ngày 18/9, cũng là Cảnh Sảng đã tung ra một tuyên bố chưa từng có : khẳng định Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động khai thác dầu khí ở nơi này.
Đã có thể nhìn ra rất rõ ý đồ của Trung Quốc trong chiến dịch mang tên Hải Dương 8 từ đầu tháng 7 năm 2019 đến nay : biến vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế của Việt Nam thành ‘vùng tranh chấp lãnh thổ’ với Trung Quốc, để sau đó từng bước tuyên bố không chỉ Bãi Tư Chính mà cả quần đảo Trường Sa cũng thuộc chủ quyền Trung Quốc, đánh lận con đen với dư luận quốc tế để tạo bàn đạp gây chiến khi cần thiết.
Nếu dầu khí ở Bãi tư Chính là nguồn tài nguyên thiên nhiên gần như duy nhất còn lại để nuôi bộ máy đảng Cộng sản Việt Nam cùng một thứ tín ngưỡng hệ thức hệ xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ tồn tại trong thực tiễn, Trường Sa tuy diện tích nhỏ nhưng lại có vai trò chiến lược quân sự khi quần đảo này nằm ở vị trí án ngữ ngay các luồng giao thông qua lại trên Biển Đông.
Nếu mất Trường Sa, Việt Nam sẽ mất nốt một cứ điểm quan trọng ở Biển Đông, sau khi quần đảo Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc vào năm 1974. Và nếu điều tồi tệ ấy xảy ra, Trung Quốc sẽ có được một trạm ‘BOT đường biển’ hết sức đắc ý mà có thể dựa vào đó để mặc cả và ‘thu phí’ thông thương đối với tàu bè các nước Mỹ, Nhật Bản , Ấn Độ, Úc…, trong đó 4 quốc gia vừa kể tên nằm trong nhóm ‘tứ giác kim cương’ - một liên minh về quân sự đối trọng với Trung Quốc ở vùng Thái Bình Dương.
Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ lữ đoàn, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong "đường lưỡi bò" mới được Trung Quốc vẽ bổ sung. Và với Trường Sa.
Bước đầu, Trung Quốc có thể tấn công các tàu hải cảnh của Việt Nam đang bảo vệ Bãi Tư Chính. Sau đó, cuộc chiến sẽ leo thang với sự đụng độ giữa các tàu chiến của hai bên. Sau đó Trung Quốc có thể tấn công Trường Sa. Hoặc có thể sẽ gây chiến ở Trường Sa trước khi đổ quân vào Bãi Tư Chính.
Việt Nam lấy gì để chống trả ?
Nếu xét về năng lực hải quân, cho dù có điều động toàn bộ số tàu chiến và hải cảnh ra Biển Đông, phía Việt Nam cũng chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng lượng tàu chiến và hải cảnh của Trung Quốc, chưa kể hàng chục ngàn tàu "thương mại dân sự," tức tàu cá được bọc sắt, mà Bắc Kinh tung ra như một đòn chiến thuật biển vào những lúc không cần có mặt tàu chiến. Hải quân Việt Nam sẽ khó lòng cầm cự được lâu nếu nổ ra chiến tranh ở Biển Đông.
Còn nếu xét về ý chí "hải quân bám bờ" trong suốt thời gian nhiều năm qua và tâm thế ngậm hột thị hiện thời thì chẳng có hy vọng gì về việc Hải quân Việt Nam dám can đảm chống cự tàu Trung Quốc khi bị tấn công. Thậm chí cảnh "bỏ của chạy lấy người" còn có thể lan tỏa rộng - đúng theo phương cách "chống giặc bằng cờ" mà giới chóp bu Việt Nam đang đốc thúc phát 1 triệu lá cờ đỏ sao vàng cho ngư dân để "bám biển."
Hiện thời, ngay cả chuyện nêu tên Trung Quốc và Bãi Tư Chính trong những phản ứng hiếm hoi của Bộ Ngoại giao và giới tướng lĩnh quân đội Việt Nam vẫn chỉ là giấc mơ cổ tích.
