Đọc tường thuật và coi hình ảnh về Thượng đỉnh liên Triều hôm 27/4/2018 giữa Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in và Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-un tại Bàn Môn Điếm , công luận quốc tế rất lạc quan nhưng vẫn có đôi chút dè dặt về tiến trình hòa giải giữa hai miền Bắc – Nam Triều Tiên.
Lãnh đạo Nam và Bắc Hàn tại thượng đỉnh Liên Triều hôm 27 tháng Tư, 2018.
Quốc tế lạc quan vì diễn biến các sự kiện của Thượng đỉnh Liên Triều này mang tính đột phá trong chính sách đối ngoại của Bắc Triều Tiên, có ý nghĩa tích cực, bất ngờ, vượt quá sự trông đợi của mọi người quan tâm. Nhưng chính những tính chất của sự đột phá này đã khiến nhiều giới quốc tế bán tín, bán nghi nên phải dè dặt. Họ tự hỏi diễn biến thực tế trong những này tháng tới có đúng thế không ?.
Vì trong quá khứ đã có hai lần Thượng Đỉnh Bắc - Nam (2000 và 2007) cũng cho người ta niềm lạc quan ít hơn, rồi cũng chẳng đi đến đâu. Bình Nhưỡng tiếp tục chính sách đối đầu thù địch, từng bước gây căng thẳng quân sự và đạt tới đỉnh cao bằng các cuộc thử nghiệm hạt nhân và hỏa tiễn tầm xa, tầm trung có khả năng mang đầu đạn hạt nhân đến dất Hoa Kỳ và đe dọa các quốc gia lân bang ; bất chấp sự phản đối, lên án của công luận quốc tế và các biện pháp trừng phạt từ thấp đến cao của Liên Hiệp Quốc. Năm 2017 vừa qua Bình Nhưỡng công bố đã thử nghiệm hạt nhân và tên lửa đạn đạo tầm xa cũng như tầm trung thành công và tự tuyên bố là một nước đã có vũ khí hạt nhân. Trong khi Liên Hiệp Quốc chuẩn bị gia tăng cường độ và phạm vi các biện pháp trừng phạt chế độ Bắc Triều Tiên mạnh mẽ hơn nữa, thì đột nhiên Bình Nhưỡng đánh tiếng sẵn sàng gửi phái đoàn vận động viên tham dự Thế Vận Hội Mùa Đông tại Nam Hàn vào tháng 2-2018 vừa qua. Sau đó chủ động đề nghị họp Thưởng Đình Liên Triều và cả Thượng Đỉnh với Hoa Kỳ một cách vô điều kiện ; lại còn đi bước trước đưa ra những quyết định có vẻ đáp ứng được các đòi hỏi bao lâu nay của Hoa Kỳ và quốc tế về hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên (ngưng thủ nghiệm hạt nhân, hủy bỏ dàn phóng… mà không đòi hỏi đáp ứng nào…).
Thượng Đỉnh Liên Triều thì đaã diễn ra và kết thúc rất tốt đẹp và đầy ấn tượng, gây xúc đông lòng người, hôm 27/4 vừa qua, với các kết quả trên nguyên tắc làm hài lòng đôi bên liên quan đến các vấn đề quân sự, chính trị từng gây căng thẳng hai chế độ đối nghịch Bắc-Nam ; kể từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) chấm dứt bằng một hiệp định ngừng bắc, chứ chưa có Hiệp Định chấm dứt chiến tranh lập lại nào bình giữa hai Miền.Kết quả trên nguyên tắc của Thượng Đỉnh Liên Triều này được ghi nhận trong Thông cáo chung gồm 4 điểm trên 4 lãnh vực, với các bước thực hiện theo một tiến trình được hai bên đồng thuận như sau
1. Nam và Bắc Triều Tiên sẽ nối lại quan hệ huyết thống của người dân hai nước nhằm đem lại tương lai thịnh vượng và thống nhất do người dân Triều Tiên lãnh đạo bằng việc tạo dựng mối quan hệ liên Triều toàn diện và đột phá. Cải thiện quan hệ liên Triều nhằm đáp ứng khao khát của toàn dân tộc và sự cấp thiết của thời đại khiến cho mối quan hệ này không thể tiếp tục bị kìm chế hơn nữa.
Thỏa thuận tổng quát có tính nguyên tắc trên được đôi bên thực hiện theo một tiến trình 6 bước (1).
2. Nam và Bắc Triều Tiên sẽ cùng nỗ lực hạ giảm căng thẳng quân sự và loại trừ nguy cơ chiến tranh trên Bán đảo Triều Tiên.
Thỏa thuận tổng quát có tính nguyên tắc trên được đôi bên thực hiện theo một tiến trình 3 bước (2).
3. Nam và Bắc Triều Tiên sẽ tích cực hợp tác để thiết lập một nền hòa bình lâu dài và bền vững trên bán đảo Triều Tiên. Việc chấm dứt tình trạng đình chiến bất thường hiện nay và thiết lập một nền hòa bình lâu dài trên bán đảo Triều Tiên là một sứ mệnh lịch sử không thể trì hoãn hơn nữa.
Thỏa thuận tổng quát có tính nguyên tắc trên được đôi bên thực hiện theo một tiến trình 3 bước (3)
4. Nam và Bắc Triều Tiên xác nhận mục tiêu chung là phi hạt nhân hóa hoàn toàn, tiến tới một bán đảo Triều Tiên không có hạt nhân. Nam và Bắc Triều Tiên chia sẻ quan điểm rằng, các biện pháp do Bắc Triều Tiên khởi xướng rất có ý nghĩa và thiết yếu cho việc phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, đồng ý thực thi vai trò và trách nhiệm của mỗi bên trong vấn đề này.Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý tích cực mưu tìm sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên (4).
Nhận định chung về 3 điểm (1, 2, 3) trên của Thông Cáo chung liên quan đến các vấn đề chính trị, quân sự nội bộ giữa hai miền Bắc - Nam xem ra có thể lạc quan hơn về sự hiện thực, nếu chế độ Bình Nhưỡng thực tâm muốn thực hiện hòa giải dân tộc để tiến tới thống nhất đất nước Triều Tiên một cách hòa bình trong tương lai xa, với các bước thực hiện theo một tiến trình mà Thông Cáo Chung vạch ra. Duy có điềm thứ 4 liên quan đến hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên, người ta còn nghi ngại và sự thành công của Thượng Đỉnh Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên sẽ diển ra trong ít tuần tới tùy thuộc vào sự giải thích ý nghĩa đầy đủ, cụ thể về điều mà "Nam và Bắc Triều Tiên xác nhận mục tiêu chung là phi hạt nhân hóa hoàn toàn, tiến tới một bán đảo Triều Tiên không có hạt nhân…".
Vì theo quan điểm của Hoa Kỳ và quốc tế "phi hạt nhân hóa hoàn toàn, tiến tới một bán đảo Triều Tiên không có hạt nhân…" nghĩa là Bắc Triều Tiên phải hủy bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân đã có, chứ không được tàng trữ dưới bất cứ hình thức, lý do nào.
Nhưng liệu Bình Nhưỡng có dễ dàng chấp nhận điều này, là chấp nhận một sớm một chiều hủy bỏ một công trình tốn bao tài nguyên, công sức, chấp nhận các biện pháp trừng phạt nặng nề của quốc tế và nguy cơ nhiều mặt, để có được ? Nếu chấp nhận thì với giá nào ? Hoa Kỳ, Nam Hàn và quốc tế phải viện trợ tối đa để bù lỗ cho những tổn phí nghiên cứu, thử nghiệm hạt nhân, tên lửa đạn đạo khởi sự được thế giới biết đến là từ năm 2006, vụ thử nghiệm hạt nhân đầu tiên của Bình Nhưỡng ; đồng thời phải viện trợ đến mức độ nào cho Bắc Triều Tiên phát triển với bảo đảm an ninh và sự tồn tại của chế độ độc tài toàn trị Bình Nhưỡng ?
Nếu Bình Nhưỡng chỉ chấp nhận ngưng hoàn toàn các cuộc thử nghiệm hạt nhân và tên lửa đạn đạo, chấp nhận hủy bõ các cơ sở và bãi thử nghiệm như đã công bố, nhưng vẫn giữ quyền tàng trữ vũ khí hạn nhân để tự vệ và đòi quốc tế công nhận Bắc Triều Tiên là nước có vũ khí hạt nhân, như Ấn Độ và Pakistan trước đây thì sao ?
Câu trả lời tổng quát là Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump sẽ bước ngay ra khỏi phòng họp như lời ông nói. Và như thế Thượng đỉnh Mỹ-Triều dự trù diễn ra vào cuối tháng 5 hay đầu tháng 6 tới đây sẽ tan vỡ. Trong tình huống này, liệu những thành quả của Thượng đỉnh Liên Triều được ghi nhận trong Thông cáo chung Moon Jae-in và Kim Jong-un có được thực thi hay không ?
Tình hình thực tế diễn ra thế nào,chúng ta hãy chờ xem.
Houston, ngày 2-5-2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 03/05/2018
Ghi chú : (1), (2), (3) và (4)
Toàn văn Thông cáo chung Thượng đỉnh Liên Triều như sau :
Trong thời khắc chuyển giao lịch sử quan trọng trên bán đảo Triều Tiên, phản ánh khát vọng lâu dài về hòa bình, thịnh vượng và thống nhất của người dân Triều Tiên, Tổng thống Cộng hòa Triều Tiên (Nam Triều Tiên) Moon Jae-in và Chủ tịch Ủy ban Quốc vụ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) Kim Jong-un đã họp Thượng đỉnh liên Triều tại Nhà Hòa Bình ở Bản Môn Ðiếm ngày 27/4/2018.
Hai nhà lãnh đạo trịnh trọng tuyên bố trước 80 triệu người dân [hai miền] Triều Tiên và toàn thế giới rằng sẽ không còn chiến tranh trên Bán đảo Triều Tiên và một kỷ nguyên hòa bình mới đã bắt đầu.
Lãnh đạo hai nước, chia sẻ cam kết chắc chắn sẽ sớm chấm dứt chia rẽ và đối đầu lâu nay từ thời Chiến tranh Lạnh, quyết tâm hướng tới kỷ nguyên mới về hòa giải dân tộc, hòa bình và thịnh vượng, cải thiện quan hệ liên Triều và tuyên bố tại địa điểm lịch sử Bản Môn Ðiếm :
1. Nam và Bắc Triều Tiên sẽ nối lại quan hệ huyết thống của người dân hai nước nhằm đem lại tương lai thịnh vượng và thống nhất do người dân Triều Tiên lãnh đạo bằng việc tạo dựng mối quan hệ liên Triều toàn diện và đột phá. Cải thiện quan hệ liên Triều nhằm đáp ứng khao khát của toàn dân tộc và sự cấp thiết của thời đại khiến cho mối quan hệ này không thể tiếp tục bị kìm chế hơn nữa.
(1) Nam và Bắc Triều Tiên khẳng định nguyên tắc tự quyết định vận mệnh của dân tộc Triều Tiên và đồng ý thúc đẩy thời khắc quyết định để cải thiện quan hệ liên Triều bằng cách thực thi đầy đủ các thỏa thuận và tuyên bố hiện có mà hai nước đã thông qua.
(2) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý sẽ tiến hành đối thoại và đàm phán cấp cao trong nhiều lĩnh vực và thực thi những biện pháp tích cực để đạt được các thỏa thuận đạt được tại Thượng đỉnh.
(3) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý thiết lập một văn phòng tùy viên chung với đại diện thường trú của cả hai bên đặt tại Gaeseong để có thể cung cấp tham vấn xác thực giữa hai chính phủ cũng như thúc đẩy trao đổi và hợp tác giữa nhân dân hai nước.
(4) Nam và Bắc và Triều Tiên đồng ý khuyến khích hợp tác, trao đổi, thăm hỏi và liên lạc ở tất cả các cấp một cách tích cực hơn nhằm hồi sinh tinh thần hòa giải và đoàn kết dân tộc. Ở Triều Tiên, hai bên sẽ khuyến khích bầu không khí hòa bình và hợp tác bằng cách tổ chức các sự kiện chung của cả hai nước, như ngày 15/6 với sự tham gia của chính phủ, quốc hội, các đảng phái chính trị và các tổ chức dân sự. Trên bình diện quốc tế, hai bên nhất trí thể hiện sự đoàn kết, trí tuệ và tài năng chung bằng cách cùng tham gia vào các sự kiện thể thao quốc tế như Đại hội thể thao Châu Á 2018.
(5) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý nhanh chóng giải quyết các vấn đề nhân đạo do việc chia đôi đất nước gây ra và sẽ tổ chức cuộc họp Hội Chữ thập Đỏ liên Triều để giải quyết nhiều vấn đề, bao gồm việc đoàn tụ các gia đình ly tán. Trên tinh thần đó, hai bên đồng ý đẩy mạnh chương trình đoàn tụ các gia đình ly tán nhân dịp đánh dấu Ngày Giải phóng Dân tộc 15/8 năm nay.
(6) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý tích cực tham gia các dự án mà hai bên đã ký kết trong Tuyên bố ngày 4/10/2007, để thúc đẩy sự cân bằng về phát triển kinh tế và thịnh vượng chung cho dân tộc. Bước đầu, hai bên đồng ý tiến hành các bước đi thiết thực hướng tới việc nối kết và hiện đại hóa các tuyến đường bộ và đường sắt dọc theo hành lang vận tải phía Đông và giữa Seoul và Sinuiji.
2. Nam và Bắc Triều Tiên sẽ cùng nỗ lực hạ giảm căng thẳng quân sự và loại trừ nguy cơ chiến tranh trên Bán đảo Triều Tiên.
(1) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý chấm dứt mọi hành động thù địch trên bộ, trên không và trên biển – là những nguyên nhân gây căng thẳng quân sự và dẫn đến xung đột. Trên tinh thần đó, cả hai bên đồng ý biến khu phi quân sự [DMZ] thành khu hòa bình bằng một quyết tâm thực sự bắt đầu bằng việc chấm dứt mọi hành động thù địch, bao gồm việc chấm dứt phát thanh tuyên truyền, rải truyền đơn tại khu vực dọc theo Đường Phân giới Quân sự, bắt đầu từ ngày 1/5.
(2) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý lập kế hoạch biến khu vực xung quanh Đường Biên giới phía Bắc ở Biển Tây thành vùng biển hòa bình để tránh nguy cơ va chạm quân sự ngoài mong muốn và đảm bảo an toàn cho hoạt động đánh bắt cá của ngư dân của cả hai miền.
(3) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý xúc tiến các biện pháp quân sự để đảm bảo việc liên lạc, thăm hỏi, trao đổi và hợp tác diễn ra tích cực. Hai bên đồng ý tiến hành các cuộc gặp thường xuyên giữa giới chức quân đội hai nước, bao gồm các cuộc họp Bộ trưởng Quốc phòng để có thể đối thoại và giải quyết ngay lập tức các vấn đề về quân sự giữa hai bên. Trên tinh thần đó, hai bên đồng ý tiến hành các cuộc đối thoại quân sự đầu tiên ở cấp tướng lãnh vào tháng 5.
3. Nam và Bắc Triều Tiên sẽ tích cực hợp tác để thiết lập một nền hòa bình lâu dài và bền vững trên bán đảo Triều Tiên. Việc chấm dứt tình trạng đình chiến bất thường hiện nay và thiết lập một nền hòa bình lâu dài trên bán đảo Triều Tiên là một sứ mệnh lịch sử không thể trì hoãn hơn nữa.
(1) Nam và Bắc Triều Tiên tái khẳng định Hiệp ước không có những hành động thù địch nhằm ngăn chặn việc sử dụng vũ lực dưới bất kỳ hình thức nào và đồng ý tuân thủ chặt chẽ hiệp ước này.
(2) Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý giải trừ vũ khí theo từng đợt ngay khi căng thẳng quân sự hạ giảm và tạo được những bước tiến vững chắc trong việc tạo dựng niềm tin quân sự giữa hai bên.
(3) Vào dịp đánh dấu 65 năm Hiệp ước đình chiến, Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý thúc đẩy các cuộc gặp ba bên, gồm hai miền Triều Tiên và Mỹ, và có thể là cuộc họp bốn bên bao gồm cả Trung Quốc để đi đến tuyên bố chấm dứt chiến tranh, thiết lập một nền hòa bình vĩnh viễn.
(4) Nam và Bắc Triều Tiên xác nhận mục tiêu chung là phi hạt nhân hóa hoàn toàn, tiến tới một bán đảo Triều Tiên không có hạt nhân. Nam và Bắc Triều Tiên chia sẻ quan điểm rằng, các biện pháp do Bắc Triều Tiên khởi xướng rất có ý nghĩa và thiết yếu cho việc phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, đồng ý thực thi vai trò và trách nhiệm của mỗi bên trong vấn đề này. Nam và Bắc Triều Tiên đồng ý tích cực mưu tìm sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Hai nhà lãnh đạo đồng ý, thông qua các cuộc họp thường xuyên, các cuộc điện đàm trực tiếp, sẽ tiến hành các cuộc đối thoại thường xuyên và thẳng thắn về những vấn đề quan trọng của dân tộc, củng cố lòng tin lẫn nhau để tạo dựng động lực tích cực cho quan hệ liên Triều nhằm đem lại hòa bình, thịnh vượng và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên.
Trên tinh thần đó, Tổng thống Moon Jae-in đồng ý đi thăm Bình Nhưỡng vào mùa thu năm nay.
Ngày 27 tháng 4, 2018
Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 4, ngày chấm dứt chiến tranh Việt Nam, nhà đương quyền Việt Nam tự nhận là "Bên thắng cuộc" thường tổ chức ăn mừng như một ngày "Đại thắng Mùa Xuân". Trong khi những tổ chức chính trị, xã hội và người Việt quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản ở hải ngoài thì thường tổ chức tưởng niệm như một "Ngày Quốc Hận".
Một buổi tưởng niệm 30 tháng Tư tại Little Saigon, California.
Bài viết này nhằm xác định rõ thực chất cũng như thực tế về ngày 30/4/1975 : Ai thắng ai ?
