Khi thế giới theo dõi Thượng đỉnh G-20 năm nay do Nhật Bản tổ chức tại Osaka thì truyền thông Hoa Kỳ nói đến việc Việt Nam ngầm bán vào thị trường Mỹ các sản phẩm của Trung Quốc đang bị Hoa Kỳ áp thuế vỉ trận thương chiến Mỹ-Hoa. Lên đường tham dự Hội nghị G-20, Tổng thống Donald Trump gay gắt cảnh báo Hà Nội về tình trạng lạm dụng này. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu từ đầu.
Một cửa hàng Khaisilk đóng cửa sau khi bị khách hàng tố cáo bán khăn lụa Việt nam "Made in China". Ảnh minh họa
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa ạ.
Thưa ông, sau bài báo ngày Thứ Ba 26 Tháng Sáu của tờ Wall Street Journal về việc Việt Nam đã bán cả tỷ đô la hàng Trung Quốc vào Mỹ dưới nhãn Việt Nam để lách thuế, thì trước khi lên đường dự Thượng đỉnh của Nhóm G-20 tại Osaka bên Nhật, hôm thứ Tư 27 Tổng thống Donald Trump trả lời phỏng vấn của Maria Bartiromo trên mạng Fox Business rằng Việt Nam là một xứ lạm dụng tệ hại nhất. Sau đó, truyền thông chuyên đề như Bloomberg hay Business Insider đã tới tấp loan tin này, trong đó có cả việc cổ phiếu của Việt Nam bị sụt giá nặng. Theo dõi chuyện này, ông nghĩ thính giả của chúng ta nên chú ý tới những gì thuộc về quyền lợi lâu dài của Việt Nam ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Như mọi khi, chúng ta sẽ phải tìm hiểu từ xa đến gần.
Các phần tử ưu tú của Hoa Kỳ có thể rất giỏi về sáng tạo và kinh doanh trên một lãnh thổ được thiên nhiên ưu đãi để trở thảnh siêu cường kinh tế chưa từng có trong lịch sử. Nhưng kiến thức và kinh nghiệm về văn hóa và lịch sử của họ thì hơi mỏng nếu so với Trung Quốc. Vì mỏng, họ không hiểu Trung Quốc là một cường quốc Á Châu, nhưng đã từng bị các nền văn hóa và dị tộc khác khuất phục và thống trị trong đa số của hơn ngàn năm đã qua, kể từ đời Tống thành hình năm 960 cho tới khi nhà Đại Thanh của Mãn Châu sụp đổ năm 1911.
Qua thời cận đại, lãnh đạo Bắc Kinh cố quên nỗi ô nhục kéo dài vì nhược điểm của Hán tộc dưới sự khuynh đảo và cai trị của các sắc tộc Kim, Liêu, Mông, Mãn mà chỉ nói tới cái họ gọi là "bách niên quốc sỉ", trăm năm ô nhục của quốc gia, sau khi bị liệt cường sâu xé từ giữa thế kỷ 19. Tổng bí thư Tập Cận Bình cào mặt ăn vạ về trăm năm ô nhục đó và hứa hẹn Trung Quốc Mộng, nhưng không dám nêu câu hỏi về sự lụn bại trước đó của mình, và nhiều trí thức Âu-Mỹ thì cũng chẳng biết hoặc bị khiếp nhược mà không dám nêu câu hỏi tế nhị này.
Nguyên Lam : Ông có lạc đề hay không mà nói tới lịch sử sâu xa như vậy ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Tôi phải dẫn từ xa tới gần để ta ý thức ra sự nông cạn về văn hóa chính trị của các phần tử trí thức ưu tú Hoa Kỳ ngày nay khi họ nói về trận thương chiến giữa Mỹ và Trung Quốc và muốn bênh vực Bắc Kinh chỉ vì quyền lợi của họ. Tôi xin đề nghị là chúng ta nên đi từng bước.
Vì hai mặc cảm tự tôn về văn hóa rất cao mà tự ti về kỹ thuật rất lạc hậu, giới lãnh đạo Bắc Kinh thời nay muốn đi đường tắt, là tìm sự thịnh vượng bằng ăn cắp kỹ thuật của các nước đi trước sau khi mất 30 năm hoang tưởng chết người dưới thời Mao Trạch Đông, từ năm 1949 cho tới khi Đặng Tiểu Bình cải cách và khai phóng vào đầu năm 1979. Sau đấy, họ có 30 năm tăng trưởng với tốc độ cao như các nước đi trước làm thiên hạ nông cạn giật mình. Nhưng giai đoạn ấy cũng đã dứt từ cuối năm 2008 nên Bắc Kinh phải tìm ra một bước nhảy vọt khác. Thời ấy rồi, cấp lãnh đạo thuộc thế hệ thứ tư sau Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân là Hồ Cẩm Đào đã nói về kinh tế "bốn không", là không cân đối, không phối hợp, không công bằng và không bền vững.
Nguyên Lam : Thưa ông, sau thế hệ Hồ Cẩm Đào, đến thế hệ Tập Cận Bình thì tình hình ra sao ?
Công nhân công ty Asanzo đang làm việc (Ảnh minh họa) Courtesy : TP
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Tập Cận Bình thừa hưởng di sản của các thế hệ trước rồi được đảng toàn trị trao tối đa quyền lực để giải quyết các vấn đề dễ hiểu vì đã từng xảy ra cho các nước khác. Là người yêu nước kiêu mạn, sau khi cầm quyền từ cuối năm 2012, họ Tập ta tưởng sẽ đưa Trung Quốc lên một đỉnh cao lịch sử.
Về kinh tế thì sẽ vượt sản lượng Hoa Kỳ như đã vượt Nhật Bản năm 2010 sau khi tăng chi và bơm tiền từ cuối năm 2008. Họ thiếu khái niệm kế toán quốc gia nên chìm dưới núi nọ. Về kinh doanh, họ Tập đề ra chiến lược ăn cắp thiên hạ từ thế kỷ 19 là "Made in China 2025" với chủ ý xây dựng khu vực nội địa do hệ thống quốc doanh là chủ đạo, dù kém hiệu năng. Đấy là mấu chốt của trận thương chiến Mỹ-Hoa dù Bắc Kinh tránh nói đến phạm trù "Made in China 2025". Chỉ có trí thức Mỹ mới tin điều ấy, chứ nhìn từ giác độ quyền lợi của các quốc gia thì xứ nào cũng đi học như vậy thôi. Riêng Bắc Kinh thì ngầm coi đó là quốc sách.
Thế giới bên ngoài cứ tưởng Trung Quốc chiếm thế thượng phong trước một ông Trump ăn nói lung tung mà có lẽ chưa hiểu gì cả. Việt Nam cũng vậy nên mới ngạc nhiên...
Nguyên Lam : Chúng ta bước vào chủ đề của kỳ này. Thưa ông, vì sao Việt Nam lại bị gieo họa vì trận thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Với dân số đông và nhân công rẻ, Trung Quốc đã có mức tăng trưởng cao – mà thật ra chưa phát triển vì phát triển bao hàm cả phẩm chất. Nhưng ưu thế đó không bền vì lương nhân công tăng dần mà thôn dân hay dân công từ thành thi vào thành phố cũng cạn. Vì vậy, từ năm năm trước, Trung Quốc hết là "công xưởng toàn cầu" và giới đầu tư quốc tế đã sơm tháy ra điều ây nên tim vào các quốc gia có dân số đông và nhân công rẻ thay thị trường Trung Quốc. Như Bangladesh, Myanmar, vân vân.. Việt Nam là một nước có triển vọng đó mà lãnh đạo tại Hà Nội có thể chưa nhìn ra.
Nguyên Lam : Tại sao ông lại phán đoán như vậy ? Chẳng lẽ lãnh đạo Hà Nội lại không nhận thức ra sự xoay chuyển đó ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Chúng ta phài bước qua khái niệm hay phạm trù khác, là nền kinh tế bị cầm cố, hay "captive economy". Năm năm trước, tôi có trình bày về hiện tượng này trên diễn đàn của chúng ta, nhưng có nhắc lại cũng không thừa.
Khởi đi từ ý thức hệ, tử khái niệm mù mờ về "định hướng xã hội chủ nghĩa" của Hà Nội, hoặc "xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa" của Bắc Kinh, tư tưởng chỉ phản ảnh vai trò độc tài nên mới dẫn tới bất công xã hội và lệch lạc kinh tế sau một giai đoạn tăng trưởng cứ tưởng vĩnh viễn. Chuyện thứ hai là trong từng nước, ta chứng kiến nhiều hiện tượng công cụ khác biệt. Việt Nam có hiện tượng công cụ và tư bản thân tộc như bên Tầu mà truyền thông và dân chúng không thể can ngăn. Nhưng nếu công cụ tại Việt Nam đẻ ra tai họa gấy hấn với Hoa Kỳ như ta vừa thấy, thì hải chăng là công cụ Trung Quốc tại Việt Nam có nhiều cơ sở thi hành chính sách bành trướng và gian lận của Bắc Kinh ?
Sau cùng là qua nhiều Đại hội đảng của Việt Nam từ năm 1991, chỉ có đảng viên lệ thuộc vào Trung Quốc hoặc ít ra không chống Bắc Kinh thì mới có cơ hội vào Trung ương đảng rồi Bộ Chính trị. Lên tới vị trí đó, với đặc lợi trong nền kinh tế công cụ tại Việt Nam thì họ dại gì gây mâu thuẫn với quan điểm của Bắc Kinh và cãi lộn về biện pháp trả đũa của Hoa Kỳ ?
Ngyên Lam : Có lẽ thính giả của chúng ta đã hiểu ra cách nêu vấn đề của kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa. Nguyên Lam xin đề nghị ông kết luận cho đề tài này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Thứ nhất, về vụ gian lận của một số cơ sở kinh doanh Việt Nam khi bán hàng Tầu dưỡi nhãn Việt vào Mỹ thì ta chẳng nên ngạc nhiên. Gian manh là nét văn hóa của những kẻ láu cá Âu Á. Thứ hai, tôi không nghĩ là lãnh đạo Hà Nội có chủ đích lường gạt Hoa Kỳ vào hoàn cảnh này, nhưng họ là những kẻ bất lực vì... chẳng hiều gỉ cả. Những người hiểu/thì biết nhục và... đi ra.
Năm năm trước, giới đầu tư quốc tế đã sớm thấy ngày tàn của Trung Quốc như "công xướng tòan cầu" có nhân công rẻ nên đã tìm nơi khác. Một trong các nơi đó chính là Việt Nam. Nhưng nhân công rẻ còn phải có năng suất cao, là điều vượt khả năng của Kế hoạch, Công thương nghệp và nhất là Giáo dục Đào tạo.
Bây giờ nhiều cơ sờ còn muốn lừa Mỷ mà làm cơ sở kinh doanh của Trung Quốc bán hàng vào Hoa Kỳ.
Nguyên Lam : Nhận thức cuổi, ông muốn thính già của chúng ta nghi nhận là gì ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Trung Quốc là sự gian trá trường kỳ vì mặc cảm của họ.
Nếu giới thượng lưu ưu tú Tây phương còn chẳng hiểu gì mà bênh Bắc Kinh thì ta nên thấy ra và không bao giờ nên nghĩ Hoa Kỳ nắm vững chân lý.
Thứ ba, nếu nghĩ Việt Nam nên cải cách cơ chế kinh tế để tạo lòng tin với Mỹ thì đấy là chuyện hài trong năm 2019. Quốc gia nào cũng nên và phải cần cài cách cho mục tiêu của mình trong một vài thập niên chứ không vì một quốc gia khác. Việt Nam cần kiểm lại chuỗi cung ứng và giã từ vị trí là nền kinh tế bị cầm cố của Bắc Kinh. Đòn dọa nạt của Donald Trump chỉ là mộc nhắc nhở có ích.
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích tuần này.
Nguyên Lam thực hiện
Nguồn : RFA, 05/07/2019
Hôm mùng ba tuần trước, Ngân Hàng Phát Triển Châu Á ADB công bố báo cáo về viễn ảnh kinh tế Á Châu, với một số triển vọng và rủi ro cho các nước thuộc loại "đang phát triển", trong đó có Việt Nam. Mục Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về viễn ảnh này.
Logo của Ngân hàng Phát triển Cháu Á (ADB) tại Manila, Philippines - AFP
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin kính chào kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Thưa ông, hôm mùng ba tháng Tư, một định chế quốc tế có chức năng tài trợ phát triển là Ngân hàng Phát triển Châu Á hay Asian Development Bank đã công bố báo cáo thường niên về viễn ảnh kinh tế cho năm 2019 và 2020 của các nước Á Châu. Nguyên Lam xin đề nghị ông trình bày cho khán thính giả của chúng ta viễn ảnh đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Trước hết, thành lập từ năm 1966 - tức là hai chục năm trước khi Việt Nam manh nha tiến hành "đổi mới" - với hội sở tại thủ đô Manila của xứ Philippines, Ngân hàng Phát triển Á Châu được gọi tắt là ADB nay quy tụ 68 quốc gia thành viên, đa số là các nước Á Châu, với mục tiêu trợ giúp tài chính và kỹ thuật cho các nước Châu Á còn nghèo, bây giờ gọi là "đang phát triển".
