Hoạt động công xưởng của Trung Quốc sụt giảm tháng thứ tư liên tiếp (VOA, 31/08/2019)
Hoạt động của các công xưởng ở Trung Quốc sụt giảm trong tháng 8, tháng thứ tư liên tiếp, trong khi Mỹ tăng áp lực thương mại và nhu cầu nội địa vẫn ì ạch. Đây là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tiếp tục giảm tốc.
Một công nhân hàn các bộ phận xe hơi tại một xưởng sản xuất phụ tùng xe hơi ở Hồ Bắc, tỉnh An Huy, Trung Quốc, ngày 28 tháng 6, 2019.
Chỉ số Quản lí Sức mua (PMI) giảm xuống mức 49,5 trong tháng 8, Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc cho biết vào ngày thứ Bảy, so với mức 49,7 trong tháng 7, dưới mốc 50 điểm phân định giữa tăng trưởng và sụt giảm trên cơ sở hàng tháng.
Chỉ số hoạt động công xưởng cho thấy những xích mích về thương mại ngày càng tăng với Mỹ và nhu cầu toàn cầu đang giảm đi tiếp tục tổn hại cho các nhà xuất khẩu của Trung Quốc.
Các đơn đặt hàng xuất khẩu đã giảm tháng thứ 15 liên tiếp trong tháng 8, dù với tốc độ chậm hơn, với chỉ số phụ tăng lên mức 47,2 từ mức 46,9 vào tháng 7.
Tổng số đơn đặt hàng mới - từ trong và ngoài nước - cũng tiếp tục giảm, cho thấy nhu cầu trong nước vẫn yếu, dù có một loạt các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng trong năm qua.
Số liệu cho thấy hoạt động tại các công ty vừa và nhỏ đã thu hẹp, ngay cả khi các nhà sản xuất lớn, nhiều công ty được chính phủ hỗ trợ, đã xoay sở mở rộng hoạt động vào tháng 8.
Các công xưởng tiếp tục giảm việc làm trong tháng 8 trong bối cảnh viễn cảnh kinh doanh không chắc chắn. Chỉ số phụ về tuyển dụng giảm xuống mức 46,9 so với 47,1 trong tháng 7.
Tháng 8 chứng kiến căng thẳng thương mại tăng mạnh giữa Trung Quốc và Mỹ, với việc Tổng thống Donald Trump loan báo ông sẽ áp đặt thuế quan mới đối với hàng hóa Trung Quốc kể từ ngày 1 tháng 9, và Trung Quốc để đồng tiền nhân dân tệ suy yếu mạnh những ngày sau đó.
Sau khi Bắc Kinh áp đặt thuế quan trả đũa, ông Trump nói rằng các mức thuế hiện tại cũng sẽ được tăng lên trong những tháng tới, bao gồm tất cả hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ.
Ông Trump phát biểu vào cuối ngày thứ Sáu rằng đội ngũ đàm phán thương mại từ cả hai nước vẫn tiếp tục thương thuyết và sẽ gặp nhau vào tháng 9, nhưng việc tăng thuế đối với hàng hóa Trung Quốc vốn có hiệu lực vào Chủ nhật sẽ không bị trì hoãn.
********************
Trung Quốc "khoe" vũ khí hiện đại trong lễ duyệt binh mừng quốc khánh (RFA, 30/08/2019)
Bộ Quốc phòng Trung Quốc hôm 29/8 cho biết Bắc Kinh sẽ lần đầu tiên giới thiệu những vũ khí hiện đại của mình trong lễ diễu binh mừng 70 năm quốc khánh Trung Quốc vào ngày 1 tháng 10 tới.
222222222222222
Hình minh họa. Diễu binh ở Bắc Kinh hôm 3/9/2015 nhân kỷ niệm 70 năm kết thúc thế chiến thứ hai. AP
Tướng Cai Zhijun, người phụ trách lễ diễu binh, cho báo chí biết tại cuộc họp báo ở Bắc Kinh rằng cuộc diễu binh sẽ bao gồm một số những vụ khí hiện đại nhất chưa từng được ra mắt trước đó. Tuy nhiên ông không xác nhận tên lửa Đông Phan 41 có tầm bắn xa nhất thế giới có được trình diễn lần này hay không.
Trong cuộc họp báo, tướng Cai cũng khẳng định những vũ khí hiện đại này sẽ không nhằm đến bất cứ quốc gia hay khu vực nào hay có mục tiêu hướng đến bất cứ một tình huống cụ thể nào.
"Quân đội Trung Quốc luôn là một lực lượng vững chắc trong việc bảo vệ hòa bình thế giới và ổn định khu vực" tướng Cai nói, đồng thời khẳng định thêm "chúng tôi có quyết tâm và khả năng để kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia, và các lợi ích an ninh phát triển (của Trung Quốc)"
Theo The Straits Times, diễu binh lần này của Trung Quốc sẽ bao gồm hơn 12.000 quân diễu hành qua quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh, cùng với hơn 200 máy bay và 500 xe bọc thép.
The Straits Times trích lời chuyên gia về quân sự Collin Koh thộc Viện Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược thuộc Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore) nhận định việc Bắc Kinh trình diễn những vũ khí hiện đại lần này là nhằm gửi một thông điệp cho không chỉ Hoa Kỳ mà còn cả những nước lân cận.
Trung Quốc hiện đang có tranh chấp về chủ quyền với nhiều nước láng giềng bao gồm Nhật Bản ở biển Hoa Đông và một số nước Đông Nam Á bao gồm Việt Nam ở Biển Đông.
Chiến lược Quốc phòng của Mỹ công bố hồi năm ngoái xác định Trung Quốc là một trong những đối thủ chính của Mỹ cần phải đối phó.
Chiến lược Ấn Độ Thái Bình Dương của Mỹ công bố hồi tháng 6 vừa qua đã chỉ trích Trung Quốc đang quân sự hóa khu vực Biển Đông, bao gồm việc triển khai các tên lửa chống tàu, tên lửa đất đối không tầm xa ra quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đánh giá việc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc nhằm mục đích tăng cường khả năng hoạt động xa hơn bên ngoài biên giới Trung Quốc.
Xin bắt đầu bằng một câu chuyện hoàn toàn có thực. Một gia đình Châu Phi, hình như ở Guinée, mất một con gà. Đây là một biến cố không quan trọng ngay cả đối với một gia đình nghèo. Nhưng hôm sau bà chủ con gà đi chợ gần đó và thấy một người đang bán con gà của mình. Bà đòi lại, gây ra cãi cọ và xô xát. Người phụ nữ này bị thương và quay về gọi làng xóm tới bênh vực. Những người phe kia cũng trở về làng kêu tiếp viện. Kết quả là một cuộc đâm chém dữ dội làm hàng chục người chết. Một biến cố không đáng kể đã tạo ra một thảm kịch khó tưởng tượng. Đó là điều có thể xảy ra trong trường hợp Trung Quốc. Thế giới đang đứng trước một nguy cơ lớn.
Hồng Kông, một biến cố không đáng kể đã tạo ra một thảm kịch khó tưởng tượng. Đó là điều có thể xảy ra trong trường hợp Trung Quốc.
Một trong những hiện tượng lớn nhất trong lịch sử thế giới đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta là sự trỗi dậy kinh ngạc của Trung Quốc. Trong vòng 40 năm, kể từ năm 1978 khi Trung Quốc mở cửa ra với thế giới, tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ 2 USD/ngày đã giảm từ 90% xuống dưới 1%. Nói cách khác hơn một tỷ người Trung Quốc đã thoát cảnh nghèo khổ. Ngày nay từ một quốc gia đáng thương hại Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới, chiếm 1/3 ngoại thương thế giới, xuất khẩu nhiều nhất, nhập khẩu hạng nhì, cạnh tranh với các nước tiên tiến ngay trong cả các kỹ thuật hiện đại nhất. Bẩy trong số mười công ty xây dựng lớn nhất thế giới là của Trung Quốc. Trong ba năm từ 2015 đến 2018 Trung Quốc đã sử dụng một số xi măng lớn hơn tổng số xi măng mà Hoa Kỳ đã sử dụng trong cả thế kỷ 20. Sự hiện diện và ảnh hưởng của Trung Quốc lan tỏa như vũ bão với "sáng kiến Vành Đai và Con Đường" (Belt and Road Initiative). Từ một nước gần như không có hải quân Trung Quốc đã tạo dựng ra một hải quân hùng hậu nhất thế giới về số tầu chiến và số binh sĩ, dù mới chỉ là về lượng, về phẩm còn thua nhiều nước, nhất là Hoa Kỳ.
Trung Quốc vươn lên nhanh đến nỗi thế giới không kịp nhạc nhiên, như lời cố tổng thống Tiệp Vaclav Havel.
Bẫy Thucydides và hiểm họa Hitler
Những tiến bộ đó bình thường phải đáng mừng và đáng khen nhưng đã gây lo âu vì ít nhất hai lý do.
Lý do thứ nhất là Trung Quốc càng mạnh lên càng hung hăng và bày tỏ quá rõ rệt tham vọng làm bá chủ thế giới. Ngay trong Đại hội 18 của Đảng cộng sản Trung Quốc, năm 2012, khi vừa được bầu làm tổng bí thư, Tập Cận Bình đã dùng ngôn ngữ phục thù, tuyên bố phải rửa mối nhục mà Trung Quốc đã phải chịu đựng trong gần hai thế kỷ trước các nước phương Tây. Trong Đại hội 19, cuối năm 2017, ông không chỉ nhắc lại tham vọng đó mà còn đặt ra ba cột mốc : vào năm 2025 Trung Quốc sẽ phải đứng hàng đầu trong mười công nghệ hiện đại, kể cả xe không người lái, robot và kỹ nghệ truyền thông ; năm 2035 Trung Quốc sẽ phải là cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới, hàng Trung Quốc sẽ tràn ngập mọi thị trường ; năm 2049, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc sẽ phải là cường quốc bá chủ hoàn cầu với một quân đội bách chiến bách thắng. Giấc mơ vĩ đại đó đã cuốn hút các đảng viên cộng sản đang hoang mang và khiến tên của Tập Cận Bình được đưa vào điều lệ của Đảng cộng sản và hiến pháp Trung Quốc. Vinh quang này vừa buộc Tập phải quyết tâm thực hiện cam kết vừa khiến thế giới lo sợ.
Nỗi lo sợ này được sử gia Graham Allison, giáo sư Havard, gọi là "bẫy Thucydides" theo tên của Thycydides, người đã sáng lập ra môn sử học cách đây gần 2500 năm, với cuốn sử đầu tiên trên thế giới mang tựa đề "Lịch sử cuộc chiến Penopolese".
"Bẫy Thucydides" là khi một cường quốc mới xuất hiện đe dọa giành vai trò bá chủ của cường quốc đang chế ngự thì chiến tranh là đương nhiên.
Theo Thucydides khi một cường quốc mới xuất hiện đe dọa giành vai trò bá chủ của cường quốc đang chế ngự thì chiến tranh là đương nhiên. Ông viết về cuộc chiến giữa Sparta và Athens đã làm tan nát vùng Cổ Hy Lạp như sau: "chính sự trỗi dậy của Athens đã gây lo âu cho Sparta và khiến chiến tranh không tránh khỏi". Ngày nay, theo Allison, cường quốc dang trỗi dậy là Trung Quốc, cường quốc đang chế ngự thế giới là Hoa Kỳ. Ông liệt kê 16 trường hợp tranh hùng trong 500 năm qua và cho thấy đã có 12 trường hợp đưa đến chiến tranh. Nếu Allison nghiên cứu lịch sử Châu Á chắc chắn ông sẽ thấy một tỷ lệ chiến tranh cao hơn nhiều. Allison đã được mời điều trần tại Quốc hội Mỹ và đã được nhiều nguyên thủ quốc gia tiếp để trình bày nguy cơ xung đột Mỹ - Trung.
Còn một lý do thứ hai đáng lo ngại hơn nhiều, mà ta có thể gọi là hiểm họa Hitler. Đó là Trung Quốc trong khi trỗi dậy một cách thần tốc về kinh tế và quân sự vẫn ngoan cố khẳng định chế độ chuyên chính, phủ nhận mọi giá trị dân chủ và nhân quyền phổ cập. Từ năm 1978, sau khi Đặng Tiểu Bình giành được chính quyền và theo kinh tế thị trường, Trung Quốc đã bỏ lý tưởng thế giới đại đồng của chủ nghĩa cộng sản nhưng vẫn giữ nguyên bản chất độc tài hung bạo của nó. Với Tập Cận Bình, chế độ của Trung Quốc hiện nay không khác gì chế độ Nazi của Hitler trong thập niên 1930 đã dẫn tới Thế Chiến II. Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc (Trung Quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa) chỉ là một tên gọi mới của chủ nghĩa quốc xã Đức.
Thucydides đã nhận định rất đúng nhưng ông đã không có mặt trong nửa sau của thế kỷ 20 để chứng kiến một bước đột phá tư tưởng của nhân loại. Sau Thế Chiến II, trong đó trên một trăm triệu người thiệt mạng, một số trí thức Âu Mỹ đã nhìn ra nguyên nhân chính của chiến tranh là sự coi thường con người, coi con người chỉ là dụng cụ để thực hiện tham vọng quốc gia và vì thế có thể bị hy sinh. Sau hơn ba năm phấn đấu họ đã thuyết phục được đa số các quốc gia chấp nhận bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập như là thành phần của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập này về bản chất cũng là tuyên ngôn dân chủ vì nội dung của nó quy định những quyền con người trong một nước dân chủ. Họ đã nhìn thấy dân chủ là yếu tố cốt lõi để tránh chiến tranh. Và thực tế đã chứng minh họ có lý. Chiến tranh chỉ xẩy ra khi ít nhất một trong hai chế độ lâm chiến là một chế độ độc tài chứ không bao giờ có chiến tranh giữa hai nước dân chủ. Đức và Nhật đã vươn lên rất mạnh mẽ sau Thế Chiến II nhưng đã không làm ai lo sợ vì đã trở thành những nước dân chủ. Trung Quốc là một đe dọa cho nhân loại bởi vì đã mạnh lên nhưng vẫn là một chế độ độc tài ngang ngược không khác chế độ quốc xã của Hitler. Sự ngang ngược được biểu lộ rõ rệt qua sự khuyến khích và giật dây chế độ côn đồ Triều Tiên, những hăm dọa đối với Đài Loan, những khiêu khích đối với Nhật quanh quần đảo Điếu Ngư và nhất là với đường Lưỡi Bò xấc xược trên Biển Đông song song với những hành động thô bạo, gần đây nhất là tại Bãi Tư Chính, trong vùng độc quyền kinh tế của Việt Nam. Mối nguy Trung Quốc ngày càng hiện rõ.
Sợ hay không sợ ?