Rất đồng điệu với thái độ câm nín từ trên xuống dưới, từ Nguyễn Phú Trọng cho đến các ủy viên bộ chính trị và tất nhiên chẳng cần đếm tới gần hai trăm ủy viên trung ương, cho tới nay Bộ Quốc phòng Việt Nam thậm chí còn không đủ can đảm công bố chuyện đưa tên lửa ra Trường Sa để đối đầu với tên lửa Trung Quốc ở đảo Phú Lâm.
Hãy nhớ lại, vào đúng ngày 17/2 năm 2016, như một cách kỷ niệm 37 năm ngày khởi động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã bố trí phi pháp 8 tên lửa đất đối không HQ-9 và 1 hệ thống radar trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Những hình ảnh vệ tinh do hãng ImageSat International (ISI) chụp đã chứng minh rất rõ vụ việc này.
Một khi đã công khai đặt tên lửa ở đảo Phú Lâm để từ đó khống chế một phần Biển Đông, Trung Quốc sẽ chẳng mấy ngần ngại chọn Việt Nam như một mắt xích yếu nhất và hèn nhất trong khu vực những quốc gia Đông Nam Á để tạo nên một cuộc xung đột quân sự mang tính răn đe đối với Mỹ và những nước còn lại, đặc biệt sau phán quyết PCA quá bất lợi cho tác giả của "đường lưỡi bò 9 đoạn".
Đến tháng 8/2016, hãng tin Anh Reuters bất ngờ đẩy thể chế đối ngoại của Việt Nam vào thế không hề êm dịu và buộc phải mở miệng khi dẫn từ một "thông tin tình báo", cho thấy Hà Nội đã vận chuyển các giàn phóng tên lửa từ đất liền tới 5 căn cứ ở quần đảo Trường Sa trong những tháng trước đó.
Trong khi đó, giới chóp bu Việt Nam lúc nào cũng co rúm trước Trung Quốc như thỏ trước sói. Chuỗi logic của tư thế ẩn nấp tối đa như thế đã dẫn đến hậu quả là Hà Nội cùng Bộ Quốc phòng Việt Nam bị một vố đau điếng : ai đó đã bật mí về những giàn phóng tên lửa mà Việt Nam đang giấu giếm cho Reuters và buộc Việt Nam phải lộ diện trước cú phủ đầu hờm sẵn của Trung Quốc.
Thế nhưng cho tới nay, người ta đã chỉ có thể đoán biết về sự hiện diện của những giàn phóng tên lửa Việt Nam qua lời viên tướng Nguyễn Chí Vịnh - Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam - vào thời điểm năm 2016 : "Di chuyển bất kỳ loại vũ khí nào đến bất kỳ khu vực vào bất kỳ lúc nào trong vùng lãnh thổ có chủ quyền của chúng tôi là quyền hợp pháp của chúng tôi". Một cách nói chung chung và hàng hai theo đúng phong cách luôn lập lờ thủ thế của quan chức này.
Tuy vậy, Vịnh và những quan chức quân đội khác đã không phủ định sự hiện diện của tên lửa Việt Nam ở Trường Sa.
Có thể giới quan sát quốc tế không mấy biết đến cái tên Nguyễn Chí Vịnh. Nhưng nhiều người ở Việt Nam lại đã hiểu rõ thái độ lấp lửng cố hữu của viên tướng 3 sao này. Dưới thời Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, tướng Vịnh còn bị một số dư luận cho rằng "có yếu tố thân Trung Quốc". Biểu hiện rất dễ nhận ra của Nguyễn Chí Vịnh là trong hầu hết những cuộc "đối ngoại" với giới quân sự và các lãnh đạo Bắc Kinh, Vịnh luôn sử dụng một loại văn phong mô tả bầu không khí "Bốn tốt" lẫn "Mười sáu chữ vàng", thậm chí cả vào lúc tàu hải cảnh Trung Quốc công khai tấn công các tàu cá và giết hại ngư dân Việt Nam.
