"Tội chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng được xét đặc xá" - một trong những nội dung mang tính ‘đột phá’ của Dự án Luật Đặc xá (sửa đổi) - đã được đưa ra Quốc hội để thảo luận vào ngày 7/11/2018.
Mẹ Nấm, tù nhân chính trị được "đặc xá" gần nhất.
Một nội dung ‘đột phá’
‘Đột phá’ là từ ngữ rất thường được giới quan chức và tuyên giáo Việt Nam sử dụng như một cách ‘tự sướng’ và lên dây cót tinh thần ngay trong hoàn cảnh chẳng có gì đáng tự hào.
Theo dự thảo này :
"…để đảm bảo đồng bộ với các Luật về tư pháp mới được Quốc hội ban hành, tạo động lực cho người chấp hành án phấn đấu cải tạo, dự thảo Luật quy định đối với một số tội mà Bộ Luật hình sự quy định không được tha tù trước thời hạn có điều kiện thì nay vẫn có thể được đặc xá nhưng điều kiện về thời gian đã chấp hành án dài hơn so với các tội danh khác. Đó là các tội liên quan đến phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội, tội phá hoại chính sách đại đoàn kết, tội làm-tàng trữ -phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tội phá hoại an ninh, tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân... Với những người phạm các tội danh trên, phải chấp hành ít nhất ½ thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn".
Đây là lần đầu tiên từ khi Luật Đặc xá được thông qua vào tháng Mười Một năm 2007, luật này mới được bổ sung cơ chế đặc xá cho những tù chính trị ‘phạm tội an ninh quốc gia’ mà giới đấu tranh dân chủ nhân quyền và nhiều người dân gọi là tù nhân lương tâm.
Dạng tù nhân chính trị trên thường gồm những nhà hoạt động nhân quyền (khái niệm của nhà cầm quyền là ‘quyền con người’) bị chính quyền quy chụp vào tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’, ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ’, ‘phá hoại đoàn kết dân tộc’, ‘gây rối an ninh’ và không ít trường hợp bị xem là ‘lật đổ chính quyền’. Trong số tù nhân chính trị, có cả những người dân không thuộc giới đấu tranh nhân quyền mà chỉ hoạt động phản đối thảm họa ô nhiễm môi trường và những dân oan đất đai phản đối nạn cướp đất nhưng cũng bị nhà cầm quyền bắt bớt và quy chụp các tội danh chính trị.
Vậy vì sao đã hơn 10 năm tồn tại, Luật Đặc xá mới bổ sung nội dung đặc xá cho tù chính trị, trong khi trước đó hoàn toàn không có nội dung này ?
Lịch sử của ‘nhu cầu đối ngoại’
Trước đó, đã chỉ có Điều 21 của Luật đặc xá quy định "trường hợp đặc biệt, cụ thể, để đáp ứng yêu cầu đối nội, đối ngoại của Nhà nước" thì Chủ tịch nước quyết định đặc xá trong trường hợp đặc biệt này.
Nhưng trong thực tế, hoàn toàn chưa có biểu hiện và thậm chí chưa có dấu hiệu nào cho thấy Điều 21 của Luật Đặc xá được áp dụng cho ‘nhu cầu đối nội’, với lý do hết sức độc trị là một nhà nước công an toàn trị hoàn toàn chưa hề có ý muốn thả tù chính trị để đối thoại với giới đấu tranh dân chủ nhân quyền và với người dân, hay thậm chí để mị dân. Vì thế, đã chưa có bất kỳ trường hợp tù nhân lương tâm nào được đặc xá do nhu cầu đối thoại hay thương lượng về những điều kiện nhân quyền và an sinh xã hội.
Chỉ có một số ít tù nhân chính trị được phóng thích, chứ không phải áp dụng hình thức đặc xá, do ‘nhu cầu đối ngoại của đảng và nhà nước’.
Sau mốc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ vào năm 1995 và đặc biệt là mốc Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ được ký kết vào năm 2001, chính quyền Việt Nam đã trả tự do nhỏ giọt trước thời hạn tù cho một ít tù nhân chính trị, và cũng chính thức khởi động một chủ trương ngầm ‘đổi tù nhân chính trị lấy lợi ích thương mại’.
Tuy nhiên, chủ trương ngầm trên chỉ hiện ra một cách thật sự lộ liễu và bất cần sĩ diện lẫn liêm sỉ vào năm 2014, khi các trại giam tối đen và dơ bẩn của Bộ Công an phải mở toang để trả tự do cho đến 12 tù nhân lương tâm, trong đó một số người bị tống xuất đi Mỹ, nằm trong chiến dịch trao đổi tù nhân chính trị lấy một lợi ích thương mại rất cụ thể vào năm đó là Hiệp định TPP.
Đó chính là ‘nhu cầu đối ngoại’ của ‘đảng và nhà nước ta’.
Nhưng như một quy luật của nhà nước độc trị, ngay khi đã được thỏa mãn về lợi ích thương mại (Việt Nam tham gia vào WTO năm 2007) hoặc khi đã không còn hy vọng vào lợi ích thương mại đó nữa (Việt Nam thất vọng vì Mỹ rút khỏi TPP vào năm 2017), cơ chế bắt bớ lại tái diễn một cách lồng lộn, hung dữ và đặc biệt xấu tính.
Ngay sau khi Mỹ rút khỏi TPP vào đầu năm 2017, ‘nhu cầu đối ngoại’ lập tức biến mất, cũng chẳng còn quan chức hay đại biểu quốc hội nào thèm ngó ngàng đến việc sửa đổi Luật Đặc xá liên quan đến điều khoản này hay bổ sung đặc xá cho các tội danh an ninh quốc gia.
Chỉ từ giữa năm 2018, khi xuất hiện cùng lúc hai tín hiệu khả thi của CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương - còn gọi là TPP - 11 không có Mỹ) và bắt đầu có triển vọng ký kết EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu), kéo theo những ràng buộc về việc Việt Nam phải cải thiện nhân quyền, nội bộ đảng Cộng sản mới lấp ló lôi Luật Đặc xá từ ngăn kéo ra bàn lại.
Trong 10 tháng đầu của năm 2018, đã có 3 trường hợp tù nhân chính trị được ‘đặc xá’ do ‘nhu cầu đối ngoại’ là Đặng Xuân Diệu - thành viên đảng Việt Tân - bị tống xuất sang Pháp vào tháng 1/2018, đến tháng 6/2018 là Nguyễn Văn Đài - bị tống xuất sang Đức, và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị tống xuất sang Mỹ vào tháng 10/2018.
Nhưng con số phải trả tự do ấy vẫn còn quá ít. Quá ít so với báo cáo thống kê của các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam và các tổ chức nhân quyền quốc tế về hơn 200 tù nhân chính trị đang bị chính quyền Việt Nam giam giữ.
Từ ‘đặc xá’ không chính thức đến đặc xá chính thức
Chỉ từ giữa năm 2018, qua trường hợp của tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức đã thụ án đến 9 trong số 16 năm tù giam của bản án cực kỳ bất công và khắc nghiệt đối với ông, người ta mới biết chính quyền và công an Việt Nam đã bắt đầu gợi ý với ông Thức về ‘đặc xá’ một cách chính thức, nhưng với điều kiện Trần Huỳnh Duy Thức không được ở Việt Nam mà sẽ bị tống xuất ra nước ngoài như một dạng lưu vong chính trị. Thức đã thẳng thừng và kiên định lắc đầu trước lời đề nghị trơ tráo đó.
Sau ngày quốc khánh Việt Nam 2/9 năm 2018 và đặc biệt là sau Hội nghị trung ương 8 vào tháng Mười mà đã chứng kiến hai cái ghế tổng bí thư và chủ tịch nước được ‘thu về một mối’, đã xuất hiện tín hiệu rõ ràng hơn hẳn về sửa Luật Đặc xá liên quan đến nội dung ‘tội danh an ninh quốc gia’.
Đó cũng là khoảng thời gian mà hai hiệp định CPTPP và EVFTA đang tiến vào giai đoạn nước rút về thủ tục pháp lý.
Trong thực tế, ‘nhu cầu đối ngoại’ của ‘đảng và nhà nước ta’ chưa bao giờ khẩn thiết như lúc này - bối cảnh mà nợ nước ngoài đã vọt đến hơn 200 tỷ USD, ngân sách hộc rỗng và lâm vào cảnh vỡ nợ, gần hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã gần như cạn kiệt và các nguồn ‘ngoại viện’ như viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ đã trở nên ngàn trùng xa cách tầm với của đảng…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 14/11/2018
Việt Nam chính thức thông qua CPTPP - phải chính thức công nhận công đoàn độc lập !
12 tháng Mười Một năm 2018 cần được ghi vào lịch sử nhân quyền Việt Nam như một trang sử mới : cùng với CPTPP, Công đoàn độc lập đã đương nhiên và mặc định phải được chính thể độc đảng ở Việt Nam công nhận.
Hiệp định Đối tác tiến bộ và toàn diện xuyên Thái Bình Dương - Ảnh minh họa
Chỉ 5 ngày sau khi được ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng với tờ trình ‘chỉ đạo’ về tính cấp thiết phải phê chuẩn CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương), 100% đại biểu quốc hội đã đồng loạt ‘gật’ cho hiệp định này vào chiều 12/11/2018, đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ 7 trong khối CPTPP thông qua hiệp định CPTPP, sau 6 nước đã thông qua là New Zealand, Canada, Nhật Bản, Mexico và Singapore, Australia.
Hoàn toàn không giống với các dự thảo luật do Việt Nam soạn thảo và thông qua, CPTPP và một văn kiện mà sau khi đã kết thúc đàm phán vào năm 2017 và ký kết, Quốc hội Việt Nam chỉ hoặc lắc đầu hoặc gật đầu mà không có quyền chỉnh sửa bất kỳ nội dung nào trong hiệp định này. Theo đó, những điều khoản về công đoàn độc lập trong CPTPP cũng đương nhiên giữ vai trò bất di bất dịch mà Việt Nam không có quyền xóa bỏ hay tìm cách hạn chế bớt ảnh hưởng của định chế bảo vệ quyền lợi người lao động đó.
12 tháng Mười Một năm 2018 cần được ghi vào lịch sử nhân quyền Việt Nam như một trang sử mới : cùng với CPTPP, Công đoàn độc lập đã đương nhiên và mặc định phải được chính thể độc đảng ở Việt Nam công nhận.
Theo những quy định của CPTPP, chính quyền Việt Nam sẽ phải cho phép người lao động được tự do thành lập các tổ chức nghiệp đoàn tự do để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, tức về thực chất sẽ có một hình thái tổ chức nghiệp đoàn độc lập, hay còn gọi là công đoàn độc lập, tồn tại song song với hệ thống Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam từ trung ương xuống các địa phương. Không những thế, công nhân còn được thành lập nghiệp đoàn tự do không chỉ giới hạn ở từng khu vực mà còn trên cả nước, và các nghiệp đoàn độc lập này được kết nối với nhau…
Vào lúc này đây, những nhà hoạt động nhân quyền tiền thân của Công đoàn độc lập, những con người đầu tiên dấn thân đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp công nhân Việt Nam - Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Trương Minh Đức, Hoàng Bình… đang có thể mỉm cười rạng rỡ.
Công sức và quá nhiều năm tháng tù đày của họ đã không hề uổng phí. Mục tiêu của cuộc đời họ đã được cộng đồng quốc tế công nhân và khẳng định, bất chấp chính quyền độc trị ở Việt Nam luôn quay quắt trong phản ứng sắc máu và đê tiện.
Trong rất nhiều năm trời, chính quyền Việt Nam đã chỉ trích Công đoàn Đoàn kết của Ba Lan vào những năm 80 của thế kỷ trước, gán ghép Công đoàn độc lập ở Việt Nam với Công đoàn Đoàn kết và coi đó là "một thủ đoạn nguy hiểm của Diễn biến hòa bình", đồng thời cấm tiệt tất cả các cuộc đình công chính đáng và phù hợp hiến pháp của công nhân Việt Nam.
Trong khi đó, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam - tổ chức được xem là ‘cánh tay nối dài của đảng’ - đã chỉ hiện hình như một cơ chế trung gian ‘ăn’ 3% (gồm 2% thu nhập của doanh nghiệp và 1% thu nhập của người lao động) và quá vô tích sự, nếu không nói là đã ‘phản động’ đến mức đi ngược lại quyền lợi của hàng chục triệu công nhân.
Ngay giờ đây, ở Việt Nam đã có mặt hai tổ chức về Công đoàn độc lập : Phong trào Lao động Việt và Liên đoàn Lao động Việt tự do. Theo quy định của CPTPP, Việt Nam sẽ phải chấp nhận cho phép tổ chức cộng đoàn độc lập của người lao động liên kết với nhau theo ngành hoặc theo vùng, trong một khu vực hay cả nước để thành lập tổ chức của ngành hoặc vùng.