Sự lo âu thể hiện qua các phát biểu của phần lớn các chuyên gia Phương Tây về Trung Quốc . Họ nhìn thấy một nguy cơ Thế Chiến III mà hậu quả sẽ rất kinh khủng. Giáo sư Graham Allison kêu gọi tập trung trí tuệ, sáng suốt và dũng cảm để lập lại kỳ tích của giai đoạn sau Thế Chiến II trong đó sau một cố gắng quyết liệt, bền bỉ và có phối hợp, một nhóm trí thức lỗi lạc đã thuyết phục được các chính quyền dân chủ liên kết với nhau thành lập ra Liên Hiệp Quốc như một định chế bảo vệ hòa bình trên nền tảng nhân quyền. Riêng Hoa Kỳ, dù chỉ chấp nhận rất trễ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập, cũng đã tận tình giúp Châu Âu phục hồi sau chiến tranh qua kế hoạch Marshall và chủ động liên minh với các nước dân chủ Tây Âu để thành lập Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để đương đầu với sự trỗi dậy của Liên Xô. Do it again! (hãy làm lại như thế) là lời kêu gọi của Allison. Ông không giấu sự lo lắng trước chính sách đơn phương thô lỗ của Donald Trump.
Khá nhiều người, như chuyên gia địa chính George Friedman, coi chiến tranh Mỹ - Trung là khó tránh khỏi và phải chờ đợi nó. Nhiều người khác, như David Brook, chuyên gia ngoại giao Anh từng phục vụ lâu năm tại Trung Quốc và hiện đang giảng dạy về bang giao quốc tế tại London School of Economics, cho rằng Mỹ và các nước dân chủ phải có đủ khôn ngoan để chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc và chia sẻ quyền lãnh đạo thế giới với Trung Quốc, nhất là tại Châu Á, ngay cả nếu phải hy sinh một số giá trị được coi là phổ cập. David Brook còn biện hộ cho thái độ nhân nhượng này bằng cách biện luận rằng văn hóa Trung Quốc thực ra cũng là một văn hóa đa nguyên vì đã cho phép Khổng Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo cùng hiện diện một cách hài hòa ! Thật là nhảm nhí.
Sau cùng cũng có những người như Martin Jacques cho rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là tự nhiên, không thể đảo ngược và giải pháp duy nhất là chấp nhận để Trung Quốc thống trị thế giới. Cũng may là những "chuyên gia" như Martin Jacques không nhiều và họ chỉ được biết đến nhờ được Trung Quốc thổi phồng.
Nói chung các chuyên gia này đều kinh ngạc trước những tiến bộ ngoạn mục của Trung Quốc và đều tin là Trung Quốc sẽ tiếp tục mạnh thêm nhưng họ không đưa ra một lập luận có cơ sở nào để chứng minh niềm tin đó. Họ suy nghĩ theo kiểu đường thẳng nối dài.
Điều đáng lưu ý là phần lớn các chuyên gia gốc Trung Quốc đứng về phía, ngày càng đông đảo, những người cho rằng Trung Quốc đang đi dần tới khủng hoảng và không đáng sợ. Có lẽ vì họ hiểu Trung Quốc hơn. Phe này đưa ra những lập luận chính xác dựa trên những dữ liệu cụ thể.
Trước hết là núi nợ khổng lồ trên 40.000 tỷ USD, 303% GDP theo Bắc Kinh, cao hơn nhiều theo các định chế tài chính quốc tế, trong đó nợ công –gồm nợ chính phủ và nợ của các công ty nhà nước- là trên 200%. Khối nợ này không thể chịu đựng nổi trong một quốc gia mà GDP trên mỗi đầu người chỉ sấp sỉ 8.000 USD mỗi năm. Chính quyền Bắc Kinh đã nhìn thấy nguy cơ và trong mười năm qua đã nhiều lần đưa ra các biện pháp hạn chế tín dụng. Mỗi lần họ đều phải triệt thoái. Như vậy phải hiểu rằng sự nguy ngập của kinh tế Trung Quốc không có giải pháp. Mặt khác tỷ lệ dân số trong tuổi hoạt động đang giảm, giai đoạn dân trẻ đã qua rồi.
Tỷ lệ tăng trưởng 6,2% trong sáu tháng đầu năm 2019, thấp nhất từ 27 năm qua, cũng không đúng. GDP và tỷ lệ tăng trưởng là những con số mà người ta có thể thao tác và đó là điều mà chính quyền cộng sản Trung Quốc đã làm, bằng cách gia tăng đầu tư và chi tiêu công cộng. Và đầu tư để xây dựng những xa lộ không có xe chạy, những đường sắt với một hay hai chuyến tầu mỗi ngày và những thành phố ma. Trung Quốc hiện đang có hơn 70 triệu căn hộ không người ở. Nếu bỏ qua những "đầu tư" không chỉ vô ích mà còn làm mất đất canh tác này thì tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc là một con số âm.
Tuy vậy kinh tế không phải là nguy cơ chính của Trung Quốc. Nguy cơ chính là môi trường đã bị đã bị hủy hoại ở mức độ không thể phục hồi. Cả miền Bắc đã trở thành khô cằn, nhiều nơi gần như bị sa mạc hóa, hậu quả một chính sách tăng trưởng hoang dại bất chấp con người và môi trường. Trong những năm gần đây Bắc Kinh đã có những cố gắng phục hồi môi trường rất lớn và rất đúng nhưng đã quá trễ. Số người Trung Quốc bị ung thư vì ô nhiễm hiện nay tương đương với dân số Hoa Kỳ. Trong lần tham quan Ai Cập mùa hè năm trước tôi đã gặp một cặp vợ chồng người Bắc Kinh đang tìm cách di cư sang Châu Âu hoặc Mỹ. Họ là một trường hợp trong số hàng trăm triệu người khá giả đang tìm cách rời Trung Quốc không phải lý do kinh tế mà vì sợ chết vì ô nhiễm.
Trung Quốc cũng không đáng sợ về mặt quân sự. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc lớn thứ nhì thế giới nhưng vẫn chưa bằng một nửa ngân sách quốc phòng của Mỹ. Chênh lệch lực lượng giữa hai nước đã rất lớn lại ngày một lớn hơn. Số tầu chiến của hải quân Trung Quốc tuy nhiều nhưng khả năng chiến đấu bị tất cả các chuyên gia về quân sự đánh giá là rất kém so với các tầu chiến của Nhật và Đài Loan, chưa nói tới Mỹ, Anh và Pháp. Không quân còn kém hơn. Đã thế 25% chương trình huấn luyện của quân đội Trung Quốc được dành để học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Những người không sợ Trung Quốc gây ra thế chiến hoàn toàn có lý.
Thái độ hung hăng của Trung Quốc trên Thái Bình Dương, nhất là tại Biển Đông Việt Nam, là một sai lầm rất lớn trong cách tiếp nhận di sản lịch sử.
Trung Quốc trong suốt dòng lịch sử hơn 2200 năm dù từng là đế quốc chế ngự vùng Đông Á nhưng vẫn chỉ là một đế quốc địa phương và lục địa chứ chưa hề có tham vọng đại dương. Cho tới gần đây hải quân và thương thuyền Trung Quốc không đáng kể. Kết quả là tuy có hơn 15.000 km bờ biển nhưng Trung Quốc gần như bị vây hãm. Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Philippines, Indonesia, Singapore và Malaysia đều là những đồng minh của khối NATO. Trung Quốc sẽ tức khắc bị phong tỏa nếu xảy ra xung đột. Cách xử lý đúng đắn và bắt buộc di sản lịch sử đó là dân chủ hóa và dứt khoát chọn đường lối phát triển trong hòa bình như Nhật và Đức đã làm (sau một sai lầm bi đát !). Cả hai nước đều không cần có quân đội mạnh nhưng không hề bị cô lập và đã vươn lên mạnh mẽ sau Thế Chiến II. Nếu cũng chọn con đường đó Trung Quốc sẽ đương nhiên trở thành cường quốc số 1 trên thế giới trong trung hạn mà không gây lo ngại cho bất cứ ai, dù có thể phải chấp nhận một mức độ tản quyền lớn, kể cả sự ly khai của một số tỉnh. Bắc Kinh đã chọn chính sách ngược lại, gây tranh chấp để càng bị cô lập. Phải chăng vì Đảng cộng sản Trung Quốc tin rằng mình không thể tồn tại sau một cuộc chuyển hóa về dân chủ ? Sai lầm lớn nhất của các quốc gia là không nhìn đúng để quản lý đúng lịch sử của mình.
Trung Quốc từng là đồng minh của Liên Xô và hiện đang là đồng minh của Liên Bang Nga, nhưng điều ngạc nhiên là Trung Quốc không rút ra bài học Liên Xô. Thành tích tăng trưởng của Trung Quốc không phải là chưa từng có. Sau Thế Chiến II Liên Xô còn vùng lên nhanh hơn. Dù bị tàn phá tan tành, Liên Xô đã chỉ cần khoảng mười năm để vùng lên gần như về mọi mặt để tranh hùng với Hoa Kỳ. Đã chế tạo được bom nguyên tử, đã gửi được phi thuyên lên không gian trước Mỹ và đã đủ giầu mạnh để yểm trợ các đảng cộng sản anh em khắp nơi, kể cả Đảng cộng sản Việt Nam, đã dồn được Mỹ và các nước dân chủ vào thế thủ. Nhưng rồi chính vì đã cố gắng quá sức mà Liên Xô đã gục ngã. Đó là số phận đang chờ đợi chế độ cộng sản Trung Quốc.
Phải sợ gì ?
Tuy vậy chúng ta không thể chia sẻ sự yên tâm của các chuyên gia thuộc phe không sợ. Chúng ta phải sợ Trung Quốc vì một lý do khác và vì chúng ta là người Việt Nam.
Câu chuyện con gà Châu Phi ở đầu bài này cho thấy là một chuyện nhỏ có thể có những hậu quả lớn vì tâm lý con người phức tạp. Tâm lý của của các quốc gia và các thị trường càng phức tạp hơn. Chúng ta vừa có một thí dụ cụ thể. Ngày chủ nhật 04 tháng 8 vừa qua Donald Trump phát đi một tweet nói rằng sẽ đánh thuế 10% trên số hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trị giá 300 tỷ USD bắt đầu từ tháng 9. Thiệt hại tối đa cho Trung Quốc nếu không ai có phản ứng nào cả là 30 tỷ USD. Nhưng hôm sau các thị trường chứng khoán đã sụt giá trên dưới 3% vì đồng Yuan chao đảo. Sau đó các thị trường chứng khoán tiếp tục sụt giá ở mức độ tương tự hai lần nữa. Tính nhẩm thiệt hại cho các thị trường chứng khoán -và tài sản của những người chủ các cổ phần- vào khoảng 10.000 tỷ USD, nghĩa là 300 lần lớn hơn số tiền mà Donald Trump hy vọng thu được từ Trung Quốc.
Chúng ta phải sợ Trung Quốc ít nhất vì hai lý do. Một là Trung Quốc chắc chắn sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế và có thể tan vỡ trong một tương lai gần kéo theo những dao động lớn trên thế giới trong khi nước ta vừa ở gần đám cháy vừa quá lệ thuộc vào ngoại thương. Hai là nếu vì một hành động mị dân trong lúc bối rối Trung Quốc đánh chiếm các đảo Trường Sa còn lại hay một vùng đất biên giới nào đó Việt Nam vừa khó bảo vệ vừa khó lấy lại. Giai đoạn này đang đòi hỏi một chính quyền rất sáng suốt mà rõ ràng là chúng ta không có.
Biến cố lịch sử lớn nhất trên thế giới cho đến nay đã là sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Một đế quốc chuyên chính độc hại với quân lực mạnh thứ hai trên thế giới đã tiêu tan và nhiều dân tộc đã được tự do mà không có đổ máu cũng không khiến thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế. Thật khó tưởng tượng. Điều phải sợ là sự sụp đổ chắc chắn của chế độ cộng sản Trung Quốc có thể sẽ không diễn ra như thế.
Nguyễn Gia Kiểng
(15/08/2019)
Chiến lược gia Trung Quốc kêu gọi người phương Tây cần hiểu rằng sự trỗi dậy thành một cường quốc hải quân một phần là bởi sự bất an sâu sắc
Wu Zhaozong may mắn chứng kiến rõ khi Trung Quốc mở cửa ra thế giới. Khi còn là một cậu bé, ông đã xem ông của mình lái một chiếc xe ngựa qua bến cảng Thiên Tân, trên bờ biển phía bắc Trung Quốc. Những người hàng xóm nghèo, sống trong những ngôi nhà chung sân với bốn gia đình khác, sẽ đi theo xe ngựa để nhặt phân ngựa và than rơi rớt để làm chất đốt. Than cũng như tỏi là những mặt hàng xuất khẩu của Thiên Tân sang Nhật. Tôi rất hiếm khi nhìn thấy xe hơi, ông Wu nhớ lại.
Ngày nay, Thiên Tân là một trong mười cảng đông đúc nhất thế giới và ông Wu là giám đốc điều hành của một công ty tàu biển. Công việc của hãng này bao gồm bảo đảm các tuabin gió khổng lồ trên các tàu cho các đối tác Trung Quốc ở châu Phi. Đầu tuần này, ông Wu đã cho Chaguan quá gianh trên chiếc BMW của mình đến nhà ga hành khách Thiên Tân. Ở đó, ông giám sát các thủy thủ người Philippines mặc đồng phục đang chuyển hàng tươi sống lên tàu du lịch, trước khi chở khách du lịch Trung Quốc giàu có đến Nhật Bản. Những thay đổi ông Wu chứng kiến ở Thiên Tân, cửa ngõ vào Bắc Kinh và các thành phố khác ở miền Bắc Trung Quốc, vừa kịch tính vừa vừa nhanh chóng đến đáng kinh ngạc. Ông Wu, một người cha yêu quý của hai cô con gái nhỏ, chỉ mới 38 tuổi.
Trung Quốc là một cường quốc hướng nội khi ông Wu được sinh ra. Thiên Tân phát triển một phần bằng cách quay ra biển. Bảy trong số mười cảng container lớn nhất thế giới là ở Trung Quốc. Ở nước ngoài, các công ty Trung Quốc vào năm 2018 đã giúp xây dựng hoặc mở rộng 42 cảng biển tại 34 quốc gia, thường là một phần của Sáng kiến Vành đai và Con đường, một kế hoạch cơ sở hạ tầng toàn cầu. Các nhà khai thác Trung Quốc sở hữu phần lớn cổ phần tại các cảng nước ngoài từ Abu Dhabi đến Zeebrugge (Bỉ).
Trong suốt lịch sử lâu đời, Trung Quốc không phải đối mặt với mối đe dọa xâm lược đường bộ. Trái lại với những gì chưa từng có trước đây, sự giàu có của Trung Quốc tập trung ở các khu vực gần biển. Các tỉnh và thành phố ven biển chiếm một phần nhỏ trên cả nước, nhưng tạo ra hơn một nửa GDP. Không có gì đáng ngạc nhiên, Trung Quốc đang phấn đấu trở thành một cường quốc hàng hải. Hải quân Trung Quốc hiện lớn nhất châu Á, được giao nhiệm vụ bảo vệ vùng ven biển, nhưng cũng bảo vệ các tuyến hàng hải vận chuyển 85% khối lượng hàng hóa giao thương, cũng như nhập khẩu năng lượng quan trọng. Hải quân có thể ủng hộ các tranh chấp lãnh thổ bao gồm đảo Đài Loan và gần như toàn bộ Biển Đông. Nhiệm vụ hải quân cuối cùng liên quan đến việc từ chối các tàu chiến Mỹ tiếp cận tự do với các vùng biển "các quần đảo đầu tiên", quần đảo bao quanh bờ biển Trung Quốc, bao gồm Nhật Bản và các đảo phía nam, Đài Loan và Philippines.