Khu vực Châu Á có 45 quốc gia thuộc nhóm này, trong khi chỉ có Nhật Bản là thuộc loại tiên tiến, chứ Trung Quốc, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore và Hong Kong là "các nền kinh tế mới công nghiệp hóa", newly industrialized ecomomies, gọi tắt là NIC, tôi dùng chữ "tân hưng" cho nhóm đó. Trong loại đang phát triển, ngân hàng ADB phân biệt các nước theo vị trí địa dư, như Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương và Nam Á… Phúc trình vừa được ADB công bố dựa trên số liệu khá cập nhật, gần nhất là vào ngày tám tháng Ba.
Có thể tóm lược nội dung của báo cáo này là do số cầu giảm mạnh trên thế giới hy vọng tăng trưởng của Á Châu cũng bị chậm lại trong năm nay và năm tới. Ngày hôm qua, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF cũng vừa cập nhật dự báo về kinh tế toàn cầu, lần thứ ba trong có sáu tháng, theo hướng sút giảm nhẹ. Điều này thì từ nhiều tháng qua, mọi người đã rõ. Nhưng phúc trình của ADB còn có giá trị ở khuyến cáo dành cho các nước đang phát triển mà chúng ta nên chú ý.
Nguyên Lam : Xin ông phân tích cho thính giả của chúng ta những khuyến cáo mà ADB đã nêu ra cho Việt Nam.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Trong một công trình nghiên cứu gần 400 trang dành cho 45 quốc gia đang phát triển thì phần phân tích của ADB về kinh tế Việt Nam chỉ có năm trang, với cả chục đồ biểu khá công phu. Ngân hàng ADB đánh giá cao triển vọng của Việt Nam, dù sẽ đình trệ đôi chút thì vẫn thuộc loại khả quan trong khu vực, nhưng nhấn mạnh đến rủi ro hay nguy cơ tiềm ẩn về dài và trong ngắn hạn. Bản thân tôi thì cho rằng chúng ta nên chú ý tới những rủi ro đó.
Ông Nguyễn Xuân Phúc chào đón ông Takehiko Nakao, Chủ tịch ADB tại Hà Nội. AFP
Nguyên Lam : Nguyên Lam xin đề nghị ông trình bày và phân tích các rủi ro này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Sau khi ngợi ca một số thành quả của Việt Nam, như có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực với sự ổn định về vật giá, ADB cho là kinh tế Việt Nam có thể gặp rủi ro ngắn hạn, then chốt là vì yếu tố ngoại nhập từ các nền kinh tế ở bên ngoài, như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản, vốn là đối tác của Việt Nam. Về trường kỳ thì mối nguy lại tiềm ẩn bên trong.
Thứ nhất, dù biết và muốn cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hóa hay tư nhân hóa, Việt Nam vẫn tiến hành quá chậm so với chỉ tiêu đặt ra. Thứ hai, hệ thống doanh nghiệp tư nhân, chủ yếu là loại có kích thước nhỏ và vừa, với đóng góp gần phân nửa cho sản lượng kinh tế quốc dân, lại chưa được yểm trợ đúng mức để tham gia và hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu. Lý do của sự yếu kém là tư doanh khó tìm ra nguồn tài trợ và thu hút được công nhân có tay nghề để tiến lên trình độ sản xuất cao hơn trong một thị trường ngày càng đòi hỏi các chuẩn mức khắt khe về phẩm chất, như kỹ thuật, môi sinh, y tế và kiểm dịch.
Nguyên Lam : Khi theo dõi tình hình kinh tế Việt Nam, ông nhận định thế nào về sự đánh giá của ngân hàng ADB ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Tôi thiển nghĩ là xác đáng mà dĩ nhiên chưa đủ chi tiết. Giới kinh tế Việt Nam có thấy các vấn đề ấy và cũng nêu ý kiến chứ chẳng phải không.
Đầu tiên, với dân số gần trăm triệu đã có mức sống khá hơn, Việt Nam nên thúc đẩy khả năng tiêu thụ nội địa để góp phần cho đà tăng trưởng, thay vì lệ thuộc quá nhiều vào xuất nhập khẩu và bị ảnh hưởng mạnh của các yếu tố ngoại nhập. Đừng quên rằng sức tiêu thụ nội địa là một trong các yếu tố tích cực giúp Việt Nam có đà tăng trưởng cao như ADB đã nhắc nhở. Kế đó, kinh tế Việt Nam vẫn quá lệ thuộc quá nhiều vào nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nên đa số nguồn lợi lại trút vào giới đầu tư quốc tế chứ không vào Việt Nam. Thứ ba, muốn phát huy nội lực bên trong, Việt Nam lại gặp trở ngại vì tay nghề của nhân công quá thấp mà lợi thế thu hút đầu tư là nhân công rẻ là chuyện không bền và thật ra đã hết. Cho nên - và báo cáo của ADB có nói tới chuyện này - Việt Nam nên xác định lại ưu tiên về chính sách.
Nguyên Lam : Ưu tiên đó là gì, thưa ông ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Thứ nhất, tạo ra sân chơi bình đẳng giữa tư doanh và quốc doanh, là điều có quy định trong các hiệp ước thương mại quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Thứ hai là ưu tiên cho các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa của tư doanh. Việt Nam cần có chính sách toàn diện và nhất quán cho ưu tiên là nâng trình độ sản xuất của tiểu doanh thương tư nhân, như về tín dụng và đầu tư để thụ đắc các thiết bị và công nghệ cao cấp và về giáo dục và đào tạo để nhân công có tay nghề khả dĩ cạnh tranh được với các nước trong khu vực.
Nguyên Lam : Tuy nhiên, thưa ông, báo cáo của ADB có nói tới triển vọng tăng trưởng khá cao của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á, ông nghĩ sao về nhận định ấy ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Chúng ta cần nhấn mạnh rằng tăng trưởng chưa phải là phát triển nếu thiếu phẩm chất, như tình trạng môi sinh, điều kiện lao động và cả công bằng xã hội. Thứ nữa, trong các nền kinh tế lớn của Đông Nam Á, Việt Nam là nước đi sau và mới chỉ gia nhập Hiệp hội ASEAN của các nước Đông Nam Á từ năm 1995 sau khi đổi mới từ năm 1987-1991 cho nên đà tăng trưởng có thể cao hơn các nước đã tiến hành cải cách từ trước. Nhưng nếu hài lòng với tốc độ biểu kiến đó mà không cải cách thêm thì vẫn là tụt hậu so với các lân bang kể từ nay mình sẽ phải cạnh tranh kịch liệt hơn. Ta đừng quên các nước kia đã cải cách về kinh tế lẫn cơ chế chính trị qua nhiều đợt cứ tưởng như bất ổn và khủng hoảng, chỉ vì kinh tế và chính trị vẫn là hai mặt của một đồng tiền mà thôi.
Dĩ nhiên là ADB không nói gì về chính trị nhưng mọi người đều hiểu như vậy, khuyến cáo ngầm của định chế tài trợ phát triển này là Việt Nam cần một đợt đổi mới nữa thì mới giải quyết được bài toán quốc doanh và phát huy sức mạnh của tư doanh làm nội lực thật.
Nguyên Lam : Lời kết của ông trong phần bình luận kỳ này là gì ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : So với các dân tộc lân bang, người dân Việt Nam thật ra chẳng thua kém gì nhưng bị nhiều tai họa về chiến tranh và "cách mạng" trong ngoặc kép, kéo dài mấy chục năm. Ngày nay, tình hình đổi khác đang cho Việt Nam một cơ hội mới để cải sửa sai lầm cũ và tránh được những rủi ro tiềm ẩn. Việc cải cách thể chế sẽ chỉ có kết quả trong lâu dài, nên nghĩ tới năm mười năm, nhưng chính vì vậy mà phải khởi sự càng sớm càng hay, và một cách đồng bộ. Then chốt nhất vẫn là kiến thức và khả năng của con người, cuộc cách mạng thật của lần này phải khởi đi từ đó.
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phỏng vấn tuần này.
Nguyên Lam
Nguồn : RFA, 09/04/2019
Kinh tế Việt Nam sẽ ra sao sau nhiều năm có đầu tư nước ngoài ? (VOA, 26/03/2019)
Việt Nam không biết đi theo hướng nào sau thời kỳ phụ thuộc vào nhân công rẻ trong nhiều thập kỷ để phát triển kinh tế
Công nhân làm tôm tại Công ty Hải sản Khánh Sủng ở Mỹ Xuyên của tỉnh Sóc Trăng.
Nhân công rẻ của Việt Nam có thể không còn là ưu thế nổi trội nữa : giá lao động rẻ đã đẩy quốc gia cộng sản tăng trưởng với một trong những tốc độ nhanh nhất thế giới, nhưng các nhà phân tích nói rằng Việt Nam giờ đây cần có một mô hình phát triển kinh tế mới.
Sau một thời gian hồi phục chậm chạp sau chiến tranh, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia Đông Nam Á đã tăng liên tục từ thập niên 1990. Sự tăng trưởng đó đạt được dựa vào lao động giá rẻ và xuất khẩu, cũng như mối lên kết ngày càng tăng giữa các công ty với đầu tư nước ngoài.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ chuyển đổi, giữa việc nhìn lại các mặt hàng xuất khẩu đơn giản như gạo và đồ thể thao gia công cho Reeboks, vốn là nhừng mặt hàng xuất khẩu giúp nền kinh tế phát triển, với việc hướng tới một nền kinh tế tiên tiến hơn như của Đài Loan hoặc Hàn Quốc. Người dân trong nước không muốn sản phẩm "Made in Vietnam" là dấu hiệu của chất lượng kém. Họ cũng muốn hòa nhập vào thương mại toàn cầu, mà không muốn vấp phải phản ứng dữ dội chống lại toàn cầu hóa được cho là của những cử tri theo chủ nghĩa dân túy từ Châu Âu và Mỹ.
"Những gì đã phát huy tác dụng trong 30 năm qua không nhất thiết sẽ tiếp tục mang lại hiệu quả trong tương lai", Ousmane Dione, giám đốc Ngân hàng Thế giới (World Bank) ở Việt Nam. "Những tác động của các cải cách thể chế và cơ cấu ban đầu dường như đã đạt tới giới hạn của chúng".
Người đứng đầu Ngân hàng Thế giới muốn nói tới công cuộc cải cách kinh tế được biết với cái tên Đổi Mới bắt đầu ở Việt Nam cách đây hơn 3 thập kỷ, khi Việt Nam bắt đầu mở cửa cho kinh tế thị trường đi vào hệ thống của họ, gồm có việc tư hữu hóa doanh nghiệp nhà nước. Hà Nội đang tiến hành rà soát lại xem chính sách Đổi Mới đã đem lại hiệu quả như thế nào và làm thế nào để đưa ra một đường hướng phát triển kinh tế trong 3 thập kỷ tới.
Các chuyên gia tư vấn đã đưa ra những ý tưởng cho triển vọng phát triển nền kinh tế mới của Việt Nam, trong đó có ba chủ đề chính : internet và các ngành công nghệ cao khác sẽ chiếm lĩnh ; doanh nghiệp sẽ hướng vào kinh tế dịch vụ và những ngành công nghiệp giá trị gia tăng khác hơn là sản xuất hàng tiêu dùng ; và người lao động sẽ thường xuyên nâng cao kỹ năng qua những chương trình đào tạo bền vững.
Ví dụ, công nhân ở các nhà máy quen với việc lắp ráp điện thoại và ô tô, nhưng liệu một ngày nào đó họ có thể tiến lên bậc thang cao hơn của chuỗi giá trị, chẳng hạn như đảm nhận công việc hỗ trợ về công nghệ cho những người mua các sản phẩm đó, hay không ?
Về mặt công nghệ, Việt Nam có thể làm nhiều hơn để hợp tác với các nước Đông Nam Á, theo CEO của HSBC Việt Nam, Phạm Hồng Hải. Điều đó có thể bao gồm từ việc đảm bảo thanh toán điện tử xuyên biên giới không gặp trở ngại nào, đến việc hợp tác để đối phó với các mối đe dọa trên mạng, theo ông Hải.
"Các doanh nghiệp muốn có những phát triển thực tế giúp xúc tiến thương mại thuận lợi trong khối ", ông Hải nói. Việt Nam "nên tiếp tục đà hội nhập sâu hơn vào khu vực và tận dụng các ích lợi từ toàn cầu hóa".
