Trái phiếu chính phủ thường không có rủi ro ?
Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, nói rằng thị trường trái phiếu chính phủ đóng vai trò then chốt trên thị trường trái phiếu, nhằm đáp ứng 2 mục tiêu (i) là kênh huy động vốn hiệu quả cho ngân sách nhà nước, và (ii) là thị trường chuẩn cho thị trường tài chính.
Về lý thuyết, trái phiếu chính phủ thường được coi là không có rủi ro, bởi chính phủ có thể tăng thuế hoặc in thêm tiền mặt để chi trả trái phiếu đáo hạn.
Lưu ý, an toàn hay không có rủi ro là theo nghĩa rủi ro có thể không được thanh toán. Các rủi ro khác vẫn tồn tại như tỷ giá – là khi đồng nội tệ mất giá so với các ngoại tệ ; rủi ro thứ hai là lạm phát – tiền gốc nhận lại khi đáo hạn giảm giá trị vì lạm phát vượt quá dự kiến.
Lo lắng dễ thấy nhất, đó là việc phát hành trái phiếu Chính phủ thường xuyên ra thị trường vốn quốc tế, đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến an ninh tiền tệ quốc gia, nhất là vấn đề nợ công bằng ngoại tệ.
Trở ngược thời gian
Nếu như năm 2003, mỗi người Việt Nam chỉ gánh 177 USD nợ thì nay đã lên đến hơn 817 USD, theo đồng hồ đo nợ công toàn cầu của tạp chí The Economist, sáng ngày 28/5/2013.
Trên đồng hồ đo nợ công toàn cầu của The Economist, nợ công của Việt Nam tới sáng 28/5/2013 là 73,5 tỷ USD, tăng 12,4% so với năm ngoái. Trung bình, mỗi người dân Việt đang gánh 817,51 USD nợ, chiếm 49,1% GDP.
Năm 2003, nợ công Việt Nam là 14,4 tỷ USD. Như vậy, chỉ trong một thập kỷ, tổng nợ đã tăng lên gấp 5. Nợ trên GDP thời điểm đó cũng đã gần 40%.
Theo báo cáo "Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam : Quá khứ, hiện tại và tương lai" của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP), tính đến hết năm 201, nợ công Việt Nam, nếu tính hết phần vay của các doanh nghiệp Nhà nước, có thể lên đến 95% GDP. Con số này vượt xa ngưỡng an toàn 60% được các tổ chức quốc tế khuyến cáo.
Theo cách tính của World Bank và Tổ chức tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được xác định là tổng khoản vay mượn và trái phiếu phát hành hoặc được bảo lãnh phát hành bởi chính quyền Trung ương, địa phương và cả doanh nghiệp Nhà nước.
Trong khi đó, cách định nghĩa nợ công của Việt Nam lại chỉ tính nợ của doanh nghiệp Nhà nước bảo lãnh mà ‘gạt’ đi nhiều khoản nợ rất lớn của doanh nghiệp Nhà nước, kể cả những doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu trên 50% vốn.
Do đó, nếu tính thêm cả khoản nợ của khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà không được Chính phủ bảo lãnh như nợ nước ngoài, trái phiếu trong nước và nợ hệ thống ngân hàng thì nợ công Việt Nam lên xấp xỉ 95% GDP, vượt xa so với ngưỡng an toàn 60% GDP được các tổ chức quốc tế khuyến cáo.
Như vậy, tổng sản phẩm quốc nội được làm ra của đất nước là 100 đồng nhưng người dân cũng đang ‘cõng’ 95 đồng vay nợ.
Đến tháng 5/2014, trên đồng hồ đo nợ công toàn cầu của The Economist sáng 21/5/2014, nợ công của Việt Nam là 81,4 tỷ USD, tăng 11 % so với năm 2013. Trung bình, mỗi người dân Việt đang gánh 900,13 USD nợ, chiếm 47,8 % GDP.
Cách đó 10 năm, nợ công Việt Nam là 17,4 tỷ USD, bình quân 211 USD mỗi người. Như vậy, chỉ trong một thập kỷ, tổng nợ đã tăng hơn gấp 4.
Những con số nợ nần ở trên đều được tính trong thời gian cầm quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, xuyên qua hai ‘đời’ Tổng bí thư là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng.
Nợ phải trả vượt quá ngưỡng cho phép
Ông Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), nhận định trong năm 2021, khi áp dụng cách tính GDP mới thì tỷ lệ nợ công sẽ giảm mạnh chỉ còn khoảng 45 – 46% GDP. Thế nhưng, giá trị tuyệt đối của nợ công vẫn đang tăng nhanh và tỷ lệ nợ công trên mức thu ngân sách nhà nước cũng tăng nhanh. Điều đó dẫn đến gánh nặng trả nợ hằng năm của Chính phủ và phá vỡ chính sách thu chi của quốc gia.
Dù nợ công vẫn nằm trong ngưỡng cho phép nhưng số tiền vay trả nợ gốc, đáo hạn, bù bội chi lại đang tăng nhanh. Nếu như năm 2017, nợ phải trả 144.000 tỷ đồng thì đến năm 2020 con số phải trả nợ cả gốc lẫn lãi lên hơn gấp đôi, khoảng trên 318.000 tỉ đồng. Đặc biệt, năm 2020, tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ nước ngoài/xuất khẩu là 34,6%, vượt gần 10% so với mức trần 25% mà Quốc hội cho phép. Đây là một chỉ số mà Chính phủ cũng cho rằng "cần có biện pháp để kiểm soát chỉ tiêu này".
Đồng thời, đến hết năm 2020, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước ước khoảng 24,1% và nợ nước ngoài quốc gia khoảng 47,9% GDP. Bước sang năm 2021, dự kiến chi trả nợ trực tiếp hơn 368.000 tỷ đồng, bằng khoảng 27,4% thu ngân sách, cũng cao hơn mức trần cho phép.
Ngoài ra, theo dự toán phân bổ ngân sách năm 2021, Chính phủ phải vay khoảng 579.772 tỷ đồng để cân đối ngân sách trung ương bao gồm các khoản vay bù đắp bội chi ngân sách khoảng 318.870 tỷ đồng ; vay để trả nợ gốc của ngân sách khoảng 260.902 tỷ đồng. Như vậy Chính phủ phải đi vay bù đắp bội chi ngân sách, đồng thời phải vay để có tiền trả nợ gốc, và số tiền vay năm sau luôn cao hơn năm trước trong mấy năm qua.
Ông Phạm Thế Anh nhận định do dịch bệnh Covid và thiên tai bão lũ, năm 2020 có thể chấp nhận tỷ lệ nợ phải trả tăng cao. Nhưng dự kiến từ năm 2021, tỷ lệ nợ phải trả trên số thu ngân sách nhà nước lên hơn 27% là một con số gây lo lắng và cần phải được khống chế.
Vì vậy, không thể nhìn vào tỷ lệ nợ công theo con số GDP nữa. Thước đo nợ công phải dựa vào tỷ lệ nợ công trên thu ngân sách. Trong giai đoạn tới, thu ngân sách của Việt Nam sẽ không thể tăng mạnh vì khó tăng thêm thuế, phí hay các dịch vụ công cơ bản như y tế, giáo dục người dân phải chi trả nhiều hơn.
Vì vậy tỷ lệ trả nợ trên thu ngân sách sẽ tăng vọt. Người dân thêm khốn khó trong năm nay là điều không gì bàn cãi.
Trang web đồng hồ nợ công cho biết hiện bình quân mỗi người dân Việt Nam đang ‘gánh nợ’ là 4.340 USD.
Võ Hàn Lam
Nguồn : VNTB, 01/05/2021
Nợ công gần 74 tỉ USD, Hà Nội ‘loay hoay vay mới trả cũ’ (Người Việt, 17/06/2019)
Thu ngân sách không đủ để vừa nuôi guồng máy đảng và nhà nước lại còn trả nợ nên nợ công vẫn tiếp tục leo thang khiến nhà cầm quyền Việt Nam "loay hoay vay mới trả cũ".
Công nhân may quần áo đàn ông để xuất khẩu tại một cơ sở ở Hà Nội. (Hình : MANAN VATSYAYANA/AFP/Getty Images)
Báo VietnamNet hôm Thứ Hai, 17/6/2019 cho biết : "Nợ công dù giảm vẫn lên đến hơn 3,2 triệu tỷ đồng (tức khoảng 73,92 tỉ USD) áp lực trả nợ đang ngày càng lớn lên. Nhưng tiền làm ra vẫn không đủ để trả nợ, cho nên chính phủ vẫn phải vay nợ mới để trả nợ cũ".
Về tỉ lệ nợ công so với năm trước thì báo cáo của Việt Nam nói "về mặt số liệu, thì nợ công so với GDP đã giảm", nhưng đổ đồng, cứ mỗi người dân phải cõng 32 triệu động tiền nợ hay khoảng 1.385 USD.
Chỉ riêng năm 2018, Việt Nam phải trả tổng cộng khoảng 250 ngàn tỷ đồng (khoảng 5,775 tỉ USD). Trong đó, trả nợ trong nước là 198.907 tỷ đồng mà gần một nửa là để trả lãi. Ngoài ra, trả nợ nước ngoài là hơn 51 ngàn tỷ đồng.
"Số liệu của Bộ Tài chính cho thấy, nhu cầu trả nợ gốc tăng nhanh trong một vài năm gần đây, năm 2017 là 144 ngàn tỷ đồng, 2018 là hơn 146 ngàn tỷ đồng. Năm 2019 dự kiến là 181.970 tỷ đồng, nếu tính cả chi trả nợ gốc của ngân sách địa phương, tổng số chi trả nợ gốc năm 2019 là xấp xỉ 200 ngàn tỷ đồng. Điều đáng lưu ý là, dù thu ngân sách hàng năm vẫn liên tục tăng cao, nhưng vẫn không bù nổi chi. Thu ngân sách vẫn thấp hơn số chi ngân sách", theo bản tin VietnamNet nói trên.