Cách đây không lâu, Trung Quốc đã yêu cầu đế quốc Mỹ điều hành các căn cứ quân sự nước ngoài. Năm 2017, Trung Quốc đã mở một căn cứ hải quân ở nước ngoài tại quốc gia châu Phi Djibouti. Các khoản đầu tư thương mại của Trung Quốc vào các cảng quanh Ấn Độ Dương hoặc Nam Thái Bình Dương giờ đây thường xuyên đặt ra những câu hỏi gay gắt từ Mỹ, Úc và các cường quốc phương Tây khác vì lợi ích an ninh ở Thái Bình Dương, liệu Trung Quốc có sắp mở cửa một căn cứ khác. Vào cuối tháng 6, một quan chức Lầu Năm Góc cao cấp đã viết thư cho chính phủ Campuchia, bày tỏ lo ngại về Ream- căn cứ quân sự lớn nhất Campuchia- có thể sẽ sớm đón nhận khí tài quân sự Trung Quốc. Campuchia từ chối các kế hoạch này, mặc dù họ nhận ngập tràn tiền Trung Quốc.
Nhiều người Trung Quốc bình thường khăng khăng rằng Trung Quốc chỉ có lỗi là phát triển nhiều khiến phương Tây sợ hãi. "Trong lịch sử dân tộc, chúng tôi chưa bao giờ là một quốc gia hung hăng", ông Wu ở Thiên Tân nói, mặc dù ông chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ tự vệ nếu bị tấn công.
Người Mỹ chế giễu những điều bảo đảm như vậy, điều mà họ thường nghe từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Họ chỉ ra những hành động của Trung Quốc như xây dựng các căn cứ không quân và pin tên lửa trên các rạn san hô đang tranh chấp ở Biển Đông và thấy sự tự tin vênh vang và muốn gây hấn.
Các chiến lược gia Trung Quốc kêu gọi người phương Tây hiểu rằng họ tăng cường hàng hải là vì sự bất an sâu sắc. Họ nói Trung Quốc không được ban tạo về địa lý, như bị nguyền rủa. Họ có phần đúng. Trong "Ngôi sao đỏ trên Thái Bình Dương", một cuốn sách có ảnh hưởng về tham vọng hàng hải của Trung Quốc, Toshi Yoshihara và James Holmes, hai học giả hải quân, lưu ý rằng Tổng thống Dwight Eisenhower đã xem chuỗi đảo đầu tiên là phương tiện để Mỹ và đồng minh chiếm Trung Quốc, một quan điểm mà nhiều người ngưỡng mộ Trung Quốc chia sẻ. Cuốn sách trích dẫn một chiến lược gia quân sự người Trung Quốc gọi Đài Loan, tại trung tâm chuỗi xích, là "một khóa tròng cổ con rồng vĩ đại". Quyển sách mô tả nỗi sợ hãi ngột ngạt của các nhà hoạch định Trung Quốc khi họ chiêm ngưỡng những con đường dẫn ra đại dương đi qua các điểm hẹp giữa Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Philippines, hoặc qua eo biển Malacca gần Singapore. Trung Quốc có 14 quốc gia láng giềng trên cạn. Nước Mỹ ghen tị với họ vì chỉ có hai quốc gia láng giềng thân thiện và đại dương bao la cho mỗi bên hông.
Địa lý Mỹ dưới mặt nước thậm chí còn may mắn hơn, theo Owen Côte thuộc Viện Công nghệ Massachusetts, trong một nghiên cứu mới trong Bản tin của các nhà khoa học nguyên tử. Ông viết kể từ sau chiến tranh lạnh, Mỹ đã theo dõi thành công các tàu ngầm nước ngoài bằng các mảng âm thanh được đặt ở nơi các thềm lục địa tiếp nối đại dương. Các đồng minh châu Á cho Mỹ đặt các thiết bị để phát hiện tàu ngầm Trung Quốc đang tiến ra đại dương qua ngả Nhật Bản, Đài Loan hoặc Philippines. Những hạn chế về địa lý, ví dụ như của vùng biển cạn bên trong, khiến Trung Quốc khó có thể xây dưng các thiết bị tương tự.
Mối quan hệ ràng buộc
Hu Bo, một chiến lược gia hải quân nổi tiếng tại Đại học Bắc Kinh, cho rằng Trung Quốc có thể cần thêm hai căn cứ quân sự ở nước ngoài giữa Djibouti và Biển Đông, bởi vì Djibouti sẽ ở quá xa "khi chúng ta gặp tình huống chiến tranh khẩn cấp". Trong khi Mỹ giành được nhiều căn cứ bằng các cuộc chiến tranh thế giới, Trung Quốc phải tìm kiếm các căn cứ thông qua các cuộc đàm phán kín đáo. Một số nơi có thể chủ yếu là thương mại trong thời bình, ông gợi ý. Trung Quốc ngày càng có "nhiều lợi ích lớn ở nước ngoài". Điều đó dọn đường hợp tác với các quốc gia khác, nhưng cũng có những lỗ hổng. Ông Hu nói rằng đây sẽ là một "nhiệm vụ tự sát" của Trung Quốc về bất kỳ hành động nào có thể gây ra một cuộc phong tỏa ở vùng biển gần biển của họ cho dù là do Mỹ hay các cường quốc hàng hải khác. Đó là một lập luận trấn an kỳ lạ, ít nhất là đối với thế giới. Trong địa chính trị, nếu không phải là địa lý, cảm giác dễ bị tổn thương có thể là một sự may mắn.
Nguồn : China’s maritime expansion reflects a curious mix of ambition and paranoia, The Economist, 04/07/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 08/07/2019
Các nhóm thân Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động ở Đài Loan để thúc đẩy việc hợp nhất đảo quốc này với đại lục, theo Reuters.
Người biểu tình tại Đài Loan hôm 23/6/2019 yêu cầu các công ty truyền thông Trung Quốc rút khỏi Đài Loan
Khi doanh nhân người Đài Loan Jhang Yun-nan muốn tìm khách hàng cho các sản phẩm làm sạch mới của công ty mình tại Trung Quốc, ông đã tìm tới một kênh trái với thông lệ : Một đảng của người Đài Loan ủng hộ việc thống nhất với Trung Quốc.
Một thành viên cao cấp của Đảng Xúc tiến Thống nhất Trung Quốc (CUPP) cho biết đảng này sẽ 'có lời' với các quan chức từ Cục Quản lý Thị trường Quảng Đông để giúp Công ty Công nghệ sinh học Yi Yuan Ji có trụ sở tại Trung Quốc của ông Jhang - với một điều kiện.
Thành viên đảng này, ông Lin Guo-cing nói với ông Jhang trước sự chứng kiến của Reuters rằng "một hệ tư tưởng đúng đắn" là cần thiết để kinh doanh tại Trung Quốc.
"Tôi ủng hộ sự thống nhất ôn hòa trên eo biển này", ông Lin nói với Reuters, lặp lại quan điểm của CUPP rằng họ trông đợi những người Đài Loan mà đảng này đang hợp tác sẽ nắm lấy cơ hội.
Trung Quốc coi Đài Loan là một tỉnh cứng đầu, cần phải nằm dưới sự kiểm soát của Bắc Kinh, bằng vũ lực nếu cần thiết.
Để hỗ trợ cho việc thống nhất đất nước, Bắc Kinh đang xây dựng mạng lưới những người ủng hộ ở Đài Loan và tăng cường các chiến dịch nhằm thu hút người Đài Loan với các cơ hội kinh doanh sinh lợi để đổi lấy chương trình nghị sự của Bắc Kinh.
Chìa khóa của họ là thuyết phục các doanh nhân như ông Jhang rằng chấp nhận lập trường nói trên là một cái giá nhỏ để trả cho việc tiếp cận thị trường Trung Quốc và các hỗ trợ khác.
Một cách khác là sử dụng các mạng lưới ủng hộ Bắc Kinh để tạo dựng thiện cảm và hỗ trợ cho đại lục ; Wen Lung, cố vấn chính sách của CUPP, cho biết CUPP có kế hoạch tổ chức các cuộc hội thảo và các cuộc nhóm họp tại Đài Loan để mở rộng 'đội quân' của mình.
Nông dân Đài Loan 31 tuổi Jhang Hong-si, trước đây từng lưỡng lự làm việc tại Trung Quốc, nay đã là nhân viên kỹ thuật trong một dự án của Trung Quốc
Chính phủ Đài Loan cho biết những nỗ lực như vậy là nguy hiểm - nhưng không phải là bất hợp pháp.
"Chỉ bằng cách củng cố luật pháp của mình, chúng tôi mới có thể củng cố hệ thống an ninh quốc gia của chúng tôi", ông Chiu Chui-cheng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đài Loan, nói với Reuters.
Các cơ quan chính phủ của Trung Quốc được triển khai bao gồm Văn phòng các vấn đề Đài Loan và Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất, nhằm thống nhất Đài Loan thông qua việc đồng tham gia với các tổ chức địa phương và tiến hành các hoạt động ảnh hưởng chống lại các chiến dịch ở nước ngoài đi ngược lại chương trình nghị sự của Trung Quốc.
Các tài liệu nội bộ của hai cơ quan của Trung Quốc mà Reuters được tiếp cận, bao gồm các báo cáo công việc hàng năm và biên bản cuộc họp, cho thấy một chiến dịch tập trung vào các tổ chức thân Trung Quốc ở Đài Loan, được mô tả là một trọng tâm ưu tiên.
"Chúng tôi sẽ tiếp tục tăng cường hỗ trợ cho các nhóm và nhân vật ủng hộ thống nhất ở Đài Loan, để củng cố và tăng cường lực lượng 'chống độc lập' trên đảo", báo cáo công tác năm 2016 của Văn phòng Các vấn đề Đài Loan ở Thượng Hải cho hay.
Tại tỉnh láng giềng Chiết Giang, một văn phòng thuộc Mặt trận Thống nhất cho biết trong một báo cáo nội bộ năm 2016 rằng họ có liên hệ mật thiết với các đảng tại Đài Loan thông qua 'thư mời hoạt động' cho các chương trình kinh tế và văn hóa ở đại lục.
Trong chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 4/2016, Liên minh thống nhất Trung Quốc có trụ sở tại Đài Bắc đã được đánh giá rất cao bởi một quan chức cấp cao của Trung Quốc vì đã thúc đẩy công việc thống nhất đất nước, theo một báo cáo từ Liên minh Dân chủ Tự trị Đài Loan, một trong số ít các nhóm chính trị độc lập trên danh nghĩa được cấp phép ở Trung Quốc.
"Nước nào trên thế giới này sẽ đối xử tốt với bạn (như Trung Quốc) ? Tôi thà là một mục tiêu của Mặt trận Thống nhất còn hơn. Ít nhất là họ quan tâm đến bạn, bất kể họ có chân thành hay không", ông Lin nói. Ông Lin đã gia nhập Hiệp hội hữu nghị hải ngoại Trung Quốc, liên kết với Mặt trận Thống nhất, vào tháng 10/2018.
Các tài liệu mà Reuters được tiếp cận không cho thấy bất kỳ hợp tác tài trợ nào giữa các tổ chức như vậy và chính phủ Trung Quốc, nhưng các liên kết tiềm năng đã gây lo ngại ở Đài Bắc.
Hai quan chức làm việc tại một cơ quan an ninh của chính phủ Đài Loan, người từ chối nêu tên do tính nhạy cảm của vấn đề, cho biết các nhóm này là mối đe dọa đối với Đài Loan.
Một nguồn tin từ cơ quan an ninh Đài Loan, người từ chối nêu tên, cho biết CUPP đứng đầu danh sách theo dõi tại cơ quan của ông vì quy mô của tổ chức này - 60.000 thành viên - và khả năng huy động lực lượng.
'Chúa của chúng tôi là Trung Quốc'
Ông Chang An-lo, có biệt danh là 'Sói Trắng', lãnh đạo Đảng Xúc tiến Thống nhất Trung Quốc chụp ảnh trước lá cờ Trung Quốc đại lục hôm 2/5/2019
Nhà của lãnh đạo CUPP Chang An-lo và trụ sở của đảng này ở Đài Bắc bị chính quyền Đài Loan đột kích hồi tháng 8/2018 vì nghi ngờ nhận tài trợ từ Trung Quốc, một cáo buộc mà họ phủ nhận. Ở Đài Loan, việc các nhóm chính trị lấy tiền từ chính phủ Trung Quốc là bất hợp pháp.
Không ai bị buộc tội sau cuộc đột kích.
Chang, trong một cuộc phỏng vấn với Reuters ở Đài Bắc, cho biết ông không lấy tiền từ Trung Quốc. Nhưng ông nói rằng điều quan trọng đối với Đài Loan là tái thống nhất với đại lục.
"Chúa của chúng tôi là Trung Quốc", Chang An-lo nói khi ngồi trong phòng làm việc của ông, nơi có một bức tượng vàng cựu lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình.
Về tinh thần, họ chắc chắn ủng hộ chúng tôi, nhưng không phải về mặt vật chất.
Ông và những người ủng hộ thống nhất khác nói rằng họ đã nhìn thấy một cơ hội để có được ảnh hưởng sau khi Tổng thống Đài Loan Thái Văn Anh thất bại trong cuộc khảo sát gần đây, trong bối cảnh người dân thất vọng về chính sách kinh tế.
Zhang Xiuye, một thành viên cao cấp của Đảng Người Trung Quốc Yêu nước có trụ sở tại Đài Bắc cho biết ưu tiên của họ trong năm nay là mang đến các vùng nông thôn thông điệp 'một quốc gia, hai chế độ', một mô hình tự trị cho Đài Loan, tương tự mô hình của Hong Kong.
Giới trẻ
Các nhóm ủng hộ Trung Quốc nhấn mạnh mục tiêu thúc đẩy các cơ hội kinh doanh cho thanh niên Đài Loan ở phía nam của đảo này. Đây là một nhóm được 'ưu tiên hàng đầu' trong các tài liệu từ các cơ quan của chính phủ Trung Quốc.
Theo một báo cáo của Văn phòng Các vấn đề Đài Loan tại Trung Quốc mà Reuters được tiếp cận, hơn 70 doanh nghiệp nhắm mục tiêu vào các công ty khởi nghiệp Đài Loan đã được thiết lập trên khắp Trung Quốc vào năm 2016. Các doanh nghiệp này được hưởng các đặc quyền như giảm thuế.
Nỗ lực này đã góp phần vào mối quan hệ gần gũi và thân thiết hơn giữa người dân ở Bắc Kinh và Đài Loan.
Ước tính 2 triệu người Hồng Kông xuống đường biểu tình chống Dự luật dẫn độ, vào chủ nhật 16/6/2019, và các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục được diễn ra cho thấy sách lược "một quốc gia hai thể chế" đã hoàn toàn thất bại.
Đây là dịp để chúng ta xem xét lại toàn cảnh Hồng Kông để thấy hệ quả có thể là một Trung Quốc chia năm xẻ bảy.
Năm 1992, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Chính sách Mỹ cho Hồng Kông một quy chế đặc biệt tự do và tự trị tách biệt từ Trung Quốc.
Vì sao Anh trao trả Hồng Kông cho Bắc Kinh ?
