Sau màn ‘tự sướng’ về việc ‘đã ký kết thành công Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA)’ của chóp bu Việt Nam vào tháng 6/2019, bầu không khí trông đợi hiệp định này được phê chuẩn đã dần lắng xuống mà không còn hớn hở đắc chí như trước đó.
Bầu không khí hớn hở đắc chí trông đợi hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) được phê chuẩn đã dần lắng xuống...
Ngay cả sự hiện diện của Bernd Lange - Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế của Nghị viện Châu Âu (INTA), một quan chức được giới quan chức khôn lỏi ở Việt Nam đánh giá là ‘khá dễ chơi’, và trong thực tế thì Bernd Lange đã bị Hà Nội qua mặt ít nhất hai lần về vấn đề nhân quyền - vào những ngày cuối tháng 10/2019 và đã có những cuộc gặp với Chủ tịch quốc hội, Bộ trưởng Công thương, Trưởng ban Kinh tế trung ương Việt Nam… để "tìm hiểu việc chuẩn bị phê chuẩn và thực thi Hiệp định EVFTA và IPA, đồng thời trao đổi với các cơ quan của Việt Nam về phương hướng xử lý đối với một số vấn đề mà EU quan tâm" cũng chẳng hứa hẹn triển vọng rõ ràng nào về EVFTA sẽ được Nghị viện Châu Âu xem xét phê chuẩn.
Chưa phê chuẩn trong năm 2019
Theo quy định của Liên Hiệp Châu Âu (EU), sau khi có sự chấp thuận của các cơ quan như Ủy Ban Thương Mại Châu Âu, Cộng đồng Châu Âu và được ký kết, EVFTA còn phải trải qua thủ tục trình ra Nghị viện Châu Âu và phải được cơ quan này xem xét có phê chuẩn hay là không.
Còn với EVIPA (Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU, cùng với EVFTA đã được EU và Việt Nam bàn thảo để chuẩn bị phê chuẩn) thì rắc rối hơn nhiều đối với chính thể độc tài ở Việt Nam.
Khác nhiều với EVFTA, EVIPA mới chính là cái mà một chính thể luôn muốn "ăn sẵn" và "ăn đậm" như Việt Nam cần kíp. Nhưng muốn có được EVIPA để mang lại lợi nhuận cụ thể chứ không phải một thứ danh dự trừu tượng và an ủi như EVFTA, Việt Nam lại cần "vận động" đủ 28 quốc gia thành viên của khối EU, mà nếu 4 trong số các quốc gia đó không đồng ý thì EVIPA không thể được ký kết và phê chuẩn, cũng đồng nghĩa với EVFTA sẽ "toi" dù có được EU phê chuẩn.
Ngay trước mắt, EVFTA cũng không phải là hiệp định ‘dễ ăn’.
Vào tháng 6/2019 khi EVFTA được ký kết chính thức tại Hà Nội, giới chóp bu Việt Nam đã nêu ra dự kiến hiệp định này sẽ được Nghị viện Châu Âu phê chuẩn vào cuối năm 2019 hoặc chậm lắm là vào đầu năm 2020. Nhưng mốc dự báo vào cuối năm 2019 lấn át hơn hẳn, thậm chí mốc này còn được một số tờ báo đảng tô đậm và khẳng định.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn không có tín hiệu khả quan nào về việc EVFTA được phê chuẩn vào thời gian những tháng còn lại của năm 2019.
Trong một phiên họp của Ủy ban Thường vụ quốc hội trước khi cơ quan ‘nghị gật’ chính thức khai mạc kỳ họp quốc năm 2019 vào ngày 21/10, Ủy viên thường trực Ủy ban đối ngoại của Quốc hội là Lê Anh Tuấn cho báo giới biết rằng dự kiến đến đầu năm 2020 Nghị viện Châu Âu mới có phiên họp toàn thể để xem xét EVFTA. Theo lộ trình này, EVFTA có thể được phía EU phê chuẩn trong nửa đầu năm 2020. Theo quy định, hiệp định có hiệu lực 2 tháng sau đó hoặc vào thời điểm do 2 bên thống nhất. Còn với EVIPA, hiện chưa có dự kiến về lộ trình và thời gian có hiệu lực.