Bỏ lại phía sau ?
Chủ đề quan trọng khác phải là lực lượng lao động cũng như đảm bảo năng suất và kỹ năng của họ được cải thiện. Hàng triệu người lao động Việt Nam đang dựa vào các kỷ năng sơ khởi để kiếm sống, chẳng hạn như làm công việc dán keo trong dây chuyền sản xuất ví tiền hay thu hái cà phê nơi trang trại.
Đó là nhân công có giá rẻ vốn đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam, nhưng không phải tất cả các công việc đó sẽ kéo dài. Vì vậy, từ các nhóm làm việc của các cơ quan chính phủ đến các tổ chức từ thiện đang đưa ra các chương trình giáo dục và đào tạo để trang bị cho người dân địa phương các kỹ năng cho tương lai.
Điều này có nghĩa không chỉ là để bảo đảm cho công ăn việc làm bền vững, mà còn để người Việt Nam không cảm thấy bị bỏ lại phía sau hoặc cay đắng nếu các công việc mà họ làm bị chuyển sang các nước có giá lao động rẻ hơn. Việt Nam hy vọng sẽ tránh được sự phẫn nộ của chủ nghĩa dân túy ở các khu vực khác trên thế giới, cũng như chủ nghĩa bảo hộ thương mại.
Vì vậy, Việt Nam đang chuyển sang các đối tác như Úc, nơi đã hỗ trợ các dự án cho phép thành quả kinh tế được lan rộng hơn.
Craig Chittick, đại sứ Úc tại đất nước 100 triệu dân này, cho biết, Việt Nam đã đề ra một "chương mới trong đó nắm bắt sự đổi mới, thúc đẩy cải cách táo bạo và giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển đầy tham vọng của mình".
Chính phủ của ông Chittik đã đứng đằng sau các chương trình tại Việt Nam như trung tâm KOTO, nơi dạy các kỹ năng lao động cho trẻ em lang thang, cũng như một cuộc thi phát minh ra các công nghệ hữu ích cho phụ nữ nông thôn và một diễn đàn để thúc đẩy đầu tư tác động. Không phải tất cả các nhóm đều được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế trong quá khứ, nhưng vẫn có cơ hội để thay đổi điều đó trong một Việt Nam mới.
Ha Nguyen
*******************
Bến Tre : Thanh niên treo cổ chết trong buồng giam bằng "những sợi vải xé ra từ quần thun" (RFA, 25/03/2019)
Thêm một người dân thứ 2 được ghi nhận chết trong đồn công an Việt Nam chỉ trong vòng tháng 3 của năm 2019.
Thanh niên treo cổ chết trong buồng giam bằng "những sợi vải xé ra từ quần thun" - Ảnh minh họa. AFP
Lần này, nạn nhân là ông Dương Văn Lợi sinh năm 1980, sinh sống ở huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre được phát hiện chết trong tư thế treo cổ vào khoảng 5 giờ sáng ngày 25/03/2019 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre.
Báo Tuổi trẻ Online dẫn thông tin ghi nhận hiện trường ban đầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến Tre, thì ông Dương Văn Lợi được phát hiện trong tư thế treo cổ bằng những sợi vải xé ra từ chiếc quần cũ (dùng để chùi chân) treo lên những thanh lam (chỗ thông gió trong phòng tạm giam).
Trong khi đó mạng báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh lại cho rằng nạn nhân kết liễu đời mình bằng chiếc quần thun của một người bị tạm giữ trước đó bỏ lại trong tủ.
Trước đó, ngày 4/3, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến Tre ra quyết định bắt tạm giam đối với ông Dương Văn Lợi và sau đó khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra về hành vi giết người.
Theo truyền thông trong nước, vụ việc xuất phát từ chiều 3/3 khi anh Huỳnh Văn Thanh tổ chức nhậu tại nhà cùng với 4 người khác. Cuộc nhậu kéo dài khoảng 30 phút thì Dương Văn Lợi đến tham gia. Đến 21g cùng ngày, Lợi về nhà mở tivi xem nhưng bị âm thanh loa karaoke át tiếng nên yêu cầu nhóm nhậu xoay loa về hướng khác thi xảy ra mâu thuẫn với nhóm bạn nhậu, sau đó xảy ra xô xát. Dù được can ngăn nhưng sau đó Lợi vẫn cầm dao chém các bạn nhậu trước đó khiến một người tên Huy tử vong.
Trước đó, một người khác tên Nguyễn Văn Tuấn sinh năm 1977, tử vong sau 5 ngày bị giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An về hành vi đánh bạc.
"Theo lời khai cán bộ công an đi cùng, bệnh nhân ở phòng tạm giam cả tối qua tự đập đầu, người vào tường.
Đến khoảng 11g30 ngày 13/3, được phát hiện trong tình trạng hôn mê, được đưa vào Bệnh viện Nam Đàn cấp cứu, chuyển viện trong tình trạng chấn thương sọ não...
Chẩn đoán hôn mê chấn thương sọ não", Giấy chuyển viện của BV Hữu nghị Đa khoa Nghệ An ở phần tóm tắt bệnh án ghi rõ.
Trong phiên điều trần trước Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc về công ước chống tra tấn hôm 11/03/2019, đại diện Bộ Công an tiết lộ rằng, một trong các nguyên nhân dẫn đến tử vong trong các cơ sở giam giữ của Việt Nam có thể là do "phạm nhân day dứt, dằn vặt về hành vi phạm tội của mình dẫn đến bi quan mà tự tử".
Năm 2018, theo ghi nhận trên truyền thông của Đài Á Châu Tự Do có ít nhất 11 trường hợp người dân Việt Nam chết trong nơi tạm giam, tạm giữ mà phần lớn trong số đó được thông báo là "tự tử" hoặc "tử vong do bệnh lý".
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (RFA, 28/02/2019)
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 8,1 tỷ USD trong hai tháng đầu năm 2019, tăng gần 35% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tổng thống Mỹ Donald Trump (thứ hai bên trái) và Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng (phải) chào Giám đốc điều hành hãng máy bay thương mại Boeing Kevin McCallister (trái) và Giám đốc điều hành Vietjet Nguyễn Thị Phương Thảo (thứ hai bên phải) trong lễ ký tại phủ Chủ tịch ở Hà Nội hôm 27/2/2019 AFP
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết như vậy vào cuối tháng 2/2019, nói ba ngành hàng xuất khẩu sang Mỹ đạt mức tăng trưởng cao nhất là hàng điện thoại-linh kiện với hơn 127%, hàng điện tử-máy tính tăng khoảng 42%, và hàng dệt may tăng 21%.
Đứng thứ nhì thị trường xuất khẩu là thị trường Châu Âu với kim ngạch 6,3 tỷ USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Xếp thứ ba là Trung Quốc với kim ngạch 5,1 tỷ USD, giảm 9,3%. Tiếp theo là các nước Đông Nam Á, Nhật Bản và Hàn Quốc với kim ngạch từ 3,1 đến 3,8 tỷ USD.
Về nhập khẩu, Trung Quốc vẫn là quốc gia nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 10,7 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái.
Các mặt hàng Việt Nam nhập nhiều nhất từ Trung Quốc nhiều nhất hai tháng đầu 2019 được nói là điện tử, máy tính-linh kiện, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng và sắt thép.
Các thị trường nhập khẩu tiếp theo của Việt Nam là Hàn Quốc, ASEAN và Nhật Bản.
******************
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam sụt giảm mạnh trong nửa đầu tháng 2/2019 (RFA, 28/02/2019)
Truyền thông trong nước hôm 28/2 trích số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho biết trong nửa đầu tháng 2/2019, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giảm mạnh, đạt 10,58 tỷ USD giảm 56% so với nửa cuối tháng 1/2019 (đạt 24 tỷ USD).
Một khu chợ ở phố cổ Hà Nội vào ngày 28 tháng 1 năm 2019 trước Tết Nguyên đán. AFP
Tổng cục Hải quan cho biết cụ thể xuất khẩu đạt gần 4,25 tỷ USD, giảm 67% ; nhập khẩu đạt 6,33 tỷ USD, giảm 43% so với nửa đầu tháng 2/2019 ; và cả nước đã nhập siêu hơn 2 tỷ USD.
Nguyên nhân của việc sụt giảm được Tổng cục Hải quan đưa ra là vì vào nửa cuối tháng 1, nhu cầu mua sắm cho Tết Nguyên Đán tăng cao, khiến lượng hàng hóa dịch vụ tăng nhanh hơn so với nửa đầu tháng 2.
Ngoài ra, Tổng cục Thống kê Việt Nam cũng cho biết chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng 2/2019 sụt giảm so với tháng trước, nhưng lại tăng so với cùng kỳ năm ngoái.
So với tháng trước, ngành khai khoáng được nói giảm 5%, ngành chế biến chế tạo tăng 12,8%, sản xuất và phân phối điện tăng 10,9%, cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 7,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp của tỉnh Thanh Hóa được nói có tốc độ tăng cao nhất gần 47% nhờ việc Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn đi vào sản xuất vào giữa năm 2018. Tiếp theo là Tập đoàn Formosa ở Hà Tĩnh với mức tăng hơn 46%. Các khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, HÀ Nội, Bình Dương, Đà Nẵng, Cần Thơ, Thái Nguyên, Bắc Ninh tăng ít từ khoảng 2% đến 6%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 3% vì hoạt động khai thác dầu giảm. Sản xuất công nghiệp ở tỉnh Hòa Bình cũng giảm hơn 5% vì sản lượng điện Nhà máy thủy điện Hòa Bình đi xuống.
**********************
Khách quốc tế đến Việt Nam tăng kỷ lục trong tháng 2/2019 (RFA, 28/02/2019)
Du khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 2 năm 2019 đạt khoảng hơn 1 triệu 588 ngàn người, đây là lần đầu tiên trong một tháng lượng khách quốc tế đạt số lượng lớn như vậy.
Du khách quốc tế tại Hà Nội, Việt Nam, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP
Vietnam News loan tin vừa nói hôm 28 tháng 2 năm 2019.
Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, trong tháng Hai có 1.588.200 khách quốc tế đến Việt Nam, tăng 5,8% so với tháng trước, nguyên do đang vào mùa lễ hội đầu năm có nhiều sự kiện hấp dẫn.
Trong số đó khách đến bằng đường hàng không tăng 7,6% ; đường bộ tăng 27,2% ; nhưng đường biển giảm 2,9%. So với cùng kỳ năm 2018, khách quốc tế đến Việt Nam tăng 10,9%.
Tính chung 2 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 3 triệu người. Nhiều nhất là khách đến từ Châu Á 75,2%. Quốc gia có lượng khách đến nhiều nhất là Trung Quốc với gần 900 ngàn lượt người, kế đến là Hàn Quốc 772.200 lượt người.
Trong khi đó, khách đến từ Châu Âu khoảng 461,5 ngàn người. Khách đến từ Châu Mỹ đạt 208,6 ngàn người, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ là 158.100 lượt người, tăng 7%.
Trong 11 nước CPTPP chỉ có Việt Nam là phát triển theo hướng "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", các nước còn lại đều theo chủ nghĩa tư bản.
Kinh tế Việt Nam sẽ vẫn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa ? Ảnh minh họa
Ngày 5/12, tại kỳ họp thứ 12, các đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khoá IX đã bỏ phiếu tín nhiệm 30 chức danh do Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bầu theo hình thức bỏ phiếu kín với ba mức độ "Tín nhiệm cao", "Tín nhiệm" và "Tín nhiệm thấp". Với CPTPP thì không có kiểu tín nhiệm nước đôi trớt quớt như vậy, mà chỉ có ‘cùng thắng’, hoặc ‘thua một mình’.
‘Cùng thắng’ là Việt Nam bán được hàng hóa do mình sản xuất cho 10 quốc gia trong CPTPP. Còn ‘thua một mình’ là chuyện hàng hóa từ 10 quốc gia đó ồ ạt vào Việt Nam, còn Việt Nam thì bán không ai mua, vì không chỉ chuyện chất lượng món hàng, mà còn là những rào cản hệ lụy từ thể chế của nền "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Theo tác giả Hoa Nghi ở bài báo "Ông Nguyễn Phú Trọng nên ‘học tập’ ông Tập Cận Bình về kinh tế ?" (1), thì một khi đã mặc định rằng "Về mặt chính trị, suy thoái còn nguy hiểm hơn cả kinh tế" của ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng cộng sản, chủ tịch nước, xem ra khó thể dứt ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
Câu hỏi quen thuộc : "định hướng xã hội chủ nghĩa" là gì ? Có phiên bản nào hoàn chỉnh về "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" để Việt Nam tham khảo, học hỏi ?