Theo Điều ước Nam Kinh ký năm 1842 nhà Thanh vĩnh viễn nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc.
Sau đó năm 1860, theo Điều ước Bắc Kinh lại nhượng vĩnh viễn bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu.
Đến năm 1898, Anh Quốc lại thuê đảo Lạn Đầu và một số vùng phía bắc Cửu Long trong vòng 99 năm để lập ra khu Tân Giới.
Năm 1982, Anh Quốc ban đầu định giữ đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long, còn trao trả phần còn lại cho Trung Quốc nhưng bị Đặng Tiểu Bình bác bỏ.
Ông Đặng hứa sẽ đối xử với Hồng Kông như một lãnh thổ tự trị tiếp tục duy trì thể chế tự do, chỉ ngoại giao và quân sự thuộc quyền kiểm soát Bắc Kinh.
Lời ông Đặng hứa được coi là sách lược "một quốc gia, hai thể chế".
Năm 1984, Tuyên bố chung Trung-Anh ra đời, Hồng Kông thành đặc khu hành chính thuộc Trung Quốc, nhưng duy trì phương thức sinh hoạt tự trị trong ít nhất 50 năm.
Phía Anh Quốc tin vào lời hứa và nghĩ rằng sau cải cách kinh tế Trung Quốc sẽ tiến hành cải cách chính trị, như tiến trình dân chủ hóa tại Đài Loan và Nam Hàn, nhưng điều này đã không hề xảy ra.
Ngày 4/6/1989, Trung Quốc nổ súng tàn sát Phong Trào dân chủ tại Thiên An Môn.
Năm 1990, mặc dù bị Bắc Kinh phản đối, Thống đốc Chris Patten đã phê chuẩn Bộ Luật Cơ bản và cải cách phương pháp bầu cử vào Hội đồng Lập pháp Hồng Kông.
Chuyển giao êm thắm
Trước đây, Thống đốc Hồng Kông được Nữ Hoàng bổ nhiệm, nhưng cư dân Hồng Kông có cuộc sống hoàn toàn tự do.
Luật pháp Hồng Kông được xây dựng dựa trên Luật pháp Anh mọi quyền tự do đều được bảo đảm.
Hồng Kông là một thương cảng tự do và mở cửa hấp thu tư tưởng từ khắp nơi trên thế giới.
Kết quả chuyển giao tốt hơn mọi dự đoán, tới ngày trao trả 1/7/1997, chỉ hơn 10% cư dân rời bỏ Hồng Kông, và sau đó không xảy ra một làn sóng thuyền nhân chạy trốn cộng sản như trường hợp Việt Nam.
Thời gian đầu sinh hoạt chính trị Hồng Kông có phần cởi mở. Nhưng càng ngày mọi sinh hoạt chính trị càng bị kiểm soát và bị lèo lái bởi Bắc Kinh, làm dân Hồng Kông lo ngại các quyền tự do cơ bản của họ sẽ bị Bắc Kinh tước đoạt dần dần.
Năm 2003, nửa triệu người tham gia biểu tình tuần hành phản đối Dự luật an ninh "chống lật đổ chính quyền" do Đặc Khu Trưởng Đổng Kiến Hoa (Tung Chee hwa) đề xuất.
Người biểu tình lo ngại Dự luật tước đi quyền tự do biểu lộ chính kiến, tự do ngôn luận và cả tự do tôn giáo, buộc Đổng Kiến Hoa phải hủy bỏ và sau đó từ chức.
Thời đại Tập Cận Bình
Đầu năm 2014, Quốc hội Trung Quốc tuyên bố Đặc khu trưởng sẽ do 1.200 đại cử tri bầu và phải được Bắc Kinh bổ nhiệm.
Một cuộc trưng cầu dân ý trên mạng được mở ra đòi hỏi người Hồng Kông được quyền trực tiếp bầu Đặc khu trưởng. Trong ba ngày đã có gần 600 ngàn người tham dự ký tên.
Phong trào mở thêm 15 phòng bỏ phiếu với kết quả 787 ngàn người bỏ phiếu trong số 3,5 triệu người có quyền đi bầu.
Sau đó Phong trào dù vàng dấy lên cuộc biểu tình đòi tự do bầu cử, làm tê liệt Hồng Kông trong vòng hai tháng, nhưng Tập Cận Bình dứt khoát không chấp nhận.
Năm 2017, bà Carrie Lam được bổ nhiệm làm Đặc khu trưởng, vào tháng 11/2018, bà đã cùng Ban cố vấn bay sang Bắc Kinh để gặp Tập Cận Bình.
Theo tin Tân Hoa Xã, ông Tập cho biết Hồng Kông phải ban hành các đạo luật an ninh quốc gia chống lại nổi loạn, lật đổ, ly khai và phản quốc.
Dự luật dẫn độ
Nhân vụ án giết người ở Đài Loan nhưng thủ phạm lại bỏ trốn về Hồng Kông, bà Carrie Lam đề nghị Dự luật dẫn độ cho phép đặc khu trưởng ký chấp nhận yêu cầu dẫn độ sang Đài Loan và Trung Quốc, mà không cần thông qua Hội đồng Lập pháp.
Có ý kiến nên gia tăng quyền tư pháp để những vụ án xảy ra bên ngoài Hồng Kông có thể được xử bởi tòa án Hồng Kông.
Chính phủ Đài Loan công khai biểu lộ lo lắng về quyền tự do của người Hồng Kông bị lạm dụng nên không đòi hỏi và cũng không chấp nhận việc dẫn độ về Đài Loan.
Bà Carrie Lam từ chối mọi đề nghị làm dấy lên dư luận Trung Quốc lợi dụng vai trò của đặc khu trưởng để giới hạn dần quyền tự do người Hồng Kông, họ lo sợ bị ghép tội, bị bắt bớ và bị xử không công bằng như vẫn thường xảy ra ở Trung Quốc.
Mỹ can thiệp ?
Thủ tướng Anh Quốc Theresa May đã lên tiếng phản đối dự luật dẫn độ và tuyên bố sẽ xem xét lại Tuyên Bố Chung Anh-Trung năm 1984.
Năm 1992, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Chính sách Mỹ cho Hồng Kông một quy chế đặc biệt tự do và tự trị tách biệt từ Trung Quốc.
Nhờ thế, Hồng Kông tiếp tục được chuyển giao công nghệ tiên tiến, tự do thương mãi, tự do trao đổi giữa tiền Mỹ và tiền Hồng Kông, công nhận là trung tâm tài chính thế giới…
Đạo luật trao cho Tổng thống quyền ban hành sắc lệnh trừng phạt nếu Hồng Kông mất quyền tự trị đầy đủ theo các điều khoản trong Tuyên bố Chung 1984.
Trong hoàn cảnh hiện nay một sắc lệnh như thế sẽ ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế, công nghệ và tài chính Trung Quốc vốn đang trên đà tụt dốc.
Mọi hàng hóa từ Hồng Kông xuất cảng sang Mỹ bị cùng một mức thuế như hàng Trung Quốc.
Trung Quốc sẽ mất trung tâm tài chính Hồng Kông, vốn đầu tư sẽ bị rút khỏi Hồng Kông, các công ty Trung Quốc sẽ bị phong tỏa tài chính từ nguồn tư bản của Mỹ và giá trị của các tập đoàn nhà nước được niêm yết trên sàn Hồng Kông sẽ sụt giảm thảm hại.
Ngày 12/6/2019, Quốc hội Mỹ cho tu chính đạo luật về Hồng Kông năm 1992, yêu cầu Bộ Ngoại Giao mỗi sáu tháng phải phúc trình Quốc hội về tình trạng tự trị của Hồng Kông, xem còn đáng hưởng quy chế đặc biệt nữa không.
Biểu tình bài học cần rút tỉa…
Ngày 14/6/2019, từ trung tâm giam giữ Lục Chi Giác, Joshua Wong (Hoàng Chí Phong) kêu gọi Mỹ phải đánh giá lại Đạo luật Chính sách Hồng Kông năm 1992, xem xét Đạo luật Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông và điều chỉnh quan hệ giữa hai bên Mỹ-Trung.
Dân chúng Hồng Kông đều biết nếu Mỹ phong tỏa kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, nhưng vì tự do và dân chủ họ chịu hy sinh quyền lợi kêu gọi Chính phủ và Quốc hội Mỹ hành động.
Mọi người tham dự biểu tình có chung mục tiêu là phản đối dự luật dẫn độ, đòi bảo đảm quyền tự do và đòi bà Carrie Lam từ chức.
Mọi người quyết giữ những mục tiêu này không cho bất cứ ai đại diện thương lượng hay tìm cách chia rẽ hàng ngũ và tránh việc chưa thành đã tranh giành thành quả.
Cuộc tuần hành lên đến 2 triệu người, không có người tổ chức nhưng lại được tổ chức một cách toàn hảo nhờ ý thức trách nhiệm của mọi người.
Họ tự động sửa soạn mọi thứ, thay vì dựa vào người khởi xướng, tổ chức hay lãnh đạo và liên kết gắn bó với nhau.
Mọi người nhịp nhàng kết hợp giữa đấu tranh ôn hòa và đấu tranh bạo lực, không tranh cãi về phương cách đấu tranh.
Khi cảnh sát tấn công đàn áp người ôn hòa rút xuống phía dưới nhường chỗ cho những thanh niên sẵn sàng đối đầu ngăn chặn cảnh sát.
Lực lượng cảnh sát ít lại bị chia mỏng so với số người biểu tình, với sự hổ trợ của truyền thông báo chí, của những người không đi biểu tình nên kết quả nhà cầm quyền phải thối lui.
Mặc dù bà Carrie Lam đã xin lỗi và tuyên bố hoãn Dự luật dẫn độ nhưng mọi người tiếp tục đòi bà phải từ chức và kêu gọi tiếp tục biểu tình làm áp lực.
Nếu bà từ chức sẽ là một thất bại vô cùng to lớn cho Tập Cận Bình trước các đối thủ trong đảng cộng sản và trước thế giới, vì thế ông Tập sẽ không chấp nhận ngay cả khi bà Carrie Lam thực sự muốn từ chức.
Trung Quốc đang tan rã ?
Tập Cận Bình vừa ngon ngọt "một quốc gia, hai thể chế" với Đài Loan, lại vừa hăm dọa sẽ sử dụng vũ lực để thống nhất đất nước.
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn tuyên bố Đài Loan ủng hộ Hồng Kông, bà cho biết :
"Tự do là một giá trị mà người dân Đài Loan trân trọng, Đài Loan đang ngày càng tự do dân chủ hơn, trong khi Hồng Kông đang mất dần tự do…"
Chủ nhật vừa qua trước Quốc hội Đài Loan, khoảng 10 ngàn người biểu tình mang theo biểu ngữ "Đài Loan ủng hộ Hồng Kông", "Nói không với luật dẫn độ sang Trung Quốc" và kêu gọi Quốc hội chính thức ra tuyên bố lên án Dự luật dẫn độ.
Gần đây, Mỹ thông qua "Đạo luật Bảo đảm Đài Loan 2019", ủng hộ Đài Loan tăng chi tiêu quốc phòng, thường xuyên bán vũ khí, công cụ quốc phòng cho Đài Loan, ủng hộ Đài Bắc tham gia các tổ chức quốc tế, nhìn nhận Đài Loan là quốc gia và sử dụng Quốc kỳ Đài Loan.
Lời hứa "một quốc gia, hai thể chế" không được thực hiện nên Hoa Kỳ cũng đang từng bước nhìn nhận lại Đài Loan và Hồng Kông như hai thể chế độc lập.
Nhà Thanh đã nhường vĩnh viễn đảo Hồng Kông, bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu cho Anh Quốc, nên nhiều người Hồng Kông muốn thành phố của họ quay về với nước Anh và được độc lập từ Trung Quốc.
Thế giới cũng đang rất quan tâm đến hàng triệu người Tân Cương đang bị giam trong các trại tù ở Trung Quốc.
Tình hình an ninh và chính trị Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông và nhiều nơi khác cũng không được ổn định, vì thế Bắc Kinh phải thiết lập cả hệ thống an ninh dùng công nghệ tối tân kiểm soát toàn bộ xã hội và kiểm soát ý thức chính trị của người dân.
Quốc hội Mỹ hiện đang xem xét chế tài các công ty cộng tác với Bắc Kinh trong việc đàn áp nhân quyền.
Quá trình nhanh chóng sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô trước đây dường như đang tái diễn.
Các tiền đồn xã hội chủ nghĩa cuối cùng, bao gồm Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam… đang bộc lộ những khủng hoảng khó có thể thoát qua.
Hồng Kông, Đài Loan, Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông… sẽ đứng lên giành lại tự do và độc lập.
Thế giới và nhất là Việt Nam sẽ thanh bình thoát khỏi tham vọng bá chủ toàn cầu của Tập Cận Bình và nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh.
Melbourne, Úc Đại Lợi, 24/06/2019
Nguyễn Quang Duy
Thế giới đang chứng kiến chiến cuộc Hoa Kỳ - Trung Quốc : Một cuộc chiến giữa kinh tế thị trường và Kinh tế phi thị trường ; Một cuộc chiến "vô tiền khoáng hậu" chưa từng được biết đến trong 50 năm qua !
Hình minh họa. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình-AFP
Giữa chiến cuộc đang dâng cao với nhiều dấu hiệu thật căng thẳng và vô cùng quyết liệt, "chủ nghĩa dân tộc" được Trung Quốc tiếp tục sử dụng dưới tên "Vạn Lý Trường Chinh Mới" [1] do ông Tập Cận Bình "kêu gọi người dân nước này chuẩn bị cho thời kỳ khó khăn".
Thế giới sững sờ [2] trước những "bàn chải chà cầu" và "giấy vệ sinh" in hình Tổng thống D. Trump được sản xuất tại Trung Quốc. Điều đó chỉ làm cho "văn hóa rực rỡ" 5.000 của người Trung Hoa thêm phần "chói lọi" hơn là tính thiết thực, giúp cho nhà cầm quyền Trung Quốc đang "đau đầu bạc tóc" kiếm tìm giải pháp khả dĩ.
Sự giàu có về vật chất của người Trung Hoa, không hề giúp ích họ hành xử văn minh hơn với sự tôn trọng cần có của thế giới.
Dù Trung Quốc đứng hạng nhì thế giới về kinh tế, nhưng đứng áp chót khi xếp hạng tự do báo chí (!).
Người dân được sinh ra để sống và để mưu cầu hạnh phúc, không phải để đi gây chiến - đó là chân lý. Chính điều này đã phủ định hoàn toàn khái niệm "chiến tranh nhân dân", vốn chỉ có những quốc gia độc đảng toàn trị, lừa dối người dân luôn sử dụng, mỗi khi cần đến "đám đông ô hợp" dưới tên gọi "lòng yêu nước nồng nàn", nhưng thực chất chỉ thể hiện một sự cuồng nộ mù quáng và điên tiết, nhưng lại không hiểu được "mình phải có thế nào người ta mới thế chứ" như lời của ông Nguyễn Phú Trọng đang văng vẳng bên tai Chủ tịch Tập (!).