Vì thu ngân sách năm 2019 dự trù vẫn thấp hơn chi ngân sách tới 222 ngàn tỷ đồng, cho nên nhà cầm quyền Việt Nam, giống như những năm trước, vẫn phải vay nợ thêm để bù đắp cho phần "chi nhiều hơn thu" làm cho nợ công ngày càng cao chứ không giảm.
Cuối tháng 5/2019 vừa qua, tin tức cho hay nhà cầm quyền Việt Nam phải vay tới 700.000 tỉ đồng (hay khoảng 16,17 tỉ USD) để trả nợ cho ba năm 2019-2021. Chỉ ít ngày trước đó, ngày 22/5/2019, VnExpress nói nhà cầm quyền trung ương đã phải ứng ra 97 triệu USD "trả nợ cho dự án thua lỗ ngàn tỉ" tức nhà máy bột giấy Phương Nam do Bộ Công thương làm chủ đầu tư.
Tháng 3/2018, báo VnExpress dựa vào "báo cáo của kiểm toán nhà nước chuyên đề kiểm toán nợ công" cho biết, "tính đến cuối năm 2016, nợ công của Việt Nam là 2.868 triệu tỷ đồng, tăng 12% so với 2015. Trong đó, nợ chính phủ là 2,37 triệu tỷ đồng (chiếm gần 83%). Nợ được chính phủ bảo lãnh gần 462.000 tỷ đồng, nợ chính quyền địa phương hơn 34.000 tỷ đồng. Riêng nợ nước ngoài của chính phủ là 947.500 tỷ đồng (khoảng 43 tỉ USD), chiếm khoảng 40%". (TN)
*********************
Nợ công của Việt Nam gây tranh cãi, chuyên gia cảnh báo rủi ro (VOA, 17/06/2019)
Vấn đề nợ công của Việt Nam mới đây lại được báo giới trong nước mổ xẻ, lưu ý đến áp lực "vay nợ mới chỉ để trả nợ cũ" và ngân sách không dư bao nhiêu tiền để đầu tư, phát triển. Hai chuyên gia kinh tế, tài chính bình luận với VOA rằng tổng số nợ của Việt Nam vẫn đang ngày càng tăng là "rất nguy hiểm", đặt ra nguy cơ "vỡ nợ".
Việt Nam trả nợ công vay từ trong nước lẫn nước ngoài lên đến hàng trăm tỷ đồng hàng năm
Vấn đề nợ công của Việt Nam mới đây lại được báo giới trong nước mổ xẻ, lưu ý đến áp lực "vay nợ mới chỉ để trả nợ cũ" và ngân sách không dư bao nhiêu tiền để đầu tư, phát triển. Hai chuyên gia kinh tế, tài chính bình luận với VOA rằng tổng số nợ của Việt Nam vẫn đang ngày càng tăng là "rất nguy hiểm", đặt ra nguy cơ "vỡ nợ".
Các trang VietnamNet và Tin tức Việt Nam hôm 17/6 dẫn dữ liệu trong một báo cáo của chính phủ trình quốc hội, cho hay năm 2018 Việt Nam có nợ công đạt ngưỡng 3,2 triệu tỷ đồng, bình quân mỗi người dân gánh hơn 32 triệu đồng nợ công.
Theo hai báo mạng, tỷ lệ nợ công Việt Nam đã giảm xuống mức tương đương với 58,4% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cũng là mức thấp nhất 3 năm qua, song chính phủ đang đối mặt thách thức về trả nợ do "thu không bù nổi chi".
Thu ngân sách năm 2019 dự kiến "vẫn thấp hơn chi ngân sách 222 nghìn tỷ đồng", bài báo của VietnamNet cho biết, vì vậy, chính phủ "vẫn phải vay nợ thêm" để bù đắp cho phần chi nhiều hơn thu này.
Tổng mức vay của ngân sách Việt Nam năm 2019 dự kiến sẽ lên tới hơn 425 nghìn tỷ đồng, trong đó phần vay để bù đắp bội chi là 224 nghìn tỷ đồng còn vay để trả nợ gốc là trên 200 nghìn tỷ đồng, VietnamNet tường thuật.
Cùng lúc, Tin tức Việt Nam trích lại lời phát biểu của đại biểu quốc hội Hoàng Quang Hàm (đoàn Phú Thọ) tại một phiên thảo luận mới đây rằng "sức ép trả nợ đang tăng, có thời điểm số nợ đến hạn trả rất lớn, tiềm ẩn rủi ro thanh khoản, khó khăn cho vay đảo nợ".
Về bức tranh toàn cảnh gồm nợ công và ngân sách Việt Nam, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, một chuyên gia kinh tế uy tín, nói với VOA rằng chi trả nợ chiếm 24-25% tổng chi ngân sách, bên cạnh đó là 65-70% chi thường xuyên, phần chi cho đầu tư "không còn được bao nhiêu".
Ông Doanh đưa ra cảnh báo :
"Hiện nay, Bộ Tài chính, chính phủ phải phát hành trái phiếu. Cái trái phiếu đó dùng để chi trả nợ. Trong đó có trả nợ lãi và một phần trả nợ gốc, cho nên là tổng số nợ ngày càng tăng lên chứ chưa giảm đi được, và đó là vấn đề rất nguy hiểm".
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia tài chính-ngân hàng người Mỹ gốc Việt, nói với VOA rằng dùng nợ mới để trả nợ cũ không phải là cách để giải quyết nợ công vì "cuối cùng dư nợ không thay đổi". Điều quan trọng, theo ông Hiếu, là phải có khả năng trả để dư nợ giảm dần.
Tiến sĩ Hiếu có chung suy nghĩ như nhà kinh tế Lê Đăng Doanh về mối nguy mà Việt Nam phải đối mặt. Ông Hiếu nói :
"Dùng nợ cũ để trả nợ mới ở Việt Nam gọi là tái cơ cấu nợ. Nhưng nếu chúng ta sử dụng ‘tái cơ cấu nợ’ chỉ để trì hoãn việc trả nợ thì điều này rất nguy hiểm vì đến cuối cùng dư nợ cứ thế tăng mãi. Cái rủi ro, cái nguy hiểm của tái cơ cấu nợ là chúng ta có một cái ảo tưởng là mình có trả nợ, nhưng thực tế là nợ càng ngày càng lớn, và nó tạo ra rủi ro về tài chính cho quốc gia".
Chuyên gia tài chính-ngân hàng có hơn 30 năm kinh nghiệm ở Mỹ, Đức và Việt Nam đưa ra đề xuất rằng Việt Nam nên đặt ra ngưỡng về nợ công bằng con số tuyệt đối, thay vì một tỷ lệ phần trăm so với GDP.
Ông Hiếu cho rằng nếu áp dụng như vậy, nợ công sẽ được khống chế và giảm dần, ngược lại, với cách tính bằng tỉ lệ phần trăm, khi GDP tăng, số nợ công cũng gia tăng và khó kiểm soát.
Cũng góp ý về cách kiềm chế nợ công, tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói :
"Điều quan trọng của Việt Nam là phải cắt giảm chi thường xuyên và phải tinh giản bộ máy".
Theo báo cáo của chính phủ được báo chí trích đăng, Việt Nam phải trả tổng cộng khoảng 250 nghìn tỷ đồng năm 2018. Trong đó, trả nợ trong nước là 198 nghìn 907 tỷ đồng và trả nợ nước ngoài là hơn 51 nghìn tỷ đồng. Trong phần trả nợ trong nước, chiếm gần một nửa là để trả lãi.
VietnamNet dẫn lời ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính, cho hay rằng "một trong các vấn đề tác động đến sự an toàn nợ công của Việt Nam là việc các khoản vay sắp đến hạn trả".
Một ví dụ được đưa ra là nhiều khoản vay trong nước cơ bản sẽ đến hạn sau 5 năm vay. "Một số khoản vay ODA, kể cả có lãi và không lãi cũng đến hạn phải trả nợ gốc vào năm 2020… làm gia tăng áp lực trả nợ vào thời gian tới", bài báo có trích lời ông Hiển cho hay.
Nguồn cơn ẩn giấu nào khiến ‘nợ công Việt Nam xuống mức thấp nhất từ năm 2015’ ?
Cho đến nay và cùng với số nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân tăng vọt, nợ công quốc gia thậm chí còn tồi tệ hơn những năm trước.
Nợ công Việt Nam - Tranh biếm họa (Nhốp)
Trong Báo cáo gửi Quốc hội, Bộ Tài chính dự kiến Nợ công Việt Nam năm 2018 sẽ đạt mức 58,4%, thấp hơn các năm từ 2015 – 2017 (nợ công giai đoạn này lần lượt là 61,3% – 63,7% – 61,3%).
Theo đó, "các chỉ tiêu nợ nói trên đảm bảo trong giới hạn được Quốc hội quyết định tại Nghị quyết 25/2016/QH14 về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 -2020 và thấp hơn mức dự kiến tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 1/1/2018 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 và báo cáo Quốc hội số 46/BC-CP ngày 19/10/2018 của Chính phủ về tình hình nợ công năm 2018 và dự kiến năm 2019".
Trước đó tại kỳ họp quốc hội tháng Mười năm 2018, Nguyễn Xuân Phúc - quan chức thủ tướng bị dư luận đánh giá là còn ‘nổ’ hơn cả người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng, đã khoe khoang thành tích nợ công quốc gia đã giảm xuống chỉ còn 61,4% GDP - tức chưa chạm vào ngưỡng giới hạn trên là 65% GDP.
Nhưng có thực như vậy không ?
Theo phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt vào đầu năm 2017 ngay trên một tờ báo nhà nước là Thời báo Kinh tế Sài Gòn, nợ của 3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210% GDP.
Cho đến nay và cùng với số nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân tăng vọt, nợ công quốc gia thậm chí còn tồi tệ hơn những năm trước.