Theo ý nghĩa từ ngữ thông thường, trong một cuộc chiến tranh "Bên thắng cuộc" là bên đã đánh bại hoàn toàn đối phương, sau khi đối phương đầu hàng hay bị tiêu diệt, đưa cuộc chiến tranh đến kết thúc. Chẳng hạn Thế Chiến II (1939-1945) đã kết thúc sau khi Phe Trục thua cuộc (Đức-Ý-Nhật) phải đầu hàng phe thắng cuộc Đồng Minh (Mỹ-Anh-Pháp-Nga-Trung). Vậy thì ngày 30/4/1975 kết thúc chiến tranh Việt Nam, ai thắng ai ?
Như chúng tôi đã trình bày trong nhiều bài viết và cả một cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam, rằng đó là cuộc chiến tranh giữa hai phe, bốn bên. Hai phe đó là (1) phe xã hội chủ nghĩa và (2) phe tư bản chủ nghĩa (Chiến tranh ý thức hệ toàn cầu) ; với bốn bên (1) Liên Xô và Trung quốc, (2) bên Hoa Kỳ và đồng minh (Ngoại chiến), (3) bên Việt cộng và (4) bên Việt quốc (nội chiến quốc-cộng). Cả hai cuộc chiến này cùng diễn ra trên chiến trường Việt Nam, trùng lắp không gian và thời gian, nên thường gọi chung là cuộc "Chiến tranh Việt Nam". Cuộc chiến này đã chấm dứt vào ngày 30/4/1975, sau khi bên cộng sản Bắc Việt đánh bại hoàn toàn bên quốc gia Nam Việt, thôn tính được Miền Nam, thống nhất đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy theo ý nghĩa từ ngữ thông thường, phe xã hội chủ nghĩa đã thắng phe tư bản chủ nghĩa trong cuộc chiến tranh cục bộ tại Việt nam, vì đã giành thêm lãnh địa toàn cõi Việt Nam cho phe xã hội chủ nghĩa để thực hiện tham vọng cộng sản hóa toàn cầu. Hay nói cách khác một cách cụ thể là các bên ngoại chiến Liên Xô và Trung quốc đã thắng bên Hoa Kỳ và đồng minh trong cuộc chiến tranh cục bộ Việt Nam. Đồng thời, bên nội chiến Việt cộng cũng đã thắng bên nội chiến Việt quốc trong "cuộc chiến tranh quốc-cộng" tại Việt Nam (một giai đoạn của cuộc "Nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng", hai giai đoạn kia là "Tiền chiến tranh Quốc-Cộng" (1930-1954) và "hậu chiến tranh Quốc-Cộng" từ 1975 đến nay vẫn chưa kết thúc).
Thế nhưng theo nhận định của chúng tôi, đó chỉ là "chiến thắng biểu kiến"(coi vậy chứ không phải vậy). Vì chiến tranh Việt Nam kéo dài 21 năm (1954-1975) nhưng đã kết thúc nhanh gọn, bị động và bất ngờ cho cả hai bên nội chiến Quốc-Cộng (nhưng không bất ngờ với các bên ngoại chiến) ; cùng với diễn biến các sự kiện vào những ngày tháng cuối cùng trước và sau khi kết thúc cuộc chiến một cách không bình thường, tựa hồ như một kịch bản tiền định… Vì nếu việc kết thúc chiến tranh Việt Nam quả là một "thắng lợi thật" của phe xã hội chủ nghĩa trong đó có "bên thắng cuộc" Việt cộng, thì tình hình Việt Nam và thế giới phải biến chuyển theo chiều hướng khác với thực tế kể từ sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975. Tỷ như phe xã hội chủ nghĩa phải khai thác triệt để "Chiến thắng của cách mạng Việt Nam" để đẩy mạnh các cuộc "chiến tranh cách mạng, chiến ntranh giải phóng" để cộng sản hóa các nước trong vùng và các vùng nghèo đói khác trên thế giới. Thế nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược, chẳng cần nói ra thì ai cũng đã biết (1).
Vì vậy, chúng tôi cho rằng sự kết thúc chiến tranh Việt Nam vào ngày 30/4/1975 như thế không phải là thắng lợi thực sự và chung cuộc của phe này(phe xã hội chủ nghĩa và Việt cộng) với phe kia (phe tư bản chủ nghĩa và Việt quốc) mà chỉ là vì nhu cầu thay đổi thế "chiến lược toàn cầu mới" (The New Globle Trategy) của các cường quốc cực nói chung, Hoa Kỳ nói riêng, sau khi các mục tiêu và lợi ích chiến lược trong vùng các bên ngoại chiến đã thành đạt thông qua cuộc chiến Việt Nam. Do đó, Hoa Kỳ đã chủ động đưa cuộc chiến tranh Việt Nam đến kết thúc, để khởi động cho một tiến trình đưa "các bên thắng cuộc" (phe xã hội chủ nghĩa và Việt cộng ) đến "thua cuộc hoàn toàn" để đi vào "Chiến lược toàn cầu mới" (2).
Thực tế quả đã diễn biến đúng như vậy. Vì chỉ 15 năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Liên Xô "Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa" và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã sụp đổ tan tành (1990-1991). Tất cả đã chuyển đổi qua "chế độ dân chủ với nền kinh tế thị trường tự do" (vốn là nội dung chủ yếu của thế chiến lược toàn cầu mới). Như vậy là phe xã hội chủ nghĩa đã "thua cuộc hoàn toàn" trong cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu hình thành sau Thế Chiến II,diễn ra dưới hai hình thái "Chiến Tranh Lạnh " (The Cold War) giữa các nước giầu và "Chiến tranh Nóng" (The Hot War) nơi một số các nghèo, trong đó có Việt Nam.. Nghĩa là cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu coi như chấm dứt sau 16 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam (1975-1991), là thua cuộc hoàn toàn và vĩnh viễn.
Bên thắng cuộc Việt cộng, nằm trong phe xã hội chủ nghĩa, trong cuộc chiến tranh Việt Nam hôm qua, tất nhiên cũng không tránh khỏi số phận là "bên thua cuộc hoàn toàn" trong cuộc "nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng" tại Việt Nam, khi quá trình tiêu vong đã, đang diễn ra và sắp đi đến kết thúc. Nghĩa là chế độ độc tài đảng trị hay toàn trị cộng sản dưới bảng hiệu "Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam" (ngụy danh, ngụy nghĩa) cũng đã và đang trên quá trình tiêu vong để hình thành một chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng với "nền kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa" ; dù thực tế đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (đỏ vỏ xanh lòng) hiện nay vẫn cố ngụy biện để kéo dài tuổi thọ, rằng Việt Nam đang đi theo con đường "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" ; nhưng không thể cưỡng lại chiều hướng mới không thể đảo ngược của "chiến lược toàn cầu mới" của các cường quốc cực (dân chủ hóa về chính trị, thị trường tự do hóa về kinh tế…), cũng như chiều hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam.(tất yếu Việt Nam phải đi đến dân chủ với nền kinh tế thị trường tự do phát triển…).
Tựu chung, căn cứ vào diễn biến các sự kiện không bình thường trước và sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975, chúng tôi cho rằng Liên Xô, Trung quốc và phe xã hội chủ nghĩa trong đó có "bên thắng cuộc" Việt cộng, chỉ đạt được "Chiến thắng biểu kiến" (giả tạo),có tính giai đoạn ; do nhu cầu thay đổi thế chiến lược toàn cầu mới của các cường quốc cực, mà Hoa Kỳ đã chủ động thực hiện kịch bản đưa cuộc chiến tranh Việt nam đi đến kết thúc. Chính xác hơn có thể nói : Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975 như thế, đã chỉ là thắng lợi của các bên ngoại chiến trong hai phe xã hội chủ nghĩa (đứng đầu là Liên Xô…) và tư bản chủ nghĩa (đứng đầu là Hoa Kỳ…)vì các lợi ich chiến lược quân sự và kinh tế họ đã thành đạt thông qua cuộc chiến. Chính các bên nội chiến (Việt cộng và Việt quốc) trong hai phe mới là các bên thua cuộc hoàn toàn. Vì đã tri tình (Việt cộng) hay ngay tình (Việt quốc) làm công cụ chiến lược một thời cho các bên ngoại chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, sát hại lẫn nhau và tàn phá tan hoang đất nước, dẫn đến tụt hâu sau chiên tranh.
Vậy xin hỏi bên Việt cộng tự nhận là "Bên thắng cuộc" hàng năm có nên tiếp tục ăn mừng ngày 30/4/1975, ngày kết thúc cuộc chiến tranh "cốt nhục tương tàn" như một chiến thắng nữa hay thôi ?- Đồng thời, khi chúng tôi viết bài này, thì hội nghị Thượng Đỉnh Liên Triều vừa diễn ra và kết thúc tốt đẹp (27/4/2018). Qua các tường thuật và hình ảnh được truyền đi khắp thế giới đã gây xúc động lòng người. Cá nhân người viết không khỏi rưng rưng nước mắt khi liên tưởng đến tình cảnh Quê Hương Đất Nước mình. Qua Thông cáo chung của Thượng đỉnh Liên Triều đã thể hiện tình tự dân tộc cao độ, khởi sự cho một tiến trình hòa giải hòa hợp dân tộc đầy triền vọng tốt đẹp cho nhân dân và đất nước Triều Tiên.
Nhân dân Việt Nam tự hỏi : Không biết những người lãnh đạo đảng và nhà đương quyền Việt Nam có suy nghĩ, so sánh gì với Triều Tiên, một nước có số phận không may như Việt Nam cùng rơi vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, hình thành sau Thế Chiến II. Thế nhưng đảng Lao Động Triều Tiên (tên gọi khác của đảng cộng sản bản xứ) đã khôn ngoan hơn Đảng cộng sản Việt Nam, là sau cuộc chiến tranh 3 năm (1950-1953) xâm chiếm miền Nam bị liên quân Nam Hàn và Hoa Kỳ dưới ngọn cờ Liên Hiệp quốc đánh bại, đã ngưng chiến, tạo thế lực quân sự (chế tạo hạt nhân, hỏa tiễn đạn đạo…) để 65 năm sau cuộc chiến (1953-2018) đã tạo được thế lực mạnh, chủ động đi bước trước thực hiện hòa giải dân tộc qua hội nghị thượng đỉnh với chế độ cộng hòa Nam Hàn ; và chủ động thương lượng tay đôi với đại cường quốc Hoa Kỳ qua hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và lãnh tụ Bắc Triều tiên Kim Jong-un dự trù diễn ra vào cuối tháng 5 hay đầu tháng 6 tới đây. Trong khi, Đảng cộng sản Việt Nam(trong chiến tranh lấy tên là đảng Lao động Việt Nam) thì hiếu chiến và thiếu khôn ngoan hơn, trong quá khứ đã dùng bạo lực chiến tranh để thống nhất đất nước, với cái giá núi xương sông máu dân Việt, làm tan hoang đất nước, để lại hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho dân tộc.
Vậy người dân xin hỏi những người lãnh đạo đảng cộng sản và nhà nước "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (ngụy danh, ngụy nghĩa) hôm nay có dám noi gương các lãnh đạo đảng Lao Động Triều Tiên và nhà cầm quyền chế độ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, chủ động và thực tâm khởi động tiến trình hòa giải và hòa hợp dân tộc theo đúng ý nghĩa chân chính của cụm tự này, chứ không phải chỉ là thủ đoạn chính trị và chiêu bài lừa mị như bao lậu nay ?
Câu trả lời xin dành cho Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đã nắm độc quyền quyền thống trị toàn cõi đất nước 43 năm sau cuộc chiến. (1975-2018) và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam coi như đã thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn, như ông Tổng Trọng đã thú nhận bằng sự hoài nghi rằng : không biết đến cuối thế kỷ này đã có được xã hội "xã hội chủ nghĩa" hay không.
Houston, ngày 28 tháng 4 năm 2018.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 30/04/2018
Ghi chú : (1), (2) :
Trong tài liệu viết cho "Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam"năm 1976, người viết đã đưa ra nhận định, rằng "Cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế, chẳng phải là thắng lợi của phe này đối với phe kia, mà chỉ là vị sự thay đổi thế chiến lược quốc tế của các cường quốc cực mà thôi…" ; để sau đó đưa ra lời kêu gọi những người cộng sản Việt Nam, rằng "chúng tôi khẩn thiết kêu gọi những người đang miệt mài xây một "Thiên đường cộng sản" trên đất nước này cần xét lại. Bởi vì biên giới quốc gia muôn đời vẫn là cái giới hạn mà các dân tộc sống chung phải bảo vệ trên hết và trước hết…" ; và rằng "Chỉ có đứng trên lập trường dân tộc, dưới ánh sáng chủ nghĩa yêu nước,chúng ta mới có thể tìm ra được con đường đúng nhất, có lợi nhất cho dân tộc Việt Nam, phù hợp với ý nguyện của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam, chứ không phải là tham vọng của những kẻ cầm quyền…".
Tài liệu quay roneo dày khoảng 30 trang này người viết đã nhờ một người (Bs. N.T.T hiện sống tại Canada) là bạn thiếu thời và cũng là đồng hương Quảng Trị với Ks. Lê Hãn, Trưởng nam của cố Tổng bí thư Lê Duẫn, chuyển tài liệu này đến thân phụ Ông. Chúng tôi không rõ tài liệu này có đến tay ông Lê Duẩn hay không.
Tất cả những nhận định và lời kêu gọi trên, chúng tôi có in lại trong cuốn "Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới" của Thiện Ý, ấn hành tháng 4-1995, tái bản năm 2005-
Xin vào đọc thêm chi tiết tại : luatkhoavietnam.com, Mục "Diễn Đàn", Tiểu mục "Tác giả-Tác phẩm" để đọc tác phẩm- Xin vào Tiểu mục "Hội luận-Phỏng vấn" để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả về tác phẩm này (Tháng 5/1995), có nhắc lại lời kêu gọi trên.
Như vậy là gần như chắc chắn cuộc hội nghị thượng đỉnh song phương giữa Nam Hàn với Bắc Triều Tiên sẽ diễn ra vào ngày 27/4/2018 và sau đó còn đôi chút bấp bênh là cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong-un dự trù sẽ diễn ra vào cuối tháng 5 hay đầu tháng 6/2018 tới đây. Bấp bênh vì có hay không cuộc họp thượng đỉnh thứ hai này liên quan đến bán đảo Triều Tiên còn tùy thuộc vào kết quả của hội nghị thượng đỉnh liên Triều có đáp ứng sự mong đợi của Hoa Kỳ và quốc tế hay không.
Một buổi duyệt binh tại Triều Tiên năm 2012.
Bây giờ thì ai cũng biết, hai cuộc hội nghị thượng đỉnh này nếu có được là do sự chủ động đi bước trước của Bắc Triều Tiên, khởi đi từ việc gửi phái đoàn vận động viên đến tham dự Thế vận hội Mùa Đông ở Nam Hàn vào tháng 2/2018 vừa qua. Nhưng bài viết này chỉ muốn tìm hiểu xem hai bên muốn thành đạt điều gì qua hội nghị thượng đỉnh liên Triều giữa Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in và lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong-un, dựa trên diễn biến các sự kiện thực tế có liên quan.
1. Nam- bắc Triều muốn thanh đạt điều gì về quân sự ?
- Về quân sự, theo nhật báo Munhwa Ilbo hôm 17/4, dẫn lời một quan chức Hàn Quốc giấu tên cho biết, thì trước cuộc gặp thượng đỉnh giữa lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong-un và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in vào ngày 27/4/2018 tới đây, các nhà lập pháp của hai miền được tin là đã thảo luận các chi tiết của một tuyên bố chung, phác họa tiến trình chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột quân sự. Vì Bình Nhưỡng và Seoul trên lý thuyết, vẫn đang trong tình trạng chiến tranh kể từ khi cuộc xung đột trong những năm từ 1950-1953 kết thúc bằng một cuộc ngừng bắn - chứ không phải một hiệp định hòa bình.
Vì ai cũng biết, cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) do Bắc Triều Tiên phát động với sự trực tiếp tham chiến của chí nguyện quân Trung cộng nhằm thôn tính Nam Hàn. Nhưng đã bị quân đội Nam Hàn và Hoa Kỳ chiến đấu dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc ngăn chặn, đẩy lùi và đã kết thúc sau 37 tháng chiến tranh khốc liệt chỉ bằng một thỏa thuận ngừng bắn ký giữa Hoa Kỳ (trong vai trò lãnh đạo các lực lượng của Liên hiệp quốc), Bắc Triều Tiên và Trung Quốc (Nam Triều Tiên không có tên trong thỏa thuận ngừng bắn), chứ chưa có một Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình nào. Kể từ sau cuộc đình chiến, những căng thẳng về địa chính trị Bắc-Nam đôi khi bùng nổ xung đột quân sự lẻ tẻ,nhưng cho đến nay, cả hai miền đều tránh được một cuộc xung đột có mức tàn phá cao.
Vẫn theo tờ báo trên, trong cuộc gặp thượng đỉnh hai ông Kim và Moon có thể còn thảo luận việc khôi phục lại khu phi quân sự được canh phòng cẩn mật để phân cách hai miền hiện nay, để khu vực này trở lại trạng thái ban đầu của nó.Đồng thời, một số vấn đề cũng cần giải quyết bao gồm hàng trăm nghìn binh sĩ đóng quân dọc theo đường ranh giới được canh phòng cẩn mật nhất trên thế giới ; các tàu ngầm và tàu tuần tra dọc theo bờ biển hai miền, liên minh quân sự còn hoạt động giữa Hàn quốc và Hoa Kỳ ; dàn tên lửa lá chắn hướng về Bình Nhưỡng với sự hiện diện của các lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc ; và dàn đại pháo hùng hậu của miền Bắc luôn chĩa về hướng Seoul.Những vấn đề hai bên thảo luận này xem ra cỏ vẻ thuận lợi vì được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Vì trong cuộc gặp thượng đỉnh với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại khu nghỉ mát Mar-a-Lago ở Palm Beach, Florida ngày 17/4/2018 Tổng thống Mỹ Donald Trumpcũng bày tỏ sự ủng hộ các nỗ lực giữa Hàn Quốc và Triều Tiên nhằm chấm dứt tình trạng chiến tranh đã tồn tại giữa hai nước kể từ năm 1953.
Về hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên, là vấn đề quan trọng nhất trong hội nghị thượng đỉnh liên Triều này. Vì dường như Hoa Kỳ đang chờ đợi trong hội nghị này xem ông Kim có xác nhận rõ những điều mà Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in nói với báo giới, rằng "Triều Tiên đang thể hiện thiện chí giải trừ hạt nhân toàn diện" và không có các điều kiện như trước tiên quân đội Mỹ phải rút khỏi Hàn Quốc. Vì Từ nhiều năm trước đây, Triều Tiên nói rằng họ có thể cân nhắc việc từ bỏ chương trình sản xuất vũ khí hạt nhân nếu Hoa Kỳ rút quân khỏi Hàn Quốc và bỏ lá chắn hạt nhân từ Hàn Quốc và Nhật Bản do Mỹ thiết lập (hãng tin Reuters trích lời Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cho biết như vậy hôm 19/4).
Chính sự xác định rõ ràng về hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên của Ông Kim, Tổng thống Trump sẽ có quyết định sau cùng có hay không tham dự cuộc họp thượng đỉnh với lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong-un vào cuối tháng 5 hay đầu tháng 6/2018 tới đây. Vì cho đến hôm thứ Bảy 21/4/2018ông Kim mới chỉ tuyên bố kết thúc các cuộc thử nghiệm hạt nhân và tên lửa, hủy bỏ địa điểm thử nghiệm hạt nhân để theo đuổi hòa bình và tăng trưởng kinh tế, nhưng ông không đề cập tới việc từ bỏ các vũ khí hạt nhân hiện có trong tay.
Do đó Tổng thống Trump và các nhà lãnh đạo thế giới khác tuy có hoan nghênh tuyên bố của ông Kim, nhưng vẫn bày tỏ hoài nghi về ý định thực sự của Bắc Triều Tiên. Người ta nghi ngại rằng có thể ý định thực sự của Bắc Triều Tiên là muốn qua hội nghị thượng đinh với Hoa Kỳ, Bình Nhưỡng muốn được quốc tế công nhận là một nước có vũ khí hạt nhân, như Ấn Độ và Pakistan trước đây, được quyền tang trữ để tự vệ.Vì sau những thử nghiệm hạt nhân và tên lửa đạn đạo cuối cùng năm vừa qua, Bình Nhưỡng đã công bố là đã thành công cả hai lãnh vực thử nghiệm này. Nay với động thái phá hủy một vài dàn phóng phải chăng muốn xác định rằng họ đã có vủ khí hạt nhân, không cần thử nghiệm thêm nữa ?
Qua sự chủ động và tự tin khi đề xuất các cuộc hội nghị thượng đỉnh, có thể đây là con bài tảy của Bình Nhưỡng. Nhưng nếu con bài tảy này được lật lên trong hội nghị thượng đỉnh Liên Triều, thì khó mà có được cuộc hội nghị thượng đỉnh với Mỹ, diễn đàn chính để Ông Kim công bố ý định thực sự của mình. Vì vậy, rất có thể con bài tảy này sẽ được dấu kín trong hội nghị thượng đỉnh Liên Triều, bằng cách thả nổi coi như chỉ đề cập đến hồ sơ hạt nhân với Mỹ, còn trọng tâm của hội nghị thượng đỉnh Liên Triều là các vấn đề quân sự, chính trị nội bộ hai Miền Bắc-Nam Triều Tiên.
2. Nam-Bắc Triều muốn thanh đạt điều gì về chính trị ?
- Về chính trị, trong hội nghị thượng đỉnh hai bên có thể bàn đến sự thừa nhận lẫn nhau trên căn bản "một đất nước, hai quốc gia với hai chế độ chính trị" tương tự như quốc gia Trung Quốc và quốc gia Đài Loan. Vì Tổng thống Nam Hàn Moon từng nói rằng những thỏa thuận lớn về bình thường hóa quan hệ giữa hai miền Triều Tiên và Hoa Kỳ không quá khó khăn mới có thể đạt được thông qua các cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa Triều Tiên và Hàn Quốc và giữa Triều Tiên và Hoa Kỳ nhằm mục đích kiềm chế các chương trình tên lửa của Bình Nhưỡng.
Vì vậy, theo nhận định của chúng tối, trong khi chờ đợi thống nhất đất nước Triều Tiên một cách hòa bình, hai bên Bắc-Nam có thể bàn đến việc trao đổi kinh tế, mậu dịch, viện trợ phát triển và nhân đạo, giao lưu văn hóa, thể thao, nghệ thuật, đoàn tụ các gia đình phân ly sau chiên tranh, cho phép liên lạc thư tín, người dân qua lại du lịch …Tất cả sẽ diễn ra theo một trình tự thời gian thích hợp được hai bên ghi nhận. Tất cả những dự đoán này có thể dễ thành đạt với chính quyền dân chủ Nam Hàn’ vì nằm trong chính sách "Vầng Thái Dương" từ thời Tổng thống Kim Đại Trọng, được các chính quyền kế tiếp kế tục cho đến nay thể hiện qua một "Bộ Thống Nhất" trong nội các chính phủ.Thế nhưng, khó khăn là đối với chế độ độc tài toàn trị Bắc Triều Tiên, vì bất lợi về chính trị, nhất là mất sự kiểm soát chặt chẽ người dân Bắc Triều Tiên bao lâu nay bị kềm kẹp.
Trên đây là một số dự đoán của người viết trước Hội nghị thượng đỉnh liên Triều sẽ diễn ra vài ngày tới đây. Thực tế thế nào mọi người sẽ biết sau cuộc gặp giữa Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in và lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong-un vào ngày thứ Sáu 27/4/2018 tuần này..
Houston, ngày 25/4/2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 26/04/2018
Thảm cảnh bắt đầu từ vụ Buôn Mê Thuột thất thủ, tiếp đến là quyết định của Tổng thống Thiệu bỏ ngỏ Cao nguyên cho cộng quân, di tản chiến thuật. Thế là quân dân các vùng di tản bị rơi vào tình cảnh tán loạn. Nhiều quân nhân bỏ ngũ chạy về lo cho gia đình di tản. Những người dân thường cũng rời bỏ cửa nhà, ruộng vườn, tài sản tháo chạy về phía tự do như dòng thác đổ.
Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc.
Người ta ghi nhận "có đến nửa triệu quân dân Cao nguyên di tản về Nha Trang, một tỉnh ven biển Miền Trung của Việt Nam Cộng Hòa, phòng tuyến cuối cùng của Quân Đoàn II, Quân Khu II. Sau quyết định triệt thoái của ông Thiệu, Quân Đoàn II tan vỡ nhanh như một giấc chiêm bao. Mới đầu hôm sớm mai Quân Đoàn đã bị tiêu hủy trong nháy mắt. Hành lang phía tây Sài Gòn bị đe dọa trầm trọng…" (27).
Trong khi đó ở Huế, quân dân rút về Đà Nẵng, rồi tranh nhau tìm đường ra biển. Một số khác theo đường bộ tháo chạy về phía nam như một "Đại lộ kinh hoàng". Vì trên đại lộ ấy, nhiều cảnh đau lòng đã diễn ra. Người ta đã phải chứng kiến cảnh tranh sống, sát hại nhau, nạn thổ phỉ cướp bóc, hãm hiếp công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Mọi giá trị nhân bản, đạo đức bị chà đạp ; tình huynh đệ chi binh, nghĩa đồng bào trở thành xa lạ trong cuộc "rút lui chiến thuật" đầy hỗn loạn này. Thảm cảnh này cũng diễn ra tương tự ở nhiều tuyến "rút lui chiến thuật" khác trên các nẻo đường đất nước. Mọi người tháo chạy về phía tự do, vì lúc ấy có lời đồn đãi rằng "đã có thương lượng cho Cộng sản Bắc Việt một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa mà không chống cự…".
Quả thực đến đầu tháng 4 năm 1975, một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ ngỏ cho Cộng quân đến tiếp quản. Tốc độ rút quân quá nhanh đến độ đối phương không kịp tiếp thu, không đủ người và thực ra cũng không cần đủ người để giữ đất. Trong vòng vài tuần, 150.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tự hủy và mất khả năng chiến đấu. Thế quân bình chiến lược hoàn toàn bị đảo ngược. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam lâm nguy !
Mặc dầu thực tế diễn ra đúng với ý muốn của Hoa Kỳ, nhưng Tổng thống Gerald Ford lúc đó vẫn làm ra vẻ quan tâm đến việc cứu vớt số phận đã được an bài của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Ford đã đề nghị một ngân khoản viện trợ quân sự bổ sung 700 triệu Mỹ kim trang bị và lập cầu không vận khẩn cấp chuyển đồ tiếp tế cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hành động này của Tổng thống Ford chẳng khác chi hành động của một nhà đạo đức giả, một bác sĩ vô lương tâm, biết rằng con bệnh sắp chết và cái chết ấy có một phần trách nhiệm do mình gây ra, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra hết lòng muốn cứu sống con bệnh. Dẫu sao, đó cũng chỉ là những lời tuyên bố để che đậy một ý đồ cũng chẳng thay đổi được thực tế.
Thực tế lúc đó là, ông Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, đã từ Washington trở về tuyên bố một cách tuyệt vọng, rằng : "Không còn hy vọng gì về phía Mỹ nữa, chúng ta phải tính đến các điều kiện thực tế…".
Thực tế là một nửa nước đã mất, người ta chỉ còn trông chờ vào một cứu tinh. Nhưng nào còn ai dám làm cứu tinh, khi người Mỹ đã bỏ cuộc. Vậy chỉ còn trông chờ một phép lạ, mà phép lạ thì siêu hình khó xẩy ra. Vậy chỉ còn cách chấp nhận thực tế mà tờ New York Time số ra ngày 1/4/1975 đã phản ánh tổng quát "Quân Bắc Việt đã tràn lên khắp đất nước và chỉ gặp vài kháng cự lẻ tẻ, lãnh thổ bị chiếm là do bỏ cuộc thực sự…".
Theo đánh giá của một nhân viên cao cấp CIA có mặt vào những giờ phút hấp hối của chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì :
"Lúc này, để bảo vệ Sài gòn, quân Nam Việt đang tơi tả, chỉ còn tương đương sáu sư đoàn, đương đầu với 18 sư đoàn quân Bắc Việt, một đa số áp đảo. Điều mà Nam Việt Nam hy vọng thực hiện là lập một phòng tuyến án ngự cuối cùng chạy từ một phần đất Cao nguyên xuống tới bờ biển miền Trung, xuyên ngang thị trấn Xuân Lộc…" (28).
Thế nhưng tình hình thực tế ngày càng nguy kịch. Trong lúc lâm nguy người ta lại nói nhiều đến giải pháp được Mỹ khuyến khích từ lâu, là thương lượng với cộng sản để thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần. Đây cũng là giải pháp tương tự từng được qui định trong Hiệp Định Genève 1954, nhưng đã không được các bên thực hiện. Đó cũng là giải pháp bị bác bỏ năm 1965 vì đường lối chiến tranh đã được lựa chọn. Nay một lần nữa giải pháp thương lượng với cộng sản để thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần được chọn lựa trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam năm 1973.
Thực ra, đây là một giải pháp chỉ có giá trị pháp lý trên văn bản có tính nguyên tắc, thực tế thâm tâm người Mỹ không muốn nó được thực hiện, vì họ không còn muốn dính líu thêm nữa mà chỉ muốn cắt bỏ chế độ Việt Nam Cộng Hòa càng sớm càng tốt. Vì rằng, để cho chế độ này tồn tại dưới bất cứ hình thức nào đều làm cản trở tiến trình đi vào thế chiến lược quốc tế mới của Mỹ. Điều này cũng phù hợp với tham vọng của phe cộng sản Bắc Việt, không muốn thương lượng trong điều kiện hiện lại quá thuận lợi, mà chỉ cần ông Thiệu bị lật đổ bằng chính người của ông ta. Họ muốn chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ trước khi họ đến tiếp quản mà không phải tàn phá giết chóc nhiều. Họ muốn một sự sụp đổ từ từ để những chiến lợi phẩm dành cho họ vẫn còn nguyên vẹn. Và đúng như vậy, mọi tài sản của chế độ miền Nam bị sụp đổ không do sức mạnh chiến đấu của phe cộng sản Bắc Việt.
Và cũng đúng như sự mong muốn của chính quyền cộng sản Hà Nội, ông Thiệu đã phải từ chức trước áp lực quần chúng và các phe phái tranh giành quyền lực dưới sự đạo diễn của CIA. Ngày 21/4/1975, bằng một bài diễn văn gay gắt ông Thiệu đã tố cáo sự phản bội của Mỹ, được truyền đi trên các phương tiện truyền thông đại chúng, phương tiện mà truớc đó người Mỹ đã thiết lập cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa làm công việc tuyên truyền lôi kéo những con tim, khối óc và cả mạng sống của nhân dân miền Nam Việt Nam đi vào chiến lược chống cộng bảo vệ chế độ và phần đất tự do miền Nam Việt Nam như một "tiền đồn của thế giới tự do" ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản quốc tế !
Hãy nghe những lời tố cáo muộn màng của ông Thiệu :
"Họ bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với với một nước đồng minh nhỏ…" (29).
Đây lại một lầm lẫn lớn, cho đến lúc này ông Thiệu vẫn chưa nhận ra thực trạng này : Chưa bao giờ Việt Nam Cộng Hòa được Mỹ đối xử như một đồng minh. Rồi ông Thiệu hằn học oán trách người Mỹ :
"Các ông bỏ chạy để mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi không có gì hết mà các ông lại muốn chúng tôi hoàn thành điều mà các ông không làm nổi... Khi ký Hiệp định hòa bình, Mỹ đã thỏa thuận sẽ thay thế vũ khí trên căn bản một đổi một. Nhưng Mỹ không giữ lời. Ngày nay còn ai có thể tin vào lời hứa hẹn của Mỹ nữa hay không ?..." (30).
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, nghĩa là năm ngày sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Quốc hội Sài Gòn đã khởi đầu bằng một thông báo, theo đó người được Tổng thống Thiệu chỉ định nắm quyền tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (theo Hiến Pháp) là Phó Tổng thống Trần Văn Hương, nay được Quốc hội ủy nhiệm quyền tuyển chọn một người thay thế ông trong chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
Trên căn bản thông báo này, quyền Tổng thống Trần Văn Hương đã chỉ định đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (ngoài dự liệu của Hiến Pháp). Ngày 28/4/1975, tướng Minh nhậm chức, cử giáo sư Vũ Văn Mẫu vào chức vụ thủ tướng chính phủ, đứng ra thành lập nội các hòa giải, thay thế chính phủ chống cộng cuối cùng của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trước đó một tuần.
Như vậy là tướng Dương Văn Minh, người hùng của cuộc đảo chánh năm 1963, đưa đến sự cáo chung nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, nay lại được Mỹ tuyển chọn đúng ý Việt cộng làm nhiệm vụ khai tử nền Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa mà chính ông đã góp phần tạo dựng.
Mặc dầu hai ông tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã cố gắng đơn phương giương cao ngọn cờ "hòa giải và hòa hợp dân tộc", với một số động tác mời chào giả tạo, như ra thông cáo giả vờ đuổi hết người Mỹ, rằng trong vòng 48 giờ đồng hồ, người Mỹ cuối cùng phải rời khỏi Việt Nam ; ra quyết định thả hết các tù chính trị (tức tù Việt cộng)… Nhưng tất cả đã muộn rồi, cộng sản Bắc Việt đã cảm thấy đang ở thế thượng phong, chẳng cần "hòa giải hòa hợp" với ai nữa. Vì "hòa giải hòa hợp dân tộc" vốn chỉ là chiến thuật thường được cộng sản sử dụng khi chưa đủ sức thanh toán đối phương, giành thắng lợi tối hậu mà thôi.
Sau đây là một đoạn tường thuật của một nhà văn Việt Cộng về những giây phút cuối cùng của cái "Chính phủ hòa giải hòa hợp" vào giờ thứ 25 của cuộc chiến :
"…11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975
Chiếc xe tăng tiến vào xô đổ cánh cửa sắt của Dinh Độc Lập. Từ trên xe nhẩy xuống một tổ chiến sĩ Quân Giải phóng trẻ măng, mặc đồng phục lá cây, cầm lá cờ mầu đỏ xanh có ngôi sao vàng, lao nhanh về phía dinh.
Những thành viên của chính phủ Dương Văn Minh mới nhận chức ngày hôm trước về tề tựu tại phòng chính của dinh Độc Lập, đứng dậy khi những người cán bộ của Quân đoàn II, mặt sạm khói súng và bụi đường xa bước vào. Họ đã tiến quân qua nhiều thành phố suốt dọc bờ biển miền Trung tới đây.
Dương Văn Minh nói :
- Toàn thể chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều có mặt đợi các ngài đến để bàn giao chính quyền.
Một cán bộ trả lời :
- Các ông còn gì nữa để bàn giao ! Các ông phải đầu hàng vô điều kiện ! (31).
Khi đọc những lời tường thuật trên đây, người bàng quan không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho tướng Dương Văn Minh, khi thấy lịch sử dường như đã luôn chọn ông làm công việc "khai sơn phá thạch", nôm na là làm công việc lót đường để cho kẻ khác gặt hái thành quả.
Trong khi đó một phóng viên của hãng thông tấn AP ở lại Sài Gòn đến phút chót đã kể lại :
"Không có một tiếng súng nào, hàng trăm người Sài Gòn cũng như tôi đứng há miệng nhìn đoàn xe tăng ngày càng nhiều của cộng sản tiến vào thành phố. Đến trưa, mọi chuyện đều xong. Trong suốt 13 năm viết về chiến tranh Việt Nam, tôi không bao giờ tưởng đến chuyện nó kết thúc theo lối này. Tôi hình dung phải có một cuộc mặc cả về chính trị tương tự như đã xẩy ra ở Lào mười năm về trước. Hoặc là một trận đánh theo kiểu Armageddon ở Châu Âu trong Thế Chiến Hai, mà kết cuộc là thành phố bị tan nát. Chuyện đầu hàng là điều hoàn toàn tôi không ngờ tới..." (32).
Một viên chức CIA, rời Việt Nam trong toán CIA cuối cùng vào ngày 30/4/1975, đã ghi lại những hình ảnh cuối cùng của cuộc chiến như sau :
"Chiếc máy bay trực thăng đã bắt đầu rời khỏi Tòa Đại Sứ. Người xạ thủ ở đuôi máy bay đang cúi rạp người trên súng của mình. Máy bay vòng trên thành phố. Trong khỏanh khắc tôi có thể nhìn thấy bóng dáng của một trong những cửa sổ tiệm rượu Mini Bar, một tiệm nổi tiếng vào bậc nhất ở Sài Gòn, nơi biết bao chàng lính Mỹ đã mất sạch cả cơ nghiệp cùng với sự ngây thơ của mình. Và rồi chiếc máy bay ngoặt lại, hướng về phía Nam, bay qua Biên Hòa, thấy toán xe Bắc Việt đèn sáng trưng đang uốn mình trên con đường vào Biên Hòa… Trong phút chốc, kiến trúc khổng lồ mầu xám của một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã bao lấy chúng tôi như một cái kén khổng lồ bằng kim khí…" (33).
Một ngày trước khi Sài Gòn rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt (29/4/1975), Đại sứ Mỹ cuối cùng Martin đã bình tĩnh ngồi ở bàn làm việc trong tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn đợi lệnh từ Hoa Thịnh Đốn trả lời yêu cầu của ông xin gia hạn di tản. Nhưng từ Tòa Bạch Ốc đã ban ra lệnh cuối cùng : "Tổng thống Hoa Kỳ lệnh cho Đại sứ Martin phải rời đi bằng chiếc máy bay này". Đó là chiếc máy bay CH-46 được gởi đến đón Martin mang tên "Lady Ace 09" (32 bis).
Như vậy là cuộc chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt với thái độ phủi tay không thương tiếc của Hoa Kỳ, người khởi đầu và cũng là người kết thúc sinh mạng một chế độ công cụ của mình.
Micheal Maclear, một nhà báo Mỹ trong cuốn "Việt Nam, cuộc chiến tranh mười nghìn ngày" đã ghi lại cảm tưởng của Martin đối với cuộc chiến kết thúc là "thấy nhẹ cả người". Đó là cuộc chiến tranh chưa bao giờ được chính thức gọi là chiến tranh, dù nó là cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ đã chấm dứt. Nó là "một cuộc xung đột", "một sự dính líu", "một kinh nghiệm" và thất bại của nó sẽ được các sử gia có thể phán xét, không còn là mối bận tâm của nhân dân Hoa Kỳ. Rất đơn giản, họ nghĩ là họ đã chiến đấu, hoặc người của họ đã chiến đấu, thế là đủ. Từ hai năm về trước (1973-1975), họ đã thực hiện được một nền hòa bình cho họ tại Việt Nam. Hầu hết người Mỹ đã cảm thấy "một nền hòa bình trong danh dự" đã đạt được như người ta bảo. Giờ đây, họ đang nhìn với vẻ bàng quan chán ngắt, có đôi chút sửng sốt, song sự thật không phải hoàn toàn bị bất ngờ. Tám năm chiến đấu của Mỹ, chỉ trong nhiều tuần đã trở thành vô nghĩa...
Vô nghĩa ư ?
Thực ra, cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế đã chỉ có thể là vô nghĩa và vô ích với nhân dân Mỹ, khi mà họ đã phải gánh chịu mọi chi phí cho cuộc chiến, với cái giá máu xương của 58.000 binh sĩ con em của họ phải bỏ mạng tại Việt Nam, mà vẫn không thực hiện được mục đích cao cả là giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ được chế độ dân chủ và phần đất tự do ở miền Nam Việt Nam. Nhưng nó vẫn có ý nghĩa và lợi ích đối với chính quyền Mỹ, khi sự kết thúc chiến tranh đến vào lúc mà các mục tiêu chiến lược của họ đã đạt được qua cuộc chiến tranh này, mở ra một thời kỳ đầy triển vọng sau chiến tranh cho công cuộc làm ăn mới của giới tư bản Mỹ ở vùng này, trong khung cảnh một thế chiến lược toàn cầu mới.
Riêng đối với nhân dân Việt Nam, cuộc chiến tranh kéo dài trên 20 năm (1954-1975) kết thúc như thế thì quả là vô nghĩa và tàn hại. Và sự chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này, vừa là nỗi đau, vừa là niềm vui chung cho cả dân tộc Việt Nam.
Là nỗi đau cho nhân dân miền Bắc vì đã từng phải sống khổ cực, hy sinh chiến đấu cho một chiêu bài giả hiệu "độc lập dân tộc, chống đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc…".
Cũng là nỗi đau của nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ ở miền Nam Việt Nam, vì đã ngay tình và nhiệt thành lao vào một cuộc chiến "bảo vệ chế độ tự do dân chủ".
Từ nỗi đau chung này, nhân dân hai miền Bắc-Nam Việt Nam cùng có chung một mối hận đối với những kẻ cầm quyền trên cả hai miền Nam-Bắc, từng là công cụ đắc lực một thời cho ngọai bang, đã xô đẩy nhân dân hai miền vào một cuộc chiến tàn hại và vô nghĩa.
Người dân tự hỏi : Tại sao cũng trong gọng kềm của của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, Bắc Hàn và Nam Hàn đã có thể cùng tồn tại để chờ cơ may thống nhất một cách hòa bình. Trong khi Việt Nam thì đi đến thống nhất bằng một cuộc chiến cốt nhục tương tàn, anh em một nhà tàn sát lẫn nhau và tàn phá tan hoang đất nuớc ?
Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là cơ may mới cho đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm muốn giúp các nước nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết lập một nền trật tự thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới.
Đó là chiến lược "toàn cầu hóa của các cường quốc" : Toàn cầu hóa về chính trị bằng một chế độ dân chủ và toàn cầu hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường. Trong khung cảnh ấy, các quốc gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và các bên đều cùng có lợi (ít hay nhiều).
Houston, tháng 4 năm 2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 14/04/2018
Ghi chú :
Trích từ "Việt Nam trong thế chiến lược quốc tế mới" của Thiện Ý.
- Từ (27) đến (33 bis) : Theo "The Ten Thousand Days War" của Michael Maclear, nhà báo Mỹ được giải thưởng Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
- Xin vào : luatkhoavietnam.com , mục "Diễn Đàn", tiểu mục "Tác giả & Tác phẩm" để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu lý luận "Việt Nam trong thế chiến lược quốc tế mới", tiểu mục "Phỏng vấn & Hội luận" để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.
43 năm trước (1975-2018), vì không nắm được ý đồ chiến lược của Mỹ, Chính quyền cộng sản Hà Nội đã hăm hở bước vào giai đọan cuối cùng của cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam. Trong giai đọan này, nếu chỉ nhìn qua hiện tượng, người ta thấy như có sự ăn ý giữa Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt (cộng sản Bắc Việt), kẻ tung, người hứng để cùng cưỡng tử chế độ Việt Nam Cộng Hòa một cách ngọan mục.
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. (AP Photo)
I. Khởi đi từ sự kiện Phước Long bị cộng quân đánh chiếm
Ngày 7/1/1975, bộ đội cộng sản Bắc Việt đã mở cuộc tiến công và đã chiếm đóng được tỉnh lỵ Phước Long như một thử nghiệm đầu tiên ý chí của Hoa Kỳ, thăm dò xem phản ứng đến mức độ nào. Hoa Kỳ đã lập tức lên tiếng tố cáo mạnh mẽ hành động vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình tại Việt Nam ngày 27/1/1973 của cộng sản Bắc Việt, kèm theo lời đe dọa sẽ trừng phạt nghiêm khắc nếu chính quyền cộng sản không ngưng ngay những hành động lấn chiếm tương tự.
Sau sự lên án tố cáo có tính chiếu lệ với kẻ thù, Mỹ đã không có hành động nào khác hơn thể hiện ý chí và quyết tâm giúp "bạn" bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Không những thế, dường như ai đó đã vô tình hay cố ý giúp thực hiện đúng ý định của Hoa Kỳ, khi khuyên Tổng thống Thiệu không nên đánh chiếm lại Phước Long làm gì cho hao binh tổn tướng, mà hãy dùng sự kiện Phước Long như là bằng chứng tố cáo trước công luận thế giới về hành động phá hoại Hiệp định Paris của cộng sản Bắc Việt. Bởi vì giải pháp cho Việt Nam bây giờ là giải pháp chính trị chứ không phải quân sự. Có lẽ vì nghe theo lời "cố vấn" này, nên Tổng thống Thiệu đã không tìm cách lấy lại Phước Long mà chỉ ra lệnh đẩy mạnh tuyên truyền, tố cáo cộng sản Bắc Việt vi phạm Hiệp Ðịnh, đẩy mạnh chiến dịch vẽ cờ, lấn đất giành dân, chuẩn bị chiếm ưu thế về lãnh thổ trong một giải pháp chính trị tương lai ?
Mặc dầu "đầu tháng 1 năm 1975, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh tập trung lực lượng không quân gồm 116 oanh tạc cơ, 160 phi cơ trực thăng, dội bom và đánh phá trọn một tuần lễ xuống Phước Long, nhưng vẫn không đẩy lùi nổi 3 sư đòan chính quy Bắc Việt đang chiếm lấy thị trấn này…" (17).
Trong khi đó, từ sự kiện Phước Long, dư luận lúc đó ở Sài gòn lan truyền khắp Miền Nam, nói nhiều đến một chính phủ liên hiệp ba thành phần, nói nhiều đến giải pháp trung lập. Dường như trong tâm lý quần chúng cũng như quân đội Việt Nam Cộng Hòa lúc ấy đều bị hoang mang giao động, tinh thần chủ hòa đang có chiều hướng lấn ép chủ chiến. Tình cảnh này đã có ảnh hưởng rất lớn vào tinh thần chiến đấu của binh sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Quân dân Miền Nam như cùng hướng lòng về một giải pháp chính trị, với tâm trạng chờ đợi, mất cảnh giác chiến đấu và suy giảm nghiêm trọng ý chí chống cộng.
Trong khi đó, Mỹ đã không có hành động trừng phạt cương quyết nào với đối phương, mà lại gia tăng áp lực đối với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, thúc đẩy và nuôi dưỡng tình hình bất ổn, xáo trộn nội bộ, đẩy chế độ vào thế tam, tứ đầu thọ địch. Áp lực mạnh nhất đánh vào cân não quân đội và dân chúng Việt Nam Cộng Hòa là quyết định cắt giảm quan trọng viện trợ kinh tế, quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa giữa lúc chế độ đang trong điều kiện thử thách sống còn.
Như vậy là Mỹ đã không giữ lời cam kết khi "Việt Nam hóa chiến tranh" (tăng cường viện trợ quân sự để trang bị đầy đủ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đủ sức làm công việc tự bảo vệ) ; không giữ những lời hứa công khai cũng như riêng tư với Tổng thống Thiệu của Tổng thống Hoa Kỳ Nixon (viện trợ kinh tế, quân sự dồi dào cho Việt Nam Cộng Hòa để giúp thành tựu Hiệp định Paris theo ý muốn của Mỹ). Hậu quả tất nhiên của đòn cân não này là tinh thần chiến đấu của tướng sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa suy yếu và tiềm năng chống cộng của cả chế độ Việt Nam Cộng Hòa phải sút giảm nghiêm trọng. Chúng ta hãy nghe sau này ông Thiệu kể lại :
"…vào năm 1975, tiềm lực chiến đấu của chúng tôi giảm 60%, trong khi đó tiềm lực chiến tranh của Hà Nội gia tăng ghê gớm. Tôi có thể nói trong hai năm sau khi ký kết Hiệp định Paris, chiến tranh đã dữ dội hơn trước. Tuần nào tôi cũng cử phái viên tới Washington để giải thích. Tôi đã gửi thư cho tổng thống Mỹ, tôi phân bầy nỗi nguy hiểm với Ðại sứ Mỹ ở Sàigòn, song không có chuyển biến gì cả..." (18).
Vào năm 1975, tiềm lực chiến đấu của chúng tôi giảm 60%, trong khi đó tiềm lực chiến tranh của Hà Nội gia tăng ghê gớm.
Chuyển biến gì được nữa, khi ý định của Mỹ lúc này là đang muốn trói chặt Việt Nam Cộng Hòa về chính trị, kinh tế, quân sự, để chờ cho cộng sản Bắc Việt đến ban cho một phát súng ân huệ. Mỹ đã trói chặt Việt Nam Cộng Hòa về chính trị trong một giải pháp liên hiệp với chính quyền cộng sản, với chiêu bài "hòa giải, hòa hợp dân tộc" để ru ngủ và làm tê liệt ý chí chống cộng của quân dân miền Nam Việt Nam. Mỹ đã trói chặt về kinh tế khi cắt giảm tối đa về mọi mặt, là cắt nguồn máu nuôi sống chế độ. Mỹ đã chặt tay chặt chân về quân sự, khi không thực hiện trang bị, cung cấp vũ khí đạn dược đủ để cho trụ cột chủ yếu chống cộng đủ sức làm công việc tự bảo vệ. Việc Quốc hội Hoa Kỳ chỉ thông qua một ngân khoản viện trợ hàng trăm triệu (700 triệu) so với nhu cầu thực tế hàng tỉ, trong lúc tình hình chiến sự nguy ngập, thử hỏi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn đâu tinh thần và sức mạnh chiến đấu để mà làm công việc tự bảo vệ ?
Mặt khác, đúng lúc này, không biết ai xui khiến cho Tổng thống Thiệu ra lệnh giải giới các lực lượng bán quân sự như Nhân dân Tự vệ và các giáo phái có trang bị vũ khí, gọi là để tập trung lực lượng và sức mạnh chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ðiển hình là vụ giải giới lực lượng bán quân sự của Phật giáo Hòa Hảo khỏang 10.000 người, bắt giam ông Hai Tập, Tổng Chỉ huy Lực lượng Bảo an Hòa Hảo.
"…Cuối tháng 1/1975, ông Hai Tập, ông Lương Trọng Tường thành lập một sư đoàn Bảo an Hòa Hảo với mục đích tiếp tục chiến đấu kháng cộng, nếu Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Ông Thiệu lập tức giải tán và bắt giam ông Hai Tập vì sợ lực lượng Hòa Hảo lật đổ ông..." (19).
Việc làm này của ông Thiệu như là hành động tự chặt tay mình về mặt quân sự. Ai đã cố vấn cho ông Thiệu làm việc này, hay do sáng kiến cá nhân, điều này chỉ có ông biết. Người bàng quang chỉ có thể suy đoán, có thể là sáng kiến cá nhân vì mối lo sợ riêng, song cũng có thể là sự gợi ý của các "cố vấn" người Mỹ, hoặc là người của Việt cộng "nằm vùng" bên cạnh ông. Vì rằng vào thời điểm này, tuy khác ý đồ, nhưng Mỹ và Việt cộng dường như đã gặp nhau ở mục tiêu chung : Triệt tiêu chế độ Việt Nam Cộng Hòa càng sớm càng tốt.
Thế nhưng cho đến lúc này dường như người lãnh đạo cao nhất của chế độ Việt Nam Cộng Hòa vẫn chưa nắm bắt được ý định thực sự của "người bạn đồng minh Hoa Kỳ". Vẫn như còn cố tin vào những lời cam kết, hứa hẹn bí mật hay công khai trên giấy trắng mực đen của chính phủ cũng như cá nhân Tổng thống Hoa Kỳ R. Nixon. Như vậy, quả thực tập đoàn lãnh đạo chế độ công cụ ngoại bang ở Hà Nội đã tài giỏi hơn nhiều so với chế độ ở Sài Gòn. Tổng thống Thiệu vẫn ngây thơ tin rằng những hành động đích thân của ngài Ðại sứ Martin bay từ Sài gòn về Washington như là để bênh vực cho lập trường của mình. Sau khi cộng quân chiếm Phước Long, ông Thiệu vẫn tin tưởng và chờ đợi Hoa Kỳ thực hiện những lời hứa và cam kết trong những bức thư trao đổi riêng tư với Tổng thống Nixon. Trong khi đó, các lãnh tụ cáo già cộng sản Bắc Việt thì tỏ ra hết sức chú tâm và nương theo ý đồ của Mỹ để đạt ý đồ của mình. Sau khi đánh chiếm được Phước Long, cộng quân như tạm ngưng các cuộc tiến công lớn để thăm dò phản ứng của Mỹ.
Nhớ lại phản ứng của Mỹ lúc ấy là ngoài những lời lên án, tố cáo, đe dọa "Sẽ trả đũa", Mỹ chỉ tăng cường các chuyến bay do thám, mà theo nhận xét của ông Thiệu "Việc ấy chẳng khác gì dùng bồ câu thay thế B-52…". Ðồng thời, Tổng thống Gerald Ford, người kế vị Tổng thống Nixon bị mất chức giữa nhiệm kỳ vì vụ Watergate, cũng cố làm ra vẻ hết lòng xin Quốc hội Mỹ viện trợ bổ sung 300 triệu Mỹ kim cho Việt Nam Cộng Hòa.