Điều tồi tệ hơn của "chiến tranh nhân dân" gây ra, một khi "tàn chiến cuộc", nó để lại một quốc gia xác xơ về nhân cách với lòng thù hận ngút ngàn và sự chia rẽ xã hội trầm trọng ! Điều này đã được lịch sử thế giới chứng minh mà Việt Nam là một trong số đó. Thật đáng sợ, khi chiến cuộc trôi qua, Việt Nam vẫn đang vật vã kiếm tìm sự bình an trong xã hội cùng sự "thống nhất nhân tâm" suốt hơn 44 năm qua như "bóng chim tăm cá"(!).
Liệu người Trung Hoa có giật mình với "nhân tâm ly tán" kinh khủng, từ cái gọi là "chiến tranh nhân dân" đã gây ra cảnh "nồi da xáo thịt", không chỉ với "người anh em ruột" mang tên Đài Loan mà ngay cả trong lòng thủ đô Bắc Kinh với Thiên An Môn, mà cho đến nay, 30 năm qua, nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn xem là điều nghiêm cấm tuyệt đối, nếu ai đó muốn nhắc lại công khai !
Nhà cầm quyền Trung Quốc cần nghiêm túc nhìn lại khái niệm "chiến tranh nhân dân" để đừng đẩy người dân Trung Hoa lao vào cơn "đại hồng thủy" đang chực chờ hiển hiện, bởi họ không gây ra thảm cảnh đó !
"Chiến tranh nhân dân" vốn không mỹ miều như tên gọi, bởi nó vắt cạn kiệt "nội lực nhân dân" nhằm phục vụ cho kẻ cai trị !
Trung Quốc gia nhập WTO chính thức vào ngày 20/1/2002, sau 15 năm đàm phán và chuẩn bị đầy cam go.
Hơn mười bảy năm qua, Kinh tế thị trường dành cho Kinh tế phi thị trường quá nhiều "đặc ân" và sự "sủng ái" đầy hào sảng, thế cho nên, Trung Quốc mau chóng trở thành :
+ Nước xuất khẩu và nhập khẩu thuộc hàng đầu thế giới.
+ Thành viên nòng cốt trong hệ thống thương mại đa phương toàn cầu.
+ Quốc gia sản xuất và tiêu thụ xe hơi nhiều nhất hành tinh.
+ Đối trọng của Hoa Kỳ trong kinh tế thương mại.
+ Nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, khi vượt qua Nhật Bản.
Và còn nhiều lãnh vực tiến bộ vượt bậc khó chối cãi, đặc biệt trong lãnh vực công nghệ thông tin.
Dù là như vậy, nhưng thật đáng tiếc, cho đến nay Trung Quốc vẫn chưa được Hoa Kỳ và phương Tây công nhận có nền kinh tế thị trường !
Khi được là thành viên WTO, nhiều quốc gia hy vọng Trung Quốc hành xử văn minh hơn, trên mọi lãnh vực để xứng đáng là đất nước "đứng giữa thiên hạ", góp phần lớn lao cho một thế giới, cần hòa bình để phát triển thay vì thủ đoạn thấp kém và hận thù khôn nguôi...
Trong một bài báo vào tháng 4/2018 đăng trên Foreign Affairs do trang Nghiên Cứu Biển Đông chuyển ngữ [3], đại diện thương mại Hoa Kỳ đã khẳng định "Mỹ đã sai lầm khi để Trung Quốc gia nhập WTO - là các cam kết mà Trung Quốc đưa ra vào năm 2001, không bao hàm tất cả các hành vi gây lo ngại hiện nay. Cả nghi thức gia nhập WTO của Trung Quốc lẫn cấu trúc của tổ chức này vào năm 2001 đều không đủ để bảo đảm hành vi kinh tế lý tưởng của Trung Quốc trong những thập kỷ sau đó..".
Có lẽ nhận định trên đã đủ trả lời cho câu hỏi [4] "Tại sao Trung Quốc hăng hái cải tổ WTO trong khi Mỹ muốn từ bỏ ?".
Ngày 22/5/2019, đài VOA cho hay [5] : "Đại diện Thương mại Mỹ Robert Lighthizer sẽ gặp giới chức từ Liên hiệp Châu Âu và Nhật tại Paris vào ngày 23/5 để bàn về các nỗ lực chung giải quyết các chính sách và cách hành xử phi thị trường của các nước khác... Cuộc họp dự kiến sẽ chủ yếu tập trung về các chính sách bao cấp của nhà nước Trung Quốc...".
Ngày 3/6/2019, Tổng thống D. Trump viếng thăm cấp quốc gia đến Anh Quốc - một quốc gia hùng cường đứng trong hba Liên Hiệp Quốc và cả trong WTO.
Phải chăng chuyến công du của Tổng thống D.Trump nhằm tiếp tục khẳng định Hoa Kỳ có quá nhiều "đồng chí" trước một nhà cầm quyền cộng sản vốn luôn đầy đủ "tình đồng chí" nhưng thật "dị hướng" trong tình trạng - không thể rõ hơn - vô cùng lẻ loi, cô độc ?
Diễn đàn Shangri-La tại Singapore vào ngày 02/6/2019, đài VOA cho hay phía Trung Quốc đã biểu thị thái độ "bất khuất" trước Hoa Kỳ về căng thẳng thương mại, kể cả vấn đề Đài Loan và Biển Đông, thông qua Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngụy Phượng Hòa.
Còn nhà cầm quyền Việt Nam sẽ làm gì trước "vòng xoáy khổng lồ" của chiến cuộc Mỹ - Hoa như ông Phạm Bình Minh khẳng định : "Việt Nam khó tránh khỏi ảnh hưởng từ thương chiến Mỹ - Trung" ?...
Nguyễn Ngọc Già
Nguồn : RFA, 06/06/2019
[2] https://news.zing.vn/giay-ve-sinh-hinh-tong-thong-trump-dat-hang-o-trung-quoc-post947166.html
[5] https://www.voatiengviet.com/a/my-nhat-eu-ban-ve-chinh-sach-bao-cap-cua-trung-quoc-/4926971.html
Có lẽ là không nhiều lắm !
Vào năm 2012, tình trạng cấm biên ở cửa khẩu quốc tế Móng Cái diễn ra từ tháng 3 đến tháng 10, chưa bao giờ lâu đến như vậy (1). Hàng ngàn container, phần lớn là hàng đông lạnh bị ách lại tại đây. Các cơ quan chức năng tìm mọi cách để đưa hàng hóa sang các lối cửa khẩu khác, nhưng chỉ giải quyết được 1/30 số hàng đang lưu kho. Ngoài ra toàn bộ các dịch vụ lo giấy tờ xuất nhập khẩu ở Móng Cái - nguồn sinh kế của nhiều người dân ở thành phố này bị đình trệ.
Xe tải nối nhau chở nông sản qua cửa khẩu sang Trung Quốc. Ảnh : Dân Việt.
Đến bây giờ, tình trạng ách tắc tại các cửa khẩu mỗi mùa nông sản vẫn là nỗi lo thường trực của người dân. Thậm chí trong dịp Tết Nguyên Đán vừa rồi, Thủ tướng đã phải đăng đàn để chỉ đạo thông quan cho các hàng hóa xuất khẩu (2). Đó chỉ là một ví dụ cho thấy một động thái nhỏ từ phía Trung Quốc có thể ảnh hưởng như thế nào đến kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nó khiến dấy lên câu hỏi, chúng ta đã hiểu gì về tư duy, hành vi và lựa chọn của quốc gia này để có thể "chung sống" với họ ? Có lẽ là không nhiều lắm !
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng. Vì vậy, nhu cầu nghiên cứu Trung Quốc của Việt Nam là "tự thân", "thường xuyên" của ông cha ta trong suốt chiều dài lịch sử để "thích ứng". Kể từ sau khi hai Đảng thành lập và trở thành đảng cầm quyền, Trung Quốc và Việt Nam lại càng có nhu cầu "trao đổi và tham khảo kinh nghiệm của nhau", bởi hai nước cùng chung mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước. Trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ với tham vọng trở thành một đế chế siêu cường, thì nghiên cứu về Trung Quốc học càng trở nên hết sức cần thiết.
Có những điều kiện đặc biệt như vậy, nhưng Việt Nam chưa tổ chức nghiên cứu người láng giềng này một cách đúng mức. Phó Giáo sư Jonathan London, nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc, Đại học Leiden, Hà Lan cho rằng : "Những nhà nghiên cứu Việt Nam ở một vị trí mà lẽ ra phải có một hiểu biết sâu sắc hơn các quốc gia khác về Trung Quốc, nhưng lại hiếm khi có cơ hội triển khai và công bố những nghiên cứu sử dụng những phương pháp và tiêu chuẩn được công nhận trên thế giới".
Thiếu liên kết và thông tin
Hiện nay, nghiên cứu Trung Quốc học được tập trung ở một số nơi, trong đó lâu đời và có nhiều dấu ấn hơn cả là Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc và Bộ môn Trung Quốc học, trực thuộc Khoa Đông phương học, đặt tại trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn Hà Nội, còn Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc thuộc trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh mới thành lập ba năm nay và chưa có kết quả nổi bật. Ngoài ra, số đơn vị, chương trình nghiên cứu khác như Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Đại học Quốc gia Hà Nội thường phân tích cập nhật tình hình kinh tế Trung Quốc ; các khoa dạy ngôn ngữ Trung văn thuộc Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội hoặc Đại học Hà Nội tập trung vào giảng dạy, giao lưu về ngôn ngữ chứ không nghiên cứu khu vực học. Việc nghiên cứu về Trung Quốc của các bộ ngành như Ngoại giao, Công an, Quốc phòng… thường tập trung vào các đối sách chứ không nhằm nghiên cứu liên ngành và toàn diện về Trung Quốc.
Để nghiên cứu cơ bản tốt, các đơn vị chuyên nghiên cứu về Trung Quốc như Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội tập trung vào các chương trình nghiên cứu lớn gồm : Nghiên cứu Trung Quốc truyền thống ; Nghiên cứu về Trung Quốc hiện đại, đặc biệt là cải cách mở cửa ; Nghiên cứu về quan hệ Việt - Trung, ngoài ra nghiên cứu phát hiện và cảnh báo sớm những nguy cơ có thể xảy ra, như chiến tranh thương mại Mỹ - Trung hiện nay sẽ đem lại các nguy cơ gì về kinh tế xã hội.
Mặc dù nghiên cứu cơ bản về Trung Quốc học có vai trò là "đầu vào" cho các tư vấn, tham mưu chính sách của các bộ, ngành nhưng việc kết nối, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị nghiên cứu với nhau và với các cơ quan tư vấn chính sách còn chưa tốt. Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội được mở ra từ năm 2016 với kỳ vọng triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu có tính liên ngành, xây dựng và kết nối chuyên gia nhưng cũng chỉ tập hợp lực lượng nghiên cứu Trung Quốc họp một lần duy nhất để bàn bạc… rồi cho đến nay chưa thấy khởi động lại. Theo Giáo sư Đỗ Tiến Sâm, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu của Trung Quốc, cơ quan nghiên cứu và tham mưu chính sách cần ngồi lại với nhau một cách "phi chính thức chứ không nhất thiết phải có cơ chế cứng nhắc" để cùng phân tích nhận định tình hình, khoảng 3 - 6 tháng một lần, nhưng cũng chưa thực hiện được. Các đơn vị tham mưu thuộc các bộ, ngành có nguồn tin riêng cũng như cập nhật thường xuyên từ các địa phương, còn các cơ quan nghiên cứu về Trung Quốc lại thường xuyên giao lưu học giả, nên có rất nhiều thông tin có thể chia sẻ cho nhau, cùng nhau phân tích. Tuy nhiên, có điều đáng tiếc là, "nhiều thông tin từ phía các cơ quan tham mưu thường khó tiếp cận".
Những tiểu thương buôn bán hàng qua cửa khẩu Móng Cái. Ảnh : Nguyễn Văn Chính.
Mặt khác, việc đầu tư cho nghiên cứu khu vực học về Trung Quốc có thể nói là "nghèo nàn" và chưa có một chiến lược bài bản. Nhiều sản phẩm nghiên cứu về Trung Quốc là nghiên cứu "chay", tức là mới chỉ dừng ở chỗ tìm hiểu thông qua các nguồn tài liệu bằng tiếng Trung qua các trang mạng, chứ ít có điều kiện đi khảo sát thực tế tại Trung Quốc. Chỉ có một vài nhà nghiên cứu kỳ cựu mới đủ năng lực và kinh nghiệm xin các quỹ kinh phí cho khảo sát và giao lưu học thuật quốc tế. Cho nên, khi trao đổi với chúng tôi, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá, ấn phẩm duy nhất có tính hàn lâm về nghiên cứu Trung Quốc hiện nay là Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc cũng có nhiều công bố dựa vào nguồn tư liệu cấp hai, thậm chí là công bố các vấn đề về Trung Quốc "thông qua con mắt của người Trung Quốc". Những thành tựu đáng kể hiện nay về nghiên cứu Nho học Trung Quốc phần nhiều nhằm thông qua đó để hiểu về Nho học Việt Nam truyền thống, hoặc chuyển tải các nghiên cứu Nho học của Việt Nam ra nước ngoài, hơn là hình dung một cách đầy đủ về Nho học Trung Quốc, theo một nhà nghiên cứu đề nghị giấu tên của trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn Hà Nội.
Mặc dù ít ỏi như vậy, hiện chỉ có Viện Nghiên cứu Trung Quốc là có nguồn đề tài nhất định, và thường xuyên từ hệ thống đề tài cấp viện, cấp bộ... về nghiên cứu Trung Quốc, còn đa số giảng viên ở các trường đại học thường phải kiêm nhiệm công tác giảng dạy và cũng không có đề tài thường xuyên mà phải "bươn chải" để có được xuất bản phẩm. Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc của Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn Hà Nội có hàng chục đầu sách về Nho học, trong đó nhiều sách là kết quả hợp tác với Đại học Bắc Kinh và Đại học Quốc gia Đài Loan, chủ yếu gắn với sự nỗ lực vận động của Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Kim Sơn, hiện nay là Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, kiêm Chủ tịch Hội đồng khoa học của Trung tâm. Trong khi đó, Đại học Sư phạm Hà Nội từng thành lập Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc nhưng từ lâu cũng phải dừng hoạt động và giám đốc Trung tâm chuyển hướng sang nghiên cứu Hàn Quốc học - theo Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng, Bộ môn Trung Quốc học, Khoa Đông phương học, trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn Hà Nội. "Không được đầu tư, để các nhà khoa học tự bơi, tự đi tìm kinh phí nghiên cứu, thì nhà khoa học chỉ… bơi được thế thôi", Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng nói.
Việc đào tạo nghiên cứu khu vực học về Trung Quốc ở Việt Nam cũng đang thiếu bài bản. Thông thường, để có được một số nhà nghiên cứu "sắc nhọn" về Trung Quốc học hay bất cứ một khu vực nào khác, các cơ sở đào tạo cần phải nhận được "đơn đặt hàng" của các cơ quan nghiên cứu hoặc bộ ngành để tuyển chọn sinh viên xuất sắc. Số sinh viên này được đào tạo ở trong nước với những nhà khoa học thực sự am hiểu Trung Quốc và sau đó sẽ được cử đi nước ngoài rồi về với những địa chỉ sẵn sàng nhận họ trở lại.