Bối cảnh ngân sách cạn kiệt, cụ thể là chẳng còn khoản kết dư đáng kể nào, cũng là lúc đang có nhiều dấu hiệu cho thấy nợ công sắp "vỡ" và Chính phủ không còn khả năng trả nợ thay cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước. Đó là nguồn cơn vì sao Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) - được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2017 - lại cố tình không gộp cả phần nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước, dù loại nợ này lại là một trong 5 định nghĩa về nợ công của cơ quan thống kê của Liên hiệp quốc.
Điều trớ trêu là vào đầu năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải thốt ra một đánh giá chưa từng có tiền lệ : "Nếu tính đủ, nợ công đã vượt trần".
Đó là lần đầu tiên ông Phúc tỏ ra cám cảnh thật sự trước tình cảnh ‘đổ vỏ’ của mình cho đời thủ tướng trước là Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí sau đó ít lâu, ông Phúc còn thốt ra một tán thán khác ấn tượng không kém : ‘sụp đổ tài khóa quốc gia’.
Tuy nhiên từ đó đến nay, Thủ tướng Phúc đã im bặt mà không còn bất kỳ lời thú nhận thực nào về cảnh nạn khốn khó của ngân sách và nợ công nữa. Thay vào đó, quan chức này đi nhiều địa phương mà gần như ở đâu cũng được ban tặng là ‘đầu tàu kinh tế của cả nước’ - một thủ thuật chính trị mà dư luận chẳng khó gì để nhìn ra ngay động cơ của ông Phúc muốn vận động sớm cho cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13 vào năm 2021.
Ngày càng dày đặc dấu hiệu cho thấy ông Phúc đang sa vào lối mòn về chủ nghĩa cường điệu và khoe khoang thành tích không biết chán của Nguyễn Tấn Dũng.
Trước khi bị "rớt đài" tại đại hội 12 của đảng cầm quyền, Nguyễn Tấn Dũng cũng đã bị các đối thủ chính trị đả kích mạnh về thói huênh hoang thành tích nhưng rất thiếu cơ sở khoa bọc. Còn giờ đây, Thủ tướng Phúc cũng có thể phải đối mặt với những đối thủ chính trị không ưa gì ông và luôn biết cách khai thác điểm yếu của ông, nhất là căn bệnh "giả số liệu".
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 24/05/2019
Ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội Việt Nam vừa công bố hai báo cáo thẩm tra về ngân sách nhà nước trong các năm 2017, 2018, 2019. Ấn tượng sâu đậm nhất từ hai báo cáo này là Việt Nam đang và sẽ tàn mạt vì… nợ !
Đồng hồ nợ công của tạp chí The Economist nêu con số nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là hơn $94 tỉ. (Hình : Trích từ website của The Economist)
Tự thân nợ nần không xấu, thậm chí hết sức cần thiết nếu vay mượn giúp dặm nền, hỗ trợ phát triển. Chỉ tiếc là báo cáo vừa kể chỉ ra, nợ nần đang dẫn Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh theo hướng… ngược lại !
***
Báo cáo đầu tiên - "thẩm tra về quyết toán ngân sách nhà nước năm 2017", cho biết, hết năm 2017, khối nợ của Việt Nam đã tăng thêm 204.413 tỉ đồng, nâng tổng nợ nần lên mức ba triệu tỉ đồng và nợ nần vẫn tiếp tục tăng trong khi thu – chi tiếp tục mất cân đối nên chẳng dư ra đồng nào để trả nợ (1).
Theo Ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội thì năm 2017, bội chi (chi nhiều hơn thu) là 136.963 tỉ đồng. Ủy ban này "khen" chính phủ "có nhiều nỗ lực trong quản lý, điều hành ngân sách và kiểm soát bội chi" nên giảm được 41.337 tỉ so với mức cho phép bội chi !
"Khen" như thế chẳng khác gì "khen"… đểu ! "Khen" xong, Ủy ban Tài chính và ngân sách chú thích : Bội chi năm 2017 giảm là do… giải ngân các dự án đầu tư bằng tiền đi vay chậm, hoàn toàn không phải do tiết kiệm chi tiêu để giảm vay !
Vì giải ngân chậm, năm 2017, tỉ lệ sử dụng vốn thu về từ việc bán trái phiếu, vốn vay ngoại quốc rất thấp. Cũng vì thế, năm 2017, so với kế hoạch đã định, chính phủ phải giảm vay ngoại quốc (20.195 tỉ đồng) và giảm vay trong nước (15.142 tỉ đồng).
Muốn biết giải ngân chậm nguy hại như thế nào, hãy liếc qua một báo cáo khác cũng của Ủy ban Tài chính và ngân sách và cũng mới được trình Quốc hội : "Báo cáo Thẩm tra về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ Ngân sách nhà nước năm 2018, triển khai dự toán Ngân sách nhà nước năm 2019" (2).
Trong báo cáo thứ hai, Ủy ban Tài chính và ngân sách cho biết, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2018 vẫn còn rất chậm, thậm chí thấp hơn tốc độ giải ngân năm 2017. Tính đến hết ngày 31 tháng 1 năm 2019 mới chỉ giải ngân được 75,8%. Giải ngân nguồn vốn trong nước chỉ đạt 79,8%, vốn trái phiếu chính phủ chỉ đạt 48,1%, vốn vay ngoại quốc chỉ đạt 53,6%. Tình trạng giải ngân chậm được cảnh báo là "đã diễn ra trong nhiều năm, chưa có giải pháp mạnh, hiệu quả để điều chỉnh cũng như khắc phục".
Có một điểm cần lưu ý, bản chất trái phiếu chính phủ là một loại phiếu vay nợ kèm cam kết trả lãi ở một mức nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định. Bán trái phiếu chính phủ là nhận nợ để trả lãi, hết hạn phải hoàn vốn. Chậm giải ngân nguồn vốn hình thành từ trái phiếu chính phủ là đi vay nhưng không dùng và oằn lưng trả lãi. Nói cách khác, hiện có 51,9% vốn vay thông qua phát hành trái phiếu chính phủ chỉ sinh… lãi, không sinh… lợi !
Tương tự, Ủy ban Tài chính và ngân sách phát giác chính phủ đã nhận nợ cho nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển (bao gồm cả ODA và những khoản vay ưu đãi của nhiều nhà tài trợ) nhưng vì chậm giải ngân, Việt Nam đang trả lãi cho những khoản đi vay mà không dùng. Ai cũng biết, ngoài lãi, vay còn kèm thời hạn, chậm giải ngân không chỉ phải gánh lãi một cách vô lý, thời gian sử dụng vốn vay ngắn, suất đầu tư chưa kịp sinh lợi đã phải hoàn vốn sẽ làm tăng áp lực trả nợ.
Đáng ngạc nhiên là Ủy ban Tài chính và ngân sách chỉ khuyến cáo nhẹ nhàng rằng… chậm giải ngân sẽ dẫn đến lãng phí, kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay rồi… thôi, cho dù có hai chi tiết đáng vã mồ hôi : (1) Đảm trách vai trò thẩm tra về Ngân sách nhà nước nhưng Ủy ban Tài chính và ngân sách không biết chính phủ đã nhận bao nhiêu nợ, thành ra phải "đề nghị chính phủ báo cáo rõ về số vốn vay đã nhận nợ". (2) Không ai ngăn được chính phủ tiếp tục "ban hành chính sách mới mà chưa xác định cụ thể về nguồn lực bảo đảm" để mắc nợ nhiều hơn !
***
Sau khi Ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội Việt Nam công bố hai báo cáo như đã dẫn, chính phủ Việt Nam cũng đã công bố "Báo cáo tình hình nợ công". Theo đó, năm ngoái, chính phủ đã dùng 250.000 tỉ đồng để trả nợ, trả lãi cho các khoản đã vay cả trong lẫn ngoài Việt Nam. Chính phủ dõng dạc tuyên bố là việc thực hiện nghĩa vụ trả các khoản nợ bao gồm gốc và lãi "nằm trong mức đã được phê duyệt tại các nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm đầy đủ, đúng hạn theo cam kết" (3).
Chẳng biết hệ thống truyền thông chính thức lược thuật có chính xác hay không nhưng đọc các bài lược thuật, "Báo cáo tình hình nợ công" của chính phủ giống như một "báo cáo thành tích và chỉ thế mà… thôi !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 22/05/2019
Chú thích :
(1) https://tuoitre.vn/no-cong-tang-them-ngan-sach-chua-co-du-de-tra-no-20190520165332942.htm
(2) http://ttvn.vn/kinh-doanh/chua-co-nguon-luc-thuc-hien-da-ban-hanh-chinh-sach-4201920594525167.htm
(3) https://tuoitre.vn/chinh-phu-tra-no-hon-250-000-ti-dong-trong-nam-2018-20190521132746227.htm
Vấn đề tốc độ và chất lượng tăng trường kinh tế của Việt Nam (RFA, 20/05/2019)
Trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 7 của Quốc hội Việt Nam Khóa XIV vào ngày 20/5, ông phó thủ tướng Trương Hòa Bình thay mặt chính phủ báo cáo trước Quốc hội rằng tình hình kinh tế xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, tình trạng lạm phát đã được kiểm soát, chỉ số tiêu dùng (CPI) bình quân 4 tháng tăng lên 2,71% và thấp nhất trong ba năm qua.
Phó thủ tướng Trương Hòa Bình báo cáo trước Quốc hội hôm 20/5. RFA
Ngoài ra, ông Trương Hòa Bình còn khẳng định trong năm 2018 Việt Nam có tốc độ tăng trưởng được xem thuộc trong nhóm cao nhất khu vực và thế giới.
Chuyên gia kinh tế, tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng, đây cũng có thể xem là tốc độ phát triển cao nhưng cao nhất thì cần phải xem xét.
"Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2018 đạt được khoảng 7,08% là thuộc dạng cao so với khu vực nhưng trong năm 2019 này thì tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đạt 6,7% – 6,8% mà thôi vì yếu tố khu vực cũng như trên thê giới có nhiều yếu tố bất lợi. Tôi nghĩ đây cũng được xem là tốc độ cao nhưng có phải cao nhất hay không thì cần phải được xem xét bởi vì ngay cả Campuchia hay Myanmar cũng có tốc độ tăng trưởng được xem là khá cao".
Còn đối với chuyên gia kinh tế Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu thì tốc độ tăng trưởng cao như báo cáo của chính phủ Việt Nam là chuyện bình thường vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn ở dạng quy mô nhỏ.
Ông giải thích "Có thể tốc độ tăng trưởng cao đối với các nước trong khu vực, tuy nhiên để tốc độ tăng trưởng của Việt Nam cao thì cũng là chuyện bình thường vì nền kinh tế Việt Nam vẫn trong một quy mô nhỏ, giống như một đứa trẻ khi mà còn nhỏ sẽ lớn nhanh hơn người trưởng thành. Tất nhiên đối với nền kinh tế non trẻ như Việt Nam thì tốc độ tăng trưởng phải nhanh hơn những nền kinh tế đã có bề dày kinh nghiệm về kinh tế. Nên thành ra điều đó không có gì là lạ cả".
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu khẳng định với chúng tôi rằng, vấn đề chính của Việt Nam không phải tăng trưởng cao hay thấp mà quan trọng là chất lượng của tăng trưởng đó có mang lại lợi ích cho quốc gia hay không.
"Không chỉ tăng trưởng về số mà còn về chất lượng, tăng trưởng đó nó phải giúp cho toàn thể các thành phần kinh tế trong các vấn đề về dân sinh, môi trường. Tóm lại điều quan trọng là tăng được chất lượng cuộc sống thì đó mới là điều chính. Nếu ở tỉ lệ cao thì nó cũng có sự tích cực nhưng không thể xem cái tỉ lệ đó như là một hình thức để khích lệ và đi ngược với chất lượng sự phát triển tăng trưởng".
Báo cáo của phó thủ tướng Trương Hòa Bình còn nêu ra tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm hẳn, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường đạt được nhiều kết quả rất quan trọng.
Công nhân trong một dây chuyền lắp ráp xe - Ảnh minh họa. AFP
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu thừa nhận những ai từng sống ở Việt Nam hơn 20 năm qua đều thấy được những thay đổi thuộc mọi lĩnh vực tại các thành phố lớn, đô thị hay trong sinh hoạt của người dân ; thế nhưng sự phân bố nguồn lợi không đều và khoảng cách giàu-nghèo là vấn đề phải quan tâm :
"Hiện tại GDP bình quân đầu người đâu đó khoảng 2.580 USD một đầu người đã tăng gấp đôi trong vòng hơn 10 năm qua. Tôi khẳng định là tốc độ tăng trưởng của Việt Nam khá tích cực. Còn tỉ lệ tăng trưởng đứng thứ nhất nhìn thế giới hay trong khu vực thì cái đó chỉ là một phần trong những cái mà chúng ta cần quân tâm nhưng cái cần quan tâm hơn về chất lượng để nâng cao đời sống chất lượng của người dân và đặc biệt trong sự ổn định và bền vững".
Nền kinh tế Việt Nam lâu nay dựa vào xuất khẩu là chủ yếu. Hai thị trường lớn nhất của nhiều hàng hóa xuất đi từ Việt Nam là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Cả hai nước này đang vướng vào cuộc thương chiến và giới sản xuất như Việt Nam tất nhiên phải chịu tác động.
Vấn đề là Việt Nam ứng phó ra sao để có thể tận dụng cơ hội như trình bày của Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu :
"Cuộc chiến tranh thương mại này nó cũng mở ra cho Việt Nam một số những cơ hội đặc biệt là về đầu tư. Như chúng ta cũng biết là một số nhà đầu tư từ Trung Quốc, họ đã và đang đi tìm những cơ hội để dịch chuyển các cơ sở sản xuất kinh doanh của họ sang những nước lân cận và trong đó có Việt Nam nên tôi nghĩ rằng thời gian sắp tới Việt Nam sẽ nhận được những nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và nếu Việt Nam tận dụng việc đó để chuyển giao công nghệ thì sẽ thành lợi thế lớn cho Việt Nam".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh chỉ ra những biện pháp mà Việt Nam cần thực hiện :
"Điều quan trọng nhất là tiếp tục cải cách về thể chế để làm sao có khung pháp luật, giảm bớt các chi phí về thời gian và tiền bạc. Có bộ máy và có một đội ngũ cán bộ thật sự kiến tạo sự phát triển cho doanh nghiệp chứ không phải là một đội ngũ chỉ ngồi quản lý và xem xét các doanh nghiệp, điều thứ hai là phải cải thiện kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, bến cảng, điện và công nghệ thông tin, thì đó là những yếu tố mà ta có thể cải thiện được".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhắc lại lợi thế lâu nay của Việt Nam là nguồn lao động giá rẻ và lương thấp nhưng lợi thế đó ngày nay đã dần phai nhạt bởi vì cách mạng công nghiệp 4.0 cần những lao động có tay nghề và được đào tạo bài bản chuyên môn cao. Do đó, cần cải cách chất lượng đào tạo, giáo dục để đáp ứng được nền kinh tế thị trường trong tương lai.
Những biện pháp mà Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đưa ra không hề mới ; tuy nhiên qua thời gian những điều được nói đến như thế vẫn chưa được thực hiện.
Thực tế trì trệ không tiến hành cải cách theo những đề nghị nêu ra làm chậm lại bước phát triển chung của cả nước mà lẽ ra tăng trưởng còn phải nhanh hơn và mang lại phúc lợi cho nhiều tầng lớp dân chúng hơn nữa ; chứ không chỉ một nhóm người được hưởng lợi như bấy lâu nay.
RFA tiếng Việt
****************
Truyền thông trong nước ngày 20/5 loan tin trích từ báo cáo Chính phủ gửi cho Quốc hội, cho biết nợ công Việt Nam tính đến hết ngày 31/12/2018 là 58,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), được xem là mức thấp nhất tính từ năm 2015 đến nay.
Nhân viên tại một ngân hàng ở Hà Nội đếm tiền đô la Mỹ - AFP
Theo báo cáo của Chính phủ Hà Nội, các số liệu về nợ đều nằm trong giới hạn được Quốc hội quyết định và thấp hơn so với dự kiến của Bộ Tài chính đưa ra vào cuối năm 2018. Cụ thể, mức nợ công được đề ra là 61,4% GDP và nợ chính phủ là 52,1%.
Số liệu thống kê trước đó cho thấy vào năm 2015 và 2017, mức nợ công của nhà nước Việt Nam là 61,3% GDP, trong khi năm 2016 là 63,7% GDP, chỉ riêng năm 2018 là dưới 60%.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, Phó Giáo sư - Tiến sĩ kinh tế Ngô Trí Long cho rằng nợ công giảm thấp so với nhiều năm trước đây là do cách tính thôi chứ bản chất không thay đổi, vẫn tương đối cao. Ông giải thích rõ hơn về cách tính nợ công mới mà chính phủ áp dụng cho năm 2018 :
"Chuyển phần để trả nợ loại ra ngoài, đương nhiên (nợ công) thấp. Nếu tính theo phương pháp cũ, thì vẫn như vậy, không có gì thay đổi. Về mặt kỹ thuật thôi. Tất nhiên giữ được mức độ không làm tăng thì cũng quý rồi nhưng với cách tính mới thì sẽ phản ảnh coi như nợ công giảm nhưng bản chất tính theo công thức cũ thì không có gì thay đổi".
Báo cáo của Chính phủ Hà Nội chỉ ra rằng một nguyên nhân giúp cho nợ công Việt Nam xuống thấp được như vậy một phần là do tăng trưởng GDP vượt kế hoạch và cao nhất trong 11 năm qua, đạt 5,5 triệu tỷ đồng và cao hơn kế hoạch 5.300 tỷ đồng.
Nhận xét về điều này, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long cho rằng nợ công tính trên GDP chỉ là chỉ tiêu để xem xét và những nhà nghiên cứu đang tính về mặt số lượng thôi, nhưng thực chất chủ yếu đánh giá về mặt tăng trưởng cần đánh giá về chất lượng, hiệu quả.
Còn theo Tiến sĩ kinh tế Đinh Trọng Thịnh, thuộc Học viện Tài chính Việt Nam, thì có nhiều nguyên nhân giúp giảm nợ công mà trong đó bao gồm cả GDP và việc quản lý nợ công.
Giải thích vai trò của GDP trong mối quan hệ với nợ công, Tiến sĩ Thịnh cho biết rằng do GDP lớn lên thì tỉ lệ nợ công/GDP sẽ nhỏ đi, đặc biệt là trong năm 2018, tăng trưởng GDP Việt Nam đạt hơn 7%, nên tổng GDP lớn, giúp giảm nợ công Việt Nam.
Vẫn theo Tiến sĩ Thịnh, sau rất nhiều lần các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà quản lý có ý kiến về việc tăng cường quản lý nợ công để giảm thiểu nợ công của quốc gia thì phía chính phủ Việt Nam cũng có những biện pháp rất quan trọng.
"Trước hết là việc phát hành trái phiếu để vay nợ trong nước bởi vì vay nợ trong nước thời gian gần đây tăng lên để thay thế cho nợ vay từ nước ngoài. Người ta cố gắng giảm nợ vay nước ngoài vì thường vay bằng ngoại tệ thì việc trả nợ khó khăn hơn vì ngoại tệ có những biến động lên xuống thất thường. Cơ cấu nợ công chủ yếu là nợ trong nước.