Nhưng trong thời gian chờ đợi CPTPP được các nước còn lại ký để bắt đầu triển khai vào tháng Giêng năm 2019, cùng thời gian từ 3-5 năm để luật hóa các quy định của CPTPP về các quy chế lao động theo 3 công ước quốc tế về lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), chưa có gì đáng gọi là ‘thành tâm’ từ một não trạng đã quá quen độc trị về quyền lực và lợi ích khi phải tạm nhân nhượng cộng đồng quốc tế về nhân quyền để đổi chác lợi ích thương mại.
Hầu như không hoài nghi rằng chiến thuật ưa thích nhất của chính quyền Việt Nam trong ít ra vài năm tới vẫn là vừa kiềm chế những người bảo vệ quyền lợi công nhân, vừa bưng bít thông tin đến mức tối đa về công đoàn độc lập, vừa kéo dài lâu đến mức có thể việc luật hóa CPTPP về công đoàn độc lập, vừa tung ra chiến dịch ‘công đoàn độc lập cuội’.
Một cách đương nhiên, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đang và sẽ được đảng lựa chọn để tổ chức chiến dịch ‘công đoàn độc lập cuội’. Đó cũng là lý do để tổ chức công đoàn nhà nước này tìm cách tồn tại để vẫn được uống bầu sữa ngân sách và duy trì quyền lực ‘tổ chức chính trị xã hội’ của mình’, trong thời buổi chế độ độc trị phải ‘dân chủ hóa’.
Một trong những kịch bản được đảng tâm đắc là ‘Quốc doanh hóa Công đoàn độc lập’ : tập dượt càng sớm càng tốt cho các công đoàn quốc doanh "chủ động tổ chức đình công" cho công nhân và hy vọng qua đó sẽ thu hút được số đông công nhân, thay vì để cho công nhân rơi vào tầm ảnh hưởng của những tổ chức công đoàn độc lập hoàn toàn không chịu sự lãnh đạo của đảng và nhà nước.
Nói trắng ra là "đình công cuội", như lịch sử đương đại của đảng đã một số lần tổ chức "biểu tình cuội".
Chẳng những thế, đảng còn đang đặc biệt chú ý làm sao để gầy dựng hình ảnh "thủ lĩnh" cho đình công, và có thể sắp tới là "thủ lĩnh biểu tình". Đồng thời tăng cường hàng loạt động tác ‘chăm lo quyền lợi người lao động’ để vớt vát điều được coi là ‘uy tín’ của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam vốn đã trôi dạt băng hoại qua nhiều năm tháng, cố gắng giữ chân số công nhân đoàn viên càng nhiều và càng lâu càng tốt…
Nhưng khác hẳn với dĩ vãng, giờ đây trình độ và nhận thực của giai tầng công nhân Việt Nam đã vượt cao hẳn so với nhiều năm trước, công nhân không còn dễ bị Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và giới tuyên giáo đảng mị dân phỉnh dụ. Đó chính là những cơ sở then chốt để có thể đặt niềm tin vào giai cấp công nhân Việt Nam - những con người đã được nâng cao hơn hẳn mặt bằng dân trí và nhận thức chính trị lẫn nhân quyền, những người sẽ biết cách tự tạo ra cho mình mô hình nghiệp đoàn độc lập để đấu tranh với giới chủ và với cả những chính sách bất công của chính quyền.
Vai trò và số phận phải tiêu vong của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam cũng bởi thế hầu như là một tương lai không còn hoài nghi, cho dù trong thời gian tới tổ chức này có tính kế ‘ve sầu thoát xác’ nhằm vớt vát một chút niềm tin của công nhân để kéo dài chút này hay chút ấy tuổi thọ tàn tạ của nó.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VNTB, 12/11/2018
Theo logic phát triển của CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Châu Âu), năm 2019 sẽ ra sao với nhân quyền ? Liệu có hy vọng nào sáng hơn so với một năm 2017 nhân quyền bị bắt bớ gần ba chục người và một năm 2018 bắt ít hơn trong khi phải thả hai nhà hoạt động nhân quyền gạo cội và tiêu biểu là Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ?
Các nước tham dự hội nghị CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) (Hình : Getty Images)
Hãy nhìn lại logic của Hiệp định TPP – tiền thân của CPTPP.
Logic của TPP là cùng thời điểm Nguyễn Phương Uyên được trả tự do vào năm 2013, hàng loạt tổ chức xã hội dân sự đã lần đầu tiên đồng loạt ra đời, đánh dấu lần đầu tiên phong trào xã hội dân sự – nhân quyền chính thức hình thành ở Việt Nam và được cộng đồng quốc tế công nhận. Đà ra đời và phát triển của các tổ chức xã hội dân sự còn tiếp nối mạnh mẽ vào năm 2014 và sang tận đầu năm 2016. Cho tới năm 2018, số lượng tổ chức xã hội dân sự đã tăng gấp nhiều lần so với năm 2013 và gấp gần 3 lần so với năm 2014.
Logic của TPP cũng thể hiện ở việc nếu vào năm 2013 chính quyền Việt Nam chỉ trả tự do cho duy nhất Phương Uyên, đến năm 2014 chính quyền đó đã phải trả tự do cho một số lượng kỷ lục lên đến 12 tù nhân lương tâm, trong đó đặc biệt là cái tên Điếu Cày Nguyễn Văn Hải – sáng lập viên của Câu lạc bộ Nhà Báo Tự Do mà chính quyền Việt Nam sợ hãi và căm ghét đến mức nào. Ngoài ra còn phải trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh – sáng lập viên của tổ chức Lao Động Việt – có thể xem là tiền thân cho định chế công đoàn độc lập ở Việt Nam trong tương lai không xa, và Tạ Phong Tần – bị tống xuất sang Mỹ một năm sau khi Điều Cày ra khỏi nhà tù.
Bốn năm sau đó, khi TPP chuyển thành CPTPP, công đoàn độc lập đã có một bước tiến dài : vào cuối năm 2018, để được tham gia vào CPTPP lần đầu tiên Nguyễn Phú Trọng và chế độ độc trị của ông ta đã phải nhượng bộ chấp nhận điều kiện về cho phép người lao động được tự do thành lập các tổ chức nghiệp đoàn tự do để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, tức về thực chất sẽ có một hình thái tổ chức nghiệp đoàn độc lập, hay còn gọi là công đoàn độc lập, tồn tại song song với hệ thống Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam từ trung ương xuống các địa phương. Không những thế, công nhân còn được thành lập nghiệp đoàn tự do không chỉ giới hạn ở từng khu vực mà còn trên cả nước, và các nghiệp đoàn độc lập này được kết nối với nhau…
Còn với EVFTA, hiệp định này đã được Ủy Ban Châu Âu thông qua vào tháng Mười năm 2018 để đệ trình lên Hội Đồng Châu Âu nhằm quyết định cho việc ký kết chính thức hay không, và nếu được ký thì sẽ trình lần cuối cho Nghị Viện Châu Âu để vào tháng Ba năm 2019 sẽ quyết định có phê chuẩn hay không.
Cũng như TPP, nội dung của EVFTA đề cập đến những công ước quốc tế về lao động mà Việt Nam phải ký, cùng những vấn đề nhân quyền và môi trường.
Nhưng sự khác biệt khá rõ giữa EVFTA và TPP là nếu trước đây chính phủ Mỹ chỉ đành hài lòng với "món quà tù nhân lương tâm" mà chính quyền Việt Nam mang ra đổi chác, thì nay khối Liên Hiệp Châu Âu đã thực sự "mở mắt" sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, đã tận mắt nhìn ra một "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" là như thế nào, và do đó đã trở nên cứng rắn hơn hẳn về các điều kiện cải thiện nhân quyền so với thái độ mềm mỏng thái quá của họ từ năm 2016 trở về trước.
Khác với TPP, trong nội dung của EVFTA có ràng buộc điều kiện "hội và các tổ chức phi chính phủ", mà thực chất là các tổ hội đoàn xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam, được quyền tham vấn cho EU về chính sách và các chương trình, dự án liên quan đến EVFTA, cũng như có quyền tham dự vào việc triển khai những chương trình và dự án đó. Và EVFTA cũng bao gồm cả quy định sẽ đỉnh chỉ hiệp định này nếu Việt Nam vi phạm trầm trọng nhân quyền.
Đó cũng là hy vọng để trong năm 2019 và những năm sau đó, phong trào xã hội dân sự ở Việt Nam không chỉ được nâng cao thêm một mức về an toàn hoạt động, có hy vọng đón thêm một số tù nhân lương tâm tự do trước thời hạn, mà còn có thể có những điều kiện mới để hoạt động từ không chính danh đến chính danh, và có thể đóng góp hiệu quả cao hơn trong hoạt động phục vụ các giai tầng nghèo khó trong xã hội, phản biện và phản kháng các chính sách và hành vi bất công của nhà cầm quyền liên quan đến toàn bộ những nội dung thể chế chính trị và thể chế thương mại cùng các hệ quả xã hội nằm trong Hiệp định EVFTA.
Và nếu EVFTA được chính thức ký kết và phê chuẩn, triển vọng của công đoàn độc lập sẽ xán lạn hơn bao giờ hết : định chế này được bảo đảm và hỗ trợ bởi không chỉ một mà đến hai cơ chế pháp lý quốc tế mà chính quyền Việt Nam phải tuân thủ : CPTPP và EVFTA.
Nhưng đó chỉ là tương lai tạm thời, cho những hy vọng tạm thời trong thời kỳ cơ chế độc trị buộc phải tạm buông dần quyền lực và tạm thời nhuốm màu sắc nửa dân chủ, nhưng vẫn chủ yếu phô trương thói mị dân và sẵn sàng quay trở lại thói toàn trị bất kỳ lúc nào có cơ hội.
Bài học chuyển tiếp dân chủ nửa vời ở Miến Điện là đắt giá. Thậm chí cả một Aung San Suu Kyi đoạt giải Nobel Hòa Bình mà còn bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu thỏa hiệp với thể chế độc tài quân sự thì tương lai dân chủ trọn vẹn của Việt Nam chắc chắn sẽ còn phải chờ đợi nhiều mùa Xuân nữa.
Dường như đã hình thành một quy luật cho những biến động nối tiếp của hiệp định thương mại, nhân quyền và bắt bớ : "Vào trước, bắt sau".
Kể từ năm 2001 khi Việt Nam lần đầu tiên có được hiệp định thương mại song phương có giá trị với Mỹ, cứ khoảng 5 – 7 năm một lần những hiệp định thương mại mang lại lợi ích chế độ cầm quyền ở Việt Nam lại khiến chế độ này tạm thời chủ động thi hành chính sách ngầm "đổi tù chính trị lấy thương mại", giảm sức ép đàn áp nhân quyền và cường độ bắt bớ người bất đồng chính kiến. Nhưng khi đã được thỏa mãn về lợi ích thương mại hoặc khi đã không còn hy vọng vào lợi ích thương mại đó nữa, cơ chế bắt bớ lại tái diễn một cách lồng lộn, hung dữ và đặc biệt xấu tính.
Quy luật 5 – 7 năm xảy ra một lần như trên đã được trải nghiệm qua Hiệp định Thương Mại Song Phương Việt-Mỹ vào năm 2001, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2006, Việt Nam Vận Động TPP vào năm 2013. Còn từ cuối năm 2017 đến năm 2018, Việt Nam đang ráo riết vận động EVFTA.
Theo đó, CPTPP và EVFTA cũng có thể sẽ diễn biến như quy luật đã định hình : vào thời gian đầu khoảng 1 – 1,5 năm – tức từ năm 2019 đến năm 2020 – là thời kỳ êm ái của giấy phép, lợi ích thương mại và khiến cho chính thể Việt Nam hóa thành "sói đội lốt cừu", tạm thời "vỗ béo" giới đấu tranh dân chủ nhân quyền và các tổ chức xã hội dân sự, chờ tới ngày "ăn thịt".
Còn sau năm 2020 và có thể kéo dài đến những năm 2013-2014, nếu CPTPP và EVFTA không được thực hiện cơ chế chế tài chặt chẽ và đủ cứng rắn về nhân quyền trong hai hiệp định này, và nếu chính thể Việt Nam vẫn còn những điều kiện kinh tế – chính trị để duy trì chế độ độc đảng như hiện thời, tình trạng bắt bớ trở lại đối với các nhà hoạt động nhân quyền chắc chắn sẽ tái hiện, xóa đi phần lớn hay toàn bộ công sức thuyết phục và lôi kéo "Việt Nam ngả về phương Tây" của Mỹ và các nước khối Liên Hiệp Châu Âu.
Quy luật "vào trước, bắt sau" chỉ bị xóa bỏ trong những điều kiện tương đối lý tưởng : chính thể cầm quyền ở Việt Nam suy kiệt hoàn toàn về khả năng trả nợ nước ngoài, ngân sách đổ vỡ, còn nền kinh tế rơi vào khủng hoảng bởi quốc nạn nợ công quốc gia – nợ xấu ngân hàng cùng cảnh nạn suy thoái trầm kha ; nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam phân hóa trầm trọng và tự diễn biến theo cách đa số quan chức trung cao cấp – những người có thân nhân và tài sản ngồn ngộn ở Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Úc… – tìm cách ngả sang phương Tây hoặc tìm lối thoát ở phương Tây ; áp lực của Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu về cải cách thể chế kinh tế và cả thể chế chính trị đối với Việt Nam là đủ lớn, phong trào dân chủ nhân quyền trong nước dâng lên đủ cao và bắt đầu tích lũy được những tiềm năng chiến lược… Chỉ khi đó, những tù nhân lương tâm thoát khỏi "nhà tù nhỏ" mới không phải sa chân vào một "nhà tù lớn" và mới giảm thiểu nguy cơ bị chính quyền bắt bớ trở lại.
Trong số những điều kiện trên, kịch bản vỡ nợ nước ngoài của ngân sách Việt Nam và kinh tế suy thoái trầm trọng là dễ xảy ra hơn cả, mà thời điểm xảy ra có thể bắt đầu từ năm 2020 hoặc 2021.
Một lần nữa hãy nhìn lại bài học "tự diễn biến" của chế độ quân phiệt ở Miến Điện. Tuy có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phải tự thay đổi sang dân chủ, trong đó nổi bật vai trò cải cách của Tổng thống Thein Sein, nhưng việc Câu Lạc Bộ Paris chấp nhận xóa 6 tỷ USD tiền nợ cho Miến Điện vào cuối năm 2012 – trùng với chuyến thăm lịch sử đất nước này của tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama – cho thấy chế độ quân phiệt ở Miến Điện đã tích lũy một món nợ quá lớn mà đã mất khả năng chi trả và do đó phải nhượng bộ trước đòi hỏi cải cách chính trị của phương Tây.
Nợ nước ngoài của chính thể độc đảng ở Việt Nam (chưa tính nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp) hiện nay là khoảng 105 tỷ USD – gấp hàng chục lần nợ nước ngoài vào năm 2012 của Miến Điện.
Phạm Chí Dũng
Thời gian vùn vụt trôi qua. Chẳng mấy chốc sẽ kỷ niệm tròn một năm sự kiện Nguyễn Phú Trọng lần đầu tiên ‘dự họp và chỉ đạo chính phủ’ Nguyễn Xuân Phúc vào tháng Mười Hai năm 2017.
Tứ trụ bây giờ chỉ còn tam trụ.
Từ ‘tổng - chủ’ đến ‘tổng - chủ - thủ’
Trước cả khi người còn sống Nguyễn Phú Trọng được chính thức sở hữu cái ghế của người vừa chết Trần Đại Quang tại kỳ họp quốc hội ‘hơn 99% gật’ vào tháng Mười năm 2018, trong dư luận xã hội đã nổi lên nỗi băn khoăn không phải không có lý do sâu xa về cách gọi nhân vật ‘nhất thể hóa hai chức danh tổng bí thư và chủ tịch nước’ hoặc được thanh minh là giải pháp ‘tình huống’ như thế nào cho ngắn gọn và vẫn thể hiện đầy đủ quyền lực chính trị : tổng - chủ, tổng - tịch, chủ - tổng, chủ - bí, bí - tịch, tổng - bí - tịch… vân vân và vân vân cho thể chế ‘hai trong một’.
Còn sau khi sự kiện ‘tình huống’ trên chính thức ập tới với một tốc độ nhanh chưa từng thấy, dân gian thậm chí còn bắt đầu nghĩ đến một cách gọi khác cho thể chế ‘ba trong một’ : chẳng hạn như tổng - chủ - thủ…
Giả thiết trên, dù có thể chỉ là một trí tưởng tượng đi trước thời đại, nhưng lại có logic của nó.
Logic ấy thậm chí đã được chuẩn bị từ năm 2013, theo tiết lộ gần đây của một số quan chức về kịch bản ‘hợp nhất hai chức danh chủ tịch nước và tổng bí thư’, chỉ có điều đã chưa được ‘gút’ trong dĩ vãng bởi ‘tập trung quá nhiều quyền lực vào một người thì không kiểm soát được’ - lời tán thán đầy tâm tư của chính Tổng bí thư Trọng vào thời gian đó - một trong hoàn cảnh thật đáng cám cảnh : ông ta bị lép vế gần như toàn diện trước một Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khuynh loát đến 3/4 Ban chấp hành trung ương mà đã trở thành một ‘Chúa Trịnh’ thời hiện đại và thậm chí còn leo lên vị trí số một trong một cuộc thăm dò ‘uy tín tổng bí thư cho đại hội 12’ tại Hội nghị trung ương 10 vào đầu năm 2015 - theo nhiều nguồn tin không chính thức nhưng từ đó đến nay chưa hề bị nguồn tin chính thức nào của đảng phản bác.
‘Tổng - chủ’ đã được chuẩn bị như thế nào ?
Trước đại hội 12, một vài quan chức ‘thân Nguyễn Phú Trọng’ đã bắt đầu khúc dạo đầu cho bản nhạc ‘nhất thể hóa’, trong bối cảnh Nguyễn Tấn Dũng còn đang dương dương tự đắc mà không thể tưởng tượng ra việc ông ta sắp phải ‘về làm người tử tế’.
Sau khi đại hội 12 đã ‘thành công tốt đẹp’ với Nguyễn Phú Trọng cùng phương án ‘bất cứ ai, trừ Dũng’ trở nên hoàn hảo đến kinh ngạc, vào tháng 9/2016, ông Nhị Lê, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, đã có bài trả lời phỏng vấn khá dài cho trang VietTimes với nhan đề "Nhất thể hóa chức danh, nhất nguyên chế tổ chức bộ máy là bước đi tất yếu". Một cách gián tiếp, bài báo này đã đặt nền móng đầu tiên về lý luận cho chiến dịch nhất thể hóa được ‘đánh’ từ cấp địa phương lên ấp trung ương và chuẩn bị cho thể chế ‘hai trong một’ về ‘tổng - chủ’.
Nhị Lê lại là một trong những nhân vật phát ngôn chính yếu của Tổng bí thư Trọng. Vào thời gian gần đại hội 12, ông Nhị Lê cũng đã từng trả lời phỏng vấn về vấn đề nhất thể hóa. Xét về ‘dây’, Nhị Lê hiển nhiên là người của Nguyễn Phú Trọng từ khi ông Trọng còn là tổng biên tập Tạp chí Cộng sản.
Từ năm 2016 đến trước tháng Chín năm 2018 (thời điểm Trần Đại Quang chết), hoạt động nhất thể hóa đã diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh tại khá nhiều tỉnh thành. Các cơ quan đảng không những không ‘tinh gọn’ mà còn phình hơn. Quyền lực của các cơ quan đảng không những không bị co hẹp mà còn mạnh hơn. Một khác biệt rất cơ bản là nếu trước đây đảng chỉ ‘lãnh đạo đường lối’ thì, hàng loạt nhân sự của đảng sẽ được cho kiêm chức bên chính quyền trung ương và cả chính quyền địa phương, lấy đó làm cơ sở để "người của đảng" kiêm việc điều hành chính quyền, và từ đó sẽ xuất hiện một cơ chế ‘chính ủy trong chính quyền’. Nếu trước đó nhiều quan chức cao cấp của đảng luôn phổ biến một kiểu lý luận ‘đảng không làm thay cho chính quyền’ để đối phó với hàng núi đơn khiếu nại tố cáo của người dân đối với vô số nạn tiêu cực tham nhũng trong đảng, thì đến khi đó lý luận này lại biến tướng sang ‘đảng không làm thay mà làm luôn’.
Vào thời gian đó, đã xuất hiện giả thiết đáng chú ý cho rằng một khi đà nhất thể hóa trở nên thuận lợi hơn nữa, chức danh tổng bí thư có thể được ‘cho’ kiêm chủ tịch nước như cách Tập Cận Bình ở Trung Quốc đang làm dường như chỉ còn là vấn đề thời gian. Tuy nhiên ít người cho rằng có thể xảy ra kịch bản như thế một cách dễ dàng, cũng như chỉ rất ít người hình dung về một cái chết bất ngờ và gây nghi vấn của Trần Đại Quang.
Nhưng cho tới nay, điều kỳ lạ là giả thiết có phần khá hoang tưởng về ‘tổng bí thư kiêm chủ tịch nước’ đã trở nên hiện thực theo cách chỉ có thể ‘mơ giữa ban ngày’. Thể chế ‘hai trong một’ đã được hoàn tất với trọn vẹn ý đồ sâu xa và được chuẩn bị lâu dài của nó.
Nhưng ‘tổng - chủ’ có phải là sự hài lòng cho đỉnh cao quyền lực ? Hay sau đỉnh cao ấy sẽ còn một đỉnh cao khác ?
Biểu hiện đầu tiên của ‘tổng - chủ - thủ’
Tháng Mười Hai năm 2018, người đứng đầu bên đảng - Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng - đã làm được một việc mà các đời tổng bí thư trước đó hiếm khi làm được, còn các đời chủ tịch nước như Trương Tấn Sang khóa 11 đã không làm được và Trần Đại Quang khóa 12 cho đến khi chết cũng chẳng hề làm được : ‘dự họp và chỉ đạo chính phủ’.
Ngay sau khi báo chí Việt Nam phát tin về ‘Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ lần đầu tiên dự họp chính phủ tháng 12/2017", đài BBC đã nêu ra một số bình luận đầy ẩn ý chính trị và không kém hài hước :
"Sự kiện này không tránh khỏi tạo nên bình luận về quyền lực dường như ngày càng tăng của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam".
"Theo nguyên tắc tổ chức và điều hành quốc gia ở nhiều nơi trên thế giới, các nước theo chế độ tổng thống chế (Hoa Kỳ, Philippines, Indonesia) thì tổng thống cũng là ‘người đứng đầu chính phủ’".
"Nhưng ở các nước có cả hai chức danh thủ tướng và tổng thống thì nguyên thủ quốc gia không chủ trì họp chính phủ vì đó là việc của thủ tướng".
"Việc nguyên thủ quốc gia chủ trì cuộc họp của chính phủ không phải là chuyện bình thường ở quốc gia vẫn có chức danh thủ tướng".
"Thường thì tổng thống chỉ chủ trì họp chính phủ khi có sự kiện gì đặc biệt hoặc muốn giám sát công việc của nội các".
"Riêng tại một số quốc gia còn lại theo mô hình có một đảng cộng sản lãnh đạo, báo chí quốc tế chú ý đến một xu hướng như ở Trung Quốc là ông Tập Cận Bình trở thành ‘chủ tịch của đủ mọi thứ’’.
"Theo New York Times, ông Tập ngoài ba chức to nhất là Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quân ủy Trung ương, còn nắm hơn 10 chức vụ, gồm cả chủ tịch nhóm công tác về an toàn mạng internet, ban điều hành về Đài Loan…".
"Trang The Economist thì trích lời nhà nghiên cứu Úc, Geremie Barmé, nói một cách hình ảnh rằng ông Tập không còn là CEO của China Inc. mà là COE, ‘chairman of everything’ (chủ tịch của tất cả mọi thứ)".
Nhưng ông Trọng không quan tâm đến việc BBC nói gì về ông ta.
Nếu hệ thống lại và so sánh những phát ngôn công khai trên mặt báo chí của Nguyễn Phú Trọng từ đầu năm 2016, bắt đầu bằng ‘tôi bất ngờ…’ sau khi ông Trọng đột biến giành chiến thắng vang dội trước đối thủ chính trị Nguyễn Tấn Dũng, cho đến ‘từ thuở bé đến giờ mới được dự họp chính phủ’ - một lối nói vui không cần giấu diếm khi ông Trọng ‘được mời dự’ và như thể chủ trì luôn phiên họp kéo dài hai ngày của chính phủ vào tháng 12/2017, mới thấy thái độ tự tin của Tổng bí thư Trọng đã dâng cao đến thế nào ngay vào thời điểm đó.