20 năm nữa Việt Nam ở đâu trên bản đồ kinh tế thế giới ?
Đây là câu hỏi được đặt ra từ đầu năm 2016. Khi ấy, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông Bùi Quang Vinh trong bài tham luận của mình đọc tại Đại hội Đảng XII vào ngày 22/01/2016, có tựa đề "Đẩy mạnh cải cách thể chế, hướng tới một Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ", đã so sánh :
"Có lẽ ít ai biết rằng đầu thế kỷ 19, năm 1820, Việt Nam đã có vị thế đáng nể trong khu vực về dân số và cả quy mô kinh tế, lớn hơn cả Philippines và Myanmar cộng lại, gấp hơn 1,5 lần Thái Lan, thu nhập bình quân đầu người khi đó xấp xỉ bình quân đầu người thế giới. Còn hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của ta chỉ bằng chưa đến 1/5 mức trung bình của thế giới, bằng 1/3 Thái Lan".
Đúng là mọi so sánh đều là khập khiễng, thế nhưng phải trả lời như thế nào đây trước thắc mắc của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh :
"Chúng ta cũng đã có 40 năm sống trong hòa bình, độc lập, 30 năm Đổi mới. Đây là quãng thời gian dài tương đương để các quốc gia và vùng lãnh thổ lân cận như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đưa nước mình từ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu trở thành quốc gia phát triển. Vậy đến năm 2035, tức sau 2 thập niên kể từ bây giờ và 50 năm sau Đổi mới, Việt Nam sẽ nằm ở đâu trên bản đồ kinh tế thế giới ?".
Hoàn thiện thể chế bằng… nghị quyết đảng ?
Ngày 3/6/2017, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (2).
"Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình phát triển liên tục ; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta ; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, phần "Quan điểm chỉ đạo" đã viết như vậy.
Nghị quyết này khá lúng túng khi viết rằng : "Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 : Phấn đấu hoàn thiện một bước đồng bộ hơn hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Cơ bản bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường ; sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ".
Cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại, ông Trương Đình Tuyển cho biết có định nghĩa thế này : "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế ; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Ông Trần Ngọc Thơ, Trưởng khoa Tài chính thuộc trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nói thẳng rằng có lẽ trong các khái niệm kinh tế trên thế giới, không có khái niệm kinh tế nào phức tạp bằng khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà các học giả Việt Nam miệt mài nghiên cứu ròng rã trong suốt 30 năm qua. Kết quả nghiên cứu nhiều đến mức không chỉ người bình thường, mà ngay cả người trong cuộc cũng khó có thể nói được ngắn gọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là như thế nào.
"Có lẽ ít người quên nhận xét của ông Bùi Quang Vinh, về thế nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhân dịp ông được mời đến nói chuyện tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ông nói : "Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà tìm". Về thời gian chính thức để Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhận định : "Không biết đến hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa". Ông Trần Ngọc Thơ nhận xét.
Thử nhìn qua lăng kính của nghề Y
"Tôi đồng ý với định nghĩa ‘nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế ; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh’. Và tôi cũng đồng ý rằng từ năm 1975 đến nay, sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, còn bao trùm tất cả các lãnh vực ở Việt Nam. Nếu đúng như vậy thì Đảng cộng sản xem ra đã chưa thành công trong chăm lo sức khỏe người dân". Một phóng viên mảng y tế chia sẻ với người viết.
Theo phóng viên này phân tích, phải chăng là vì y tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên sinh viên ngành Y ở Việt Nam vẫn khó khăn trong hội nhập với quốc tế ?
Thế giới thì tất cả sinh viên phải thực hành lâu hơn, có nghĩa là tất cả phải làm nội trú bệnh viện. Ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì câu hỏi tiếp tục chưa có lời giải : Liệu các bệnh viện có đủ chỗ và nhân lực để tất cả sinh viên Y học tiếp nội trú không (hẳn là không rồi !), họ có trả tiền lương cho sinh viên nội trú (rất đông) không, nếu không thì sống kiểu gì, đi vay tiền à (vì làm thêm là quá khó với 2 chữ nội trú) ?
Như thế giới, nếu sinh viên ngành Y ở Việt Nam cũng theo học 9 năm xong, rồi sau đó tiền lương sẽ được bao nhiêu ?. Lại một câu hỏi chưa có lời giải. Không thể trả lương một người học miệt mài suốt 9 năm với mức khởi điểm 2,34 triệu đồng/ tháng như hiện nay được.
"Nhưng bản chất cái cần thiết không phải là số năm đào tạo, mà là chất lượng đào tạo. Chúng ta còn tồn tại vô số vấn đề trong chất lượng, đó là kỹ năng lâm sàng chưa đảm bảo. Chúng ta đưa ra cả trăm kỹ năng cần đạt, nhưng không ai chứng nhận 100 kỹ năng đó cả, mà không chắc có dạy 100 kỹ năng đó không nữa ?
Kiến thức y khoa rời rạc học trước quên sau, chẳng biết học môn X nào đó để làm gì (do chính trị học rời rạc, không logic và tích hợp, không có định hướng rõ ràng), kỹ năng làm việc nhóm và chuyên nghiệp trong làm việc cực thấp, các kỹ năng mềm cũng không được chú trọng.
Tiếng Anh chưa phải là ngôn ngữ để học và giảng dạy thì sinh viên ra trường khó mà giỏi tiếng Anh chuyên ngành được... Ngoài ra chưa kể trình độ giảng viên, phương pháp đào tạo lạc hậu không sâu sát, đánh giá và lượng giá đào tạo, thi cử còn rất nhiều bất cập, khó khăn. Chúng ta cũng chưa có những môi trường học thuật chuyên nghiệp và đúng nghĩa ngay từ những thứ nhỏ bé nhất.
Song mọi chuyện dường như không còn nhiều ý nghĩa khi được gắn thêm từ tố định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó giống như chuyện khuyên nhủ người dân ‘đã có Đảng và Nhà nước lo’, mỗi khi các cơ quan công vụ giải tán người dân thực hiện quyền biểu tình". Ông bạn phóng viên y tế biện giải.
Những chênh vênh thể chế
Trong 11 nước CPTPP chỉ có Việt Nam là phát triển theo hướng "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", các nước còn lại đều theo chủ nghĩa tư bản. Điều này khiến kinh tế Việt Nam vẫn còn sự chênh lệch lớn so với nền kinh tế thị trường của các nước thành viên CPTPP.
Do đó, làm thế nào để tạo được thế cân bằng, giảm thiểu rủi ro, mà vẫn giữ được định hướng kinh tế chính trị của Việt Nam là vấn đề cần đưa dự thảo luật rộng rãi, lấy ý kiến toàn dân cũng như tất cả bộ ngành để có định hướng chắc chắn.
Nên nhớ là sẽ rất vô lý khi buộc khu vực kinh tế tư nhân và doanh nghiệp FDI làm ăn ở Việt Nam phải phụ thuộc vào tổ chức Đảng trong vai trò lãnh đạo khuôn phép định hướng xã hội chủ nghĩa.
"Ai đời đã vào cuộc chơi CPTPP rồi mà hôm 6/12, phóng viên ban thời sự của tụi tôi phải đi làm bản tin đoàn chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức hội nghị trực tuyến học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt Nam, với sự tham dự của gần 25.000 cán bộ chủ chốt Công đoàn các cấp tham dự. Làm công đoàn là để bảo vệ quyền lợi của người lao động, chứ đâu phải bảo vệ nghị quyết đâu mà bắt họ quán triệt kia chứ ?", ông N.H.P, trưởng ban của một nhật báo có tòa soạn ở Sài Gòn, lắc đầu nói.
Quyết sách thì phải luôn được điều chỉnh, sửa sai nếu thực tế cuộc sống không chấp nhận. Đó mới là yếu tố quan trọng. "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", cũng không nằm ngoài ý nghĩa ấy.
Thảo Vy
Nguồn : VNTB, 08/12/2018
(1) https://www.thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/10443-ong-nguy-n-phu-tr-ng-nen-h-c-t-p-ong-t-p-c-n-binh-v-kinh-t
(2) http://bit.ly/2AVeZDY
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế trong tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Nôm na, ông Phúc trách doanh nghiệp Việt Nam chỉ thích những khâu đơn giản như lắp ráp, đóng gói sản phẩm…
Quỹ Vietnam Opportunity Fund (VOF) do Vina Capital quản lý thông báo đã đầu tư 32,5 triệu USD để mua lại một số lượng cổ phần thiểu số đáng kể của công ty sản xuất trứng và thịt gia cầm của Ba Huân.
Chiều 13/9, trong khuôn khổ Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN 2018 (WEF ASEAN 2018), Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh Việt Nam (VBS) 2018 với chủ đề "Việt Nam - đối tác kinh doanh tin cậy" đã diễn ra tại Hà Nội, thu hút sự tham dự của 1.200 doanh nghiệp, các tập đoàn hàng đầu thế giới.
Phát biểu khai mạc hội nghị, thay cho những lời tán dương về thành tích, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã vào thẳng vấn đề về những yếu kém của doanh nghiệp. Tuy nhiên ông lại không đề cập nguyên nhân chính dẫn đến yếu kém ấy, mà trên rất nhiều diễn đàn trước đó doanh nghiệp đã lên tiếng về chính sách thất thường, thậm chí chỏi nhau của các cơ quan Bộ, Ngành quản lý nhà nước.
‘Không cùng cách hiểu với thế giới’ về kinh tế thị trường
Diễn ra đồng thời với diễn đàn mở "ASEAN 4.0 cho tất cả mọi người" trong khuôn khổ WEF ASEAN 2018, theo ghi nhận của phóng viên Việt Nam Thời báo tại hội thảo "Để khởi nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long thêm hiệu quả", cho thấy nền ‘kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa’ của Việt Nam là ‘không cùng cách hiểu với thế giới’ về kinh tế thị trường.
Trình bày tại hội thảo, ông Phan Văn Mãi, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch Hội đồng Khởi nghiệp tỉnh Bến Tre, nhìn nhận sở dĩ các chính sách dành cho khởi nghiệp tại Bến Tre vẫn chưa tạo động lực phát triển cho những doanh nhân, là vì cách vận hành của bộ máy hành chánh còn nặng nề, chậm thích nghi với đòi hỏi chung của nền kinh tế thị trường toàn cầu.
Ông Nguyễn Phương Lam, Chủ tịch Mạng lưới khởi nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long, nói rằng có thể hiểu thêm về vận hành của những nhà quản trị quốc gia trong lãnh vực kinh tế, đặc biệt là khởi nghiệp thông qua vụ lùm xùm giữa bà Ba Huân và Vina Capital [*] ; cũng như việc bà Lê Hoàng Diệp Thảo yêu cầu sự can thiệp của các lãnh đạo trung ương để bảo vệ thương hiệu cà phê Trung Nguyên.
Bà Ba Huân và phiên vụ lùm xùm với Vina Capital. Ảnh : PLO
Câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao doanh nghiệp lại thường xuyên yêu cầu lãnh đạo trung ương, trong đó có thủ tướng để giải quyết các khó khăn phát sinh trong kinh doanh như vậy ?
Thực tế này dường như thể hiện một nghịch lý là việc mở cửa phát triển kinh tế dẫn đến tranh chấp phát sinh nhiều hơn, nhưng các bên, hay một bên của Việt Nam trong tranh chấp, không tin rằng pháp luật có đủ quyền năng để giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả. Nghịch lý này có thể dẫn tới nhiều bất an, nghi ngờ, căng thẳng cũng như gây tốn kém nguồn lực kinh tế của toàn xã hội.
"Tôi từng tham gia nhóm đàm phán trong một dự án khởi nghiệp trong ngành truyền thông với đối tác Vina Capital. Họ có đội ngũ luật sư chuyên nghiệp, và họ sử dụng những luật sư người Mỹ gốc Việt để tránh vướng mắc trong hàng rào ngôn ngữ. Các văn bản soạn thảo cũng luôn là song ngữ.
Tuy nhiên tôi nghĩ điều mà những luật sư đối tác, dẫu là người Việt đi nữa, họ cũng khó quen với cách giải quyết của Việt Nam là hay nhờ vã sự can thiệp từ mối quan hệ quan chức, bao gồm cả thủ tướng. Thay vì ở đây phải là phần việc của tòa án, của trọng tài.
Bởi nếu xảy ra tranh chấp giữa các bên thì thông thường với cách hiểu chung của nền kinh tế thị trường, sẽ có 4 cơ chế để giải quyết tranh chấp, gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại, tòa án. Không có cơ chế cầu cứu thủ tướng như ở Việt Nam". Nhà báo Bạch Xuân Sơn, cho biết như vậy tại bên lề diễn đàn mở "ASEAN 4.0 cho tất cả mọi người".