Điều thứ hai đáng nói là mặc dù nợ công trong nước tăng lên nhưng tỉ trọng vay nợ dài hạn trong nước nhiều hơn tỉ trọng vay nợ ngắn hạn trong nước trong khoảng thời gian trước đây. Tức là nợ công mà phát hành trái phiếu dài hạn trên 5 năm nhiều lên so với trái phiếu 3 năm, 2 năm như trước đây. Bây giờ giảm thiểu vay nợ ngắn hạn mà tăng vay nợ dài hạn. Đây cũng là một chiều hướng được đánh giá là thay đổi tỉ trọng vay nợ ở phương hướng tốt hơn vì thời gian vay càng dài thì thời gian sử dụng càng tốt và sẽ khả năng trả nợ sẽ có cơ hội tốt hơn".
Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh cho rằng đây cũng là một đường hướng rất tốt trong việc vay nợ và quản lý nợ của Việt Nam trong thời gian vừa qua, đặc biệt từ năm 2016 đến nay. Nó đang có chiều hướng theo đúng mong muốn của chuyên gia cũng như các nhà quản trị đó là cố gắng giảm thiểu tỉ trọng vay nợ công, cố gắng giảm tỉ lệ vay nước ngoài.
Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long, việc nợ công tại Việt Nam hiện nay chỉ là một chỉ số, điều đáng quan tâm hơn là khả năng trả nợ của Việt Nam có khả thi hay không, mà trong đó, khả năng trả nợ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, đầu tư và làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó, ông không lạc quan lắm về khả năng trả nợ của chính phủ Hà Nội :
"Khả năng trả nợ của Việt Nam đang rất nan giải mặc dù nhà nước Việt Nam ra rất nhiều luật như đầu tư công hay kéo lãi suất tiết kiệm, nhưng cuối cùng luật thì có đầy đủ nhưng khó có khả năng thực thi. Nên nếu không chấn chỉnh lại, với quan điểm cá nhân tôi thì tuy nợ công ở mức độ thấp nhưng khả năng trả nợ khó có khả năng thực hiện ở mức độ hiệu quả".
Còn Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh lại khẳng định khả năng trả nợ của Việt Nam hiện nay tốt hơn so với trước đây :
"Có thể yên tâm về mặt tính thanh khoản của khoản trả nợ công cũng như nợ nước ngoài hoàn toàn có thể đảm bảo được bởi vì dự trữ hối đoái của Việt Nam tương đối lớn. Thứ hai là các khoản chi ngân sách nhà nước ngày càng được siết chặt hơn và mất cân đối của ngân sách giảm đi nên khả năng trả nợ của chính phủ Việt Nam trong năm 2018-2019 đang tốt hơn lên".
Theo Báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2018, dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước năm 2019 do Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách, ông Nguyễn Đức Hải trình bày tại Hà Nội hôm 22/10/2018, mỗi người dân Việt Nam gánh hơn 34 triệu đồng nợ công, tăng gần 3 triệu đồng mỗi người so với năm 2017.
RFA tiếng Việt
******************
Nợ công Việt Nam xuống mức thấp nhất trong 4 năm qua (RFA, 20/05/2019)
Nợ công Việt Nam tính đến hết ngày 31/12/2018 là 58,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), được xem là mức thấp nhất tính từ năm 2015 đến nay.
GDP lớn lên thì tỉ lệ nợ công/GDP sẽ nhỏ đi - Ảnh minh họa. AFP
Truyền thông trong nước loan tin ngày 20/5, trích nội dung từ báo cáo Chính phủ gửi cho Quốc hội, cho biết thêm nợ Chính phủ là 50%, nợ nước ngoài/GDP là 46%.
Tin cũng cho biết, các số liệu về nợ vừa nêu đều nằm trong giới hạn được Quốc hội quyết định và thấp hơn so với dự kiến của Bộ Tài chính đưa ra vào cuối năm 2018. Cụ thể, mức nợ công được đề ra là 61,4% GDP và nợ chính phủ là 52,1%.
Báo cáo cũng chỉ ra những nguyên nhân giúp cho nợ công Việt Nam xuống thấp được như vậy một phần là do tăng trưởng GDP vượt kế hoạch và cao nhất trong 11 năm qua, đạt 5,5 triệu tỷ đồng và cao hơn kế hoạch 5.300 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, chính sách tài khóa được thực hiện tốt giúp thu cân đối ngân sách vượt 7,8% so với dự toán và bội chi ngân sách thấp hơn dự toán 3,7%. Việc tăng thu và giảm bội chi này cũng đã giúp giảm nhu cầu huy động vốn vay của phía Chính phủ Hà Nội.
Trước đó, vào năm 2015 và 2017, mức nợ công của nhà nước Việt Nam là 61,3% GDP, trong khi năm 2016 là 63,7% GDP, chỉ riêng năm 2018 là dưới 60%.
Nguyễn Xuân Phúc - quan chức thủ tướng bị dư luận đánh giá là còn ‘nổ’ hơn cả người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng, vừa khoe khoang thành tích nợ công quốc gia đã giảm xuống chỉ còn 61,4% GDP - tức chưa chạm vào ngưỡng giới hạn trên là 65% GDP - trước kỳ họp quốc hội mà nhìn vào góc xó nào cũng thấy ‘gật’.
Khoe khoang thành tích nợ công quốc gia đã giảm xuống chỉ còn 61,4% GDP, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn nổ hơn cả người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng
Điều trớ trêu là vào đầu năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải thốt ra một đánh giá chưa từng có tiền lệ : "Nếu tính đủ, nợ công đã vượt trần".
Đó là lần đầu tiên ông Phúc tỏ ra cám cảnh thật sự trước tình cảnh ‘đổ vỏ’ của mình cho đời thủ tướng trước là Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí sau đó ít lâu, ông Phúc còn thốt ra một tán thán khác ấn tượng không kém : ‘sụp đổ tài khóa quốc gia’.
Nhưng có thực nợ công quốc gia đã giảm xuống chỉ còn 61,4% GDP không ?
Vào năm 2011, nợ công quốc gia đã được chính phủ Nguyễn Tấn Dũng "ấn định" chỉ vào khoảng 55% GDP. Lý do hết sức dễ hiểu là nếu tống nợ vay nước ngoài của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước vào khái niệm nợ công quốc gia, nợ công sẽ vọt lên ít nhất 200% GDP ngay tại thời điểm năm 2011 - lúc tỷ lệ lạm phát trên báo cáo đã xấp xỉ 20%.
Còn từ năm 2011 đến năm 2015 và với đà vay mượn nước ngoài tăng tiến không ngừng nghỉ, nợ công chắc chắn đã tăng và nợ vay của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước cũng tăng chóng mặt (cho tới nay vẫn chưa có con số thống kê chính thức nào về số nợ vay nước ngoài phát sinh của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước trong khoảng thời gian 4-5 năm qua).
Có nghĩa là cho đến nay, nợ công quốc gia vẫn còn y nguyên, thậm chí còn tồi tệ hơn những năm trước.
Theo phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt vào đầu năm 2017 ngay trên một tờ báo nhà nước là Thời báo Kinh tế Sài Gòn, nợ của 3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210% GDP.
Vào cuối năm 2017, Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua, với nội dung đáng chú ý nhất của nó là đã không chấp nhận đưa các khoản vay nợ nước ngoài của tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào khái niệm nợ công quốc gia. Trong khi đó, loại nợ này lại là một trong 5 định nghĩa về nợ công của cơ quan thống kê của Liên hiệp quốc.
Về thực chất, Luật về nợ công của Việt Nam đã cố tình không gộp cả phần nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước. Bối cảnh ngân sách cạn kiệt, cụ thể là chẳng còn khoản kết dư đáng kể nào, cũng là lúc đang có nhiều dấu hiệu cho thấy nợ công sắp "vỡ" và Chính phủ không còn khả năng trả nợ thay cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước.
Không khó để dự đoán rằng một khi Chính phủ phủi tay trước nhiều món nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước, ngay trong năm 2017 sẽ xuất hiện những cái tên doanh nghiệp nhà nước bắt buộc phải phá sản, thậm chí còn phải đối mặt với vòng lao lý.
Nhưng bất chấp hàng loạt thành tích tô hồng về GDP liên tục tăng trưởng, nợ công được kéo xuống… của Nguyễn Xuân Phúc, đường đi lên của ông ta đã bị án ngữ hoàn toàn bởi một chủ tịch nước rất có thể sẽ ‘ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi’.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 27/10/2018
Công chúng lại có thêm cơ hội sững sờ khi Kiểm toán Nhà nước công bố báo cáo kiểm tra việc sử dụng công quỹ năm 2016 (được gọi là Báo cáo Kiểm toán Quyết toán Ngân sách năm 2016).
Đồng hồ nợ công của Việt Nam theo tuần báo The Economist.
Theo báo cáo vừa kể thì Bộ Kế hoạch và đầu tư tiếp tục mắc hàng loạt sai phạm : giao vốn cho các dự án đầu tư phát triển sai cả về thời điểm, lẫn cách thức đã được qui định tại Luật Đầu tư công (cấp vốn vượt mức đã được duyệt, cấp vốn sai đối tượng, cấp vốn khi dự án chưa được phê duyệt,…).
Kiểm toán Nhà nước chỉ mới ngó đến 283 báo cáo của 229 nơi đã phát giác, khoảng 40 dự án dở dang, cần hoàn tất sớm nhưng không được cấp vốn và Bộ Kế hoạch Đầu tư đã dùng nguồn vốn đó để hỗ trợ cho những dự án chưa cần thiết tiến hành khởi công. Có những dự án lẽ ra phải thực hiện theo hình thức vay ngân sách nhưng cuối cùng được Bộ Kế hoạch và đầu tư tự tiện chuyển thành "đầu tư trực tiếp" nên phía nhận vốn có quyền không hoàn tiền lại. Khoản tiền lẽ ra phải vay ngân sách được Bộ Kế hoạch và đầu tư chuyển thành "đầu tư trực tiếp" không đáng kể. Chỉ chừng… 3.000 tỉ đồng.
Những sai phạm của Bộ Kế hoạch và đầu tư dẫn tới hệ quả là ngân sách trong tài khóa 2016 đã được rút ra chi dùng sai nguyên tắc hàng chục ngàn tỉ đồng.