Đó là lần đầu tiên từ sau khi EVFTA được ký kết tại Hà Nội, quan chức Việt Nam thừa nhận hiệp định này chưa thể được phê chuẩn trong năm 2019.
Lùi phê chuẩn do vi phạm nhân quyền ?
Vì sao EVFTA chưa ‘qua cầu’ trong năm 2019 ? Chỉ đơn giản vì lý do thủ tục họp hành của Nghị viện Châu Âu hay còn bởi nguồn cơn nhạy cảm nào khác ?
Tuy nhiên, những tin tức từ giới quan sát độc lập lại cho biết Nghị viện Châu Âu sẽ tổ chức họp toàn thể vào cuối năm 2019.
Tất nhiên, giới lãnh đạo Hà Nội luôn muốn qua mặt EU về nhân quyền luôn giải thích rằng chủ đề EVFTA lại không được đưa vào nghị trình của phiên họp là do Nghị viện Châu Âu còn bộn bề công việc sau khi mới được bầu lại vào tháng 5/2019.
Nhưng phải chăng còn có một nguyên do khác : Nghị viện Châu Âu chủ ý lùi phiên họp toàn thể xem xét EVFTA nhằm bắt buộc nhà cầm quyền Việt Nam phải tuân thủ những điều kiện về cải thiện nhân quyền do cơ quan này nêu ra một cách khẩn cấp vào tháng 11/2018 ?
Thực tế là cho đến ngày 30 tháng Sáu năm 2019 khi đặt bút ký kết hai hiệp định EVFTA và EVIPA tại Hà Nội, chỉ mới một phần rất nhỏ trong toàn bộ nội dung rất rộng và sâu của bản nghị quyết về nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2018/2925 (RSP) do nghị viện Châu Âu tung ra vào giữa tháng 11/2018 được phía Việt Nam đáp ứng.
Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925 (RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đanh thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng về tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí, nạn bắt bớ người hoạt động nhân quyền, không chịu ký kết các công ước quốc tế về lao động…
Nhưng trước yêu cầu phải ký 3 công ước quốc tế còn lại của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), chính thể Việt Nam đã chỉ mang ra quốc hội bàn việc ký và phê chuẩn Công Ước 98 mà không nói gì đến hai công ước quốc tế còn lại về lao động, còn Công Ước 105 về chống cưỡng bức lao động được hứa hẹn ký vào năm 2020. Nhưng bỉ bôi nhất vẫn là Công Ước 87 – công ước then chốt quy định bắt buộc về quyền của người lao động được tự do thành lập công đoàn độc lập – bị phía Việt Nam treo đến năm… 2023.
Nhưng chẳng có gì chắc chắn là đến năm đó Công Ước 87 sẽ được ký. Và nhất là sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc.
Còn việc sửa đổi Bộ Luật Lao Động và Luật Công Đoàn cũng trí trá và ma mãnh không kém khi dự thảo này tuyệt đối không đề cập đến khái niệm "công đoàn độc lập," trong khi dựng lên một núi thủ tục hành chính để làm nản lòng những công nhân muốn tự tay thành lập công đoàn phi nhà nước.
Trong khi đó, không khí đàn áp nhân quyền ở Việt Nam vẫn đặc sệt như một thùng thuốc súng. Công an Việt Nam vẫn liên tiếp bắt bớ và hành hung dã man những người hoạt động nhân quyền và xã hội dân sự, bắt bớ và giam cầm từ nghệ sĩ làm phim về dân oan đất đai cho đến những phụ nữ chống BOT bẩn… Vẫn chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho bất kỳ một "cải thiện nhân quyền" nào, dù chỉ mang tính mị dân hoặc để đối phó với cộng đồng quốc tế…
Những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm nhân quyền, cộng với tình trạng đàn áp bất đồng chính kiến ngày càng "vươn lên một tầm cao mới" của chính thể độc tài ở Việt Nam chắc chắn sẽ là những gì mà nhiều nghị sĩ EU không thể bỏ qua khi cân nhắc bỏ phiếu có thông qua hay không Hiệp Định EVFTA. Một cái gật đầu dễ dãi của Nghị viện Châu Âu đối với EVFTA sẽ phủ nhận toàn bộ bản nghị quyết nhân quyền Việt Nam của chính cơ quan này yêu sách vào tháng Mười Một năm 2018, khiến uy tín lẫn hình ảnh của Nghị viện Châu Âu bị giảm sút không ít trong đánh giá của cộng đồng quốc tế.