Thế nhưng theo lời Ðại sứ Martin "… Nam Việt Nam không nhận được viện trợ bổ sung mà còn không nhận được chút viện trợ nào trong năm tài chánh sắp tới, bắt đầu từ tháng 6-75… Nói khác đi, nội trong 3 tháng nữa ông Thiệu sẽ đứng trước sự kiện bị cúp viện trợ…" (20). Ông Martin kết luận : "Cố gắng bơm thêm sức mạnh cho ai đó bằng những bảo đảm mà chính mình không tin thì sẽ chẳng đi đến đâu hết…" (21)
Ðến đây, trước phản ứng yếu ớt của Mỹ với thù (cộng sản Bắc Việt), sự gia tăng áp lực chính trị, kinh tế của Mỹ với bạn (Việt Nam Cộng Hòa), các lãnh tụ chính quyền cộng sản ở Hà Nội càng tin tưởng chắc chắn Mỹ sẽ không can thiệp trực tiếp trở lại, dù họ có gia tăng áp lực quân sự đến đâu. Họ bắt đầu lên kế họach thôn tính miền Nam Việt Nam với dự liệu ít nhất 2 năm nữa mới "giải phóng" được miền Nam. Hà nội vẫn thực sự chưa biết ý đồ này của Mỹ : Không phải chỉ không can thiệp trở lại mà còn muốn khai tử chế độ Việt Nam Cộng Hòa càng sớm càng tốt. Nghĩa là Mỹ đã có ý định xóa bàn cờ cũ chơi bàn cờ mới. Trong khi đó ông Thiệu và tập đoàn lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa thì vẫn nghĩ Mỹ sẽ không bao giờ "dám" bỏ rơi miền Nam, mọi áp lực chẳng qua chỉ để buộc cá nhân ông Thiệu và phe cánh của ông phải từ bỏ quyền hành, trao lại cho ê-kíp khác, nên nội bộ đã rơi vào sự xâu xé tranh giành quyền lợi cá nhân, phe đảng, quên cả mục tiêu sống còn là ngăn chặn cộng sản Bắc Việt xâm lăng. Một cách vô tình "phe quốc gia" đã như tự đào hố chôn mình. Mặc dầu ai cũng đồng ý với nhận định của ông Thiệu lúc ấy "Chế độ Việt Nam Cộng Hòa còn là còn tất cả, nếu mất vào tay chính quyền cộng sản là mất tất cả". Nhưng tất cả trên thực tế đã có những hành động góp phần làm tiêu vong chế độ.
Sau này chính ông Thiệu kể : "… Mỹ để lại 300.000 quân tại Châu Âu sau khi Thế Chiến II đã chấm dứt 30 năm ; để lại 50.000 quân ở Nam Hàn sau khi chấm dứt 20 năm. Lúc chúng tôi để Mỹ rút quân, chúng tôi chỉ yêu cầu được giúp đỡ để tiếp tục chiến đấu, không còn phải duy trì nửa triệu quân ở Việt Nam, Mỹ chỉ phải chi tiêu 1 phần 20 so với trước kia. Vậy họ còn đòi hỏi gì hơn ở chúng tôi ?..." (22)
Nhận định này của ông Thiệu chứng tỏ quan điểm lãnh đạo lỗi thời do không nhìn thấy đã có sự đổi thay chiến lược của Mỹ. Theo đó, Mỹ không phải chỉ muốn cá nhân ông Thiệu mà muốn cả cái chế độ mà ông cầm đầu bấy lâu nay phải biến đi càng nhanh càng tốt. Bởi vì đã qua rồi những cơ hội tốt để tồn tại vững vàng như Nam Hàn, để không bị hủy diệt vào những lúc Hoa Kỳ có nhu cầu phải thay đổi chiến lược như thế này.
II. Ðến sự kiện Buôn Mê Thuột thất thủ - Thử thách cioosi cùng cho trụ cột cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Ðến đây các bước người ta chuẩn bị cho một chế độ sụp đổ như đã hoàn bị. Tình hình nội bộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn rối ren, tê liệt. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cây trụ cột cuối cùng chống đỡ cho sự tồn tại thêm thời gian của chế độ thì ra sao ?
Theo tài liệu đọc được sau này thì, sau Hiệp Ðịnh Paris năm 1973 về Việt Nam, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thực sự chỉ còn sáu đến bẩy trăm ngàn quân chiến đấu. Về trang bị đạn dược và các phương tiện chiến tranh hiện còn có thể giúp Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu ít nhất 2 năm. Tương quan lực lượng giữa quân lực Việt Nam Cộng Hòa và bộ đội cộng sản Bắc Việt theo tỉ lệ 4-1. Ðến tháng 1/1975 tỉ lệ này chỉ còn 2-1. Bởi vì sau 2 năm ngưng ném bom, một phần đường mòn Hồ Chí Minh đã được cộng sản Bắc Việt sửa chữa và đặt ống dẫn dầu dọc theo đường mòn này. Trong một thời gian ngắn, 150.000 quân cộng sản Bắc Việt đã xâm nhập thêm vào chiến trường miền Nam. Sau khi chiếm được Phước Long, Hà Nội đã có thể chuẩn bị cho một lực lượng 300.000 quân bám sát đường mòn Hồ Chí Minh tiến vào miền Nam. Tất cả những họat động này, người Mỹ biết rất rõ, song đã không có hành động gì. Vì sao ?
Chúng ta hãy nghe một chuyên viên phân tích tình báo Mỹ kể lại : "Khởi đầu cuộc tấn công cuối cùng của chính quyền cộng sản… lúc đó chúng tôi đã biết rằng cộng sản Bắc Việt đưa vào miền Nam Việt Nam một lực lượng to lớn hơn nhiều so với lực lượng chúng tôi biết đang có ở đây. Họ đã tập trung số quân này phía Tây Cao Nguyên. Bấy giờ Buôn Mê Thuột xét về mặt lịch sử, luôn luôn là điểm tựa phòng thủ của chính quyền trên cao nguyên. Buôn Mê Thuột mất thì sự phòng thủ có thể bị đánh ngang sườn. cộng sản Bắc Việt rất khôn ngoan, họ chuyển quân mà không sử dụng liên lạc vô tuyến điện. Họ đưa vào vùng Buôn Mê Thuột ba sư đòan mà chúng tôi không hề hay biết…" (23).
Có thực là người Mỹ không hay biết hay là họ biết mà đã cố tình không cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa biết, lại còn tìm cách đánh lạc hướng dùm cho đối phương ? Vì chẳng lẽ tình báo Hoa Kỳ chỉ dựa trên sự theo dõi liên lạc vô tuyến của VC để nắm bắt tình hình ? Vậy thì chỉ có thể do bị che mắt của "Bạn" và thế nghi binh của "Thù", mà các nhà quân sự Việt Nam Cộng Hòa đã đoán sai ý đồ của VC. Đoán sai nên đã cho rằng cộng quân có thể lập lại cuộc tấn công Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, vượt qua khu phi quân sự. Vì vậy họ đã tập trung quân ở phía Bắc Ðà Nẵng để đối phó ? Trong khi đó, Buôn Mê Thuột vốn là một vị trí chiến lược trọng yếu thì quân đội Sài Gòn đã không chuẩn bị phòng thủ tương xứng, chỉ triển khai 40.000 quân ở đó. Họ đâu ngờ rằng lúc ấy, 300.000 quân cộng sản Bắc Việt đã ẩn nấp bao vây, chờ giờ hành động. Ðể đánh lạc hướng, bộ đội cộng sản Bắc Việt đã cho truyền đi các bức điện giả làm như mục tiêu tiến công của họ là Pleiku, nơi đặt bản doanh của Quân Ðoàn II quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Quân cộng sản đã thành công trong ý đồ này, vì các nhà quân sự Việt Nam Cộng Hòa bao lâu nay quen dựa vào chiến lược, chiến thuật đánh chính quyền cộng sản do người Mỹ họach định sẵn, nên đã có thói quen ỷ lại, lười "động não" để sáng tạo nên đã dễ dàng bị đánh lừa của cả bạn lẫn thù. Sự thể là đúng 2 giờ sáng ngày 10-3-1975, bộ đội cộng sản Bắc Việt đã mở cuộc tấn công Buôn Mê Thuột. Vì quá bất ngờ, không kịp tăng viện và không có quân yểm trợ nên sau 30 giờ bị vây hãm, phản công yếu ớt, Buôn Mê Thuột đã thất thủ. Rồi cũng như Phước Long, Buôn Mê Thuột thất thủ, Mỹ vẫn không có hành động gì để trừng phạt, ngăn chặn bước xâm lăng của cộng sản Bắc Việt.
Dư luận thắc mắc, phải chăng ai đó lại "Cố vấn" cho Tổng thống Thiệu với cùng luận điệu, rằng không nên đánh chiếm lại Buôn Mê Thuột làm gì cho hao binh tổn tướng, lại vẫn nên dùng sự kiện Buôn Mê Thuột để đẩy mạnh tuyên truyền tố cáo cộng sản Bắc Việt trắng trợn vi phạm Hiệp định Paris trước thế giới. Rằng lý do không cần đánh chiếm lại đất đai còn là vì giải pháp cho vấn đề Việt Nam bây giờ là giải pháp chính trị chứ không phải quân sự. Vậy thì chỉ nên "co cụm lại" để tập trung lực lượng bảo vệ các thành phố chiến lược quan trọng, để chờ giải pháp chính trị… Sau này tài liệu cho biết, một trong những cố vấn đã ảnh hưởng đến quyết định "rút lui chiến thuật" của Tổng thống Thiệu là Vũ Ngọc Nhạ, tình báo chiến lược của cộng sản Bắc Việt, như đã trích dẫn ở phần trên.
Nhưng tựu chung, có lẽ vì nghe theo mọi lời khuyên xem ra có vẻ hợp lý, mà ngày 15-3-1975, tức bốn ngày sau Buôn Mê Thuột thất thủ, Tổng thống Thiệu đã vội triệu tập các tướng lãnh cao cấp trong một phiên họp ở căn cứ Cam Ranh, để đi đến quyết định vô tiền khoáng hậu trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa cũng như quân sử thế giới : Rằng cao nguyên và miền Trung phải bị bỏ rơi ! Nghĩa là ông Thiệu đã quyết định bỏ luôn Quân đoàn I và Quân đoàn II. Quyết định này đã gây bàng hoàng, choáng váng cho nhiều người. Vì như thế là chỉ qua một đêm, ông Thiệu đã nhượng cho đối phương một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa !
Sau này ông Thiệu đã biện bạch rằng : "Chúng tôi phải rút quân về bảo vệ các vùng quan trọng, vì chúng tôi đánh giá là Mỹ sẽ không giúp nữa. Nếu họ giúp thì đã giúp rồi. Chúng tôi không thể chờ đợi đến khi quá chậm. Phải chấp nhận nỗi hiểm nghèo có tính tóan. Biết rằng rút lui mà không có khả năng cơ động và hỏa lực mạnh thì sẽ nguy hiểm. Nhưng chúng tôi vẫn phải làm." (25)
Tại sao ông Thiệu dám chọn giải pháp này dù biết rằng nguy hiểm như vậy ? Vì ông ta muốn tạo áp lực để phút chót thấy tình hình nguy ngập Mỹ có thể can thiệp chăng ? Vì một lời khuyên trực tiếp hay chỉ là sự gợi ý gián tiếp song có hiệu quả của quan chức Mỹ ở Sài gòn ? Có thể cả hai. Vì ngài Ðại sứ Martin quả đã có sự gợi ý này : "Chỉ còn một con đường khôn ngoan duy nhất là cắt bớt các tuyến quân sự và chỉ giữ lại một phần đất mạnh về kinh tế là vùng châu thổ phía Nam"(26). Như vậy là sự gợi ý của ngài Ðại sứ Mỹ cuối cùng ở Sàigòn cộng với lời khuyên của các "cố vấn" đã được ông Thiệu cảm nhận và thực hiện như một sáng kiến táo bạo. Có điều kết quả thu lượm được thuộc về phía Hoa Kỳ và Việt Cộng, còn hậu quả được dành cho nhân dân Miền Nam yêu chuộng tự do, những người đã nằm xuống trong cuộc chiến và những kẻ sống sót sau cuộc chiến !
Thực vậy, giải pháp trên đã được thực hiện bằng một cuộc "di tản chiến thuật" mà thực tế đã biến thành một cuộc "tháo chạy tán lọan" vô tiền khoáng hậu trong lịch sử các cuộc chiến tranh cục bộ. Các chiến lược gia đã phải gọi đó la "Một cuộc rút lui được vạch ra tồi nhất và thi hành tệ hại nhất trong lịch sử quân sự". Một cuộc di tản chiến thuật gọi là co cụm lại để bảo toàn lực lượng và để đủ sức bảo vệ các vùng chiến thuật trọng yếu, rốt cuộc đã chẳng bảo vệ được gì khác hơn là góp phần làm cho quá trình sụp đổ của một chế độ nhanh chóng hơn. Vì cuộc rút quân tàn tệ này nó đã phá hủy mau chóng quân phong quân kỷ và tinh thần chiến đấu của quân sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một quân đội mà trước đó đã bị hoang mang giao động bởi những đòn cân não của cả bạn lẫn thù. Hậu quả tất nhiên là quân sĩ sẽ không còn muốn chiến đấu mà chỉ muốn tháo chạy sao cho an toàn bản thân và lo cho gia đình, để có cơ may tồn tại trong một giải pháp chính trị tương lai đã được định đoạt. Hầu như binh lính Việt Nam Cộng Hòa đều có tâm trạng không muốn là người phải hy sinh cuối cùng của cuộc chiến.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 13/04/20218
Ghi chú :
Trích "Việt Nam trong Thế chiến lược quốc tế mới" của Thiện Ý, ấn hành lần đầu tháng 4 năm 1995 và tái bản tháng 4 năm 2005 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ.
- (17, (19), (24) : Gián điệp nhị trùng, Trần Trung Quân, nhà xuất bản Nam Á, Paris 1990 (trang 335, 337, 338)
- (18), (20) đến (23, (25)và (26) : Theo "The Ten Thousand days War" của Michael Maclear, nhà báo Mỹ được giải thưởng Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
- Xin vào : luatkhoavietnam.com , mục "Diễn Đàn", tiểu mục "Tác giả & Tác phẩm" để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu lý luận "Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới", tiểu mục "Phỏng vấn & Hội luận" để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.
Tin tổng hợp truyền thông trong và ngoài Việt Nam cho hay vào lúc 7 giờ tối giờ địa phương ngày 5-4-2018, một tòa án ở Hà Nội đã tuyên các bản án nặng nề cho sáu nhà hoạt động của Hội Anh Em Dân chủ, trong đó có Luật sư Nguyễn Văn Đài lãnh án nặng nhất là 15 năm tù, tổng cộng lên tới 66 năm tù về tội danh "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân" theo điều 79 của Bộ luật Hình sự Việt Nam. Các bản án đã gây bất bình và phẫn nộ của công luận quốc tế cũng như người Việt Nam trong và ngoài nước.
Tòa án chuyển đổi điều luật truy tố các nhà dân chủ từ Điều 88 "Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" qua Điều 79 "Tội hoạt động nhằm lật độ chính quyền nhân dân" để có khung hình phạt cao hơn, nặng nề hơn ?
Mặc dầu trước ngày diễn ra phiên xử, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Ân xá Quốc tế, đã bày tỏ sự quan ngại, lên tiếng mạnh mẽ cảnh báo và kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam hủy bỏ mọi cáo buộc đối với các nhà vận động nhân quyền Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội và Trương Minh Đức, đồng thời phóng thích họ ngay lập tức, vô điều kiện.
Bởi vì, trong một thông cáo, ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) viết rõ :
"Tội duy nhất mà những nhà hoạt động nói trên phạm phải là đã vận động không mệt mỏi cho một nền dân chủ và bảo vệ các nạn nhân bị vi phạm nhân quyền. Chính quyền Việt Nam đáng lẽ cần cảm ơn họ vì những nỗ lực cải thiện tình hình đất nước, thay vì bắt giữ và đem họ ra xử…".
Thế nhưng kết quả thực tế cho thấy, với bản án nặng nề nhất là 15 năm tù và 5 năm quản chế đối với luật sư Nguyễn Văn Đài, một trong những nhà sáng lập Tổ chức Anh Em Dân Chủ ; bản án thấp nhất cũng lên đế 7 năm tù dành cho Kỹ sư Phạm Văn Trội… Sự thể này cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam đã bất chấp tất cả, thách thức công luận quốc tế khi tiếp tục đưa ra những bản án nặng nề đối với các nhà bất đồng chính kiến, với các hoạt động đấu tranh ôn hòa, thể hiện các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền. Việc làm này không chỉ là vi phạm chính Hiến pháp chế độ đương quyền đã ghi nhận. Đồng thời, các bản án nặng nề cũng đã vi phạm luật pháp quốc tế, với các công ước qui định về các quyền chính trị và dân sự mà nhà cầm quyền Việt Nam đã ký kết và phải có nghĩa vụ thực thi….
Đứng trước thực tế trên cho thấy, nhà cầm quyền Việt Nam đã coi thường luật pháp quốc tế, áp dụng tùy tiện luật pháp quốc nội, coi luật pháp chỉ là công cụ của nhà cầm quyền để trấn áp bất cứ người dân nào giám có lời nói hay hành động xúc phạm hay trái với ý muốn của họ ; dù những lời nói và hành động ấy thực sự không "lật đổ" được vị thế thống trị độc tôn trong chế độ độc tài toàn trị hiện nay tại Việt Nam.
Thật vậy, theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, các thành viên của "Hội Anh Em Dân Chủ", trong đó có 6 người vừa bị kết án tù nặng nề, đã tổ chức các khóa tập huấn không chính thức về xã hội dân sự, nhân quyền và dân chủ, các kỹ năng như an toàn và an ninh mạng Internet. Đồng thời, các thành viên Hội Anh em Dân chủ còn tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược và bảo vệ môi trường, và các hoạt động nhân đạo như giúp đỡ các nạn nhân bị thiên tai hay thương phế binh. Hội trợ giúp về pháp lý cho một số nhà hoạt động bị bắt và truy tố về các hoạt động dân chủ, và cùng ký các kiến nghị kêu gọi dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Họ đi thăm các gia đình tù nhân và can phạm chính trị để bày tỏ tình đoàn kết.Cả sáu nhà hoạt động đã tham gia nhiều công việc liên quan tới nhân quyền, như vận động cho các nạn nhân, giảng bài về tiêu chuẩn nhân quyền, vận động cho tự do tôn giáo, và hỗ trợ các tù nhân chính trị và gia đình họ…
Với tôn chỉ, mục đích và các hoạt động của 6 thành viên "Hội Anh Em Dân chủ" như thế mà lại qui vào"Tội hoạt động nhằm lật độ chính quyền nhân dân" theo điều 79 Bộ Luật Hình sự Việt Nam được sao ? Không lẽ với các lực lượng quân đội, công an hùng hậu bảo vệ cái gọi là "Nền chuyên chính vô sản (cuội)" mà nhà cầm quyền lại sợ các hoạt động đấu tranh ôn hòa cho các quyền hợp pháp, chính đáng của người dân đến độ phải dùng thêm nhà tù, pháp trường để trấn áp ?