‘Không cùng cách chơi với thế giới’ về khởi nghiệp
Xu hướng người Việt Nam, nhất là những người trẻ khởi nghiệp (startup), sang Singapore đăng ký thành lập công ty đang ngày càng mạnh hơn. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân và đặt ra nhiều câu hỏi với các nhà quản lý trong nước.
Có khá nhiều nguyên nhân khiến các startup chọn cách làm đó. Thứ nhất là hành lang pháp lý nước bạn rõ ràng, các cơ quan công quyền tại đây hỗ trợ, cũng không yêu cầu về vốn pháp định (chỉ cần từ một đô la Singapore) ; thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn Việt Nam khá nhiều. Mọi thông tin về doanh nghiệp cũng minh bạch, rạch ròi, dễ tra cứu, không lòng vòng.
Quan trọng hơn là có pháp nhân Singapore khi kinh doanh sẽ dễ dàng tiếp cận với các khách hàng trong khu vực châu Á hơn là pháp nhân Việt Nam ; công ty cũng được định giá cao hơn trong mắt các nhà đầu tư.
Không những vậy, pháp luật Singapore có sự cam kết cao với cộng đồng quốc tế trong một số lĩnh vực như sở hữu trí tuệ. Chính những lợi ích dễ thấy này mà dù vẫn còn khá nhiều rào cản, khó khăn, như phải rành rẽ ngoại ngữ, có đủ thông tin để ra quyết định ; phí đăng ký cũng không rẻ, và nhất là phải có người quốc tịch Singapore đứng tên trong thành phần doanh nghiệp..., nhưng nhiều người Việt Nam vẫn sang đảo quốc sư tử để mở doanh nghiệp, nhất là những startup có mục đích kêu gọi vốn.
Từ thực tế kể trên, qua ghi nhận ở nội dung WEF ASEAN 2018 mà phóng viên Việt Nam Thời báo tham dự, thì để cùng cách chơi, cùng cách hiểu của thế giới về chuyện làm ăn trong nền kinh tế thị trường, buộc Việt Nam cần mạnh mẽ hơn nữa trong đổi mới thể chế, đặc biệt và cũng là quan trọng đó là đổi mới thể chế chính trị. Trong đổi mới thể chế chính trị, điều phải làm đầu tiên là phân định rõ vai trò của các nhánh quyền lực hành pháp, lập pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước.
Lâu nay cả cơ quan Đảng của ông Nguyễn Phú Trọng, cho đến Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc đã nói rất nhiều tới việc học tập những mô hình thể chế tiên tiến trên thế giới. Tất cả các quốc gia có thể chế chính trị tiên tiến đều có sự phân công rành mạch chức năng của ba cơ quan này.
Tại Việt Nam, các đại biểu Quốc hội phần lớn vẫn là người của các cơ quan hành pháp và tư pháp. Do vậy, Quốc hội vẫn khó có được tiếng nói độc lập. Nhất là còn phải chịu sự quản lý trực tiếp từ cấp cao hơn là Bộ Chính trị.
Trước mắt, không chỉ cần có sự điều chỉnh theo hướng tăng đại biểu chuyên trách của Quốc hội từng khóa, mà còn cần mạnh dạn thay đổi một lần trong nhiệm kỳ tới, giảm đại biểu Quốc hội không phải người của các cơ quan hành pháp và tư pháp, để tiến tới việc Quốc hội phải là cơ quan quyền lực cao nhất, chứ không phải là Bộ Chính trị như hiện tại.
Thảo Vy
Nguồn : VNTB, 15/09/2018
[*] Quỹ Vietnam Opportunity Fund (VOF) do Vina Capital quản lý thông báo đã đầu tư 32,5 triệu USD để mua lại một số lượng cổ phần thiểu số đáng kể của công ty sản xuất trứng và thịt gia cầm của Ba Huân. Sau gần nửa năm hợp tác, Ba Huân đã có văn bản nhờ Thủ tướng Chính phủ can thiệp hủy thỏa thuận hợp tác giữa doanh nghiệp này với Vina Capital.
Những con số thống kê mà Cơ Quan Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund) mới đây vừa phổ biến cho thấy rằng Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất cảng lớn nhất của Việt Nam vào 2017 thay thế vị trí mà Hoa Kỳ đã chiếm giữ trong 15 năm vừa qua. Điều này xác nhận sự tin tưởng của nhiều người rằng Trung Quốc không những ảnh hưởng mạnh mẽ tới ngoại thương của Việt Nam mà còn cả đến nội thương vì Việt Nam là một nước nhỏ so với nước láng giềngTrung Quốc về dân số, diện tích và kinh tế. Nhưng thực tế không phải hoàn toàn đúng như vậy.
VND và USD - Hình minh họa.
Thương mại về hàng hóa
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào cuối năm 1991 sau cuộc chiến biên giới 1979, Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam vào năm 1988 và Hội Nghị Thành Đô 1990. Từ đó buôn bán giữa hai nước đã gia tăng nhanh chóng từ 692 triệu Mỹ Kim vào năm 1995 lên đến 66 tỉ Mỹ kim vào 2015 là năm mà hiện nay có đủ số thống kê nhất. Trong vài năm đầu, trị giá hàng xuất cảng của Việt Nam vượt trị giá hàng nhập cảng từ Trung Quốc trung bình vào khoảng 41 triệu Mỹ kim hàng năm. Tuy nhiên sáu năm sau cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đối với Trung Quốc đã trở nên thiếu hụt, từ 189 triệu Mỹ kim vào 2001 lên tới 32,9 tỉ Mỹ kim vào 2015, tăng 174 lần, không kể số lượng hàng hóa trao đổi bất hợp pháp qua các vùng biên giới đặc biệt là những nơi gần các thành phố Mống Cái và Lạng Sơn.
Việt Nam nhập cảng từ Trung Quốc nguyên liệu cho kỹ nghệ may mặc (sợi và vải), dụng cụ truyền thông và âm thanh, dầu hỏa và các sản phẩm chế tạo từ dầu hỏa, máy móc và dụng cụ công nghiệp, sắt và thép, quần áo và phụ tùng, máy điện và dụng cụ trong nhà, máy phát điện, xe cộ và những máy móc chế tạo riêng cho những ngành công nghiệp đặc biệt.
Hàng hóa của Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc gồm than đá, than cốc, than bánh, trái cây, rau, dầu hỏa và các sản phẩm chế tạo từ dầu hỏa, nguyên liệu dệt và vải, dụng cụ truyền thông và âm thanh, máy điện và dụng cụ trong nhà, quặng kim loại và kim loại phế thải, bần và gỗ, máy móc văn phòng và điều hành số liệu và giầy dép.
Ở mức độ vi mô, tình trạng Việt Nam buôn bán với Trung Quốc xem ra còn tăm tối hơn. Vào khoảng 70-80% vật liệu cho ngành dệt vải, may quần áo, làm giầy dép, bộ phận cho công nghệ điện tử và kỹ sư nhập cảng từ Trung Quốc. Những công nhiệp này sẽ gặp khó khăn lớn lao trong trường hợp hàng cung cấp bị gián đoạn bất ngờ. Ngoài ra, Việt Nam chỉ có thể hưởng được thuế nhập cảng ưu đãi khi ít nhất 30% vật liệu dùng để chế tạo hàng xuất cảng của Việt Nam phải được sản xuất ở trong nước hoặc tại các nước trong khối theo hiệp định thương mại.
Những con số ở trên cho thấy Việt Nam phụ thuộc đáng kể vào Trung Quốc nhưng không cho thấy toàn bộ tình trạng thương mại giữa hai nước. Nhìn từ góc cạnh toàn cầu, người ta sẽ thấy một bức tranh khác. Thật vậy, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam trị giá tổng số hàng hóa buôn bán của Việt Nam với thế giới là 327,8 tỉ Mỹ kim vào 2015. Trong đó, số lượng hàng hóa buôn bán với Trung Quốc chiếm 20,1%, so với 12,8 % đối với Hiệp Hội Các nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations - ASEAN), 12,6% đối với Hoa Kỳ, 12,6% đối với Hiệp Hội Âu Châu (European Union), 11,1% đối với Nam Hàn và 8,6% đối với Nhật. Ô. Lương Hoàng Thái, Vụ Trưởng Vụ Chính Sách Thương Mại Đa Biên thuộc Bộ Công Thương Việt Nam góp ý nhân có tin Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam kể từ 2017 “chúng tôi muốn gia tăng xuất khẩu đến nhiều nước khác, chứ không chỉ Trung Quốc.”
Việt Nam buôn bán hàng hóa nhiều nhất với Trung Quốc vì hai lý do. Thứ nhất, hàng Trung Quốc rẻ vì chất lượng thấp, nhưng lại hợp với túi tiền của người Việt. Thứ hai, hai nước ở sát cạnh nhau. Về thương mại hàng hóa Trung Quốc là một đối tác quan trọng nhưng không ngự trị Việt Nam. Về lãnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng vậy như người ta sẽ thấy sau đây.
Những nguồn tài trợ
Tính đến 31-12-2016, tổng số vốn đầu tư nước ngoài đã được đăng ký và thuộc những dự án đang hoạt động là 293,7 tỉ Mỹ kim. Phần của Trung Quốc chỉ chiếm 3,6%, hơn con số của Hoa Kỳ là 3,5%. Nam Hàn đầu tư đáng kể ở Việt Nam với 50,5 tỉ Mỹ kim (17,2%). Tiếp theo là Nhật với 42,4 tỉ USD (14,4%), Singapore với 38,3 tỉ USD (13%), Đài Loan với 31,9 tỉ USD (10,9%) và Hồng Kông 17 tỉ USD (5,8%). Trung Quốc có 1.562 dự án đầu tư trực tiếp, chiếm 6,9% của tổng số 22.594 dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Như vậy, Trung Quốc chỉ giữ vai trò rất khiêm nhường trong lãnh vực đầu tư nước ngoài.
Theo số thống kê của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD), Việt Nam đã nhận được tổng số tiền đã được giải ngân 5,5 tỉ USD trong chương trình Trợ Giúp Phát Triển Chính Thức (Official Development Assistance - ODA) trong khoảng thời gian 2000-2016. Đây là một chương trình tài trợ với lãi suất thấp và điều kiện dễ dãi cho những nước nghèo. Quốc gia đóng góp vốn nhiều nhất là Nhật Bản. Tiếp theo là Nam Hàn, Pháp, Đức, Anh, Úc, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Canada, và Hoa Kỳ.
Theo Trung Tâm AidData Phát Triển Chính Sách (AidData for Development Policy), một cơ quan nghiên cứu tại Đại Học William & Mary, Việt Nam chỉ nhận được 4,3 tỉ USD, tiền tài trợ từ Trung Quốc trong những năm 2000-2013 trong đó có 350 triệu USD là tiền ODA. Số tiền còn lại là phần cho vay với lãi xuất và điều kiện bình thường. Do đó, phần của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng dưới 5% trong tổng số nợ nước ngoài 91,2 tỉ USD của Việt Nam tính đến 31-12-2016. Trong khi đó, Trung Quốc cho các nước Á Châu khác vay tiền ODA nhiều hơn trong cùng một thời gian : Campuchia 8,7 tỉ USD, Nam Dương 9.3 tỉ USD, Lào 12 tỉ USD và Thái Lan 15 tỉ USD. Miến Điện, một nước bướng bỉnh, chỉ nhận được 2 tỉ USD nhưng vẫn còn lớn hơn phần dành cho Việt Nam.
Ô. Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng Tài Chánh của Việt Nam, tường trình với Quốc Hội cách đây ít lâu rằng “Việt Nam vay tiền của Trung Quốc để thực hiện các dự án là không nhiều. Trong đó, đầu tư vào thị trường chứng khoán của Trung Quốc chỉ chiếm 0,33% quy mô giá trị của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung Quốc có hai nhà đầu tư lớn đang đầu tư vào hai tập đoàn và công ty, nhưng không có gì đáng lo ngại, vì đây đều là những nhà đầu tư dài hạn”.
Đầu tư công cộng
Điều mà Việt Nam phải lo ngại là những công ty của Trung Quốc đã dễ dàng thắng những dự án đầu tư công cộng của Việt Nam qua thủ tục đấu thầu. Những công ty Trung Quốc đã trúng thầu và đã thực hiện 90% hợp đồng về xây cất, kỹ thuật và chương trình thu mua của nhà nước liên quan đến những nhà máy nhiệt điện, dùng nhân công và vật liệu của Trung Quốc. Tương tự như vậy, 23 trong số 24 nhà máy xi măng của Việt Nam do các nhà thầu Trung Quốc xây. Tình trạng này làm cho người Việt tức giận.