Năm ngoái, công chúng từng sững sờ khi Kiểm toán Nhà nước công bố báo cáo kiểm tra việc duyệt chi công quỹ năm 2015. Theo đó, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã tự ý lấy 1.900 tỉ từ công khố cấp cho hàng loạt dự án vốn chưa đủ cơ sở pháp lý để có thể nhận tiền từ công khố và cấp công quỹ vượt mức qui định cho nhiều dự án khác. Vào thời điểm đó, Kiểm toán nhà nước đã đề nghị Thủ tướng Việt Nam chỉ đạo Bộ Kế hoạch và đầu tư tổ chức kiểm điểm và truy cứu trách nhiệm của tất cả những cá nhân có liên quan song chẳng có ai hề hấn gì.
Năm nay, Bộ Kế hoạch và đầu tư lôi "bổn cũ" ra soạn lại và chẳng còn ai dám tin sẽ có kẻ bị "chặt đầu, lột da" vì phung phá !
***
Công quỹ bao gồm tiền thu được từ các loại thuế, phí, tiền vay ngoại quốc, tiền bán trái phiếu trong nước cho các tổ chức tài chính, tín dụng.
Giống như những lần trước, trong báo cáo kiểm tra việc sử dụng công quỹ năm 2016 mà Kiểm toán Nhà nước mới gửi Quốc hội Việt Nam, cơ quan này tiếp tục liệt kê hàng loạt dự án do các tập đoàn, tổng công ty của nhà nước đầu tư bằng nguồn tiền lấy từ công khố, liên tục được dúi thêm những khoản từ gấp đôi đến gấp… 36 lần mức dự kiến lúc soạn dự án (Dự án nạo vét, xây kè, bảo tồn cảnh quan sông Sào Khê, tỉnh Ninh Bình). Số tiền mà các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đề nghị trao thêm dao động từ vài ba ngàn tỉ đồng đến hàng chục ngàn tỉ đồng (Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn 1, tăng 10.320 tỉ đồng, Dự án Tổ hợp Bauxite - Nhôm Lâm Đồng, tăng 9.194 tỉ đồng,…).
Tiếp tục ngốn hết ngàn tỉ đồng này đến chục ngàn tỉ đồng khác nhưng các dự án "đầu tư phát triển" tiếp tục lỗ nặng từ vài chục tỉ đồng, vài trăm tỉ đồng đến vài ngàn tỉ đồng (tính đến giữa 2017, Dự án Nhà máy DAP 2 có lỗ lũy kế là 1.447 tỉ đồng, Dự án Nhà máy Đạm Hà Bắc có lỗ lũy kế là 2.035 tỉ đồng,…). Ngoài lỗ, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn… gian lận doanh thu, chi phí, nợ cả thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp) lẫn nhiều khoản mà trên nguyên tắc phải nộp lại cho công quỹ. Tính ra các tập đoàn, tổng công ty nhà nước toan giựt của dân chúng 19.000 tỉ đồng !
***
Vay ngoại quốc càng ngày càng khó, vay dân chúng trong nước thông qua các loại trái phiếu cũng vậy, rồi những nguồn thu từ khai thác tài nguyên, khoáng sản, thuế nhập cảng tiếp tục giảm vừa nhanh, vừa nhiều, trong khi nợ phải trả cũng như chi phí nuôi hệ thống công quyền mỗi ngày một lớn… trong bối cảnh bi đát như thế, Kiểm toán Nhà nước loan báo, năm 2016, hệ thống công quyền tiếp tục chi tiêu sai nguyên tắc tới 18.400 tỉ đồng !
Thay vì yêu cầu chính phủ tống cổ 57.000 cán bộ, công chức đã được xác định là nhận lương mà chẳng làm gì, thay vì đòi Thủ tướng và nội các phải xác định rạch ròi về mặt trách nhiệm, đệ trình giải pháp ngăn chặn ngay lập tức tình trạng phung phá, nhiều đại biểu của "nhân dân" tại Quốc hội lại bước lên một bước, đứng chung hàng với chính phủ !
"Chỉ trích" mà ông Nguyễn Mạnh Tiến, Đại biểu của tỉnh Tây Ninh tại Quốc hội Việt Nam, dành cho chính phủ Việt Nam vì… thu thuế đã chưa hết, lại còn chưa kỹ, để sót những người bán trà đá, loại hình kinh doanh có tỉ suất lợi nhuận từ 5.000% đến 7.000% - cao nhất trên thế giới, không thuộc loại chỉ để bình phẩm rồi cười.
Khó mà đòi hỏi ông Tiến nghĩ và hành xử khác hơn những người đồng Đảng. Thế nhưng nếu Quốc hội vẫn chỉ gồm toàn những người như ông Tiến thì cơ quan nào thực sự là đại diện cho toàn dân để "quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước" ?
Khi một Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Việt Nam muốn chắt cả trà đá để có tiền tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì an ninh tài chính, an ninh kinh tế quốc gia đã đáng để bận tâm chưa ? Tương lai của mỗi cá nhân, sự an ổn của từng gia đình sẽ ra sao ?
11 bộ (Kế hoạch và đầu tư, Tài nguyên và môi trường, Khoa học và công nghệ, Giao thông và vận tải, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Thông tin và truyền thông, Công thương, Tài chính, Quốc phòng, Công an, Xây dựng), chính quyền hai tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông và hai tập đoàn nhà nước là Than và khoáng sản (TKV), Điện lực (EVN), vẫn chưa khảo sát xong và chưa có báo cáo cuối cùng về dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên.
Đồng hồ nợ công của tạp chí The Economist nêu con số nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là hơn $94 tỉ. (Hình : Trích từ website của The Economist)
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Việt Nam thì 11 bộ, chính quyền hai tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông và TVN, EVN sẽ phải kháo sát, báo cáo về năm khía cạnh có liên quan tới dự án này : Chủ trương, hiệu quả sử dụng vốn, công nghệ, thị trường, sản phẩm.
Bởi Thủ tướng Việt Nam không ấn định thời gian nên chưa rõ bao giờ sẽ có báo cáo chính thức (?), sau đó báo cáo có được công bố rộng rãi hay không (?) và quan trọng nhất là có thừa nhận sai lầm, đồng thời có truy cứu trách nhiệm những cá nhân chủ trương và thúc đẩy việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên hay không ?
***
Dựa trên kết quả khảo sát của giới địa chất Liên Xô - xác định trữ lượng bauxite ở khu vực Tây Nguyên khoảng tám tỉ tấn, năm 2001, Ban Chấp hành trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam khóa 9, xác định phải khai thác bauxite ở Tây Nguyên và nhấn mạnh đó là "chủ trương lớn" của đảng này. Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam khóa 10 tái tuyên bố, khai thác bauxite ở Tây Nguyên là "chủ trương nhất quán" của giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Không chỉ các chuyên gia, trí thức, báo giới, một số tôn giáo, dân chúng mà nhiều cựu viên chức cao cấp của chính quyền cộng sản Việt Nam đã cùng lên tiếng ngăn cản việc thực hiện kế hoạch khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Đã có rất nhiều phân tích cặn kẽ cho thấy, nếu thực hiện dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, Việt Nam sẽ chìm trong nợ, môi trường – hệ sinh thái ở khu vực Tây Nguyên sẽ bị hủy diệt, Tây Nguyên sẽ thiếu cả nước lẫn điện, hàng tỉ tấn bùn đỏ do khai thác bauxite thải ra sẽ là một quả bom bùn lơ lửng trên đầu miền Nam, chưa kể nó còn mở toang cửa cho công nhân Trung Quốc tràn vào, cư trú tại một trong những khu vực trọng yếu về an ninh, quốc phòng,…
Bất chấp các khuyến cáo và phân tích thiệt hơn, cuối năm 2007, ông Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó là Thủ tướng Việt Nam vẫn phê duyệt kế hoạch khai thác bauxite tại Tây Nguyên. Tổng vốn đầu tư trong hai năm từ 2007 đến 2029 là 3,1 tỉ Mỹ kim.
***
Sau khi ngốn hết 15.415 tỉ đồng, Nhà máy Alumin Tân Rai ở Lâm Đồng bắt đầu được vận hành vào tháng 3 năm 2013 và chỉ tính đến tháng 9 năm ngoái, nhà máy này đã lỗ khoảng 3.700 tỉ đồng. Tương tự, sau khi ngốn hết 16.821 tỉ đồng, Nhà máy Alumin Nhân Cơ ở Đắk Nông bắt đầu vận hành vào tháng 11 năm ngoái. Đến tháng 8 vừa qua, chính quyền tỉnh Đắk Nông cho biết, họ hết sức thất vọng khi năm nay, Nhà máy Alumin Nhân Cơ chỉ có thể đóng góp cho ngân sách của cả trung ương lẫn địa phương (thuế) chừng 150 tỉ đồng, bằng ¼ so với dự trù (437 tỉ đồng), thành ra chính quyền tỉnh Đắk Nông đề nghị chính phủ cho họ hưởng luôn khoản 78 tỉ đồng - tương đương 52% - mà lẽ ra phải chuyển cho ngân khố quốc gia.
Đến giờ đã có khá nhiều dấu hiệu cho thấy, dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên trở thành "chủ trương lớn của Đảng cộng sản Việt Nam", gây ra đủ loại thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế - xã hội – môi trường, không đơn thuần là vì ngu dốt.
Tháng 3 năm nay, Thanh tra của Bộ Tài chính kết luận : Năm 2006, lúc vận động cho dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, TKV chỉ có ý định đầu tư 7.787 tỉ đồng vào Nhà máy Alumin Tân Rai ở Lâm Đồng. Sau khi giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam xác định, khai thác bauxite ở Tây Nguyên là "chủ trương lớn, nhất quán", TKV đã nâng vốn đầu tư vào Nhà máy Alumin Tân Rai ở Lâm Đồng (15.500 tỉ đồng). Dù vốn đầu tư tăng gấp đôi nhưng công suất của Nhà máy Alumin Tân Rai chỉ tăng chưa tới 1/10.