Hiện nay nguồn kinh phí từ các quỹ quốc tế cho nghiên cứu sinh nghiên cứu về Trung Quốc rất dồi dào, vì "cả thế giới đang phải nghiên cứu Trung Quốc", nhưng vấn đề đặt ra là nghiên cứu xong các em sẽ về đâu ? Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng đặt câu hỏi. Nhiều học viên của bà sau khi được đào tạo bài bản xong đã đi tìm kiếm công việc khác hoặc chỉ dạy ngoại ngữ là "rất phí". Hoặc nhiều người đi theo con đường nghiên cứu nhưng cứ phải "lờ phờ" với nguồn kinh phí ít ỏi cho tới khi tự mình tìm kiếm hoặc đứng tên được đề tài cấp bộ, và con số đó không nhiều, chỉ đếm trên đầu ngón tay trong số nhà nghiên cứu về khu vực học vẫn còn ít ỏi ở Việt Nam. Trong khi đó, các chuyên viên ngoại giao hầu hết được tuyển chọn chỉ với tiêu chí thành thạo tiếng Anh.
"Thứ quan trọng nhất không phải tiếng Anh mà là hiểu biết về sự tương đồng và khác biệt giữa các quốc gia, giữa các nền văn hóa, nhất là trong bối cảnh xung đột về ý thức hệ và giá trị cốt lõi giữa các quốc gia, các nền văn minh. Do đó, học khu vực học, là để có căn cốt văn hóa, có mẫn cảm khoa học, giúp đủ phẩm chất, đáp ứng nhu cầu công việc [công tác ngoại giao]", Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng nói.
Nghiên cứu "khu vực học được coi như là công nghệ trong Khoa học xã hội & nhân văn, học hỏi tất cả những thành tựu mới nhất của các ngành Khoa học xã hội & nhân văn, sau đó giải bài toán thực tế liên quan đến những quyết sách, vận mệnh, lợi ích quốc gia", để tạo ra một "vũ khí lợi hại nhắm tới thay đổi tư duy con người, khiến cho con người đáng lẽ ra không đồng ý thì nay lại đồng ý" đã trở thành một chiến lược được đầu tư bài bản, không chỉ bởi các nước hùng mạnh, mà còn cả các tập đoàn như Ford, Rockefeller.
Những bài học của nhiều quốc gia đã cho thấy vai trò của khu vực học, như cuốn sách "Hoa cúc và gươm" của Ruth Benedict đã giúp cho Mỹ thực sự hiểu Nhật Bản và trả lời được câu hỏi "Nếu Mỹ ném bom nguyên tử thì Nhật hoàng có đầu hàng hay không?", từ đó có chiến lược và quyết sách mang tính quyết định trong giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai. Không chỉ "nhất thời" như vậy, công trình so sánh văn hóa này của bà Benedict đã trở thành kinh điển, gối đầu giường cho những người làm chính trị ở Mỹ và cả Nhật Bản trong nhiều năm sau. Ngay cả Trung Quốc, trước khi tiến hành chiến tranh biên giới với Việt Nam năm 1979, Giáo sư Đái Khả Lai và các cộng sự ở Đại học Trịnh Châu tiến hành các nghiên cứu về Việt Nam, biên soạn "sách trắng" và sau này nhóm của ông còn sản xuất cả các tài liệu ngụy tạo lịch sử về Trường Sa và Hoàng Sa.
Còn Việt Nam thì sao ? Nhìn thẳng thắn như Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Chính, trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn Hà Nội, thì Việt Nam chưa hình thành cái gọi là Trung Quốc học theo nghĩa đầy đủ và toàn diện của từ này, mà mới chỉ có nghiên cứu về Nho học, Hán nôm học mà thôi.
Không thể ngày một ngày hai mà có những câu trả lời ngay lập tức, có những thành tựu nghiên cứu đóng góp vai trò quan trọng cho việc xây dựng chiến lược quốc gia được. "Không thể chỉ "hớt váng" mà có khu vực học. Khu vực học là một ngành học rất ‘lâu công, đắt tiền’ và cần đầu tư bài bản từ đào tạo cho tới thành lập nhóm nghiên cứu - vừa có nhà nghiên cứu khu vực học là trưởng nhóm, vừa có các thành viên từ các chuyên ngành Khoa học xã hội & nhân văn khác", Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng nói. "Và nghiên cứu là để nhằm tạo ra ‘công nghệ’ hữu dụng cho các chính sách chứ không phải nghiên cứu để chơi". Trước hết, cần có định hướng với nhu cầu thực sự, đặt hàng các nhà nghiên cứu trả lời những câu hỏi quan trọng. Thay cho tình trạng hiện nay là, mỗi khi xây dựng các chiến lược, thì chỉ có các chuyên viên ở các bộ ngành tiến hành, đến sát ngày ra văn bản mới bắt đầu lấy ý kiến các nhà nghiên cứu. Nếu vẫn còn tư duy theo kiểu "ăn đong" tùy tiện như vậy thì sẽ gây thiệt hại cho đất nước, khó có chính sách bền vững, khó lòng giải mã văn hóa để có ứng xử phù hợp, đối thoại thành công và chung sống hài hòa với các quốc gia khác, tối ưu hóa lợi ích quốc gia.
Vắng bóng trên các diễn đàn quốc tế ?
Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng chia sẻ, không chỉ bà mà nhiều nhà nghiên cứu nhận định, từ trước đến nay, Viện nghiên cứu Trung Quốc của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam mới chỉ chủ yếu kết nối với giới học giả Trung Quốc, còn chưa có điều kiện tiếp xúc với các nhà Trung Quốc học của Mỹ và các nước phương Tây khác vì kinh phí và rào cản ngôn ngữ. Nhiều công bố trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc phần nhiều tham khảo từ nguồn sách báo tiếng Trung. Giáo sư Đỗ Tiến Sâm cho biết, những người vừa có chuyên môn về một lĩnh vực, vừa biết tiếng Trung vừa biết tiếng Anh như Tiến sĩ Phạm Sỹ Thành (VEPR) là "hiếm" trong giới nghiên cứu trẻ về Trung Quốc ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, khi chia sẻ với chúng tôi, Tiến sĩ Thành cho biết mình còn ít công bố quốc tế vì những lí do liên quan đến công việc tư vấn cho các công ty bên ngoài.
"Trong khu vực học cần phải kết nối với Mỹ, Nga, Ấn Độ, Đài Loan" - Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng nhấn mạnh nhiều lần. Mỹ được coi là một trong những "cường quốc" về Trung Quốc học, khởi nguồn từ những năm 1950. Tất cả các "ngõ ngách" của Trung Quốc đều ghi dấu chân của học giả Mỹ, kể cả những vùng "nhạy cảm" như Tân Cương và khu tự trị Tây Tạng. Người Mỹ đã có được cái nhìn sâu sắc và chi tiết về gần như tất cả các khía cạnh của Trung Quốc truyền thống và đương đại3. Các trường Đại học lớn của Mỹ từ công lập đến tư nhân, các think tank, quỹ tư nhân đều đổ tiền cho Trung Quốc học. Rất nhiều sinh viên Trung Quốc tài năng có chuyên ngành về Hoa Kỳ học được tuyển luôn cho các chương trình Trung Quốc học ở Mỹ, nơi họ có lợi thế không phải bàn cãi.
Hội thảo "Chuyển đổi phương thức phát triển của Trung Quốc" năm 2014 do Viện Nghiên cứu Trung Quốc tổ chức. Tại đây, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hồng Tiểu Dũng đã trình bày về những vấn đề đặt ra trong quá trình đi sâu cải cách toàn diện và chuyển đổi phương thức phát triển gần đây ở Trung Quốc. Nguồn: vnics.org.vn
Thế nhưng, giới học giả nghiên cứu Trung Quốc ở Việt Nam có vẻ xa lạ với phương Tây. Bill Hayton, nhà báo và nhà nghiên cứu tại một trong những think tank có ảnh hưởng nhất thế giới - Chatham House, tác giả của hai quyển sách Việt Nam: Con rồng trỗi dậy và Biển Đông - Sự tranh giành quyền lực ở Châu Á, trả lời chúng tôi: "Ngoại trừ một hai ngoại lệ, nếu có học giả Việt Nam nào có thể bình luận về chính trị khu vực mà các nhà báo quốc tế có thể phỏng vấn, thì họ là những người làm việc ở nước ngoài. Những nghiên cứu của Việt Nam về Trung Quốc tìm đỏ mắt cũng không thấy". Còn Phó Giáo sư Jonathan London chỉ thấy những mẩu bình luận cảm tính về Trung Quốc trên báo nước ngoài của các học giả Việt Nam chứ không phải là các nghiên cứu khoa học có bình duyệt. Nếu công bố quốc tế của Việt Nam gọi là có liên quan đến Trung Quốc thì phần lớn là về Biển Đông.
Một vấn đề khác mà các học giả phương Tây nhận định, là nghiên cứu Trung Quốc ở Việt Nam bị hạn chế tự do học thuật. Bill Hayton thì cho rằng ông không thể phỏng vấn người Việt Nam ở trong nước về vấn đề chính trị khu vực, một phần lớn là do họ luôn đề nghị giấu tên và không thể nói một cách tự do và độc lập như các học giả nước ngoài. Jonathan London thì cho rằng, những nghiên cứu phản biện Trung Quốc dễ bị coi là "nhạy cảm". Ông lấy ví dụ, những nghiên cứu so sánh những hành động của Trung Quốc hiện nay với những động thái của các quốc gia được cho là bành trướng sức mạnh đế quốc trong lịch sử sẽ bị kiểm duyệt ở Việt Nam, điều mà không nhà nghiên cứu nghiêm túc nào có thể chấp nhận.
Trong khi đó, Trung Quốc đã có một bề dày lịch sử trong lĩnh vực Đông Nam Á học, khởi đầu từ trước những năm 1950-60, học hỏi phương pháp và quan điểm tiếp cận từ Xô Viết, để phục vụ việc xây dựng chính sách ngoại giao. Thời điểm bấy giờ có bốn cơ sở đào tạo và nghiên cứu của địa phương, chủ yếu tập trung vào dạy ngoại ngữ của các nước Đông Nam Á, nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, lịch sử Đông Nam Á và chính sách ngoại giao của nước này. Tuy nhiên, đến năm 1980-90, ngành học này mới trở thành đầu tư mũi nhọn của Trung Quốc, bùng nổ và được giảng dạy rộng rãi ở hơn mười trường đại học uy tín, lớn nhất của nước này, từ học vị cử nhân đến tiến sĩ và các viện nghiên cứu quốc gia trực thuộc Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại Trung Quốc, nghiên cứu mọi khía cạnh đa dạng của khu vực này từ ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, ngoại giao, luật... Mỗi đại học và viện nghiên cứu như vậy đều có từ một đến hai tạp chí khoa học uy tín trong lĩnh vực Đông Nam Á học. Ở thời điểm này, phương pháp nghiên cứu của họ đã được cập nhật và theo tiêu chuẩn cũng như lý thuyết của phương Tây. Các đơn vị nghiên cứu ở trung ương tập trung vào những vấn đề cấp khu vực nhưng các đơn vị nghiên cứu địa phương tập trung vào từng quốc gia.
Các nhà nghiên cứu Đông Nam Á, không phân biệt ở tỉnh hay trung ương, thường xuyên được mời tham vấn chính sách cho chính phủ và ảnh hưởng của họ lên hoạt động ngoại giao của Trung Quốc. Cụ thể là phần lớn những điều khoản Trung Quốc đặt ra trong Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là do các học giả Đông Nam Á học của nước này đề xuất.
Việt Nam là một trong số những quốc gia trong Đông Nam Á được Trung Quốc quan tâm đặc biệt. Từ những năm 1950-60, các trung tâm, viện nghiên cứu Đông Nam Á của Trung Quốc đều dạy tiếng Việt. Hai trường Đại học lớn của Trung Quốc là Đại học Trịnh Châu (Hà Nam) và Đại học Bắc Kinh đều có bộ phận nghiên cứu Việt Nam học. Riêng Đại học Trịnh Châu, "bộ phận" này là một viện nghiên cứu độc lập, được thành lập từ những năm 1980. Theo một khảo sát trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á từ 1992 - 2004 của hai nhà nghiên cứu John Wong và Lai Hongyi, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia được nghiên cứu nhiều thứ hai, sau Indonesia. Các sinh viên học ngành Việt Nam học nói chung, đều được tuyển chọn, mỗi đợt chỉ khoảng trên dưới 10 sinh viên, vài năm một lần. Đến năm thứ hai đại học, Bộ Ngoại giao sẽ về tận trường đặt hàng những người xuất sắc, tài trợ học bổng để đi học ở Việt Nam một thời gian, về sau trở thành người điều hành các chiến lược ngoại giao. Theo Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng, nhiều đại sứ Trung Quốc hay cán bộ ngoại giao Trung Quốc ở Việt Nam từng được đào tạo bài bản về Việt Nam học từ những giáo sư hàng đầu Trung Quốc tại Đại học Bắc Kinh, Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh hoặc các đại học nổi tiếng khác. Bản thân Trung Quốc cũng mời người Việt Nam sang dạy về tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ở nhiều trường đại học, theo diện chuyên gia với mức lương vài chục triệu đồng/tháng (bao chỗ ở). Trung Quốc cũng tận dụng những sinh viên, nghiên cứu sinh người Việt Nam học tập tại Trung Quốc nghiên cứu về Việt Nam. Giáo sư Đỗ Tiến Sâm kể rằng, ông bất ngờ khi thấy nhiều luận án, luận văn về Việt Nam bằng tiếng Trung lại do học viên và nghiên cứu sinh người Việt Nam du học tại Trung Quốc thực hiện với sự hướng dẫn của các giảng viên Trung Quốc.
Oscar Salemink, một nhà Việt Nam học hàng đầu và cũng thực hiện một số nghiên cứu về Trung Quốc cho rằng, sự phiến diện trong nghiên cứu về Trung Quốc sẽ ngăn cản Việt Nam có chiến lược và động lực để hiểu biết sâu sắc hơn về quốc gia này, đặc biệt là trong bối cảnh Trung Quốc đang trên đà lấy lại vị trí "cường quốc" trên toàn cầu (bên cạnh Mỹ và vượt qua Nga, Ấn Độ, Châu Âu) : Việt Nam không may bị rơi vào trò chơi địa chính trị của nước này nhưng đồng thời cũng gặp may hưởng lợi về kinh tế khi ở gần một nước lớn đang phát triển. Làm sao để thăng bằng trên vị trí này phụ thuộc nhiều vào chiến lược nghiên cứu Trung Quốc học của Việt Nam.
Thu Quỳnh - Hảo Linh
Nguồn : Tia Sáng, 07/06/2019
-----
(1) https://laodong.vn/archived/doi-ben-cung-thiet-vi-cam-bien-tai-cua-khau-mong-cai-672292.ldo
(3) https://www.chronicle.com/article/Chinas-Deficit-in-American/123884
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới vào năm 2018, Việt Nam có 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế giới. Đến năm 2020, tầng lớp trung lưu Việt Nam dự báo sẽ cán mốc 33 triệu người. Thế nhưng, tầng lớp trung lưu Việt Nam lại vướng vào cái tư duy "Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Tầng lớp trung lưu Việt Nam lại vướng vào cái tư duy "Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Bài viết "Đại bàng Mỹ tung móng vuốt đấu với Gấu trúc Trung Hoa" của tác giả Nguyễn Giang trên BBC Việt ngữ đem lại nhiều gợi mở, bởi nội dung có trích dẫn quan điểm của Giáo sư Nye, người nhận định chính xác về sự hình thành một xã hội trung lưu ở Trung Quốc, nhưng "tầng lớp cầm quyền bị mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn về tư duy chính trị. Họ tin rằng chỉ có Đảng Cộng sản mới cứu được Trung Quốc, và mọi cải cách phải tăng cường sự lãnh đạo độc tôn của đảng này". Chính vì vậy, Trung Quốc trong cuộc chiến thương mại không cho thấy nước này "yếu đi", nhưng nó cho thấy, Trung Quốc không phải "mạnh, cường quốc" như quốc gia này ảo tưởng.
