Apple ngừng lắp ráp iPhone tại Việt Nam vì điều (RFA, 18/08/2020)
Một báo cáo cho biết Apple đang xem xét lại khả năng sản xuất iPhone tại Việt Nam, sau khi công ty Cupertino đến thăm nhà máy thuộc sở hữu của đối tác lắp ráp Luxshare để kiểm tra các điều kiện của cơ sở này.
Một người bán hàng đi qua một cửa hiệu có hình biểu tượng của công ty Apple ở Hà Nội - AFP
Tờ Apple Insider loan tin ngày 17/8, cho biết thêm đại diện của Apple đã đến thăm nhà máy sản xuất tại Khu công nghiệp Vân Trung, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam vào mùa hè vừa qua để kiểm tra quá trình xây dựng và khả năng sản xuất iPhone của cơ sở này.
Bài báo cũng trích dẫn lời Giám đốc đối ngoại Luxshare là Tăng Duệ Bằng khẳng định nhà máy tại Khu công nghiệp Vân Trung đã được kiểm tra để đảm bảo đúng quy mô, có đủ cơ sở vật chất và có đủ vốn đầu tư để bắt đầu lắp ráp iPhone. Đồng thời, ông cũng cho biết Apple đánh giá cao tiềm năng tại tỉnh Bắc Giang và những người lao động chăm chỉ.
Cơ sở này là một trong số các cơ sở tại Việt Nam lắp ráp sản xuất cho Apple.
Tuy nhiên, một phần của cơ sở vẫn chưa đáp ứng các yêu cầu của Apple, đặc biệt là những yêu cầu liên quan đến ký túc xá công nhân.
Apple Insider cho biết không rõ Luxshare đã bỏ qua những yêu cầu nào, nhưng có vẻ như đó là điều chính khiến cơ sở này không được Apple chấp thuận.
Khoản đầu tư của Luxshare vào tỉnh Bắc Giang được cho là đã lên tới 270 triệu USD, và mặc dù đã có 28.000 công nhân, nhưng sẽ cần tăng lên từ 50.000 đến 60.000 công nhân nếu được chấp thuận sản xuất iPhone.
Nhà máy rộng 30 ha được xây dựng trong 5 tháng sau khi Apple yêu cầu mở rộng sản xuất.
Việt Nam không phải là nơi duy nhất Luxshare muốn sử dụng để sản xuất iPhone. Vào tháng 7, họ đã mua một nhà máy iPhone ở Trung Quốc từ Wistron với giá khoảng 472 triệu USD.
*********************
Samsung nói không có việc chuyển sản xuất smartphone từ Việt Nam sang Ấn Độ (RFA, 18/08/2020)
Samsung Việt Nam lên tiếng phủ nhận tin chuyển một phần dây chuyền sản xuất smartphone tại Việt Nam sang Ấn Độ. Báo Nhà nước Việt Nam dẫn nguồn từ đại diện Samsung và đưa tin hôm 18 tháng 8.
Ảnh minh họa một cửa hàng bán sản phẩm Samsung ở Châu Á. AFP
Tạp chí Kinh tế Việt Nam trích lời đại diện Samsung Việt Nam rằng: "Thông tin về việc Samsung có thể chuyển một phần sản xuất smartphone từ Việt Nam sang Ấn Độ là không đúng sự thật. Hiện tại, các nhà máy sản xuất điện thoại của Samsung đặt tại Bắc Ninh và Thái Nguyên đang hoạt động bình thường mà không có liên quan gì đến sự điều chỉnh sản lượng sản xuất của nhà máy tại Ấn Độ. Samsung Việt Nam vẫn luôn giữ vững vai trò quan trọng là cứ điểm sản xuất toàn cầu của tập đoàn".
Sở dĩ Samsung Việt Nam phải lên tiếng là do báo giới trong nước đưa tin Samsung đã trình kế hoạch đa dạng hoá dây chuyền sản xuất smartphone với Chính phủ Ấn Độ, trị giá 40 tỷ USD. Do đó, Samsung có thể sẽ chuyển một phần dây chuyền sản xuất smartphone từ Việt Nam và các nước khác sang Ấn Độ.
Samsung bắt đầu xây dựng nhà máy tại Việt Nam vào năm 2008 với mức đầu tư 670 triệu USD, tập trung vào lĩnh vực sản xuất và những nhà máy ở đây đã trở thành những cứ điểm sản xuất của tập đoàn trên toàn cầu. Hiện Samsung là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất Việt Nam với tổng vốn đầu tư lên tới hơn 17,3 tỉ USD.
Tại buổi tiếp ông Choi Joo Ho, Tổng Giám đốc Tổ hợp Samsung Việt Nam chiều 11 tháng 8 năm 2020 vừa qua, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ mong muốn Samsung tiếp tục coi Việt Nam là cứ điểm sản xuất chiến lược của Tập đoàn trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Hiệp định CPTPP và EVFTA đã có hiệu lực.
***********************
Phá đường dây người Việt lừa hàng nghìn người Mỹ qua mạng lợi dụng đại dịch (VOA, 18/08/2020)
Hơn 7.000 công dân Mỹ đã bị một nhóm người Việt Nam lừa đảo qua mạng, trong đó người mua hàng trực tuyến trên khắp Hoa Kỳ đã trả tổng cộng gần 1 triệu USD để mua các sản phẩm rửa tay khô nhưng không bao giờ nhận được hàng, theo Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết hôm 18/8.
Theo thông cáo đăng trên trang web của Đại sứ quán Mỹ, ba nghi phạm Việt Nam đã bị bắt sau cuộc điều tra hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ.
"Việc Bộ Công an Việt Nam bắt giữ những nghi phạm này rõ ràng cho thấy Chính phủ Việt Nam rất nghiêm túc trong đấu tranh với các loại tội phạm liên quan đến Covid-19", Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink nói trong thông cáo. "Cuộc điều tra này cho thấy các nạn nhân đã mất mát số tiền rất lớn dù họ đang phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn khác do đại dịch COVI19 gây ra".
Theo Đại sứ quán Mỹ, cuộc điều tra bắt nguồn từ thành phố Tampa, bang Florida, vào tháng 3 vừa qua và sau đó văn phòng Cục Điều tra An Ninh Nội địa Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh chuyển thông tin cho Bộ Công an Việt Nam để tiến hành bắt giữ.
Ông Kritenbrink nói rằng "chúng tôi tự hào khi Bộ Công an Việt Nam và Cục Điều tra An ninh Nội địa Hoa Kỳ đang hợp tác với nhau để điều tra vụ lừa đảo xuyên quốc gia rất phức tạp này".
Ba nghi phạm người Việt – có tên Phan Dinh Thu, Tran Quoc Khanh và Nguyen Duy Toan – được cho là đã tham gia vào một vụ lừa đảo bán sản phẩm sát khuẩn tay cho công dân Mỹ trên cả 50 tiểu bang qua các trang mạng trên internet, theo hồ sơ tòa án từ một đơn kiện dân sự ở Mỹ hôm 3/8.
Nhóm ba người này lập ra hơn 300 trang web mà họ dùng để bán các sản phẩm đang trở nên khan hiếm trong thời gian đại dịch, trong đó có nước rửa tay khô và khăn ướt diệt khuẩn. Những người này được cho là đã lập nên hàng trăm tài khoản email giả mạo để giao dịch và thanh toán.
"Các nạn nhân trả tiền cho các sản phẩm được cho là bán qua các trang mạng này nhưng không bao giờ nhận được các món hàng mà họ đặt mua", thông cáo của Đại sứ quán Mỹ cho biết.
Các nhà điều tra Mỹ phát hiện ra gần 40.000 giao dịch trị giá tổng cộng khoảng 975.000 USD.
Cuối năm ngoái, Bộ An ninh Nội địa Mỹ cũng phá một đường dây lừa đảo qua mạng sau 7 năm điều tra, trong đó bốn người Việt Nam, gồm một cựu cán bộ công an, bị kết án hàng chục năm tù. Nhóm tội phạm này sống ở Việt Nam và sử dụng thẻ "Gift card" của trang web mua bán hàng trực tuyến Amazon.com có nguồn gốc bất hợp pháp để thu lợi bất chính.
Trước đó trong năm, các cơ quan thực thi pháp luật Mỹ cũng phá một đường dây lừa đảo liên quan đến người Việt. Đường dây, do người gốc Việt cầm đầu, dựng ra các vụ kết hôn giả để giúp những người muốn vào Mỹ xin giấy thường trú nhân bằng các chứng từ giả mạo.
*********************
Tránh cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, 1.400 công ty Nhật tính chuyển sang Việt Nam (VOA, 17/8/2020)
Hơn 40% trong số 3.500 doanh nghiệp Nhật Bản tham gia cuộc khảo sát của Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) cho biết họ đang xem xét mở rộng hoạt động tại Việt Nam trong ba năm tới, hãng thông tấn Kyodo dẫn báo cáo mới được công bố của JETRO cho biết hôm 16/8.
Công xưởng của hãng xe Honda ở Vũ Hán, Trung Quốc. Nhiều công ty của Nhật đang xem xét chuyển hoạt động từ Trung Quốc sang các quốc gia Đông Nam Á.
Báo cáo công bố vào ngày 30/7 cho biết ngày càng có nhiều công ty Nhật Bản xem xét mở rộng hoạt động tại các quốc gia Đông Nam Á và thu nhỏ hoạt động tại Trung Quốc nhằm tránh các tác động tiêu cực từ cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Báo cáo được thực hiện vào cuối năm 2019 cho thấy điểm đến Việt Nam chiếm 41% lựa chọn của các công ty Nhật tham gia khảo sát, tăng 5,5 điểm phần trăm so với năm ngoái, trong khi Thái Lan nhận được 36%, tăng 1,5 điểm phần trăm.
Thị trường Trung Quốc vẫn chiếm 48,1% lựa chọn của các công ty Nhật tham gia khảo sát mặc dù giảm 7,3 điểm phần trăm so với năm ngoái. Các công ty này cho hay họ sẽ tìm cách thúc đẩy hoạt động tại Trung Quốc.
Theo báo các của tổ chức được chính phủ Nhật Bản hậu thuẫn, khoảng cách giữa số lượng đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN và Trung Quốc đã mở rộng lên 20,4 tỷ yên (191 triệu USD) vào năm 2019 so với 10,2 tỷ yên vào năm 2017.
Hồi tháng 7, JETRO công bố một danh sách 30 công ty Nhật Bản nói họ sẵn sàng nhận trợ cấp từ chính phủ để chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Trong số này, 15 công ty coi Việt Nam là điểm đến ưa thích.
Khoản hỗ trợ tài chính của chính phủ Nhật Bản dao động từ 900.000 USD - 46,5 triệu USD để giúp cho các công ty trang trải việc mở rộng hoạt động.
Ngoài những tác động tiêu cực của chiến tranh thương mại, đại dịch Covid-19 cũng làm giảm đáng kể đầu tư của Nhật Bản vào các thị trường nước ngoài. Khoảng 80% các công ty Nhật Bản hoạt động ở nước ngoài dự báo rằng doanh số bán hàng sẽ giảm trong năm 2020 so với năm trước do nhu cầu giảm sau đại dịch virus corona. Trong 5 tháng đầu năm 2020, đầu tư của Nhật Bản vào toàn khu vực ASEAN đã giảm 35,5%.
Cuộc khảo sát được JETRO thực hiện trên gần 10.000 công ty Nhật Bản, trong đó hơn 3.500 công ty tham gia trả lời, tương đương 35,7%.
Việt Nam cần làm gì để kinh tế vượt qua dịch Covid-19 ?
Thanh Trúc, RFA, 06/08/2020
Việt Nam cần chuyển hướng mới để thúc đẩy tăng trưởng hầu vượt qua dịch bệnh Covid-19, phải cân bằng việc phòng chống dịch với việc đẩy mạnh tăng trưởng là nội dung bài viết của chuyên gia Ngân Hàng Thế Giới, ông Jacques Morisset, đăng trên trang mạng của World Bank hôm 4/8 vừa qua.
Việt Nam đang là quốc gia có sức khỏe tốt hơn trong hoạt động vừa chống dịch vừa tìm cách phục hồi kinh tế.
Theo ông Morisset, thực tế đã chứng minh không chỉ Việt Nam mà ngay cả nhiều nước khác, thành quả y tế không phải là cái được của kinh tế, và nền kinh tế Việt Nam đã bị tổn thương vì đại dịch từ đầu 2020 đến giờ.
Ông nói Việt Nam vẫn giữ được mức GDP 0,4% bước sang Quí 2 năm 2020, được coi là dấu hiệu tốt trong bối cảnh phòng chống dịch, thế nhưng vẫn là mức thấp nhất trong 35 năm qua.
Dưới con mắt quan sát của Ngân Hàng Thế Giới, mức độ chậm lại của nền kinh tế Việt Nam phần nào giống mức độ sụt giảm tại nhiều nước bị tác động bởi Covid-19 thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn theo ông Jacques Morisset, Việt Nam đang là quốc gia có sức khỏe tốt hơn trong hoạt động vừa chống dịch vừa tìm cách phục hồi kinh tế.
Đây không hẳn là những đề xuất mới là nhận xét của tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á :
"Chuyện kinh tế Việt Nam thì ông ấy nhìn đúng. Hơn 30 triệu người bị ảnh hưởng là có vẻ đáng tin cậy, còn con số thất nghiệp gần 3 triệu là chính phủ Việt Nam nói ngày hôm qua. Dựa trên những con số đấy thì ông nói rằng Việt Nam có 2 khả năng để thoát khỏi sự nặng nề của kinh tế do Covid-19 gây ra".
"Thứ nhất là nên tiếp tục chính sách tài khóa hiện hành, giữ mức nợ công thấp và chi tiêu công tăng, đấy là cái mà Việt Nam vẫn làm".
Điểm thứ hai mà chuyên gia Ngân Hàng Thế Giới cho rằng Việt Nam nên nhân tình hình dịch bệnh để phát triển những lãnh vực đa dạng như e-learning học trực tuyến, e-commerce thương mại trực tuyến, e-government chính phủ điện tử, e-payment thanh toán điện tử, telemedicine dịch vụ y tế online vân vân. Theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp thì đây là những chương trình số hóa mà Việt Nam đã và đang thực hiện lâu nay :
"Thứ hai là khuyên Việt Nam nên chuyển đổi, đưa lên mạng một số những hoạt động căn bản như mua bán hàng hóa online, thanh toán trên mạng, cung cấp các dịch vụ xã hội trên mạng… Vừa cách ly xã hội để chống Covid-19 vừa làm kinh tế được. Lời khuyên đó là hoàn toàn xác đáng. Bài báo của ông này chỉ nói đến thế thôi, thì chính phủ Việt Nam cũng nói như thế".
Những số liệu do báo chí trong nước loan tải từ tháng Một, tháng Hai, tháng Ba đến những ngày đầu tháng Tám 2020 cho thấy kinh tế Việt Nam bị tổn hại vì dịch bệnh, ngành du lịch thất thu 97%, sản xuất dưới mức 50%, GDP đình đốn với 0,4% trong lúc số lượng thất nghiệp tăng dần lên.
Lắp ráp hoàn thiện bộ dây điện ô tô tại nhà máy Yazaki Việt Nam tại Quảng Ninh - Ảnh VietnamBiz
Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh, Học Viện Tài Chính Việt Nam, cho biết chính phủ đã đề nhiều biện pháp hỗ trợ tài chính nhằm kìm hãm mức độ thất nghiệp cũng như giúp doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất :
"Nếu tình hình dịch bệnh căng thẳng thì con số thất nghiệp từ nay đến cuối năm có thể tăng từ 3,5 đến 5 triệu. Chính phủ đã có nhiều biện pháp hỗ trợ trong thời gian đại dịch này.
Đầu tiên là cho phép các Ngân Hàng Thương Mại kéo dài thời gian trả nợ của các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, không chuyển sang nhóm nợ xấu. Với những biện pháp như vậy thì việc tái cơ cấu nợ của các doanh nghiệp thuận lợi hơn và tạo điều kiện về vốn. Chúng tôi đề nghị chính phủ nên tiếp tục kéo dài thời hạn cũng như biện pháp để giúp doanh nghiệp có vốn sản xuất kinh doanh.
Thứ hai là chính phủ đang hỗ trợ cho những thành phần yếu thế trong xã hội. Với những người tàn tật, nghèo, cận nghèo, lao động mất việc thì tìm cách đẩy mạnh giải ngân gói 62.000 tỷ này.
Thứ ba là xem xét, sửa đổi, cho phép doanh nghiệp có thể vay một cách đơn giản hơn và cụ thể hơn đối với lãi suất 0% để trả lương nhằm giữ chân người lao động, góp phần giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn dịch bệnh chưa ổn định hiện nay.
Những biện pháp mà chuyên gia tài chính Đinh Trọng Thịnh trình bày cũng chính là những điều mà chuyên gia Morisset gọi là "mặt trận đối nội" vừa chống dịch vừa vực dậy nền kinh tế của Việt Nam.
Đối với kinh tế gia, nhà nghiên cứu độc lập Lê Đăng Doanh, nói thì dễ nhưng :
"Kinh tế số hóa, thương mại điện tử, chính phủ điện tử… là phương hướng cần thiết và thích hợp, có điều phải giúp các doanh nghiệp thiết lập lại mối quan hệ, thiết lập lại chuỗi giá trị của họ. Hiện nay các nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc thì hiện rất khó nhập lại được, còn thị trường tiêu thụ ở Châu Âu cũng như bên Mỹ thì đang giảm sút rất nhiều. Đấy là những điều phải khắc phục và khó có thể thực hiện bằng chỉ chính phủ điện tử hoặc là kinh tế số hóa.
Phải giảm thuế, giảm nợ và các khoản tín dụng, giúp doanh nghiệp chuyển sang thị trường mới. Tôi nghĩ Nhà Nước và doanh nghiệp phải liên kết với nhau, phải hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các doanh nghiệp nước ngoài. Đấy là những điều không phải ngày một ngày hai có thể làm được".
Được biết hôm 1/8 vừa qua, Việt Nam thông báo miễn giảm 30% thuế cho những doanh nghiệp nhỏ có doanh thu dưới 200 tỷ VNĐ. Ông Đinh Trọng Thịnh của Học Viện Tài Chính cho biết đây là gói hỗ trợ thứ tư, được đề nghị nới rộng mức độ miễn giảm cao hơn.
Việt Nam đã khống chế dịch bệnh Covid-19 đợt 1 với 99 ngày liên tiếp không có ca tử vong và lây nhiễm trong cộng đồng cho đến khi bùng phát trở lại từ ngày 25 tháng 7 vừa qua.
Theo ông Morisset, khắc phục được Covid-19 là cơ hội cho Việt Nam trở thành điểm đến của các doanh nghiệp nước ngoài muốn rời bỏ Trung Quốc như 11 công ty Nhật Bản mà báo chí Việt Nam đưa tin lâu nay. Việc này cần được phân tích rõ hơn, là ý kiến của chuyên gia Đông Nam Á Hà Hoàng Hợp :
"Mười một doanh nghiệp đó không phải những doanh nghiệp thật lớn của Nhật Bản ở Trung Quốc đâu. Hàn quốc thì vẫn quyết định chuyển nốt cái sản xuất màn hình TV vào Việt Nam và một số phân xưởng sản xuất các phụ kiện, thiết bị điện tử của Samsung và LG. Doanh nghiệp vào Việt Nam sẽ tăng lên không nhiều, trong 3 tháng vừa rồi hơn 800 doanh nhân Hàn Quốc vào Việt Nam chỉ để tiếp tục những gì họ đã và đang làm. Một nghìn doanh nhân Nhật mới vào mà chưa biết họ tìm ra những cơ hội làm ăn gì.
Bỏ Trung Quốc vào Việt Nam không có nhiều, mà bỏ Trung Quốc vào các nước khác như Indonesia hay Thái Lan cũng không nhiều, cho nên Việt Nam cũng đừng trông mong vào đấy. Căn bản trong hơn 60% người lao động Việt Nam thì con số người có tay nghề công việc của người nước ngoài rất nhỏ. Nếu người ta vào thì mình phải để cho người ta tự tuyển lao động rồi người ta huấn luyện.
Việt Nam phải đi đến chỗ, tức là làm sao để các nước khác người ta đến Việt Nam không phải vì người ta bỏ Trung Quốc, mà người ta đến vì cần thị trường Việt Nam như một thành phần quan trọng trong chuỗi cung ứng hàng hóa chọ họ. Trước hết phải là như thế".
Những đánh giá và nhận định của Ngân Hàng Thế Giới, theo ông, có cái đúng mà cũng có những cái không sát với thực tế của Việt Nam. Chuyên gia Hà Hoàng Hợp cho rằng tốt nhất nên dùng để tham khảo, còn làm được hay không tùy thuộc phần lớn vào Việt Nam chứ không phải vào World Bank.
Thanh Trúc
Nguồn : RFA, 06/08/2020
Tại Hội nghị trực tuyến vào sáng ngày 6/8, Bộ trưởng Bộ Công thương ví von rằng nếu Hiệp định Tự do Thương mại Việt Nam-Châu Âu (EVFTA) là con đường cao tốc cho việc thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế thì "ngày hôm nay chúng ta đã tự tin sẵn sàng thông xe cho con đường đó".
Đoàn tàu Việt Nam có thẳng tiến vào hải ảng EVFTA ? Ảnh minh họa
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, trong Hội nghị, cũng khẳng định rằng "cao tốc" EVFTA sẽ nối gần Việt Nam với Châu Âu (EU).
Vào tối ngày 6/8, tiến sĩ Ngô Trí Long lên tiếng với RFA về sự kiện Hội nghị trực tuyến "Triển khai kế hoạch thực thi EVFTA", diễn ra trong sáng cùng ngày :
"Tất nhiên đây là cơ hội rất lớn. Đồng thời bên cạnh cơ hội đấy cũng đặt ra nhiều thách thức. Và, thách thức lớn nhất là đối với năng lực cạnh tranh của Việt Nam rất yếu. Trình độ thì còn thấp hơn họ. Chính vì vậy, hôm nay trong cuộc họp trực tuyến của Chính phủ với các bộ, ngành để triển khai vấn đề này. Theo quan điểm của tôi, theo quá trình ký kết thì người ta đã xem xét lộ trình rất cụ thể. Tất nhiên để mở ra một cơ hội lớn thì cũng không phải là đơn giản. Tại vì tận dụng được cơ hội thì phải vượt qua được thách thức, mà như thế cũng đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam cũng còn rất nhiều hạn chế".
Khi trao đổi với RFA liên quan về EVFTA có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/8, chuyên gia kinh tế-tài chính độc lập, tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh rằng :
"Thật sư với Hiệp định EVFTA thì Hiệp định chỉ là bước khởi đầu để Việt Nam có thể xuất khẩu sang Liên minh Châu Âu, và ngược lại. Thế nhưng, Hiệp định này không phải là cây đũa thần để có thể xoay chuyển được tình thế, đặc biệt là trong lúc này. Điều mà các doanh nghiệp phải làm khi xuất khẩu hàng hóa sang EU thì chất lượng phải tốt, giá cả phải rẻ và tất cả quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ…Tất cả những doanh nghiệp đó, các doanh nghiệp Việt phải hội đủ".
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước khi Việt Nam thực hiện EVFTA thuộc một trong 6 vấn đề quan trọng mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu lên trong Hội nghị trực tuyến hôm nay. Ông Thủ tướng nói đến sản phẩm của Việt Nam còn phải cạnh tranh trên thị trường nội địa với các sản phẩm của EU. Ông Thủ tướng còn khẳng định rằng không thể đóng cửa, dựng hàng rào bảo hộ, mà phải thực hiện đúng cam kết, quản lý tốt thị trường, tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh.
Năm vấn đề còn lại được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra bao gồm hoạt động tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế và hiệp định thương mại (FTA) chưa đạt hiệu quả ; chính sách cơ chế còn chưa thông thoáng, tạo ra rào cản vô hình cho doanh nghiệp và doanh nghiệp còn thụ động, chưa thay đổi tư duy kinh doanh ; vẫn còn thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao ; phát triển kết cấu hạ tầng như thế nào mới đạt hiệu quả ; và yêu cầu phát triển bền vững là ràng buộc trọng tâm của EVFTA.
Qua 6 vấn đề như thế, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đặt câu hỏi rằng "Chính phủ và doanh nghiệp cần phải làm gì ?"
Đài RFA qua trao đổi với một số doanh nghiệp tại Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp xuất khẩu, chia sẻ rằng trong bối cảnh đại dịch Covid-19, họ gặp khó khăn rất nhiều về xoay vòng đồng vốn, khả năng thanh khoản, đầu vào nguyên vật liệu sản xuất cũng như đầu ra của thành phẩm. Và trước nguy cơ dịch bệnh bùng phát trở lại, doanh nghiệp tự thân cầm cự, tuy nhiên họ cho rằng đang rất đuối sức.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nhận định về thủ tục hành chính và hành lang pháp lý tại Việt Nam vẫn đang gây ra rất nhiều trở ngại.
"Một doanh nghiệp muốn xuất khẩu thì xin hết giấy phép này rồi xin tới giấy phép khác. Rất là rườm rà. Những thủ tục đó thừa kế từ thời kỳ bao cấp trước kia, có rất nhiều những quy định. Ở Việt Nam nhiều luật lệ lắm. So với Mỹ thì nhiều hơn lắm. Một nước nhỏ mà có rất nhiều luật lệ, thành ra làm trói chân trói tay các doanh nghiệp để họ hoạt động một cách hiệu quả".
Chuyên gia kinh tế, tiến sĩ Vũ Quang Việt, từng làm việc tại Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc, nhận định thị trường xuất khẩu của Việt Nam lệ thuộc rất lớn vào EU và Mỹ. Và, không loại trừ trường hợp có thể xảy ra là doanh nghiệp Việt tiếp tục gia công hàng hóa Trung Quốc và gắn mác Việt Nam. Nói một cách khác, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trở thành "phương tiện" cho các doanh nghiệp Trung Quốc xâm nhập gián tiếp vào thị trường Mỹ và EU. Do đó, tình trạng này sẽ khiến cho doanh nghiệp Việt càng gặp khó khăn nhiều hơn một khi bị phát hiện.
Không những bị trở ngại trong khâu xuất khẩu hàng hóa theo EVFTA, mà tiến sĩ Ngô Trí Long còn lập luận rằng :
"Các doanh nghiệp Việt mà không cẩn thận thì thua ngay trên sân nhà. Nói thẳng là như vậy !"
Bởi vì theo tiến sĩ Ngô Trí Long, trước mắt khi hàng hóa của EU vào Việt Nam thì đó là một thách thức không nhỏ về sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp Việt.
Tiến sĩ Vũ Quang cho rằng vấn đề quan trọng nhất hiện nay đối với sự sống còn của doanh nghiệp Việt để họ có thể còn cơ hội hoạt động kinh doanh và cạnh tranh trên thương trường là thanh toán những món nợ.
Báo mạng Kinh tế Sài Gòn Online, vào ngày 6/8, đăng tải một bài ghi nhận của tiến sĩ Vũ Quang Việt, có nhan đề "Nợ của doanh nghiệp Việt Nam trước tình trạng suy thoái trầm trọng vì Covid-19".
Trong bài viết này, tiến sĩ Vũ Quang Việt dẫn số liệu hồi năm 2017, nợ của doanh nghiệp Việt Nam lên đến 392% GDP. Tỷ lệ xuất khẩu trên GDP của Việt Nam là thuộc loại cao nhất thế giới, như năm 2018 chiếm 106% GDP. Cho nên, giảm xuất khẩu sẽ có ảnh hưởng trầm trọng đến kinh tế Việt Nam.
Tiến sĩ Vũ Quang Việt giải thích thêm với RFA liên quan bài ghi nhận của ông :
"Bây giờ tình trạng doanh nghiệp nợ rất nhiều. Khả năng sống còn trong thời gian này là rất khó. Cho tới vừa rồi đây thì Nhà nước cũng bơm tiền cho các doanh nghiệp sống, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước. Còn doanh nghiệp tư nhân thì khốn khổ hơn, như trong bài viết của tôi đã phân tích rằng tỷ lệ lợi nhuận của họ rất thấp, mà bây giờ lãi suất rất cao. Do đó, các doanh nghiệp nếu bán hàng không được và phải trả lãi với mức lãi suất 12% thì rất khó khăn cho họ".
Giải pháp cấp thiết nhất mà Chính phủ Việt Nam phải tiến hành là giảm lãi suất cho doanh nghiệp, theo đề xuất của tiến sĩ Vũ Quang Việt :
"Làm sao phải giảm lãi suất cho họ, chứ lãi suất cao quá là một vấn đề. Tôi không muốn nói thẳng ra nhưng có thể nhiều nước khi cần thiết là phải đòi hỏi các ngân hàng giảm lãi suất xuống. Như Mỹ muốn giảm lãi suất thì bản thân ngân hàng trung ương đẩy tiền ra cho ngân hàng thương mại vay và ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất thấp hơn".
Đồng quan điểm, tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu từng lập đi lập lại đề nghị của ông với Chính phủ Việt Nam là Chính phủ cần tăng cường quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này phải được bổ sung bằng nguồn ngân sách địa phương và Chính phủ phải mạnh dạn bảo lãnh các ngân hàng để cho các ngân hàng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì bấy giờ các doanh nghiệp đó mới có tính thanh khoản.
Mặc dù vậy, tiến sĩ Vũ Quang Việt lưu ý :
"Vấn đề chính ở Việt Nam khó ở chỗ là khi đẩy tiền ra và doanh nghiệp vay tiền của Nhà nước rồi không trả được thì lại nợ thêm. Đặc biệt nợ của khối doanh nghiệp nhà nước là nhiều nhất. Thành ra, nếu doanh nghiệp nhà nước không sống được thì lại tiếp tục vòi tiền Nhà nước và tiếp tục… Đấy là vấn đề lớn".
Chủ một doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may từng lên tiếng với RFA rằng :
"Người Việt Nam thông minh lắm và sáng tạo lắm luôn. Nhưng Chính phủ Việt Nam không biết tận dụng. Nói thật là phải đi từ Chính phủ đi xuống, phải nhìn thấy mình yếu ở đâu, phải xử lý chỗ nào, phải đi trước và phải mạnh mẽ lên".
Cựu chuyên gia của Liên Hiệp Quốc, tiến sĩ Vũ Quang Việt cho rằng Chính phủ Việt Nam phải cổ phần hóa nhanh chóng khối doanh nghiệp nhà nước không hoạt động hiệu quả hoặc cho phá sản ; đồng thời hỗ trợ cho doanh nghiệp tư nhân nhiều hơn với các giải pháp cụ thể. Bằng không thì "Nếu tình trạng này còn tiếp tục thì nền kinh tế nói chung sẽ khủng hoảng và phá sản. Đó là lẽ đương nhiên".
Nguồn : RFA, 06/08/2020
**************************
Doanh nghiệp xuất khẩu gỗ ghép bị áp thuế 'bức tử' 25%
RFA, 07/08/2020
Sự việc bắt đầu được dư luận chú ý khi những ngày cuối tháng 7, nhiều container hàng ván ghép thanh bị ùn ứ tại nhiều cảng xuất khẩu ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp thành viên Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) bị đối tác thương mại nước ngoài phạt do chậm giao hàng. Muốn tránh phạt, doanh nghiệp phải chấp nhận mức áp thuế hàng ván ép thanh theo mã hoàn toàn mới, với thuế suất 25%.
Công ty cổ phần Chế biến Gỗ mộc Cát Tường ở tỉnh Đồng Nai, là công ty đang tồn đọng nhiều mặt hàng này tại cảng. Courtesy of Cát Tường
Nguyên nhân được đại diện các doanh nghiệp cho biết là từ ngày 24/6/2020 khi ông Lưu Mạnh Tưởng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ký văn bản số 4250/TB-TCHQ. Văn bản này đã quy định, ván ghép thanh chủ yếu sử dụng nguyên liệu gỗ keo rừng trồng và gỗ cao su, bị áp mã HS 4407 là "gỗ đã cưa và xẻ theo chiều dọc, lạng hoặc bóc, đã hoặc chưa bào, chà nhám hoặc ghép nối đầu, có độ dày trên 6 mm"... và bị áp thuế 25%.
Thay vì từ trước đến nay, các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này vẫn được áp mã HS 4418, với thuế suất 0%. Điều này không khác gì, đột nhiên Tổng cục Hải quan tự ý thay đổi thuế suất của mã HS 4418 từ 0% thành 25% (!?).
Trước việc Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam và các doanh nghiệp nói có... nhưng Tổng cục Hải quan vẫn cho rằng không đúng như vậy. Vào ngày 4/8/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã chỉ đạo các ban ngành và đại diện Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cùng tham gia đoàn công tác kiểm tra thực tế tại Công ty cổ phần Chế biến Gỗ mộc Cát Tường ở tỉnh Đồng Nai, là công ty đang tồn đọng nhiều mặt hàng này tại cảng.
Đại diện Công ty cổ phần Chế biến Gỗ mộc Cát Tường, khi trả lời Đài Á Châu Tự Do hôm 7/8/2020, nói :
"Việc này thì phải xem thế nào, chứ một bên có thuế, một bên không có thuế thì chắc chắn ảnh hưởng rồi, làm sao mà không ảnh hưởng được. Mà thuế đâu có ít, thuế suất 25% đâu phải là chuyện đơn giản".
Vị đại diện Công ty cổ phần Chế biến Gỗ mộc Cát Tường cho biết, thông tư 65 định nghĩa rõ ràng đồ mộc dùng trong xây dựng, kể cả những tấm gỗ, tấm lát sàn lắp ráp. Ngoài ra, có quyết định của Bộ nông nghiệp số 2515, vào năm 2015 quy định rõ ràng hơn mã 4418 là ván ghép và là đồ dùng trong xây dựng. Theo đại diện Công ty cổ phần Chế biến Gỗ mộc Cát Tường hai văn bản này là bằng chứng rõ ràng không thể áp thuế 25% cho mã 4418. Ông nói tiếp :
"Trong cuộc họp bên Hiệp hội cũng đã phân tích hai mã hàng này khác nhau như thế nào ? Trong thởi gian chờ quyết định chính thức, bản thân tôi thấy cũng khả quan, cho nên hiện tại tôi cũng không muốn nói gì thêm về vấn đề này. Nhưng về cơ bản, vấn đề này phải theo quốc tế và theo pháp luật, trước hết là phải xem những cái mã HS như thế nào trong biểu thuế xuất nhập khẩu, hoặc trên biểu thuế của quốc tế, của EU... như thế nào là 4407, như thế nào là 4418..".
Trong khi đó, Cục hải quan lại quyết định gỗ ghép thanh bị coi là sản phẩm sơ chế, như gỗ xẻ thanh, bị áp thuế xuất khẩu 25% để hạn chế... thậm chí ngăn chặn xuất khẩu vì không tạo nhiều giá trị gia tăng tại Việt Nam và vì phải dành nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước.
Đại diện Công ty cổ phần Chế biến Gỗ mộc Cát Tường cho biết thêm :
"Tôi là doanh nghiệp nhỏ, cái gì cũng phải qua Hiệp hội, doanh nghiệp tôi chỉ chiếm 1% của ngành này, số lượng rất là nhỏ. Muốn thêm chi tiết thì qua Hiệp hội, họ có phân tích. Thật sự bên đó bây giờ cũng cử lung tung, cái này tôi cũng không dám nói nữa".
Gỗ ghép cao su, ảnh minh họa. Courtesy of LD
Đài Á Châu Tự Do hôm 7/8/2020, nhiều lần liên lạc Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) cũng như Tổng cục Hải quan, nhưng mọi cố gắng đều không thành công.
Khi trả lời báo chí trong nước hôm 6/8/2020, Ông Ngô Sỹ Hoài, Tổng Thư ký Viforest cho biết, lâu nay gỗ ghép thanh vẫn xuất khẩu với thuế suất bằng 0%. Tuy nhiên từ ngày 24/6/2020, Tổng cục Hải quan đã bất ngờ có thông báo về việc áp dụng mức thuế xuất khẩu đối với sản phẩm gỗ ghép thanh lên mức 25%.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, khi trao đổi với RFA hôm 7/8 liên quan vấn đề này, nhận định :
"Tôi nghĩ việc này nên rút kinh nghiệm, trước khi các cơ quan hải quan có quyết định, nên có trao đổi với Hiệp hội, doanh nghiệp... vì đó là những đối tượng phải thực hiện quyết định của hải quan. Nếu có sự trao đổi, thảo luận... sẽ bớt được việc có những quyết định mà sau đó lại phải sửa ngay như thế này".
Cũng theo Tổng Thư ký Viforest, ngành chế biến gỗ những năm qua đã có bước phát triển nhảy vọt, đó là nhờ yếu tố rất lớn từ chính sách, đặc biệt là chính sách về thuế đóng vai trò hàng đầu. Theo đó, hầu hết các sản phẩm gỗ khi xuất khẩu (ngoại trừ gỗ tròn, gỗ xẻ) đều được áp mức thuế suất 0%. Ông cho rằng bây giờ mà tăng thuế để tăng thu ngân sách, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngành chế biến gỗ.
Một chủ doanh nghiệp sản xuất gỗ xuất khẩu ở Bình Dương khi trả lời Đài Á Châu Tự Do nói :
"Hồi trước nay thì không hề có chuyện đó. Toàn là lấy gỗ khai thác rừng vô tội vạ rồi làm giấy tờ hợp thức hóa. Hồi xưa chính quyền không có để ý đến ngành gỗ của mình gì hết. Nhưng mấy năm gần đây thì đột nhiên xuất khẩu gỗ của mình lớn từ 3, 4 tỷ đô la lên 9 tỷ nên nhà nước mới để ý và thấy là một nguồn thu ngon lành".
Cho đến ngày 7/8/2020, Tổng cục Hải quan đã cho báo chí trong nước biết, tạm thời đã chỉ đạo Cục Hải quan Đồng Nai trước mắt cho Công ty mộc Cát Tường xuất khẩu ván gỗ ghép với thuế suất 0%, để giải tỏa hàng ở cảng, nhưng doanh nghiệp này phải cam kết thực hiện quyết định cuối cùng của cấp có thẩm quyền (!?).
Đây là một quyết định linh hoạt, được nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho là hợp tình hợp lý, giúp doanh nghiệp giải quyết vướng mắc hiện nay. Tuy nhiên việc bắt buộc doanh nghiệp chế biến gỗ phải chấp nhận quyết định cuối cùng của cấp có thẩm quyền, dù chưa biết sẽ như thế nào, thuế suất bao nhiêu, ảnh hưởng ngành chế biến gỗ ra sao, làm nhiều người quan ngại, cho dù với lý do bảo vệ môi trường luôn được mọi người ủng hộ.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, khi trả lời RFA hôm 7/8/2020, nói :
"Nói chung về xuất khẩu gỗ ở Việt Nam thì nhà nước cũng có lo lắng về việc xuất khẩu như thế nào mà không ảnh hưởng môi trường Việt Nam cũng như các nước mà Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu, cũng như những quy định của nước nhập khẩu. Trong việc xuất khẩu gỗ tăng lên những năm gần đây, nhà nước luôn quan tâm làm sao để Việt Nam vẫn xuất khẩu được mà không gây tai tiếng, ảnh hưởng lâu dài ngành gỗ Việt Nam. Tôi ủng hộ cách làm này của Việt Nam, vì đã từng có trường hợp các nước nghi ngại Việt Nam và tăng cường giám sát lãnh vực này".
Tuy nhiên, về cách điều hành thì theo Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, mỗi khi có thay đổi về chính sách, thì nhà nước Việt Nam cần hết sức tránh những thay đổi đột ngột, có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các hợp đồng của họ. Nhất là những hợp đồng đã được ký kết với nước ngoài, nếu đột ngột thay đổi thì doanh nghiệp không thể thực hiện được nữa, hoặc nếu tiếp tục thì doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn hơn rất nhiều. Bà nói tiếp :
"Nói chung việc điều hành bao giờ cũng phải có sự chuẩn bị, dự báo trước, hoặc ít nhất làm cho doanh nghiệp dự liệu được chính sách của nhà nước. Ví dụ đưa ra những cảnh báo, có những việc sẽ ảnh hưởng đến ngành, nhà nước sẽ xem xét điều chỉnh...thuế hay công cụ. Những việc như vậy cần trao đổi với doanh nghiệp trong lĩnh vực để họ chuẩn bị, để tránh vi phạm pháp luật Việt Nam cũng như ở các nước liên quan".
Theo bà Phạm Chi Lan, cách làm phải như vậy, chứ nếu tăng thuế đột ngột mà không đưa ra dự báo, không trao đổi trước với doanh nghiệp, thì sẽ gây ra hệ quả xấu cho doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hiện nay thị trường đang khó khăn, các doanh nghiệp đang phải bươn chải rất vất vả, thì mới có thể duy trì được thị trường, trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu như hiện nay.
Việt Nam được quốc tế xem là câu chuyện thành công của thế giới, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở tốp đầu thế giới trong suốt thập niên qua, theo dữ liệu của World Bank.
Bước chuyển mình của kinh tế Việt Nam sau hơn một thập kỷ gia nhập WTO
Tỉ lệ nghèo cùng cực ở Việt Nam giảm từ mức 53% năm 1992 xuống còn chưa đến 2% vào năm 2017.
Trong bối cảnh cuộc chuyển giao lãnh đạo 5 năm một lần sắp diễn ra ở Đại hội Đảng 13, đây cũng là dịp nhìn lại nền kinh tế Việt Nam từ 2016 tới nay.
Bà Mai Fujita, chuyên gia từ Viện các nền Kinh tế đang phát triển (Institute of Developing Economies), thành phố Chiba, Nhật Bản, đã dành nhiều năm nghiên cứu về Việt Nam.
Cơ quan của bà, Institute of Developing Economies, thành lập năm 1960, thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản.
'Bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng'
Trả lời BBC News tiếng Việt, Tiến sĩ Mai Fujita chỉ ra một số ưu tiên kinh tế của chính phủ Việt Nam từ sau Đại hội Đảng 12 năm 2016.
"Đổi mới mô hình tăng trưởng, trước đây chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn, chuyển sang mô hình dựa vào cải thiện năng suất, đã tiếp tục là nghị trình chủ yếu kể từ Đại hội Đảng 11 năm 2011.
"Trong nửa đầu thập niên (2011-2015), Việt Nam tập trung vào hồi phục sau bất ổn kinh tế vĩ mô và tăng trưởng chậm do khủng hoảng tài chính toàn cầu và thất bại của các tập đoàn quốc doanh.
"Nghị trình giai đoạn 2016-2020 bao gồm bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch cho mọi khu vực kinh tế, thúc đẩy phát triển bền vững về môi trường, chú trọng sáng tạo. Giai đoạn này cũng tăng tốc tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, khu vực tài chính và đầu tư công - chậm trễ các việc này đã kéo lùi nền kinh tế Việt Nam".
Tiến sĩ Mai Fujita nói các chỉ số kinh tế của Việt Nam thời gian qua là "ấn tượng".
Việt Nam đã tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu, hoạt động thương mại hội nhập ngày càng sâu rộng với các đối tác chủ yếu ở Bắc Mỹ, Đông Bắc Á và Châu Âu.
Tài sản của người dân đã tăng theo thời gian. World Bank ước tính tầng lớp "người tiêu dùng", chi tiêu từ 5,50 đô la trở lên mỗi người mỗi ngày, đã tăng từ khoảng 49% trong năm 2010 lên hơn 70% vào năm 2016.
Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019.
Bà Mai Fujita nhận xét : "Tăng trưởng đẩy nhanh nhờ xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) và tiêu thụ mạnh trong nước".
"Tình trạng của doanh nghiệp nhà nước, nợ công và khu vực tài chính cũng cải thiện".
Tuy vậy, cải cách những năm vừa qua cũng có những hạn chế.
"Năng suất lao động của Việt Nam có vẻ đi sau các nước trong vùng, cho thấy Việt Nam chỉ mới có tiến bộ hạn chế trong đổi mới mô hình tăng trưởng".
"Mặc dù có nỗ lực cải cách hành chính để việc kinh doanh thông thoáng hơn, vẫn còn lo ngại không chắc nó đã đủ bảo đảm môi trường kinh doanh minh bạch và bình đẳng".
Tiến sĩ Mai Fujita cũng chỉ ra : "Một diễn tiến quan trọng giai đoạn 2016-2020 là sự trỗi dậy của các nhóm doanh nghiệp tư nhân lớn trong các khu vực mà nhà nước kiểm soát chặt chẽ".
"Có vẻ các nhóm này khó phát triển nếu không nhận được mức độ hậu thuẫn chính trị nào đó".
Vấn đề nhân sự rất được quan tâm trong lúc Đại hội Đảng 13 sắp diễn ra năm 2021.
Tiến sĩ Mai Fujita cho biết nhận định : "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, từ khi nhậm chức năm 2006, mạnh mẽ thúc đẩy thành lập các tập đoàn nhà nước lớn".
"Tình hình thay đổi sau khi ông Dũng nghỉ năm 2016. Chiến dịch chống tham nhũng của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành bắt giữ, truy tố nhiều quan chức cao cấp và lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước".
"Tuy nhiên, cũng cùng giai đoạn này, lại có sự trỗi dậy của các doanh nghiệp tư nhân lớn, như tôi nhắc ở trên".
"Có thể nguyên do là vì việc ra chính sách vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng của sự liên kết giữa các lợi ích chính trị và thương mại, dù cho có ai nắm các chức vụ cao nhất".
'Ưu tiên trong phát triển'
BBC đề nghị bà Mai Fujita đưa ra dự đoán về các ưu tiên kinh tế cho nội các mới sau Đại hội 13 năm 2021.
Bà trả lời : "Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò chủ chốt cho tính chính danh của chế độ".
"Việt Nam đã rất thành công kiểm soát dịch Covid-19 so với nhiều nước trong vùng".
"Tuy vậy, kinh tế Việt Nam gắn bó với kinh tế toàn cầu và khu vực, nên ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh là không tránh được".
"Vì thế tôi nghĩ ưu tiên của Việt Nam sẽ là làm sao hồi phục kinh tế nhanh chóng. Có thể nói Việt Nam sẵn sàng để đón lợi thế khi các tập đoàn đa quốc gia dịch chuyển, tái tổ chức chuỗi cung ứng toàn cầu".
"Tuy vậy, Việt Nam cũng rất cần quan tâm làm sao để tăng trưởng kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả, và bình đẳng hơn cho người dân", tiến sĩ Mai Fujita nhận định.
Như vậy, có thể nói tiếp tục cải cách để đưa thu nhập người dân tiến gần hơn một số nước trong vùng, và giảm thiểu tác động của tăng trưởng lên môi trường, sẽ là thử thách cho ban lãnh đạo kế tiếp của Việt Nam.
Nguồn : BBC, 16/06/2020
Sau dịp lễ kỷ niệm 30/4, Việt Nam đã mở cửa lại các trường học và cho phép việc kinh doanh được trở lại bình thường với hy vọng đưa nền kinh tế phục hồi sau 3 tháng bế quan toả cảng như một biện pháp để dập tắt đại dịch virus corona bắt nguồn từ nước láng giềng Trung Quốc.
Chỉ sau hai tháng lây lan, Covid-19 đã làm cho nhiều ngành nghề ở Việt Nam trwor nên điêu đứng - Ảnh minh họa (24h.com)
Với người Việt Nam, đại dịch virus corona gợi nhớ tới dịch cúm SARS đầu những năm 2000. Họ biết rằng nếu không thực hiện bế quan toả cảng một cách nghiêm túc thì dịch bệnh sẽ không được dập tắt.
Vào cuối tháng 2, khi Tổng thống Donald Trump nói với người dân Mỹ rằng cần phải thực hiện việc đóng cửa kinh tế để dập dịch, thì thời điểm đó, Việt Nam đã đóng cửa các đường biên giới và đã bắt đầu phát triển bộ xét nghiệm Covid-19 của riêng họ. Với hơn 96 triệu dân, Việt Nam chỉ ghi nhận 288 ca nhiễm cho tới ngày 8/5 và không có trường hợp tử vong nào.
Tuy nhiên dù với thành công, như quốc tế ca ngợi về sự chống dịch của Việt Nam, nền kinh tế của quốc gia Đông Nam Á này, cũng như các nước khác bị ảnh hưởng bởi đại dịch, cũng không thể tránh được tác động tiêu cực của nó. GDP của Việt Nam tụt xuống 3,8% trong quý đầu năm nay, so với 6,8% trong cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo trong tháng trước rằng GDP của Việt Nam sẽ có mức tăng 2,7% trong năm nay, một mức tăng trưởng thấp hơn nhiều so với con số 7% ấn tượng của năm ngoái.
Để bù đắp cho sự sụt giảm của năm nay, chính phủ Việt Nam gần đây đã đề ra mục tiêu tăng trưởng hàng năm ở mức 7% từ năm 2021 đến 2025. Nhằm giúp phục hồi kinh tế, chính phủ ở Hà Nội đã đưa ra gói hỗ trợ tín dụng trị giá 10,8 tỷ USD, giảm lãi suất, lùi thời hạn đóng thuế và phí sử dụng đất cho các doanh nghiệp. Chính phủ còn hỗ trợ tài chính cho các công ty và lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Sẵn sàng cho giới đầu tư
Trong lúc mở cửa lại nền kinh tế, Việt Nam đã có được những thuận lợi so với các quốc gia khác trong bối cảnh cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế và những nhà quan sát Việt Nam. Các hoạt động kinh doanh sẽ không còn như trước do sự bùng phát của đại dịch virus corona, nhưng nhờ có sự phục hồi về kinh tế sớm được dự báo của Việt Nam, các nhà sản xuất toàn cầu đang tìm kiếm sự đang dạng trong các chuỗi cung ứng ở Việt Nam.
Dù chưa thoát khỏi nguy hiểm của đại dịch, Việt Nam đã chuẩn bị tốt cho trường hợp một làn sóng bùng phát dịch thứ 2 nếu xảy ra. Việt Nam giờ đây có thể sản xuất 7 triệu khẩu trang vải và 5,72 triệu khẩu trang y tế mỗi ngày, trong khi Vingroup – tập đoàn giàu nhất ở Việt Nam hiện nay – nói họ có thể sản xuất 55.000 máy trợ thở mỗi tháng. Việt Nam cũng đã chuẩn bị đầy đủ các thiết bị y tế cần thiết trong các bệnh viện mới trong trường hợp cần đến, theo truyền thông trong nước.
Theo Economist, Covid-19 đang ảnh hưởng đến các nền kinh tế mới nổi, như Việt Nam, trong ít nhất 3 lĩnh vực : toàn xã hội phải cách ly, xuất khẩu sụt giảm và vốn đầu tư nước ngoài bị chậm lại. Việt Nam đã vượt qua được trở ngại đầu và đang trên đường giải quyết những khó khăn còn lại.
"Với việc ứng phó nhanh đối với dịch virus corona, chúng tôi cho rằng đầu tư nước ngoài sẽ đổ vào Việt Nam sau đại dịch", Kizuna Joint Development Corp, chuyên xây dựng các nhà máy sẵn sàng cho các nhà đầu tư sử dụng ở Việt Nam, nói với Reuters.
Các chuyên gia tư vấn – những người giúp các công ty nước ngoài chuyển dịch quốc tế, nói rằng sự thành công của Việt Nam trong việc khống chế dịch đã làm tăng sự tự tin ở những nhà đầu tư nước ngoài đối với quốc gia Đông Nam Á.
Theo Michael Sieburg, một quản lý của công ty tư vấn YCP Solidiance chuyên về Châu Á, nói với Reuters, Việt Nam thậm chí sẽ nổi lên hơn nhiều so với nhiều quốc gia khác trên thế giới trong tầm ngắm của các nhà đầu tư vì sự thành công trong cuộc chiến dịch bệnh virus corona.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư của Việt Nam cho biết rằng quốc gia Đông Nam Á này đang ở vị thế tốt để giúp các nhà sản xuất tìm kiếm cơ sở sản xuất mới.
"Những cơ hội này sẽ bao gồm dịch chuyển đầu tư, đặc biệt của các tập đoàn sản xuất đa quốc gia tìm cách đa dạng hoá chuỗi cung ứng của họ tới các khu vực khác, bao gồm cả Đông Nam Á", thứ trưởng Trần Quốc Phương nói trong một thông cáo đăng trên trang web chính phủ. "Việt Nam là một trong số các quốc gia đó".
Hôm 29/4, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cho biết rằng Mỹ đang hợp tác với một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, để đưa chuỗi cung ứng toàn cầu của Mỹ ra khỏi Trung Quốc. Nhiều công ty của Mỹ đã và đang đưa các dây truyền sản xuất của họ ra khỏi Trung Quốc sang các quốc gia láng giềng như Việt Nam kể từ khi thương chiến Mỹ-Trung xảy ra trong gần 2 năm qua.
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) lại dự đoán rằng Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất Đông Nam Á bất chất tác động của Covid-19. Ngân hàng này cho rằng kinh tế Việt Nam sẽ phát triển trở lại ở mức 6,8% trong năm 2021, nếu trong bối cảnh dịch bệnh được khống chế.
Ngân hàng Thế giới, trong báo cáo về Đông Á và Thái Bình Dương trong thời đại Covid-19, nhận định rằng kinh tế Việt nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh khi cho rằng Việt Nam đang hưởng lợi từ nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các điều kiện thuận lợi về thị trường lao động.
Việt Nam hiện có 12 FTA với các quốc gia và khối liên minh trên thế giới. Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam vừa ký kết với Liên minh Châu Ấu (EVFTA) đang mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường trị giá 18.000 tỷ USD.
'Giảm sốc' kinh tế Việt Nam sau cú sốc đại dịch
Khánh An, VOA, 22/04/2020
Trong khi các lãnh đạo Việt Nam vẫn tỏ ra dè dặt trong quyết định tái mở cửa nền kinh tế, thì những người trực tiếp làm công tác cứu trợ xã hội lo ngại phần lớn người nghèo, người thu nhập thấp sẽ không gượng nổi nếu các sinh hoạt xã hội, nhà máy, doanh nghiệp… không sớm quay lại bình thường như trước.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn, thậm chí đối diện với nguy cơ phá sản, do tác động của tình trạng giãn cách xã hội nhằm đối phó với dịch Covid-19.
Với số liệu chính thức cho biết đã 6 ngày liên tiếp không có ca nhiễm Covid-19 mới, tại cuộc họp Thường trực Chính phủ hôm 22/4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các lãnh đạo Việt Nam công bố kế hoạch phân chia các tỉnh thành theo 3 nhóm nguy cơ nhằm đưa ra các chính sách tái mở cửa kinh tế tương ứng theo từng trường hợp cụ thể.
Theo đó, nhóm nguy cơ cao là Hà Nội được đề nghị tiếp tục áp dụng giãn cách xã hội thêm 1 tuần nữa, cho đến hết ngày 30/4, nhưng cho phép thành phố này được tự quyết định về việc mở cửa lại các cửa hàng kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không thiết yếu và các loại hình kinh doanh đường phố tùy theo tình hình thực tiễn tại địa phương.
Nhóm có nguy cơ, gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Hà Giang, cũng được cho phép tự quyết định về việc tái tục các hoạt động kinh tế tùy theo tình hình địa phương.
Riêng nhóm nguy cơ thấp là các tỉnh thành còn lại được phép khôi phục trở lại các hoạt động kinh tế không thiết yếu nhưng phải đảm bảo các biện pháp phòng chống dịch.
"Khó trụ nổi"
Kế hoạch cho thấy sự dè dặt và đắn đo của các lãnh đạo Việt Nam trong việc đưa ra quyết sách về thời điểm tái mở cửa nền kinh tế, giữa bối cảnh mà một số nhà hoạt động và những người làm công tác xã hội nói rằng đời sống kinh tế của người dân ở nhiều nơi đã ở mức "kiệt quệ".
"Ở Việt Nam, dù người chết chưa có, rồi số lượng dịch bệnh chưa phải là nhiều, nhưng thực ra về kinh tế, phải nói là kiệt quệ. Nhân viên và tất cả những người lao động thấp đang rất khổ", bà Lê Hoài Anh, một nữ doanh nhân đã đứng ra quyên góp và hỗ trợ trực tiếp cho người dân trong đại dịch Covid-19, đưa ra nhận định với VOA.
Bày tỏ sự thông cảm về "bài toán khó" trong quyết định tái mở cửa nền kinh tế, nhưng bà Lê Hoài Anh cho rằng Việt Nam vẫn phải giải bài toán khó này vì nền kinh tế sẽ "khó trụ nổi" nếu các hoạt động kinh tế không sớm khôi phục.
"Bây giờ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà hàng... đã phá sản hết rồi. Tôi thực sự rất lo sợ", bà Anh cho VOA biết.
"Mặc dù tôi hiểu rằng chính phủ Việt Nam, cũng như Mỹ thôi, đang đứng trước bài toán rất khó là bao giờ mở cửa trở lại. Việt Nam lại còn khó hơn trong nền kinh tế mà người dân thì có rất nhiều thành phần mà số lượng, tỷ lệ chạy ăn từng bữa, từng tuần, từng tháng khá là đông".
Theo nữ doanh nhân này, nếu các hoạt động kinh tế không sớm khôi phục, tình trạng phá sản sẽ lan rộng, kéo theo những bất ổn xã hội.
Nhận định với VOA về vấn đề này, Tiến sĩ kinh tế Đinh Trường Hinh, nguyên chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới ở Washington DC và hiện là Chủ tịch Công ty EGAT, cho rằng quyết định có nên gia hạn thời gian cách ly xã hội hay không phải tùy thuộc vào tình trạng của nạn dịch đang xảy ra, chứ không đơn thuần vì kinh tế có chịu đựng được hay không.
"Nếu kinh tế chịu đựng không được, phải bỏ cách ly, mà bị Covid-19 hoành hành trở lại thì hậu quả còn nguy hiểm hơn là đừng bỏ cách ly", Tiến sĩ Đinh Trường Hinh nói.
Vì vậy, theo ông, quyết định này "phải dựa theo tình hình virus đã được ngăn chặn như thế nào, có nguy cơ quay trở lại hay không, và phải căn cứ vào số liệu thực tiễn ở tại nơi (data on the ground).
Việt Nam cần làm gì ?
Với "cú sốc đại dịch", nền kinh tế Việt Nam được cho là vừa đứng trước nguy cơ vừa đứng cơ hội. Ngoài những nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn đến sụp đổ kinh tế, một số cơ hội cũng đang được bàn đến trong thời gian gần đây là cơ hội "thoát Trung" và cơ hội đón làn sóng đầu tư mới từ những doanh nghiệp quốc tế đang có kế hoạch rời khỏi Trung Quốc.
Nói về "cơ hội vàng" để kinh tế Việt Nam thoát thoát khỏi ảnh hưởng quá lớn từ Trung Quốc lâu nay, Tiến sĩ Đinh Trường Hinh cho rằng dù có dịch cúm hay không, Việt Nam cũng cần phải thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc để có "độc lập tự do lâu dài".
Ông nói : "Dịp cúm Covid-19 là một cơ hội bằng vàng để các kinh tế gia Việt Nam có cơ hội phân tích ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nền kinh tế Việt Nam như thế nào, để biết rõ số người lao động tay nghề cao và thấp của Trung Quốc xuất cảng qua Việt Nam hiện là bao nhiêu, ở trong ngành nghề nào, có thể thay được ngay hay không, cũng như ảnh hưởng Trung Quốc về giao thông, du lịch, vận tải, đầu tư, thương mại và tác động đến các đầu vào của các chuỗi cung ứng liên quốc gia".
"Từ đó, chính phủ phải lập ra một chương trình rõ ràng, thiết thực và có thể giám sát để trong một thời gian có thể giảm thiểu các ảnh hưởng từ Trung Quốc nêu trên, nhất là các đầu vào về chất xám cũng như về vật liệu, và thay vào đó các nguồn từ trong nước hoặc từ các nước khác".
Theo cựu chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế giới, việc đầu tiên chính phủ Việt Nam nên làm là lập ra một nhóm nghiên cứu để thu thập các tài liệu cần thiết, một mặt để tìm hiểu những ảnh hưởng của dịch cúm đến kinh tế Việt Nam, mặt khác để tìm hiểu rõ thêm ảnh hưởng của nền kinh tế Trung Quốc đối với Việt Nam, nhất là ở các tỉnh biên giới.
Mặt khác, với tình trạng xuất khẩu Việt Nam đang chịu tác động từ "lỗ hổng" nguồn cầu từ các thị trường lớn như Mỹ trong lĩnh vực dệt may, giày dép, phụ tùng, điện thoại... Tiến sĩ Đinh Trường Hinh cho rằng đây là lúc mà Việt Nam cần phải "thắt lưng buộc bụng", dù có phải bán rẻ trước mắt để chiếm thị trường thì cũng phải làm để dành lấy cơ hội xuất khẩu cho tương lai, và cũng nên tận dụng các thị trường khác như Châu Âu thông qua EVFTA vào lúc này.
Ngoài ra, để chuẩn bị "nội lực" đủ mạnh để có thể đón lấy làn sóng di cư công xưởng sắp tới của các doanh nghiệp quốc tế từ Trung Quốc sang các quốc gia láng giềng, theo Tiến sĩ Đinh Trường Hinh, Việt Nam cần rà soát lại những đầu tư nước ngoài, chú trọng hơn về chất lượng và khuyến khích đầu tư vào những lãnh vực mà Việt Nam đang cần để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. "Những lãnh vực này là những nghành công kỹ nghệ cao có thể đem lại giá trị sản xuất cao hơn và tận dụng trí tuệ của dân Việt Nam", ông nói.
"Cụ thể, Việt Nam phải khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các hoạt động thượng nguồn và hạ nguồn của những lãnh vực này để hoàn thiện chuỗi giá trị cung ứng ; khuyến khích FDI liên kết với các công ty trong nước qua hình thái liên doanh và đẩy mạnh liên kết hàng dọc ; nâng tỷ lệ nội địa hóa, và ngăn chận đầu tư (hoặc đem các máy móc cũ) có hại hay có ảnh hưởng xấu cho môi trường. Mục đích chính là giúp các công ty tư nhân trong nước được lớn mạnh và cạnh tranh thành công trên thế giới".
Theo Tiến sĩ Đinh Trường Hinh, để làm được điều này, Việt Nam cần "cải tổ theo chiều sâu", như giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng các nhà xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp ; khuyến khích phát triển các cụm sản xuất (clusters) ; đầu tư xây dựng các khu công nghiệp đồng bộ (plug-and-play) và các khu công nghệ ; khuyến khích và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua hợp đồng thầu phụ.
Lặp lại những khuyến nghị đã đưa ra trong cuốn sách "Light Manufacturing in Vietnam" (Phát Triển Công Kỹ Nghệ Nhẹ tại Việt Nam) do Ngân hàng Thế giới xuất bản, Tiến sĩ Đinh Trường Hinh cho rằng vấn đề quan trọng nhất vẫn là chất xám của người Việt Nam. Chính phủ Việt Nam nên thực hiện các chính sách nhằm tăng số lượng và chất lượng công nhân có tay nghề để giúp cho nền kinh tế "vươn lên mức cao hơn trên bậc thang giá trị gia tăng", từ đó có thể đón lấy những cơ hội sau đại dịch Covid-19, theo cựu kinh tế gia của Ngân hàng Thế giới.
Khánh An
Nguồn : VOA, 22/04/2020
***********************
Covid-19, Trung Quốc và những bài học bổ ích cho Việt Nam
Trân Văn, VOA, 22/04/2020
Covid-19 đang làm cục diện thế giới thay đổi. Chắc chắn vai trò, vị trí của Trung Quốc sẽ rất khác so với trước. Ưu thế của Trung Quốc về tầm vóc thị trường, về giá nhân công rẻ, về thu hút đầu tư, về nguồn nguyên liệu, vật liệu đa dạng, dồi dào… từng giúp Trung Quốc gia tăng khả năng chi phối sức cạnh tranh, duy trì sự ổn định từ chính trị tới kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia, kể cả các cường quốc, nay rơi theo phương thẳng đứng !
Nhà báo Trung Quốc đeo khẩu trang xem một thông cáo báo chí của chính quyền trước một cuộc họp báo tại Bắc Kinh.
Covid-19 giống như "cạnh" còn lại của "con dao hai lưỡi" - phương thức quản trị, điều hành quốc gia, cung cách hành xử trâng tráo, trịch thượng trong đối ngoại của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc - đã rạch một nhát rất sâu vào nhận thức của cộng đồng quốc tế. Chẳng riêng Châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc mà ngay cả Châu Phi cũng đã tỉnh ra, đã hiểu thế nào là "lợi bất cập hại" khi làm ngơ, nhẫn nhịn, thậm chí nương theo Trung Quốc để các bên cùng có lợi.
Hóa ra làm ngơ để hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc hành xử độc đoán, vô luân ở Trung Quốc,… hóa ra "nhìn trước, ngó sau", bất kể đạo lý, luôn luôn cân phân lợi - hại trong gìn giữ quan hệ với Trung Quốc lại tai hại đến như thế ! Đã có nhiều triệu người, đặc biệt là chính khách ở nhiều quốc gia ngộ ra : Nếu cộng đồng quốc tế không như thế, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc bị buộc phải ứng xử minh bạch, có trách nhiệm với đồng bào và rộng hơn với nhân loại thì Covid-19 đã bị chặn ngay ở Vũ Hán, không lan rộng trên phạm vi toàn cầu, gây ra đủ loại thiệt hại kinh khủng như đang thấy.
Cho dù tình thế đã khác nhưng hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc không nhận ra điều đó. Nỗ lực hóa giải trách nhiệm về Covid-19, thậm chí cố gắng biến Covid-19 thành son, phấn để tô vẽ diện mạo, nâng cao uy tín của Trung Quốc đã tạo ra đủ loại "gậy", giao vào tay thiên hạ cho họ "vụt" chính Trung Quốc. Khống chế xuất cảng hay viện trợ các loại trang bị, thiết bị y tế cho một số quốc gia chỉ khiến thiên hạ thêm khinh bỉ, căm giận.
Nỗ lực của các viên chức ngoại giao Trung Quốc, những cuộc vận động để khen ngợi, cám ơn Trung Quốc ở nơi này, nơi khác hay những lá thư gửi cho Daily Telegraph ở Úc, Bild ở Đức,… từng tạo ra nhiều "tác động tích cực" đối với việc bảo vệ hình ảnh, gia tăng uy tín của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc, giờ trở thành lý do thúc thiên hạ tự thấy phải làm gì đó mạnh mẽ hơn là chỉ chỉ trích. Chính hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc khiến thiên hạ nhận ra họ phải tự thay đổi cả nhận thức lẫn cách hành xử đối với Trung Quốc. Thay đổi đó không đơn thuần là do nghĩa vụ bảo vệ dân chủ, nhân quyền mà vì lợi ích thiết thân của chính họ.
***
Không cần phải rành tiếng Anh mới có thể biết tâm tư, tình cảm của thiên hạ với Trung Quốc và về Trung Quốc đang như thế nào. Cả hệ thống truyền thông chính thức của Việt Nam lẫn mạng xã hội Việt ngữ đã cũng như đang liên tục cập nhập những diễn biến ấy (1). Covid-19 đã làm những người vốn dửng dưng về chính trị cũng có thể cảm nhận tường tận tác hại mà một chính quyền cộng sản có thể gieo rắc trên đầu của họ, đe dọa cả hiện tại lẫn tương lai của họ.
Trong bối cảnh như hiện nay, có tiếp tục tự hào vì bản chất chính thể cũng bất nhân, bất trí, bất tín, bất nghĩa y hệt Trung Quốc hay không là một lựa chọn ! Có nên bô bô phản ứng một cách trâng tráo trước những chỉ trích về xâm hại các tiêu chuẩn dân chủ, nhân quyền của nhân loại như "người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn ở ngay bên cạnh" hay không là một lựa chọn khác, Covid-19 đã vô hiệu hóa lối biện bạch về "đặc điểm riêng, tiêu chí riêng" và xé toạc tấm khiên "chuyện nội bộ của một quốc gia".
Cuối cùng, có nên tiếp tục xem "tuyên truyền" như "nhiệm vụ chính trị trọng tâm" cả trong đối nội lẫn đối ngoại như Trung Quốc, hay "có sao, nói vậy" như thiên hạ ? Vì sao đã chứng kiến thiên hạ khinh bỉ, căm giận Trung quốc như thế nào khi lợi dụng yếu tố "nhân đạo" để "tuyên truyền" mà đến cuối tuần vừa qua, vẫn còn thản nhiên biến chuyến bay do ENI (tập đoàn dầu khí của Ý) thuê để đưa chuyên gia và hàng hóa từ Việt Nam về Ý thành… "Đại sứ quán Việt Nam tại Ý đã phối hợp với Vietnam Airlines ‘điều máy bay đưa người Ý bị kẹt tại Việt Nam về nước’ và đưa một số người Việt bị kẹt tại Ý hồi hương" (2) ?
***
1,3 tỉ người Trung Hoa không chỉ phải trả giá rất đắt cho kiểu nhận thức, lối hành xử của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc mà còn bị thiên hạ khinh miệt lây. Không phải tự nhiên mà người Trung Hoa sống ở Đài Loan muốn chính quyền Đài Loan loại bỏ China khỏi quốc hiệu của lãnh thổ này (Republic of China) (3). Liệu hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam có nhìn thấy giá trị của những bài học mà thiên hạ đang dạy hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Trung Quốc ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 22/04/2020
Chú thích
(2) https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10220422073795798&set=pcb.260154871827180
********************
Covid-19 : Trung Quốc bị tố cáo gây họa cho thế giới vì giảm nhẹ số liệu
Trọng Nghĩa, RFI, 21/04/2020
Ngày 20/04/2020, Pháp đã vượt mốc 20.000 ca tử vong vì dịch Covid-19, ghi tên mình vào danh sách các nước có số người chết vì dịch bệnh cao nhất hành tinh, sau Mỹ, Ý và Tây Ban Nha. Những số liệu cực cao tại các quốc gia phương Tây đã nêu bật tính chất khác thường của các số liệu tương đối thấp mà Bắc Kinh đã công bố về dịch bệnh, cho dù Trung Quốc là nơi virus corona xuất phát.
Quốc tế ngày càng đòi Trung Quốc phải nói thật về virus corona. China Daily via Reuters
Vấn đề tính xác thực của số liệu về Covid-19 tại Trung Quốc còn trong vòng bàn cãi, nhưng trong thời gian gần đây, ngày càng có nhiều tiếng nói vang lên, cho rằng việc Trung Quốc giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh là một trong những nguyên nhân dẫn đến đại họa mà toàn thế giới đang phải gánh chịu.
Điểm qua các thống kê về diễn biến của dịch Covid-19 từ lúc bùng lên tại Trung Quốc cho đến nay, có một thực tế không thể chối cãi : Số liệu chính thức của Trung Quốc thấp một cách lạ thường.
Căn cứ vào bảng cập nhật cho đến sáng ngày 21/04 của đại học Mỹ Johns Hopkins, Hoa Kỳ là nước có nhiều người nhiễm virus corona nhất trên thế giới, với gần 800.000 ca, theo sau là Tây Ban Nha, hơn 200.000 ca, rồi đến Ý, Pháp, Đức và Anh, đều đã vượt xa mốc 100.000 ca.
Còn Trung Quốc thì sao ? Số ca nhiễm tại nơi xuất phát của dịch bệnh ổn định ở mức hơn 80.000 ca, đứng hàng thứ 8 thế giới về số người bị lây nhiễm.
Số liệu về các ca tử vong cũng cho thấy cách biệt rất lớn giữa Trung Quốc với các nước bị nặng nhất, đa phần là ở phương Tây.
Kể cả sau khi đã điều chỉnh cao hơn gấp rưỡi số tử vong vì Covid-19 tại tâm dịch Vũ Hán, Trung Quốc vẫn chỉ ghi nhận 4.636 người chết, thua xa các nước đầu bảng như Mỹ đứng đầu thế giới với 42.364 người chết, theo sau là Ý với 24.114 người, Tây Ban Nha 20.852 người, Pháp với 20.265 người, Anh 16.509 người, Bỉ 5.828 người, Iran 5.209 người.
Mặt khác, số liệu bình quân các ca nhiễm hay tử vong theo tổng số dân của từng nước đã làm lộ rõ tính chất quá thấp của thống kê chính thức tại Trung Quốc.
Trường đại học Mỹ Johns Hopkins chẳng hạn, đã dựa trên số liệu tính đến ngày 16/04 để thử so sánh số ca tử vong vì Covid-19 so với dân số của mỗi nước.
Kết quả rất đáng ngạc nhiên vì theo cách tính này, nước Bỉ vốn ít dân (hơn 11 triệu người) lại đứng đầu thế giới về số trường hợp tử vong vì virus corona, với tỷ lệ 425,2 phần triệu, theo sau là Tây Ban Nha, Ý và Pháp. Còn Mỹ, nước có 330 triệu dân, xếp thứ chín với tỷ lệ 106 phần triệu.
Riêng Trung Quốc, với cả tỷ dân, thì đứng gần như là cuối bảng với một tỷ lệ 24 phần 1000.000.
Nhận xét về số liệu này, một nhà bình luận cho đài truyền hình Pháp LCI ngày 17/04 cho rằng nếu các số liệu của Trung Quốc xác thực, thì nước này "gần như là không hề hấn gì !".
Dịch bệnh càng tàn phá dữ dội trên thế giới càng làm tăng nghi vấn về tính xác thực của các số liệu thống kê về Covid-19 mà Trung Quốc đưa ra. Trước các yêu cầu minh bạch hóa càng lúc càng nhiều, Bắc Kinh chỉ có một câu trả lời duy nhất là họ không hề che giấu điều gì.
Đối với giới chuyên gia phân tích, chính việc Trung Quốc không nói thật về quy mô của dịch bệnh khi mới bùng lên đã làm cho hầu như cả thế giới thiếu cảnh giác đối phó, để xẩy ra thảm họa như ngày nay.
Trả lời phỏng vấn của nhật báo La Croix ngày 17/04 nhà nghiên cứu Philippe Ravaud, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Tễ Học và Thống Kê CRESS tại Pháp đã không ngần ngại cho rằng "Việc số người chết bị giảm thiểu tại Trung Quốc đã tác hại đến công cuộc chuẩn bị chống đại dịch"
Đối với ông Ravaud, cộng đồng khoa học hầu như đều nhất trí cho rằng số ca tử vong vì virus corona mà chính quyền Trung Quốc đưa ra là không chính xác. Bản thân ông cũng "không thể tưởng tượng ra được rằng ở Trung Quốc chỉ có vài ngàn ca tử vong, trong khi nhiều nước Châu Âu thì số người chết cao hơn gấp bội".
Theo chuyên gia Pháp, các thộng tin mà phía Trung Quốc cung cấp về vấn đề này rất thiếu sót, một cách vô tình hay cố ý thì chưa thể biết được, nhưng rõ ràng là hoàn toàn không đầy đủ.
Chuyên gia Ravaud công nhận rằng về mặt các thông tin khoa học, quả là phía Trung Quốc đã cung cấp rất nhiều dữ liệu cho cộng đồng khoa học quốc tế, dưới hình thức các công bố chính thức, hoặc dưới dạng các bài nghiên cứu ban đầu được thông báo ngay cho giới khoa học để tham khảo trước mà không cần chờ được các đồng nghiệp xét duyệt kỹ lưỡng hay được công bố chính thức.
Thế nhưng, vấn đề là không thể biết được là các dữ liệu đó có bao gồm tất cả các thông tin quan trọng hay không, hay là có một phần đã bị chặn lại. Với khối lượng dữ liệu khổng lồ được công khai hóa, người ta không thể thực sự ước tính xem mức độ thiếu sót là bao nhiêu, 20%, 30% hay 50%.
Mặt khác, nhà nghiên cứu Pháp nhắc lại rằng "trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng lớn, như trường hợp ở Vũ Hán, ưu tiên của bác sĩ hoặc nhà khoa học không nhất thiết là phải thông tin hoặc công bố những gì họ phát hiện.
Đối với chuyên gia Ravaud, sai lầm của Trung Quốc là đã cảnh báo quá muộn về dịch bệnh và những nguy cơ đến từ con virus.
Trả lời báo La Croix, nhà nghiên cứu Pháp đã xác định : "Đối với tôi, đây là tội lỗi nguyên thủy của cách giao tiếp của Trung Quốc. Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng rằng sẽ có hàng trăm ngàn người chết ở Châu Âu khi mà trên lý thuyết chỉ có vài nghìn ca tử vong ở Trung Quốc, một đất nước có hơn một tỷ dân ? Ngay từ đầu, nhiều chuyên gia đã tin vào số người chết được công bố tại Trung Quốc và căn cứ vào đó để giảm thiểu nguy cơ dự kiến của dịch Covid-19 tại Châu Âu.
Việc ước tính ít đi số lượng người chết ghi nhận ở Trung Quốc đã tác động đến công cuộc chuẩn bị chống đại dịch tại tất cả các quốc gia khác. Trên bình diện đánh giá rủi ro, việc khuyến cáo chính phủ rằng sẽ phải đối phó với một đợt dịch đã khiến 100.000 người chết hoàn toàn khác biệt với khuyến cáo trong trường hợp chỉ có 3.000 người thiệt mạng".
Chuyên gia Ravaud kết luận : "Kinh nghiệm của quốc gia đã bị dịch rất quan trọng đối với các nước mới bị ảnh hưởng, do đó phải được báo cáo một cách hoàn toàn minh bạch. Việc chia sẻ các dữ liệu này trên phạm vi quốc tế rất quan trọng vì nó cho phép quan sát cách dịch bệnh phản ứng với từng chiến lược đối phó và hỗ trợ cho cách hoạch định các chiến lược giảm phong tỏa sau dịch bệnh".
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 21/04/2020
Mặt trời đang lịm dần ở Việt Nam
Trần Dzạ Dzũng, VNTB, 19/04/2020
Giờ thì mặt trời đang lịm dần ở Việt Nam.
Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia thuộc trường Đại học Kinh tế quốc dân, nếu dịch Covid-19 kéo dài đến hết tháng 6, tăng trưởng GDP quý II dự báo giảm khoảng 2% so với cùng kỳ, thậm chí suy thoái nếu xảy ra kịch bản xấu.
Giá trị xuất khẩu của Việt Nam ước giảm 25% trong quý II và thu hẹp đà giảm về 15% trong các quý sau của năm 2020. Tương tự, giá trị thương mại nội địa cũng sụt giảm 30%. Lĩnh vực du lịch, khách sạn sẽ chịu ảnh hưởng lớn khi dự kiến giảm 30-40% về lượng khách, doanh thu cũng ước giảm 40%, số lượng việc làm giảm 30-40%. Lĩnh vực thương mại dịch vụ sẽ chứng kiến sự thay đổi khi dịch vụ y tế, dịch vụ thiết yếu tăng trưởng 25-40%, còn dịch vụ phụ trợ giảm 20-40%.
Mặt trời đang lịm dần còn vì những chủ trương được ghi nhận, là chẳng đâu vào đâu ở mùa dịch đến từ con virus Vũ Hán bên Trung Quốc.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, kể câu chuyện nghe cứ như đùa về quyết sách : Để hỗ trợ doanh nghiệp ảnh hưởng vì dịch bệnh Covid-19, nhà nước đưa ra chính sách cho phép doanh nghiệp được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất trong 12 tháng trong trường hợp do 50% số lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp phải nghỉ việc, hoặc thiệt hại 50% tổng số giá trị tài sản do dịch bệnh (theo công văn 860/bảo hiểm xã hội –BT ngày 17/3/2020 của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
"Tính đến nay, hầu hết các doanh nghiệp phản hồi đều không được thực hiện. Lý do : Trong điều kiện khó khăn, không ổn định và doanh thu không có vì hiện tại các đơn hàng xuất khẩu đều bị hoãn và hủy, các doanh nghiệp vẫn cố gắng duy trì hoạt động sản xuất cầm chừng và phân chia lịch làm việc của công nhân cho phù hợp để ổn định đời sống người lao. Như vậy, doanh nghiệp không thể đạt được tiêu chí "50% số lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp phải nghỉ việc hoặc thiệt hại 50% tổng số giá trị tài sản do dịch bệnh" để doanh nghiệp được hưởng chính sách về bảo hiểm xã hội theo công văn 860/BHXH-BT". Ông Trương Đình Hòe nói.
Theo đánh giá và ý kiến của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp có 50% số lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp phải nghỉ việc, hoặc thiệt hại 50% tổng số giá trị tài sản do dịch bệnh, thì doanh nghiệp gần như đã "chết lâm sàng". Với nguy cơ này thì gần như doanh nghiệp sẽ cận kề phá sản và không thể có thể vực lại được sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát. Như vậy, doanh nghiệp không thể xoay sở nguồn vốn để đóng các khoản phí.
"Việc doanh nghiệp chứng minh thiệt hại 50% vô cùng phức tạp vì chưa có 1 tiêu chí hay thước đo cụ thể, hơn nữa dấu hiệu thiệt hại đều ở tương lai, vì hàng tồn kho, hợp đồng, doanh thu, tạm ngưng… đều là dấu hiệu suy giảm trong tương lai. Việc chứng minh thiệt hại có thể kéo dài hàng năm. Như vậy, có thể thấy tiêu chí trong CV 860/BHXH-BT của bảo hiểm xã hội Việt Nam để cho phép doanh nghiệp được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất trong 12 tháng là không có tính thực tiễn, khó khả thi áp dụng trong thực tế và cuối cùng là mất đi tính hỗ trợ như mục tiêu mong muốn". Ông Trương Đình Hòe nhận định.
Với những chính sách mang tính hỗ trợ kiểu như nói trên, nên không quá ngạc nhiên khi Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) đưa ra dự báo quý II, dù ở kịch bản nào, cũng tăng trưởng âm. Nếu dịch Covid-19 trong nước được khống chế hoàn toàn giữa tháng 5, và các hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường thì tăng trưởng GDP quý II vẫn âm 3,3%. Ở hai kịch bản còn lại, tác động xấu nhất của Covid-19 với nền kinh tế sẽ xuất hiện trong quý II, III, thì tăng trưởng GDP quý II sẽ âm 4,9-5,1%.
Việt Nam đang chờ một bình minh mới.
Trần Dzạ Dzũng
Nguồn : VNTB, 19/04/2020
*******************
Cúm Vũ Hán : Nền kinh tế Việt Nam đang dần suy sụp
Trung Nam, Thoibao.de, 17/04/2020
Việt Nam vừa đang ở trong ngày cuối của 15 ngày cách ly xã hội và hiện đứng trước câu hỏi : cần tiếp tục cách ly nghiêm ngặt hay nới lỏng dần để kích hoạt lại guồng máy kinh tế ?
Hình ảnh thầy giáo John người Anh với tấm bảng "Không có công việc, giúp tiền mua thức ăn. Cảm ơn !" khiến nhiều người chạnh lòng. Thầy có thu nhập 20 triệu đồng/tháng, nhưng bị thất nghiệp 3 tháng và lâm vào cảnh khó khăn. Sau khi được người dân Sài Gòn ủng hộ tổng cộng 48,3 triệu đồng, thầy John chỉ giữ lại 12 triệu đồng đủ để đóng 2 tháng tiền trọ còn thiếu ; 36,3 triệu đồng còn lại ông xin gửi cho người khó khăn hơn. Ảnh minh họa
Đầu tuần này, hình ảnh một người ngoại quốc đứng bên lề đường Thành phố Hồ Chí Minh xin tiền mua thức ăn đã trở thành tâm điểm bàn tán của dư luận. Bên cạnh lời bình về sĩ diện, về lòng nhân ái, khía cạnh kinh tế của câu chuyện đã châm ngòi cho các trao đổi nghiêm túc.
Cũng trong tuần, người ta đã chứng kiến một số người dân nghèo chen lấn, xô đẩy tại một điểm ATM phát gạo từ thiện ở Hà Nội.
Nếu hình ảnh "ông thầy Tây" minh họa sống động cho viễn cảnh người ta có thể chết đói trước khi chết do nhiễm Cúm Vũ Hán, thì cũng đã lâu rồi người ta mới chứng kiến một sự cố chen lấn như thế tại thủ đô.
Ngày 15/4 là thời điểm kết thúc cách ly xã hội theo chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ, một câu hỏi lớn được đặt ra : tiếp tục cách ly để kiểm soát dịch bệnh hay nới lỏng dần để nền kinh tế vận hành trở lại ?
Dịch bệnh khiến hoạt động kinh tế, thương mại quốc tế và nội địa suy giảm, ngưng trệ
Theo thống kê mới nhất của Bộ Kế hoạch và đầu tư, quý 1/2020 có gần 34.900 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (tăng 2% so với cùng kỳ năm trước).
Một khảo sát gần đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy có tới gần 30% số doanh nghiệp chỉ có thể duy trì hoạt động được không quá 3 tháng, 50% doanh nghiệp chỉ trụ được nửa năm.
Doanh nghiệp khó khăn, giải thể kéo theo người lao động thất nghiệp. Theo Bộ Lao động, thương binh và xã hội, tháng 2 có 47.164 người đăng ký nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, tăng 59,2% so với tháng 1 và tăng 70% so với cùng kỳ năm ngoái.
Khi Việt Nam áp dụng các biện pháp cách ly xã hội nghiêm ngặt từ 1 đến 15/4, tình hình kinh tế càng trở nên khó khăn hơn.
Trong khi chủ trương "chống dịch như chống giặc" đã mang lại thành công bước đầu trong ngăn chặn dịch bệnh, bài toán kinh tế khó giải hơn nhiều.
Trao đổi với BBC News tiếng Việt, bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, đưa ra ví dụ minh họa :
"Thành phố Hồ Chí Minh năm nay dự định thu 405.000 tỷ, tương đương mỗi ngày thu 1.100 tỷ đồng, tức 50 triệu USD. Cứ mỗi ngày cách ly là thành phố chẳng những mất khoản thu đó mà còn phải chi biết bao nhiêu tỷ cho việc điều trị, phòng dịch, cứu trợ dân".
Trao đổi với BBC News tiếng Việt, tiến sĩ Nguyễn Quang A đánh giá :
"Cách ly xã hội giúp Việt Nam khống chế tốt dịch bệnh, đảm bảo không bùng phát ngoài tầm kiểm soát, nhưng nó làm đóng băng gần như hoàn toàn sự vận hành của kinh tế".
Trước câu hỏi liệu có nên nới lỏng, kích hoạt dần các hoạt động kinh tế, tiến sĩ Nguyễn Quang A chia sẻ :
"Đây là một lựa chọn khó. Chắc chắn nếu thấy dịch được kiểm soát thì nên nới lỏng từng phần, từng địa phương theo tình hình cụ thể của mỗi địa phương để tránh tổn thất kinh tế. Lưu ý các doanh nghiệp mà chết có khi còn nguy hiểm hơn".
Bà Vũ Kim Hạnh nhìn nhận việc đảm bảo "mục tiêu kép" là vô cùng khó khăn :
"Hiện các nước chia sẻ nhận thức về hai nhiệm vụ cấp bách là : giữ và cứu tính mạng người dân là quan trọng nhất, thứ nhì là sức khỏe tính mệnh doanh nghiệp, cũng là của nền kinh tế. Trong các giải pháp phòng chống dịch bệnh thì quan trọng nhất là giãn cách xã hội. Và thực hiện giãn cách thì đạt được hiệu quả về y tế nhưng lại phải chịu thiệt hai rất lớn là đóng băng các hoạt đông kinh tế. Tôi tin chính phủ Việt Nam hiểu hơn ai hết là nước mình không có quỹ dự trữ công lớn đến mức có thể an tâm đóng cửa đủ lâu. Nhưng xóa hết giãn cách để bùng phát dịch bệnh thì chắc chắn chính quyền không dám".
Bài toán kinh tế là nội dung trọng tâm gần đây của Chính phủ Việt Nam. Trong các phát biểu chỉ đạo mới nhất, bên cạnh chủ trương "chống dịch như chống giặc", Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã không ngừng nhấn mạnh "mục tiêu kép" và quyết tâm đưa nền kinh tế "bật dậy như lò xo".
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc họp ngày 15/4 đã đồng ý với kiến nghị của Ban chỉ đạo quốc gia về việc phân loại nguy cơ dịch bệnh ở các địa phương. Ngoài 12 tỉnh, thành nguy cơ cao, thì 16 địa phương có nguy cơ dịch Cúm Vũ hán cũng phải tiếp tục cách ly xã hội đến 22/4
Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận định :
"Không có giải pháp tối ưu và luôn là sự đánh đổi rất khó khăn. Ông Thủ tướng Việt Nam nói phải đạt mục tiêu kép, tức là khống chế bệnh dịch đồng thời phải bảo vệ nền kinh tế. Đó là cách tiếp cận đúng.
Ông ấy cũng bàn nhiều và nghe dư luận để điều chỉnh chính sách (thí dụ xuất gạo). Tôi nghĩ quan trọng nhất là phải nắm rõ tình hình, đưa ra các quyết định chính sách trên cơ sở bằng chứng thì chính sách sẽ tốt hơn".
Để vực dậy nền kinh tế, chính phủ Việt Nam đã đưa ra hàng loạt biện pháp, trong đó có gói hỗ trợ tiền tệ (được nâng lên khoảng 300.000 tỷ đồng), gói hỗ trợ về tài khóa (khoảng 180.000 tỷ đồng… Cổng thông tin Chính phủ cho biết :
"Chúng ta có ‘cú đấm thép’ là số vốn đầu tư công gần 700.000 tỷ đồng, tương đương 30 tỷ USD, cần giải ngân hết trong năm nay".
Về giải pháp, bà Vũ Kim Hạnh phân tích :
"Việc hỗ trợ doanh nghiệp lần này hoàn toàn khác khái niệm hỗ trợ xưa nay. Nên phải cứu doanh nghiệp để cứu nền kinh tế, đó là điều bắt buộc phải làm nếu không muốn kinh tế sụp đổ. Bây giờ thì tựa vào vận hành kinh tế nội địa trong điều kiện tập trung nhất có thể, đồng thời hết sức tranh thủ cơ hội bên ngoài như các hợp đồng thực hiện khẩu trang, thiết bị y tế nếu có".
Doanh nghiệp phá sản tăng cao, số lượng người thất nghiệp, người nghèo tăng
Bàn về việc các địa phương đề xuất tiếp tục cách ly xã hội (từ 1 tuần cho tới cuối tháng 5), tiến sĩ Quang A đánh giá :
"Các lãnh đạo địa phương khó chủ động trong tình huống này (sợ trách nhiệm, Đại hội 13 đang đến gần...) và họ thường thụ động theo hướng siết chặt. Chính vì thế chính phủ nên có các chỉ dẫn rõ ràng. Tôi nghĩ sau 15/4 tốt nhất là mở từng phần, từng địa phương và theo dõi sát sao và điều chỉnh kịp thời".
Bà Vũ Kim Hạnh cho rằng giãn cách xã hội đã mang lại kết quả tốt trong phong dịch, nhưng đồng thời cũng lưu ý :
"Cấm tất thì dễ, cho hồi phục hoạt động kinh tế một phần thì khó hơn nhiều, mà không thể không làm".
Bà cũng chia sẻ thực tế là khó có thể bỏ giãn cách ngay :
"Tôi tin giãn cách sẽ tiếp tục, không thể nào xóa bỏ, quay trở lại bình thường, nhưng tiếp tục như thế nào ? Nên có những nguyên tắc bất di bất dịch. Giãn cách hiện nay vẫn là giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất để tránh bùng phát. Việt Nam nghèo hơn các nước, chi tiêu để phòng chống dịch không được như các nước giàu. Cũng vì vậy, phải có những cách để nền kinh tế hồi sức lại, chứ không thì sụp đổ".
"Doanh nghiệp mệt mỏi lắm rồi. Hội chúng tôi gồm những doanh nghiệp có uy tín trên thị trường nhưng cũng than là cứ đóng cửa thế này 2 tháng nữa là họ dẹp luôn vì hàng tồn nhiều và không còn thanh khoản. Tôi đoán là nhà nước sẽ vẫn phải giản cách với các nguyên tắc nghiêm ngặt nhất nhưng cũng đến lúc phải mở ra một phần cho doanh nghiệp làm ăn", bà Kim Hạnh chia sẻ.
Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao cho rằng trong bối cảnh phải thực hiện "mục tiêu kép" thì "chính phủ cứ minh bạch với dân, rằng nhu cầu cứu vãn nền kinh tế cần bao nhiêu tiền, nước mình nghèo thì chỉ có sức chi bao nhiêu, kêu gọi dân đóng góp bao nhiêu, đi vay quốc tế bao nhiêu. Và bù vào chỗ thiếu hụt tiền là niềm tin của dân, là cam kết thực thi thật nghiêm túc, hiệu quả, có kỹ luật và sẵn sàng đặt dưới sự kiểm soát của người dân. Bởi đại dịch lần này, tình thế quá khác, quá nghiệt ngã đến mức sống còn thì phải làm như vậy thôi".
Bà cũng nhận xét chính sách hỗ trợ hiện nay còn bất cập, đòi hỏi nhiều thủ tục làm nản lòng người dân và doanh nghiệp.
"Muốn hỗ trợ cho người lao động mà cơ quan thực thi nhất thiết yêu cầu người lao động phải chứng minh rằng công ty mình làm bị thiệt hại nặng đến phá sản vì dịch bệnh thì làm sao chứng minh được ? Hay vay ngân hàng đã túng ngặt rồi mà còn phải trình thế chấp, trình tài sản thế chấp đầy đủ, trình phương án hay hợp đồng bảo đảm trả nợ thì doanh nghiệp ‘bó tay’ thôi", bà nói.
Bà Vũ Kim Hạnh gợi ý giải pháp chính phủ phải có quỹ bảo trợ rủi ro cho ngân hàng, "bởi ngân hàng cũng là đơn vị kinh doanh, bằng không thì hai bên sẽ co kéo không lối thoát hay có lối thoát cho… tiêu cực". Bà cũng lưu ý trong bối cảnh hiện tại, chính phủ cần xem xét chỉ đạo hoãn hay cấm bán công ty Việt Nam cho công ty có yếu tố nước ngoài.
Ngân hàng Thế giới (World Bank) nhận định rằng Việt Nam "đã bắt đầu nếm đòn từ sự biến động khôn lường" của thị trường tài chính toàn cầu hiện nay vì đại dịch Cúm Vũ Hán và tăng trưởng kinh tế có thể sẽ giảm xuống còn 4,9% cũng như "tăng tỷ lệ nghèo trong nửa đầu năm 2020".
"Trong mấy tháng đầu năm 2020, áp lực lạm phát vẫn tồn tại do giá lương thực và thực phẩm ở mức cao dịp cuối năm kết hợp với khả năng hàng hóa thiếu hụt do những biện pháp hạn chế thương mại nhằm ứng phó dịch Cúm Vũ Hán. Các ngành chế tạo chế biến, du lịch và vận tải suy giảm đột ngột trong hai tháng đầu năm 2020", World Bank nhận định trong báo cáo cập nhật tình hình kinh tế có tựa đề "Đông Á và Thái Bình Dương thời Cúm Vũ Hán", ra ngày 31/3.
"Việt Nam đã bắt đầu ‘nếm đòn’ từ sự biến động khôn lường của nền tài chính toàn cầu hiện nay, giá cổ phiếu tụt dốc, độ rủi ro tín nhiệm quốc gia tăng lên, và dòng vốn đầu tư suy giảm".
Tổ chức tài chính quốc tế này nhận định thêm rằng :
"Với dư địa chính sách trong tay, Việt Nam đang ở vị thế vững vàng để vượt qua khủng hoảng về y tế và kinh tế đang diễn ra", nêu dẫn chứng về việc "trong hai tháng đầu năm, xuất khẩu tăng trưởng 8%, dòng vốn FDI đổ vào lên đến 2,5 tỷ USD, ngành bán lẻ tăng trưởng 5,4%".
World Bank cho rằng dù viễn cảnh nền kinh tế Việt Nam vẫn thuận lợi trong trung hạn, nhưng tăng trưởng GDP sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế "có thể giảm còn khoảng 4,9% năm 2020".
Ngoài ra, "áp lực lạm phát dự báo sẽ tăng lên tạm thời, phản ánh bất định về giá lương thực, thực phẩm và nhiên liệu, cũng như khả năng bị gián đoạn thương mại".
Bóng ma đại dịch Cúm Vũ Hán cũng đang bao trùm kinh tế Việt Nam
Khảo sát gần nhất của Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) trên 1.200 doanh nghiệp về ảnh hưởng của dịch Cúm Vũ Hán tới hoạt động kinh doanh cho thấy, nếu dịch Cúm Vũ Hán kéo dài 6 tháng, thì 74% doanh nghiệp có thể sẽ phá sản.
Nguyên nhân chủ yếu do doanh thu không thể bù đắp các khoản chi cho hoạt động như trả lương, lãi vay ngân hàng, thuê mặt bằng… Ngoài ra, gần 30% mất 20-50% doanh thu, 60% doanh nghiệp thậm chí giảm hơn một nửa doanh thu.
Những nhóm ngành bị tác động nghiêm trọng và tức thì là hàng không, du lịch (lưu trú, khách sạn, ăn uống), giáo dục, dệt may, da giày, sản xuất đồ gỗ…
Dịch Cúm Vũ Hán còn khiến hoạt động sản xuất có thể trì trệ, thương mại bị hạn chế, nông nghiệp, bán lẻ và dòng vốn đầu tư quốc tế cũng "dính đòn".
Ngành hàng không bị mất trắng trên 1 tỷ USD
Theo dự báo của Cục Hàng không Việt Nam, diễn biến phức tạp của dịch có thể tác động làm ảnh hưởng doanh thu của các hãng hàng không Việt Nam khoảng 25.000 tỷ đồng năm 2020.
Trong đó, Vietnam Airlines dự kiến doanh thu giảm 12.500 tỷ đồng, Jetstar Pacific dự kiến giảm thu nhập khoảng 732,8 tỷ đồng. Tính đến thời điểm này, doanh thu của ngành đã bị sụt giảm tới 25.000 tỷ đồng.
Hôm 15/4/2020, tại Phiên họp Thường trực Chính phủ về phòng chống dịch Covid-19, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đồng ý 12 tỉnh, thành kéo dài cách ly xã hội đến 22/4 hoặc 30/4, như vậy với quyết định này thì nền kinh tế Việt Nam sẽ còn tiếp tục lao dốc hơn nữa, hàng triệu hộ dân nghèo mặc dù được nhà nước hứa đưa ra ngân sách hỗ trợ, nhưng họ gần như chưa nhận được gì mà cái đói thì đã đến từ lâu.
Trung Nam (Đà Nẵng)
Nguồn : tbe, 18/04/2020
********************
Họ có còn kịp mua cơm không ?
Nguyễn Nam, VNTB, 19/04/2020
Nhiều tổ chức và cá nhân thiện nguyện, họ không phải ban hành nghị quyết và không chờ ai hướng dẫn thực hiện, họ đến với người nghèo bằng tất cả tấm lòng với "nghị quyết" là 2 dòng chữ : "Nếu khó khăn bạn cứ lấy một phần. Nếu bạn ổn xin nhường cho người khác".
Nhà báo Trương Quang Vĩnh kể ngày 10/4, Chính phủ ban hành Nghị quyết hỗ trợ trực tiếp cho người dân gặp khó khăn vì Covid-19, với số tiền 62.000 tỷ đồng. Được báo, đài thông tin là "Quyết định chưa có trong tiền lệ".
Thế nhưng đã 8 ngày trôi qua, trên báo chí, gói hỗ trợ này vẫn còn là những từ ngữ nghị quyết, tinh thần quyết tâm, vẫn còn là những thắc mắc về tiêu chí, điều kiện… Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung thì nói cụ thể hơn : Trong tháng 4 này những đối tượng trên sẽ nhận được tiền hỗ trợ của Chính phủ !
"Với những người nghèo, những tấm vé số là những bữa cơm, nên đứt một ngày bán là đứt những bữa cơm trong ngày. Nhiều đối tượng nghèo khác kiếm cơm hàng ngày bằng sức lao động của mình cũng tương tự vậy. Chờ đến tháng 4 này, họ có còn kịp nhận tiền mua cơm không ?" – nhà báo Trương Quang Vĩnh đặt câu hỏi.
Vẫn theo nhà báo Trương Quang Vĩnh, bức xúc trước hoàn cảnh nghèo khó đó, nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều tổ chức và cá nhân thiện nguyện, họ không phải ban hành nghị quyết và không chờ ai hướng dẫn thực hiện, họ đến với người nghèo bằng tất cả tấm lòng với "nghị quyết" là 2 dòng chữ : "Nếu khó khăn bạn cứ lấy một phần. Nếu bạn ổn xin nhường cho người khác".
Với "nghị quyết" đó, các cây ‘ATM gạo’ đã nở rộ các tỉnh, thành ; đến ATM thực phẩm (*), đến những bữa cơm, những gói quà, đến siêu thị 0 đồng… Và nhiều người trong số họ đã tổ chức gửi những "bữa cơm di động" đưa đến tận tay những ai không còn đủ sức lực để xếp hàng nhận cơm…
Đáp lại, nhiều tổ chức, cá nhân cũng góp sức mình bằng cách góp gạo cho các cây ‘ATM gạo’. Với họ, không có lời tuyên bố, vì lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe, và người mù có thể thấy !
Nhà báo Vương Liễu Hằng không giấu sự ngờ vực bằng văn phong ‘cà khịa’ quen thuộc ở cây bút chuyên trách mảng phóng sự xã hội của báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh : "Điều to bự mà triệu triệu con mắt đang chăm chăm nhìn vào hiện nay, là gói hỗ trợ 62 ngàn tỷ của chính phủ. Gói ấy là gì ? Chừng nào nó mở ra ? Mở ra cho ai hay chỉ là bánh vẽ ?
Nhóm đối tượng hoang mang nhất, là những người không có việc làm cụ thể ở bất kỳ công ty tổ chức nào… Họ sẽ nhận hỗ trợ ra sao và nhận ở đâu ? Trong khi họ mới chính là thành phần cùng khổ nhất ?".
Theo nữ nhà báo Vương Liễu Hằng, câu trả lời thiết thực là cứ bám nơi cư trú, bởi trong quy định, những người thuộc các ngành nghề như : Bán hàng rong, bốc vác, xe ôm, xích lô, bán vé số lưu động, người lao động tại các cơ sở ăn uống, lưu trú, du lịch, chăm sóc sức khỏe… đều là đối tượng được hỗ trợ !
Thế nhưng cái ngặt cũng lại là ở chỗ đó. Theo quy định thì những đối tượng trên phải đăng ký thường – tạm trú ít nhất 3 tháng kể từ trước 1/4/2020, trong khi có nhiều người lao động, đặc biệt là người bán hàng rong và bán vé số không đủ thời hạn đăng ký trên (mà thậm chí có người còn không đăng ký). Vậy, họ phải làm sao ?
"Sóc Trăng đã làm khá tốt khi chính công ty xổ số đứng ra rà soát những đối tượng bán vé số trên địa bàn để phối hợp hỗ trợ. Tuy nhiên hoạt động linh động kiểu này vẫn tuỳ thuộc vào từng địa phương lẫn… ông chủ tịch phường.
Cú giật thót nhất trong gói là trong danh sách hỗ trợ thấy thành phần… có công cách mạng ( !) Không phủ định giờ đây vẫn chả ít những "mẹ đào hầm từ thủa tóc còn xanh" vẫn bạc mặt vì đói. Tuy nhiên cũng không thể không thấy một hiện trạng khác : Tất cả các cây củi gộc đã, đang, sẽ và có thể là không bao giờ vào lò, thì đều là hậu duệ gần với những thành phần… có công cách mạng !" – nhà báo Vương Liễu Hằng nhận xét.
Nguyễn Nam
Nguồn : VNTB, 19/04/2020
Chú thích :
(*) ATM thực phẩm nhằm giúp đỡ những người nghèo, người yếu thế, gặp nhiều khó khăn trong đời sống bởi dịch Covid-19. Điểm ATM tại trụ sở báo Người Lao Động nằm ở góc ngã tư Võ Văn Tần – Bà Huyện Thanh Quan, quận 3, Sài Gòn không chỉ tiếp sức người nghèo bằng gạo như các cây ATM thông thường khác, mà còn là nơi cung cấp thực phẩm để giúp người nghèo có được bữa cơm tươm tất trong những ngày cách ly xã hội, không có việc làm.
"Kinh tế Việt Nam cần thêm một gói ‘giải cứu’ mới tối thiểu 140 ngàn tỷ đồng"
GDP của Việt Nam trong Quý I/2020 được công bố tăng 3,82%, thấp nhất kể từ năm 2009. Song song đó, hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong tình hình dịch Covid-19 suốt 3 tháng đầu năm 2020.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu. Courtesy : Facebook Hieu Tri Nguyen
Đài RFA thực hiện một cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế-tài chính độc lập, để tìm hiểu thêm về những tác hại nào đối với các doanh nghiệp và kinh tế của Việt Nam, cũng như những giải pháp hỗ trợ nào từ Chính Hà Nội trong tình hình dịch bệnh còn tiếp diễn.
Trước hết, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu trình bày ghi nhận của ông về nền kinh tế Việt Nam trong Quý I/2020 bị tác động ra sao bởi dịch Covid-19 :
Nguyễn Trí Hiếu : Trong Quý I năm 2020, nền kinh tế Việt Nam bị tác động bởi dịch Covid-19 rất mạnh. Con số tăng trưởng GDP trong Quý I là 3,82%, giảm rất nhiều, khoảng phân nửa so với cùng kỳ năm trước ở mức 6,79%.
Với sự tăng trưởng như thế thì rất nhiều ngành nghệ bị tác động. Trong đó có khu vực nông sản, lâm nghiệp, thủy sản. Ngay cả những ngành nghề trong khu vực công nghiệp và xây dựng cũng bị ảnh hưởng.
Riêng về xuất nhập khẩu trong Quý I/2020 cũng giảm so với năm ngoái. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong Quý I/2020 đạt 115 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên trong Quý I năm nay vẫn xuất siêu được 2,8 tỷ USD.
Tôi cũng nghĩ rằng có một sự sụt giảm trong đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư nước ngoài tính đến ngày 20/3 ; bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vố đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài đạt 8,6 tỷ USD, giảm 20,9% và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong Quý I/2020 ước tính đạt khoảng 3,9 tỷ USD, cũng giảm 6,6%.
Nói chung các hoạt động kinh tế trong Quý I/2020 giảm so với năm 2019. Chúng ta thấy rõ ràng là dịch bệnh Covid-19 đã tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên cũng có những điểm sáng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong lúc những ngành nghề bị tác động rất mạnh như du lịch, vận tải, đặc biệt là hàng không thì cũng có những ngành nghề có sự phát triển ; chẳn hạn như thông tin truyền thông, bảo hiểm và y tế có sự tăng trưởng trong Quý I/2020.
RFA : Đài RFA ghi nhận một số vị chuyên gia kinh tế ở trong nước dự báo rằng GDP trong Quý II/2020 của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm trong trường hợp dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Quan điểm của ông thế nào, thưa Tiến sĩ ?
Nguyễn Trí Hiếu : Chúng ta biết rằng dịch bệnh hiện tại đang ở mức độ lan tỏa rất mạnh mẽ trên cả thế giới. Bây giờ chúng ta cũng chưa thấy có điểm dừng của dịch bệnh này. Thành ra trong tình hình như thế này thì có thể kinh tế thế giới và trong đó có kinh tế Việt Nam tiếp tục bị tác động mạnh. Thế nhưng tôi đặt một giả thiết là nếu ở Việt Nam có thể giữ được không có người chết và kiểm soát được tình trạng lây lan trong Quý II thì nền kinh tế có khẳ năng sẽ phục hồi bắt đầu từ Quý III/2020. Còn ngược lại nếu mà tình hình dịch bệnh trên thế giới và ở Việt Nam tệ hơn thì có lẽ đúng là có thể GDP của Việt Nam sẽ giảm và những khó khăn của nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp, đặc biệt của người dân Việt Nam cũng sẽ chịu tác động rất mạnh.
RFA : Truyền thông Việt Nam đưa tin hiện đã có hàng chục ngàn doanh nghiệp rút khỏi thị trường do dịch Covid-19 và số liệu này được ghi nhận tăng gần 60% so với cùng kỳ năm 2019. Hồi đầu trung tuần tháng 3, Chính phủ Việt Nam cam kết một gói 280 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ cho doanh nghiệp. Theo nhận định của ông thì gói hỗ trợ này có thể giúp cho các doanh nghiệp phần nào vượt qua được khó khăn hay không, đặc biệt đối với các doanh nghiệp không thể cầm cự hay tiếp tục hoạt động được nữa ?
Nguyễn Trí Hiếu : Đúng là trong Quý I/2020 có nhiều doanh nghiệp đã giải thể, ngưng hoạt động, phá sản và rời khỏi thị trường. Theo Cục Thống kê thì có 18.600 doanh nghiệp đã giải thể hoặc ngưng hoạt động trong 3 tháng vừa qua. Với mức độ như vậy thì dĩ nhiên Chính phủ đã đưa ra gói 280 nghìn tỷ, trong đó 30 nghìn tỷ thuộc về ngân sách nhà nước. Tức là, Chính phủ dùng 30 nghìn tỷ đó để giãn thuế, giảm thuế, miễn thuế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Còn gói 250 nghìn tỷ thì Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước chủ trì và Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại tham gia vào gói 250 nghìn tỷ này. Đây là gói mà các ngân hàng thương mại dùng để hỗ trợ doanh nghiệp cho vay mới, hoặc hỗ trợ các doanh nghiệp đang vay bằng cách giảm lãi suất, khoanh nợ, hoãn thời hạn trả nợ và không chuyển nhóm nợ.
Như chúng ta biết là có 5 nhóm nợ theo cách phân loại của Việt Nam. Nhóm 1 là nhóm bình thường. Nhóm 2 là nhóm dưới chuẩn. Ba nhóm còn lại : 3-4-5 là nợ xấu. Thế thì các doanh nghiệp nào thuộc trong nhóm 2-3-4-5 thì các doanh nghiệp đó rất khó có thể vay tiền của các ngân hàng được, thậm chí còn phải vay với lãi suất cao.
Do đó, Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại tạm khoanh nợ lại, không chuyển nhóm nợ cho một số những doanh nghiệp mà không có khả năng thanh toán và tất cả những biện pháp đó nằm trong gói 250 nghìn tỷ đồng.
Lưu ý đây là gói mà tự các ngân hàng thương mại cân đối nguồn vốn của mình, do Ngân hàng Nhà nước chủ trì để hỗ trợ, chứ không phải là tiền của Chính phủ.
RFA : Theo Tiến sĩ thì đề xuất nào khác mà ông cho rằng Chính phủ Việt Nam cần thiết phải làm để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, nếu như đặt trong tình huống xấu nhất là dịch Covid-19 vẫn tiếp diễn và không kiểm soát được ?
Nguyễn Trí Hiếu : Đây là một vấn đề tôi nghĩ rằng không những tôi mà tất cả người dân, các doanh nghiệp, các nhà kinh tế và các nhà làm chính sách ở Việt Nam đều quan tâm là gói hỗ trợ nào ?
Thế thì ngoài gói hỗ trợ 280 nghìn tỷ đồng mà Chính phủ đã đưa ra và trong đó 250 nghìn tỷ thuộc về các ngân hàng thương mại, tôi nghĩ rằng Chính phủ phải ra tay cứu vớt nền kinh tế với một gói tương tự như các chính phủ nước khác ; tức là một gói từ ngân sách.
Như chúng ta biết hiện tại ở Mỹ có gói 2000 tỷ USD, chiếm khoảng 10% GDP của Mỹ.
Tôi không dám mạnh dạn đề xuất Chính phủ Việt Nam có một gói hỗ trợ lên đến 10% GDP của Việt Nam.
Năm 2019, GDP của Việt Nam nếu tính theo cách cũ là 267 tỷ USD, và tính theo cách mới là 300 tỷ USD. Bây giờ chúng ta lấy con số 300 tỷ USD này làm cái mốc thì nếu10% sẽ lên đến 30 tỷ USD. Tôi nghĩ Chính phủ Việt Nam không có tiền cho một gói hỗ trợ lên đến như thế. Nhưng mà có lẽ một gói hỗ trợ ít nhất cũng phải là 2% GDP. 2% của 300 tỷ USD thì vào khỏang 6 tỷ USD, tính ra xấp xỉ 140 nghìn đến 150 nghìn tỷ đồng.
Chính phủ phải có một gói mới từ ngân sách 140 nghìn tỷ đồng tối thiểu để hỗ trợ cho nền kinh tế. Trong đó dùng tiền để hỗ trợ cho người dân và các doanh nghiệp.
Người dân là những người đã mất công ăn việc làm, những người không còn thu nhập cũng như những người nghèo thì Chính phủ đưa tiền đến tận tay họ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần phải có sự hỗ trợ. Đặc biệt là các doanh nghiệp đang mất tính thanh khoản, tức là mất khả năng chi trả như trả tiền thuê mặt bằng, trả tiền người lao động, thanh toán cho nhà cung cấp, trả tiền thuế phí khác, trả nợ ngân hàng, trả nợ cho đối tác…Tất cả những doanh nghiệp đang mất khả năng chi trả hoặc khả năng chi trả của họ giảm thiểu rất mạnh thì Chính phủ, trong trường hợp này, phải bơm một dòng tiền vào cho các doanh nghiệp đó ; bằng cách cho họ vay với những điều kiện thật dễ dãi cùng với thời gian ân hạn rất dài, có thể đến 1 năm mà không phải trả gốc lẫn lãi.
Việc đưa tiền cho các doanh nghiệp như thế có thể thông qua hệ thống ngân hàng, tức là hệ thống ngân hàng được ủy thác một số tiền của Chính phủ để có thể giúp các doanh nghiệp. Đồng thời, Chính phủ có một cơ chế gọi là ‘cấp quỹ bảo lãnh tín dụng’, giống như ở bên Mỹ có SDA. Hiện ở Việt Nam cũng đã có một ‘Quỹ bảo lãnh tín dụng’. Chính phủ đổ một lượng tiền vào trong các ‘Quỹ bảo lãnh tín dụng’ đó và các "Quỹ bảo lãnh tín dụng’ chuyển tới bảo lãnh các ngân hàng để các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay đang bị tác động mạnh bởi dịch Covid-19 này.
RFA : Chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu dành cho cuộc phỏng vấn với RFA.
Nguồn : RFA, 03/04/2020
Tình cảnh của giới kinh doanh quán ăn, dịch vụ tại Sài Gòn hiện nay (RFA, 26/03/2020)
Vào ngày 24/3, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ra lệnh đóng cửa toàn bộ các cơ sở kinh doanh tụ tập trên 30 người, trong đó bao gồm các nhà hàng, quán ăn, khu vui chơi giải trí, các cửa tiệm làm đẹp, uốn tóc và hớt tóc…v.v.
Một quán bar đã đóng cửa trên đường Bùi Viện, Thành phố Hồ Chí Minh. Reuters
Tiếp đến , Thủ tướng Việt Nam chỉ thị các thành phố lớn trong nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đóng cửa toàn bộ các cơ sở kinh doanh như nêu trên, không giới hạn số lượng người, bắt đầu vào ngày 28/3.
Vào ngày 26/3, RFA đã có cuộc phỏng vấn ghi nhận tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ảnh hưởng do lượng khách hàng giảm từ khi dịch bùng phát đến nay, thì nay họ sẽ xoay sở thế nào khi phải đóng cửa hoàn toàn cơ sở kinh doanh.
Nhân viên ở một nhà hàng tại Hà Nội cầm bảng quảng cáo trong thời kỳ dich bệnh. Reuters
Chị Loan, chủ của một tiệm tóc tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết từ khi dịch bệnh bùng phát trong nước, việc hoạt động của cửa tiệm chị không như trước vì số lượng khách hàng thưa thớt :
"Tình hình dịch bệnh làm hạn chế, ảnh hưởng đến kinh doanh, khách hàng thì sợ bị lây nhiễm. Với lại tiệm đóng cửa trong khi tiền thuê mặt bằng mình vẫn phải trả và thêm tiền lương nhân viên, nên cũng gặp khó khăn nhiều. Trước khi đóng cửa (đã có khó khăn), tại vì dịch ảnh hưởng chung, nên khách hàng cũng giảm"
Chị Loan hiện tại vẫn chưa biết cửa tiệm mình sẽ phải tiếp tục đóng cửa bao lâu, vì theo chị phải theo dõi và xem xét tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến như thế nào. Chị cho biết :
"Chưa biết nha chị. Nhà nước thì ra quy định như vậy, nhưng cũng có thể đến khi đó xem xét tình hình thế nào, có thể đóng cửa tiếp. Theo em thấy ở những vùng học sinh nghỉ học, thì còn đi theo tình trạng dịch như thế nào nữa. Tạm thời phải nghỉ hết tháng".
Anh Lộc, chủ của một quán ăn ở một khu đô thị mới tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết khi luật chỉ giới hạn cho những cơ sở kinh doanh có tụ tập trên 30 người, những quán ăn như quán của anh có thể gia giảm số lượng khách phục vụ xuống còn dưới 30 người. Tuy nhiên, sắp tới khi phải đóng cửa toàn bộ nhà hàng, những khó khăn anh gặp phải như sau :
"Khi đóng cửa thì thứ nhất, các đồ ăn, nguyên liệu của mình sẽ bị hư. Thứ hai là khi nhân viên xin nghỉ về quê thì sẽ khó lên lại và cũng khó tìm người nhân viên khác để thay thế. Thêm nữa là chi phí mặt bằng, vì người ta sẽ không giảm cho mình. Khi mình đi xin người ta chưa chắc gì họ sẽ giảm. Trước đây thì những tiệm lớn có thể chỉ giảm thiểu số khách còn đúng 30 người thôi".
Quán ăn của anh Lộc vẫn còn mới, được thành lập chỉ trong vòng 1 năm trở lại, vì thế nhân viên làm cho quán là những bạn sinh viên, còn trẻ và chưa gắn bó lâu với quán, nên ngoài việc chi phí, thức ăn, anh Lộc lo lắng về việc tìm người thay thế khi quán mở lại cũng sẽ gặp khó khăn.
Về việc phải tạm dừng kinh doanh và cho nhân viên về quê, chị Loan cho biết trong ngành tóc bên chị không quá phải lo lắng việc nhân viên nghỉ mà không quay lại làm, vì họ đã gắn bó với tiệm đã lâu. Chị cho biết thêm :
"Mình cũng hỗ trợ (lương) nhân viên một phần. Thí dụ như mình có thể hỗ trợ cho nhân viên trong thời gian nghỉ lâu dài, có thể cho mấy bạn về quê tránh dịch, hoặc cũng có vài bạn nhân viên ở trên đây (Thành phố Hồ Chí Minh) ; nếu như ở trên đây nghỉ ít ngày thì mình cũng có hỗ trợ. Nếu như mà qua tháng nhà nước tiếp tục cho nghỉ thêm một, hai tuần chẳng hạn, thì sẽ cho những bạn này về quê tránh dịch".
Khi trả lời phỏng vấn với RFA ngày 26/3, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh cho rằng để tránh tình trạng dịch bệnh lây lan diễn biến nghiêm trọng hơn, ngoài việc cho sinh viên, học sinh nghỉ học, chính phủ Việt Nam cũng buộc phải đóng cửa các cơ sở kinh doanh ăn uống, giải trí. Vì vậy, doanh thu của những ngành này đều bị ảnh hưởng.
Theo ông Thịnh, so với mọi năm thì năm nay, hầu như các doanh nghiệp trong lĩnh vực này đều thất thu, vì vậy lượng doanh nghiệp xin ngừng hoạt động hay phá sản trong ba tháng đầu năm nay chủ yếu là những cơ sở kinh doanh nhỏ và các hộ gia đình có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ này. Ông nhận xét :
"Một số doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình do nguồn lực nó cũng có hạn thôi, mà do doanh thu giảm như vài tháng vừa rồi thì họ không có cái để trả tiền thuê cơ sở vật chất, cũng như là trả tiền lương cho người lao động, nhân viên mà vì vậy những người trong số ngành này cũng tuyên bố phá sản".
Ông Thịnh cho rằng hiện tại là lúc chủ của các cơ sở kinh doanh có thể lấy đây làm cơ hội để cơ cấu lại doanh nghiệp, tìm những giải pháp tạm thời để có thể tiếp tục hoạt động khi cơn dịch đã đi qua.
Tuy nhiên, theo anh Lộc, trước khi có lệnh đóng cửa như sắp tới đây, quán ăn của anh cũng đã thử nghiệm áp dụng hình thức kinh doanh qua dịch vụ giao tận nhà, nhưng đó không phải là mô hình kinh doanh chủ yếu của quán nên doanh thu từ hình thức này không giúp bù đắp cho việc khách hàng không đến quán ăn của mình :
"Về dịch vụ delivery thì không có chạy được nhiều, vì (hình thức kinh doanh) đa phần khách tới quán là vì khung cảnh đẹp và có gió mát. Đồ ăn của mình lên (dịch vụ delivery) không có dễ, tự nhiên mình bị mất 20% đến 23% cho một phần ăn".
Đối với chị Loan, chị chỉ mong có được sự hỗ trợ nào đó từ nhà nước để có thể duy trì hoạt động kinh doanh của mình trong trường hợp phải đóng cửa tiệm lâu dài. Chị cho biết :
"Như tụi em làm kinh doanh thì hàng tháng vẫn phải lo mặt bằng, kinh phí này kia nên cũng mong nhà nước sẽ hỗ trợ một phần nào đó. Còn tình hình dịch thì ai cũng phải chung tay đóng cửa hàng, quán để cùng nhau qua mùa dịch này".
Ông Đinh Trọng Thịnh cho biết, việc hỗ trợ như một số quốc gia khác chu cấp một lượng tiền đến thẳng cho người dân thật sự rất khó đối với nhà nước Việt Nam :
"Vì ngân sách nhà nước Việt Nam cũng rất eo hẹp và vì thế cho nên phải tính toán cẩn trọng trong việc này. Điều thứ hai là nếu áp dụng biện pháp kích cầu, hoặc dùng biện pháp mạnh tay thì nó rất nhiều vấn đề, thì lúc đó sẽ có thêm vấn đề là ngành nào, doanh nghiệp nào, hình thức nào và ai được hưởng, bao nhiêu, ra làm sao…v.v, nó rất nhiều vấn đề phức tạp".
Ông Thịnh cho biết thêm, phía các chuyên gia Việt Nam cũng đã có ý kiến đối với cơ quan quản lý để xem xét, miễn giảm các loại thuế cho các loại hình doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch bệnh này. Từ đó, ông cũng mong có thể giúp cho các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh như thế này có thể mở cửa và hoạt động trở lại khi đợt khủng hoảng đi qua.
*******************
Mưa lớn kèm tố lốc gây nhiều thiệt hại ở Bắc Kạn (RFA, 27/03/2020)
Mưa lớn kéo dài kèm tố lốc trong 2 ngày 25-26/3 đã gây nhiều thiệt hại về tài sản, hoa màu tại tỉnh Bắc Kạn.
Một ngôi nhà ở xã Xuân Lạc (Chợ Đồn) bị tốc mái hoàn toàn vì gió lốc. Nguồn : nhandan.com.vn
Báo trong nước loan tin ngày 27/3, trích nội dung từ Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Bắc Kạn cho biết rõ tổng thiệt hại do mưa lũ hai ngày qua ở Bắc Kạn ước tính lên đến hơn bốn tỷ đồng.
Cũng trong ngày 27/3, Cơ quan Thống kê quốc gia Việt Nam công bố số liệu tổng hợp báo cáo sơ bộ từ các địa phương cho biết tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý 1 năm nay trên cả nước ước tính gần 935 tỷ đồng, gấp 9 lần so với cùng kỳ năm 2019.
Cụ thể, chỉ trong 3 tháng đầu năm, thiên tai làm 9 người chết, 18 người bị thương ; hơn 39.000 ha lúa và gần 7.000 ha hoa màu bị hư hỏng ; 24 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hơn 23.000 ngôi nhà bị hư hỏng.
Vẫn theo số liệu Cơ quan Thống kê quốc gia Việt Nam công bố, trong 3 tháng đầu năm, cơ quan chức năng đã phát hiện 2.545 vụ vi phạm môi trường trên cả nước, trong đó xử lý 2.246 vụ với tổng số tiền phạt 58,5 tỷ đồng.
Trong 3 tháng, cả nước xảy ra 791 vụ cháy, nổ, làm 25 người chết và 61 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính hơn 197 tỷ đồng.
Trong khi đó, tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm 2020 giảm so với cùng kỳ năm trước theo cả 3 tiêu chí : số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương.
Theo đó, số vụ tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm nay giảm 13,9%, số người chết giảm 14% và số người bị thương giảm 17%.
Cơ quan Thống kê quốc gia nhận định tai nạn giao thông giảm có thể là do ý thức chấp hành luật giao thông của người dân được nâng lên thông qua việc thực hiện nghiêm Nghị định số 100 của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 30/12/2019.
******************
Mưa đá rạng sáng 18/3 gây thiệt hại tại 4 tỉnh miền Bắc (RFA, 18/03/2020)
Một trận mưa đá vào rạng sáng ngày 18/3 gây thiệt hại tại 4 tỉnh phía Bắc bao gồm Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu và Phú Thọ. Trong đó, tỉnh Lào Cai được ghi nhận bị thiệt hại nặng nề nhất.
Mưa đá có đường kính 4-5 cm tại thành phố Lai Châu tối ngày 17/03/2020. Courtesy : vov.vn
Truyền thông trong nước loan tin nêu rõ mưa đá với kích cỡ đường kính 4-5cm bắt đầu đổ xuống vào khoảng 20 giờ tối ngày 17/3, tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Tại huyện Tam Đường của tỉnh Lai Châu cũng xảy ra mưa đá kèm theo gió lớn, tập trung ở xã Nùng Nàng và Bản Giang. Hai địa phương này được ghi nhận bị thiệt hại về nhà cửa, hoa màu và cây cối.
Báo giới cho biết tỉnh Lào Cai bị thiệt hại nặng nề nhất trong trận mưa đá trong đêm 17/3, rạng sáng 18/3. Thống kê ban đầu ước tính có 82 căn nhà bị tốc mái và mái ngói bị hư hại ở huyện Bắc Hà. Một số diện tích cây trồng tại huyện Bắc hà và huyện Si Ma Cai cũng bị ảnh hưởng do mưa đá.
Hai tỉnh còn lại bị mưa đá nhưng thiệt hại không lớn là Yên Bái và Phú Thọ. Hiện đang vẫn được cập nhật thông tin.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai đề nghị các tỉnh bị ảnh hưởng bởi trận mưa đá rạng sáng ngày 18/3 nhanh chóng thống kê thiệt hại cũng như khắc phục hậu quả và ổn định cuộc sống của người dân.
Riêng tỉnh Lai Châu, đây là trận mưa đá thứ hai trong/3. Trận mưa đá xảy ra trong 3 ngày, từ ngày 2 đến ngày 4/3 đã gây thiệt hại ở nhiều địa phương của tỉnh này lên đến 13 tỷ đồng.
Doanh nghiệp Việt có thể tồn tại qua dịch Covid-19 ? (RFA, 09/03/2020)
Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh, trưởng bộ môn Quản trị Tài chính quốc tế của Học viện Tài chính Việt Nam, vào ngày 9 tháng 3 nói với RFA về đường hướng phải hi sinh phát triển kinh tế để dập tắt dịch Covid-19.
Công nhân trong một xưởng dệt may tại Hà Nội AFP
"Đây là giải pháp tốt nhất, vì nếu để dịch bệnh lây lan ra như Trung Quốc, thì không chỉ sản xuất kinh doanh không được, mà còn bị tốn kém chi phí cách li và chi phí về phòng chữa bệnh. Vì thế mà sự tăng trưởng kinh tế có cao hay thấp thì nó không quan trọng lắm bằng việc làm thế nào dập tắt được dịch bệnh với chi phí thấp nhất".
Đồng tình, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, một chuyên gia kinh tế khác mà RFA đã có cuộc phỏng vấn cùng ngày, khẳng định tính mạng con người là trên hết.
"Đây là bệnh dịch rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến sinh mạng. Chính phủ xem tính mạng con người là số một, nên có thể nói sẵn sàng đánh đổi kinh tế để bảo toàn sinh mạng cho con người".
Tiền hành khử trùng máy bay của Vietnam Airlines sau khi có hành khách xét nghiệm dương tín với Covid-19 - AFP
Ông Long cho biết thêm, dịch bệnh xảy ra làm hao tổn chi phí đến các nguồn lực về mặt tài chính và tất cả các nguồn lực khác để phục vụ cho việc kiểm soát bệnh dịch. Từ đó làm cho sản xuất đình trệ và hệ quả theo nhận định của Ông Ngô Trí Long :
"Mà nếu sản xuất đình trệ thì cùng lúc 2 thiệt là thiệt kép. Mong mỏi của chính phủ là gì ? Là vừa kiểm soát được dịch bệnh và đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế, điều đó hoàn toàn rất khó khăn. Cùng lúc không thể thực hiện được nhiệm vụ kép đó, theo quan điểm cá nhân của tôi. Vì qua quá trình kiểm soát dịch bệnh phải tổn hao người, tiền bạc, của cải, vật chất, tất cả".
Thực tế và cơ hội ?
Báo cáo 2 tháng đầu năm 2020 của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, cho thấy ngành xuất khẩu vẫn tăng trưởng, ước đạt gần 40 tỷ USD, tăng 2.4% so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó, ông Thịnh cho rằng phương diện phát triển và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có bị ảnh hưởng vì dịch Covid-19, nhưng không đến mức độ nghiêm trọng.
Dựa trên cơ sở đó, ông Thịnh nhận định rằng nguy hại của dịch Covid-19 lại tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xem xét và định hướng lại chiến dịch kinh doanh của mình, nhất là vào khâu xuất khẩu.
"Đây là hướng các chuyên gia kinh tế mong muốn và khuyến khích, đó là nhập các công nghệ và nguyên liệu từ các nước hiện đại, tiên tiến ; có thể đắt một chút, nhưng nó sản xuất ra các sản phẩm tốt. Dù các nguyên nhiên vật liệu và linh phụ kiện đắt hơn, nhưng mà có thể đáp ứng được sản xuất sản phẩm chất cao, từ đó có thể xuất khẩu vào các nước liên minh Châu Âu và các nước phát triển nói chung. Đồng thời, trên cơ sở đó có thể đẩy mạnh các quan hệ giữa Việt Nam với các nước phát triển".
Trong khi đó ngành du lịch Việt Nam là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề vì dịch bệnh. Cùng ngày, RFA cũng có buổi phỏng vấn với ông Nguyễn Văn Mỹ, Chủ tịch hội đồng thành viên thuộc công ty Du Lịch Lửa Việt, tình hình hiện tại của ngành hết sức khó khăn. Sau sự việc của bệnh nhân thứ 17 từ London trở về Hà Nội, đã dẫn đến đảo lộn rất nhiều dự tính của chính phủ Việt Nam.
"Ngay cả công ty du lịch Lửa Việt khi bắt đầu có khách trở lại, chúng tôi bắt đầu chương trình cho ngày 8 tháng 3 về Bến Tre. Nhưng sau khi công bố chính thức có thêm nạn nhân ngày ngày 7 tháng 3, thì số lượng khách hàng đăng ký tham gia chương trình này đã giảm xuống. Chỉ trong 1 ngày, mất khoảng chừng 30% khách. Chúng tôi có chương trình khuyến mãi đăng ký gần 200 khách, thì thông tin này đã kéo xuống của chúng tôi khoảng 40 khách... Đây là tác đông dây chuyền. Cùng một lúc, từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 5 tháng 3 chỉ có 16 ca, mà từ ngày 5 tháng 3 đến nay đã từ 16 lên đến 31 ca nhiễm. Hết sức bất ngờ và lúng túng, nên đã tạo thêm hoang mang cho người dân".
Yêu cầu tồn tại !
Khi được hỏi về giải pháp để các doanh nghiệp trong nước có thể vượt qua khó khăn do dịch Covid-19 gây ra, ông Mỹ cũng cho biết thêm :
"Trước hết phải tồn tại thì mới đến phát triển được. Thứ nhất, hậu quả của Covid-19 là nó không có biệt lệ và không loại trừ ai cả ; không ai đứng ngoài cuộc cả. Ngay cả các ngành không ai nghĩ sẽ bị ảnh hưởng vì không có tính chất liên quan như giáo dục và quân đội cũng phải vào cuộc. Cho nên để vượt qua, thì phổ biến nhất là các công ty phải cắt giảm biên chế. Thứ 2, thuyết phục nhân viên nghỉ không lương. Thứ 3, giảm lương để được tồn tại".
Du khách nước ngoài tham quan Hà Nội trong mùa dịch Covid-19 AFP
Riêng trong ngành du lịch, ông Mỹ cho biết công ty Lửa Việt đã tiến hành các tour đi về các vùng nắng gió, nơi mà dịch bệnh theo ông là khó phát triển, như vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
"Những vùng nắng gió, thì điều khí hậu tối kỵ cho phát tán virus Covid-19, thì nhớ đó chúng tôi tìm cách có thêm nguồn thu để duy trì hoạt động, tạo tâm lý không chỉ cho khách hàng họ tin tưởng mà còn từ nhân viên. Cứ ngồi than vãn mà chờ thì càng nguy hại".
Trong lĩnh vực sản xuất, Ông Thịnh cho biết thêm, đã đến lúc Việt Nam dừng việc làm thuê gia công cho các thương hiệu nổi tiếng và các tập đoàn lớn ở nước ngoài. Đến thời điểm này, Việt Nam đã tích lũy các kinh nghiệm và có các hiểu biết nhất định về thị trường và sản phẩm nhất định.
"Dựa trên cơ sở đó, các nhà khoa học và các nhà thiết kế phải là người tiên phong dám nghĩ dám làm, để tự thiết kế mẫu mã của chính mình để không phải mượn các mẫu mã của nước ngoài để làm thuê. Nhờ đó mà có được lợi nhuận cao hơn và chi phí giảm đi... Đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết, liên doanh lại để giảm thấp các chi phí về quản lý, tiếp cận thị trường, và chi phí về nghiên cứu để có thể có các thương hiệu riêng của riêng mình. Có những mẫu mã và hình thức riêng, những sản phẩm riêng của người Việt Nam".
Theo hi vọng của chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh, trong sự bùng phát dịch Covid-19 này, nền kinh tế Việt Nam sẽ có được những chuyển biến cả về mặt chất lượng và cũng như cả về các cách thức.
******************
Các doanh nghiệp Việt cần chạy đua để đáp ứng yêu cầu của EVFTA (RFA, 09/03/2020)
Liên Hiệp Châu Âu cho rằng thỏa thuận mậu dịch tự do EVFTA với Việt Nam là một trong những thỏa thuận thương mại tham vọng nhất mà khối này đạt được với một nước đang phát triển. Theo đó, khoảng 99% thuế hàng xuất khẩu của cả hai phía sẽ được cắt giảm.
Minh họa : công nhân làm việc trong một nhà máy may ở Hà Nội. AFP
Fiber2fashion cho biết EVFTA có thể chính thức bắt đầu có hiệu lực kể từ tháng 7 tới đây.
EVFTA được nhận định sẽ là cơ hội lớn để mở rộng cho các doanh nghiệp Việt Nam và nhiều sản phẩm mà Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường EU, bao gồm cả hàng dệt may, cà phê và giày dép. Song song đó là những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt.
Trao đổi với RFA tối ngày 9/3, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương cho biết bên cạnh những ưu đãi về thuế quan mà EVFTA mang lại, sản phẩm xuất khẩu Việt Nam sẽ phải đối mặt rất nhiều yêu cầu rõ ràng và khắt khe, đặc biệt đối với mặt hàng dệt may :
"Yêu cầu thứ nhất là hàm lượng nội địa của hàng dệt may phải đạt hàm lượng tối thiểu nhất định mới được đánh giá là hàng sản xuất tại Việt Nam, made in Vietnam. Hiện nay hàng dệt may của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều những sản phẩm đầu vào như vải sợi, phụ liệu khác nhập khẩu từ Trung Quốc vì rẻ hơn rất nhiều. Tuy vậy, tình hình dịch cúm covid-19 đã làm cho nhiều nguồn cung ứng bị đứt đoạn nên các doanh nghiệp Việt Nam đang phải tìm các nguồn thay thế từ Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Bangladesh. Điều này không thể một sớm một chiều có thể làm được.
Điều thứ hai là Hiệp định EVFTA nêu ra rất rõ điều kiện về lao động, công khai minh bạch, trách nhiệm đối với môi trường, bảo vệ môi trường. Vì vậy, tôi nghĩ đấy là cơ hội cũng là những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực đáp ứng các yêu cầu này".
Theo nhiều báo cáo được báo trong nước trích dẫn, ngành dệt may Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào máy móc và nguyên liệu nhập khẩu.
Giải thích nguyên nhân vì sao Việt Nam vẫn phải nhập khẩu thành phần nước ngoài, ông Nguyễn Đình Trường, Tổng Giám Đốc dệt may Việt Tiến, một công ty thành viên Hiệp Hội Dệt May Việt Nam cho hay :
Hình minh họa. Đại diện Thương mại của EU Cecilia Malmstrom, Bộ trưởng kinh doanh, thương mại và doanh nghiệp của Romanie Stefan Radu Oprea cùng Bộ Trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh dự lễ ký EVFTA ở Hà Nội hôm 30/6/2019 Reuters
"Mỗi một năm trong nước chỉ sản xuất có một tỷ mét vải thôi, còn trong đó là nhập rất nhiều tỷ mét vải nên 60 đến 70%. Báo người ta đưa là chính xác. Vấn đề bây giờ Hiệp Định EVFTA yêu cầu muốn xuất đi EU phải có xuất xứ ở Việt Nam mới được ưu đãi thuế quan. Chúng ta phải độc lập tự chủ bằng nội lực của mình, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp trong nước liên kết với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để tạo thị trường vải vóc cho ngành may mặc Việt Nam bớt phụ thuộc vào nhập khẩu nước ngoài".
Không bị ảnh hưởng mạnh như ngành dệt may do phía Châu Âu chỉ yêu cầu khoảng trên dưới 40% giá trị xuất sang Châu Âu phải tạo từ Việt Nam, nhưng ngành da giày vẫn vướng phải một số trở ngại nhất định, như lời ông Diệp Thành Kiệt, Chủ tịch Hiệp hội da giày nhận định :
"Thứ nhất là không phải tất cả các dòng sản phẩm mà Việt Nam đang sản xuất sẽ được miễn thuế bằng 0 ngay ở năm đầu mà Châu Âu chia ra nhiều nhóm : nhóm A tức nhóm được hưởng thuế suất bằng 0 ngay khi Hiệp định có hiệu lực, hoặc nhóm nào có mã số B3 sẽ được giảm thuế trong vòng 3 năm và nhóm B7 là giảm thuế trong vòng 7 năm.
Theo thống kê của tổ chức Budrop trong 4-5 năm, chỉ khoảng 43% sản phẩm xuất từ Việt Nam được hưởng thuế suất bằng 0 ngay. Số còn lại phải tiếp tục chờ trong vòng 3 năm hoặc 7 năm mới được đưa về bằng 0.
Khó khăn thứ 2 của chúng ta là nếu chúng ta không đạt được điều kiện về quy chế xuất xứ để hưởng thuế suất bằng 0 thì phải chịu thuế MFN bình quân 12%, trong khi thuế GSP mà chúng ta đang hưởng từ 2014 tới giờ xấp xỉ trên dưới 8%. Như vậy nếu không đáp ứng yêu cầu phải chịu mức thuế cao nhất".
Tuy vậy, ông Diệp Thành Kiệt vẫn lạc quan cho rằng những khó khăn đó sẽ phần nào được giải quyết nếu các doanh nghiệp chịu nghiên cứu xem dòng sản phẩm nào nằm trong nhóm A, B3 hay B7 để từ đó đưa ra đối sách phù hợp. Vẫn theo ông Kiệt, nhìn về mặt sáng, ta sẽ thấy được EVFTA đem lại thuận lợi trong mặt cạnh tranh khá cao :
"Có điều kiện mở rộng thị trường bằng cách lấn các đơn hàng của những nước hiện chưa được hưởng quy chế thương mại tự do như Trung Quốc, Indonesia, hay một số nước khác".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng cho rằng những bất lợi trước mắt của các ngành công nghiệp khi tham gia EVFTA sẽ nhanh chóng được giải quyết vì chính phủ sẽ hỗ trợ và các doanh nghiệp cũng đang đầu tư thêm để đảm bảo nguồn hàng có xuất xứ từ Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của EVFTA.
Bộ Công Thương cho biết các cơ chế và chính sách về phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ tiếp tục được xem xét theo các nội dung của EVFTA để tạo điều kiện cho các ngành sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ thỏa thuận.
Bên cạnh đó, kinh tế Việt Nam cũng sẽ được cải thiện nếu Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam được thực hiện tốt, theo lời Tiến sĩ Lê Đăng Doanh :
"Lợi nhuận đối với Việt Nam có thể tăng lên đáng kể nếu Việt Nam tận dụng được các cơ hội. Về lâu về dài có thể giúp Việt Nam tăng khoảng 1-2% GDP nếu tốc độ gia tăng và Việt Nam thực hiện được các cơ hội".
Mạng báo Fiber2fashion dẫn nguồn từ Bộ Công Thương Việt Nam rằng chính sách và cơ chế về phát triển các ngành phụ trợ tại Việt Nam đang được rà soát lại. Tất cả được thực hiện cho phù hợp với nội dung của EVFTA nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành hưởng lợi nhiều nhất từ thỏa thuận mậu dịch tự do này.
Tuy nhiên cải cách tại Việt Nam hiện nay bị nhiều người chỉ ra vẫn chậm chạp chưa bắt kịp được thực tế phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất gặp bao trở ngại và nay còn có dịch bệnh Covid-19 đang gây nên khủng khoảng khắp nơi trên thế giới.
*****************
"Ông trùm" tín dụng đen cả nước bị bắt giữ (RFA, 09/03/2020)
Công an tỉnh Thanh Hóa vào sáng ngày 9/3 thông báo cho biết đã bắt được người bị cho là "ông trùm" tín dụng đen với qui mô hoạt động trên 63 tỉnh thành cả nước.
Ông Nguyễn Cao Thắng (ảnh nhỏ). Courtesy of Người Lao Động/ RFA Edited
Trước đó, vào ngày 7/3 Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa cùng với thành phố Hồ Chí Minh phối hợp bắt giữ ông Nguyễn Cao Thắng, sinh năm 1984. Ông Thắng là chủ tịch hội đồng quản trị công ty tài chính Nam Long được cho là chuyên hoạt động tín dụng đen trên qui mô cả nước.
Theo thông tin được truyền thông trong nước loan đi, ông Nguyễn Cao Thắng cùng với một người khác là Nguyễn Đức Thành (1988) đã thành lập Tập đoàn Tài chính Nam Long và trụ sở tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh nhưng không có đăng ký giấy phép kinh doanh. Hiện công ty Nam Long có 26 chi nhánh tại 23 tỉnh thành nhưng các chi nhánh hoạt động phạm vi cả nước.
Đến tháng 9/2018, Công an tỉnh Thanh Hóa đã triệt phá và đánh sập đường dây "tín dụng đen" này và ra quyết định khởi tố về tội " Cố ý gây thương tích, giữ người trái pháp luật, cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự", đồng thời khởi tố 9 bị can liên quan. Riêng ông Nguyễn Cao Thắng bị khởi tố về tội cho vay nặng lãi nhưng ông Thắng đã bỏ trốn và bị truy nã.
Đến đầu tháng 3/2020 công an thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ ông Nguyễn Cao Thắng và di lý về Thanh Hóa để phục vụ cho công tác điều tra vụ án.