Cho tới nay, tướng Vịnh vẫn là người như thế. Còn cấp trên của ông ta là Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch thì chưa bao giờ dám phản ứng với Bắc Kinh. Theo một nhận xét gần đây nhất của tướng quân đội Lê Mã Lương, Ngô Xuân Lịch thậm chí còn chưa trải qua trận đánh nào và không biết đọc bản đồ thực địa quân sự !
Kẻ quỳ người đứng
5 năm sau cái năm 2014 vừa khốn khó vừa phải chịu nhục, chóp bu Việt Nam vẫn ngập ngụa nguyên trạng trong cảnh nguy khốn thực sự cùng tương lai đánh mất dầu khí và lãnh thổ.
Trong khi đó, bài toán ‘đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông - vẫn cứ ì ra đó bởi những quan chức Việt Nam chết đến đít vẫn còn kiêu căng hợm hĩnh ‘Mỹ cần Việt Nam hơn Việt Nam cần Mỹ’.
Ngay trước mắt, nếu Trung Quốc tiến thêm một bước là hạ đặt giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 trong khu vực Bãi Tư Chính, hoặc nằm ngoài khu vực này nhưng sát với một lô dầu khí màu mỡ nào đó mà Việt Nam đang khai thác, liệu các lực lượng được xem là ‘chức năng’ và ‘có trách nhiệm’ của Việt Nam có dám phản ứng ? Nếu phản ứng thì sẽ là gì ?
Khốn thay, dù được xem là quốc gia có lực lượng quân sự hùng hậu nhất Đông Nam Á, nhưng tư thế cúi rúc của Bộ Chính trị đảng ở Việt Nam còn lâu mới vươn kịp dáng đứng thẳng của nhà nước Philippines khi dám kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế và đã thắng kiện vào năm 2016.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 19/11/2019
Philippines : Trung Quốc muốn hạn chế các lực lượng nước ngoài tại Biển Đông (RFI, 12/09/2019)
Ngoại trưởng Philippines hôm 11/09/2019 cho biết, Trung Quốc trong quá trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) muốn hạn chế sự hiện diện của quân đội nước ngoài, cũng như việc các công ty ngoại quốc tham gia vào các dự án dầu khí tại Biển Đông.
Ảnh hải quân Mỹ chụp Đảo Đá Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa, Biển Đông, ngày 21/05/2015 cho thấy các tàu Trung Quốc hoạt động tại đó. Reuters/ Hải quân Mỹ
Ngoại trưởng Teodoro Locsin Jr. khi trả lời phỏng vấn kênh ABS-CBN News tiết lộ, việc thương lượng "có lúc đã hết sức gay gắt", vì Bắc Kinh nhất định đòi "không có cường quốc quân sự nước ngoài nào được hiện diện tại Biển Đông", và "nếu các vị muốn khai thác dầu khí thì chỉ có thể làm việc với chúng tôi".
Cũng theo ông Locsin Jr., tuy nhiên hiện nay Trung Quốc tỏ ra hòa hoãn hơn, không còn kiên quyết đòi loại bỏ sự hiện diện quân sự của nước ngoài, và theo ông, chủ yếu chỉ nhắm vào "các địch thủ của Trung Quốc và một số đồng minh của Philippines". Ông bày tỏ hy vọng những trở ngại có thể được tháo gỡ trong thời gian tới.
AP cho biết hiện nay cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ đều chưa đưa ra lời bình luận nào. Bắc Kinh luôn phản đối việc Washington cho chiến hạm tuần tra vì tự do hàng hải trên Biển Đông.
Trung Quốc bị phê phán là chỉ chịu đàm phán với ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử sau khi hoàn tất việc xây dựng bảy đảo nhân tạo ở Trường Sa. Thời hạn mà Tập Cận Bình đưa ra để hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử là ba năm cũng được coi là thủ thuật "câu giờ" để quân sự hóa vùng biển này, đặt các quốc gia ven biển trước "việc đã rồi".