Cũng bởi thế, EVFTA nếu được Nghị viện Châu Âu phê chuẩn có thể sẽ vào thời điểm trễ hơn so với tính toán của giới chóp bu Hà Nội.
Nghị viện Châu Âu có ‘treo giò’ EVFTA và EVIPA ?
Không loại trừ khả năng EVFTA bị Nghị viện Châu Âu ‘treo giò’ thêm một thời gian nữa - sau năm 2020, do ‘thành tích cải thiện nhân quyền’ chỉ tăng không giảm và ngày càng dã man của chính quyền Việt Nam.
Khả năng trên là hoàn toàn có cơ sở, bởi đã có tiền lệ cho nó. Vào tháng 2 năm 2019, khi chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc và hai cơ quan Bộ Công thương và Bộ Ngoại giao Việt Nam đôn đáo chạy sang Brussel, Bỉ - nơi đặt trụ sở thường trực của EU - để vận động cho EVFTA và EVIPA và tưởng chừng mọi việc đã trót lọt, Hội đồng Châu Âu bất ngờ thông báo hoãn việc ký kết hai hiệp định này, mà nguồn cơn không nói ra hẳn là vô số vi phạm nhân quyền của Hà Nội. Ngay trước đó, một bức thư của 18 tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam và quốc tế đã kiến nghị EU hoãn ký EVFTA do nhà cầm quyền Việt Nam không có bất kỳ cải thiện nhân quyền nào.
Còn trước đó nữa, hai hiệp định EVFTA và EVIPA đã phải trải qua thời gian rà soát pháp lý của EU đến hai năm rưỡi, dù đã kết thúc đàm phán từ cuối năm 2015 - một khoảng thời gian dài hơn hẳn so với quy trình chỉ từ 6 tháng đến một năm để rà soát pháp lý các hiệp định thương mại quốc tế mà EU là đối tác.
Vào tháng 9/2019, 48 tổ chức quốc tế, trong nước tiếp tục gửi thư ngỏ, kiến nghị tới các nghị sỹ, Quốc hội Châu Âu, Ủy ban Nhân quyền Quốc hội Châu Âu về tình trạng vi phạm nhân quyền tồi tệ ở Việt Nam, và kiến nghị hoãn lại việc phê chuẩn, thực hiện EVFTA. Những kiến nghị này có thể tác động đến quyết định có phê chuẩn EVFTA hay không của Nghị viện Châu Âu.
Hẳn do lo lắng chuyện quá khứ đình hoãn hiệp định thương mại sẽ tái hiện trong tương lai, vào thời gian cuối năm 2019 Việt Nam đã phải liên tiếp cử các ‘đoàn đại biểu cấp cao’ đi một số nước Tây Âu nhằm vận động cho những ‘mặt hàng’ đang trở nên nhu cầu cấp bách ở dải đất quằn quại hình chữ S.
Một phái đoàn do quan chức Nguyễn Văn Bình, ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban kinh tế trung ương dẫn đầu, gặp các cơ quan của EU với đề nghị "hai phía thúc đẩy tiến trình Nghị Viện Châu Âu phê chuẩn EVFTA và EVIPA".
Một đoàn khác được dẫn đầu bởi quan chức Đại tướng Đỗ Bá Tỵ - Phó Chủ tịch Quốc hội, đi Cộng hòa Liên bang Đức, nhắm đến nhiều mục đích như vận động chính phủ Đức sớm phê chuẩn EVFTA và EVIPA, vận động Đức ủng hộ Việt Nam hơn nữa trước căng thẳng ở Biển Đông và Bãi Tư Chính, và… xin viện trợ ODA.
Nhưng ngay vào lúc Đỗ Bá Tỵ đang hươu vượn về nhân quyền ở Đức, bộ phim vi phạm nhân quyền vẫn tiếp tục được công chiếu ở Việt Nam : một phái đoàn của Bộ Tư Pháp Đức đến Sài Gòn và mời một số luật sư gặp gỡ để nghe ý kiến về tình hình luật pháp ở Việt Nam, nhưng một trong số khách mời đó là luật sư Đặng Đình Mạnh đã bị công an Việt Nam cấm cửa không cho đi gặp đoàn Đức.
Vào lúc này và khi thời điểm Nghị viện Châu Âu xem xét bỏ phiếu EVFTA có vẻ sắp diễn ra vào nửa đầu năm 2020, chính thể độc tài ở Việt Nam đang tìm cách thúc giục EU sớm thông qua EVFTA, nhưng sẵn sàng qua mặt EU thêm một lần nữa bằng những hứa hẹn ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ hoàn toàn đầu môi chót lưỡi.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 03/11/2019
Vì sao Việt Nam bỗng sốt sắng điều tra nhôm gốc Trung Quốc ?
Thường Sơn, 02/11/2019
Không phải vô duyên vô cớ mà vào kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2019, quan chức Vũ Tiến Lộc- Chủ tịch Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam - phải vội vã cảnh báo "Nhưng thực tế lại không chứng minh điều đó, mà ngược lại, trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết. Ai dám chắc chúng ta không bị trừng phạt khi xuất siêu vào Mỹ ?", khi đề cập về cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và việc rất nhiều chuyên gia dự báo rằng Việt Nam sẽ hưởng lợi, sẽ trở thành công xưởng mới của nền kinh tế toàn cầu.
Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn. Ảnh : Văn Hưng
Cảnh báo trên trùng với một vụ chấn động : lần đầu tiên các cơ quan chức năng Việt Nam, cụ thể là Tổng cục Hải quan, đã ‘phát hiện’ vụ nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam được thực hiện do một tập đoàn có công nghệ, dây chuyền, nhưng lại nhập khẩu nhôm thỏi, nhôm thanh, nhôm bán thành phẩm nhằm đưa ra các sản phẩm để xuất khẩu đi Mỹ và một số nước khác nhằm trục lợi từ chính sách về thuế suất. Do nhôm của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chỉ phải chịu thuế khoảng 15%,nhưng nhôm của Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế lên đến 374%, nên nếu vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam - trị giá đến 4,3 tỷ USD - được tiến hành trót lọt thì sẽ mang lại một khoản lợi nhuận khổng lồ cho những kẻ gian lận thương mại. Những kẻ đó là hai ngườimang quốc tịch Úc nhưng gốc Trung Quốc là Jacky Cheung và Wang Tong.
Có thể hiểu cách nhìn và nỗi lo lắng của quan chức Vũ Tiến Lộc cũng chính là trạng thái tâm lý của ‘đảng và nhà nước ta’.
Bởi vào thời gian này, nền kinh tế Việt Nam đang phải chịu nguy cơ bị Tổng thống Mỹ Donald Trump xếp vào danh sách ‘quốc gia gây hại’ đối với nền kinh tế Mỹ, tiếp sau cáo buộc thẳng thừng ‘kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất’ mà Trump chỉ đích danh Việt Nam.
Chỉ ít ngày sau sự xuất hiện cáo buộc trên, Bộ Thương mại Mỹ đã tung đòn đánh thuế lên các sản phẩm thép từ Việt Nam có xuất xứ từ Hàn Quốc và Đài Loan nhằm tránh thuế chống bán phá giá, với thuế suất có thể lên tới 456,23% - một cú bồi tiếp theo việc Mỹ đánh thuế thép Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc lên đến 531% vào cuối năm 2017.
Vì sao giới chức Mỹ trở nên nghiêm khắc với hàng hóa Việt Nam ?
Từ cuối năm 2017, những đòn trừng phạt đầu tiên của Trump đã khởi động. Thoạt đầu là những cú tăng vọt thuế lên mặt hàng tôm, rồi sau đó là thép và cả nhôm của Việt Nam xuất sang Mỹ. Nhưng những đòn này vẫn chưa thấm vào đâu nếu nhìn sang tương lai đầy đe dọa bắt nguồn từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung.
Bắt đầu từ năm 2018, Trump khởi động chiến dịch tấn công vào nền kinh tế Trung Quốc và có thể cả vào hệ thống chính trị độc tài của quốc gia đông dân nhất thế gới này. Chỉ ít lâu sau đó, một làn sóng ngấm ngầm di chuyển vùng đầu tư từ các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam đã diễn ra. Còn đến khi Trump áp thuế cao ngất lên toàn bộ hàng hóa Trung Quốc thì làn sóng doanh nghiệp Trung đổ bộ vào Việt Nam đã trở thành một phong trào thực sự. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019, đã có đến 2,2 tỷ USD đăng ký vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam.
Nhưng nguồn cơn khiến Trump và nhiều quan chức Mỹ giận dữ là chính quyền Việt Nam đã trở thành một nhân tố tiếp tay cho hàng Trung Quốc gắn nhãn ‘made in Vietnam’ tràn ngập thị trường Hoa Kỳ.
Trong vụ tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế "thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc" vào tháng 12/ 2017, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã xác định rằng có đến 90% sản phẩm thép từ Việt Nam nhập sang Mỹ có xuất xứ từ Trung Quốc.
Trong khi đó ở Việt Nam, một số chuyên gia độc lập đã cảnh báo về việc nhôm tấm Trung Quốc mượn đường Việt Nam sang Mỹ nhưng chính phủ và Bộ Công thương Việt Nam không có hành động cứng rắn gì. Không những thế, còn có một lỗ hổng pháp lý mà dường như bộ này cố tình để lại cho Trung Quốc tuồn hàng qua Việt Nam.
Cũng có nghĩa là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ bao gồm cả giá trị hàng hóa thép và nhôm có xuất xứ từ Trung Quốc, tức Việt Nam đã thông đồng với Trung Quốc để lừa người Mỹ.
Nếu Mỹ "siết" các điều kiện thương mại như đánh thuế xuyên biên giới, dựng đứng hàng rào kiểm nghiệm chất lượng đối với hàng hóa Việt Nam mà trước đó cá basa, tôm, gạo đã trở thành "nạn nhân", đánh mạnh thuế lên thép và nhôm Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan, và cho dù chưa đưa Việt Nam vào danh sách các nước thao túng tiền tệ nhưng vẫn xếp Việt Nam vào danh sách các nước cần theo dõi về vấn đề này, giá trị xuất siêu hàng năm của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tụt thê thảm.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 02/11/2019
*******************
Thấy gì từ vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt Việt Nam ?
Phạm Chí Dũng, VOA, 01/11/2019
Không phải Tổng cục Hải quan Việt Nam, mà là Wall Street Journal
Chẳng phải đến bây giờ vụ hàng triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam mới được Tổng cục Hải quan Việt Nam phát hiện, mà vụ này đã được báo Wall Street Journal của Mỹ phanh phui bằng loạt bài điều tra vào năm 2016. Tờ báo này khi đó đã có bài điều tra về 500.000 tấn nhôm đùn, là nguyên liệu sản xuất nhôm được chuyển từ San José Iturbide, Mexico đến Việt Nam, có liên quan tới Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhôm Toàn Cầu Việt Nam, trụ sở tại Bà Rịa – Vũng Tàu.
Thấy gì từ vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt Việt Nam ? Hình minh họa.
Bài báo điều tra của Wall Street Journal ngay lập tức được lan tỏa trên mạng xã hội ở Việt Nam và được một số tờ báo nhà nước dịch và đăng lại, tạo nên một làn sóng quan tâm khá lớn của dư luận về hiện tượng hết sức đặc biệt không chỉ là ‘treo đầu dê, bán thịt chó’ mà còn là ‘mượn đường diệt Quắc’ rất bản chất Trung Quốc đó.