Nhà máy Alumin Nhân Cơ cũng vậy. Lúc đầu, TKV chỉ có ý định đầu tư 3.285 tỉ đồng vào nhà máy này nhưng sau khi khai thác bauxite ở Tây Nguyên trở thành "chủ trương lớn, nhất quán", TKV đã nâng vốn đầu tư vào Nhà máy Alumin Nhân Cơ lên năm lần (16.821 tỉ đồng). Dù vốn đầu tư tăng gấp năm lần, công suất của Nhà máy Alumin Nhân Cơ chỉ tăng hơn gấp đôi.
Dẫu Nhà máy Alumin Tân Rai ở Lâm Đồng thua lỗ trầm trọng vì giá quặng trên thị trường thế giới liên tục sụt giảm, mức tiêu hao năng lượng, nguyên vật liệu, hóa chất và nước cao hơn mức trung bình của thế giới nên giá thành rất cao, không thể cạnh tranh, dẫu tháng 8 năm 2014, TKV công khai thú nhận, cả Nhà máy Alumin Tân Rai và trong tương lai, Nhà máy Alumin Nhân Cơ sẽ tiếp tục lỗ, ít nhất là hơn một thập niên nữa mới có thể thu hồi vốn nhưng tháng 3 năm 2016, dựa vào yếu tố khai thác bauxite ở Tây Nguyên là "chủ trương lớn, nhất quán" của Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ Công Thương Việt Nam đã đề nghị và chính phủ Việt Nam đã chuẩn y, "hỗ trợ" thêm cho kế hoạch khai thác bauxite tại Tây Nguyên khoảng 5.000 tỉ trong 10 năm từ 2016 đến 2025. Theo một số chuyên gia, nếu tính cả hỗ trợ về giá điện thì khoản "hỗ trợ" phải tới 1,2 tỉ Mỹ kim !
Bởi thiếu thông tin nên người ta không biết các khoản "hỗ trợ" có bao gồm chi phí khắc phục hậu quả những vụ bùn đỏ tràn ra bên ngoài khuôn viên các nhà máy alumin Tân Rai và Nhân Cơ hay chưa ? Từ tháng 10 năm 2014 đến nay, thỉnh thoảng, bùn đỏ từ hai nhà máy alumin tại Tân Rai và Nhân Cơ lại tràn ra ngoài. Ông Nguyễn Văn Ban, cựu Trưởng ban Nhôm – Titan của TKV, từng nhận định đó là hệ quả tất nhiên của… "công nghệ Trung Quốc".
***
Khoan kể tới 32.000 tỉ đồng đã đầu tư cho kế hoạch khai thác bauxite ở Tây Nguyên không những không hề sinh lợi mà còn tạo thêm nợ nần do phải trả lãi và bù đắp các khoản thua lỗ, chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên đã hủy diệt tương lai của nhiều cá nhân, gia đình. Chẳng hạn trường hợp ông Đinh Đăng Định.
Ông Định, 51 tuổi, từng là một sĩ quan của quân đội cộng sản Việt Nam. Sau khi giải ngũ, làm việc cho nhiều công ty khác nhau, ông trở thành giáo viên dạy Hóa của trường trung học Lê Qúy Đôn ở huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông. Ông Định là một trong những người tích cực vận động dân chúng Đắk Nông ký tên vào kiến nghị yêu cầu không khai thác bauxite tại Tây Nguyên, vừa để bảo vệ môi trường của Tây Nguyên và vùng Đông Nam bộ, vừa nhằm ngăn chặn Trung Quốc đặt chân vào khu vực này.
Ông Định bị bắt năm 2011. Năm 2012 bị hệ thống tư pháp Việt Nam kết án sáu năm tù vì "tuyên truyền chống nhà nước". Nhiều lần ông Định được khuyến dụ nhận tội để hưởng "chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và nhà nước" song ông cương quyết từ chối. Trong tù, sức khỏe của ông suy kiệt trầm trọng và giờ chót mới được thăm khám, kết luận là ung thư bao tử.
Đại diện nhiều chính phủ, nhiều tổ chức quốc tế đã liên tục kêu gọi chính quyền Việt Nam phóng thích ông Định để ông nhắm mắt bên cạnh những người thân. Tháng 2 năm 2014, chính quyền Việt Nam loan báo đã cho ông Định tạm hoãn thi hành án trong 12 tháng. Tháng 3 năm 2014, Tòa án tỉnh Đắk Nông đến tư gia trao cho ông "Quyết định đặc xá". Đầu tháng 4 năm 2014, ông Định qua đời để lại ba đứa con dại…
Chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên cũng là nguyên nhân hủy diệt nhiều khu vực, nhiều doanh nghiệp.
Song song với kế hoạch khai thác bauxite ở Tây Nguyên, TKV đề nghị xây dựng một hải cảng tại khu vực Kê Gà thuộc xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận để tiếp nhận – xuất cảng quặng khai thác từ Tây Nguyên. Theo dự trù, cảng Kê Gà chiếm 2,3 cây số bờ biển, diện tích 366 héc ta, chi phí đầu tư lên tới một tỉ Mỹ kim. Đề nghị của TKV đã khiến tất cả các dự án xây dựng resort đã được cấy giấy phép đầu tư và đang triển khai ở Kê Gà bị đình chỉ để thu hồi đất, giao cho TKV.
Năm 2009, TKV tổ chức lễ khởi công xây dựng cảng Kê Gà nhưng sau đó, 366 héc ta ở Kê Gà bị bỏ hoang vì rõ ràng, bauxite tưởng vậy mà không phải vậy. Thế nhưng mãi đến năm 2013, ông Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó là Thủ tướng Việt Nam mới chính thức tuyên bố hủy bỏ kế hoạch xây dựng cảng Kê Gà và yêu cầu các bộ hữu trách trong chính phủ Việt Nam phối hợp với chính quyền tỉnh Bình Thuận giải quyết thiệt hại cho các doanh nghiệp du lịch từng đầu tư vào khu vực Kê Gà ! Nhiều doanh nghiệp trong số này đã mấp mé bên bờ vực phá sản.
Bộ Công Thương đã từng tổ chức giám định thiệt hại nhưng những doanh nghiệp phải gánh chịu hậu quả của dự án cảng Kê Gà không đồng ý vì hai lý do : (1) Mức độ thiệt hại được bên gây thiệt hại (TKV) thừa nhận thấp hơn nhiều so với thiệt hại thực tế. Chính quyền tỉnh Bình Thuận, trung gian giữa hai bên (gây thiệt hại và bị thiệt hại) ước tính thiệt hại là 85,7 tỉ đồng nhưng TKV chỉ đồng ý bồi thường 37,4 tỉ đồng. (2) Dù tổng số thiệt hại thấp hơn nhiều so với thiệt hại thực tế nhưng những doanh nghiệp bị thiệt hại vẫn chưa nhận được đồng nào.
Cho dù khoản bồi thường là 85,7 tỉ đồng hay 37,4 tỉ đồng thì chắc chắn tiền bồi thường cũng sẽ được lấy từ ngân sách. Ở Việt Nam, nợ nần là thứ mà chính phủ không hề lo.
Trân Văn
Nguồn : VOA, 20/11/2017
Khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của nhiều quốc gia chưa phát triển đang mắc nợ quá nhiều, như Venezuela hay Việt Nam và nhiều xứ khác nữa, người dân có thể tự hỏi là nhà nước nghĩ gì khi quyết định đi vay…. Diễn đàn Kinh tế xin đi ngược về câu hỏi rất cơ bản đó…
Người đàn ông đi xe máy chở gỗ trên một đường cao tốc ở ngoại thành Hà Nội hôm 24/5/2017. AFP
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, nợ công hay "công trái" như ông thường gọi là khối nợ của công quyền. Tại Việt Nam khối nợ ấy đã lên tới mức báo động vì tăng quá nhanh. Nhưng kỳ này, thính giả của chúng ta có lẽ cần trở ngược lên vấn đề nguyên thủy, là nhà nước nghĩ gì khi đi vay để ngày nay Việt Nam lâm vào những khó khăn đó ? Ông nghĩ sao về điều này ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : - Quả thật là chúng ta phải trở lại đầu nguồn với câu hỏi là nhà nước nghĩ gì khi đi vay ? Nếu thiếu tiền phát triển, một quốc gia cần đi vay thì phải tính xem là vay ai. Hai giải pháp cho nhu cầu đó là vay trong nước hay vay ngoại quốc. Từ đấy họ có hai chọn lựa, là vay bằng nội tệ là đồng bạc nội địa của quốc gia, hay bằng ngoại tệ, là đồng tiền của xứ khác. Những giải pháp khá cơ bản ấy có nhiều hậu quả khác biệt mà nhà nước phải tính trước.
- Trước nhất, khi nhà nước vay trong nước bằng nội tệ, là đồng bạc do chính mình phát hành, thì khi phải trả nợ chỉ cần phá giá là nhà nước vẫn coi như hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, nhưng với đồng tiền bị mất giá so với khi đi vay. Nhiều xứ lạc hậu vẫn hay nghĩ tới loại giải pháp trưng thu xù nợ ấy và bị khủng hoảng. Thứ hai, khi nhà nước đi vay bằng ngoại tệ thì tránh được biện pháp phá giá hay bơm tiền thật nhiều để trả nợ, nhưng lại gặp vấn đề còn rắc rối hơn.
Nguyên Lam : Ai cũng có thể nghĩ đến bài toán đầu tiên là nếu đi vay thì có thể gặp rủi ro. Ông lại phân biệt hai cách vay là nội tệ và ngoại tệ, rồi nói rằng vấn đề vay bằng ngoại tệ còn rắc rối hơn. Thưa ông, sự rắc rối đó là gì ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : - Khi vay tiền ngoại quốc là vay ngoại tệ, một quốc gia có thể chọn là khoản nợ ấy được yết giá bằng nội tệ, giả dụ như đồng Việt Nam, hay bằng ngoại tệ, tính bằng Mỹ kim chẳng hạn. Và khi vay thì cũng phải tính rằng tiền lời thỏa thuận là bao nhiêu, từ đó ta có hai vấn đề khác, nôm na là tín dụng và ngoại hối, nghĩa là hối đoái.