Gợi mở vì chính bản thân Việt Nam cũng đang đi theo vết đổ này, khi bản thân xã hội Việt Nam chứa đựng những yếu tố tiền xã hội trung lưu. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới vào năm 2018, Việt Nam có 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế giới. Đến năm 2020, tầng lớp trung lưu Việt Nam dự báo sẽ cán mốc 33 triệu người. Thế nhưng, tầng lớp trung lưu Việt Nam lại vướng vào cái tư duy "Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Tầng lớp trung lưu Việt Nam không khác gì với tầng lớp trung lưu Trung Quốc, bởi họ bị ràng buộc và kiềm chặt vào cái định kiến cách mạng không tưởng, rằng "chỉ có Đảng cộng sản mới cứu được…".
Vào tháng 06/2015, Nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội) đã xuất bản tác phẩm "Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn" của ông Nguyễn Phú Trọng, Ba năm sau (6/2018), nhà xuất bản này tiếp tục ra mắt cuốn sách tiếp theo của ông Nguyễn Phú Trọng, với tên gọi "Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng khó khăn nào cũng vượt qua", với nội dung tập hợp 90 phát biểu, nói chuyện, trả lời phỏng vấn của ông Trọng từ năm 2015-2017. Và dù là cuốn sách 2015 hay 2018, thì bản thân lệnh đề chủ đạo của cuốn sách vẫn là : đổi mới do đảng, và đảng là nhân tố cho sự vững mạnh quốc gia.
Trong hệ xã hội mà đảng toàn quyền quyết định, thì các tầng lớp không gì mong mỏi hơn là "đảng đổi mới toàn diện, quyết liệt". Nhưng cho đến nay, đổi mới "đột phá" nếu tính từ Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, thì đã thoái lui dần. Lý do, từ Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định 5 thành phần kinh tế : (Kinh tế xã hội chủ nghĩa (Quốc doanh, tập thể, gia đình), Kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, Kinh tế tự túc, tự cấp, Kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân) nhưng sau 33 năm, yếu tố "kinh tế tư bản tư nhân" vẫn bị nhìn nhận một cách dè dặt, dù bản thân chính yếu tố này đang là cứu tinh cho nền kinh tế Việt Nam (vốn bị lũng bại bởi yếu tố kinh tế xã hội chủ nghĩa).
Trong khi ông Nguyễn Phú Trọng, trong lời khai mạc Hội nghị Trung ương 10 "khuyến khích, động viên" kinh tế tư nhân, nhưng đồng thời khuyến cáo về hiện tượng "coi nhẹ kinh tế nhà nước". Còn trong thực tế, thì các thuế phí vẫn gây áp lực nặng nề lên phía doanh nghiệp tư nhân, theo đúng nghĩa "vắt kiệt".
Đơn cử, chỉ cần giá xăng dầu tăng lên thì chi phí vận chuyển cũng gia tăng theo, tiền lương và các phúc lợi xã hội sẽ khiến cho việc sản xuất – kinh doanh bị đình trệ. Thế nhưng, giá xăng dầu trong nước và giá điện liên tục tăng mạnh, trong khi giảm lại mang tính nhỏ giọt. Quan điểm của Bộ Công thương về việc "phối hợp Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu trong nước phù hợp với diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới, hài hòa lợi ích của người dân, doanh nghiệp và nhà nước" chỉ là lời nói vô thưởng vô phạt.
Giới doanh nghiệp vừa và nhỏ, những yếu tố chứa đựng tầng lớp trung lưu bị "o ép và vắt kiệt" không khác gì cách ứng xử thời thực dân Pháp (vốn được đặc tả trong sách giáo khoa Lịch sử hiện nay). Môi trường kinh doanh thông thoáng, thuế phí hài hòa, loại bỏ tham nhũng vẫn là ước vọng của hàng ngàn doanh nghiệp tại Việt Nam, là giấc mơ của cả tầng lớp trung lưu Việt Nam.
Họ cần một sự thay đổi cơ chế, rõ ràng là vậy.
Một trong những dấu hiệu đột phá nhất để cho thấy "sự thay đổi" đó, đến từ công nhận "Việt Nam có nền kinh tế thị trường" từ phía đối tác EU, Mỹ. Vấn đề là phải cải cách chính sách triệt để. Bởi nếu không, câu chuyện "làm giàu" của tầng lớp trung lưu sẽ tiếp tục là quỹ đạo cũ kỹ, nơi mà họ buộc phải đi "đường vòng" thay vì "đường thẳng", và nếu không "có thế và lực thì khó giành được những ưu đãi về đồng vốn, về phân bổ tài nguyên và thường phải vận dụng cơ chế xin cho với nhiều cạm bẫy"…
Và bằng cách đó, tầng lớp trung lưu bị buộc phải "ngồi ở chiếu dưới do vị trí xã hội thấp không có khả năng liên kết với các nhóm lợi ích".
Khi tầng lớp trung lưu bị chèn ép, bị đặt ngồi thế dưới bởi các nhóm lợi ích thông qua các tập đoàn tư-công, thì sự tăng trưởng của Việt Nam cũng chỉ là "dậy non" (thiếu tính bền vững, thịnh vượng) không hơn không kém.
Và "Make in Vietnam" (một khẩu hiệu kinh tế mới trong thời kỳ Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, có vẻ theo đuổi tư duy Made in China của ông Tập Cận Bình) cũng sẽ khó thành công nếu chỉ dựa vào việc lập Tổng công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel.
Nếu Trung Quốc đi chân đất sét, thì Việt Nam cũng sẽ là như vậy, không phải vì văn hóa, mà vì cơ chế của hai nước giống nhau. Khác nhau ở điểm, Trung Quốc trả giá trước và Việt Nam trả giá sai.
Trở lại chút với Giáo sư Joseph Nye, ông là người đã từng đến Việt Nam nhiều lần, từng giảng dạy với các quan chức ngoại giao về "quyền lực mềm", và theo ông Việt Nam cũng có tiềm năng "đoạt lấy thứ mình muốn thông qua sự hấp dẫn thay vì ép buộc. Nó xuất phát từ sự hấp dẫn về văn hoá, tư tưởng chính trị và các chính sách của một quốc gia".
Gương Trung Quốc với tư duy "dậy non" vẫn đang diễn ra, và tham vọng Make in Vietnam sẽ sớm bị "chết non" như Made in China khi mà cơ chế, chính sách, tư tưởng chính trị vẫn xoay quanh "tăng cường sự lãnh đạo độc tôn của đảng", thay vì làm mọi cách để cởi nút thắt phát huy toàn diện, lâu dài tiềm lực quốc gia.
Đảng cộng sản là nhân tố duy nhất quyết định thắng thắng lợi của cách mạng, điều này đúng, nhưng đúng trong định nghĩa và quỹ đạo "cách mạng Đảng cộng sản".
Đảng cộng sản không phải là lực lượng duy nhất để đổi mới phương thức sản xuất, cải tiến quan hệ sản xuất, điều này không sai. Bởi lẽ, sự thay đổi của phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất phải dựa trên sự cạnh tranh thị trường thay vì "mệnh lệnh chính trị" (Nghị quyết Đại hội), dựa trên nguồn lực phân bổ công bằng cho các thành phần kinh tế thay vì "kinh tế chủ đạo". Và trên cả là sự đối đãi đối với tầng lớp trung lưu một cách công bình, dựa trên "nuôi dưỡng" thay vì vắt kiệt sức bằng hệ thuế phí như hiện nay.
Và chỉ khi nào loại bỏ quan điểm, tư duy hẹp hòi đến mức bảo thủ, "Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn" thì khi đó, đất nước này mới có cơ hội cất cánh, và vượt ra khỏi những vết sai của Trung Quốc được.
An Viên
Nguồn : VNTB, 29/05/2019
Trung Quốc "xuất khẩu" không khí ô nhiễm sang Châu Âu
Dự án "Vành đai và con đường" của Trung Quốc được chủ tịch Tập Cận Bình khởi xướng từ năm 2013. Trong thượng đỉnh thứ hai về "Con đường tơ lụa mới", quy tụ 500 đại diện từ 123 nước về Bắc Kinh, Tập Cận Bình cho biết có hàng ngàn dự án được triển khai trong khuôn khổ siêu dự án. Từ năm 2012 đến năm 2017, đầu tư của Trung Quốc vào các nước tham gia dự án đã vượt quá 80 tỉ đô la. Trong số hàng ngàn dự án đó, Bắc Kinh tập trung vào lĩnh vực nhiệt điện than.
(Ảnh minh họa) Một nhà máy nhiệt điện gần Bắc Kinh. Từ năm 2018, Trung Quốc hạn chế khai thác các nhà máy nhiệt điện chạy than, nhưng đẩy mạnh đầu tư các nhà máy loại này ở nước ngoài. Reuters/Jason Lee
Trong bài viết "Trung Quốc đầu tư và xây dựng nhiều nhà máy nhiệt điện than tại Châu Âu", báo Le Monde cho biết theo một nghiên cứu của Viện Kinh tế năng lượng và phân tích tài chính (IEEFA), các tổ chức, cơ quan tài chính của Trung Quốc tham gia vào ¼ số dự án nhiệt điện than trên toàn thế giới, trong khi đó nhiệt điện than lại là thảm họa cho khí hậu, vì các nhà máy phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và gây ô nhiễm không khí.
Ở trong nước, sau khi đạt mức khánh thành 1 nhà máy nhiệt điện than mỗi ngày, vào năm 2018, Bắc Kinh quyết định hạn chế khai thác các nhà máy nhiệt điện than, vốn cung cấp 60% lượng điện cho cả nước. Chính sách "bầu trời xanh" đã thúc đẩy nhiều vùng hạn chế mạnh việc sử dụng than đá, giảm nhịp độ xây thêm nhà máy nhiệt điện than, thúc đẩy sử dụng khí ga và năng lượng có thể tái tạo. Nhưng đồng thời, các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển hướng sang xuất khẩu ngành công nghiệp nhiệt điện than. Nhiều nước như Việt Nam, Bangladesh hoặc Pakistan đều xây dựng nhà máy nhiệt điện than với sự "hỗ trợ" của các ngân hàng Trung Quốc.
Theo tổ chức Sustainable Energy của Đan Mạch, khoảng 10 nhà máy nhiệt điện chạy than ở các nước Nam Âu đang được Trung Quốc xây dựng hoặc đầu tư xây dựng, đặc biệt là ở vùng Balkan. Một số dự án của Trung Quốc có thể được triển khai ở các nước trong lòng Liên Hiệp Châu Âu, chẳng hạn Romania, Hy Lạp, cho dù Liên Âu có những mục tiêu quan trọng về bảo vệ khí hậu. Theo tổ chức Bankwatch, hầu như tất cả các nhà máy nhiệt điện than do Trung Quốc xây dựng hoặc đầu tư xây dựng ở nước ngoài đều không tuân thủ các quy định về môi trường hoặc được hưởng sự hỗ trợ, vẫn còn gây tranh cãi từ chính quyền các nước đó.
Ông Wawa Wang, tư vấn viên của tổ chức phi chính phủ Sustainable Energy của Đan Mạch cảnh báo là việc triển khai các dự án xây nhà máy nhiệt điện than nói trên có thể khiến các quốc gia mắc kẹt vào việc sử dụng than đá trong hàng trăm năm và rất khó hoàn trả cho Trung Quốc các khoản vay nợ, còn môi trường sẽ bị phá hủy đến mức không thể phục hồi được.
Cho dù là dự án Con đường tơ lụa mới của Trung Quốc có đề ra các mục tiêu về bảo vệ môi trường, nhưng theo ông Jonathan Elkind, thuộc Trung tâm nghiên cứu năng lượng, Đại học Columbia, Hoa Kỳ, thì yếu tố môi trường không được nhấn mạnh là "thiết yếu" trong các tài liệu định hướng của dự án "Vành đai và con đường", thêm vào đó, không có điều nào ghi rõ là các dự án dẫn tới việc phát thải nhiều khí CO2, chẳng hạn các dự án xây nhà máy nhiệt điện than, bị cấm. Chuyên gia Jonathan Elkind nhấn mạnh Bắc Kinh phải nhanh chóng xem xét lại chính sách này, nếu không các đầu tư trong khuôn khổ dự án "Vành đai và con đường" sẽ có những tác động nghiêm trọng tới môi trường, ở tầm mức quốc gia, cũng như trong khu vực và trên toàn cầu.
Đa dạng sinh học trong cơn hiểm họa
Đề tài được nhiều báo Pháp ngày 07/05/2019 quan tâm đặc biệt là hệ đa dạng sinh thái. Báo Le Monde dành cả tiêu đề trang nhất, bài xã luận và ba trang bài cho hồ sơ lớn "Đa dạng sinh học đang gặp hiểm họa". Tờ báo giật tít lớn "Một triệu giống loài có nguy cơ biến mất. Chưa phải là quá muộn để hành động".
Trong bài xã luận "Loài người đối mặt với trách nhiệm", Le Monde nhắc lại là cách nay 65 triệu năm, cuộc đại tuyệt chủng lần thứ 5 đã xảy ra, tiêu diệt 3/4 số giống loài trên Trái đất. Những cuộc đại tuyệt chủng trước đó hàng trăm triệu năm đã tiêu diệt 95% số sinh vật sống. May mắn là chúng ta chưa rơi vào hoàn cảnh đó, nhưng không gì có thể phủ nhận là hành tinh của chúng ta đang hướng tới cuộc đại tuyệt chủng lần thứ 6 và sự kiện này sẽ xảy ra với nhịp độ rất nhanh, tức là chỉ trong vài thập niên. Và thủ phạm duy nhất chính là loài người.
Hội nghị GIEC của nhóm chuyên gia liên chính phủ về biến đổi khí hậu hôm 06/05 đã phát đi lời cảnh báo đến toàn thế giới về mức độ tiệt chủng các giống loài tự nhiên nghiêm trọng chưa từng có, nhanh gấp hàng chục, thậm chí là hàng trăm lần so với 10 triệu năm qua. Một triệu giống loài động, thực vật, trên cạn cũng như dưới biển (1/8 tổng số) đang có nguy cơ biến mất. Và tốc độ tuyệt chủng đang tăng nhanh khủng khiếp.
Theo nhận định của giới khoa học, con người phải chịu trách nhiệm về nguy cơ các giống loài sinh vật tuyệt chủng không kém gì so với trách nhiệm làm Trái Đất nóng dần lên, ít nhất là vì hai lý do. Thứ nhất, không gì có thể thanh minh cho việc loài người tự ban cho mình quyền cho các giống loài khác được sống hay phải chết. Ấy vậy mà hệ đa dạng sinh học lại sụp đổ chỉ vì con người. Loài người đã tàn phá cuộc sống của nhiều giống loài trong tự nhiên, khai thác thái quá các nguồn tài nguyên đất, rừng, đại dương, khiến khí hậu biến đổi chệch hướng, thải rác, nhựa, thuốc trừ sâu khiến các hệ sinh thái bị ô nhiễm...