Ô. Lê Hồng Hiệp, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á (Institute for Southeast Asian Studies) nói rằng “Có hai lý do chính khiến cho những nhà thầu kỹ thuật Trung Quốc thắng lợi lớn tại Việt Nam. Thứ nhất là khi cho vay vốn ưu đãi các nhà thầu Trung Quốc đặt một số điều kiện. Thứ hai là các nhà thầu Trung Quốc áp dụng những chiến thuật kinh doanh uyển chuyển.” Tuy nhiên cần phải kể đến lý do thứ ba là giá đấu thầu của những công ty Trung Quốc khá thấp so với những giá thầu của những công ty khác. Những điều kiện để được vay vốn ưu đãi thường là Việt Nam phải dùng nhà thầu Trung Quốc, kỹ thuật, đồ trang bị, và dịch vụ của Trung Quốc.
Ông Đặng Ngọc Tùng, một đại biểu Quốc Hội, đã chất vấn Bộ Tài Chánh Việt Nam rằng “vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không hoàn thành hợp đồng đúng hạn, chất lượng các công trình không bảo đảm, giá thành các công trình thường tăng cao hơn dự kiến, không sử dụng nhân công Việt Nam, song có tới 90% dự án phát triển nguồn điện và 80% dự án phát triển hạ tầng giao thông vẫn được giao cho các nhà thầu Trung Quốc ?”.
Nhiều thắc mắc tương tư như trên đã từng được báo chí, các cuộc hội thảo và các hội nghị thường xuyên mang ra bàn cãi, nhưng chưa được nhà nước Việt Nam trả lời. Có một vài lý do gây ra tình trạng đấu thầu bừa bãi này theo những ý kiến thâu thập từ các bài báo phổ biến trên Internet. Thứ nhất là các cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan cấp phép cho các dự án đã không hoàn tất trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các dự án. Thứ hai, các nhà thầu Trung Quốc hối lộ những cơ quan quản lý dự án để được bao che. Do đó chính người Việt Nam làm hại chính đất nước của họ.
Những giải pháp khả thi
Việt Nam tham dự vào những hiệp định thương mại quốc tế giúp đa phương hóa thị trường và giúp bớt phụ thuộc vào Trung Quốc. Việt Nam đã ký kết Hiệp Định Thương Mại Song Phương với Hoa Kỳ (Bilateral Trade Agreement – BTA) vào 2001. Ngoài ra, Việt Nam còn gia nhập hiệp định thương mại song phương với một số quốc gia khác : Nhật (2008), Chile (2012) và Nam Hàn (2015). Về phương diện đa phương, Việt Nam đã gia nhập ASEAN Free Trade Area (AFTA) vào 1992, Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (World Trade Organization – WTO) vào 2007, Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN (ASEAN Economic Community – AEC) vào 2015 và Hiệp Định Thương Mại Tự Do Âu Á (Eurasian Economic Union Free Trade Agreement – EAEU FTA) vào 2017. Việt Nam hi vọng hiệp ước Thương Mai Tự Do đa phương giữa Liên Hiệp Âu Châu - Việt Nam (European Union – Vietnam Free Trade Agreement – EUV-FTA) sẽ sớm được phê chuẩn. Việt Nam cũng đang chờ đợi để hưởng những lợi ích của hiệp ước Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn Diện và Lũy Tiến (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP).
Trong một nền kinh tế thế giới mở, tất cả những quốc gia đều phụ thuộc lẫn vào nhau. Việt Nam không nên và sẽ không bao giờ trở nên hoàn toàn độc lập với Trung Quốc và ngược lại bởi vì hai nước ở sát cạnh nhau và Trung Quốc có một nền kinh tế lớn thư hai trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam có thể thâu hẹp cán cân thương mại thiếu hụt với Trung Quốc bằng cách cải tổ môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài có chất lượng để phát triển công nghiệp cao. Rất tiếc rằng gần đây Luật An Ninh Mạng được Quốc Hội thông qua và những cuộc biểu tình lớn tại nhiều thành phố từ Bắc vào Nam chống lại luật này và dự luật Đặc Khu Kinh Tế đã làm cho môi trường kinh doanh giao động, không phục vu cho mục tiêu này.
Áp lực của nợ công và ngân sách thiếu hụt gia tăng trong những năm vừa qua, ngoại trừ 2017 có triệu chứng thuyên giảm, chính phủ Việt Nam đã đặc biệt cố gắng thi hành một số biện pháp để cải tổ những công ty quốc doanh thua lỗ hay yếu kém. Nếu việc này thành công sẽ giúp Việt Nam cải thiện khả năng cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Người ta còn nhớ rằng chương trình cải thiện những công ty quốc doanh đã được bắt đầu bàn tới khoảng 20 năm trước đây, nhưng chưa bao giờ được xúc tiến một cách nghiêm chỉnh vì lợi ích của các phe nhóm trong chánh quyền. Cải tổ có nghĩa là một số viên chức sẽ mất việc làm và quyền lợi.
Tới lúc này chánh quyền không còn lựa chọn nào khác. Tư nhân hóa hoặc giải thể những công ty quốc doanh thua lỗ, thu nhỏ bộ máy của Đảng cộng sản Việt Nam và bộ máy cai trị cồng kềnh của chính phủ là những điều bắt buộc. Bán đất cho ngoại bang, một giải pháp cứu vãn cấp thời cho ngân sách và nợ công, không phải là một giải pháp có thể lựa chọn bởi vì nó sẽ đổ thêm dầu vào lửa, tạo thêm rối loạn, và “sẽ đốt cháy những người cộng sản ở Hà Nội” như tờ báo The Economist nhận định.
Nguyễn Quốc Khải
Nguồn : VOA, 23/7/2018
Tham khảo
1. BBC, “Tiền Chính Phủ Trung Quốc Tới Việt Nam Bao Nhiêu ?” October 12, 2017.
2. BBC, “Vén Màn Bí Mật ‘Tiền Viện Trợ’ Trung Quốc,” October 11, 2017.
3. IMF, “Vietnam – Selected Issues,” July 2018.
4. IMF, “Vietnam – 2018 Article IV Consultation – Country Report No. 18/215,” July 2018.
5. Nguyen Dieu Tu Uyen, “China Overtakes U.S. as Top Export Market in one More Nation,” Bloomberg News, April 18, 2018.
6. Nguyễn Quốc Khải, “Kinh tế Việt Nam : Làm sao để Giảm lệ thuộc vào Trung Quốc ?” 4/7/2014.
7. The Economist, “Vietnam and China : Through a border darkly,” August 16, 2014.
8. Voice of Vietnam, “Trung Quốc Trở Thanh Thị Trường Xuất Khẩu Lớn Nhất Của Việt Nam,” 19/4/2018.
9. Voice of Vietnam, “Economist Warns of Vietnam’s Over Dependence on China, “May 3, 2015.
Do vị trí địa dư, Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn trước sự bành trướng không che giấu của Trung Quốc. Thế rồi, trong cảnh ngộ đó, có thể nào mà mâu thuẫn về mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc lại mở ra một cơ hội khác cho kinh tế Việt Nam hay không? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu tiếp về sự kiện này….
Xưỡng sản xuất thép tư nhân ở Đông Anh, Việt Nam - AFP
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Mâu thuẫn về mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã lên tới cao điểm vào tuần qua khi Chỉnh quyền Donald Trump dọa sẽ tăng thuế nhập nội trên một lượng hàng hóa Trung Quốc trị giá tới 200 tỷ đô la và phía Bắc Kinh đòi khiếu nại trước Tổ chức Thương mại Thế giới. Thưa ông, trong khung cảnh căng thẳng này, Việt Nam có hy vọng gì và sẽ gặp rủi ro như thế nào ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Trước hết, nói về bối cảnh thì phía Hoa Kỳ xác định lại phạm trù tự do thương mại là phải thật sự tự do, công bằng, hai chiều và cân đối, nôm na là phải “có đi có lại”, chứ không gây bất lợi quá đáng cho kinh tế Mỹ.
Thứ hai, Chính quyền Donald Trump đòi áp dụng quy luật đó cho mọi bạn hàng, kể cả đồng minh chiến lược về an ninh như các nước Âu Châu hay Nhật Bản. Mục tiêu là để giảm số nhập siêu và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã bị thiệt hại trong tiến trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên, chưa chắc là mục tiêu đó lại khiến các doanh nghiệp chuyển dịch đầu tư từ một thị trường có nhân công tương đối rẻ, như thị trường Trung Quốc, qua một thị trường khác như thị trường Việt Nam.
Thứ ba là chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp nay đã đan kết chằng chịt qua nhiều quốc gia và phí tổn nhân công quá cao tại Hoa Kỳ khiến doanh nghiệp Mỹ đầu tư mạnh vào các phương tiện sản xuất tự động như người máy robots hơn là vào ngành chế biến thâm dụng nhân công. Vì các nền kinh tế công nghiệp hóa cũng theo chiều hướng tương tự cho nên chưa chắc là kinh tế Việt Nam đã thừa hưởng kết quả khả quan hơn từ một trận chiến mậu dịch xuất phát tại Hoa Kỳ. Đấy là bối cảnh chung.
Nguyên Lam : Thưa ông, đấy là bối cảnh chung, còn riêng với Trung Quốc thì sao ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Riêng với Trung Quốc, Chính quyền Trump chủ trương đối phó toàn diện, về an ninh lẫn kinh tế, nhằm chặn đà bành trướng và gây áp lực cho xứ này từ bỏ thói giao dịch bất chính và đánh cắp công nghệ Hoa Kỳ.
Đã vậy, mục tiêu đa diện của Mỹ còn là đẩy lui khả năng can thiệp của Bắc Kinh vào các nền kinh tế khác. Dù Chính quyền Trump làm như dàn trận với mọi bạn hàng thì các đồng minh của Mỹ tại Âu Châu hay Á Châu, như Liên hiệp Âu châu, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan và thậm chí Úc cũng thấy sức bành trướng của Trung Quốc vào các khu vực sử dụng công nghệ cao nên lặng lẽ vận động theo xu hướng của Mỹ. Trong khi đó, Bắc Kinh cũng muốn tranh thủ bạn hàng như Liên Âu hay cả Nhật Bản để thoát vòng kiềm tỏa của Hoa Kỳ. Vì thế, khung cảnh chung là những vận động ngấm ngầm và phối hợp phức tạp chứ không đơn thuần là một trận chiến mậu dịch Mỹ-Hoa mà truyền thông cứ tường thuật ở bề mặt.
Nguyên Lam : Giữa khung cảnh rắc rối đó, ông nghĩ rằng Việt Nam nên xoay trở ra sao ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Đáng lẽ Việt Nam phải sớm thấy ra sự xoay chuyển của Trung Quốc là sẽ từ bỏ vai trò công xưởng toàn cầu vì nhân công của họ hết còn rẻ như trước, rồi họ nhắm vào trình độ sản xuất có kỹ thuật và giá trị cao hơn. Từ dăm năm trước, diễn đàn của chúng ta đã nói đến chiều hướng ấy như một cơ hội cho kinh tế Việt Nam.
Đáng tiếc là Việt Nam đã lỡ cơ hội đó, lại đi vào chiến lược công nghiệp hóa tệ hại là ăn cơm thừa canh cặn của xứ láng giềng với thiết bị phế thải lỗi thời có năng suất thấp và mức hủy hoại môi sinh cao. Hậu quả là Việt Nam không chỉ nhập khẩu nạn ô nhiễm mà còn nhập khẩu nguyên vật liệu, thậm chí lao động từ Trung Quốc để tái chế biến với giá trị đóng góp thấp nhằm xuất khẩu ra ngoài nhờ có nhân công rẻ hơn. Biến thép rẻ của Tầu thành thép ta để giúp Trung Quốc vượt qua hạn ngạch của các nước là sự khôn ngoan tai hại. Ngày nay, khi thấy đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng, Việt Nam vội mừng là sẽ thay thế vai trò của Trung Quốc nhưng rốt cuộc thì chỉ làm giầu cho nhà đầu tư ngoại quốc trên lưng của công nhân Việt Nam. Có lẽ lãnh đạo Việt Nam nên rà soát lại sách lược phát triển và chiến lược công nghiệp hóa của mình,
Nguyên Lam : Ông có quá bi quan hay không, vì người ta thấy các nước Đông Nam Á đều tự chuẩn bị cho một tình huống mới vì hai cường quốc kinh tế từ hai bờ Đông Tây của Thái Bình Dương đang lâm vào một trận chiến mậu dịch ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Tôi nghĩ các nước không chỉ tự chuẩn bị về kinh tế mà còn về an ninh vì sự đe dọa của Trung Quốc. Có lẽ lãnh đạo Việt Nam cũng đang có nỗi phân vân tương tự dù chẳng nói ra vì sợ làm Bắc Kinh phật ý sau khi họ đã gây sức ép trên các dàn khoan của Việt Nam ở ngoài biển! Trong khi đó, ta không quên kế hoạch hội nhập kinh tế tại vùng biên giới giữa hai nước về tư bản, thiết bị và nhân công. Kế hoạch mậu biên đó có lợi cho Trung Quốc vì dán nhãn Việt Nam lên sản phẩm của Quảng Đông, Quảng Tây để bán ra ngoài…. Một trong những chọn lựa có ý nghĩa vào lúc này là từ bỏ kế hoạch mậu biên đó.