- Giả thuyết thứ nhất là vay ngoại quốc mà yết giá khoản nợ bằng nội tệ khi khi trả nợ, trị giá của đồng bạc quốc gia sẽ ảnh hưởng đến phân lời phải thanh toán. Nếu đồng bạc mất giá thì tiền lời sẽ đắt hơn, là trường hợp khá phổ biến của các nước nghèo cần đi vay. Và càng phá giá đồng bạc thì càng gây khó cho việc hoàn trái sau này. Đấy là rủi ro tín dụng và lại thành phức tạp hơn khi ta châm thêm một yếu tố bất trắc là tỷ giá hay hối suất giữa nội tệ và ngoại tệ.
- Giả thuyết thứ hai là vay tiền yết giá bằng ngoại tệ. Khi ấy, trị giá tương đối của hai đồng bạc quy thành tỷ giá hay hối suất cũng ảnh hưởng đến việc trả nợ. Giả dụ như quốc gia vay một trăm triệu đô la với phân lời 10% và tỷ giá là 10 ngàn đồng Việt Nam ăn một đô la thì tiền lời phải trả là 10 triệu đô la một năm, tính ra bạc Việt Nam là 100 tỷ bạc. Nếu đồng bạc mất giá, sau này giả dụ như phân nửa, phải 20 ngàn đồng mới ăn một đô la thì khoản tiền lời 10 triệu đô la ấy sẽ tăng gấp đôi nếu tính bằng nội tệ, tức là sẽ thành một khoản chi lớn hơn cho ngân sách quốc gia. Bây giờ, nếu tính đến phần vốn lẫn lời đến kỳ thanh toán thì ta thấy ra vấn đề.
Nguyên Lam : Như ông vừa trình bày thì có lẽ người ta hiểu ra vì sao gánh nợ của Việt Nam là vấn đề khi tỷ giá đồng đô la tăng mạnh từ vài năm nay sẽ làm nghĩa vụ trả nợ lại đắt hơn. Khi ấy câu hỏi đặt ra là mặc dù gặp rủi ro như vậy, vì sao nhà nước vẫn đi vay bằng ngoại tệ ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : - Chúng ta có thể thấy vài ba lý do. Thứ nhất, khả năng cho vay trong nước tùy vào khả năng tiết kiệm, sức huy động ký thác và tiền lời cho vay. Ký thác thấp, tiền lời cao với áp lực lạm phát mạnh khiến việc vay tiền trong nước bị giới hạn, như ta đã thấy mấy năm trước. Thứ hai, nhà nước lại coi trọng chỉ tiêu tăng trưởng và đòi bơm thêm tín dụng mà thu hút ký thác không đủ vì lãi suất huy động quá thấp và lãi suất thực của việc đi vay lại quá cao nếu kể thêm các lệ phí thực chất là loại trưng thu phải thanh toán cho các ngân hàng, vì vậy nhà nước tưởng khôn vẫn cho phép doanh nghiệp đi vay bằng ngoại tệ.
- Thứ ba, trong hoàn cảnh yếu kém của hệ thống ngân hàng nói chung, như chúng ta đang thấy ngày nay, mà nhà nước vẫn muốn bơm tín dụng để kích thích sản xuất bất kể tới phẩm chất thì các ngân hàng hay doanh nghiệp của nhà nước được khuyến khích đi vay bằng ngoại tệ, nhất là khi lãi suất trên thế giới giảm mạnh từ mươi năm nay. Và sau cùng, trong khi tư nhân khó được vay bằng ngoại tệ, các chủ nợ ngoại quốc vẫn tin là chính nhà nước bảo lãnh các khoản nợ này nên dễ cho vay hơn. Kết cuộc thì ngân hàng vay ngoại quốc với phân lời thấp và cho bên trong vay lại bằng nội tệ với lãi suất cao và doanh nghiệp nhân danh nhà nước thì càng vay mạnh hơn để đưa vào các dự án kém hiệu năng. Nhưng hậu quá đáng ngại của ngần ấy lý do là nhà nước đi vay với rủi ro dài hạn để có mức tăng trưởng ngắn hạn hàng năm rồi sẽ có ngày tính sổ, là lúc này, vì phải trả nợ đắt hơn trong khi khối dự trữ ngoại tệ thật ra vẫn còn giới hạn.
Nguyên Lam : Nếu vậy thì việc nhà nước đi vay tưởng như vì lý do kinh tế lại có thể phức tạp hơn vì chỉ tiêu tăng trưởng ở trên đưa xuống nhằm kích thích đầu tư và đi vay qua nhiều, khi Ngân hàng Nhà nước không được rộng quyền nâng lãi suất để tăng huy động ký thác trong nước. Thưa ông, phải chăng chính trị vẫn là yếu tố then chốt mà sau cùng thì quy luật kinh tế phản hồi lại nên sẽ gây ra vấn đề tài chính ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa : - Chúng ta thấy hiện tượng này với một kích thước lớn hơn, đó là tại Trung Quốc khi nhà nước, doanh nghiệp lẫn cơ sở tài chính hay các hộ gia đình đều mắc nợ rất nhiều và nhanh để có được mức tăng trưởng cao. Đấy là một trong những bài toàn lớn của xứ này, nhưng họ vẫn còn một khối dự trữ ngoại tệ đáng kể khả dĩtrì hoãn được cái giờ tính sổ, với cái giá phải trả sẽ cao hơn sau này. Lãnh đạo Bắc Kinh hiểu chuyện ấy và đang ra sức giải quyết trong khi người ta chưa biết lãnh đạo Hà Nội tính sao sau khi đã vay quá trớn.
- Dư luận cứ chỉ nói đến khoản nợ công của chính phủ, chứ còn khoản nợ của doanh nghiệp hay cơ sở quốc doanh, bằng nội tệ hay ngoại tệ, là bao nhiêu thì cũng chẳng có thống kê chính xác. Bên trong các khoản nợ này thì tỷ lệ nợ xấu là bao nhiêu có lẽ cũng khó ai biết. Rốt cuộc thì đấy mới là những khoản nợ thật mà toàn dân sẽ phải trả sau này, dưới hình thức thuế khóa, phá giá hay lạm phát và sau cùng là vỡ nợ. Vì vậy chương trình của chúng ta mới khởi đầu với câu hỏi là nhà nước nghĩ gì khi đi vay.
Nguyên Lam : Nếu vậy, thưa ông nhà nước có thể gặp bài toán nan giải là làm sao giữ cho đồng bạc khỏi mất giá khi được giàng giá vào đồng đô la Mỹ trong một biên độ nhất định, trong khi vẫn cần bơm tín dụng vào kinh tế mà không gây ra lạm phát vì làm đồng tiền sụt giá ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa :- Thưa đấy mới là vấn đề ! Nếu muốn tránh lạm phát và giữ giá đồng bạc thì ngân hàng trung ương có thể nâng lãi suất và trả tiền lời ký thác cao hơn để thu hút nhưng lại không kích thích được sản xuất để đạt chỉ tiêu tăng trưởng của nhà nước. Vì muốn làm tất cả hoặc vì không giải quyết nổi bài toán lưỡng nan đó, người ta tìm giải pháp dễ là vay tiền ngoại quốc khi thấy lãi suất quá thấp tại Hoa Kỳ làm tiền Mỹ quá rẻ và dễ vay. Thề rồi vay về lại không xài vào nơi đích đáng, có khi còn dồn vào những quả đấm thép mềm oặt của hệ thống quốc doanh, ngày nay mới khó trả nợ. Khi cùng quẫn thì người ta có thể sáng tạo ra nhiều cách trì hoãn, như phá giá, vét vàng, thậm chí quỵt một phần nợ hoặc bày trò đổi tiền. Nhưng đấy cũng là những liều thuốc đổ bệnh mà chúng ta sẽ sớm thấy ra !
Nguyên Lam : Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.
Nguyên Lam thực hiện
Nguồn : RFA, 08/11/2017
Trung bình mỗi người dân Việt Nam hiện gánh khoảng 30 triệu đồng nợ công và con số này sẽ tiếp tục tăng vào cuối năm nay.
Các dự án giao thông cần nhiều đầu tư công. Ảnh một đoạn đường tại Hà Nội, 7/2017 - AFP
Thông tin này được công bố trong báo cáo của Chính Phủ Hà Nội gửi Quốc Hội Việt Nam ngày 25 tháng Mười. Theo đó đến cuối năm 2016 nợ công của Việt Nam là 2,8 triệu tỷ đồng, bằng 63,6% GDP. Dự kiến đến cuối năm 2017, nợ công sẽ tăng lên 3,1 triệu tỷ đồng nhưng so với GDP lại giảm xuống còn 62,6%. Và đến cuối năm 2018, nợ công sẽ đạt mức 63,9% GDP.
Chính phủ Việt Nam cũng thừa nhận hệ số trả nợ khá cao và đang có xu hướng tăng lên. Điều này gây áp lực cho việc bố trí nguồn trả nợ từ ngân sách Nhà nước.
Dự kiến sang năm, Chính phủ sẽ vay mới để trả nợ gốc hơn 146.700 tỷ đồng, vay nước ngoài về cho vay lại 40.000 tỷ đồng và vay bù đắp bội chi khoảng 195.000 tỷ đồng.
Trong báo cáo, Việt Nam khẳng định quan điểm là vay để đầu tư chứ không vay cho chi thường xuyên. Đồng thời, cũng đưa ra các biện pháp kiểm soát nợ công trong thời gian tới, như giao cho doanh nghiệp tự vay tự trả trong giới hạn được Chính phủ cho phép, hay huy động nhà tài trợ và sử dụng vốn ODA…