Sự lợi hại của các đảo nhân tạo do Bắc Kinh xây lên được thấy rõ trong vụ bãi Tư Chính : nhóm tàu Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc sau khi xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã nhiều lần đến Đá Chữ Thập để tiếp liệu rồi nhanh chóng trở lại bãi Tư Chính để quấy nhiễu.
Đá Chữ Thập là rạn san hô thuộc cụm Nam Yết do Việt Nam đòi hỏi chủ quyền, bị Trung Quốc chiếm đóng năm 1988, nay đã trở thành đảo nhân tạo lớn nhất Trường Sa, với nhiều cơ sở quân sự và đường băng dài trên 3.100 mét dành cho oanh tạc cơ chiến lược duy nhất trong khu vực.
Thụy My
*****************
Malaysia và Trung Quốc lập cơ chế đối thoại Biển Đông (RFI, 12/09/2019)
Trung Quốc và Malaysia đã đồng ý thiết lập cơ chế đối thoại song phương về vùng Biển Đông đang có tranh chấp giữa hai bên. Hôm 12/09/2019, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã cho biết như trên sau cuộc hội đàm với đồng nhiệm Malaysia hiện đang thăm Bắc Kinh.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị Wang Yi (P) và đồng nhiệm Malaysia Saifuddin Abdullah, trong cuộc gặp tại Bắc Kinh, ngày 12/09/2019 Andrea Verdelli/Pool via Reuters
Phát biểu trong một cuộc họp báo chung với ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah, ông Vương Nghị khẳng định rằng trong năm nay căng thẳng đã lắng dịu ở Biển Đông, và Trung Quốc cùng với các nước ven Biển Đông đã cam kết tiếp tục xử lý thỏa đáng vấn đề Biển Đông và cùng nhau bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực.
Theo ngoại trưởng Trung Quốc, chính trong chiều hướng đó mà Bắc Kinh và Kuala Lumpur đã đồng ý thiết lập "một cơ chế tham vấn song phương về các vấn đề hàng hải, một cấu trúc mới để đối thoại và hợp tác cho cả hai bên".
Về phần minh, ngoại trưởng Malaysia Abdullah cho biết là cơ chế này sẽ do bộ Ngoại Giao của cả hai nước lãnh đạo. Chi tiết về cơ chế này sẽ được chuyên viên hai bên thảo luận tiếp, nhưng đối với người lãnh đạo ngành ngoại giao Malaysia, quyết định thành lập cơ chế là "một kết quả quan trọng".
Trong những tuần lễ gần đây, Trung Quốc đã không ngần ngại cho tàu khảo sát xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia cũng như Việt Nam, nhưng chính quyền Kuala Lumpur đã có giữ im lặng, đặc biệt là sau khi Trung Quốc đã bơm hàng tỷ đô la vào các dự án cơ sở hạ tầng tại Malaysia.
Trả lời hãng tin Anh Reuters hồi tháng 8/2019, bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia Mohamad Sabu cho biết là Kuala Lumpur thường xuyên theo dõi các tàu hải quân và hải cảnh Trung Quốc xâm nhập lãnh hải Malaysia, nhưng cho đến giờ này Trung Quốc tôn trọng Malaysia và "không làm bất cứ điều gì gây rắc rối".
Theo ghi nhận của Reuters, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Malaysia, và hai bên cũng có quan hệ văn hóa chặt chẽ.
Vào tháng 7, Trung Quốc và Malaysia đã nối lại việc xây dựng một dự án xe lửa ở phía bắc Malaysia, một phần trong kế hoạch Một Vành Đai Một Con Đường của Trung Quốc, sau khi bị đình chỉ một năm và sau một thỏa thuận hiếm hoi để cắt giảm chi phí gần một phần ba, xuống còn khoảng 11 tỷ đô la.
Trọng Nghĩa
********************
Duterte sẵn sàng "lờ"phán quyết La Haye để khai thác chung với Bắc Kinh ở Biển Đông (RFI, 11/09/2019)
Tổng thống Philippines tiếp tục gây lo ngại với tuyên bố sẵn sàng gạt qua một bên phán quyết của Tòa án quốc tế La Haye, để khai thác dầu khí chung với Bắc Kinh tại Biển Đông. Tuyên bố được ông Duterte đưa ra hôm qua, 10/09/2019.
Quần đảo Trường Sa, Biển Đông. Ảnh chụp ngày 21/04/2017 - Ted ALJIBE / AFP
Tuy nhiên, trong một cuộc họp báo hôm nay, 11/09/2019, ngoại trưởng Philippines khẳng định chắc nịch là các hợp đồng khai thác chung với Trung Quốc, nếu có, sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của phán quyết.
Hãng tin Anh Reuters cho hay, trong cuộc họp báo hôm qua tại phủ tổng thống, nguyên thủ Philippines Rodrigo Duterte thuật lại : trong cuộc hội kiến mới đây với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, ông Tập đã đề nghị, nếu Philippines "bỏ qua" phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye (xử thắng cho Manila trong vụ kiện Bắc Kinh về Biển Đông), thì Trung Quốc chấp nhận tiến hành khai thác chung dầu khí với Philippines tại khu vực Reed Bank (Bãi Cỏ Rong), nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Trong cuộc trả lời báo giới hôm qua, tổng thống Philippines đã không nói thẳng có chấp nhận đề nghị của chủ tịch Trung Quốc hay không, nhưng để ngỏ ý có thể sẽ gạt qua phần phán quyết của Tòa liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế, để tạo thuận lợi cho việc phối hợp khai thác.
Nguyên thủ Philippines cũng nhấn mạnh đến đề xuất của lãnh đạo Trung Quốc, nếu yêu cầu nói trên được chấp thuận, Bắc Kinh sẵn sàng đầu tư và chấp nhận phương thức ăn chia 40/60, theo đó, Trung Quốc hưởng phần ít.
Ngoại trưởng Philippines : Phán quyết La Haye là không thể khiếu nại
Vẫn theo Reuters, trong một cuộc trả lời phỏng vấn kênh truyền hình ANC hôm nay, ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin khẳng định : sẽ không có hợp đồng nào ký với Trung Quốc được phép vi phạm luật pháp Philippines, và việc gạt sang một bên phán quyết của Tòa án La Haye "không phải là điều quan trọng", bởi về nguyên tắc, phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực là "mang tính ràng buộc và không thể khiếu nại".
Trong chuyến công du Trung Quốc của tổng thống Philippines cuối tháng 8/2019, hai bên đã quyết định lập một ban chỉ đạo liên chính phủ nhằm hướng đến thăm dò và khai thác chung các nguồn tài nguyên dầu khí tại một số nơi ở Biển Đông. Tuy nhiên, hiện tại chưa hề có thông tin nào chính thức về các địa điểm khai thác được công bố. Trong chính giới Philippines, liên tục có những yêu cầu chính phủ đệ trình lên Quốc Hội mọi hợp đồng với ký kết với Trung Quốc, liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế, theo các quy định trong Hiến pháp.
Theo giới quan sát, mọi thỏa thuận của Manila với Trung Quốc, cho phép tiến hành các dự án khai thác dầu khí chung ở vùng đặc quyền kinh tế Philippines, nếu vi phạm luật pháp quốc tế về biển, trong đó có phán quyết của Tòa án La Haye, sẽ gây khó khăn nghiêm trọng cho các quốc gia ven bờ Biển Đông khác, trước hết là Việt Nam và Malaysia, hiện đang thường xuyên phải đối mặt với tình trạng tàu tuần duyên Trung Quốc xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế quốc gia.
Trọng Thành