Và vì thế, phải chăng như chưa đủ cường độ trấn áp, nên nhà cầm quyền đã phải ra lệnh cho Tòa án chuyển đổi điều luật truy tố các nhà dân chủ từĐiều 88 "Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" qua Điều 79 "Tội hoạt động nhằm lật độ chính quyền nhân dân" để có khung hình phạt cao hơn, nặng nề hơn ?
Vậy thì, trước sự lộng hành, ngày càng tỏ ra coi thường và thách thức công luận quốc tế qua các bản án nặng nề dành cho các nhà đồng chính kiến đấu tranh ôn hòa cho dân chủ bao lâu nay của nhà cầm quyền trong chế độ độ độc tài đảng trị hay toàn trị tại Việt Nam, không lẽ quốc tế đành bó tay ? Không lẽ Liên Hiệp Quốc, các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế chỉ biết đưa ra những sự quan ngại, tố cáo, lên án, đòi hỏi suông đối với nhà đương quyền Việt Nam mà không đưa ra được một biện pháp chế tài hữu hiệu nào được sao ?
Chúng tôi đề nghị, quốc tế nói chung, các chính phủ và nhân dân các nước dân chủ, Liên Hiệp quốc, các tổ chức theo dõi và bảo vệ nhân quyền nói riêng, cần đồng loạt lên tiếng, thông qua một ngị quyết đặt nhà cầm quyền Việt Nam ra ngoài vòng pháp luật,với các biện pháp ứng xử phù hợp, có hiệu quả nhiều mặt, nhất là kinh tế, chính trị, ngoại giao song phương cũng như đa phương, trên bình diện quốc gia ; và những biện pháp chế tài gây thiệt hại nhãn tiền đối với cá nhân những kẻ cầm quyền vi phạm các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, để buộc được nhà đương quyền Việt Nam phải nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp quốc tế, nếu không sẽ bị loại ra khỏi sân chơi quốc tế trên mọi lãnh vực và bị cô lập hoàn toàn trên trường quốc tế.
Houston, ngày 6-4-2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 10/04/2018
Tập Cận Bình – Hoàng đế không ngai Trung Quốc
Ai sẽ là vua nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ?
Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung quốc, kiêm chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình đã quốc hội "nghị gật" hôm thứ Bảy 17/3/2018 đồng lòng tái bổ nhiệm làm chủ tịch nước mà không có giới hạn nhiệm kỳ. Nói cách khác, Toàn bộ 2.970 thành viên tại Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc đã chuẩn thuận tái bổ nhiệm ông Tập làm chủ tịch của Trung Quốc. Trước đó, cơ quan lập pháp này đã sửa đổi hiến pháp, bãi bỏ hạn chế về hai nhiệm kỳ đối với chức chủ tịch nước, mở đường cho ông Tập có thể nắm quyền "trọn đời" như một hoàng đế không ngai của nước Tàu.
Tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình.
Tổng Tập là hoàng đế không ngai, vì mặc dù dưới danh xưng của một chế độ xã hội chủ nghĩa là "Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", song vị thế và quyền uy của ông không khác mà còn to lớn hơn nhiều, so với một vị hoàng đế trong chế độ quân chủ chuyên chế xa xưa ở nước Tàu nói riêng, các nước ở thời chế độ quân chủ cực thịnh trên thế giới nói chung. Bởi vì kiểu chế độ chuyên chế hay độc tài toàn trị cộng sản là một tổng hợp tính chuyên chế rút ra từ kinh nghiệm thống trị của các chế độ quân chủ, phong kiến và phát xít. Do đó tính độc tài hơn hẳn các chế độ độc tài các kiểu trước đây về mức độ, cường độ, chất lượng, và phạm vi tác hại, di hại nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài đối với nhân dân, dân tộc, xã hội và đất nước.
Thật vậy, ông Tập năm nay 64 tuổi, được coi là nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Trung Quốc kể từ ông Mao Trạch Đông, người khai sinh ra nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, từng được xưng tụng là "lãnh tụ vĩ đại và tối cao" ; "Người cầm lái vĩ đại". Rồi đây Ông Tập rất có thể cũng sẽ được xưng tụng là "lãnh tụ vĩ đại" và thần thánh hóa như "lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch" với cuốn "Sách Đỏ" (Red Book) được tôn sùng như Thánh kinh, ghi những lời dạy của Mao Chủ Tịch mà đương thời nhân dân cả nước phải học tập và vận dụng giải quyết những khó khăn trong thực tế. Tỷ như có tài liệu đọc được, nói một công nhân trước một sự cố kỹ thuật, đã vận dụng tư tưởng Mao Chủ Tịch thì giải quyết được ngay. Một phụ nữ sinh nở khó khăn, vận dụng tư tưởng Mao Chủ Tịch là sinh đẻ được "mẹ tròn con vuông".
Tại sao trước biến chuyển trên, người ta tự hỏi "Tập Cận Bình, Hoàng Đế không ngai Trung Quốc - Ai sẽ là vua nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ?". Bởi kinh nghiệm thực tế cho thấy điều gì xảy ra ở Trung Quốc trước, thì sau đó cũng thường xảy ra tại Việt Nam.
Chẳng hạn trên bình diện chính trị, kinh tế : Sau khi Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tiêu vong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, chỉ con trơ lại năm nước cộng sản bơ vơ giữa ngã ba đường là Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Bắc Triều Tiên và Cuba.
Trung Quốc, sau khi Mao nằm xuống, vội thích dụng bằng con đường "đổi mới" theo chủ trương của lãnh tụ thức thời Đặng Tiểu Bình "mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là mèo đó bắt được chuột". Thế là về mặt kinh tế, Trung Quốc vội "đổi mới", mở toang cửa làm ăn với Đế quốc Mỹ và các nước tư bản "đang giãy mà không chết" để thoát hiểm. Nhưng vẫn không đổi mới chính trị để duy trì chế độ độc tài toàn trị với vai trò độc tôn, độc quyền thống trị cho Đảng cộng sản Trung Quốc. Một thời gian sau, người ta thấy tại Việt Nam sau 10 năm triệt để xây dựng chủ nghĩa xã hội thất bại thảm hại (1975-1985), vội theo gương Liên Xô (lúc đó chưa sụp đổ) nhất là Trung Quốc, Đảng cộng sản Việt Nam bắt chước làm "Đổi mới" để cứu nguy chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng sau 10 năm "Đổi mới" (1985-1995) đã thất bại, Đảng cộng sản Việt Nam vội bám cái phao "dỡ bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ ngoại giao" của Hoa Kỳ để "mở cửa" đón cựu thù "Đế quốc Mỹ" và các nước tư bản vào Việt Nam làm ăn theo "kinh tế thị trường", nhưng lại thòng thêm cái đuôi "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" cho đỡ mất mặt với nhân dân. Nói chung Đảng cộng sản Việt Nam đã làm y chang những gì Trung Quốc đã làm về mặt kinh tế và chính trị.
Chẳng hạn, về mặt chống tham nhũng : Tại Trung Quốc, người đứng dầu đảng và nhà nước Trung Quốc Tập Cận Bình phát động chiến dịch chống tham nhũng bằng kịch bản "đã hổ, diệt ruồi" để loại trừ các phe phái, tập trung quyền lực để đi đến vị thế như một Hoàng đế không ngai như hôm nay. Sau đó một thời gian, tại Việt Nam dưới thời trị vì của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đích thân ông Trọng phát động mạnh mẽ công cuộc chống tham nhũng, với diễn tiến các bước thực hiện theo đúng kịch bản "đả hổ, diệt ruồi" của Tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Mặc dầu chiến dịch chống tham nhũng "đốt lò" của ông Tổng Trọng mới khởi sự quyết liệt trong thời gian gần đây, những đã tạo được thành tích bước đầu đưa được một số "hổ, beo, ruồi" vào "lò đốt" tham nhũng.
Tuy còn nhiều khó khăn và bất trắc, nhưng nhiều người cho rằng ông Trọng có thể thành công, không phải là diệt được hết tham nhũng (vì chỉ là diện và không thể), mà là sẽ diệt được các nhóm lợi ích khác (mới là điểm), tập trung được quyền lực trong tay để trở thành "Vua không ngai" nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ; như Tập Cân Bình, Hoàng đế không ngai nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Vì sao ? Nếu ông Trọng không diệt hết các nhóm lợi ích khác (hình thái phong kiến mới, mỗi nhóm có một lãnh chúa) thì không thể trung ương tập quyền vào tay nhà vua Nguyễn Phú Trọng và quần thần ở triều đình Hà Nội (như chế độ quân chủ chuyên chế mạnh). Thời kỳ các Bí thư Thành ủy, Tỉnh ủy cát cứ các địa phương như các lãnh chúa thời phong kiến đã qua rồi.
Vì thực tế có nhiều dấu hiệu cho thấy vua không ngai Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam và nhóm lợi ích của ông đã và đang tiếp tục nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoàng đế không ngai Trung Quốc Tập Cận Bình, của đảng và chính quyền Trung Quốc. Vì vậy, ông Tổng Trọng mới dám mạnh tay chẳng sợ ai, chẳng sợ gì ? Do đó người ta suy đoán là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, mặc dầu đã ở tuổi 74, nhưng sẽ không chỉ làm Tổng bí thư nửa nhiệm kỳ hiện nay như dự trù, hay hết nhiệm kỳ này mà sẽ là Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước vô thời hạn, giống như Hoàng đế không ngai Trung Quốc Tập Cận Bình. Bởi vì, ông Trọng là người phát động và chủ động công cuộc chống tham nhũng mới bắt đầu, cần thêm nhiều thời gian để hoàn tất, nên ông Trọng là người bất khả thay thế. Trừ khi Ông Trọng bị chết bất đắc kỳ tử vì một nguyên nhân nào đó, bằng không sẽ không "đồng chí" nào, dù chí cốt cũng không làm thay ông được.
Tất nhiên để Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thành đạt tham vọng làm vua không ngai, rồi đây Đảng cộng sản Việt Nam sẽ phải bãi bỏ hạn chế nhiệm kỳ của Tổng bí thư. Quốc hội của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ phải sửa đổi Hiến pháp để Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể kiêm nhiệm Chủ tịch nước giống như Hoàng đế không ngai Tập Cận Bình của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Điều này không khó, vì "Luật là Đảng", "Đảng là luật". Một khi Đảng muốn là "Thiên triều" muốn. Nhân dân phải nghe, rõ chưa ?
Houston, ngày 20/03/2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 22/03/2018
Khi chúng tôi ngồi viết thư này thì chỉ còn đúng 4 ngày nữa là đến Giao thừa bước qua năm mới Mậu Tuất 2018, trong tâm trạng buồn nhớ Quê Hương, với những cái Tết đầm ấm, vui tươi đậm sắc dân tộc năm nào khi còn sống nơi quê nhà.
Thắp nhang ngày Tết. Hình minh họa.
Vì vậy, trước thềm Năm Mới, chúng tôi chân thành kính chúc quý độc giả cùng quý quyến trong và ngoài nước, một Năm Mới Mậu Tuất 2018 sức khỏe dồi dào, an khang, hạnh phúc và thành đạt mọi ước nguyện riêng cũng như chung.
Đối với các giới đồng bào trong nước, chúng tôi cũng xin kính chúc mọi người dân sớm được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc, được như gia đình giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản có chức có quyền, lắm bác nhiều tiền nhờ tham nhũng, móc ngoặc cửa quyền, đục khoét công quỹ đã và đang thụ hưởng trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản bao lâu nay tại Việt Nam, được phô trương không cần che đậy qua lối sống hàng ngày, với cao điểm là những cái "Tết thật hoành tráng" nơi các nhà "tư bản Đỏ"…
Riêng đối với các độc giả không bình thường là "các dư luận viên" bao lâu này ăn lương nhà nước bằng tiền đóng thuế của nhân dân, để làm công việc "phản tuyên truyền" quen thuộc là bày tỏ bất đồng sau mỗi bài viết của chúng tôi, hầu hết không dùng những ngôn từ có văn hóa và các luận cứ khách quan để phản biện, mà dùng thậm từ có tính miệt thị, nhục mạ nhằm khủng bố tinh thần để người viết ngại "dính với hủi" mà im tiếng không muốn viết nữa. Rằng chúng tôi rất mừng là sau bài viết "Vì sao tôi từ chối vào đảng cộng sản Việt Nam" thì dường như ý kiến phản hồi của các dư luận viên có giảm bớt số lượng (dưới 10 so với dưới 80) và ngôn từ bày tỏ bất đồng đã có văn hóa hơn so với bài gần nhất trước đó "Người thoát chết từ mồ chôn tập thể trở về nhà".
Tuy nhiên vẫn võ đoán nói xa nói gần Thiện Ý cũng như Đài VOA là "con bài của CIA". Đây là căn bệnh "Sùng bái CIA", cơ quan Trung ương tình báo Hoa Kỳ, xuất hiện ở Việt Nam sau 30/4/1975 khi Việt cộng cướp được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa" (mà thực tế đã tiến vững chắc lên xã hội tư bản đỏ…". Hệ quả của căn bệnh này, trong những năm tháng đầu sau "Giải phóng" là cán bộ đảng viên cộng sản nhìn đâu cũng thấy người của CIA cài lại. Nhiều người bị công an của chế độ mới bắt giam vì tình nghi người của CIA cài lại để chống phá chế độ thời hậu chiến…
Nhân đây cũng xin thưa cùng quý độc giả bình thường cũng như không bình thường đôi điều :
1. Tính đến năm nay là khoảng hơn 4 năm liên tiếp người viết đã gửi bài cho Đài VOA và được cho đăng tải trên diễn đàn "Bạn đọc làm báo". Những bài viết là do cảm hứng cá nhân chứ không viết do "đơn đặt hàng", theo kiểu của các dư luận viên viết theo lệnh "Đảng và nhà nước ta". Vì vậy bài được chọn đăng không trả tiền nhuận bút và dưới mỗi bài đăng tải trên mục "Diễn Đàn" này thường có ghi chú "Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của đài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ".
2. VOA do ngân sách chính phủ Hoa Kỳ đài thọ. Nhiệm vụ của VOA là làm truyền thông. Các ban ngôn ngữ, bao gồm tiếng Việt, được hoàn toàn độc lập, tự do chứ không chịu sự lãnh đạo trực tiếp và chặt chẽ như trong chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam cũng như chế độ độc tài các kiều khác trên thế giới.
Mặt khác, mặc dầu mang danh là "Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ", nhưng cách đăng tin và chọn lựa các bài viết của độc giả gửi tới, người viết thấy VOA luôn tôn trọng sự thật và tính khách quan của một cơ quan truyền thông quốc tế. Bằng chứng là có nhiều tin hay bài bất lợi cho tổng thống, cho chính phủ hay bất cứ nhân vật công cử hay dân cử nào thuộc hành pháp, lập pháp hay tư pháp Hoa Kỳ, VOA đều cho đăng tải. Ngay cả những ý kiến phản hồi của độc giả bày tỏ bất đồng bằng sự xuyên tạc hay chụp mũ tác giả, luôn cả đài VOA, bằng những ngôn từ thiếu văn hóa, VOA vẫn cho đăng tải. Nhiều người cho rằng những độc giả có ý kiến phản hồi theo ngôn từ và cung cách này thường là của những "dư luận viên" ăn lương nhà nước làm công tác "phản tuyên truyền" nhằm làm nản lòng tác giả những bài viết có nội dung phê phán những sai trái của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, bất lợi cho nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Đôi điều trình bày trên, người viết nghĩ rằng có thể nhiều dư luận viên cũng đã biết, nhưng vì nhiệm vụ"ăn cơm chúa(đảng cộng sản), múa tối ngày", phải viết vậy, chứ không phải vậy đâu. Phải không ạ ?
Thôi thì năm cũ cầm tinh Con Gà 2017 đã qua, năm mới cầm tinh Con Chó 2018 đã tới, người viết đề nghị với quý độc giả bình thường cũng như không bình thường trong Năm Mới này, rằng :
- Nếu có ý kiến phản biện sau mỗi bài viết xin đưa ra những luận cứ lịch sử và thực tiễn khách quan và dùng các ngôn từ có văn hóa để phản bác các luận cứ, quan điểm trong các bài viết của tác giả một cách xây dựng, để cùng hướng đến mục đích chung có tính giai đoạn, là giúp đảng và nhà đương quyền Việt Nam thấy được những chủ trương, chính sách, sai lầm, bất lợi cho dân, cho nước để kịp sửa sai.
- Đồng thời trong trường kỳ, các bài viết của chúng tôi cũng như những bài phản biện của quý độc giả bình thường cũng như không bình thường cần có tác dụng thúc đẩy đảng và nhà cầm quyền Việt Nam gia tốc tiến trình theo chiếu hướng dân chủ hóa đất nước, để chuyển đổi hòa bình, tịnh tiến từ"chế độ độc tài toàn trị cộng sản" giả hiệu (Đỏ vỏ, xanh lòng) qua "dân chủ pháp trị" thực sự (xanh vỏ, xanh lòng) ; để nhân dân ta được sớm sống trong "tự do, ấm nó hạnh phúc" (như khẩu hiệu tuyên truyền bao lâu nay của "Đảng ta" vẫn chưa thành đạt) trong một xã hội có giai cấp, nhưng sự cách biệt giàu nghèo không quá sâu sắc ; nhất là không còn cảnh "người độc quyền áp bức, bóc lột người" của giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản có chức có quyền như thực trạng bao lâu nay tại Việt Nam ; mà ông Nguyễn Phú Trọng người đứng đầu Đảng cộng sản Việt Nam và nhóm lợi ích của ông đang cố gắng sửa sai quyết liệt để cứu nguy chế độ.
Thế nhưng người viết nghĩ rằng việc làm của Tổng bí thư Trọng, "cơ bản là tốt", song sẽ chẳng đi đến đâu. Vì việc diệt một "căn bệnh tham nhũng" đã trở thành hệ thống do cơ chế đẻ ra, đã quá trễ như thời kỳ cuối của một căn bệnh ung thư hết thuốc chữa. Thế nhưng nhiều người cho rằng, đối với Tổng bí thư Trọng, chống và diệt tham nhũng lúc này chỉ là "Diện", loại trừ các nhóm lợi ích khác trong đảng để tập trung quyền lực mới là "Điểm". Liệu ông Tổng Trọng có thành công trong ý đồ này hay vô hình chung lại giúp cho tiến trình dân chủ hóa đất nước mau đến kết thúc ? Mong lắm thay.
Thực tế người dân mong đợi có câu trả lời chính xác và sớm nhất nội trong năm Con Chó 2018 này, phải không ạ, thưa quý độc trong và ngoài nước thân mến ?
Houston, ngày 11-2-2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 13/02/2018
Lời phi lộ : Sau mỗi bài viết được đăng tải trên diễn đàn này, thường có ít nhiều ý kiến phản hồi về nội dung bài viết. Người viết chân thành cảm ơn về sự quan tâm đọc và chia sẻ quan điểm. Tuy nhiên, trong số này, có một số độc giả đã bày tỏ sự bất đồng không phải bằng lý lẽ và thực tiễn để tìm ra chân lý, mà dùng những ngôn từ thiếu văn hóa như gọi người viết là "bọn rân chủ", "bọn cờ vàng" và chê người viết dốt lịch sử (do đảng viết), sợ không dám nói rõ tên thật… Mục đích mạ lỵ thậm từ để khủng bố tinh thần hòng bịt miệng người viết. Bài viết này nhằm cảnh tỉnh phần nào cho những loại độc giả này, dù là "dư luận viên", "ăn cơm chúa (đảng), múa tối ngày" hay độc giả bình thường, đều là nạn nhân của nền giáo dục tuyên truyền một chiều, bưng bít sự thật trọng chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam.
Một buổi lễ kết nạp thành viên Đảng cộng sản Việt Nam. Ảnh minh họa
Nội dung bài viết về người thật việc thật, nhưng trong thời điểm hiện nay một số tên người được viết tắt. Vì là một trích ngang hồi ký "Thân Phận Con Người", nhưng chúng tôi sẽ viết rõ tên người khi cho xuất bản thành sách vào thời gian phù hợp.
Thiện Ý
*********************
I. Cơ hội và vì sao tôi từ chối cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam
1. Cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam
Vào khoảng tháng 1 năm 1978, Thiếu úy S. (1), công an khu vực trường học, đã mời tôi vào phòng sinh hoạt đoàn đội trường Phổ Thông Cơ Sở L.L, nguyên là một tư thục của dòng Lasan ở Sài Gòn, nơi tôi đang dậy học và cho hay đảng bộ muốn tạo cơ hội cho tôi gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Theo Thiếu úy S, sở dĩ tôi được chi bộ đảng nhà trường quan tâm bồi dưỡng để kết nạp vào đảng, là vì "Đồng chí có lý lịch tốt, có năng lực, nhiệt tình trong công tác giảng dậy và sinh hoạt học đường và có ảnh hưởng quần chúng tốt…". Nếu chấp nhận, sau khi được kết nạp vào đảng, tôi sẽ được tăng lương, biên chế vào Ban giám hiệu, sẽ được chọn công tác bất cứ trường học nào trong Thành phố, mọi nhu cầu tài chánh cho công tác của tôi sẽ được đáp ứng…
Đây là điều hoàn toàn bất ngờ và tôi đã phải suy nghĩ rất nhanh để tìm cách trả lời sao cho không bị coi là "chưa dứt khoát tư tưởng" hay có tư tưởng "phản động". Sau khi tỏ ra xúc động, cảm ơn về sự quan tâm của chi bộ đảng có lợi cho tương lai sự nghiệp cá nhân, tôi đã chối từ với lý do vốn không thích sinh hoạt đảng phái, vì cá tính thích tự do trong cuộc sống, sợ không tuân giữ được kỷ luật nghiêm minh của đảng.Tôi cũng bày tỏ là trước năm 1975, đã được Việt Nam Quốc Dân Đảng mời, nhưng tôi đã chối từ, mặc dầu rất có cảm tình và lòng ngưỡng phục với đảng trưởng Nguyễn Thái Học, một anh hùng dân tộc. Tôi nói thêm, tất nhiên với Đảng cộng sản Việt Nam có khác, được vào Đảng cộng sản Việt Nam là một vinh dự lớn lao.Tôi cảm ơn chi bộ đảng đã quan tâm tạo điều kiện cho được vào đảng…
Sau khi thuyết phục thêm thời gian, Thiếu úy S. nói là tôi không cần trả lời ngay,có thể suy nghĩ và trả lời sau một tuần lễ, kèm yêu cầu như một thử thách tư tưởng xem có dứt khoát về"lập trường giai cấp", là làm một bản báo cáo những gì tôi biết về một giáo viên dậy Anh văn tên T.V.M, mà theo lời Thiếu úy S., giáo viên này bị nghi ngờ là người của CIA cài lại (mà theo tôi có lẽ chỉ vì giáo viên này thường hay có những phát biểu bộc trực, phê phán thẳng thừng những sai sót, tiêu cực trong nhà trường liên quan đến Ban giám hiệu và các viên chức đảng và nhà nước khác).
Một tuần sau, tôi đã giữ im lặng, không trả lời và cũng không nộp bản báo cáo về giáo viên T.V.M. Bí thư Đoàn đội nhà trường lúc đó là cô N.T.T gặp riêng khi tôi đang ngồi ở băng ghế đá trong sân trường, phàn nàn rằng "Thật không hiểu nổi, đúng ra anh phải là người thích hợp với xã hội chủ nghĩa chứ. Tại sao anh lại từ chối một cơ hội mà nhiều người phải phấn đấu lắm vẫn không được". Tôi bình thản trả lời " Ai nói tôi không thích hợp với xã hội chủ nghĩa ? Không vào đảng cộng sản đâu phải là không yêu xã hội chủ nghĩaN. Mỗi người có ý thích riêng, tôi thích sông tự do thoải mái, không bị ràng buộc gì hết, thế thôi…". Đối với Thiếu úy S. thì thay đổi hẳn thái độ, không còn vồn vã, tay bắt mặt mừng như trước đó, mỗi khi gặp mặt, mà nay tìm cách né tránh mỗi khi nhìn thấy tôi từ xa.
2. Vì sao tôi có cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam ?
Nếu căn cứ vào nhận xét, đánh giá cá nhân tôi của Thiếu úy S. thì tôi có cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam là vì " Đồng chí có lý lịch tốt, có năng lực, nhiệt tình trong công tác giảng dậy và sinh hoạt học đường và có ảnh hưởng quần chúng tốt…".
Tôi có lý lịch tốt, có lẽ là vì Cha tôi là Nguyễn Văn Tiến (1907-1960) từng tham gia kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu (1945), khi tôi còn trong bụng mẹ, cho đến năm 1954 mới bỏ về thành. Cha tôi lúc đó đang là công nhân cạo mủ, rồi phơi mủ ở nhà máy của đồn điền cao su đất đỏ Hớn quản, Quản lợi, Lộc Ninh, mặc dầu ông là một trí thức, một thầy tu xuất (Thầy giáo Tiến khi đến làm Thầy giảng nơi giáo xứ Bút Sơn, gặp mẹ tôi và đã xuất tu). Ông viết và nói thông thạo tiếng Pháp.
Tôi được biết, trước khi làm công nhân đồn điền Cha tôi đã làm việc cho Phòng Nhì của Pháp ở Nam Định. Vì vào năm 1950 khi Cha tôi cho người thân tín (Chú Thủ) về quê ngoại tôi ở làng Bút Sơn, Huyện Kim Bảng, Tỉnh Hà Nam (vùng tự do của Việt Minh) để đón mẹ con tôi lên Hà nội (Vùng tề thuộc Pháp), Cha tôi đã đón từ Hà Nội, đưa mẹ con tôi về Nam Định ở phố Hàng Nồi. Khi đó tôi được 5 tuổi. Lần đầu tiên gặp mới biết cha mình là ai. Nhưng chỉ chung sống với cha khoảng 2 năm, tôi có thêm một đứa em trai tên Nguyễn Văn Lợi, thì dường như bị lộ vì Pháp phát hiện nằm vùng cho VM sao đó, nên Cha tôi đã bỏ Miền Bắc vào Miền Nam làm công nhân đồn điền cao su, hoạt động trong giới công nhân (1952) và bảo Mẹ tôi đem hai con về làng Bút Sơn quê ngoại để sinh sống. Em trai tôi đã chết ở đây vì sốt thương hàn, khi chưa đầy hai tuổi.
Năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, Mẹ con tôi đã theo người em ruột của cha tôi (Chú Thất) đi lính quân đội quốc gia di cư vào Nam để tìm gặp lại cha tôi tại đồn điền cao su Hớn Quản, Quản Lợi. Mặc dù trước đó cha tôi viết thư về nói cứ ở nhà, Ông sẽ trở về Bắc, "vì nước nhà sắp độc lập". Một người anh cô cậu ruột với mẹ tôi cũng làm ở đồn điền này (Ô Vũ Đức Kiệm), đã khuyên mẹ tôi tìm cách đưa ngay cha tôi ra khỏi nơi đây vì nguy hiểm lắm. Ông cho hay ‘mỗi khi có cuộc đình công, các công nhân đã phải đến nhà đêm ngày bảo vệ cho chú ấy…". Sau đó, có lẽ nhờ những kinh nghiệm sống trong "vùng tự do" của Việt Minh khá lâu, đã cùng một số dân làng phải trốn chậy bằng đường rừng qua "Vùng Tề" của Pháp, mẹ tôi đã thuyết phục được cha tôi đồng ý ở lại Miền Nam, rời đồn điền cao-su đến sống tại trại di cư Bàu Trai thuộc tỉnh Long An. Trong thời gian này, một lần duy nhất có một người tên Hựu hay Xứng (Tôi không nhớ rõ) từ đồn điền cao su đến thăm ở chơi ít ngày khuyến dụ cha tôi "Anh trở lại trên ấy với chúng em. Chúng em rất cần anh" (có lẽ là người của Đảng cộng sản Việt Nam). Sau lần gặp gỡ này một thời gian ngắn sau đó (1955), cha tôi đã vội vã tìm đường đưa gia đình lên lập nghiệp ở một trại di cư dinh điền mới mở ở cao nguyên Trung phần Việt Nam, có tên là Chi Lăng, cách thị trấn Buônmêthuột khoảng 8 cây số. Dường như cha tôi muốn tránh xa sự lôi kéo của cộng sản trở lại đồn điền cao su để sau đó tiếp tục hoạt động cho họ trong cuộc nội chiến Quốc-Cộng (1954-1975).
Vì "tướng học trò" như lời mẹ tôi thường nói, không quen lao động làm ruộng rẫy cực khổ, ăn uống thiếu thốn, cha tôi đã chết vì bệnh lao phổi vào năm 1960 ở tuổi 53, khi tôi đang học lớp Đệ Lục (Lớp 7) tại trường công lập Buôn mê thuột. Như vậy là cuộc đời cha tôi đã chỉ sống chung với mẹ con tôi trước, sau tổng cộng khoảng 9 hay 10 năm.
Sau khi cha mất, mẹ con tôi tiếp tục làm ruộng rẫy, gói bánh chưng bán làm kế sinh nhai.Bản thân tôi theo thời gian vừa làm vừa học, với đủ mọi nghề(kèm tư gia, chấm bài thuê, dậy tiểu học, rồi trung học,…) . Sau cùng đã tốt nghiệp cử nhân luật để trở thành luật sư trước ngày 30/4/1975. Vì là nghề tự do, hoãn dịch gia cảnh (một mẹ một con duy nhất của góa phụ), nên tôi không thuộc diện tập trung cải tạo. Sau 30/4/1975, tôi đã đến "đăng ký" xin dậy học và trở thành giáo viên tại Trường Phổ Thông Cơ Sở L.L. ở nội thành Sài Gòn.
Trong môi trường giáo dục này, tôi đã phát huy khả năng, sáng kiến viết kịch bản, đạo diễn thực hiện các hoạt cảnh phát động cao trào thi đua, học tập, sinh hoạt học đường qua 3 đợt chủ đề"Tổ Quốc Em Biết Mấy Tự Hào", "Sao Tháng 10 Ngời Sáng" và "Vươn Tới Tầm Cao Đất Nước". Một trong những hoạt cảnh này được chọn biểu diễn trước Nhà Hát Thành Phố Hồ Chí Minh (Trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa cũ) trong dịp phát động thi đua học tập toàn thành phố, có sự tham dự của Ông Võ Văn Kiệt là Bí thư Thành ủy lúc bấy giờ. Với thành quả sau cùng là Trường Phổ Thông Cơ Sơ L.L đã đạt danh hiệu "Trường Điểm" cho cả nước học tập. Có lẽ vì thế mà Thiếu úy S. đã đánh giá tôi là người "có năng lực, nhiệt tình trong công tác giảng dạy và sinh hoạt học đường…" ? Tôi lại được các giáo viên tín nhiệm bầu làm Thư ký Hội đồng Giáo dục nhà tTrường có vai trò gạch nối giữa Ban giám hiệu và tập thể giáo viên nên được đánh giá là "có ảnh hưởng quần chúng tố" chăng ?
Tôi không được Thiếu úy S. cho biết ai là người đã giới thiệu tôi vào Đảng cộng sản Việt Nam, nên chỉ suy đoán có lẽ là chị Hiệu trưởng Đ.N, có chồng tên L., bí danh Ba S. Lúc bấy giờ chị N. nói với tôi anh L. là Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng. Vì trước đó, họ đã có nhiều dấu hiệu quan tâm ưu ái đặc biệt, khuyến khích tôi theo hướng phấn đấu để được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Chẳng hạn có đôi lần chị Hiệu trưởng mời tôi đến dùng cơm, giới thiệu với chồng tại nhà ở cư xá Ngân hàng cũ trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (gần cầu Công Lý cũ). Có lần chị thăm dò tôi về tôn giáo xem tôi có còn giữ đạo Công giáo như ghi trong lý lịch. Tôi đã xác định "Đúng là theo đạo của cha mẹ, không sùng đạo, nhưng thiên về sống đạo, tôi vẫn giữ đạo đàng hoàng, ít khi bỏ lễ Chủ nhật và các ngày lễ buộc…".
Khi đón nhận danh hiệu "Trường Điểm", chị đã ca ngợi hết lời và ghi công cho tôi rất nhiều và nói lên trước cuộc họp các giáo viên thành quả này có được do sự hợp tác làm việc ăn ý, hiệu quả giữa tôi và chị, bằng câu nói hữu thần, dù chị là đảng viên cộng sản vô thần, rằng "Trời sinh ra Đ.N thì phải sinh ra Nguyễn Văn Thắng". Mặc dầu tôi không phải là đảng viên cộng sản, nhưng chị phong cho chức Cố vấn Đoàn đội nhà trường và yêu cầu Bí thư đoàn đội nhà trường khi làm gì cần tham khảo ý kiến với tôi. Chị cũng cho tôi quyền sử dụng con dấu nhà trường khi cần không có chị ở văn phòng, nên anh chị em giáo viên gọi đùa tôi là Hiệu Phó thứ tư (ngoài 3 Hiệu phó chính thức theo biên chế)….
II. Vì sao tôi từ chối cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam
1. Lý do từ chối giả tạo
Lý do giả tạo tôi đưa ra để từ chối cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam với Thiếu úy S. không phải vì cá tính thích tự do, không muốn bị ràng buộc ; cũng như viết trong bản tự khai với chấp pháp (hỏi cung) sau khi bị bắt vì tham gia thành lập và hoạt động trong Mặt trận Nhân quyền Việt Nam, không phải vì Đảng đã kỳ thị, không tin tôi chỉ vì tôi là người Công giáo, nên tôi bất mãn, không vào đảng mà chống chế độ…
2. Lý do từ chối thực sự
Lý do từ chối thực sự cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam, và chống chế độ vì nhận thức tư tưởng cũng như kinh nghiệm thực tế cho tôi thấy rằng : Chủ nghĩa cộng sản là không tưởng, một lý tưởng có vẻ cao đẹp (xây dựng một xã hội không giai cấp, không người áp bức,bóc lột người…) nhưng chỉ là hoang tưởng không thể và không bao giờ thực hiện được.
Vì chỉ cần suy luận đơn giản nhất, trong hàng ngũ chức sắc lãnh đạo ưu tuyển của các tôn giáo, không gia đình vợ con, cả đời tận hiến phục vụ tha nhân cho một lợi ích siêu nhiên, mà còn có nhiều người "tham sân, si" tha hóa, thì các cán bộ đảng viên cộng sản vô thần có gia đình, thì làm sao có bản chất, nhân cách, lối sống vị tha quên mình "mình vì mọi người,khổ trước cái khổ của dân, vui sau cái vui của dân", để thực hiện "một xã hội không giai cấp, không còn cảnh người áp bức, bóc lột người" như lý tưởng cộng sản vẽ ra ?
Vả lại, lúc đó tôi thấy, động lực để người ta phấn đấu vào đảng hình như đa phần không phải vì lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản mà vì lợi ích cá nhân ; vào đảng để có ưu quyền. đặc lợi, để chia ghê chia phần trong bộ máy cầm quyền độc tài, độc tôn của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhìn vào thực tế, qua kinh nghiệm thực hiện chủ nghĩa cộng sản khởi đi từ Liên Xô cũ đến các nước khác trên thế giới, ai cũng thấy sự tàn ác, dã man, vô nhân đạo gây khổ lụy cho bao nhiều con người, đã phá hủy nền tảng đạo đức, luân lý xã hội, gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện, di hại lâu dài cho nhiều dân tộc, đất nước chỉ vì đã bị các đảng cộng sản, trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam, đem thử nghiệm chủ nghĩa không tưởng này.
Tôi có được nhận thức và kinh nghiệm trên nhờ sống ở Miền Nam trong chế độ tự do, dân chủ pháp trị, dù còn phôi thai nhưng ai cũng có thể tự do tìm hiểu chủ nghĩa cộng sản, biết được qua kinh nghiệm thực tế ở các nước cộng sản qua nhiều tài liệu trong và ngoài nước. Đồng thời bản thân tôi lại còn có chút kinh nghiệm có được qua hầu hết tuổi thơ sống trong vùng "Tự do" do Việt Minh kiểm soát (tương tự vùng giải phóng của Việt cộng sau này ở Miền Nam).
Đó là vào khoảng 1951-1952, với kinh nghiệm ấn tượng là tận mắt chứng kiến cảnh đấu tố dã man vợ con ông "Cai Đích" (đi lính cho Tây chỉ làm đến chức Cai, tứcTrung sĩ, dù lúc đó Ông đã chết) khi theo mẹ đi chợ ở làng Phù Thụy ; và tận mắt thấy người ta trói ông bà Lý Quốc Chương (cha mẹ của Luật sư Lý Quốc Sỉnh sau này đã nhận tôi tập sự luật sư) ở Lạt Sơn, để cho dân chúng lấy thóc, hôi của gọi là "quân phân tài sản địa chủ chia cho người nghèo". Cả hai làng Phù Thụy và Lạt Sơn đều sát gần làng Bút Sơn quê ngoại tôi, thuộc huyện Kim Bảng, tình Hà Nam, nên thời bấy giờ dân các làng này có thể đi bộ qua lại.
Chính nhờ kiến thức, kinh nghiệm xa gần trên về cộng sản, đã là lý do thực sự để tôi từ chối cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam và vì ngay khi có cơ hội này tôi đã, đang tham gia vào việc thành lập và hoạt động trong tổ chức Mặt trận Nhân quyền Việt Nam chống lại chế độ do Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt.
III. Kiên định lập trường quốc gia, dân tộc, trung thành với lý tưởng tự do, dân chủ
Cha tôi, một trí thức như rất đông các nhà trí thức cùng thời, vì lòng yêu nước đã chấp nhận hy sinh hạnh phúc gia đình, chấp nhận hiểm nguy tham gia cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) chống thực dân Pháp để giành độc lập cho Tổ Quốc ; chứ không phải cướp chính quyền cho Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta, theo chỉ thị của cộng sản quốc tế.
Sau khi cuộc kháng chiến chấm dứt, với Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, chính cha tôi cũng như nhiều người Việt quốc gia yêu nước khác, ai cũng nghĩ thế, nên viết thư về nói mẹ con tôi cứ ở lại Miền Bắc đợi ông "Tập kết" trở về, vì "nước nhà sắp độc lập" (!?!). Rất may có lẽ mẹ tôi đã dùng chính kinh nghiệm sống trong "vùng tự do" của Việt Minh, nên đã thuyết phục được cha tôi ở lại Miền Nam. Nhưng thái độ tôi nghĩ là tiêu cực khi cha tôi sau khi tìm cách xa lánh Việt cộng, lại đã không cộng tác với chính quyền quốc gia đem tài năng góp phần cải tạo một chế độ mà sau này trong men say ông thường kết án là một "xã hội thối nát, bất công" và chỉ biết tự hào với quá khứ kháng chiến chống Pháp, rằng "Ta làm cách mạng, ta không cần vợ cần con". Tiếc rằng, cha tôi đã không sống đủ thời gian để thấy con mình, dù sống trong cái chế độ "Thối nát, bất công" ấy, nhưng với ý chí và nghị lực tự thân, nó đã có cơ hội nỗ lực phấn đấu vươn lên từ tầng đáy lến đến tầng cao của xã hội trong chế độ ấy.
Nhưng nếu giả như tôi phải sống trong xã hội của chế độ Miền Bắc từ năm 1954 thì sao ?
Chắc chắn con ông nếu không chết mất xác trên đường Trường Sơn để "giải phóng Miền Nam" thì vào năm 1975 tốt lắm con ông cũng chỉ mang quân hàm Trung úy quân đội cộng sảnBV, như người bạn của tôi thời thơ ấu tên Trạch ở làng Bút Sơn quê ngoại mà nó tìm gặp lại tôi ở Sài Gòn những ngày, tháng đầu sau 30/4/1975. Số phận khác biệt này chính là do sự khác biệt giữa một xã hội trong một chế độ độc tài toàn trị do Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt ở Miền Bắc sau năm 1954 ; với một xã hội trong một chế độ dân chủ pháp trị ở Miền Nam do sự lựa chọn tự do của người dân Miền Nam, thông qua một cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955, sau Hiệp Định Gènève 1954 chia đôi đất nước .
Vì vậy, đó là tất cả những lý do tổng quát mà tôi đã từ chối cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam với nhiều ưu quyền, đặc lợi, để chọn con đường chống chế độ dù phải vào tù. Có lẽ nhờ"lý lịch tốt", được "chiếu cố" nên tôi chỉ bị chế độ cho án tù tập trung cải tạo 3 năm, thay vì 10 năm nếu bị đưa ra xét xử làm vụ án "phản động" điển hình, như cán bộ Đội trưởng đội chấp pháp vụ án Mặt trận Nhân quyền Việt Nam, là Tr. A. Nh.. nói với tôi khi kết thúc điều tra xét hỏi vụ án ; hay vì "Tội anh lớn lắm" như lời Thiếu úy Thùy Trưởng khu C.2 nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu nói với tôi trước cửa phòng biệt giam số 6 trong một lần tôi mới đi làm việc (hỏi cung) trở về biệt giam .
Nhưng 3 năm hay 30 năm tù "tập trung cải tạo" hay hơn nữa cũng thế thôi, cũng không thể "cải tạo" được tôi đâu. Tôi thấy mình rất may mắn được sống ở Miền Nam hơn 20 năm dưới bóng Cờ Vàng, biểu tượng của quốc gia dân tộc, của lý tưởng tự do dân chủ. Và tôi cũng rất tự hào là đã có một quyết định lựa chọn đúng khi "Từ chối cơ hội vào Đảng cộng sản Việt Nam", phù hợp với lập trường kiên định Quốc gia, Dân tộc, Dân chủ, để tiếp tục, bằng mọi phương cách, cùng toàn dân Việt Nam đấu tranh cho đến khi thành đạt mục tiêu tối hậu là dân chủ hóa Việt Nam, tạo tiền đề thuận lợi để phát triển toàn diện đất nước đến phú cường, văn minh, tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của thời đại.
Ghi chú :
(1) Thiếu úy S. công an khu vực nhà trường (1978) đã là Trung tá Trưởng công an một quận nội thành Sài Gòn vào năm 1992. Sở dĩ tôi biết được cấp bậc này là vì trước khi gia đình rời Việt Nam đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ, tôi đến chào tạm biệt người bạn thân mà tôi đã có bài viết vào dịp Tết năm nào, nhan đề "Thư xuân viết về và viết cho người bạn thân, một đảng viên cộng sản chân chính" được đài VOA cho đăng tải cách nay vài năm. Trước khi chia tay tôi có nói đùa một câu "Nếu ngày ấy không từ chối cơ hội vào đảng thì giờ này tôi làm gì ở đâu ha…". Người bạn không trả lời vào câu hỏi, mà chỉ nói "Đồng chí ấy (Thiếu úy S.) bây giờ đã là Trung tá Trưởng công an Quận X …".
Houston, ngày 28/01/2017
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 07/02/2018
Đúng 50 năm trước đây, vào Tết Mậu Thân 1968, quân đội cộng sản Bắc Việt đã đồng loạt mở cuộc tấn công vào các đô thi Miền Nam, vi phạm trắng trợn lệnh hưu chiến, phá tan bầu không khí vui xuân đón Tết thiêng liêng cổ truyền của người dân Việt, gây tàn phá, chết chóc tang thương cho toàn Miền Nam.
Đêm mồng một Tết Mậu Thân 1968, quân cộng sản bất ngờ tràn vào tiến chiếm Đại Nội Huế - Hình minh họa.
Một trong những tội ác tày trời không thể biện minh đối Việt Cộng và không thể nào quên trong lòng người dân Miền Nam xảy ra trong cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam (1954-1975) cộng sản hóa toàn cõi đất nước. Đó là những mồ chôn tập thể ở Huế nằm rải rác ở nhiều nơi tổng cộng lên tới khoảng 6000 người mà Việt Cộng đã gây ra trong cái gọi là cuộc "Tổng tiến công và nổi dạy mùa xuân 68". Nạn nhân trong những ngôi mộ tập thể này là những quân nhân, công chức Việt Nam Cộng Hòa nghỉ phép ăn Tết với gia đình, nhưng phần đông là những thanh niên, sinh viên học sinh và dân thường bị kết tội cộng tác với chính quyền quốc gia, hay không chịu hợp tác hoặc "chống lại cách mạng". Sau khoảng 28 ngày đêm chiếm đóng, trước khi rút chạy, Việt Cộng đã xử bắn hay chôn sống những nạn nhân này và chôn trong những ngôi mồ tập thể ở nhiều địa điểm khác nhau.
Nhiều hố chốn tập thể đã được phát hiện sau khi bị quân cộng sản thảm sát Tết Mậu Thân Huế
Câu truyện "người thoát chết trở về từ mồ chôn tập thể" mà chúng tôi viết lại ở đây là chuyện người thật, việc thật, do lời kể của em vợ một người bạn hàng xóm ở sát vách, có Mẹ ruột bị giết và chôn tại một trong 9 ngôi mồ tập thể trong khuôn viên trường Tiểu học Gia Hội ở nội thành Huế. Người kể truyện tên N. G. H. hiện cùng nhiều người thân trong gia đình định cư tại Tân Tây Lan (New Zeland) trong đó có gia đình anh bạn hàng xóm tên T. H. H, nguyên là một Thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa từng bị tù nhiều năm trong cái gọi là "Trại lao động học tập cải tạo" của Việt Cộng . Em H. đã kể cho tôi nghe trong một đêm cùng ngồi ở lan can chờ đón Giao thừa Tết năm nào sau 30/4/1975, ngày cộng sản Bắc Việt xâm chiếm Miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris ngày 27/1/1973 do họ bí mật hợp soạn với "đế quốc Mỹ" để rồi sau đó chính phủ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa bị ép buộc phải ký vào như bản án tử hình được tuyên và thi hành án vào ngày 30/4/1975.
Theo H. kể lại, thì trước 30/4/1975 Cha Mẹ anh là một nhà buôn giàu có buôn bán trầm hương nổi tiếng ở Huế, nhà có người ăn kẻ ở. Đúng đêm 30 Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công vào thành phố Huế. Sau khi Việt Cộng chiếm đóng ít ngày, mọi người trong nhà đều sửng sốt khi thấy một chị giúp việc mặc đồ đen, đội nón tai bèo mang súng AK đi cùng hai người khác đến nhà yêu cầu đưa người yêu của chị gái anh, lúc đó là một sinh viên trường võ bị quốc gia Đà Lạt về nghỉ Tết (sau là Thiếu tá T.H.H là chồng của chị anh), phải ra trình diện. Sau khi lục soát nhà không thấy anh H. (đang trốn trên trần nhà), chị người làm yêu cầu Mẹ anh đi theo làm con tin, nói là khi nào anh H. ra trình diện sẽ thả mẹ anh về.
Tất nhiên là anh sinh viên sĩ quan Đà Lạt tên H. bạn hàng xóm của tôi, không dại gì ra trình diện để bị giết và bà Mẹ bị bắt đi sau đó cũng không thấy trở về nhà, ngay cả sau khi Việt Cộng đã rút hết khỏi Huế cả tuần lễ sau. Mọi người trong gia đình anh H. vô cùng lo lắng vì nghe nói nhiều gia đình có người thân cũng bị bắt đi và bị giết chôn trong những mồ chôn tập thể. Những thân nhân họ đang đi đào bới các ngôi mồ tập thể để tìm xác người thân. Mọi người chia nhau đi hỏi tin tức và thầm cầu nguyện cho người thân trốn thoát đấu đó bình an trở về.
Trong khi mọi người đang hoang mang, lo lắng không biết số phận người Mẹ ra sao, thì một hôm có một anh thanh niên quen biết đến nhà báo tin cho hay người Mẹ đã bị nhốt chung với anh này tại Trường Tiểu học Gia Hội và cùng bị Việt Cộng xử bắn chôn chung trong một mồ tập thể trong khuôn viên nhà trường ; nhưng anh đã may mắn sống sót trở về.
Theo thuật lại của anh thanh niên thì đêm hôm đó, Việt Cộng trói chung 10 người một dây, đưa ra trước các hố đã đào sẵn, rồi ria một tràng AK, xác người đổ xuống, khi dầy thì lấp đất lên một cách sơ sài, vội vã. Riêng anh thanh niên thì may mắn thoát chết vì không trúng đạn mà chỉ đổ theo những người cùng dây trói. Khi tỉnh lại, anh thanh niên nói là ngửi thấy nồng nặc mùi máu tanh ướt đẫm quần áo và mặt. Nhờ bóng đêm anh thanh niên được thần chết bỏ quên đã tìm cách thoát chạy về nhà. Anh thanh niên về đến nhà trời còn tối, gõ cửa và lên tiếng gọi. Nghe tiếng em trai gọi nhỏ thều thào người chị gái vội ra mở cửa. Nhưng vừa nhìn thấy mặt và toàn thân em trai mình đầy máu me thì sợ hãi đóng sập cửa lại khi người em chưa kịp bước vào nhà. Phải đợi người em năn nỉ, nói là mình còn sống thật, hãy mở cửa mau cho anh vào nhà. Người chị như hoàn hồn mở cửa lại cho em vào nhà. Nhưng vẫn chưa tin là sự thật, chị đưa tay sờ mặt em như để biết chắc là em mình thật chứ không phải hồn ma bóng quế về báo mộng cho biết.
Sau khi nghe anh thanh niên thoát chết trở về từ mồ chôn tập thể thuật lại, thế là cả nhà của bà Mẹ nạn nhân theo chỉ dẫn của người thanh niên này đi đào bới ngôi mồ tập thể cùng nhiều người khác đi tìm xác người thân. Nhờ quần áo, trang sức và những dấu vết đặc biệt của người chết, họ đã nhận ra xác của người vợ, người Mẹ xấu số của các con đem về mai táng.
Câu truyện vừa viết lại trên đây là một thảm cảnh tiêu biểu của hàng ngàn gia đình có nạn nhân bị Việt Cộng xử bắn hay chôn sống trong các mồ chôn tập thể ở Huế trong biến cố Tết Mậu thân 1968.
Riêng đối với gia đình anh H. người em vợ của người bạn hàng xóm, thì thảm cảnh còn tái diễn sau ngày 30/4/1975. Vì vẫn theo lời kể của anh H. trong đêm cùng ngồi đón Giao Thừa năm đó, thì sau ngày "Giải phóng", Cha anh bị đánh tư sản. Vì quá uất ức đã dùng dao chém vào đầu tự sát, con cháu kịp đưa vào nhà thương nên cứu kịp. Nhưng sau khi hồi tỉnh, lợi dụng lúc anh H có bổn phận chăm sóc và canh chừng người Cha, xuống sân ngồi ghế đá hút thuốc lá, Cha anh đã nhảy lầu tự tử. Anh nói, cái chết của người Cha đã chấn động mạnh khiến anh như bị bệnh thần kinh một thời gian vì mang mặc cảm do mình lơ là để Cha tự tử chết thảm thương.
Tôi viết lại câu truyện có thật này theo lời kể của H. một trong những người con của một Bà Mẹ nạn nhân trong hàng ngàn nạn nhân bị Việt Cộng sát hại hay chôn sống trong các ngôn mồ tập thể ở Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968. Nếu tất cả những câu truyện thật này được phơi bày, chắc phải in thành hàng ngàn trang sách. Ðó là một tội ác tầy trời mà ngày nay thế giới văn minh gọi là "Tội ác chiến tranh" hay "Tội ác chống nhân loại", với những thủ phạm phải bị đem ra xét xử và trừng phạt. Những phim ảnh tài liệu đã ghi lại tội ác vô tiền khoáng hậu này đã đủ bằng chứng và hội đủ yếu tố cấu thành các tội ác vừa nêu.
Thế nhưng 50 năm đã qua, cá nhân những kẻ chủ mưu, thủ ác trực tiếp hay đồng lõa gián tiếp thì hầu hết đã đi vào lòng đất. Nhưng kế thừa những kẻ chủ mưu, thủ ác đã gây ra cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 68 ở Huế nay là đảng và nhà cầm quyền công sản Việt Nam ; đúng ra phải chịu trách nhiệm hình sự cũng như dân sự. Hay ít ra phải có lời công khai tạ lỗi với các nạn nhân và thân nhân họ. Thế nhưng thật đáng tiếc là hàng năm đảng và nhà cầm quyền cộng sản hiện nay vẫn tổ chức ăn mừng "Tổng tiến công và nội dạy mùa xuân 68" như một thắng lợi, gây phẫn nộ cho người dân Miền Nam, nhất là những thân nhân các nạn nhân đã chết trong cuộc tắm máu này. Vì hành động ăn mừng này làm người ta liên tưởng đến các cuộc uống máu, nhảy múa bên xác quân thù của các bộ lạc xa xưa còn man rợ khi chiến thắng một bộ lạc yếu kém hơn mình.
Trên diễn đàn này, hơn một lần chúng tôi đã lên tiếng kêu gọi đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy chấm dứt ngay việc ăn mừng các biến cố quan trọng trong cuộc chiến tranh vừa qua ; như biến cố Mậu Thân 1968 và 30/4/1975… Vì những biến cố ấy và tất cả các biến cố dẫn đến kết thúc cuộc chiến tranh "nồi da sáo thịt" vào ngày 30/4/1975, chẳng phải là thắng lợi của phe này (Việt Cộng) với phe kia (Việt quốc). Tất cả đều là sự thất bại và nỗi ô nhục chung của người Việt Nam, thuộc các bên tham chiến, vì đã tri tình (Việt Cộng ) hay ngay tình (Việt Quốc) phải làm công cụ chiến lược một thời (Chiến tranh ý thức hệ toàn cầu) cho ngoại bang.
Thiết tưởng, đúng ra Đảng cộng sản Việt Nam nắm quyền 43 năm qua, phải sớm nhìn ra thực chất cuộc chiến tranh "Cốt nhục tương tàn" này, để có hành động khác hơn hầu cải sửa lại những sai lầm quá khứ ; khi mù quáng tin theo chủ nghĩa cộng sản không tưởng ; phát động cuộc chiến tranh cộng sản hóa Miền Nam với cái giá núi xương, sống máu dân Việt ; đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội thất bại, để lại hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho dân tộc và đất nước. Chúng tôi ước mong những người lãnh đạo đảng và nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay cần suy nghĩ lại để có hành động thức thời có lợi cho dân cho nước, cho các thế hệ Việt Nam hiện tại cũng như mai sau.
Houston, ngày 4/2/2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 04/02/2018