Trên khuôn ảnh được báo chí nhà nước đăng tải về phiên họp trên, người ta trông thấy ông Nguyễn Phú Trọng ngồi chính giữa hàng ghế chủ tọa đoàn. Bên phải của ông Trọng là Trần Đại Quang - chủ tịch nước, còn bên trái ông Trọng là Nguyễn Xuân Phúc - thủ tướng, và ‘cánh tay trái’ của Thủ tướng Phúc là Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Thành phần chủ tọa phiên họp trên có vẻ không còn đơn thuần là một cuộc họp nội bộ chính phủ, mà giống như một buổi họp của ‘Bộ Chính trị thu gọn’…
Thời gian vùn vụt lao qua. Chẳng mấy chốc Bộ Chính trị đã thu gọn còn hơn cả thế : tuy vẫn giữ nguyên số ghế, nhưng chỉ còn 3 thay vì 4 người trong ‘tứ trụ’.
Một trong những thay đổi đáng nói nhất là khác hẳn với lối ‘dự họp và chỉ đạo chính phủ’ không mấy chính danh một năm trước, giờ đây ông Trọng đã có đầy đủ tư cách ‘nguyên thủ quốc gia’ để không những dự họp đều đặn và chỉ đạo các cuộc họp thường kỳ của chính phủ, mà còn có thể triệp tập họp đột xuất chính phủ để ‘nghe báo cáo’ về những nội dung mà trước đây chỉ Thủ tướng Phúc và vài phó thủ tướng mới được biết và được bàn…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 09/11/2018
Một sự trùng hợp rất đáng chú ý và mổ xẻ là chỉ vài ngày sau cú bắt ‘đổi 100 USD phạt 90 triệu đồng’ đối với công dân Nguyễn Cà Rê ở Cần Thơ vào tháng Mười năm 2018, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản gửi Thống đốc Ngân hàng nhà nước truyền đạt yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, trong đó một lần nữa (lần thứ 4) nhắc "Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Thống đốc Ngân hàng nhà nước tiếp tục tập trung nghiên cứu, có giải pháp phù hợp huy động các nguồn ngoại tệ, vàng trong dân phục vụ cho đầu tư phát triển".
‘Huy động vàng và ngoại tệ’ trong dân - Hình minh họa.
Một trùng hợp có chủ ý ?
Tuy vụ ‘đổi 100 USD phạt 90 triệu đồng’ chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ cùng số ngoại tệ quá ít ỏi, nhưng hiệu ứng mà nó tạo ra đã khiến dân tình xôn xao và bắt buộc phải ngó ngàng đến việc mang đô la và các đồng ngoại tệ mạnh khác vào Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại để đổi, thay vì đổi ở chợ đen như trước.
Ngân hàng thương mại lại phải chịu quy định ngặt nghèo của Ngân hàng nhà nướcvề bán lại ngoại tệ thu được cho Ngân hàng nhà nước.
Chưa bao giờ kể từ khi nhậm chức thủ tướng, Nguyễn Xuân Phúc thể hiện tâm thế sốt ruột đến thế khi cứ nằng nặc yêu cầu Ngân hàng nhà nước phải có giải pháp thu gom vàng và ngoại tệ trôi nổi trong dân, dù đến nay Ngân hàng nhà nước vẫn chỉ biết cách duy nhất để gom là cho in tiền ồ ạt và tung hàng núi tiền đồng ra thị trường tự do để thu mua ngoại tệ và vàng.
Không chỉ thời thủ tướng bị xem là ‘phá chưa từng có’ - Nguyễn Tấn Dũng, mà từ sau đại hội 12 đến nay, khá nhiều lần Chính phủ và Ngân hàng nhà nước đã tung ra chính sách "sẽ huy động vàng" trong dân, tái hiện lại chủ trương mà Ngân hàng nhà nước đã có đề án 'lấy mỡ nó rán nó" vào cuối năm 2011 nhưng không thành công vì gây ra nhiều nghi ngờ.
Lần này cũng vậy, dư luận người dân tích trữ vàng lại càng gia tăng nỗi lo lắng và cả sợ hãi về "quyết tâm thu hồi vàng trong dân" của Ngân hàng nhà nước, nhưng trong thực tế nhiều năm qua chính quyền vẫn chưa có giải pháp đủ thuyết phục nào, hoặc chẳng bao giờ có được giải pháp nào đủ thuyết phục, để bảo đảm vàng của dân không bị bốc hơi từ két sắt ngân hàng.
500 tấn vàng trong dân, cũng bởi thế, vẫn giống như mỡ treo miệng mèo mà chưa thể ‘hốt’ được’.
Hàng loạt vụ đổ bể ở nhiều ngân hàng như Đại Dương, Xây Dựng, Dầu Khí Toàn Cầu, cùng nhiều dấu hiệu rủi ro ở Agribank, Vietinbank, Eximbank, DongAbank..., cùng các vụ thụt két và siêu lừa như Huỳnh Thị Huyền Như..., hoặc hiện tượng "tiền tiết kiệm bốc hơi" xảy ra trong những năm gần đây đã khiến cho dân chúng mất đi đáng kể niềm tin vào giới ngân hàng. Trong tình thế đó, nhiều người dân thà chôn giấu vàng dưới gầm giường, thay vì gửi vào ngân hàng mà không thể chắc chắn là vàng của mình sẽ "không cánh mà bay".
Từ khi Ngân hàng nhà nước dự trù thực hiện đề án huy động vàng vào năm 2011, đã có rất nhiều ý kiến của giới chuyên gia và người dân yêu cầu Ngân hàng nhà nước phải có những giải pháp thật sự an toàn cho người gửi vàng. Tuy nhiên cho tới nay vẫn chưa thấy bất kỳ một dấu hiệu nào từ phía Ngân hàng nhà nước để trưng ra sự bảo đảm của họ.
Điều đơn giản là nếu lần này Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại không xây dựng được một cơ chế tuyệt đối bảo đảm an toàn cho người gửi vàng, chính sách huy động vàng nhiều khả năng sẽ tiếp tục thất bại, và sẽ chẳng có 500 tấn vàng trong dân nào tuôn chảy vào ngân quỹ của giới ngân hàng quen thủ lợi thay cho mối lo lắng về quốc kế dân sinh.
Trong khi đó, vụ chính quyền thành phố Cần Thơ thình lình ‘đánh úp’ công dân Nguyễn Cà Rê khi ông này vào tiệm vàng chỉ để đổi tờ 100 USD do người thân của ông tặng đã khiến bật ra dấu hiệu có thể sắp rơi vào tình trạng cạn kiệt của Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
Quỹ dự trữ ngoại hối này lại đang tụ ập những dấu hiệu có thể sắp rơi vào tình trạng cạn kiệt.
Những đồng đô la cuối cùng
Thành tích gần nhất và lớn nhất của Quỹ dự trữ ngoại hối - được công bố bởi Ngân hàng nhà nước vào giữa năm 2018 - là đã tích góp được hơn 60 tỷ USD, một con số lớn chưa từng thấy trong lịch sử quỹ này.
Nhưng lại chẳng có gì đáng khoe khoang thành tích ‘dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã trên 60 tỷ USD’. Bởi cho tới nay, con số tổng này chẳng mang một ý nghĩa gì về thực chất khi Ngân hàng nhà nước vẫn bưng bít hoàn toàn các phần cấu thành của nó gồm tiền mặt bằng USD và các ngoại tệ mạnh khác, vàng, trái phiếu mua của chính phủ Mỹ…
Trong khi đó, thông tin từ Mỹ cho biết có đến 1/3 trong kho dự trữ ngoại hối của Việt Nam nằm dưới dạng trái phiếu mà chính phủ Việt Nam mua của chính phủ Mỹ, tức dự trữ ngoại hối thực của Việt Nam - ngay cả nếu đúng là con số hơn 60 tỷ USD như Ngân hàng nhà nước công bố - chỉ còn 2/3 của con số đó.
Nhưng cho dù dự trữ ngoại hối thực của Việt Nam có đạt đến 60 tỷ USD tiền mặt chăng nữa, con số này mới chỉ đáp ứng cho khoảng 3 tháng nhập khẩu - mức tối thiểu phải thỏa mãn theo quy định quốc tế, trong khi Việt Nam còn phải dùng dự trữ ngoại hối để trả nợ nước ngoài và cho ngân sách vay mượn nhằm bù đắp ‘khó khăn túi thủng’…
Vào thời kỳ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình, nạn bội chi và vung tiền vô tội vạ đã khiến kho dự trữ ngoại hối cạn đi nhanh chóng, chỉ còn khoảng 30 tỷ USD theo báo cáo. Đến thời thủ tướng mới là Nguyễn Xuân Phúc và thống đốc mới là Lê Minh Hưng, Ngân hàng nhà nước đã có một chiến dịch âm thầm, miệt mài và đầy thủ đoạn để tung ra một núi tiền đồng nhằm gom tích USD từ hệ thống ngân hàng và USD trôi nổi ở chợ đen lẫn từ khu vực dân cư, khiến chỉ trong vài năm, kho dự trữ ngoại hối của nhà nước đã được báo cáo tăng gấp đôi và được xem là ‘thành tích kiến tạo’ của chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng rất có thể, đó là những đồng đô la cuối cùng mà Ngân hàng nhà nước có thể vét dễ dàng từ thị trường tự do. Từ tháng Năm - Sáu năm 2018, tình hình vét đô cho Quỹ dự trữ ngoại hối đã chậm hẳn lại, để cho đến nay không còn nghe báo cáo thành tích dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng phi mã. Cũng trong thời gian đó, chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và hai cơ quan tham mưu là Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính một lần nữa, trong nhiều lần kể từ năm 2011 đến nay - phải tính đến việc gom 500 tấn vàng trong dân, mà rất có thể sẽ được quy đổi sang USD để trả nợ nước ngoài. Cùng lúc, một chuyên gia Ngân hàng thế giới, không biết lấy thông tin từ đâu, đã ‘chỉ điểm’ cho chính phủ Việt Nam rằng trong dân Việt còn tới 60 tỷ USD nhàn rỗi - hàm ý tha hồ mà vét…
Một lần nữa, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và hẳn phải nhận được sự đồng thuận rất cao trong ‘tập thể Bộ Chính trị’ có thể đã phải tính đến kế vét đô bằng cách ép dân phải bán USD cho ngân hàng chứ không được giao dịch trên thị trường tự do, để sau đó các ngân hàng phải bán lại USD cho Ngân hàng nhà nước theo ‘giá nội bộ’.
Cú bắt và phạt công dân Nguyễn Cà Rê ở Cần Thơ có thể là phát súng thăm dò, để nếu thuận lợi mà không bị một xã hội ‘cừu’ phản ứng nhiều thì sẽ mở màn cho chiến dịch ép buộc người dân phải bán đô cho ngân hàng như thế, làm giàu hơn cho Quỹ dự trữ ngoại hối để có tiền trả nợ cho nước ngoài vào năm 2018 và những năm sau – có thể lên tới 10 - 15 tỷ USD nợ phải trả mỗi năm.
Hai động thái ‘vét’ vàng và ngoại tệ trên xảy ra trong bối cảnh các nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ đều khá bi đát. Từ năm 2014, chính thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi. Trong khi đó, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vào năm 2017 và 2018 có thể sụt giảm đến phân nửa so với mức đỉnh 13,5 tỷ USD vào năm 2015.
Trong khi đó, con số nợ nước ngoài của Việt Nam (chỉ tính riêng nợ của chính phủ và do chính phủ bảo lãnh mà chưa tính đến số tự vay tự trả của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) đã lên đến 105 tỷ USD, xấp xỉ 50% GDP…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 09/11/2018
‘Đừng tin những gì chính quyền nói, hãy nhìn những gì chính quyền làm’ - rất nhiều công nhân và người dân đã bật ra mối nghi ngờ rất lớn ngay sau khi xuất hiện tin tức về việc chính quyền Việt Nam, để được tham gia vào CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương), đã lần đầu tiên phải chấp nhận định chế Công đoàn độc lập - một trong những điều kiện then chốt của CPTPP mà tất cả các quốc gia tham dự bàn tiệc đứng này đều phải có nghĩa vụ tuân thủ chặt chẽ.
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đọc tờ trình trước Quốc hội về việc phê chuẩn CPTPP.
Vì sao nghi ngờ ?
Theo những quy định của CPTPP, chính quyền Việt Nam sẽ phải cho phép người lao động được tự do thành lập các tổ chức nghiệp đoàn tự do để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, tức về thực chất sẽ có một hình thái tổ chức nghiệp đoàn độc lập, hay còn gọi là công đoàn độc lập, tồn tại song song với hệ thống Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam từ trung ương xuống các địa phương. Không những thế, công nhân còn được thành lập nghiệp đoàn tự do không chỉ giới hạn ở từng khu vực mà còn trên cả nước, và các nghiệp đoàn độc lập này được kết nối với nhau…
Đã bị chính quyền mị dân và lừa gạt quá nhiều lần, vào lần này quá ít người lao động còn có thể tin rằng chính quyền sẽ thực tâm hoặc nghiêm túc tuân thủ điều kiện Công đoàn độc lập trong CPTPP mà không tạo ra một thứ ‘Công đoàn độc lập cuội’ để đối phó với hiệp định này. Ngược lại, chính quyền đó sẽ vẫn cố sống cố chết giữ cho mình vai trò độc tôn quyền lực, trong một nỗi sợ hãi đến mức hoang tưởng về tương lai Công đoàn độc lập ở Việt Nam sẽ biến thành Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan và lập ra đảng phái chính trị để nổi sóng thay thế chính quyền hiện tại ở Việt Nam.
Mối nghi ngờ trên là có cơ sở, thậm chí có quá nhiều bằng chứng về tính cơ sở.
Bởi trước đó trong quan điểm và cách hành xử của chính quyền Việt Nam, Công đoàn độc lập luôn bị lên án là ‘một thủ đoạn của Diễn biến hòa bình’, bị quy chụp động cơ chính trị và khiến nhiều nhà hoạt động công đoàn độc lập như Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Trương Minh Đức, Hoàng Bình… bị công an thẳng tay tống giam và rơi vào nhà tù thăm thẳm nhiều năm.
Thậm chí vào năm 2015, sau chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng và nhận được lời hứa của tổng thống Mỹ khi đó là Barak Obama về việc sẽ cho Việt Nam tham gia vào Hiệp định TPP cùng cam kết đổi lại của ông Trọng về việc Việt Nam sẽ công nhận Công đoàn độc lập, chính quyền Việt Nam vẫn tìm cách bưng bít mọi thông tin về Công đoàn độc lập.
Chỉ đến giữa năm 2016, tức khoảng hơn hai tháng sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama, mới bắt đầu xuất hiện vài dấu hiệu cho thấy chính quyền Việt Nam, sau một thời gian cố tình trì hoãn, đang phải thúc đẩy việc "thí điểm" không công khai về định chế Công đoàn độc lập. Khi đó đã lần đầu tiên hiện hình ý đồ và manh nha một chiến dịch tổ chức ‘Công đoàn độc lập cuội’.
Trong lúc giới dư luận viên - mà có thể hiểu phía sau giới này là các cơ quan tuyên giáo và công an - dần chuyển giọng theo cách "Sự xuất hiện của công đoàn độc lập sẽ giúp đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động, tuy nhiên không ai có thể khẳng định tất cả các công đoàn độc lập đều hoạt động vì mục đích tốt đẹp như vậy", dấu hiệu hiện lên rõ nhất đến từ cuộc làm việc của Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Đinh La Thăng với Liên đoàn Lao Động Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23/8/2016. Tại đây, ông Thăng - quan chức mà khi đó còn chưa phải lãnh hai bản án với 31 năm tù giam và phải thốt lên ‘hãy đối xử với bị cáo như một con người !’ - đã bất ngờ cho rằng yêu cầu đình công của công nhân là chính đáng và còn đặt câu hỏi : "Sao công đoàn không tổ chức đình công theo luật cho công nhân ?". Thậm chí ông Thăng còn phát ra đánh giá "chưa thành công là do tổ chức công đoàn chưa mạnh dạn làm việc đó", và yêu cầu Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh nếu chưa tổ chức thành công thì cứ mạnh dạn tổ chức cho thành công.
Hiện tượng chưa từng có nói trên là trái ngược hoàn toàn với toàn bộ những gì mà đảng đã gán ghép Công đoàn độc lập với Công đoàn Đoàn kết và coi đó là "một thủ đoạn nguy hiểm của Diễn biến hòa bình", đồng thời cấm tiệt tất cả các cuộc đình công của công nhân Việt Nam đúng theo lối trả lời thật thà "Chưa bao giờ !" của Chủ tịch Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh Trần Kim Yến trước câu hỏi "Công đoàn đã tổ chức cuộc đình công nào thành công chưa ?" của Đinh La Thăng.
Nhưng đến cuối năm 2016 và sang đầu năm 2017, cuộc bầu cử tổng thống Mỹ đã đột ngột giáng một đòn nặng nề vào TPP và cũng khiến tiêu tan hy vọng về ‘Việt Nam là quốc gia hưởng lợi lớn nhất trong TPP’ : tổng thống mới là Donald Trump đã quyết định Mỹ sẽ không tham gia vào hiệp định này.
Kể từ đó, không một cơ quan hay quan chức nào của Việt Nam thèm nhắc đến Công đoàn độc lập hay một thứ gì đó từa tựa như ‘bảo vệ quyền lợi người lao động’. Mọi thông tin về Công đoàn độc lập trong TPP đều bị ém nhẹm. Thay vào đó và ngược lại, các nhà hoạt động công đoàn độc lập bị truy xét, sách nhiễu, đánh đập và bắt bớ, lồng trong bối cảnh một chiến dịch đàn áp ghê gớm đối với nhân quyền được tổ chức bởi Bộ Công an và chỉ tạm ‘giải lao’ vào cuối năm 2017.
Lùi một bước để tiến nhiều bước !
Gần cuối năm 2018, khi nhận ra cơ hội sắp được vào CPTPP, kịch bản cũ đã được giới chóp bu Việt Nam lôi ra dùng lại.
Tương tự chiến dịch tuyên truyền cho việc Việt Nam sắp vào TPP với đủ thứ lợi ích kèm theo vài ẩn ý về việc "sẽ sửa luật Lao động, đặc biệt là chương về Công đoàn và những cam kết về lao động quốc tế", một chiến dịch truyền thông cho CPTPP đã một lần nữa được tung lên mặt báo chí nhà nước.
Đã có nhiều biểu hiện và dấu hiệu cho thấy chính quyền Việt Nam muốn "lấy mỡ nó rán nó" Công đoàn độc lập bằng phương châm ‘Quốc doanh hóa Công đoàn độc lập’. Tức tập dượt càng sớm càng tốt cho các công đoàn quốc doanh "chủ động tổ chức đình công" cho công nhân và hy vọng qua đó sẽ thu hút được số đông công nhân, thay vì để cho công nhân rơi vào tầm ảnh hưởng của những tổ chức công đoàn độc lập hoàn toàn không chịu sự lãnh đạo của đảng và nhà nước.
Nói trắng ra là "đình công cuội", như lịch sử đương đại của đảng đã một số lần tổ chức "biểu tình cuội".
Chẳng những thế, đảng còn đang đặc biệt chú ý làm sao để gầy dựng hình ảnh "thủ lĩnh" cho đình công, và có thể sắp tới là "thủ lĩnh biểu tình". Yếu tố tâm lý mới mẻ này đã thoát thai từ một câu hỏi của Đinh La Thăng vào năm 2016 : "Các cuộc đình công đều có thủ lĩnh. Vì sao công nhân lại coi những người công nhân không phải là cán bộ công đoàn là những thủ lĩnh các cuộc đình công mà không coi cán bộ công đoàn là thủ lĩnh ? Chúng ta phải suy nghĩ về việc này".
Lùi một bước để tiến nhiều bước !
Cho tới nay, vẫn không ít quan chức trong chính quyền còn mang ảo vọng về một kịch bản tái lặp như thời Việt Nam được Mỹ nhấc khỏi Danh sách CPC vào năm 2006 và gia nhập WTO vào năm 2007, để sau đó chính quyền Việt Nam "trở cờ" và "hốt" phần lớn giới đấu tranh dân chủ nhân quyền cứng đầu và a dua với phương Tây. Phương châm tình thế hiện thời vẫn là "lùi một bước, tiến nhiều bước", cứ tạm nhân nhượng để Việt Nam vào được CPTPP, sau đó sẽ "hốt trọn ổ".
Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Những người theo đường lối một đảng lợi ích ở Việt Nam chắc chắn vẫn hy vọng kịch bản WTO năm 2007 "được cả hai" sẽ lặp lại vào năm nay : vừa vào được CPTPP, vừa "hồi tố" bắt giam trở lại những kẻ bất đồng chính kiến liều lĩnh nhất.
Còn trong thời gian chờ đợi CPTPP được các nước còn lại ký để bắt đầu triển khai vào tháng Giêng năm 2019, chiến thuật ưa thích nhất của chính quyền Việt Nam vẫn là vừa kiềm chế những người bảo vệ quyền lợi công nhân, vừa bưng bít thông tin đến mức tối đa về công đoàn độc lập, vừa kéo dài lâu đến mức có thể việc luật hóa CPTPP về công đoàn độc lập, vừa tung ra chiến dịch ‘công đoàn độc lập cuội’.
Công đoàn độc lập, cũng bởi thế, sẽ là cuộc chiến đầy cam go gian khổ trên mảnh đất Việt Nam đang lấp ló giao thời từ toàn trị sang "dân chủ nửa mùa".
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 07/11/2018
Trần Đại Quang là biến cố chủ tịch nước đầu tiên chết khi đang đương chức trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
‘Trọng Ngân bạc Phúc, Sản tất vong’. Ảnh minh họa
Từ biến cố ‘Quang chết’…
‘Tổng bí thư kiêm chủ tịch nước’ là biến động chính trị xảy ra lần đầu tiên trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, khi người chết còn chưa đủ thời gian ‘mở cửa mả’ thì ghế trống đã được lấp đầy bởi người sống tổng bí thư.
Hai biến cố chính trị trên lại tiếp liền nhau, gắn bó với nhau như một thể hữu cơ và như được một bàn tay của tạo hóa sắp đặt, tạo nên một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
Hiện tượng trên lại xảy ra trong bối cảnh Đảng cộng sản Việt Nam bị nhiều dư luận cả trong lẫn ngoài nội bộ xem là ‘nát như tương’, yếu chưa từng thấy sau 73 năm nắm quyền kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945.
73 năm lại là tuổi thọ của Đảng cộng sản Liên Xô, tính từ Cách mạng tháng Mười năm 1917 cho đến khi Liên Xô chính thức tan rã vào năm 1990.
Trước khi tan rã, Liên Xô đã trải qua một thời kỳ bất ổn lớn về nhân sự lãnh đạo.
Lại chợt hồi tưởng về Yuri Andropov và Konstantin Chernenko - những nhà lãnh đạo đã quá cố trước khi Liên Xô tan rã… Sau cái chết của hai tổng bí thư này là thời kỳ của một Gorbachev với hai chính sách ‘Đổi Mới’ và ‘Cải Tổ’ mà đã dẫn đến sự chấm dứt của Nhà nước liên bang Xô viết.
Còn Việt Nam thì sao ? Sau 73 năm tuổi thọ của Đảng cộng sản Việt Nam, cái chết của Trần Đại Quang và tiếp biến ‘Tổng bí thư kiêm chủ tịch nước’ phải chăng là một tín hiệu, hoặc vượt trên mọi xác phàm vật lý là một điềm báo hoang dại và dữ dội, cho một thời kỳ mới đầy biến động và biến cố sẽ xảy đến chăng bao lâu nữa ?
Ngẫm lại đêm đen Nguyễn Bá Thanh
Cái chết của Trần Đại Quang là sự ra đi vĩnh hằng thứ hai, hơn ba năm sau cái chết của Nguyễn Bá Thanh - khi đó đương chức Trưởng ban Nội chính trung ương.
Bi kịch của Trần Đại Quang bắt đầu vào mùa hè năm 2017 và kết thúc cũng vào mùa hè một năm sau đó.
Nguyễn Bá Thanh cũng bắt đầu bi kịch của ông ta vào một mùa hè - hè năm 2014. Sau khi từ bỏ cái ghế bí thư Đà Nẵng mà được xem là "vua không ngai" ở thủ phủ miền Trung, Nguyễn Bá Thanh đã được Tổng bí thư Trọng kỳ vọng sẽ bổ sung vào Bộ Chính Trị và đầy hứa hẹn trở thành một tay kiếm lạnh lùng và thiên vị trong cuộc chiến "chống tham nhũng." Nhưng do cái chết đọng lại quá nhiều nghi vấn của ông Thanh, khi đó ông Trọng đã chưa thể tiến hành được kế hoạch "đốt lò" mà chỉ có thể hoạt náo từ giữa năm 2016 cho đến nay.
Cả Thanh và Quang đều có ‘độ trễ’ từ thời điểm phát bệnh đến lúc về với cát bụi là khoảng một năm.
Nếu cái chết của Nguyễn Bá Thanh bị xem là đầy "ma quái", thì sự báo tử của Trần Đại Quang cũng bị phủ đầy áng nghi ngờ trong một thuyết âm mưu nhưng lại hàm chứa những chân đứng khoa học.
Một lần nữa hãy lùi một chút về dĩ vãng ba năm trước.
Nửa năm sau cái chết của Nguyễn Bá Thanh, vào mùa hè năm 2015 khi chiến dịch chạy đua vào Bộ Chính trị đảng cầm quyền khóa 12 ở Việt Nam chính thức lao vào giai đoạn căng biến, chính trường quốc gia này thình lình phát hiện sự biến mất của một ủy viên Bộ Chính trị có khuynh hướng hướng "thân Trung" : Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.