Khách quan mà nói, người ta cứ bảo Việt Nam có một số lợi thế, nhưng ta nên nhìn cả hai mặt của một sự việc. Thí dụ như nhân công rẻ hơn Trung Quốc, có thể bằng phân nửa nhân công tại các tỉnh Đông Nam của Tầu, nhưng ta cần so sánh với năng suất. Thí dụ kia là Việt Nam đã ký Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương và năm nay, Hiệp ước TPP sẽ được áp dụng, nhưng hiệp ước đó quy định rõ ràng về xuất xứ hàng hóa khiến Việt Nam sẽ khó nhập nhằng như trước. Thí dụ thứ ba là Việt Nam cũng hy vọng hoàn tất hiệp ước tự do thương mại với khối Liên Âu, nhưng các nước Âu Châu đều biết vai trò trung gian của Việt Nam là làm trạm trung chuyển hàng hóa của Tầu dưới thương hiệu chế tạo tại Việt Nam. Sau cùng là trong khi các nước có thể tìm nơi đầu tư rẻ hơn Trung Quốc và ngó vào Việt Nam thì lại giật mình vì dự luật Đặc khu Tự trị và thất vọng vì nạn đàn áp những ai phản đối dự luật này, mặc dù hiện tượng phản đối Trung Quốc đã bùng nổ tại Malaysia, Pakistan hay Sri Lanka, v.v…
Nguyên Lam : Nếu nhìn trên toàn cảnh thì ông không mấy lạc quan, nhưng chẳng lẽ Việt Nam không thể làm gì để vừa tránh hậu quả xấu vừa khai thác cơ hội mới hay sao ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Nói chung, các nước Đông Nam Á đều có viễn kiến khi tự chuẩn bị làm nơi thay thế thị trường Trung Quốc khi xứ này bước lên trình độ sản xuất cao hơn và trước khi bùng nổ mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Là một quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam đứng về phe nào trong mâu thuẫn đó? Tôi nghĩ rằng lãnh đạo Việt Nam đang nêu câu hỏi tương tự mà chưa thống nhất ý kiến về sự chọn lựa mà cũng chẳng nghe theo ý người dân.
Nhìn trong ngắn hạn, với triển vọng tăng trưởng cao làm Hoa Kỳ nâng lãi suất, đồng Mỹ kim sẽ lên giá. Ngược lại đồng Nguyên của Trung Quốc sẽ sụt giá khiến hàng hóa của họ trở thành rẻ hơn và dễ xuất khẩu hơn. Việt Nam không nên e ngại tác động ngắn hạn đó mà nhìn sâu hơn vào toàn cảnh. Bắc Kinh không chỉ muốn có bạn hàng hay đối tác cho Sáng kiến Nhất Đới Nhất Lộ mà còn muốn răn đe và trừng phạt doanh nhiệp của các quốc gia đối thủ như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan, Úc, v.v…. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp này càng cần bãi đáp khác cho an toàn. Việt Nam có thể là bãi đáp ấy cho giới đầu tư, nhưng có an toàn hay không thì tùy vào lãnh đạo của xứ này. Chúng ta trở lại chuyện hạ tầng cơ sở vật chất và nhất là hạ tầng cơ sở vô hình như luật lệ và cả giáo dục đào tạo là điều mình đã nói quá nhiều lần.
Nguyên Lam : Vì thời lượng của chương trình này có hạn, Nguyên Lam xin được đề nghị ông nêu ra một số kết luận cho thính giả của chúng ta.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Vì truyền thông báo chí cứ tập trung vào thời sự ngắn hạn, tôi có khuynh hướng trình bày bối cảnh sâu xa lâu dài hơn, rồi từ xa mà luận tới gần. Trong trận đấu giữa Mỹ và Trung Quốc, mậu dịch chỉ là một phần thôi.
Rút kinh nhiệm chua xót của Việt Nam trong lịch sử cận đại, Việt Nam không nên giữ vai trò ủy nhiệm, hoặc là công cụ cho một trận đánh của các cường quốc. Hoàn cảnh lệ thuộc vào Trung Quốc ngày nay xuất phát từ sự chọn lựa tai hại đó.
Ngày nay, một trận đấu khác đang tái diễn mà mậu dịch chỉ là một phần thì ta nên nhìn lại xem quyền lợi của mình nằm ở đâu, trên ngọn hay dưới gốc? Ngọn là tập đoàn lãnh đạo, gốc là người dân. Đáng lẽ, cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” phải nhắm vào gốc là đa số người dân ở dưới lại chỉ nhằm giải quyết yêu cầu của thiểu số trên đỉnh, cho nên Việt Nam vẫn sao chép mô hình “xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Quốc”. Chiến dịch diệt trừ tham nhũng hay giải trừ vai trò của quân đội trong kinh doanh tại Việt Nam chỉ là một phiên bản nhợt nhạt của Trung Quốc mà thôi, và các nước đều thấy ra điều ấy!
Nói về tương lai, việc Việt Nam rón rén bước gần về phía Hoa Kỳ chưa đủ sức thuyết phục doanh giới Mỹ mà chỉ gây thêm phản ứng gay gắt từ phía Bắc Kinh trong khi kinh tế lại đạt xuất siêu với Mỹ và bị nhập siêu với Tầu mà chẳng học được gì từ công nghệ cao cấp của nước Mỹ hay từ các nước tiên tiến khác.
Trận chiến mậu dịch đang manh nha có thể là một cơ hội sửa sai hay đổi mới. Cụ thể là nên giảm mức xuất siêu với Hoa Kỳ bằng cách mua thêm võ khí của Mỹ để hiện đại hóa quân đội, tức là bớt mua của Liên bang Nga. Dù võ khí Mỹ đắt hơn thì quyết định mang tính chất biểu trưng đó vẫn là một thông điệp ý nghĩa cho cả Hoa Kỳ lẫn Bắc Kinh. Trong khi đó, Việt Nam vẫn phải nghiên cứu lại sách lược phát triển và chiến lược công nghiệp hóa mà không dựa theo Trung Quốc. Đây mới là cơ hội thoát khỏi vòng kiềm tỏa tai hại của Bắc Kinh khi hàng loạt quốc gia cũng đều nghi ngờ sự bành trướng đáng ngại của Trung Quốc.
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.
Nguyễn Xuân Nghĩa
Nguồn : RFA, 19/07/2018
Biến động gần đây tại Việt Nam khiến dư luận khắp nơi quan tâm đến tình trạng lệ thuộc của kinh tế Việt Nam vào một nước láng giềng có tham vọng bành trướng là Trung Quốc. Diễn đàn Kinh tế sẽ đi sâu hơn vào hiện tượng lệ thuộc đó…
Công nhân xây dựng công trình đường sắt trên cao ở Hà Nội có vốn trợ cấp của Trung Quốc. AFP
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Thưa ông, dù nhà cầm quyền Việt Nam đã tạm hoãn việc Quốc hội biểu quyết Dự luật về ba Đặc khu Tự trị là Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, người ta vẫn lo ngại về tình trạng lệ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào một quốc gia láng giềng không che giấu tham vọng của họ là Trung Quốc. Theo dõi chuyện đó, Nguyên Lam thấy là cách nay đúng bốn năm, cũng vào đầu Tháng Bảy năm 2014, ông nói đến một khái niệm ít ai để ý là tính chất "công cụ" của nền kinh tế Việt Nam cho Trung Quốc. Bây giờ, Ban Việt ngữ xin yêu cầu ông phân tích lại chuyện này cho rõ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Khởi đi từ phạm trù kinh doanh khi chi nhánh của một tập đoàn bảo hiểm hay ngân hàng trở thành công cụ cho doanh nghiệp mẹ - gọi theo Anh ngữ là "captive company" - tôi trình bày tính chất công cụ qua nhiều lớp của một nền kinh tế bị lệ thuộc vào nhà nước, nhà nước lệ thuộc vào một đảng độc quyền và các đảng viên cán bộ.
Chuyện tai hại không chỉ là các nhóm lợi ích chòng chéo làm kinh tế đi theo định hướng lệch lạc mà là khi đảng độc quyền đó lại lệ thuộc vào một đảng độc quyền khác của một quốc gia láng giềng. Khi ấy, nói về "nền kinh tế công cụ", tôi dự báo điều có thể xảy ra và quả thật là đang xảy ra.
Bây giờ, ta nên nhìn lại và phân tích sâu xa hơn vào nguyên nhân để thấy ra tương lai dĩ nhiên là đáng lo ngại cho Việt Nam.
Nguyên Lam : Nguyên Lam xin đề nghị ông đi từ những nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Vì tiết mục chuyên đề của chúng ta tập trung vào lĩnh vực kinh tế, tôi xin miễn nói về các nguyên nhân chính trị thuộc về lịch sử của hai đảng Cộng sản láng giềng đã có quan hệ gần như huyết thống hay mẹ con.
Nói riêng về kinh tế, sau khi đổi mới, Việt Nam đã có cơ hội vượt thoát mà sau lại trôi về chốn cũ là cứ lệ thuộc vào Trung Quốc, từ tư tưởng, thể chế đến sách lược kinh tế, nên tình trạng công cụ càng được củng cố. Tôi xin khởi đi từ đó….
Lãnh đạo Việt Nam vẫn sống trong không gian hai chiều Nam-Bắc, làm gì cũng nhìn lên phương Bắc mà chẳng thấy ra nhiều hướng khác của thế giới, và tai hại nhất là không thấy tương lai của xứ sở là trí tuệ của người dân qua giáo dục và đào tạo. Đấy mới là tài nguyên đích thực, không nên đo ở số lượng tiến sĩ giấy.
Khi nhìn ra thế giới thì họ không học hỏi mà chỉ muốn dân lao động đem sức lực hơn trí tuệ làm gia công cho ngoại quốc nhờ ưu thế nhất thời là lương rẻ để xuất khẩu ra ngoài. Giới đầu tư kế cận, tại Trung Quốc, sẵn sàng nhảy vào đó, họ góp vốn bằng thiết bị và công nghệ lỗi thời vì năng suất kém mà ô nhiễm cao. Và họ nống giá cho ta ôm về những kỹ thuật giết người, trước hết là giết dân mình. Việt Nam có vài chục dự án thuộc loại tự sát đó.
Thứ hai, tính chất công cụ của nền kinh tế là một xoáy ốc kỳ lạ như các con búp bê rỗng ruột của Nga mà cốt lõi là đảng lồng trong nhà nước và thân tộc. Vì đảng quy định qua Hiến pháp rằng "đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân" mà lại "do nhà nước thống nhất quản lý", đảng viên cán bộ lấy đất của dân với giá bèo để làm giàu cho họ trong thế liên doanh tai hại ấy. Từ đó mới có các nhóm lợi ích với chủ trương tiến hành sách lược công nghiệp tội nghiệp, trong khi giới đầu tư Trung Quốc được ưu đãi để chiếm vị trí chiến lược nhất về an ninh trên lãnh thổ Việt Nam. Giới chuyên gia quốc tế chỉ thấy sai lầm của sách lược sử dụng đòn bẩy là đầu tư nước ngoài, chuyên gia Trung Quốc thì nhìn xa hơn và biết khai thác thể chế tham ô của Việt Nam cho quyền lợi của họ.
Nguyên Lam : Như vậy, thưa ông, phải chăng sai lầm khởi đi từ chiến lược phát triển kinh tế do lãnh đạo Việt Nam đề ra khi tìm đòn bẩy là đầu tư nước ngoài trong khi đầu tư của Trung Quốc lại dùng ngay đòn bẩy đó cho quyền lợi của họ ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Tôi không nghĩ rằng lãnh đạo Việt Nam có "chiến lược phát triển" mà mới chỉ học chiến lược tăng trưởng, chứ phát triển đòi hỏi phẩm chất là cái mà Việt Nam chưa hề có và cũng chẳng học được gì của xứ khác.
Theo dõi các thống kê, dù chưa khả tín lắm, ai cũng thấy đầu tư ngoại quốc ăn lời lớn nhờ nhân công của ta và sẽ rút chạy qua nơi nào có nhân công rẻ hơn, hoặc có công nghệ sản xuất cao hơn, là điều đang xảy ra ! Thí dụ như khi người máy tự động trong ngành dệt sợ may mặc xuất hiện nhiều hơn, trường hợp SewBots đã thấy, thì Việt Nam sẽ tắt thở. Đó là chuyện chung, khi Việt Nam để kinh tế quá lệ thuộc vào nước ngoài qua xuất nhập khẩu, với một tỷ lệ nguy hại như tự sát.