Lý do thứ hai là loài người là một phần không thể tách rời khỏi hệ đa dạng sinh học, và số phận của loài người cũng gắn liền với số phận của các loài động - thực vật. Sự thật là khi ngầm phá hoại đa dạng sinh thái, loài người đã đẩy tương lai của chính chúng ta vào hiểm họa.
Le Monde khẳng định đáp án hiện nằm trong tay chính phủ các nước. Năm 2010, tại Hội nghị đa dạng sinh thái ở Aichi, Nhật Bản, các quốc gia đã đưa ra những mục tiêu đầy tham vọng, nhưng hầu như không có mục tiêu nào đạt được. Hội nghị sẽ lại được tổ chức tại Trung Quốc vào cuối năm 2020. Le Monde nhấn mạnh là lần tới các nước tham gia sẽ phải đưa các cam kết cụ thể, với sự tham gia của các tác nhân kinh tế và xã hội dân sự.
Họ cũng không thể lẩn tránh câu hỏi về cách thức phát triển ít có hại tới thiên nhiên, cũng như về sự đóng góp tài chính, cách phân chia đóng góp giữa các nước giàu với các nước nghèo để duy trì và khôi phục hệ sinh thái. Hiện nay, toàn thế giới đóng góp 8 tỉ euro/năm cho công tác này. Nhưng theo ước tính của các chuyên gia, cần có tới 200-300 tỉ euro/năm. Le Monde kết thúc bài xã luận bằng câu hỏi để độc giả tự suy ngẫm : "Chúng ta định giá sự sống đáng giá bao nhiêu ?".
Bảo vệ con người hay bảo vệ thiên nhiên ?
Cũng giống như Le Monde, báo Le Figaro dành cả tít trang nhất, bài xã luận và hồ sơ hai trang cho đề tài đa dạng sinh thái. Trên trang nhất, Le Figaro đặt câu hỏi "Một triệu loài bị đe dọa : Liệu chúng ta có thể cứu được không ?". Trong bài xã luận "Nghịch lý Prométhée", tác giả tóm lược nghịch lý : con người có được lửa, đồng nghĩa với sức mạnh, sự sống và tiến bộ, và với ngọn lửa đó, co người đang phá hủy Trái đất. Những cánh đồng bị ô nhiễm, những khu rừng bị chặt đốn, tài nguyên biển cạn dần...
Chúng ta đang bất lực đứng xem một cảnh tượng kinh hoàng : Thiên nhiên đang chết dần, trở thành một kiệt tác sống nhưng lại lâm cảnh nguy khốn. Sự tăng trưởng kinh tế thế giới đã đưa một phần nhân loại thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Nhưng cái giá phải trả cho môi trường là gì ? Phải cứu con người hay cứu tự nhiên ? Nhất là khi loài người thì lại cần thiên nhiên. Đối với Le Figaro, đây là sự lựa chọn giữa hai ngả đường ở thời hiện đại mà hiện chúng ta vẫn chưa suy tính xong.
Trách nhiệm thuộc về tất cả mọi người
Trong khi đó, trong bài xã luận "Tất cả mọi người đều có trách nhiệm", báo La Croix lại hướng độc giả đến những việc cần làm để bảo vệ sự đa dạng sinh học : chọn phương thức tiêu dùng, ưu tiên phát triển nền kinh tế bền vững hơn, tiêu thụ bớt năng lượng, sử dụng ít hóa chất hơn, tiêu dùng ít thực phẩm, nước hơn, ưu tiên mua các sản phẩm trực tiếp từ người sản xuất hơn là hàng hóa được nhập từ những nơi xa xôi trên thế giới, giảm lượng rác thải ra môi trường, sử dụng vật dụng trong thời gian lâu dài hơn... La Croix cũng nhấn mạnh là nỗ lực của mỗi cá nhân phải đi kèm với trách nhiệm của các nhà lãnh đạo, cho dù là lãnh đạo doanh nghiệp hay lãnh đạo nhà nước.
Ấn Độ : Cuộc chiến chống đói nghèo vẫn là thách thức đối với thủ tướng Modi
Nhìn sang Châu Á, báo Le Figaro nhận định "Tại Ấn Độ, cuộc chiến chống đói nghèo vẫn là một thách thức đối với thủ tướng Modi". Hồi năm 2014, trong chiến dịch tranh cử thủ tướng, ông Modi đã đặt ưu tiên là "xóa xổ nạn đói nghèo trong vòng một thế hệ". Trong vòng 5 năm qua, chính phủ của ông Modi đã khởi động kế hoạch cải thiện điều kiện sống của 400-600 triệu người nghèo, làm sạch các thành phố và xây dựng nhà vệ sinh, trợ giá cho các gia đình nghèo sử dụng khí ga phục vụ sinh hoạt, mở tài khoản ngân hàng cho người nghèo, cung cấp cho mỗi gia đình có khó khăn một gói bảo hiểm y tế có giá tương đương 6.500 euro/năm...
Tuy nhiên, 5 năm sau khi ông Modi lên cầm quyền, mọi chuyện vẫn chưa thay đổi nhiều, vẫn còn hố sâu ngăn cách giữa những lời hứa và thực tế. Chẳng hạn, trong một khu ổ chuột ở phía nam Delhi, các cư dân vẫn không có nhà vệ sinh riêng, hàng ngàn người dân chỉ có 2 nhà vệ sinh công cộng. Thậm chí có nhiều nhà vệ sinh công cộng được phá đi để xây nhà vệ sinh mới, nhưng sau đó chẳng có nhà vệ sinh nào được xây mới cả. Điều đáng lo ngại hơn là nước trong đường ống cấp nước lại không phải là nước sạch.
Thùy Dương
Việt Nam phản đối lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc ở Biển Đông (RFA, 04/05/2019)
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm 4/5 lên tiếng phản đối lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc trên Biển Đông được áp dụng từ ngày 1/5 đến ngày 16/8/2019.
Hình minh hoạ. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng tại Hà Nội - AFP
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý à bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các quyền hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam được xác định phù hợp với Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982", bà Hằng được truyền thông trong nước trích lời cho biết.
Trước đó, Tân Hoa Xã loan tin cho biết từ ngày 1/5, Trung Quốc áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá trên một loạt các vùng biển bao gồm Bột Hải, Hoàng Hải, Đông Hải và Biển Đông từ bắc vĩ tuyến 12. Tân Hoa Xã cho hay lệnh cấm sẽ được thực thi nghiêm ngặt trong 24 giờ một ngày.
Đây là lệnh cấm được Trung Quốc áp dụng vào hè hàng năm từ năm 1999 trở lại đây với lý do để bảo vệ sự phát triển của nguồn cá.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng các biện pháp bảo tồn nguồn tài nguyên sinh vật cần được tiến hành phù hợp với quy định của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 và không làm phương hại đến chủ quyền và các quyền tài phán trên biển của các nước có lien quan.
"Việt Nam phản đối và kiên quyết bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc. Quy chế này xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quàn đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam tren các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế", bà Hằng nói.
Người phát ngôn BNG cũng khẳng định lệnh cấm của Trung Quốc đã đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông được ASEAN và Trung Quốc ký vào năm 2002 (DOC).
Biển Đông là vùng nước tranh chấp giữa Trung Quốc với một số nước trong khu vực bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Trung Quốc là nước đòi phần lớn chủ quyền tại vùng nước này với đường đứt khúc 9 đoạn. Toà Trọng tài Quốc tế hồi năm 2016 đã bác bỏ tính hợp lý của đường đứt khúc này.
******************
Trung Quốc ra lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông (VOA, 02/05/2019)
Trung Quốc vừa ra lệnh cấm đánh bắt cá trong thời gian hơn 3 tháng mùa hè ở Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và một phần Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
Trung Quốc vừa ra lệnh cấm đánh bắt cá trong thời gian hơn 3 tháng mùa hè ở Biển Đông.
Bộ Nông nghiệp Trung Quốc bắt đầu thực thi lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông bắt đầu từ ngày 1/5 đến ngày 16/8, trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc trở lên.
Trang South China Morning Post dẫn nguồn tin từ truyền thông Trung Quốc cho biết, theo lệnh cấm này, các tàu đánh cá trong và ngoài nước sẽ bị lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc giám sát 24/24 về mọi hành vi vi phạm.
Trang VnExpress cho biết thời gian và địa điểm cấm đánh bắt cá năm nay của Trung Quốc được đưa ra giống năm ngoái. "Trung Quốc ngang nhiên áp dụng lệnh cấm này với ngư dân trong nước và ngư dân nước khác, tuyên bố sẽ tăng cường tàu chấp pháp giám sát hai tới ba lần một ngày để bắt và xử phạt các trường hợp bị coi là vi phạm", trang VnExpress cho biết.
Hàng năm từ năm 1999 đến nay, Trung Quốc đều đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, nơi nước này ngang nhiên tuyên bố chủ quyền bằng "đường 9 đoạn" bất chấp sự phản đối của Việt Nam và các nước trong khu vực.
Vào mùa hè năm ngoái, sau khi Trung Quốc đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã lên tiếng phản đối và kiên quyết bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc, cho rằng quy chế này "xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam".
******************
Trung Quốc trọng thị nước nào, qua tường thuật báo chí ? (BBC, 02/05/2019)
BBC Monitoring tìm hiểu thái độ trọng thị hay không của Trung Quốc với các nước, thể hiện qua tường thuật của truyền thông nhà nước về diễn đàn Cấp cao Hợp tác quốc tế "Một vành đai, một con đường".
Tổng thống Nga Vladimir Putin được Trung Quốc trọng thị
37 nước đã tham dự diễn đàn lần thứ hai, bế mạc tại Bắc Kinh hôm 27/4.
Trong số lãnh đạo đến Bắc Kinh có tổng thống Nga Vladimir Putin và thủ tướng Italy Giuseppe Conte.
Với Trung Quốc, hai người này có mặt là rất quan trọng.
Truyền thông nhà nước dành nhiều dòng về hai nhân vật này, ca ngợi quan hệ truyền thống Nga - Trung, và khen ngợi Rome đồng ý tham gia sáng kiến.
Ngược lại, Anh chỉ gửi bộ trưởng tài chính Philip Hammond, và ông này bị báo chí Trung Quốc thờ ơ.
Tường thuật lớn về Nga
Bài báo nổi nhất về ông Putin đưa ra ngày 27/4. Bức hình ông bắt tay ông Tập Cận Bình được in trên trang nhất của Nhân dân Nhật báo, tờ báo cao nhất trong đảng cộng sản.
Đây là ưu tiên đặc biệt cho lãnh đạo nước ngoài, vì Nhân dân Nhật báo thường chỉ đăng hình Tập Cận Bình nổi bật một mình trên trang nhất.
Ông Putin không chỉ lên trang nhất, ông còn xuất hiện cả trong trang hai.
Trong bài báo, chủ tịch Tập tặng bằng tiến sĩ danh dự của đại học Thanh Hoa cho tổng thống Nga.
Diễn văn của ông Tập gọi ông Putin là "lão bằng hữu".
Thủ tướng Italy Giuseppe Conte dự hội nghị
Italy là bạn mới
Hồi tháng Ba, Trung Quốc có thành công khi Italy là nước đầu tiên trong G7 ủng hộ dự án.
Truyền thông Trung Quốc, tại hội nghị, cũng tập trung vào Italy, với hình ông Conte gặp ông Tập được in trong trang hai Nhân dân Nhật báo, một ngày sau Putin.
Tập trung vào Tập Cận Bình
Theo dân mạng xã hội ở Hong Kong và Đài Loan, tên ông Tập được nhắc 15 lần trong các dòng tít phụ trên trang nhất của Nhân dân Nhật báo hôm 26/4, khi hội nghị khai mạc.
Tờ báo này tường thuật chi tiết ông Tập đã gặp các lãnh đạo nước ngoài hôm đó.
Tờ báo nêu danh sách các nước, xếp theo thứ tự quan trọng về mặt biên tập cho tờ báo.
Đó là : Mông Cổ, Serbia, Kenya, Uzbekistan, Philippines, Cyprus, Belarus, Ai Cập, UAE, Việt Nam, Hungary, Malaysia, Papua New Guinea và Indonesia.
Còn trong trang hai cũng cùng ấn bản, gương mặt ông Tập xuất hiện trong 13 tấm hình bắt tay các lãnh đạo.
Ai bị thờ ơ ?
Một số lãnh đạo Châu Âu gặp ông Tập trong các ngày sau.
Thủ tướng Áo Sebastian Kurz, Tổng thống Bồ Đào Nha Marcelo Rebelo de Sousa và Tổng thống Thụy Sĩ Ueli Maurer có cuộc gặp ngày 29/4, ba ngày sau khi Tập gặp Putin.
Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long cũng gặp ông Tập ngày 29/4.
Bộ trưởng tài chính Anh Philip Hammond không gặp ông Tập.
*******************
HRW tố cáo Trung Quốc dùng công nghệ giám sát người Duy Ngô Nhĩ (RFI, 02/05/2019)
Một báo cáo của Human Rights Watch (HRW) công bố hôm nay 02/05/2019 tố cáo chính quyền Trung Quốc sử dụng một ứng dụng điện thoại di động để giám sát những hành động "hoàn toàn hợp pháp" của người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương.
Công an Trung Quốc kiểm tra thẻ căn cước một người Duy Ngô Nhĩ, trong lúc lực lượng an ninh theo dõi các hoạt động trên đường phố ở Kashgar, Tân Cương. Ảnh chụp ngày 24/03/2017.© Reuters/Thomas Peter/File Photo
Bắc Kinh trở thành tâm điểm chỉ trích của thế giới do chính sách đàn áp tại Tân Cương, nơi người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi chiếm đa số. Khoảng một triệu người Duy Ngô Nhĩ đã bị đưa vào các trại tập trung cải tạo, nhân danh "đấu tranh chống khủng bố Hồi giáo và ly khai", tại vùng đất trên 20 triệu dân. Chế độ cộng sản Trung Quốc bác bỏ con số này, ra sức biện hộ rằng đó chỉ là các "trung tâm huấn nghệ", chuyên giáo dục và dạy nghề để chống Hồi giáo cực đoan.
Xếp loại 36 cách ứng xử khác nhau
Human Rights Watch trước đây vốn đã tố cáo việc chính quyền Tân Cương sử dụng một hệ thống giám sát có tên là Integrated Joint Operations Platform (IJOP) để tập hợp các thông tin đến từ nhiều nguồn, từ các camera nhận dạng khuôn mặt cho đến các thiết bị phân tích wifi, các điểm kiểm soát của công an, thậm chí cả dữ liệu ngân hàng và khám xét nhà ở.
Nhưng trong bản báo cáo mới nhất hôm nay mang tên "Các thuật toán đàn áp của Trung Quốc", Human Rights Watch nghiên cứu việc sử dụng một ứng dụng kết nối với IJOP để giám sát thái độ ứng xử của người dân.
Thụy My