Trong suốt mùa hè đó, cái tên "tướng chữa bệnh" đã bắt chết với một Phùng Quang Thanh còn sống sờ sờ và gây ra một làn sóng hiếu kỳ, ngờ vực cùng dự cảm nguy biến về một âm mưu kinh khủng nào đó đã hình thành - một thứ "đảo chính cung đình" - ngay trước Đại hội 12 của đảng cầm quyền.
Kể từ vụ Phùng Quang Thanh từ một bệnh viện Pháp trở về Hà Nội vào mùa hè năm 2015 và sau đó bị xem là "cấm cố" ở một nơi nào đó trong "Thành", "phe cánh chính trị" đã trở nên một thứ ma túy đê mê thấm vào đến tận tủy sống một số chính khách này nhưng cũng là nỗi run sợ đến mất ngủ mất ăn của một số chính khách khác.
Ngay sau vụ Phùng Quang Thanh là cuộc chiến của Tổng bí thư Trọng với ứng cử viên tổng bí thư ‘bất cứ ai trừ Dũng’. Một cuộc ‘xung sát’ thuộc loại ghê gớm nhất trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
Dường như mùa hè năm 2015, khi bầu không khí "toàn đảng, toàn quân, toàn dân lập thành tích chào mừng đại hội 12" đang có bề tái hiện vào mùa hè năm 2018. Những gì đã được khởi đi từ vụ Phùng Quang Thanh mang mùi vị "đảo chính" vào mùa hè năm 2015 có vẻ đang trở lại cái hương vị ngất người của nó vào một thời điểm nào đó của năm 2019.
Soi lại mùa hè 2018 : họ là ai ?
Trong ba năm, từ 2012 đến 2015, cứ nửa đầu năm chính trị tương đối bình lặng thì nửa cuối mỗi năm đó lại sôi trào đấu đá nội bộ trong đảng. Nhưng vào giai đoạn 2015-2018, tính chất căng thẳng của xung đột nội bộ đã không còn cho phép cái nửa đầu năm êm dịu nữa, mà thay vào đó là sự chuẩn bị âm thầm, và sắc máu hơn nữa là xảy ra một số sự biến chính trị ngay vào nửa đầu năm.
Tháng Sáu năm 2018, ở phía Nam Việt Nam đã bất thần nổ ra cuộc biểu tình cực lớn phản đối Luật Đặc Khu. Lòng dân phẫn uất là lý do quá dễ hiểu trong một chế độ đang lao thẳng vào bóng đêm. Nhưng vẫn còn một lý do khác : sau cuộc biểu tình trên và đặc biệt sau trận bạo loạn ở Phan Thiết, ngày càng nhiều dư luận cho rằng đã có một bàn tay bí ẩn nào đó, của một thế lực bí ẩn nào đó trong nội bộ đảng, hậu thuẫn cho cuộc biểu tình khổng lồ ở Sài Gòn và bảo kê cho những kẻ bịt mặt đốt phá ở Phan Thiết.
Khả năng lớn nhất đang ngày càng được xác nghiệm là thế lực đó phải liên quan gián tiếp hoặc trực tiếp đến công an và do vậy công an mới không đàn áp dã man như trước đây. Và trên hết, thế lực chính trị giấu mặt đó muốn "mượn" người dân, hay chính xác là lợi dụng người dân, để kích động một chiến dịch biểu tình trên quy mô lớn và kéo dài như mô hình "áo đỏ - áo vàng" ở Thái Lan, nhằm gây áp lực mặc cả vị thế chính trị trong nội bộ đảng hay tạo áp lực đủ mạnh để yêu sách một chóp bu cao cấp nào đó của đảng phải từ chức…
Vào thời gian trên, Nguyễn Phú Trọng, chứ không phải chế độ của ông ta, đã bị thách thức quyền lực một cách công khai. Cũng khi đó, hình như vài lá bài tẩy đã được lật ngửa…
Sau đó ít tháng, Trần Đại Quang đột ngột chết. Nhiều người tham gia vào cuộc biểu tình tháng Sáu năm 2018 tại Bình Thuận đã bị đưa ra xét xử với mức án tù vừa phải. Tuy nhiên, người ta không nhận ra một gương mặt đấu tranh dân chủ nhân quyền nào trong số những người bị xét xử đó. Vậy họ là ai ?
Và cái chết Trần Đại Quang có dẫn đến ‘3 năm khủng hoảng một lần’ như một quy luật riêng có trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam ?
Có thể lắm, và như một thứ điềm báo.
Quy luật 3 năm ?
Vào đầu năm 2015, ngay sau cái chết của Nguyễn Bá Thanh là dấu ấn Hội nghị trung ương 10 diễn ra chậm bất thường đến một tháng rưỡi so với kế hoạch, đánh dấu vị trí số một của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc ‘thăm dò uy tín tổng bí thư cho đại hội 12’, trong khi Tổng bí thư đương nhiệm là Nguyễn Phú Trọng chỉ xếp thứ 8 - theo nhiều nguồn tin không chính thức.
Tháng Mười năm 2018, ngay cái chết của Trần Đại Quang cùng lúc là sự thăng hoa và được báo đảng tung hứng là ‘thời điểm chín muồi’ của Nguyễn Phú Trọng : không chỉ trở thành nguyên thủ quốc gia mà còn được xem là người tập trung quyền lực cao độ nhất kể từ thời Lê Duẩn những năm 60 của thế kỷ XX.
Một năm sau khi bất ngờ đứng đầu bảng tổng sắp ‘thăm dò uy tín tổng bí thư’, Nguyễn Tấn Dũng đột ngột rớt đài trong tâm trạng đau đớn đến mức chỉ còn muốn ‘trở về làm người tử tế’.
Còn Nguyễn Phú Trọng ?
Ông Trọng đã quyết định sẽ tổ chức Hội nghị trung ương 9 vào tháng Mười Hai năm 2018 để ‘bỏ phiếu về uy tín Bộ Chính trị và Ban Bí thư’. Trong tình thế ‘độc cô cầu bại’ vào lúc này, hầu như chắc chắn chắn cái tên Nguyễn Phú Trọng sẽ nhảy lên vị trí số một về ‘uy tín tổng bí thư và chủ tịch nước’.
Nhưng hai bàn tay như thể bắt ấn trừ tà của Nguyễn Phú Trọng vào cái ngày ông ta đi dọc theo quan tài của Trần Đại Quang phải chăng cho thấy Trọng, xét cho cùng, cũng chỉ là một nhà chính trị không thoát khỏi nỗi ám ảnh của thói mê tín dị đoan - tư tưởng hoàn toàn trái ngược với triết lý vô thần trong chủ nghĩa Mác - Lê mà Trọng vẫn rao giảng ?
Hẳn phải có những vi diệu hay kinh động nào đó trong thế giới tâm linh mà chẳng một chóp bu vô thần nào dám bỏ qua.
Chẳng phải tự nhiên từ tháng Tám năm 2017 khi Trần Đại Quang bị phát hiện ‘biến mất’ lần đầu tiên cho đến khi ông ta thực sự biến mất vĩnh viễn, dân gian đương đại đã xôn xao truyền khẩu một lời sấm được cho là của Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm 500 năm về trước : "Bỉnh chúc vô minh, quang tự diệt ; trọng ngân bạc phúc, sản tất vong" - như một cái gì đó đang ứng nghiệm với thời nay, dù có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Vế đầu lời sấm của Trạng Trình, thật kỳ lạ và kinh hãi, đã ứng nghiệm với Trần Đại Quang.
Chỉ còn vế sau. Và người dân đang nhân cách hóa cho vế sau đó theo đúng tôn ti trật tự trong thế ‘tam trụ’ mới của Đảng cộng sản Việt Nam :
‘Trọng Ngân bạc Phúc, Sản tất vong’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 06/11/2018
Thanh lại… uống bia và chơi golf ?
Dù vẫn chưa có tin tức nào từ cuộc họp đặc biệt giữa Quốc Vụ khanh đặc trách khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Bộ Ngoại giao Đức Andreas Michaelis với Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn ở Berlin vào ngày 1/11/2018, nhưng bằng vào thái độ ‘phấn khởi’ bất thường của cựu Đại sứ Việt Nam tại Đức Đoàn Xuân Hưng khi ông Hưng bình luận trên Facebook cá nhân "Chắc chắn sự hợp tác ở tầm chiến lược giữa hai nước sẽ còn phát triển mạnh hơn trong tương lai", người ta có thể tưởng tượng một cách không còn hoang tưởng về hình ảnh Trịnh Xuân Thanh, nếu không phải ngay lúc này thì cũng chẳng còn bao lâu nữa, sẽ được những mật vụ Việt Nam ‘dìu’ từ máy bay Vietnam Airlines xuống một sân bay nào đó ở Đức - cảnh tượng tuyệt đối tương phản với hình ảnh ‘một người đàn ông lảo đảo được hai mật vụ Việt Nam ‘dìu’ lên máy bay ở sân bay Bratislava, Slovakia’ vào tháng Bảy năm 2017 là lúc người Đức bừng bừng phẫn nộ vì vụ Thanh bị bắt cóc ngay tại Berlin - để ngay sau đó kẻ bị bắt cóc lại tiếp tục… uống bia và chơi golf.
Bao giờ thì Trịnh Xuân Thanh lại được 'dìu' trở lại Đức ?
Bất chấp hai bản án chung thân mà Nguyễn Phú Trọng - khi còn chưa gấp rút thay thế Trần Đại Quang để trở thành chủ tịch nước - đã khiến Thanh phải khóc nức lên mà ‘cháu xin lỗi bác tổng bí thư’…
Đây là lần đầu tiên kể từ thời điểm nổ ra cuộc khủng hoảng Đức - Việt vào tháng Tám năm 2017, Đoàn Xuân Hưng biểu thị cái nhìn tràn trề hy vọng đến thế về tương lai phục hồi quan hệ Việt - Đức. Còn trước đó, viên đại sứ này đã biến thành một con rối câm nín, né tránh hầu hết báo đài Đức và báo chí phương Tây soi xóc về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Thậm chí vào tháng Tư năm 2017 khi Tòa thượng thẩm Berlin mở phiên tòa xét xử Nguyễn Hải Long tham gia vào đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Đoàn Xuân Hưng còn là một trong 4 quan chức Việt Nam bị tòa triệu tập để hỏi cung. Về thực chất, Hưng bị cảnh sát Đức nghi ngờ là đã tiếp tay chặt chẽ cho kế hoạch lén lút bắt cóc Trịnh Xuân Thanh của phía Việt Nam, được tiến hành bởi một viên trung tướng an ninh của Bộ Công an cũng tên là Hưng - Đường Minh Hưng.
Cảm xúc lộ liễu trên của Đoàn Xuân Hưng lộ ra cùng với việc báo đảng ở Việt Nam thông tin "Quốc Vụ khanh Andreas Michaelis hứa sẽ thu xếp sớm thăm Việt Nam vào thời gian phù hợp để tiến hành Đối thoại chiến lược giữa hai Bộ Ngoại giao".
Đó là thông tin hiện ra lần đầu tiên kể từ xảy ra con địa chấn khủng hoảng Đức - Việt. Còn trong hơn một năm trước đó, dù đã diễn ra nhiều cuộc đàm phán ngầm giữa Hà Nội và Berlin về vụ Trịnh Xuân Thanh, nhưng đã không có bất kỳ một quan chức cao cấp nào của Đức đến ‘thăm Việt Nam’.
Trong khi đó, cái ‘án treo’ về tạm ngừng quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước mà người Đức tuyên vào tháng Chín năm 2017 vẫn còn sờ sờ một cách đầy đe dọa. Từ tháng Chín ấy đến nay, toàn bộ các chương trình dự án mới về viện trợ và kinh tế của Đức cho Việt Nam đã tạm ngưng. Nhưng ‘đau khổ’ nhất cho cả hai bên vẫn là vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã cứa một vết rất sâu vào một trong những cái nôi nhà nước pháp quyền tiêu biểu nhất ở châu Âu, khiến cho chính phủ Đức không thể bỏ qua, lồng trong bối cảnh Đức là quốc gia có ảnh hưởng nhất trong việc tác động đến Nghị viện châu Âu để quyết định có phê chuẩn hay không cho Việt Nam được tham gia vào EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu) vào tháng Ba năm 2019.
Cũng trong thời gian trên, phía Việt Nam đã không có bất kỳ một lời xin lỗi nay cam kết ‘sẽ không tái phạm’ nào về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh với người Đức. EVFTA cũng bởi thế vẫn nằm nguyên trong tư thế bị cột chặt cả tứ chi.
Kẻ đói ăn không thể chịu đựng hơn được nữa ?
Đến tháng Mười năm 2018, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã tiến đến EVFTA gần hơn bao giờ hết khi cuộc họp ở thủ đô Bruselles của nước Bỉ, nơi đặt trụ sở của Liên minh châu Âu, đã quyết định thông qua dự thảo EVFTA cùng với ‘gói nhân quyền’ để trình cho Hội đồng châu Âu xem xét việc ký kết hiệp định này, trước khi trình cho Nghị viện châu Âu.
Tức bất chấp điều được xem là ‘thành công lớn’ sau chuyến đi vận động EVFTA của Thủ tướng Phúc tại ba nước châu Âu vào tháng Mười năm 2018, hiệp định mang thời gian thai nghén quá lâu này vẫn còn phải trải qua hai công đoạn then chốt nữa, với cái nhìn nghiêm khắc của người Đức.
Rất có thể không hề ngẫu nhiên, cuộc đàm phán mang tính then chốt giữa hai bộ ngoại giao Đức và Việt Nam về vụ Trịnh Xuân Thanh đã diễn ra chỉ chưa đầy một tháng sau cuộc điều trần EVFTA - nhân quyền do Ủy ban châu Âu tổ chức tại Bỉ và trong giai đoạn bản dự thảo EVFTA đang trình cho Hội đồng châu Âu.
Cũng rất có thể đang diễn ra kịch bản những người mang danh nghĩa cộng sản ở Việt Nam rốt cuộc đã phải đầu hàng trước áp lực liên tục của người Đức, phải ‘nhả’ Trịnh Xuân Thanh để đổi lấy Hiệp định EVFTA - tương tự phương châm ‘đổi tù nhân chính trị lấy lợi ích thương mại’ mà họ đã vừa âm thầm vừa trơ tráo thực hiện đổi chác với Mỹ và phương Tây trong nhiều năm qua.
Nếu trong thời gian tới, Trịnh Xuân Thanh quả thực sẽ uống bia và chơi golf ở Đức, tâm thế đầu hàng của nhà nước cộng sản Việt Nam sẽ hiện hình một cách đầy ý nghĩa : hiện tượng này phản ánh tiến trình ‘vận nước đang lên’ và cuộc đấu lực lẫn đấu trí của nhà nước này với người Đức, Liên minh châu Âu và người Mỹ đã chạm vào ngưỡng trên của giới hạn chịu đựng. Nguyễn Phú Trọng và cái túi ngân sách thủng toang hoác của chế độ ông ta khó mà có thể chịu đựng cơn đói ăn hơn nữa.
Không thể cứ khư khư ôm lấy quan điểm ‘chấp nhận trả giá đối ngoại để ưu tiên giải quyết đối nội’, cũng không còn cách nào khác, phải trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức.
Cho dù việc trả Trịnh Xuân Thanh sẽ là một bằng chứng hùng hồn nhất cho tuyên truyền ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’ là giả dối đến thế nào, về vụ bắt cóc Thanh do mật vụ Việt Nam và những cấp lãnh đạo có thể là rất cao đã chỉ đạo phi vụ này, cho dù sau khi trở lại Đức, Trịnh Xuân Thanh sẽ trở thành tiêu điểm phỏng vấn ghi hình của báo chí Đức và báo chí phương Tây mà sẽ khiến lộ ra gương mặt ‘nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa’ của Việt Nam là nhơ nhuốc đến thế nào…, sự việc vẫn cứ như lời thơ xưa của các bậc tiền nhân : ‘Gặp thời thế thế thời phải thế’.
Sự thật là trong con mắt nước Đức, một kẻ tham nhũng như Trịnh Xuân Thanh nếu có được phía Việt Nam trả lại cho Đức cũng chẳng có ý nghĩa gì lớn. Mà trên hết, người Đức cần được chế độ vi phạm nhân quyền quá trầm trọng ở Việt Nam thật sự tôn trọng như một nhà nước pháp quyền, mà vụ Trịnh Xuân Thanh là một phép thử rất lớn.
Cuối năm 2018, tình thế đã trở thành thế triệt buộc đối với nhà nước cộng sản Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên đã xuất hiện ‘tin nội bộ’ về việc hai cơ quan liên quan mật thiết đến vai trò chính trị và đàm phán CPTPP lẫn EVFTA là Bộ Ngoại giao và Bộ Công thương đã hối thúc Bộ Chính trị đảng phải trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức để đổi lấy tương lai ‘không ngừng nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế’ và để Việt Nam được tham gia vào bàn tiệc đứng EVFTA.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 05/11/2018
Bầu không khí "toàn đảng, toàn quân, toàn dân lập thành tích chào mừng EVFTA" vào năm 2018 đang hâm hấp lên men một thứ mùi rất đặc thù – hệt như chiến dịch "đổi tù chính trị lấy thương mại" để được tham gia vào Hiệp Định TPP trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2015.
Luật sư Nguyễn Văn Đài hiện đang tị nạn tại Đức. (Hình: FB Lê Nguyễn Hương Trà)
Từ Phương Uyên đến Như Quỳnh
Sau chuyến công du Washington vào tháng Bảy năm 2013 của Trương Tấn Sang – chủ tịch nước – mà đã được Tổng thống Barack Obama hứa hẹn về khả năng Mỹ sẽ chấp nhận cho Việt Nam gia nhập TPP, chỉ vài chục ngày sau tòa án tỉnh Long An đã trả tự do cho sinh viên nhân quyền Nguyễn Phương Uyên ngay tại phiên tòa xử phúc thẩm, cho dù trước đó cô đã bị án sơ thẩm đến 6 năm mà chẳng có hy vọng nào giảm án dù chỉ một ngày. Sau đó, nhiều thông tin cho biết Phương Uyên nằm trong danh sách gồm năm tù nhân lương tâm mà người Mỹ yêu cầu Việt Nam thả để đổi lấy TPP.
Nhưng năm 2013 đã kết thúc với duy nhất trường hợp Phương Uyên được trả tự do, trong khi những nhà hoạt động nhân quyền khác như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần… vẫn nằm nguyên trong nhà tù cộng sản.
Năm năm sau, vào tháng Mười năm 2018, công an Việt Nam phải trả tự do trước thời hạn tù cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, nhưng vào lần này Quỳnh bị tống xuất đi Mỹ chứ không được ở lại Việt Nam như trường hợp Phương Uyên trước đó.
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một người hoạt động nhân quyền có tuổi đời, kinh nghiệm và bề dày thành tích, đã được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh tặng danh hiệu "Người phụ nữ can đảm quốc tế" vào năm 2017 và còn bị chính thể độc đảng ở Việt Nam thâm thù hơn hẳn so với Phương Uyên.
2018 khác 2013 như thế nào ?
Có thể so sánh : nếu vào năm 2013 Việt Nam bắt đầu lộ trình vận động ráo riết cho TPP và chỉ thả một tù nhân lương tâm là Nguyễn Phương Uyên, thì trong chiến dịch vận động cho Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Châu Âu (EVFTA), từ đầu năm 2018 đến tháng Mười cùng năm Việt Nam đã phải thả hai nhà hoạt động nhân quyền là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và Nguyễn Văn Đài, chưa kể một tù nhân lương tâm khác thuộc đảng Việt Tân là Đặng Xuân Diệu đã bị tống xuất sang Pháp vào tháng Giêng cùng năm.
Cũng bởi thế, năm 2018 có một điểm khác biệt cơ bản với năm 2013.
Khác với trường hợp Phương Uyên được chính quyền Việt Nam xem là "cá nhỏ" và chỉ xếp thứ năm trong danh sách gồm 5 tù nhân lương tâm mà người Mỹ yêu cầu Việt Nam thả để đổi lấy TPP, cả hai nhà hoạt động Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là những gương mặt tiêu biểu hàng đầu trong số những người bất đồng chính kiến còn đang bị án tù giam, để cùng với cái tên Trần Huỳnh Duy Thức – đều là những nhân vật được xem là "cá lớn".
Khác với năm 2013 khi người Mỹ đành phải hài lòng với món quà "cá nhỏ," đến năm 2018 tương quan lực lượng trên bàn cờ đấu trí và nhất là đấu lực giữa phương Tây và nhà cầm quyền Việt Nam đã xoay trục đáng kể : Nhà nước Đức – nhân tố trụ cột và thậm chí mang tính quyết định trong việc xem xét có chấp nhận cho Việt Nam tham gia Hiệp định EVFTA hay không – đã đòi Việt Nam phải trả tự do cho đích danh Luật sư Nguyễn Văn Đài ; còn Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là do chính phủ Mỹ ra điều kiện với Việt Nam.
Nguyễn Văn Đài là cái tên được chính phủ Đức đặc biệt quan tâm. Vào tháng Tư năm 2017 trong lúc đang bị Việt Nam giam giữ chờ khởi tố, ông Đài đã được Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier trao Giải Nhân Quyền 2017 của Hiệp hội Thẩm phán Đức.
Trong giới đấu tranh dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, có thể đánh giá Nguyễn Văn Đài là người năng nổ, sáng tạo, dám hành động và hành động có hiệu quả nhất, cũng là một trong số ít người có nhiều quan hệ với quốc tế và có ảnh hưởng quốc tế nhiều nhất. Vì thế đối với nhà cầm quyền Việt Nam, Nguyễn Văn Đài đương nhiên bị xem là nhân vật nguy hiểm nhất, cùng với Hội Anh Em Dân Chủ là tổ chức nguy hiểm nhất.
Hội Anh Em Dân Chủ đã làm được nhiều hơn bất cứ tổ chức xã hội dân sự nào khác, và hơn hẳn toàn bộ khối tổ chức hội đoàn nhà nước như Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản… trong mục tiêu hỗ trợ ngư dân và giáo dân bốn tỉnh miền Trung đòi lại công lý và tiền đền bù sau thảm họa xả thải ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra vào hai năm 2016 và 2017.
Việc chính thể Việt Nam chấp nhận trả tự do, dù vẫn theo cách tống xuất ra nước ngoài đối với Nguyễn Văn Đài vào tháng Sáu năm 2018, không chỉ đơn thuần là việc thả tù nhân chính trị, mà quan trọng hơn nhiều là sự đánh dấu một điểm ngoặt lớn về tính xu thế : sau một thời gian dài co kéo mặc cả với Chính phủ Đức về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, sức bền mỏi của chính thể Việt Nam đã sa vào vùng giới hạn dưới mà không thể trả treo và kéo dài lâu hơn nữa.
Việc Việt Nam chấp nhận phóng thích nhân vật nguy hiểm nhất như Nguyễn Văn Đài cũng cho thấy rõ hơn về một điểm ngoặt, nếu không muốn nói là bước ngoặt, trong xu thế buộc phải cởi nới nhân quyền đang diễn ra ở Việt Nam – một xu thế tất yếu và không thể đảo ngược.
Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đến Mỹ tị nạn hồi tháng Mười, 2018 (Hình : Du Hạ Kim Nguyễn)
Còn việc Việt Nam phải chấp nhận phóng thích Nguyễn Ngọc Như Quỳnh lại trùng khớp một cách đầy chủ ý với hai sự kiện lớn : EVFTA nhiều khả năng sắp được ký chính thức sau khi Việt Nam phải chấp nhận một số điều kiện về cải thiện nhân quyền của Liên Hiệp Châu Âu; và chuyến công du Việt Nam vào tháng Mười năm 2018 của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis – trùng với thời điểm Quỳnh được thả – có thể tiết lộ một "bí mật" lớn của Nguyễn Phú Trọng : Sau nhiều năm cố gắng đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ nhưng chỉ mang lại kết quả bị Bắc Kinh áp chế ngày càng tăng, cuối cùng Bộ Chính trị đảng ở Việt Nam đã phải quyết định thử nghiệm phương án "đi với Mỹ", mà trước mắt là dựa vào sức mạnh của hải quân và không quân Mỹ để có thể khai thác được dầu khí trên "vùng biển thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam" nhưng vẫn bị đường lưỡi bò của Trung Quốc quét qua hầu hết các lô dầu mang tiềm năng cứu vãn ngân sách đảng khỏi tai họa hộc rỗng.
Thực ra từ quá khứ gần đến hiện tại, mọi việc đều có logic của nó.
Logic của các vụ bắt – thả
Trước đó, sau vụ Mỹ rút khỏi Hiệp định TPP mà đang mang lại nỗi thất vọng quá lớn cho một chính thể Việt Nam tưởng như đã sắp được "ăn" nhưng lại phải bỏ mâm, chính thể này đã "ăn không được thì đạp đổ" và giận dữ "bắt bù" bằng cách thực hiện một chiến dịch đàn áp nhân quyền rộng khắp Việt Nam trong suốt sau 17 tháng, bắt đầu từ vụ bắt nữ lãnh đạo dân oan Cấn Thị Thêu vào tháng Sáu năm 2016 và sau đó là hơn ba chục cái tên nhà hoạt động nhân quyền khác bị công an tống giam.