Riêng về Trung Quốc thì đấy là sự tàn sát. Doanh nghiệp ngoại quốc, như Mỹ, Nhật, Nam Hàn hay Đài Loan, v.v… còn có tiêu chuẩn phải ít nhiều tuân thủ về môi sinh hay lao động. Doanh nghiệp Trung Quốc thì không, và có biệt tài xuất khẩu ô nhiễm sau khi đã tàn phá lãnh thổ của họ. Nhà thầu của họ vào Việt Nam như bậc thầy vì đặc tính công cụ chính trị ở trên, lại có tư thế là nhà băng cho vay với điều kiện dễ dãi và dễ chia chác, để thực hiện dự án hạ tầng, nguyên vật liệu và năng lượng.
Môi sinh bị ô nhiễm vì xài công nghệ phế thải thì dân Việt Nam ráng chịu, như chúng ta thấy tại Tây Nguyên hay Hà Tĩnh và qua vài chục dự án khác. Quen chửi Chính quyền Donald Trump của Hoa Kỳ trong mâu thuẫn với Bắc Kinh, mấy ai thấy là 90% lượng thép Việt Nam bán cho Mỹ lại là thép dư dôi của Trung Quốc được biến hóa thành sản phẩm của Việt Nam ? Khi Việt Nam bị Mỹ áp thuế nhập nội thì đấy cũng là cái tội từ Hà Nội lồng tới Bắc Kinh !
Nguyên Lam : Ông nhắc đến tai họa của Trung Quốc tại Tây Nguyên của Việt Nam thì có lẽ nhiều thính giả của chúng ta đã quên hoặc ít biết tới. Xin đề nghị ông nhắc lại chuyện này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Ai khuyên Việt Nam trở thành một đại gia về thép trong khi xứ này chẳng có quặng sắt là nguồn tài nguyên lớn như Úc hay Brazil ? Đặc tính công cụ cho Bắc Kinh có thể trả lời câu hỏi đó !
Việt Nam sản xuất thép thì cần quặng, cần điện và cần đầu tư với quy mô lớn quá sức mình. Nhưng có Trung Quốc thì mọi sự trở thành dễ dàng : công nghệ khai thác quặng sắt và nhà máy điện chạy bằng than với nhược điểm gây ô nhiễm là những gì họ cung cấp. Còn chuyện lỗ lã hay môi trường sinh sống bị hủy diệt thì đấy là vấn đề của Việt Nam. Vì Trung Quốc, Việt Nam không chỉ có tai họa tại Tây Nguyên từ mấy năm trước mà còn mắc nạn tại Hà Tĩnh với mỏ Thạch Khê nằm sâu dưới mực nước biển.
Nguyên Lam : Thưa ông, nhiều quốc gia đang phát triển cũng có thể gặp bài toán đó, Việt Nam có thể nào thoát được không ? Là một chuyên gia tư vấn, ông thấy Việt Nam cần làm những gì để thoát khỏi tình trạng lệ thuộc đó ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Nhiều quốc gia đã gặp bài toán đó với Trung Quốc, như Sri Lanka, Pakistan, Miến Điện hay Malaysia, nhưng người dân có thể lên tiếng phản đối, người dân Việt Nam thì bị đàn áp cũng vì cái lý do công cụ ghê tởm đó.
Nhìn rộng ra ngoài, ta thấy các nước đi sau đều học các nước tiên tiến nhưng phải có ý thức độc lập và tự cường. Ý thức đó bắt đầu từ giáo dục rối đến đào tạo để nâng trình độ khoa học kỹ thuật cho người dân, trước tiên là ở cấp trung tiểu học để đa số đều có hiểu biết tối thiểu về đất nước và thế giới. Bước kể tiếp, thuộc thế hệ có trách nhiệm là dám bung ra ngoài để học hỏi kiến năng, là kiến thức và khả năng thực hiện. Trăm năm qua, Việt Nam chưa giải quyết xong bài toán đó thì lao vào chiến tranh và tàn phá. Ngày nay, ai có nhiệm vụ về kinh tế và kế hoạch cần đi học và đi mua công nghệ hay thuật lý của thiên hạ hoặc thuê chuyên gia ngoại quốc làm tư vấn cho mình. Mục tiêu là trong một thời hạn nhất định thì phải có sản phẩm của mình với giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao hơn.
Các nước Nhật, Nam Hàn và Đài Loan đều trải qua giai đoạn học hỏi đó và trong chừng mực nhất định đều tìm cách bảo vệ thị trường chủ yếu và công nghệ non yếu của họ, nhưng thành công vì tôn trọng thị trường, xây dựng dân chủ và nhất là để tư doanh giữ thế quyết định trong khi nhà nước đảm nhiệm chức năng phối hợp và yểm trợ nhưng thường xuyên bị kiểm tra. Trung Quốc và Việt Nam thì thiếu các điều kiện cơ bản trên, duy trì chế độ độc đảng, quy chế phi thị trường, và thế chủ đạo của hệ thống quốc doanh trên đầu tư doanh, cho nên họ chỉ ăn cắp lẫn nhau và vì vậy mà thiếu bền vững. Đây là ta chưa nói đến chuyện mắc nợ !
Nguyên Lam : Ông vừa nêu ra một ý kiến là các nước Đông Á đã thành công như Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan đều cũng tìm cách bảo vệ các khu vực non yếu lúc ban đầu. Ông giải thích thêm về chuyện ấy được không vì nó có vẻ tương tự như Trung Quốc và Việt Nam.
Nguyễn-Xuân Nghĩa : Thương mại thế giới thật ra muôn hình vạn trạng và bị nhiều yếu tố chi phối chứ không đồng hạng và đơn giản như lý thuyết về tự do mậu dịch, là điều được coi là lý tưởng kể từ sau Thế chiến II. Thực tế thì xứ nào - kể cả các nước công nghiệp hóa như Âu, Mỹ, Nhật - cũng có một số khu vực được bảo vệ theo lý luận bảo hộ mâu dịch vì lý do kinh tế chính trị ở bên trong.
Nói về các nước Đông Á đi sau, họ cũng trải qua giai đoạn học hỏi và tiếp thu công nghệ mới, trước đó chưa có, để có được những sản phẩm nội địa. Bước đầu thì phải giúp các sản phẩm đó thành công trong thị trường nội địa, tới độ từ chối đầu tư nước ngoài vào các thị trường non yếu này. Bước kế tiếp mới là mở rộng thị trường ra ngoài qua cạnh tranh để có phần thị trường cao hơn và muốn vậy thì phải tuân thủ quy luật cạnh tranh của các nước khác. Tiến trình tiếp cận đó xảy ra một cách thường trực và phức tạp nên cần thương thuyết và hiệp ước. Then chốt ở đây là học công nghệ mới để có sản phẩm với giá trị kinh tế cao hơn.
Các nước thành công đều có giáo dục, đào tạo và đại học có đẳng cấp để biết tiếp thu công nghệ thay vì dùng bắp thịt làm ra các mặt hàng của thiên hạ với giá rẻ cho dễ xuất khẩu. Sau đó các nước không gian lận, ăn cắp hay ăn cướp, để thụ đắc công nghệ mới như Trung Quốc, là điều nay đã thành mười mươi rõ ràng khi bị Hoa Kỳ và Liên Âu khiếu nại với Tổ chức Thương mại Thế giới.
Khác biệt nữa là sau khi có công nghệ mới, Trung Quốc tìm cách cải tiến và cải tiến được, còn Việt Nam thì không. Cho nên Việt Nam nhặt lại công nghệ lỗi thời của xứ láng giềng trong thân phận công cụ bị lệ thuộc. Vì vậy, tôi cho rằng nếu muốn thoát Tầu thì Việt Nam cần sửa từ cái đầu, về chính trị là ra khỏi nạn độc đảng, và về văn hóa là làm một cuộc cách mạng thật về giáo dục.
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích đau lòng này.
Nguyên Lam thực hiện
Nguồn : RFA, 02/07/2018
TPP không có Hoa Kỳ (RFA, 06/03/2018)
Mười một quốc gia tham gia Hiệp Định Thương Mại Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt theo tiếng Anh TPP, vào ngày thứ năm 8 tháng 3 này sẽ ký kết một thỏa thuận được chỉnh sửa.
Bộ trưởng thương mại Việt Nam, ông Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Chính sách kinh tế tài chính Nhật Bản, ông Toshimitsu Motegi tại APEC 2017, Đà Nẵng. AP
AFP loan tin cho biết thỏa thuận mới với tên gọi Hiệp Định Thương Mại Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương Tiến Bộ và Toàn Diện- CPTPP nhắm đến việc cắt giảm thuế quan giữa 11 quốc gia thành viên và tăng cường mậu dịch để phát triển.
AFP dẫn phát biểu của thương thuyết gia trưởng Chi lê, Felipe Lopeandia, là những nước tham gia CPTPP sẽ không bị tác động bởi quyết định của tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump khi rút Mỹ ra khỏi thỏa thuận TPP.
Theo thương thuyết gia trưởng của Chi lê trong đàm phán CPTPP thì việc ký thỏa thuận được chỉnh sửa của 11 quốc gia sẽ gửi một tín hiệu chính trị đến toàn thế giới và cả Hoa Kỳ rằng đó là một thỏa thuận toàn cầu.
Tin cho biết trong thỏa thuận CPTPP sắp được ký kết có 20 điều khoản được ngưng lại hay thay đổi. Hầu hết đều là những điều khoản liên quan quyền sỡ hữu sản phẩm trí tuệ mà phía Hoa Kỳ đưa vào TPP trước đây.
11 quốc gia ký CPTPP đại diện cho thị trường 500 triệu người, lớn hơn thị trường Liên hiệp Châu Âu. Các nước tham gia CPTPP gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam.
******************
Việt Nam và Hoa Kỳ tiếp tục phát triển quan hệ thương mại (RFA, 06/03/2018)
Hoa Kỳ mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam và các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Mạng báo Giáo dục và Thời đại dẫn lời thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn nhân sự kiện mang tên Gặp gỡ Hoa Kỳ diễn ra tại Đà Nẵng vào chiều ngày 5/3.
Ông Daniel Kritenbrink - Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam - Ngaynay.vn
Là sự kiện thường niên do Bộ Ngoại giao Việt Nam phối hợp cùng Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tổ chức từ năm 2016, Gặp gỡ Hoa Kỳ năm nay có chủ đề "Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung" với 4 phiên : Triển vọng thương mại - đầu tư Việt Nam Hoa Kỳ giai đoạn 2018-2020 ; thành phố thông minh ; khởi nghiệp - Start Up ; giáo dục và lực lượng lao động.
Việt Nam cho biết sẽ đẩy mạnh chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế và coi Hoa Kỳ là một đối tác hàng đầu, đánh giá cao các sáng kiến và nỗ lực của Hoa Kỳ, và các nước nhằm duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, hai nền kinh tế Việt Nam- Hoa Kỳ mang tính chất bổ sung cho nhau, hai bên duy trì sinh hoạt đầu tư ổn định, kim ngạch thương mại hai chiều tăng liên tục. Xuất khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng tăng rất nhanh và cao nhất hiện nay so với thị trường Đông Nam Á.
Đặc biệt, Việt Nam sẵn sàng hợp tác với Hoa Kỳ để tiếp tục cải cách, đổi mới tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho đầu tư và hợp tác, trong đó chú trọng việc đầu tư hợp tác giữa các địa phương Việt Nam với các doanh nghiệp, đối tác, địa phương Hoa Kỳ. Đây cũng là một trụ cột trong quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam- Hoa Kỳ được xác lập từ năm 2013.
Về phía Hoa Kỳ, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Daniel Kritenbrink tin tưởng rằng những giải pháp của doanh nghiệp từ Hoa Kỳ sẽ hữu ích cho các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Hoa Kỳ cũng mong muốn các địa phương Việt Nam giới thiệu tiềm năng và có những nỗ lực, kêu gọi, xúc tiến để doanh nghiệp Hoa Kỳ quan tâm đến đầu tư tại đây.
Cũng trong khuôn khổ của Hội nghị Gặp gỡ Hoa Kỳ, Công Ty TNHH Nước giải khát Coca-Cola Việt Nam đã ký kết Biên bản ghi nhớ cùng Cục Ngoại vụ - Bộ Ngoại giao về hợp tác bồi dưỡng cán bộ làm công tác đối ngoại tại các tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam.
Theo đó, chương trình sẽ được giảng dạy bởi các chuyên gia đến từ Đại học Fulbright Việt Nam (FUV) cùng các đối tác khác tại Việt Nam. Chương trình hợp tác dự kiến kéo dài trong 3 năm và được tổ chức tại nhiều địa điểm trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam.