Tròn một con Giáp sau sự kiện "Việt Nam được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chấp thuận cho trở thành thành viên thứ 150", kịch bản "vào trước, bắt sau" hầu như đang tái hiện ở Việt Nam. Lần này là Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
Giàn công an chuẩn bị đàn áp người biểu tình ở Đồng Nai năm 2016. (Hình : Getty Images)
Vào năm 2006, chính thể Việt Nam đã nhún mình giảm đàn áp giới nhân quyền và bất đồng chính kiến để tiếp đón Tổng thống Mỹ George Bush tại Hà Nội, và sang năm 2007 Việt Nam được Mỹ nhấc khỏi CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo), tức được giảm cấm vận kinh tế, đồng thời. Nhưng chỉ một năm sau đó, từ năm 2008 trở đi, công an Việt Nam liên tiếp gia tăng tống giam người bất đồng như một kiểu "bắt bù".
Nhưng tình hình hiện thời không còn quá thuận lợi cho công an Việt Nam bắt bất đồng như vào nửa cuối năm 2016 và phần lớn năm 2017.
Một lần nữa kể từ giai đoạn "vận động TPP" từ giữa năm 2013 đến giữa năm 2016, biểu đồ đàn áp nhân quyền ở Việt Nam có dấu chỉ chùng bớt. Khoảng thời gian từ cuối năm 2017 đến nay đang có dấu hiệu về việc biểu đồ đàn áp nhân quyền có thể thiết lập vùng đỉnh của nó, để trong nửa cuối năm 2018 "vận động sớm thông qua EVFTA" thì cao độ của đường biểu diễn đàn áp này có thể thấp hơn, hoặc thấp hơn đáng kể, so với đỉnh điểm của nó vào năm 2017.
Gương mặt thất thần
Chính vào lúc này, quá nhiều khó khăn kinh tế đã tích tụ và chồng chất để trở thành nỗi bế tắc được định dạng ngay trên gương mặt thất thần của đảng cộng sản. Nếu không khẩn cấp tìm ra lối thoát kinh tế và tài chính, chẳng mấy năm nữa đảng sẽ sạch tiền, sẽ không còn tiền nuôi đội ngũ công chức viên chức "còn đảng còn mình" lên đến gần ba triệu người, cùng một lực lượng vũ trang và bán vũ trang hoặc chỉ biết đàn áp quyền làm người của dân chúng, hoặc chỉ lo làm "kinh tế quốc phòng" mà chẳng hề bảo vệ ngư dân Việt trong lúc tàu Trung Quốc hùng hổ tấn công, hành hung và bắn giết.
Trong toàn bộ bức tranh u tối kinh tế ở Việt Nam đương đại, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Châu Âu (EVFTA) là lối thoát được Bộ Chính trị đảng ở Việt Nam kỳ vọng nhất.
Về thực chất, cái chế độ tham lam, tham nhũng và đang rơi vào cảnh đói khát chỉ còn EVFTA là hiệp định thương mại mang lại lợi lộc nhiều nhất ứng với đà xuất siêu của Việt Nam sang Châu Âu lên đến 25 tỷ USD mỗi năm – gần bằng giá trị nhập siêu lên đến 30 tỷ USD hàng năm (chỉ tính theo đường chính ngạch, chưa kể khoảng 20 tỷ USD nhập siêu theo đường tiểu ngạch) của Việt Nam từ Trung Quốc.
Nhưng muốn EVFTA được thông qua, Việt Nam lại cần có được toàn bộ đồng thuận của 28 Quốc hội ở 28 nước Châu Âu, mà nếu chỉ một nước không đồng ý thì Hà Nội coi như trắng tay.
Đối với chính thể độc đảng ở Việt Nam, EVFTA quan trọng đến mức mà vào tháng Ba năm 2018, người đứng đầu đảng là Nguyễn Phú Trọng đã phải tự thân đến Pháp, để vận động Nghị Viện Pháp cho EVFTA được Hội đồng Châu Âu và Nghị Viện Châu Âu "linh hoạt sớm thông qua.
Nhưng ngay sau cuộc gặp Macron – Trọng, không phải báo đảng Việt Nam, mà những hãng thông tấn của Pháp như AFP đã loan tin là trong cuộc gặp này, Tổng thống Pháp Macron đã đề cập một cách nhấn mạnh về tình hình nhân quyền tại Việt Nam và trường hợp các blogger và các nhà bảo vệ nhân quyền bị bỏ tù, đồng thời kêu gọi Việt Nam thực hiện những cải cách để tăng cường nhà nước pháp quyền.
Đề cập và lời kêu gọi của Tổng thống Macron là logic với đánh giá cho rằng chính phủ Pháp đã chủ động yêu cầu phía Việt Nam phải đưa nội dung "nhấn mạnh nhân quyền" vào tuyên bố chung Việt – Pháp 2018 và đôn nội dung này lên vị trí thứ 2 trong bản tuyên bố này, vượt hơn nhiều so với vị trí thứ 6 của chủ đề nhân quyền được thể hiện trong bản tuyên bố Việt – Pháp vào tháng Chín năm 2013 trong chuyến công du Pháp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng Jean – Marc Ayrault.
"Tối hậu thư" về nhân quyền
Liệu EVFTA, dù đã kết thúc giai đoạn đàm phán từ tháng Mười Hai năm 2015 – thời điểm mà hệ thống tuyên giáo cùng báo đảng Việt Nam khoa trương hết lời về "sẽ phê chuẩn EVFTA ngay trong năm 2016", và phải mất đến hai năm rưỡi sau đó hiệp định ngổn ngang này mới kết thúc giai đoạn rà soát pháp lý, trong khi thông thường khoảng thời gian rà soát pháp lý đối với những hiệp định tương tự chỉ mất từ 6 tháng đến 1 năm, sẽ được "Nghị Viện Châu Âu phê chuẩn vào đầu năm 2019" như tham vọng và cũng là "gợi ý" một cách đầy lộ liễu trên hệ thống báo đảng của giới chóp bu Việt Nam ?
Cần nhìn lại những thông điệp được phát từ phía EU chứ không phải bởi Việt Nam.
"Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam có thể không được thông qua" là tựa đề của Bike, Europe, ngày 23 tháng Giêng, 2018, dẫn nguồn từ EU-Vietnam Free Trade Agreement Threatened (người dịch : Vũ Quốc Ngữ, Việt Nam Thời Báo). Theo đó, việc phê chuẩn EVFTA đang gặp khó khăn khi Quốc hội Châu Âu đặt câu hỏi về cách mà Việt Nam như một nhà nước cộng sản độc đảng đang đối xử công nhân của mình. Đặc biệt khi Việt Nam có với 93 triệu dân, được coi là một trong những con hổ Châu Á mà Nghị sĩ Bernd Lange nói rằng "Nếu không có tiến bộ về nhân quyền và đặc biệt là về quyền lao động thì thỏa thuận này không được Quốc hội Châu Âu phê chuẩn".
Vào tháng Hai năm 2018, trang Borderlex của Châu Âu đã chính thức cho biết để thông qua EVFTA, "EU khăng khăng yêu cầu Việt Nam phê chuẩn ba hiệp ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tự do lập hội, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, và việc bãi bỏ lao động cưỡng bức dường như đã mang lại kết quả", và khẳng định "Phía sau việc trì hoãn này (EVFTA) còn có một số lý do chính trị như : ưu tiên đưa ra thỏa thuận của EU với Nhật Bản, cuộc đụng độ ngoại giao giữa Berlin và Hà Nội, và Liên Hiệp Châu Âu nhấn mạnh rằng Việt Nam cần tôn trọng hơn các quyền con người và quyền lao động".
Cho tới khi đó, hoàn toàn có thể xem thông điệp trên của EU là một "tối hậu thư" về nhân quyền đối với chính thể Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên mà cũng vào thời điểm trên, Đại sứ Việt Nam tại EU là Vương Thừa Phong đã thình lình "hé môi" rằng Việt Nam đang lên kế hoạch phê chuẩn để thông qua các công ước trên vào năm 2019 và 2020.
EU có biết quy luật "vào trước, bắt sau" ?
Từ giữa năm 2016, bàn cờ đối thoại và đàm phán về nhân quyền đã dần chuyển từ tay người Mỹ sang Liên Hiệp Châu Âu.
Nhưng một dấu hỏi đánh đố là khi nào Việt Nam sẽ thỏa mãn những đòi hỏi của EU về cải thiện nhân quyền là phê chuẩn ba hiệp ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tự do lập hội, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, bãi bỏ lao động cưỡng bức, tức ít nhất Việt Nam phải sớm ban hành luật về Hội và công nhận Công Đoàn Độc Lập ? Trước hay sau khi EVFTA được Nghị Viện Châu Âu thông qua ?
"Kết thúc rà soát pháp lý EVFTA" chỉ là một trong nhiều công đoạn phải có trước khi hiệp định này được Nghị Viện Châu Âu quyết định có phê chuẩn hay không. Nhưng do nhiều gian lận thương mại của doanh nghiệp Việt Nam và tình trạng vi phạm nhân quyền quá trầm trọng của chính quyền Việt Nam mà đã khiến thời gian rà soát pháp lý EVFTA kéo dài đến hai năm rưỡi thay vì chỉ 6 tháng đến 1 năm, điều gì sẽ xảy ra, hoặc bao nhiêu năm nữa sẽ biệt trôi một khi chính thể Việt Nam không những không giảm bớt hành vi gian lận thương mại mà còn tiếp tục vi phạm nhân quyền khi vẫn liên tiếp hành hung tra tấn dã man người dân biểu tình vì an sinh và chủ quyền đất nước, bắt bớ và xử tù nặng nề các công dân yêu nước ?
Tương lai "Nghị Viện Châu Âu phê chuẩn EVFTA" có rơi vào đầu năm 2019 hay trong năm 2019 như Hà Nội đang lập lờ hy vọng ?
Liệu các nhà ngoại giao và đàm phán thương mại của EU có nắm được quy luật "vào trước, bắt sau" như một "đặc thù xã hội chủ nghĩa" ở Việt Nam ? Hay sẽ lặp lại trang sử bi thảm của nhân quyền Việt Nam khi hàng loạt nhà hoạt động nhân quyền bị nhà cầm quyền tống giam ngay sau khi EVFTA được phê chuẩn ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 02/09/2018
Lần thứ hai trong vòng 4 tháng, Liên Hiệp Châu Âu - nơi đang nắm trong tay quyền sinh sát đối với số phận như mành treo trước gió của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu (EVFTA), đã ‘kết án’ nhà cầm quyền Việt Nam bằng cụm từ ‘vi phạm trực tiếp đối với các nghĩa vụ quốc tế’.
Ông Lê Đình Lượng tại phiên tòa hôm 16 tháng Tám, tại Nghệ An. (AFP PHOTO / Vietnam News Agency)
Hai lần ‘vi phạm trực tiếp’
Ngay sau vụ nhà hoạt động nhân quyền Lê Đình Lượng bị Tòa án Nghệ An kết án 20 năm tù và 5 năm quản chế, EU lập tức tuyên bố bản án này "đã tiếp nối xu hướng tiêu cực trong việc đàn áp các nhà hoạt động ôn hòa tại Việt Nam", và "Ông Lê Đình Lượng đã ủng hộ một cách ôn hòa cho sự thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền như đã được đảm bảo trong Hiến pháp Việt Nam, Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế và các công ước quốc tế khác mà Việt Nam đã ký kết tham gia, trong đó có Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị. Vì việc kết án trên là một sự vi phạm trực tiếp đối với các nghĩa vụ quốc tế này, Liên Hiệp Châu Âu mong muốn rằng các cơ quan thẩm quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức đối với ông Lê Đình Lượng cũng như tất cả các blogger và các nhà hoạt động nhân quyền khác hiện đang bị phạt tù vì đã biểu đạt quan điểm của mình một cách ôn hòa".
Tuyên bố trên được nêu ra bởi Phái đoàn Liên Hiệp Châu Âu với sự đồng thuận của các đại sứ các quốc gia thành viên Liên Hiệp Châu Âu tại Việt Nam.
Vào đầu tháng Tư năm 2018, sau khi Hội đồng xét xử của một tòa án ở Việt Nam - dù không đủ chứng cứ nên phải suy diễn theo hướng quy chụp có tội - vẫn giáng một bản án đến 66 năm đối với 6 thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ, trong đó riêng Luật sư Nguyễn Văn Đài bị giáng án đến 15 năm tù, EU đã phản ứng cứng rắn chưa từng có.
"Những bản án mà Tòa Hà Nội tuyên cho 6 nhà hoạt động dân chủ Việt Nam vào ngày 5 tháng tư là sự vi phạm trực tiếp những nghĩa vụ quốc tế mà chính Hà Nội cam kết ; cũng như Liên Hiệp Châu Âu mong muốn được tôn trọng đầy đủ. Liên Hiệp Châu Âu mạnh mẽ cam kết bảo vệ những nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi sẽ tiếp tục giám sát và làm việc với các cơ quan chức năng và những đối tác liên quan nhằm cải thiện tình hình nhân quyền tại Việt Nam" - tuyên bố của Phát ngôn nhân Maja Kocijancic của EU phát đi từ Bruxelles.
Bruxelles lại là thủ phủ của EU - nơi mà các quan chức cao cấp của Việt Nam như Phó thủ tướng Vương Đình Huệ và Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh liên tục đến để "vận động EU linh hoạt sớm phê chuẩn EVFTA" trong năm 2017 và đầu năm 2018.
Hoàn toàn trái ngược với lối quy chụp "tuyên truyền chống nhà nước" và "âm mưu lật đổ chính quyền" của chính thể Việt Nam đối với Hội Anh Em Dân Chủ, tổ chức xã hội dân sự này đã làm được nhiều hơn bất cứ tổ chức xã hội dân sự nào khác, và hơn hẳn toàn bộ khối tổ chức hội đoàn nhà nước như Mặt trận Tổ quốc, Tổng liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên cộng sản… trong mục tiêu hỗ trợ ngư dân và giáo dân 4 tỉnh miền Trung đòi lại công lý và tiền đền bù sau thảm họa xả thải ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra vào hai năm 2016 và 2017.
Nếu Formosa đã trở thành một chủ đề quốc tế và được nhiều tổ chức môi trường lẫn chính phủ một số nước và báo chí quốc tế đặc biệt quan tâm, số phận những lãnh đạo Hội Anh Em Dân Chủ bị công an Việt Nam tống giam cũng bởi thế được quốc tế quan tâm không kém - theo tiêu chí các giá trị dân chủ và nhân quyền trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
‘Cáo trạng nhân quyền’
Chi tiết ngoại giao đáng chú ý là trong tuyên bố của EU vào tháng Tư năm 2018 và tháng Tám năm 2018 đã không còn những từ ngữ "lo ngại" hay "quan ngại" như một cách biểu lộ phản ứng nhẹ nhàng hoặc vừa phải, mà là lời lẽ cứng rắn - thậm chí còn cứng rắn hơn cả mức độ cứng rắn trong bản nghị quyết về vấn đề nhân quyền Việt Nam - mang số hiệu 2016/2755 (RSP) mà Nghị viện Châu Âu tung ra vào tháng 6/2016, vào lúc chính quyền Việt Nam bắt đầu một chiến dịch đàn áp khốc liệt kéo dài 17 tháng liên tiếp đối với giới đấu tranh nhân quyền ở quốc gia "lệ rơi hình chữ S" này.
Sau nhiều năm giữ ôn hòa với chính quyền Việt Nam và thậm chí còn bị cho là khá mềm yếu trước quá nhiều vi phạm nhân quyền, từ giữa năm 2016 đến nay EU ngày càng quan tâm đặc biệt đến chủ đề nhân quyền cho Việt Nam và nói thẳng đây là một trong những điều kiện bắt buộc, để nếu Việt Nam không chịu cải thiện nhân quyền thì sẽ không có cơ hội nào có được EVFTA.
Từ nửa cuối năm 2016 đến nay, vai trò đối thoại nhân quyền đã chuyển dần từ Hoa Kỳ sang EU. Một số nghị sĩ của EU đến Hà Nội làm việc về EVFTA và luôn kèm dẫn những điều kiện về nhân quyền - vấn đề trước đây chỉ là yếu tố phụ thì nay đã trở thành một trọng tâm của EVFTA. Đặc biệt là vai trò của Nhà nước Đức khi đàm phán với Việt Nam không chỉ về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh mà cả về tù nhân lương tâm và quyền tự do xuất cảnh của những người bất đổng chính kiến đang nằm trong ‘nhà tù lớn’.
Nhưng trong nguyên năm 2017, chủ đề nhân quyền đã hoàn toàn không được Việt Nam quan tâm và phản hồi. Thậm chí ngược lại, nhà cầm quyền Việt Nam còn bắt giam đến gần ba chục người bất đồng chính kiến vào năm đó - một "thành tích" tương đương với thời kỳ "khủng bố trắng" từ năm 2008 đến năm 2012.
Kết quả hầu như là con số 0 của Đối thoại nhân quyền EU - Việt Nam vào tháng 12/2017 cùng bản nghị quyết nhân quyền đầy sắc thái cứng rắn của Quốc hội EU trong cùng tháng đó đã cho thấy Châu Âu không còn chấp nhận tư thế dễ bị "ăn hiếp" bởi giới chóp bu Việt Nam quá quen mặc cả nhân quyền đổi lấy lợi ích thương mại, đồng thời dựng lên một bức tường đủ cao trước Hà Nội nếu muốn đạt được EVFTA.
Với tuyên bố về việc chính thể Việt Nam đã ‘vi phạm trực tiếp’ đối với những công ước quốc tế mà Việt Nam đã ‘cái gì cũng ký, miễn được lợi và được tiếng’, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị với những cam kết rất cụ thể về quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận và tự do báo chí, có thể thấy EU đang dần hình thành một hồ sơ ‘cáo trạng’ đối với giới chóp bu Hà Nội để có thể đưa ra ‘truy tố’ trong không bao lâu nữa, đặc biệt trong bối cảnh vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vẫn chưa nhận được bất kỳ một lời xin lỗi hay cam kết ‘sẽ không tái phạm’ nào từ Hà Nội.
Sẽ điều trần ‘ba bên’ về nhân quyền ?
Dự kiến trong hai tháng Mười và Mười Một năm 2018, bản dự thảo Hiệp định EVFTA, sau khi đã kết thúc quá trình rà soát pháp lý mất đến hai năm rưỡi thay vì chỉ 6 tháng như thông thường, sẽ được Ủy ban thương mại quốc tế Châu Âu đưa ra để xem xét có ký kết với Việt Nam hay không, hoặc nếu ký thì sẽ cần xem xét một cách đặc biệt đến những điều kiện nhân quyền lồng trong bản hiệp định này như thế nào.
Một cuộc điều trần về tình hình nhân quyền Việt Nam cũng rất có thể sẽ được Ủy ban thương mại quốc tế Châu Âu tổ chức với sự có mặt của ba bên : EU, Bộ Công thương Việt Nam và một vài nhà hoạt động nhân quyền từ Việt Nam.
Chính vào lúc này, quá nhiều khó khăn kinh tế đã tích tụ và chồng chất để trở thành nỗi bế tắc được định dạng ngay trên gương mặt thất thần của đảng cộng sản. Nếu không khẩn cấp tìm ra lối thoát kinh tế và tài chính bằng EVFTA, chẳng mấy năm nữa đảng sẽ sạch tiền, sẽ không còn tiền nuôi đội ngũ công chức viên chức ‘còn đảng còn mình’ lên đến gần 3 triệu người, cùng một lực lượng vũ trang và bán vũ trang hoặc chỉ biết đàn áp quyền làm người của dân chúng, hoặc chỉ lo làm ‘kinh tế quốc phòng’ mà chẳng hề bảo vệ ngư dân Việt trong lúc tàu Trung Quốc hùng hổ tấn công, hành hung và bắn giết.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 31/08/2018
Sự kiện bản dự luật Đặc khu - đối tượng đã tạo địa chấn biểu tình khổng lồ và gây sóng gió trong chính trường Việt Nam - vừa bị Ủy ban Thường vụ quốc hội ‘quyết’ không mang ra bàn tại kỳ họp quốc hội tháng Mười năm 2018 mà để ‘lùi lại’ nhưng không xác định thời hạn, khiến người ta nhớ lại mẩu chuyện dưới đây.
Biểu tình chống Luật Đặc Khu. Ảnh minh họa
‘Nó lừa mình !’
Vào đầu tháng Bảy năm 2018, tức khoảng một tháng sau khi nổ ra cuộc biểu tình phản đối ‘Luật bán nước’ (một tục danh mà nhân dân đặt cho dự luật Đặc khu) ở Sài Gòn với nhân số lên đến hàng trăm ngàn người và lan rộng trên 50% tỉnh hành trong cả nước, Tổng bí thư Trọng có gặp một ai đó và thốt lên ‘Nó lừa mình !’.
Tuy thật khó hoặc không thể kiểm chứng về tính xác thực của mẩu chuyện dân gian truyền miệng trên, nhưng việc một số người dân và cựu quan chức ở Hà Nội xì xào về nó lại có vẻ phần nào logic với cách đánh giá của một bộ phận trong giới quan sát chính trị về quan điểm Nguyễn Phú Trọng - luật Đặc khu : không phải là tác giả nguyên thủy của dự luật này như những Phạm Minh Chính thời còn là bí thư Quảng Ninh và Nguyễn Thị Kim Ngân đã từng nhiệt tình ủng hộ dự thảo của Phạm Minh Chính vào thời đó, cũng không bị dư luận nổi lên nhiều đồn đoán về việc ‘đã gom đất đặc khu giá thấp’ như một số quan chức cao cấp để chờ khi thông qua luật Đặc khu thì sẽ ‘xả hàng’ với giá cao ngất, là nhân vật tỏ ra có thái độ nước đôi đối với luật Đặc khu chứ không hẳn cắm đầu lao vào nó - với một biểu hiện là cách nói hàng hai về dự luật này trong một cuộc tiếp xúc cử tri Hà Nội vào cuối tháng Sáu năm 2018, ông Trọng có vẻ chưa dứt khoát trong quyết định về việc luật Đặc khu có được thông qua hay không, hoặc ít nhất dự luật này có được đưa ra Quốc hội để thảo luật thêm một lần nữa hay không.
Trong khi đó, nếu mẩu chuyện dân gian trên là có cơ sở, người dân sẽ rất tò mò và cũng rất hào hứng để biết được ‘nó’ là ai, và đã ‘lừa mình’ là lừa cái gì và lừa theo thủ đoạn nào và ngoạn mục như thế nào.
‘Nó’ là ai ?
Nếu ngay sau cuộc tổng biểu tình ngày Mười tháng Sáu năm 2018, Quốc hội đã phải bàn lùi luật Đặc khu nhưng có thời hạn lùi đến kỳ họp tháng Mười cùng năm, thì giờ đây, vụ Ủy ban Thường vụ quốc hội - cơ quan đã từng được Tổng bí thư Trọng quán triệt ‘cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp’ vào năm 2013 - phải bàn lùi luật Đặc khu mà chưa thể ‘chốt’ thời hạn đưa ra bàn hay thông qua là năm 2019 hay năm nào sau đó, đã cho thấy ít nhất một kết luận :
- bất chấp phong trào người dân, trí thức và cả nội bộ trong đảng phản ứng dữ dội về nhiều điều khoản rất bất lợi trong dự thảo luật này, cho tới nay dự thảo luật Đặc khu có thể vẫn chưa được chỉnh sửa một cách cầu thị thật sự, mà thậm chí chỉ được gia cố hết sức sơ sài và mang tính đối phó mà vẫn giữ nguyên quan điểm và quy định chi tiết về ‘cho thuê đất đến 99 năm’ hoặc gần như thế ;
- ‘kiến tạo’ những điều kiện cực kỳ dễ dãi để người Trung Quốc có thể ồ ạt di cư vào các đặc khu, đặc biệt là đặc khu kinh tế Vân Đồn ở Quảng Ninh, một khi luật Đặc khu đực chính thức thông qua ;
- vẫn giữ nguyên quyền tài phán nếu có tranh chấp và xử lý người di cư hoặc doanh nghiệp của Trung Quốc không thuộc về Việt Nam mà thuộc về ‘quốc tế’ ;
- vẫn không có những điều kiện chặt chẽ để loại trừ tương lai các đặc khu, nhất là đặc khu Vân Đồn, sẽ trở thành bãi thải công nghiệp khổng lồ của rác từ Trung Quốc đổ vào ; và
- vẫn không có quy định chặt chẽ để lại trừ tương lai một số doanh nghiệp cá mập Việt Nam (chẳng hạn như Tập đoàn FLC của Trịnh Văn Quyết - nhân vật không biết là tỷ phú đô la thực hay giả) trở thành con nợ khổng lồ khi sẵn sàng đi vay của các ngân hàng Trung Quốc để đầu tư vào đặc khu nhưng lại không thể bảo đảm năng lực thanh toán, để cũng như nhiều phi vụ vay ODA nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam đẩy toàn bộ hậu quả mất khả năng thanh toán cho chính phủ…
Kể từ sau cuộc biểu tình khổng lồ phản đối luật Đặc khu vào ngày Mười tháng Sáu, ông Nguyễn Phú Trọng đã phải chịu tư thế một đầu lĩnh đảng không còn thể chỉ đạo đường lối chung chung như trước đây, mà chắc chắn ông ta sẽ ít nhất phải ghé mắt xem Trưởng ban tổ chức trung ương Phạm Minh Chính thâm trầm, Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân diêm dúa và cả những cơ quan liên quan trong chính phủ ‘kiến tạo, hành động’ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ‘chỉnh sửa’ dự luật Đặc khu ra sao.
Và dường như ông Trọng không hài lòng với bản sửa trên. ‘Sửa’ như thế thì chỉ có nước lại kích động biểu tình, kích động phản ứng nội bộ và càng khiến không chỉ nhóm tác giả của ‘luật bán nước’ mà cả ông Trọng cũng bị dân coi là ‘tội đồ dân tộc’…
Trong thực tế, Nguyễn Phú Trọng đang không chỉ điên đầu với công cuộc ‘đốt lò’ đụng tới ai cũng dính chàm, mà còn phải căng mình để đối phó với không ít âm mưu ‘lật đổ’ có thể tồn tại ngay trong nội bộ đảng.
Cựu thần và Tổng Trọng
Sau cuộc biểu tình ngày Mười tháng Sáu, một quan chức quốc hội là Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định đã viện dẫn nguồn cơn dẫn đến việc Quốc hội phải bỏ phiếu lùi luật Đặc khu : "đây là dự án luật mới, phức tạp, chưa có tiền lệ ; nhiều quy định về cơ chế, chính sách trong dự thảo luật mang tính đột phá cả về tổ chức bộ máy và quan điểm, định hướng phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp ; ý kiến của đại biểu Quốc hội, các cán bộ lão thành, chuyên gia, nhà khoa học và cử tri về một số nội dung của dự án luật còn khác nhau".
Trong thực tế, hầu như không có bằng chứng nào cho thấy Quốc hội và Chính phủ đã quan tâm hoặc hỏi ý kiến cử tri trong khoảng thời gian từ năm 2014 khi Bí thư Quảng Ninh Phạm Minh Chính tiếp cố vấn Đào Nhất Đào của Tập Cận Bình về kinh tế và bàn rất chi tiết về tương lai của đặc khu Vân Đồn nằm sát biên giới Trung Quốc, thậm chí ông Chính còn chủ động đưa vào dự thảo luật Đặc khu quy định cho nước ngoài thuê đất đến 120 năm…, đến tháng Năm năm 2018 là thời điểm hiện hình ‘Bộ Chính trị đã kết luận rồi…’ - một phát ngôn đầy tính áp đặt và cũng là một tiểu xảo chính trị như một cách nói để không cho ai nói khác với đảng, của Nguyễn Thị Kim Ngân - mang danh là người đứng đầu cơ quan dân cử cao nhất quốc gia..
Cũng trong khoảng thời gian trên, đã không có bất kỳ chủ trương nào về ‘sẽ lấy ý kiến cử tri và nhân dân về luật Đặc khu’ như cách nói của Thủ tướng Phúc - chỉ lộ ra sau khi dự luật này bị người dân gọi đích danh là ‘luật bán nước’ và phát sinh biểu tình khổng lồ từ Bắc chí Nam.
Vậy còn vai trò của giới ‘cán bộ lão thành’ mà Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định đề cập thì sao ?
Từ trước khi dự luật Đặc khu được đưa ra trung ương nghị bàn, một số cựu thần và một bộ phận trong giới cách mạng lão thành đã có những phản ứng nhất định. Còn sau khi nổ ra cuộc tổng biểu tình ngày Mười tháng Sáu của dân chúng và khi người ta chứng kiến một Nguyễn Phú Trọng cũng nói nước đôi chứ không thể ủng hộ tuyệt đối ‘luật bán nước’ theo cách mà những Phạm Minh Chính, Nguyễn Thị Kim Ngân có lẽ rất mong muốn, đã có những cựu thần công khai lên tiếng phản đối dự luật Đặc khu trước ông Trọng và trong các cơ quan đảng. Hẳn sự phản ứng này, được tích tụ từ trước tháng Sáu và phát ra mạnh hơn sau tháng Sáu, đã tạo nên một sức ép đủ lớn khiến bộ phận quan thức yêu mến ‘luật bán nước’ phải chùn tay mà chưa dám đặt dự luật này lên bàn nghị luận như một hành vi khiêu khích toàn dân.
Đã quá rõ rằng hiệu ứng của cuộc tổng biểu tình Mười tháng Sáu và phong trào văn thư kiến nghị, phản bác trước đó của giới trí thức đã tác động không nhỏ đến giới cách mạng lão thành và cựu thần, tạo nên những phản ứng nội bộ với mức độ đủ lớn để đảng cầm quyền, chính phủ và một quốc hội ‘đầu sai của đảng’ phải lùi thông qua dự luật Đặc khu để ‘nghiên cứu tiếp’, và cho đến nay phải tìm cách hoãn bàn về ‘luật bán nước’ vì lo sợ sẽ bùng nổ một phong trào biểu tình khổng lồ mới của dân chúng, dù trước đó đã muốn đặt dự luật này vào sự đã rồi mà không thèm quan tâm đến quan điểm, chính kiến và ý kiến của các tầng lớp nhân dân.
‘Xin ý kiến nhân dân’ như thế nào ?
Một nguy cơ rất hiển hiện đối với chế độ cầm quyền là nếu các nhóm lợi ích trong nội bộ đảng - với tư chất cố đấm ăn xôi - vẫn bằng mọi cách ‘đi đêm’ để thông qua luật Đặc khu, sẽ khiến làn sóng biểu tình chống ‘luật bán nước’ này trong dân chúng tiếp tục diễn ra sôi sục hơn, có thể biến thành một phong trào rất lớn trên mạng xã hội và cả trên đường phố trong nửa cuối năm 2018 và cả những năm sau.
Phong trào biểu tình phản đối luật Đặc khu lại diễn ra trong khung cảnh bức tranh xung đột của các phe phái chính trị trong nội bộ đảng ngày càng quyết liệt và đậm gam màu sắc máu. Những thuyết âm mưu về ‘lợi dụng dân chúng để biểu tình’ và ‘dùng quân đội chống biểu tình’ có thể tiếp tục được hiện thực hóa và kéo dài, tiếp thêm một ngòi nổ cho trái bom khủng hoảng chực chờ ngay trong lòng đảng.
Vậy sau thái độ lấp ló của Thủ tướng Phúc về ‘sẽ xin ý kiến nhân dân về luật Đặc khu’, thực tế triển khai sẽ ra sao ?
‘Luật bán nước’ chính là một minh chứng hùng hồn về quan điểm quên dân và gạt dân. Dù đã được âm thầm chuẩn bị trong nội bộ đảng cầm quyền từ vài năm trước, nhưng chỉ đến sát kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2018, ‘luật bán nước’ mới được công bố một cách chính thức như đặt sự đã rồi. Còn trước đó, đã không có bất kỳ một động tác nào, dù là nhỏ nhất hoặc chỉ mang tính mị dân, nhắm đến việc thông báo cho dân hoặc lấy ý kiến của dân về dự luật đặc khu. Và càng tuyệt đối không có bất kỳ ý tưởng nào của chính quyền về ‘trưng cần dân ý’ đối với dự luật gắn liền với cơ thể chủ quyền lãnh thổ này.
Còn nhân dân thì làm sao quên được một sự thật quá sức trần trụi : một trong những quyền dân đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1992 là ‘trưng cầu dân ý’ vẫn chưa hề được luật hóa cho đến tận giờ đây.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 28/08/2018
Dù chiến dịch "đốt lò" của Nguyễn Phú Trọng đã xử được một số quan chức tham nhũng, dù cũng giống như Tập Cận Bình đánh vào khu vực công an và cả khu vực quân đội, nhưng vẫn đang tồn tại một sự bất xứng và thiên vị giữa các khu vực.
Vụ người dân Thủ Thiêm, Sài Gòn, bị cướp đất, cướp nhà, có dấu hiện Nguyễn Phú Trọng để cho chìm xuồng. (Hình : Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh)
Và giữa "củi nhà" với "củi rừng".
Một cuộc chiến thiên vị
Dư luận đang cho rằng trong cuộc chiến "chống tham nhũng," Nguyễn Phú Trọng thiên về đốt "củi rừng" nhiều hơn hẳn đốt "củi nhà".
Trong vụ Đà Nẵng vào cuối năm 2017, trong khi Bí Thư Thành ủy Nguyễn Xuân Anh bị cách chức Ủy viên Trung ương Đảng, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân Huỳnh Đức Thơ – bị cho là có rất nhiều sai phạm về mặt đất đai – vẫn bình chân như vại và chỉ nhận một cảnh cáo nhẹ nhàng từ phía chính phủ.
Còn ở Sài Gòn, một quan chức cao cấp của Thành Ủy thành phố này là Phó Bí thư thường trực Tất Thành Cang đã cố ý làm trái trong việc ký thông qua chủ trương bán đất công giá bèo cho Quốc Cường Gia Lai, bán 32 hécta đất ở Nhà Bè, nhưng cho tới giờ Tất Thành Cang vẫn chưa hề bị kỉ luật, và vụ việc này đang có nhiều dấu hiệu chìm xuồng.
Nhưng ở Sài Gòn còn một vụ lớn hơn nhiều – một Thủ Thiêm đẫm máu, đẫm nước mắt cùng những cái chết tự treo cổ phẫn uất của dân oan đất đai khi bị cưỡng chế. Sau nhiều hứa hẹn của cơ quan chức năng, vẫn không có bất kỳ kết luận thanh tra nào của Thanh tra chính phủ công bố về vụ Thủ Thiêm.
Rất nhiều người dân đang cho rằng khi lần mò vào vụ Thủ Thiêm, Nguyễn Phú Trọng thấy đụng phải quá nhiều quan chức nên ông ta muốn làm ém nhẹm hoặc cho chìm xuồng vụ này.
Vậy cuộc chiến được xem là "chống tham nhũng" của Nguyễn Phú Trọng có công bằng hay không?
Một trường hợp cực kỳ bất xứng trong xử lý quan chức là hai vụ Đinh La Thăng và Trương Minh Tuấn. Cả hai quan chức Đinh La Thăng và Trương Minh Tuấn đều bị Ủy ban kiểm tra trung ương Đảng đánh giá có sai phạm "rất nghiêm trọng," nhưng trong khi Đinh La Thăng lãnh hai án 31 năm tù giam, thì Trương Minh Tuấn lại nghiễm nhiên trở thành Phó Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đảng để tiếp tục răn dạy báo giới và giới văn nghệ sĩ về "đạo đức cách mạng sáng ngời".
Chưa kể những quan chức khác – bị người dân xem là tội đồ dân tộc : Võ Kim Cự – cựu bí thư Hà Tĩnh đã tiếp tay cho Formosa gây ra thảm họa xả thải gây ô nhiễm 4 tỉnh miền Trung và khiến nửa triệu người dân phải treo thuyền treo niêu và mất kế mưu sinh, Nguyễn Thị Kim Tiến – đương kim bộ trưởng y tế – quan chức phải chịu trách nhiệm về vụ một công ty của ngành này nhập khẩu thuốc ung thư giả và khiến hàng ngàn bệnh nhân ung thư phải chịu hai lần cái chết. Nhưng tội trạng của hai quan chức này đều không một lần được Nguyễn Phú Trọng hé môi, dù chỉ là hé theo cách đầu môi chót lưỡi.
Với bản thành tích sơ bộ trên của Nguyễn Phú Trọng, làm thế nào để so sánh ông Trọng với Tập Cận Bình?
Một thất bại rõ rệt
Chỉ có bản lĩnh mới làm nên hình ảnh và quyền lực. Trong khi Tập Cận Bình không chỉ tống những viên tướng lĩnh cao cấp dát vàng trong nhà của công an và quân đội Trung Quốc vào sau chấn song nhà tù mà còn trực tiếp chỉ huy các đại chiến khu với một quyền uy tuyệt đối, Nguyễn Phú Trọng có vẻ vẫn quá trầy trật khi đến giờ chỉ mới "tiếp quản" Bộ Quốc phòng và bước đầu "làm nhân sư"’ Bộ Công An, dù đại hội 12 "bất cứ ai, trừ Dũng" đã trôi qua từ lâu.
Vai trò, vị thế và tương lai chính trị của Nguyễn Phú Trọng cũng bởi thế đang và sẽ khá chông chênh.
Ông ta chỉ còn khoảng hơn hai năm cho một núi việc cùng ưu tư "làm sao để lại dấu ấn sử xanh". Nhưng còn lâu mới được như một Tập Cận Bình, gần như mất sạch đối thủ chính trị, xung quanh Nguyễn Phú Trọng vẫn thoắt ẩn thoắt hiện hàng lô hàng lốc những cái bóng không không ưa ông ta, những cái bóng mà luôn có thể làm cho Trọng không còn giữ được cái bóng của mình nữa.
Trong khi đó, lại đang có những biểu hiện cho thấy ông Trọng thỏa mãn quá sớm với bản thành tích chống tham nhũng còn quá ít ỏi của ông ta. Không ít lần ông Trọng đã khiến cho một bộ phận không nhỏ cán bộ lão thành, công chức và người dân vốn còn nặng tâm lý "theo đảng, tin đảng" suýt vỡ tim vì thất vọng.
Đến giờ, hơn một năm sau khi chủ trương về kiểm tra tài sản của 1,000 cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư Quản Lý được chính thức phát ra, chủ trương này cũng gần như chính thức thất bại.
Hiển nhiên là trong giấc mơ kéo dài được hơn một năm qua, chiến dịch kiểm tra tài sản 1,000 quan chức của ông Trọng đã bị "đụng tường" – một bức tường lớn, rất cao và còn "khó nhằn" hơn cả sự chống đối quyết liệt đang diễn ra trong nội bộ đảng Trung Quốc.
Cũng hiển nhiên là mặc dù không thiếu tham vọng để làm một cuộc cách mạng long trời lở đất như Tập Cận Bình ở Trung Quốc, Nguyễn Phú Trọng lại quá thiếu chân đứng cho chiến dịch tìm ra núi tài sản bất minh của giới quan chức Việt Nam.
Trớ trêu thay, sự hụt hẫng chân đứng đầu tiên lại thuộc về Nguyễn Phú Trọng : Từ giữa năm 2018 đến nay, ông ta đã không chịu hồi âm cho một bản kiến nghị của nhiều trí thức bất đồng đòi hỏi Trọng phải công khai tài sản thì mới biết được ông ta có xứng đáng "thu phục nhân tâm" hay là không.
Phía trước ông Trọng là gì ?
Chỉ còn hơn hai năm nữa sẽ đến đại hội 13 của đảng cầm quyền vào năm 2021, nếu còn có đại hội đó. Nguyễn Phú Trọng liệu có in đậm giấc mơ như "ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi" như Tập Cận Bình ?
Chỉ biết rằng vào giữa nhiệm kỳ của đại hội 12, đã chẳng thấy ông Trọng nào thoái lui khỏi cương vị tổng bí thư như điều được cho là cam kết của chính ông ta ngay trước khi đại hội 12 mở màn. Nếu quả đúng là đã có một cam kết bị nuốt lời như thế, còn giờ đây lại là bối cảnh mà Tổng Bí Thư Trọng được một số văn nhân cận thần vây quanh ca tụng ngút trời và thậm chí gợi ý về việc "thêm một nhiệm kỳ nữa," chẳng có gì bảo đảm là ông Trọng sẽ tự nguyện nhường lại ngôi vị tổng bí thư cho những Trần Đại Quang, Phạm Minh Chính, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Xuân Phúc… hay các quan chức thuộc hàng cháu chắt của ông ta tại đại hội 13.
Nhưng tương lai là thứ không thể đoán biết. Điều gì sẽ xảy ra nếu trong tương lai không xa, Tổng Bí Thư Trọng mệt mỏi cùng tuổi già không thể cưỡng trong cuộc chiến được xem là "chống tham nhũng" nhưng chẳng đi tới đâu của ông ta mà do đó bắt đầu tìm cách thoái lui khỏi cái ghế quyền lực, hoặc "im cho nó lành" trong cơn bể dâu chính trị nội bộ và những đối ngoại xáo xào chẳng biết đâu mà lường – như vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, hoặc chính quyền lực của ông Trọng sẽ bị lấn át một cách nguy hiểm bởi những thế lực mới nổi lên trong nội bộ đảng?
Trong khi tương lai trở thành "bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo" và "lưu danh sử xanh" của Nguyễn Phú Trọng vẫn còn quá mờ mịt, ông ta có thể bị hất đổ vào bất kỳ thời điểm nào ông bị đổ bệnh hoặc phải tạm thời rời bỏ quyền lực tối cao, để sau đó bị "hồi tố" – không chỉ bởi những đối thủ chính trị và các thế lực tham nhũng, mà còn có thể do chính những "người tâm phúc" và cận thần mà ông Trọng đã từng tin cậy như loại "cộng sản tốt tương đối" hoặc "có nhùng chàm nhưng đã gột rửa".
Hãy nhắc lại một bài học kinh điển: sau vụ chỉ đạo bắt cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng vào Tháng Mười Hai, 2017 và giáng hai bản án tổng cộng 31 năm tù giam đối với nhân vật này, Nguyễn Phú Trọng đã chính thức "leo lên lưng cọp," chính thức xóa bỏ tiền lệ ủy viên bộ chính trị không bị bắt giam và xử tù, và cũng chính thức vượt qua lằn ranh lo sợ "mình mà xử thằng này thì thằng khác sẽ xử mình".
Hiện tại và tương lai, ông Trọng dù có muốn cũng không còn nhảy khỏi lưng cọp được nữa.
Phía trước ông ta là cả một đại dương gầm thét.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 26/08/2018
Cựu Bộ trưởng nội vụ Slovakia Robert Kaliňák - một ‘nghi can’ và cũng là một dấu hỏi rất lớn dính líu vụ ‘vận chuyển Trịnh Xuân Thanh’ và vụ ‘Tô Lâm làm bình phong’, đã rất nhanh chuyển từ tư thế ‘không biết gì’ sang những dấu hiệu đặc biệt của hành vi ‘thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng’- nói theo từ ngữ pháp lý ở trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Trịnh Xuân Thanh được dẫn đến tòa án tại Hà Nội.
Bằng chứng ngày càng rõ
Thoibao.de - trang tin của cộng đồng người Việt ở Đức - dẫn từ nhật báo Dennik N của Slovakia cho biết Tòa án Đức vừa phát ra tin tức mới và nóng bỏng : Slovakia ngỏ ý cấp một chuyên cơ bay thẳng đến Hà Nội, nhưng phía Việt Nam không muốn.
Theo một báo cáo của cảnh sát Đức vào đầu năm 2018, Bộ trưởng Tô Lâm đã từ chối đề nghị của Slovakia vì "cách thức này cũng bao gồm việc vận chuyển về Việt Nam, nhưng nó sẽ phải được chuẩn bị nhiều hơn, cần khoảng 2 ngày để có được tất cả hộ chiếu giấy tờ cho việc quá cảnh một nước thứ ba".
"Theo thông tin từ các thẩm phán Đức, Bộ Nội vụ Slovakia đã cung cấp cho một phái đoàn Việt Nam chiếc chuyên cơ mà được dùng để chở phái đoàn cùng với nạn nhân bị bắt cóc đến Moscow. Slovakia cũng ngỏ ý cung cấp một chiếc chuyên cơ bay thẳng đến Hà Nội, nhưng phía Việt Nam không muốn", bà Lisa Jani - phát ngôn viên của tòa án Berlin - cho biết.
Như vậy, hệ thống bằng chứng về việc Chính phủ Slovakia đã cho đoàn quan chức của Bộ trưởng công an Tô Lâm mượn một chiếc chuyên cơ để từ sân bay Bratislava bay qua không phận Ba Lan và đáp xuống Moscow của Nga đang trở nên sáng hẳn, nếu so sánh với cái lắc đầu mù mịt của Thủ tướng Slovakia Peter Pellegrini và lời khẳng định của ông ta ‘Slovakia không liên quan gì đến vụ bắt cóc’ trước báo giới quốc tế, trong bối cảnh sau cuộc gặp với Thủ tướng Đức Angela Merkel tại Berlin vào đầu tháng Năm năm 2018.
Điều an ủi nhỏ nhoi cho chính phủ Slovakia và có thể cho cả Robert Kaliňák là theo tòa án Đức, có thể chính phủ Slovakia đã không biết gì về mục đích thật sự của chuyến bay là phục vụ cho vụ bắt cóc.
Hai tháng quyết định số phận Kaliňák
Đến lúc này, đã chắc chắn rằng cựu bộ trưởng nội vụ Kaliňák không còn giữ được tư thế bất khả xâm phạm, mà ông ta ít nhất sẽ bị cảnh sát Slovakia điều tra thẩm vấn về mối quan hệ cá nhân của Kaliňák với giới quan chức mật vụ Việt Nam ‘đặc biệt’ đến thế nào mà khiến ông ta lại nhiệt tình đến độ sẵn sàng cho nhóm Bộ trưởng công an Tô Lâm mượn chuyên cơ để bay thẳng từ Bratislava đến Hà Nội.
Tháng Tám năm 2018 vẫn chưa trôi hết. tháng Tám năm ngoái, ngay sau khi vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh bị phát hiện ở Đức, Bộ Ngoại giao Đức ra thông cáo báo chí phản ứng mạnh mẽ Việt Nam về vụ ‘luật rừng’ này, và trong hai tháng sau đó cảnh sát Đức đã khép kín toàn bộ quy trình điều tra vụ bắt cóc, để đến tháng Mười, Chính phủ Đức đột ngột tuyên bố tạm đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam - một đòn ngoại giao nặng nề và vượt khỏi trí tưởng tượng của giới chóp bu Hà Nội mà có thể đã làm cho những tác giả của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh phải liên tục uống thuốc ngủ.
Giờ đây, những thước phim của tháng Tám năm ngoái dường như đang được chiếu lại, nhưng trong khung cảnh đất nước Slovakia xinh đẹp. Chỉ chưa đầy 3 tuần sau loạt bài viết điều tra trên tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung của Đức và báo Dennik N của Slovakia về ‘Robert Kaliňák đã giúp Bộ trưởng công an Việt Nam Tô Lâm đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khu vực Schengen bằng chuyên cơ của chính phủ Slovakia’, chỉ sau 2 tuần từ thời điểm cả Tổng thống Andrej Kiska lẫn Thủ tướng Peter Pellegrini của Slovakia phải đồng loạt chỉ thị cảnh sát nước này gấp rút mở cuộc điều tra về vụ bắt cóc, chính trường Slovakia đã rơi vào khoảng im lặng đáng sợ trong bối cảnh cảnh sát âm thầm điều tra, còn Quốc hội Slovakia thì yêu cầu thời gian của cuộc điều tra này không được kéo dài quá 1 - 2 tháng để có thể chấm dứt những mầm mống khủng hoảng trong nội các chính phủ nước này.
Nghĩa là chậm nhất đến tháng Mười năm 2018, kết quả cuộc cuộc điều tra sẽ phải rõ trắng đen, hành vi và động cơ của cựu Bộ trưởng nội vụ Slovakia Robert Kaliňák sẽ phải được lôi ra ánh sáng, số phận của Kaliňák sẽ phải được quyết định.
Vào đầu tháng Tám năm 2018, Robert Kaliňák đã phản ứng lập tức và quyết liệt, cho rằng những bài viết điều tra trên tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung của Đức và báo Dennik N của Slovakia là ‘bịa đặt’. Tuy nhiên khi đó Kaliňák lại chẳng thể tự bảo vệ mình khi không chứng minh được báo chí bịa đặt về ông ta ra sao.
Trong khi đó, những tờ báo trên lại mô tả một cách chi tiết :
"Bộ trưởng Tô Lâm là người đầu tiên bước lên chiếc chuyên cơ của chính phủ Slovakia, tiếp theo là các thành viên của phái đoàn Việt Nam, tất cả 12 người. Trịnh Xuân Thanh là người cuối cùng được đưa lên máy bay, rõ ràng là ông ta bị thương, trông có vẻ đờ đẫn và được hai mật vụ Việt Nam xốc nách hai bên dìu đi…" (1).
Còn tới nay và sau khi cuộc điều ta của cảnh sát Slovakia đã chính thức vào guồng, người ta nhận ra Robert Kaliňák im bặt.
Những dấu hỏi mới
Giờ đây, có lẽ Kaliňák chỉ còn biết cầu nguyện là các cơ quan tư pháp và báo chí sẽ chỉ nhìn thấy ở ông ta hành vi ‘thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng’ chứ không phải ‘cố ý làm trái’, rằng ông ta quả thực chẳng biết biết gì về hình ảnh ‘Trịnh Xuân Thanh lảo đảo được hai mật vụ Việt Nam ‘dìu’ lên máy bay ở sân bay Bratislava’ vào cái ngày oan nghiệt 26 tháng Bảy năm 2017 ấy, và giữa ông ta với giới mật vụ Việt Nam thực ra không có mối quan hệ ‘đặc biệt’ nào.
Nhưng có lẽ không phải và không thể ngẫu nhiên, vào thời gian đầu tháng Tám năm 2018 khi Kaliňák bắt đầu bị báo chí đưa lên ‘bàn mổ’, trong giới facebook ở Việt Nam bỗng dưng xuất hiện thông tin, từ một nhà báo mà từ lâu được xem là nhạy tin nội bộ - về việc khi còn là bộ trưởng nội vụ Slovakia, Kaliňák đã được những quan chức Việt Nam nào đó mời sang nghỉ dưỡng tại đảo Phú Quốc ở Việt Nam, và Kaliňák đã ‘vui lòng nhận lời’.
Nếu sắp tới kết quả điều tra của cảnh sát Slovakia làm rõ về trách nhiệm dính líu của Kaliňák với những kẻ bắt cóc, ông ta thậm chí có thể bị bắt giữ về hành vi ‘tiếp tay cho bắt cóc’.
Nhưng lại đang phát sinh những dấu hỏi mới : vì sao theo tiết lộ của Tòa án Đức, đoàn mật vụ của Bộ trưởng công an Tô Lâm đã từ chối đề nghị nhiệt tình của Kaliňák cung cấp một chuyên cơ bay thẳng về Hà Nội, mà lại phải bay vòng qua Moscow rồi từ đó mới về Hà Nội ? Liệu lý do ‘phải mất hai ngày làm hộ chiếu’ của phái đoàn Tô Lâm nếu bay thẳng từ Bratislava về Hà Nội có phải là một giả thiết đứng vững ?
Trong thực tế, chuyến ‘vận chuyển Trịnh Xuân Thanh’ từ Moscow về Hà Nội đã hoàn toàn trót lọt mà không hề bị báo chí Nga phát hiện dù chỉ một kẽ tóc, để đúng vào ngày đầu của tháng Tám năm 2017, Trịnh Xuân Thanh bất ngờ hiện ra trước cửa trực ban của Bộ Công an để ‘tự nguyện về nước đầu thú’ (nhưng vẫn phải lãnh đến hai cái án chung thân sau đó).
Phải chăng ở Nga, Bộ Công an Việt Nam có mạng lưới tình báo dày đặc hơn và hiệu quả hơn, để cùng với những bóng đen lẩn khuất trong tòa đại sứ Việt Nam ở Moscow, đã chẳng có gì khó khăn và ‘không gì là không thể’ trong việc đạo diễn để Trịnh Xuân Thanh ‘hồi hương’ trong trạng thái tâm thần giống hệt hôn mê ?
Chẳng lẽ cảnh sát và an ninh Nga lại không biết được câu chuyện giống hệt những bộ phim gián điệp thời Chiến tranh lạnh ấy ? Hoặc nếu biết, thái độ và trách nhiệm của người Nga sẽ như thế nào trước đòi hỏi minh bạch hóa vụ bắt cóc của người Đức và Liên minh châu Âu ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 24/08/2018
(1) Thoibao.de dịch từhttp://bit.ly/2Kk7jh3)
*****************
Vụ Trịnh Xuân Thanh : Slovakia muốn cho Việt Nam mượn chuyên cơ bay thẳng về Việt Nam (RFA, 24/08/2018)
Liên quan đến vụ bắt cóc cựu quan chức dầu khí Trịnh Xuân Thanh, Slovakia đã ngỏ ý cho phái đoàn Việt Nam mượn một chiếc máy bay để bay thẳng về Hà Nội thay vì bay đến Moscow như lời đề nghị nhưng phía Việt Nam không muốn.
Trịnh Xuân Thanh (giữa) bị dẫn ra tòa ở Hà Nội hôm 22/1/2018 - AFP
Mạng báo Dennik N vào ngày 23 tháng 8 loan tin dẫn trả lời của Phát ngôn viên tòa thượng thẩm Đức, bà Lisa Jani, rằng theo kết quả điều tra của cảnh sát Đức thì có thể đoàn Việt Nam không muốn mượn chuyên cơ bay thẳng về Hà Nội là vì cách này sẽ tốn công chuẩn bị hơn, mất ít nhất 2 ngày để làm hộ chiếu giấy tờ cho việc quá cảnh ở một nước thứ 3.
Phát ngôn viên tòa án Đức cũng khẳng định bộ Nội vụ Slovakia đã cung cấp cho phái đoàn Việt Nam một chiếc máy bay đến Moscow và chiếc máy bay đó có chở ông Trịnh Xuân Thanh. Nhưng cũng theo tòa án Đức, có thể chính phủ Slovakia đã không biết mục đích thực sự của chuyến bay là để phục vụ cho một vụ bắt cóc.
Bộ Nội vụ Slovakia đã bác bỏ thông tin ngỏ ý cung cấp cho Việt Nam một chiếc máy bay đến Hà Nội, trong khi cựu bộ trưởng Nội vụ Slovakia ông Robert Kalinak, người được nói có dính líu đến vụ việc, đã từ chối trả lời về thông tin này.
Ông Trịnh Xuân Thanh từng là một quan chức dầu khí của Việt Nam, bị cáo buộc tham nhũng và chạy sang Đức xin quy chế tị nạn nhưng được nói đã bị mật vụ Việt Nam bắt cóc ngay tại Berlin. Sau đó ông Thanh bị đưa về thành phố Brno của Séc, rồi tiếp tục đưa đến Bratislava, thủ đô của Slovakia trên một chiếc xe do mật vụ Việt Nam thuê. Sau đó các nguồn tin nói rằng Việt Nam tiếp tục mượn máy bay của Slovakia để chở ông Thanh sang Moscow, trước khi đưa về Hà Nội.
Vào cuối tháng Chín năm 2018, ngay sau chuyến đi Trung Quốc của Thường trực Ban bí thư Trần Quốc Vượng gặp ‘Hoàng đế’ Tập Cận Bình mà chưa rõ mục đích, hoặc đang gây mối nghi ngờ về liệu có một mục đích thực chất nào hay không, giới chóp bu Việt Nam lại thu xếp một chuyến công du khác của Trần Đại Quang - Chủ tịch nước - đến hai vùng Bắc Phi và Trung Phi, nơi mà ông ta sẽ tiếp xúc với ‘đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam ở Châu Phi’ là Ai Cập, và nền kinh tế lớn nhất của Đông và Trung Phi là Ethiopia.
Ông Trần Đại Quang đi Phi Châu, Việt Nam đang muốn bắt chước Trung Quốc chăng ? Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Ai Cập El Sisi trong thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam – Ảnh : VOV
Cả Ai Cập và Ethiopia đều không có vị trí và vai trò địa - chính trị đáng kể nào với Việt Nam, cũng không nằm trong danh sách chẵn một tá ‘đối tác chiến lược’ hay các ‘đối tác chiến lược toàn diện’ với Việt Nam.
Do vậy, chuyến công du Châu Phi của Trần Đại Quang chỉ có thể mang ý nghĩa về kinh tế và thương mại chứ không có mục tiêu địa - chính trị như cách mà ông Quang đã đi Ấn Độ và Nhật Bản vào đầu năm 2018.
Quang và Trọng
Tháng Ba năm 2018, mặc dù bị xem là ‘có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe’, Trần Đại Quang vẫn thực hiện chuyến công du đến New Delhi và đã mang về cho chính thể độc đảng ở Việt Nam thêm một ‘quan hệ đối tác chiến lược’. Nhưng quan trọng hơn cả là vị thế địa chính trị của Ấn Độ: quốc gia này không những là một đồng minh quân sự của Hoa Kỳ mà còn từng cho Việt Nam vay ‘trả góp’ nửa tỷ USD viện trợ quân sự vào năm 2016. Trong trường hợp không thể mua được hoặc chỉ mua được một ít vũ khí và khí tài quân sự của Mỹ, Bộ Quốc phòng Việt Nam vẫn có thể tìm kiếm một số chủng loại vũ khí thuộc thế hệ mới từ Ấn Độ.
Cũng vào tháng Ba năm 2018, nhân vật đầu Đảng cộng sản Việt Nam là Nguyễn Phú Trọng đã rốt ráo tìm kiếm và tiến hành chuyến công du đến Pháp. Nhưng dù đã phải chỉ đạo cho Bộ Ngoại giao Việt Nam bỏ đến hơn 4 tỷ đồng tiền thuế của dân để đăng một bài viết lê thê của Tổng bí thư Trọng về ‘triển vọng quan hệ Việt - Pháp’ trên trang quảng cáo của nhật báo Le Monde của Pháp, ông Trọng vẫn không nhận được hứa hẹn nào từ Tổng thống Pháp Emmanuel Macron về khả năng Pháp sẽ vận động Nghị viện Châu Âu sớm thông qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu (EVFTA). Như vậy, Nguyễn Phú Trọng đã thất thế một điểm đối ngoại trước Trần Đại Quang vào đầu năm 2018.
Ngay sau chuyến đi Ấn Độ, Trần Đại Quang còn đi Nhật vào cuối tháng Năm năm 2018. Dù được chào đón bằng 21 phát đại bác và được đón tiếp với nghi lễ dành cho nguyên thủ quốc gia, đã được đón tiếp bởi Nhà vua Akihito và Hoàng hậu, đã hội kiến với Chủ tịch Thượng viện Chuichi Date và với Thủ tướng Abe, nhưng chuyến công du của Trần Đại Quang đến Nhật Bản chỉ đạt được một kết quả nhỏ nhoi về ‘xin viện trợ’: phía Nhật cung cấp thêm khoản viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam trị giá 16 tỉ yên, tương đương 142 triệu USD, cho dự án nâng cao năng lực đào tạo nghề.
Con số 16 tỷ yên trên chỉ bằng 10% số 160 tỷ yên mà Nhật Bản hỗ trợ ODA cho Việt Nam hàng năm, trong 5 tính theo năm tài chính Nhật Bản 2012-2016, trung bình mỗi năm. Cách nào đó, kết quả của chuyến công du ‘xin tiền’ này khó mà làm cho ngân sách toang hoác chờ chực vỡ nợ của chính thể Việt Nam được hài lòng.
Từ sau chuyến đi Pháp đến nay, Nguyễn Phú Trọng chưa đi nơi nào khác mà ngồi nhà để ‘đốt lò’. Còn Trần Đại Quang rất có thể đang mang trên mình sứ mạng ‘mở rộng thị trường Phi châu’.
Việt Nam muốn học bài Trung Quốc ?
Tuy được xem là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam tại Châu Phi, nhưng kim ngạch thương mại song phương năm 2016 giữa Ai Cập và Việt Nam chỉ đạt 316 triệu USD, không là gì so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Việt Nam khoảng hơn 400 tỷ USD.
Còn trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Ethiopia còn èo uột hơn nhiều so với Ai Cập.
Trong khi đó theo Nhật báo Le Monde, Ethiopia là ‘biểu tượng đầu tư của Trung Quốc ở Châu Phi’. Le Monde đã từng có bài phóng sự về sự hiện diện khắp nơi của Trung Quốc tại Châu Phi, trong đó Ethiopia là biểu tượng đặc trưng của làn sóng đầu tư ồ ạt, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.
Thị trường Ethiopia tràn ngập hàng Trung Quốc, từ quần áo đến đồ gia dụng bằng nhựa hoặc thiết bị điện tử và máy móc… Nhiều nhà sản xuất Trung Quốc đau đầu vì khối lượng hàng hóa dư thừa, giá bán rẻ, bỗng tìm được đầu ra mới ở quốc gia Châu Phi này.
Bắc Kinh được lợi rất nhiều trong chiến lược hợp tác thương mại "mất cân đối" này. Năm 2016, Ethiopia có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 88,7 triệu USD, nhưng giá trị nhập khẩu lên đến 3,21 tỷ USD, chủ yếu phục vụ các dự án hạ tầng do Eximbank tài trợ, tiếp theo là dệt may, thuộc da hoặc dược phẩm.
Việt Nam đang muốn bắt chước Trung Quốc chăng?
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Từ nhiều năm qua, Trung Quốc đã trở thành thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỉ trọng khoảng 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Hàng năm, Việt Nam nhập siêu chính ngạch lên đến 20 - 30 tỷ USD, chưa kể phần tiểu ngạch khoảng 20 tỷ USD nữa, tổng cộng đến 40 - 50 tỷ USD nhập siêu từ Trung Quốc.
Vì sao Trần Đại Quang phải đi Phi châu ?
Hiện tượng giới chóp bu Việt Nam phải thay nhau xuất ngoại để mở mang thị trường xuất khẩu từ năm 2017 đến nay lại nằm trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump giương cao ngọn cờ ‘công bằng và đối ứng’ - một đòn thương mại liệt Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia ‘gây hại cho kinh tế Mỹ’ và đang đòi hỏi các Bộ Thương mại và Bộ Tài chính Mỹ phải thực thi những biện pháp quyết liệt về hàng rào thuế quan thương mại đối với hàng Việt Nam.
Vào năm 2017, Việt Nam xuất sang Mỹ lượng hàng hóa tổng giá trị 41,6 tỷ USD nhưng chỉ nhập khẩu có 9,2 tỷ USD, nâng mức thặng dư thương mại lên con số 32,4 tỷ USD với Mỹ, gấp đến 160 lần so với giá trị xuất siêu chỉ 200 triệu USD vào năm 2001 - thời điểm mà Việt Nam mới ký với Mỹ Hiệp định thương mại song phương (BTA) đầu tiên.
Nhưng Trump đang rất có thể sẽ ‘san bằng thâm hụt thương mại’, tức sẽ buộc Việt Nam phải hạ mức thâm hụt thương mại xuống mức dưới 8 tỷ USD/năm. Theo đó Việt Nam phải tự cắt giảm mức thâm hụt thương mại trong thời gian tới, có thể bắt đầu ngay trong năm 2018 này và sẽ phải giảm mạnh trong năm 2019, bi kịch xuất khẩu sẽ kéo theo bi kịch kinh tế và cũng là bi kịch ngân sách, càng khiến rệu rã chân đứng của chế độ chính trị ở Việt Nam.
Từ năm 2017 đến giữa năm 2018 đã mở đầu bằng hàng loạt "điềm xấu" dành cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ : Bộ Thương mại Mỹ nâng tỷ lệ thuế đánh vào hai mặt hàng thép và tôm Việt Nam lần lượt là 53% và hơn 25%. Cộng hưởng với việc bị Liên minh Châu Âu "rút thẻ vàng" đối với hàng hải sản Việt Nam và đang lấp ló "thẻ đỏ", kim ngạch xuất khẩu của hải sản Việt Nam vào hai thị trường EU và Mỹ trong năm 2018 chắc chắn sẽ bị giảm sút phần nào, nếu không muốn nói là giảm đáng kể so với doanh số năm 2017.
Còn nhớ vào đầu năm 2017 sau khi TPP gần như tan vỡ, Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã có một phát ngôn ấn tượng : "triển vọng phát triển còn tốt lắm".
Nhưng làm thế nào để "đất nước đi tới không gì cản nổi" - như một thể loại "tự sướng" từng ra rả vào thời chiến tranh, trong lúc tình hình các FTA (hiệp định thương mại tự do) của Việt Nam với đa số các nước vẫn rơi vào tình thế bất lợi ?
Cho dù Việt Nam vẫn luôn quảng cáo rằng chính thể này có đến 16 FTA, nhưng hiện trạng các FTA vẫn ngổn ngang, nhưng chỉ có hai FTA của Việt Nam với Mỹ và Châu Âu là còn xuất siêu được - lần lượt là hơn 30 tỷ USD và 25 tỷ USD mỗi năm. Còn thặng dư xuất siêu với Nhật bằng 0, trong khi ngay cả Hàn Quốc, tưởng là "dễ ăn", nhưng Việt Nam lại phải nhập siêu đến 20 tỷ USD vào năm 2016 và gần 25 tỷ USD vào năm 2017.
Hiện tượng giới chóp bu Việt Nam phải đi tìm kiếm thị trường ở Ai Cập và Ethiopia - những quốc gia có giá trị song phương thương mại với Việt Nam rất nhỏ nhoi - cho thấy hàng xuất khẩu Việt Nam ra thế giới đang ngày càng bế tắc.
Trong khi đó, EVFTA vẫn chưa đâu vào đâu. Sau khi đạt ‘thành tích’ kết thúc giai đoạn rà soát pháp lý kéo dài đến hơn 2 năm thay vì thông thường chỉ mất 6 tháng, hiệp định này vẫn còn phải chờ đợi Ủy ban Châu Âu và Nghị viện Châu Âu ký kết và thông qua.
Nhưng từ sau vụ mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức vào tháng Bảy năm 2017, Liên minh Châu Âu đã thực sự ‘mở mắt’ trước một Việt Nam nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ‘vô số luật nhưng chỉ dùng Luật Rừng’. Trong bối cảnh cơn khủng hoảng ngoại giao Đức - Việt đã lan sang Slovakia và cả một phần khối Châu Âu, muốn EVFTA được ký kết và thông qua, Việt Nam không còn cách nào khác là phải cải thiện nhân quyền, nếu không muốn nói phải cải cách thể chế chính trị.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 24/08/2018
Bắt đầu từ đầu tháng Tám năm 2018, chính trường Đảng cộng sản Việt Nam bất thần rộ lên một cuộc chiến mới trên mạng xã hội về đơn thư tố cáo nội bộ.
Ông Phúc được đề cập trong cú khai hỏa mới nhất gần đây.
Những quan chức nào bị ‘điểm danh’ ?
Một lần nữa sau hai lần nửa cuối năm 2015 và nửa đầu năm 2017, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lại được những tác giả vừa khuyết danh vừa nặc danh nhắc tới với vụ việc cũ ‘Sai phạm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gây thất thu thuế hàng nghìn tỉ ở dự án Ciputra như thế nào ?’, nhưng tô điểm thêm bằng một vụ việc có vẻ mới hơn : ‘Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã giúp tập đoàn Vinaconex cướp hàng nghìn tỉ đồng như thế nào ?’, với một số đánh giá chưa rõ cơ sở.
Trong khi đó, một vài facebooker mang dáng dấp thủ cựu ý thức hệ đã tung bài ‘Có hay không ông Trần Đại Quang chạy tuổi từ trung tướng công an nghỉ hưu để chui sâu, trèo cao đến chủ tịch nước ?’, kèm hình ảnh những tư liệu được xem là ‘giả mạo tuổi’ mà vào nửa cuối năm 2015 đã được tung lên mạng xã hội, sau đó được một số trang mạng xã hội đề cập lại vào năm 2017, dù cho tới nay vẫn chưa được kiểm chứng về tính xác thực của thông tin này.
Tuy nhiên, cú khai hỏa mới nhất và độc đáo nhất được mạng xã hội đề cập là một bức thư của một người được cho là nhà giáo Nguyễn Cảnh Bình từ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tố cáo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về nhiều vấn đề, trong đó nổi cộm là chuyện ông Phúc để cho một số cấp dưới, đại gia và người thân trong gia đình ông Phúc thao túng chính trường và trục lợi cá nhân, đồng thời đang tổ chức một chiến dịch vừa chạy đua vừa tranh giành chức vụ tổng bí thư tại Đại hội 13 vào năm 2021, với ‘liên danh’ Nguyễn Xuân Phúc - Trương Hòa Bình - Nguyễn Văn Bình để đối chọi với một ‘trục’ khác là Trần Quốc Vượng - Vương Đình Huệ…
Cho tới nay người ta vẫn chưa thấy ông Nguyễn Cảnh Bình lên tiếng phản bác về bức thư trên hay tố cáo kẻ nào đó đã mạo danh ông. Sự im lặng như thể công nhận ấy càng khiến dư luận tin rằng bức thư trên, tuy chưa biết những nội dung của nó đáng tin cậy đến đâu, nhưng có vẻ xuất phát từ ‘người thực việc thực’.
Những ‘kinh nghiệm’ thời tiền Đại hội 12
Có một điểm tương đồng giữa hiện tượng thư tố cáo của nhà giáo Nguyễn Cảnh Bình từ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào năm 2018 với hiện tượng 3 giáo sư cũng của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tố cáo thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng và gia đình ông ta vào nửa cuối năm 2015, tức trước khi Đại hội 12 của đảng cầm quyền mở màn 3 tháng. Ba giáo sư ký tên vào thư tố cáo rất đặc biệt này và có thể mang tính quyết định sau đó là giáo sư Lưu văn Sùng, giáo sư Đỗ Thế Tùng và giáo sư Nguyễn Đình Kháng. Từ sau thư tố cáo đó cho đến nay, tuyệt nhiên không thấy 3 vị giáo sư này lên tiếng phủ nhận về bức thư và chữ ký của họ.
Điều có vẻ lạ lùng là không bao lâu sau thư tố cáo trên, mạng xã hội đã đăng tải một bức thư dài đến 9 trang A4 của người được cho là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giải trình cho Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ủy ban Kiểm tra trung ương và Bộ Chính trị về 12 vấn đề, trong đó có khá nhiều vấn đề được ‘gợi ý’ một cách chi tiết bởi bức thư tố cáo của 3 vị giáo sư của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Dù nhiều dư luận đánh giá độ tin cậy của bức thư giải trình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là cao chứ đó không phải là thư giả, nhưng cho đến nay vẫn không có bất kỳ một xác nhận nào của ông Dũng, của Văn phòng trung trung ương đảng hay của Văn phòng chính phủ về tính xác thực của bức thư này.
Đại hội 12 không chỉ là Đại hội điển hình về đấu đá nhân sự mà còn là Đại hội nổi bật của dạng thông tin không chính thống. Từ sau Hội nghị trung ương 13 vào tháng 10/2015, hàng loạt đơn thư tố cáo lẫn nhau của hai phe đảng và chính phủ đã được dồn dập tung lên mạng xã hội, cậy nhờ một số trang mạng xã hội có lượng truy cập khá như Ba Sàm, Dân Luận, Tin Tức Hàng Ngày… đăng tải, chứ tuyệt nhiên không có lấy một dòng đơn thư này trên báo chí nhà nước.
Trong thời gian diễn ra Hội nghị trung ương 14 vào tháng 12/2015, cũng như thời gian diễn ra Đại hội 12 vào tháng Giêng năm 2016, nhiều bài viết chứa đựng tin tức cập nhật và bình luận của hai phe đảng và chính phủ cũng liên tiếp được tung lên mạng. Nhờ đó, lần đầu tiên dư luận trong nước và hải ngoại cùng giới quan sát quốc tế được chứng kiến một Đại hội "dân chủ" theo cách tung tóe đến như thế.
Cũng trước Đại hội 12, hàng loạt thư và bài viết tố cáo nội bộ được tung lên mạng xã hội. Rất nhiều thông tin được cho là thâm cung bí sử về các nhân vật trong bộ chính trị hiện lên ngồn ngộn. Thậm chí, còn có cả những tài liệu mà chỉ có các cơ quan an ninh, tình báo và bảo vệ chính trị nội bộ sở hữu, là tài liệu mà các cơ quan này thường gọi là "Phủ đặc ủy trung ương tình báo ngụy" cũng công khai xuất hiện…
Tình hình trên khiến người ta nhớ lại trang mạng Chân Dung Quyền Lực gây sóng gió vào cuối năm 2014, đầu năm 2015. Trang mạng này đã lộ ra tên tuổi của nhiều ủy viên bộ chính trị cùng quá nhiều chi tiết về tài sản và "quan hệ"…
Chân Dung Quyền Lực lại là địa chỉ được xem là lộ diện tấn công Nguyễn Xuân Phúc dữ dằn nhất về tài sản cá nhân ở trong ngoài nước vào khoảng nửa năm trước Đại hội 12. Tuy nhiên từ đó đến nay, người ta không còn thấy trang Chân Dung Quyền Lực tiếp tục đăng bài, dù trang này vẫn được truy cập không mấy khó khăn.
Đất mới, người mới, phe phái mới
Đến tháng Ba năm 2017 và trùng với chiến dịch ‘chống tham nhũng’ của Tổng bí thư Trọng và Ủy ban kiểm tra trung ương được âm thầm hướng vào một ủy viên bộ chính trị là Đinh La Thăng, trong khi ở thủ phủ miền Trung là Đà Nẵng bùng nổ cuộc chiến giữa hai quan chức cấp cao là Bí thư Nguyễn Xuân Anh và Chủ tịch thành phố Huỳnh Đức Thơ, và đặc biệt vào lúc có thông tin Hội nghị trung ương 5 của đảng cầm quyền sắp diễn ra và có thể ‘thanh trừng nhân sự’, một lần nữa đã hiện ra vài thư tố cáo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, cho rằng ông Phúc chỉ đạo đập bỏ tòa nhà văn phòng chính phủ do mê tín dị đoan, hay trưng ra văn bản ông Phúc từng chỉ đạo cho Formosa thuê đất 70 năm sai pháp luật…
Đó cũng là bối cảnh mà ngay sau khi Nguyễn Tấn Dũng mất chức thủ tướng vào tháng Giêng năm 2016, đã rậm rịch đồn đoán về một chiến dịch từ tranh giành đến thâu tóm doanh nghiệp và thị phần kinh doanh, xuất phát từ những nhóm lợi ích liên quan mật thiết đến những nhóm quyền lực mới. Lãnh địa của tay chân của Nguyễn Tấn Dũng lại được coi là vô cùng lớn và vô cùng màu mỡ, bao gồm nhiều ngành nghề trải rộng ở nhiều tỉnh thành, đặc biệt là khối tài chính và ngân hàng mà đã có đủ thời gian phát triển thành một thế lực tài phiệt. Chúng có quyền năng chi phối, can thiệp đáng kể vào không chỉ các chỉ số kinh tế quốc gia, mà còn vào cả thế lên xuống chính trường Việt Nam.
Một cách đương nhiên, những lãnh địa đó là nơi hội tụ mọi con mắt thèm thuồng của những kẻ muốn thâu tóm, trong bối cảnh đất nước đang gần như cạn kiệt các nguồn tài nguyên.
Một điểm khác biệt lớn trong nội dung đơn thư tố cáo nội bộ xuất hiện trên mạng xã hội vào nửa cuối năm 2018 với nửa cuối năm 2015 là ‘Lộ diện 2 phe tranh giành dữ dội nhằm nắm giữ những vị trí chủ chốt của đất nước nhiệm kỳ tới’, trong đó cái tên Nguyễn Tấn Dũng đã không còn được nhắc đến nhiều, thay vào đó là những cái tên khác như Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang, Trương Hòa Bình, Trần Quốc Vượng, Vương Đình Huệ, Nguyễn Văn Bình… - được cho là những ứng cử viên tương lai cho các chức vụ tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch nước và chủ tịch quốc hội, kể cả Nguyễn Phú Trọng về không chỉ tương lai không rõ ràng về chuyện ‘ngồi tiếp hay về’ mà ngay trước mắt là công cuộc ‘đốt lò’ của ông ta.
‘Ba dòng thác cách mạng’
Mùa Hè năm 2015 với bầu không khí "toàn đảng, toàn quân, toàn dân lập thành tích chào mừng Đại hội 12" đang có bề tái hiện vào mùa Hè năm 2018, cũng được khởi đầu bằng làn sóng thư tố cáo nội bộ trên mạng xã hội và có thể dẫn tới những biến động lớn về nhân sự - một cách rất hữu hình, tương tàn và triệt buộc chứ không còn là mạng ảo nữa.
Một lần nữa kể từ năm 2012 khi bắt đầu được các thế lực nội bộ lợi dụng triệt để cho tới nay, mạng xã hội được ‘tôn vinh’ và trở thành một thứ công cụ không thể thiếu theo cách mà Nguyễn Tấn Dũng từng thốt lên vào nửa cuối năm 2015 ‘Không thể cấm được facebook đâu các đồng chí à !’.
Mùa hè năm 2018 lại có thể là sự khởi đầu cho công cuộc tranh giành và tiến chiếm trận địa Đại hội 13 - sẽ kéo dài đầy kịch tính, sắc máu và ‘không khoan hồng’ trong suốt hai năm 2019 và 2020.
2018 cũng là năm có nhiều dấu hiệu hội tụ ‘ba dòng thác cách mạng’ : đảng tố nhau về tài sản, ‘chính trị nội bộ’ và sai phạm điều hành ; quốc tế tố chính thể Việt Nam về tội bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và vi phạm nhân quyền ; dân tố chính quyền và đảng về đủ thứ chuyện.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 22/08/2018
Khác với thái độ kênh kiệu cường quyền trước đây, dường như trong nội bộ giới chóp bu và công an trị Việt Nam từ cuối tháng Bảy năm 2018 đến nay đã diễn biến một cuộc đấu tranh tư tưởng 50/50 : Thả hay không thả Trần Huỳnh Duy Thức ?
Ông Trần Huỳnh Duy Thức.
Vì sao công an thúc ép ‘nhận tội’ ?
Trần Huỳnh Duy Thức được nhiều người biết như một nhà đấu tranh dân chủ kiên cường, đã ở tù cộng sản được 9 năm trong cái án tù giam khủng khiếp 16 năm mà chế độ không hề chấp nhận đa nguyên đa đảng đã dành cho anh với lý cớ ‘lật đổ chính quyền’.
"Có đặc xá anh cũng không chấp nhận bởi vì đơn giản anh không có tội. Anh không bao giờ chấp nhận đặc xá, không bao giờ. Không chờ đợi hay xin xỏ gì hết. Ở hết án, rục xương cũng được, nhưng dứt khoát không cần đặc xá" - Trần Huỳnh Duy Thức nói với vợ anh và người em là Trần Huỳnh Duy Tân trong lần gia đình thăm gặp anh gần đây nhất ở nhà tù Nghệ An, được nhà hoạt động nhân quyền Lê Công Định thông tin cho cộng đồng mạng.
Một lần nữa trong nhiều lần, gia đình Trần Huỳnh Duy Thức chứng kiến anh rất mệt và yếu do đã tuyệt thực 5 ngày, kể từ 14/8/2018. Lý do tuyệt thực là phía an ninh đang muốn gây áp lực buộc anh Thức nhận tội để được đặc xá.
Chỉ còn ít hôm nữa là đến ngày 2/9 - quốc khánh Việt Nam…
Vì sao công an lại cố ép Trần Huỳnh Duy Thức ‘nhận tội’ để được đặc xá, khi vào đầu tháng Tám năm 2018 Tổng cục 8 (Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp) của Bộ Công an đã có văn bản trả lời luật sư Ngô Ngọc Trai - người thường xuyên lên tiếng đề nghị chính quyền đặc xá và trả tự do cho Thức : "Hiện nay Nhà nước ta chưa có chủ trương đặc xá năm 2018 nên không có căn cứ để xem xét, đề nghị đặc xá cho phạm nhân Trần Huỳnh Duy Thức" ?
Và vì sao công an vẫn cố ép Trần Huỳnh Duy Thức ‘nhận tội’ khi họ thừa biết Thức ngoan cường đến thế nào khi từ nhiều năm qua đã không những không chịu nhận tội mà còn từ chối mọi đề nghị của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu để đi tị nạn chính trị ở nước ngoài ?
Kinh nghiệm bị ‘tống xuất’
Theo kinh nghiệm của những tù nhân lương tâm đã bị chính quyền Việt Nam tống xuất ra nước ngoài như blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải (năm 2014), blogger Tạ Phong Tần (năm 2015) và gần đây nhất vào tháng Sáu năm 2018 là luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài, nhà cầm quyền Việt Nam rất thường mang những nhà hoạt động nhân quyền đang phải thụ án tù giam lâu năm ra để mặc cả và đổi chác với Mỹ và cả Đức sau này lấy những lợi ích về thương mại và viện trợ (Hiệp định Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu (EVFTA)). Cứ vài ba tháng, những quan chức an ninh của Bộ Công an lại vào trại giam ‘thăm’ tù chính trị và gợi ý để họ chấp nhận nhận tội và được đi nước ngoài dưới dạng ‘chữa bệnh’.
Thậm chí một chính quyền được xem là ‘chính danh’ ở Việt Nam rốt cuộc đã chẳng cần quan tâm đến việc đối tượng tù nhân dùng để mặc cả thương mại không chịu nhận tội và cũng chẳng chịu đi tị nạn chính trị ở nước ngoài, mà thi hành luôn chế độ cưỡng bức họ phải đi.
Vậy là vào một đêm tối trời tháng Mười năm 2014, tù nhân lương tâm Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bất thần bị công an dựng dậy ở nhà tù Nghệ An, với hành trang chỉ là đôi dép tổ ong mòn vẹt nổi tiếng của các trại tù Việt Nam, bị áp giải tới sân bay quốc tế Nội Bài và bị tống xuất thẳng sang Hoa Kỳ.
Và một đêm 7 tháng Sáu năm 2018, tù nhân lương tâm được cộng đồng quốc tế và các tổ chức nhân quyền đặc biệt quan tâm là luật sư Nguyễn Văn Đài, cùng nữ cộng sự của ông là Lê Thị Thu Hà, cũng đã bị nhà cầm quyền và công an Việt Nam tống xuất ra nước ngoài, nhưng không phải đi Mỹ mà là đi Đức.
Tuy nhiên vào tháng Sáu trên đã không có tin tức gì về Trần Huỳnh Duy Thức được đặc xá, dù luật sư Ngô Ngọc Trai đã lập hồ sơ đề nghị đặc xác cho Trần Huỳnh Duy Thức gửi hầu hết cơ quan chính quyền từ sau tết nguyên đán năm 2018.
Mãi đến gần đây, sau một số lần gửi thư đề nghị và yêu cầu được hồi âm, luật sư Trai mới nhận được văn bản trả lời của Viện kiểm sát tối cao, Văn phòng Chính phủ và gần đây nhất là Bộ Công an - tất cả đều ‘nhà nước ta chưa có chủ trương đặc xá…’.
Tuy trả lời theo cách trên, nhưng một nghi ngờ không thể bỏ qua là thái độ nằng nặc của an ninh Việt Nam ép Trần Huỳnh Duy Thức phải nhận tội, như thể phía công an đang phải tiến hành một động tác cấp bách, chịu sức ép về thời gian và nhắm tới một mục đích ẩn giấu nào đó.
Mục đích đó, nếu có, là cái gì ?
Lại ‘đổi nhân quyền lấy thương mại’
Nếu liên tưởng với trường hợp bị tống xuất gần đây nhất là Nguyễn Văn Đài, chẳng khó để nhận ra là một lần nữa từ sau hai năm 2013 và 2014 dùng chiến thuật ‘đổi tù nhân chính trị lấy TPP’, vào năm 2018 này giới chóp bu Việt Nam lại mang cái kho đầy ắp người bất đồng chính kiến bị tống giam ra đổi chác EVFTA.
Trong khoảng thời gian này, lợi ích và cũng là hy vọng tiền bạc duy nhất của chính thể Việt Nam là EVFTA, ngoài ra không có gì khác.
Vào đầu tháng Sáu năm 2018, chính tờ Nhật báo Frankfurt Phổ thông (Frankfurter Allgemeine Zeitung - FAZ) của Đức đã tiết lộ cái chiến thuật trên của chính thể độc đảng Việt Nam : Trịnh Xuân Thanh - người bị mật vụ Việt Nam bắt cóc tại Berlin vào tháng Bảy năm 2017 - sẽ được trả tự do "trong thời gian tới đây". Dựa trên nhiều nguồn tin, tờ nhật báo này nói rằng chính phủ Hà Hội đã cam kết với nước Đức sẽ cho phép Trịnh Xuân Thanh xuất cảnh sang nước Cộng Hòa Liên bang Đức sau khi vụ xét xử một người giúp đỡ bắt cóc ở Berlin đi đến kết thúc. Cũng theo thông tin của nhật báo này, một phần của sự nhượng bộ từ phía Việt Nam cũng là việc trả tự do cho luật sư Nguyễn Văn Đài. Với những vụ trả tự do như thế, Hà Nội hy vọng sẽ cải thiện được quan hệ kinh tế với nước Đức và EU, báo FAZ tường thuật. Đại diện EU cũng nói với Hà Nội rằng việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam vào đầu năm 2019 sẽ phụ thuộc vào sự chấp thuận của Đức trong Hội đồng Châu Âu. Thuộc vào trong số những nhượng bộ về ngoại giao của Việt Nam cũng là việc cải thiện những điều kiện giam giữ cho các tù nhân chính trị khác…
Đến gần cuối tháng Bảy năm 2018, tình cảnh xảy đến với những kẻ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh còn khốn khó hơn nhiều : phiên tòa của Tòa Thượng thẩm Berlin xử Nguyễn Hải Long - một nghi can tham gia vào đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh - đã dẫn đến kết quả Nguyễn Hải Long ‘khai sạch’ để được hưởng mức án khoan hồng chỉ có 3 năm 10 tháng tù giam thay vì gấp đôi nếu không chịu nhận tội làm gián điệp và bắc cóc.
Sang đầu tháng Tám năm 2018, cơn địa chấn mang tên ‘Trịnh Xuân Thanh’ đã chính thức lan sang Slovakia và cả một phần Châu Âu theo cách Bộ trưởng công an Việt nam là Tô Lâm bị nghi ngờ trầm trọng về việc ông ta đã làm ‘bình phong’ để mượn một chiếc máy bay của chính phủ Slovakia nhằm ‘vận chuyển’ Trịnh Xuân Thanh từ sân bay Bratislava đến thủ đô Moscow của Cộng hòa liên bang Nga.
Cơn địa chấn trên đang khiến tương lai EVFTA bong bóng hơn bao giờ hết.
Kịch bản nào với Trần Huỳnh Duy Thức ?
Cũng vào thời gian sôi sục trên, một nhóm nhà ngoại giao của Đức và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam đã vào nhà tù thăm Trần Huỳnh Duy Thức. Một lần nữa Trần Huỳnh Duy Thức khẳng khái trả lời ‘không tị nạn chính trị’.
Còn sắp tới đây, liệu kịch bản nào sẽ xảy ra với Trần Huỳnh Duy Thức ?
Trong nhiều ‘đặc thù xã hội chủ nghĩa’ ở Việt Nam, hành động công an gấp rút thúc ép tù chính trị phải ‘nhận tội’ khá thường là một tín hiệu báo trước sự thay đổi số phận của người tù.
Thông thường, sự thúc ép nhận tội từ phía cơ quan công an và tư pháp chỉ xảy ra trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, chứ không phải khi bị cáo đã trở thành tù nhân.
Năm 2018, này, Trần Huỳnh Duy Thức đã thụ án đến 9 năm - quá lâu để công an ép ‘nhận tội’, nếu không phải nhằm mục đích cầu may một lời thú tội để nếu có miễn cưỡng phải đặc xá cho Trần Huỳnh Duy Thức thì ‘nhà nước ta’ cũng không đến nỗi quá bỉ mặt.
Không chịu ‘nhận tội’, số phận của Trần Huỳnh Duy Thức sẽ không được ‘đặc xá’ và vẫn phải tiếp tục thụ án nốt 7 năm còn lại ?
Hay Trần Huỳnh Duy Thức sẽ bị lặp lại kịch bản đã xảy ra với Điếu Cày Nguyễn Văn Hải - cưỡng bức đưa lên máy bay để tống xuất ra nước ngoài vào một đêm tối trời nào đó ?
Chỉ còn ít hôm nữa là đến ngày 2/9. Hy vọng cho kịch bản Trần Huỳnh Duy Thức nhận ‘đặc xá’ theo điều kiện ‘yêu cầu đối ngoại của nhà nước Việt Nam’ trong Luật Đặc xá, được trả tự do và được ở lại Việt Nam mà không bị tống xuất ra nước ngoài và để những người dân Việt được ôm chầm lấy anh, có lẽ thật mỏng manh.
Nhưng vẫn là hy vọng…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 22/08/2018
2018 rất có thể là năm chứng kiến sự sụt giảm thảm thiết nhất của nguồn vốn ODA (viện trợ phát triển chính thức) vào Việt Nam, bổ túc một dấu ấn cho năm ‘thắng lợi kinh tế chưa từng có’ theo lối tuyên truyền không còn biết trời cao đất dày của chính thể độc đảng này, chìm nghỉm trong bức tranh tổng thể mang gam màu xám ngoét - được đặc tả bởi sự phối ngẫu của ba thành phần ‘binh chủng hợp thành’ : nợ công - nợ xấu - ngân sách.
Đồng hồ nợ công của tạp chí The Economist nêu con số nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là hơn 94 tỉ USD. (Hình : Trích từ website của The Economist)
Đến lúc này, người ta đã có thể hiểu vì sao giới quan chức cao cấp Việt Nam đã tận dụng các sự kiện hội thảo quốc tế, các cuộc gặp song phương ở Hà Nội lẫn các chuyến công du nước ngoài để phát ngôn ‘xin tiền’ không biết mệt mỏi.
Chỉ bằng 1/7 !
Tròn một năm sau thời điểm Việt Nam chính thức không còn nhận được ưu ái trong kênh vay ODA từ các tổ chức tín dụng quốc tế, một bản báo cáo của Bộ Tài chính vào tháng Bảy năm 2018 cho biết lũy kế 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã ký kết được 4 hiệp định với vay ODA với tổng trị giá 193,2 triệu USD.
Báo cáo trên cũng phải thừa nhận rằng ước tính giải ngân nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi chỉ bằng 21% kế hoạch và thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị ký kết ODA của nửa đầu năm 2018 trong báo cáo trên cho thấy trong nguyên năm 2018, Việt Nam chỉ có thể đạt được giá trị ký kết ODA khoảng 400 - 500 triệu USD, tức chỉ bằng khoảng 1/7 giá trị ký kết bình quân 3,5 tỷ USD/năm của giai đoạn 1993 - 2014 (tổng vốn đã ký kết của giai đoạn này là 73,68 tỷ USD).
1993 là thời điểm mà Việt Nam đã mở cửa kinh tế được vài năm và bắt đầu được nhận nguồn vốn ODA ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn của một số chính phủ Thụy Điển, Đan Mạch, Nhật Bản… và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB)…
Sau năm 2015 là thời điểm mà quan hệ Việt - Mỹ được bình thường hóa hoàn toàn, dòng chảy ODA vào Việt Nam đã từ suối biến thành sông, mở ra một thời kỳ ‘tiền vào như nước sông Đà’ và cũng biến hóa thành thời hoàng kim của giới quan chức Việt ‘ăn không chừa thứ gì’ đối với tiền ODA được xem là ‘lộc trời’.
Nhưng sau hai chục năm nhận ‘lộc trời’, ODA đã trở thành một trong những bi kịch ‘vĩ đại’ nhất của chính thể Việt Nam.
Bi kịch đến nỗi mà vào một buổi sáng mùa thu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã phải "đề nghị Ngân hàng thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay" - cử chỉ xin tiền đầu tiên và hình như không còn quá nặng về lòng tự trọng kể từ ngày quan chức này phải lãnh trách nhiệm ‘đổ vỏ’ cho đời thủ tướng trước bị xem là ‘phá chưa từng có’ là Nguyễn Tấn Dũng…
Vào cuối tháng Sáu năm 2018, cuộc gặp của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ với Bộ Tài chính Hoa Kỳ ở Washington đã khiến lộ ra một ‘bí mật quốc gia’ mà mấy năm qua giới quan chức Việt Nam cố tình giấu nhẹm : ông Huệ đề nghị Mỹ "mở lại kênh cho vay ODA và vay ưu đãi cho Việt Nam, tăng cường các chương trình viện trợ trực tiếp và gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án nhân đạo và hỗ trợ phát triển tại Việt Nam".
Cũng có nghĩa là trong những năm gần đây, lượng ODA và viện trợ không hoàn lại được cấp từ Mỹ cho Việt Nam đã giảm về 0.
Tiền nào cũng là tiền. Viện trợ không hoàn lại là tiền của người dân các nước phát triển đóng thuế cho chính phủ, và những người dân này sẽ phẫn nộ đến mức nào khi biết tiền của họ đã bị một quốc gia nằm trong nhóm đầu thế giới về tham nhũng như Việt Nam "ăn không chừa thứ gì".
Hiện thời, cần nhìn nhận một sự thật mà có lẽ giới tuyên giáo đảng ở Việt Nam chẳng hề muốn đả động : những chuyến công du quốc tế của giới chóp bu Việt Nam diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 10 liên tiếp, nợ xấu ngập đầu còn nợ công phi mã đến 210% GDP, ngân sách có nguy cơ cạn kiệt, trong lúc các kênh "ngoại viện" gần như đóng lại.
Bị phát hiện
Mỹ không phải là quốc gia duy nhất đặt Việt Nam vào trạng thái zero viện trợ, mà động thái này như thể ‘không hẹn mà gặp’ đã diễn ra phổ biến ở gần hết các nước cấp viện trợ cho Việt Nam, dẫn đến một phát hiện lớn mà ‘đảng và nhà nước ta’ đã không dám công bố trong suốt 4 năm qua : từ năm 2014 đến năm 2018, viện trợ ODA cho Việt Nam luôn cận kề với vạch 0.
Vào tháng Tám năm 2015, Ban Kinh tế Trung ương đã chủ trì tổ chức Hội thảo "Hoạt động ODA tại Việt Nam - 20 năm nhìn lại" tại Đà Nẵng. Thông tin được tuyên truyền khi đó đầy màu sắc thành tích : "Hơn 80 tỷ USD vốn ODA dành cho Việt Nam giai đoạn 1993-2014" (1).
Đến tháng Bảy năm 2018, một quan chức Phó Thủ tướng Chính phủ là Phạm Bình Minh khi tham dự buổi làm việc về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài giao đoạn 2011-2016, đã cho biết "Việt Nam đã tiếp nhận 80 tỷ USD vốn ODA sau 25 năm" (2).
Độ chênh của hai kết quả về viện trợ ODA từ năm 1993 đến năm 2014 (20 năm) và đến năm 2018 (25 năm) là số 0. Tức sau 4 năm, con số tổng nhận ODA vẫn chỉ là 80 tỷ USD mà không có một chút tăng tiến an ủi nào.
Còn con số vài ba tỷ USD viện trợ ODA mà chính phủ Việt Nam vẫn công bố đã nhận được hàng năm kể từ năm 2015 đến nay thực ra chỉ là số chưa được giải ngân trong những năm trước, mà chỉ được giải ngân trong những năm gần đây (3).
Có chịu cải cách thể chế và cải thiện nhân quyền ?
Con số Việt Nam vay ODA của nước ngoài từ năm 1993 đến năm 2014 đã lên tới 80 tỷ USD. Sau khi trừ đi 10 - 12% vốn vay không hoàn lại trong số đó, mỗi năm ngân sách Việt Nam phải có trách nhiệm trả nợ quốc tế hàng chục tỷ USD. Mà muốn trả được số nợ này, Việt Nam lại phải tìm cách "vay đảo nợ" của các tổ chức tín dụng quốc tế. Trước đây, những tổ chức này vẫn cho Việt Nam vay vốn "đầu tư phát triển" và vay đảo nợ khá dễ dàng. Nhưng đến năm 2015, WB bất ngờ thông báo hai "tin buồn" cho Việt Nam : Việt Nam đã "tốt nghiệp IDA" mà sẽ không được xếp vào loại quốc gia "xóa đói giảm nghèo" ; và từ tháng 7/2017 sẽ không được vay với lãi suất ưu đãi 0,7 - 0,8%/năm cùng thời gian ân hạn đến 30 - 40 năm như trước đây, mà mức lãi suất vay sẽ được nâng lên gấp ba và thời gian ân hạn giảm xuống một nửa.
Trong khi đó, ngân sách Việt Nam vẫn buộc phải làm cái chuyện vừa lo trả nợ vừa phải tiếp tục vay mượn vượt hơn đến 30% số trả nợ hàng năm để phục vụ các khoản chi tiêu thường xuyên khổng lồ của bộ máy gần 4 triệu công chức viên chức và lực lượng vũ trang với 30% ‘không làm gì cả nhưng vẫn lãnh lương’. Trong đó tỷ lệ chi cho lực lượng công an ở Việt Nam lên đến 12% chi ngân sách - một mức chi cực kỳ lớn cho đội ngũ công an chuyên nghề đàn áp dân chúng và nhân quyền, chưa kể gần 5 tỷ USD chi cho bộ máy quốc phòng hàng năm nhưng không hề bảo vệ ngư dân trước tài Trung Quốc, trong lúc lại lập kỷ lục thế giới về các vụ máy bay quân sự đắt tiền rụng như sung.
Hình ảnh hiện thời thật không khác mấy mỡ treo miệng mèo. Tuy được quảng cáo vẫn còn đến 22 tỷ USD nguồn ODA chưa giải ngân, nhưng Việt Nam không những phải trả lãi suất cao từ năm 2017, mà còn phải móc tiền ngân sách để trả một phần lãi do chậm giải ngân dự án ODA.
Nếu chính thể Việt Nam không cấp thiết cải cách thể chế và cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, chi tiết và bằng hành động chứ không phải lối trớt trả miệng lưỡi như trước đây, e rằng sang năm 2019 giá trị ODA mà các tổ chức quốc tế ký kết với Việt Nam sẽ chỉ là con zero to tướng.
(1) https://baodautu.vn/hon-80-ty-usd-von-oda-danh-cho-viet-nam-giai-doan-1993-2014-d30863.html
(2) http://cafef.vn/25-nam-viet-nam-tiep-nhan-80-ty-usd-von-oda-20180726062228006.chn
(3) Trong giai đoạn 1993 đến 2014, vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân đạt 53,89 tỷ USD, chiếm trên 73,2% tổng vốn ODA đã ký kết
Kể từ chủ trương "việc cần làm ngay" vào giữa năm 2016 và "lò đã nóng lên rồi thì củi tươi đưa vào cũng phải cháy" vào giữa năm 2017 của ông Nguyễn Phú Trọng, có thể so sánh những kết quả nào của "người đốt lò vĩ đại" ở Việt Nam với tác giả "đả hổ diệt ruồi" ở Trung Quốc ?
Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (trái) đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm Hà Nội hôm 12 tháng Mười Một, 2017. (Hình : Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)
Cuộc chiến hai giai đoạn
Có ít nhất một điểm chung giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình : Cả hai đều chọn "chống tham nhũng" là sách lược cơ bản trong trung hạn và có thể cả dài hạn.
Nhưng có một sự khác biệt cơ bản : Ông Tập Cận Bình đã chọn "chống tham nhũng" ngay vào thời kỳ đầu tiên chấp nhiệm của mình, trong khi ông Nguyễn Phú Trọng chỉ dám bước vào con đường này khi ông ta đã ngồi ghế tổng bí thư đến sáu năm.
Nhìn lại, có thể nhận rõ là giai đoạn "chống tham nhũng" đầu tiên của ông Nguyễn Phú Trọng – có thể được tạm đặt cái tên là "Việc cần làm ngay" – đã mất một khoảng thời gian gần một năm rưỡi, từ tháng Sáu, 2016, đến tháng Mười Một, 2017, khá lặng lẽ, và chủ yếu là hô hào về chủ trương mà thiếu hẳn hành động cụ thể và quyết liệt. Chẳng khác gì một kẻ bất lực.
Chỉ sau Hội nghị Trung ương 6 vào tháng Mười, 2017, mà đã bị nhiều cựu thần và cách mạng lão thành lên tiếng chỉ trích về não trạng "đập chuột sợ vỡ bình", "nói không đi đôi với làm" và "nhát gan", ông Nguyễn Phú Trọng mới có hành động đột biến chỉ đạo bắt giam, khởi tố, truy tố và xét xử 31 năm tù giam đối với ông Đinh La Thăng vào tháng Mười Hai, 2017. Thời điểm đó cũng có thể được xem là mốc khởi đầu cho giai đoạn 2 của chiến dịch "chống tham nhũng", mang tên "Đốt lò".
Chẳng bao lâu sau vụ bắt ông Đinh La Thăng, ông Trọng đã dần có tên tuổi trên báo quốc tế. Chính những tờ trong khu vực Đông Nam Á như Asia Times, The Diplomat và một số tờ khác đã viết về chiến dịch "đốt lò" của ông Trọng, thậm chí còn nhắc lại biệt hiệu mà Đài Tiếng Nói Việt Nam đặt cho ông Trọng là "Người đốt lò vĩ đại" cùng những biệt hiệu khác như là "Minh quân", "Sĩ phu Bắc Hà" hay là "Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo" – những danh xưng ngút trời không văn tự.
Một cách "hữu xạ tự nhiên hương", vào thời gian trên cái tên Nguyễn Phú Trọng đã trở nên nổi tiếng, khiến việc ông phải chỉ đạo cho Bộ Ngoại giao làm dịch vụ quảng cáo trên tờ Le Monde về chuyến công du của mình đến Pháp vào tháng Ba, 2018, trở nên thừa thãi và tốn thuế dân một cách vô ích.
Nhưng nếu chiến dịch "chống tham nhũng" của ông Trọng có hai tên gọi thì cũng có hai giai đoạn bị chùn xuống một cách bất ngờ và khó hiểu : Khoảng thời gian sau Hội nghị Trung ương 5 – từ tháng Sáu đến tháng Mười, 2017, và khoảng thời gian gần Hội nghị Trung ương 7, tức là tháng Năm, 2018.
Tại Hội nghị Trung ương 7 đã không có bất kỳ xử lý một quan chức nào cả, thậm chí là kết quả này còn tệ hơn cả Hội nghị Trung ương 6 vào tháng Mười, 2017, khi hội nghị này còn kỷ luật và loại khỏi Ban chấp hành trung ương nhân vật bí thư của Đà Nẵng là Nguyễn Xuân Anh.
Một cách khách quan, ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư đầu tiên từ trước đến nay trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam đã xử lý quan chức tham nhũng nhiều đến thế trong một thời gian tương đối ngắn.
Tuy nhiên, ở những đời tổng bí thư trước tỷ lệ tham nhũng chỉ bằng khoảng 1/10 cho tới 1/100 mức độ tham nhũng hiện nay ở Việt Nam. Do đó việc ông Trọng bắt buộc phải xử tham nhũng là đương nhiên, ứng với đòi hỏi ông Trọng phải gầy dựng một cơ chế và một lý do tồn tại cho ông ta và cho đảng của ông ta, cũng giống như là ông Tập Cận Bình với chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" ở Trung Quốc từ năm 2012 cho tới nay.
Tập và Trọng
Không phải là nhân vật có nhiều phát ngôn nổi bật và ưa trích dẫn kinh viện Mác-Lê như Nguyễn Phú Trọng, ông Tập Cận Bình đã tỏ ra là người thích hành động, hành động thâm trầm và bất ngờ hơn là nói và khoa trương thành tích.
Vào năm 2015 – thời điểm đã đi được hơn phân nửa thời gian của nhiệm kỳ năm năm trên cái ghế chủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tập Cận Bình đã tạo nên một cuộc "cách mạng văn hóa" long trời lở đất lần thứ hai kể từ thời ông Mao Trạch Đông vào những năm 1960 của thế kỷ 20.
Chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" của ông Tập về thực chất có thể được xem là xứng đáng với tên gọi đó, hàng loạt "hổ" như Bạc Hy Lai – bí thư Trùng Khánh, Chu Vĩnh Khang – bộ trưởng công an, Từ Tài Hậu – phó bí thư quân ủy trung ương, tất cả đều là ủy viên Bộ Chính Trị, đều bị xử thẳng tay và phải mang án tù nhiều năm.
Cùng khoảng thời gian trên, bão tố gầm thét trên nhiều tỉnh thành của Trung Quốc. Ông Vương Kỳ Sơn – chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương Đảng, một người cứng rắn, lạnh lùng, ít nói và có lẽ không thiếu tàn nhẫn, được xem là cánh tay mặt của ông Tập Cận Bình, đã thả sức "diệt ruồi".
Còn ở Việt Nam, dù thời gian đã trôi nhanh qua già nửa nhiệm kỳ, "người em" Nguyễn Phú Trọng dù có năm sinh trước "ông anh" Tập gần một chục năm và thâm niên làm tổng bí thư đảng hơn "ông anh" Tập cả năm, lại vẫn chưa đạt được những kết quả mang tính thực chất và khiến người ta có thể tin kết quả đó là bền vững, cho dù ông Trọng đã nắm được vai trò bí thư quân ủy trung ương từ trước và sau đại hội 12 của đảng cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2016, và thậm chí còn "tự cơ cấu" vào Đảng ủy Công an trung ương vào cuối năm đó.
Dù mục đích thật sự của ông Tập Cận Bình là hoặc chống tham nhũng, hoặc thanh trừng phe phái hay tập quyền cá nhân, hoặc cả hai hay ba mục tiêu này vẫn nằm trong diện tranh cãi của giới phân tích chính trị cho tới nay, hàng triệu quan chức bậc trung và thấp đã bị xử lý dưới nhiều hình thức.
Còn thành tích "diệt hổ" đáng kể nhất của ông Nguyễn Phú Trọng đến giờ phút này mới chỉ là ông Đinh La Thăng – một ủy viên Bộ Chính Trị kiêm Bí Thư Thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh – trường hợp có thể được xem là tương đương với Bạc Hy Lai ở Trung Quốc.
Sát đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 19 vào cuối năm 2017, dường như ông Tập Cận Bình đã hoàn thành giai đoạn đầu tiên của chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" cùng những mục đích cá nhân lớn lao của ông ta. Đến lúc đó, ông Tập không chỉ trở thành chủ tịch nước kiêm tổng bí thư, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, trở thành một cách thực chất chứ không phải dựa vào hơi hám của chủ nghĩa hình thức, mà còn được ghi tên mình vào Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc tại đại hội 19 với "tư tưởng Tập" – sánh ngang với "tư tưởng Mao" của hơn nửa thế kỷ trước.
Kết quả đồ sộ của chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" kéo dài suốt năm năm – từ 2012 đến 2017 – đã mang lại cho ông Tập Cận Bình một thứ quyền uy bá chủ thiên hạ : tại đại hội 19, thậm chí hiến pháp Trung Quốc còn phải sửa đổi theo cách sẽ không còn ai bàn về giới hạn nhiệm kỳ của chủ tịch nước. Một cách đương nhiên, ông Tập Cận Bình có thể trở thành "hoàng đế" suốt đời !
Nhưng cho đến cuối năm 2017, thành tích "diệt ruồi" của ông Nguyễn Phú Trọng vẫn ấn tượng đến mức các cơ quan tư pháp Việt Nam "chỉ phát hiện năm trường hợp kê khai không trung thực trong số hơn 1 triệu công chức kê khai tài sản". Và đến giữa năm 2018, chỉ lẻ tẻ một số quan chức bậc trung và thấp ở địa phương bị xử lý không thật nghiêm khắc, trong khi vẫn phổ biến không khí "trên nóng dưới lạnh" ở rất nhiều tỉnh thành.
Cũng khác hẳn với chiến dịch "Săn cáo" được Trung Quốc tổ chức khá hiệu quả mà đã lôi về hàng trăm quan chức tham nhũng lẩn trốn ở nhiều quốc gia trên thế giới, chính trường Việt Nam vẫn còn nguyên thời kỳ ồ ạt quan chức "ra đi tìm đường cứu nước", mang theo một khối tài sản và ngoại tệ khổng lồ mà gần như không bị đảng và các cơ quan thừa hành pháp luật chế tài.
Những cái tên Trịnh Xuân Thanh, Lê Chung Dũng, Vũ Đình Duy… chỉ là phần chóp nổi của một tảng băng còn phần lớn thể tích chìm sâu trong rác rến cặn bã nhân loại. Còn vô số quan chức, với không hiếm trong số đó được ông Nguyễn Phú Trọng nhẵn mặt, đang bị người đời xem là "nền chính trị quái vật nhiều đầu hiếp dâm nền kinh tế dân sinh chỉ còn một cái đầu để thở".
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 19/08/2018