Nhưng đến tháng Mười Một năm 2017, đã hiện ra tín hiệu le lói đầu tiên cho thấy chiến dịch đàn áp trên đã "đụng tường", khi nhà cầm quyền và công an Việt Nam rốt cuộc đang phải nhượng bộ trước sức ép phải cải thiện nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu nếu còn muốn giành chút cơ hội được thông qua EVFTA, đặc biệt sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh mà đã dẫn đến cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt và chính phủ Đức đã quyết định tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam.
Tín hiệu trên đến từ hai vụ bắt – thả đối với hai nhà hoạt động nhân quyền Trương Dũng và Phạm Đoan Trang, đều cư trú ở Hà Nội. Đây là hai nhà hoạt động nhân quyền xông xáo, luôn nằm trong danh sách bị công an căm ghét và sẵn sàng bắt nếu có cơ hội thuận lợi. Trong tháng Mười Một năm 2018, công an đã bắt hai nhà hoạt động này nhưng sau đó phải thả ra, khác hẳn với rất nhiều trường hợp bị bắt cóc nhưng sau đó bị khởi tố và tống giam luôn vào các tháng trước.
Tín hiệu le lói trên cũng mang đến một tia hy vọng về biểu đồ đàn áp nhân quyền ở Việt Nam đã chạm vào "vùng đỉnh" vào cuối năm 2017, đầu năm 2018 và đi ngang trong năm 2018.
Thật vậy, kết quả có thể dễ dàng kiểm chứng là từ đầu năm 2018 đến tháng Mười cùng năm, trong khi phải thả 3 tù nhân lương tâm là Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, nhà cầm quyền Việt Nam đã tạm giới hạn việc bắt người hoạt động nhân quyền ở hai cái tên Nguyễn Trung Lĩnh và Lê Anh Hùng – những blogger được quốc tế biết đến, và một số facebooker ở miền Tây Nam Bộ mà tên tuổi hầu như chưa được công luận trong và ngoài nước biết đến.
Cũng trong thời gian trên, khá nhiều người dân liên quan đến cuộc biểu tình chống Luật Đặc Khu vào tháng Sáu năm 2018 đã bị chính quyền bắt và đưa ra xử tù. Tuy nhiên, trong số những người này đã hầu như không có cái tên nào thuộc giới đấu tranh nhân quyền.
Cùng với tiến trình ký kết và chuẩn bị triển khai EVFTA, đường biểu diễn đàn áp nhân quyền ở Việt Nam cũng vì thế nhiều khả năng sẽ chúc xuống trong năm 2019.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 04/11/2018
Vào mùa xuân năm 2018 đã xảy đến thêm một nguy cơ mà rất có thể sẽ trở thành nỗi nguy biến cho chính thể độc đảng ở Việt Nam : "deadline" thực sự cho trữ lượng dầu khai thác ở Việt Nam chỉ còn khoảng 3 năm nữa, tức đến năm 2021 - trùng với kỳ đại hội đảng lần thứ 13, nếu còn có đại hội này.
Giàn khai thác của PetroVietnam tại mỏ Bạch Hổ. Hình minh họa. (Ảnh : PVN)
2025 hết dầu đang khai thác !
Và khi mùa xuân ủ rũ của năm 2019 sắp nhoài đến, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã phải lần đầu tiên thừa nhận một sự thật mà bấy lâu nay tập đoàn này và đảng chỉ muốn che giấu càng nhiều càng tốt : sản lượng dầu tại rất nhiều giếng đang suy giảm tự nhiên do khai thác đã quá lâu. Cộng vào đó là trữ lượng gia tăng quá thấp khiến từ nay đến năm 2025, sản lượng khai thác dầu sẽ giảm đều đặn mỗi năm 10% - tương đương với hơn 2 triệu tấn.
Mức gia giảm đã được lên kế hoạch gia tốc lùi một cách chắc chắn trên có ý nghĩa gì ?
‘Suy giảm tự nhiên’ chỉ là một cách nói, hoặc chính xác hơn là một lối phủ nhận trách nhiệm đối với nạn khai thác phá vỡ kế hoạch trong nhiều năm trước.
Vào năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu tấn. Nhưng với đà ‘suy giảm tự nhiên’ và với mức giảm bắt buộc hơn 2 triệu tấn/năm, đến năm 2025 sản lượng khai thác quy dầu sẽ cao lắm là 10 triệu tấn/năm. Còn nếu trong giai đoạn 2019 - 2015 mà PVN phải chịu sức ép quá mạnh từ Chính phủ và Bộ Chính trị đảng để phải giữ nguyên hoặc thậm chí gia tăng sản lượng khai thác dầu khí nhằm bù đắp cho một nền ngân sách mau chóng cạn kiệt, đặc biệt là gần như cạn hoàn toàn các nguồn ngoại tệ dùng để trả nợ nước ngoài và chi xài cho công tác ăn tiêu trong đảng, đến năm 2025 PVN sẽ có thể chẳng còn dầu để khai thác nữa.
Những thông tin trên là chuỗi tiếp nối logic với một thông tin từ ông Từ Thành Nghĩa - Tổng giám đốc Vietsovpetro - vào đầu tháng 2/2018 về "Móng mỏ Bạch Hổ còn quanh quẩn 10 triệu tấn, tối đa chỉ khai thác được 4-5 năm nữa thôi", tại Hội nghị tổng kết năm 2017 của PVN.
Điều đó có nghĩa là ngay cả mỏ Bạch Hổ - cung cấp sản lượng lớn nhất, chiếm hơn 60% sản lượng của PVN từ xưa đến nay - đã vào giai đoạn suy kiệt.
Đó là chưa kể đến tình trạng sản lượng của một số mỏ dầu khí giảm dần và không còn mang lại hiệu quả kinh tế cho nhà đầu tư. Trong thời gian qua một số lô hợp đồng đã phải trả lại cho PVN do không còn hiệu quả kinh tế, như Lô 46/13 – mỏ Sông Đốc và Lô 01&02/97 mỏ Thăng Long, Đông Đô.
Vào năm 2012 hoặc 2022 khi mỏ Bạch Hổ trở thành ‘mỏ chết’, PVN sẽ phải dựa hoàn toàn vào 40% sản lượng còn lại, với điều kiện trữ lượng của những mỏ dầu còn lại vẫn còn mà không suy kiệt hẳn như Bạch Hổ.
Trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác !
Những năm tới sẽ là một thách thức khủng khiếp : làm sao đảng và PVN tìm ra được nguồn trữ lượng dầu khí mới ở Biển Đông để thay thế cho những mỏ sắp biến thành dĩ vãng và để ngân sách của đảng lẫn đảng khỏi chết theo ?
Ngay trước mắt là một mất cân đối quá lớn đối với ‘khoa học khai thác dầu khí’ : năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu tấn, nhưng phần tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng chỉ là 4 triệu tấn, tức trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác. Nếu tình trạng mất cân đối giữa tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng và khai thác vẫn tiếp diễn như hiện nay thì chỉ vài năm nữa, sản lượng khai thác dầu khí của PVN sẽ chỉ còn 1/3 sản lượng so với hiện thời.
Vào đầu năm 2017, một báo cáo của PVN đã thừa nhận rằng gia tăng trữ lượng dầu khí năm 2017 đạt thấp hơn nhiều so với mục tiêu chiến lược đề ra : mục tiêu đề ra trong nước là 20-30 triệu tấn/năm và ở nước ngoài là 8-12 triệu tấn/năm (tổng cộng là 28-42 triệu tấn/năm) nhưng trong hai năm 2016 và 2017 PVN đều không hoàn thành khi đạt thấp hơn nhiều (năm 2016 đạt 16,66 triệu tấn quy dầu và năm 2017 đạt 4,0 triệu tấn quy dầu). Hầu hết các mỏ đều đã khai thác trong thời gian dài và đang trong giai đoạn cuối dẫn tới suy giảm sản lượng tự nhiên hàng năm từ 15% tới trên 30%.
2017 cũng là năm gia tăng trữ lượng dầu khí thấp nhất từ trước đến nay, chỉ đạt 4 triệu tấn dầu, thấp nhất lịch sử. Một quan chức của PVN là Tổng giám đốc Nguyễn Vũ Trường Sơn phải thừa nhận : "trước đây hàng năm, PVN khoan 30-40 giếng thăm dò, chi phí tốn từ 2-2,5 tỷ USD, gia tăng được 35-40 triệu tấn quy dầu. Thế nhưng, từ 2015 trở lại đây, đầu tư của ta và nước ngoài chỉ đâu đó 400-500 triệu USD cho tìm kiếm thăm dò, giảm 5 lần so với trước".
Thông tin trên rất dễ khiến giới chóp bu Việt Nam mất ngủ, cho dù họ đã thừa biết thực trạng "thiếu ăn" đó, khi hầu hết các mỏ dầu ở Việt Nam đều đã khai thác quá độ hoặc vô độ trong thời gian dài và hiện đang trong giai đoạn cuối dẫn tới ‘suy giảm sản lượng tự nhiên’.
Phá sản ‘tầm nhìn đến năm 2030’
Hiện thực cùng tương lai cạn dầu hết tiền trên cũng khiến phá sản luôn "tầm nhìn đến năm 2030" của ngành dầu khí Việt Nam, đặc biệt dưới thời ‘đồng chí ba X’ - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Vào năm 2010 - 2011, PVN và chính phủ của ông Dũng đã hết sức lạc quan khi ước tính trữ lượng dầu của Việt Nam đủ để khai thác đến năm 2030, tức hàm ý chế độ hỗn tạp giữa danh nghĩa cộng sản và thực chất chủ nghĩa tư bản đỏ ở Việt Nam hoàn toàn có thể kéo dài sự tồn tại của nó đến ít nhất năm 2030.
Nhưng chỉ vài năm sau đó khi tốc độ khai thác được đẩy mạnh gấp đôi, "deadline" cho trữ lượng dầu đã được chính Thủ tướng Dũng và các bộ ngành liên quan gia giảm đến năm 2025. Tuổi thọ của chế độ cũng bởi thế đã được rút ngắn 5 năm.
Tính bất xứng đã thể hiện một cách thật ngọt ngào : nếu vào thời Nguyễn Tấn Dũng, Tập đoàn PVN đã lao vào khai thác dầu khí vô tội vạ và có lúc đóng góp tới gần 10% thu ngân sách, thì đến nay hàng năm số thu ngân sách từ PVN chỉ chưa đầy 100 ngàn tỷ đồng/năm và chỉ chiếm khoảng 6% tổng thu ngân sách.
Còn bây giờ thì trừ đảng, chẳng còn ai nói đến ‘năm 2030’ nữa. Thậm chí ‘năm 2025’ cũng chỉ là một ước đoán có phần lạc quan tếu.
Trong hai năm trở lại đây, "deadline" mới đã được thiết lập : trữ lượng dầu chỉ còn đủ để khai thác trong 4-5 năm.
Nhưng "deadline" trên cũng chỉ mang ý nghĩa hết sức tương đối. 3 năm khai thác tối đa là khoảng thời gian có thể dễ hình dung hơn. Tức PVN chỉ còn có thể khai thác tương đối thoải mái trong ba năm 2019, 2020 và ‘chào mừng đại hội đảng 13’ vào năm 2021, nếu quả thực còn có đại hội này.
Nhưng sau đó, không có gì bảo đảm cho ‘nguồn thu dầu khí bền vững’ đối với ngân sách đảng.
‘Thọ’ đến năm nào ?
Với tình trạng trữ lượng dầu cạn kiệt nhanh trong khi quá khó để tìm ra nguồn trữ lượng mới, có thể hình dung là vào năm 2021, ngân sách chế độ sẽ mất hẳn số thu 70.000 - 80.000 tỷ đồng từ PVN mà do đó sẽ ‘kiến tạo’ một lỗ thủng toang hoác không lấy gì bù trám được.
Tương lai đen tối trên đang hiển hiện trong bối cảnh hiện thời các nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và cả nguồn kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ đều khá bi đát. Từ năm 2014, chính thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi. Trong khi đó, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vào năm 2017 và 2018 có thể sụt giảm đến phân nửa so với mức đỉnh 13,5 tỷ USD vào năm 2015…
Cùng với ba tử huyệt nợ công quốc gia, nợ xấu ngân hàng và thâm thủng ngân sách đang lộ ra ngày càng rõ, triển vọng trữ lượng dầu khí cạn kiệt chỉ trong ít năm nữa hoàn toàn xứng đáng bồi thêm một điểm chết nữa mà có thể rút ngắn đáng kể tuổi thọ của chế độ cầm quyền tại Việt Nam trước thời điểm năm 2025.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/11/2018