Nhưng vì sao vào năm 2016 và cả một khoảng thời gian dài sau đó, toàn bộ các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam lại như câm nín trước vụ việc trên mà không có bất kỳ một động tác điều tra tới nơi tới chốn nào, dù đã có thông tin về những kẻ đứng phía sau doanh nghiệp Nhôm Toàn Cầu VN là người quốc tịch Úc gốc Trung Quốc ?
Còn cho đến giờ, nhờ một ‘phát hiện’ của Tổng cục Hải quan Việt Nam, người ta mới biết rõ vụ nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam được thực hiện do một tập đoàn có công nghệ, dây chuyền, nhưng lại nhập khẩu nhôm thỏi, nhôm thanh, nhôm bán thành phẩm nhằm đưa ra các sản phẩm để xuất khẩu đi Mỹ và một số nước khác nhằm trục lợi từ chính sách về thuế suất. Do nhôm của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chỉ phải chịu thuế khoảng 15%, nhưng nhôm của Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế lên đến 374%, nên nếu vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam - trị giá đến 4,3 tỷ USD - được tiến hành trót lọt thì sẽ mang lại một khoản lợi nhuận khổng lồ cho những kẻ gian lận thương mại. Những kẻ đó là hai người mang quốc tịch Úc nhưng gốc Trung Quốc là Jacky Cheung và Wang Tong.
Vì sao Việt Nam bỗng sốt sắng điều tra nhôm gốc Trung Quốc ?
Điều có vẻ lạ lùng, nhưng lại rất gần với thực tế là yếu tố góp công không nhỏ trong vụ ‘phát hiện’ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam không phải là Tổng cục Hải quan hay Bộ Công an Việt Nam, mà là… tàu Hải Dương 8.
Bởi từ năm 2016 - khi tờ báo Wall Street Journal phát hiện vụ việc trên - cho tới trước tháng 7 năm 2019, mối quan hệ Việt - Trung vẫn tạm hữu hảo và giới quan chức hai bên vẫn lảm nhảm ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười sáu chữ vàng’. Chỉ đến tháng 7 năm 2019 khi Trung Quốc đạp kẻ đu dây Việt Nam té lộn cổ bằng động tác đưa tàu Hải Dương 8 cùng vài ba chục tàu hộ vệ cho tàu này quần thảo khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam, thậm chí còn tiến rất gần nhiều vùng duyên hải của Việt Nam, chân lý thật giản đơn mới lộ ra : giới chóp bu Việt Nam cuối cùng cũng đã tìm ra một cách trả đũa ‘bạn vàng’ bằng cách lôi vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam ra.
Bên cạnh đó, cũng có một nguyên do không kém nghiêm trọng là vào thời gian này, nền kinh tế Việt Nam đang phải chịu nguy cơ bị Tổng thống Mỹ Donald Trump xếp vào danh sách ‘quốc gia gây hại’ đối với nền kinh tế Mỹ, tiếp sau cáo buộc thẳng thừng ‘kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất’ mà Trump chỉ đích danh Việt Nam.
Nói là làm. Chỉ ít ngày sau sự xuất hiện cáo buộc trên, Bộ Thương mại Mỹ đã tung đòn đánh thuế lên các sản phẩm thép từ Việt Nam có xuất xứ từ Hàn Quốc và Đài Loan nhằm tránh thuế chống bán phá giá, với thuế suất có thể lên tới 456,23% - một cú bồi tiếp theo việc Mỹ đánh thuế thép Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc lên đến 531% vào cuối năm 2017.
Vì sao giới chức Mỹ trở nên nghiêm khắc với hàng hóa Việt Nam ?
Từ cuối năm 2017, những đòn trừng phạt đầu tiên của Trump đã khởi động. Thoạt đầu là những cú tăng vọt thuế lên mặt hàng tôm, rồi sau đó là thép và cả nhôm của Việt Nam xuất sang Mỹ. Nhưng những đòn này vẫn chưa thấm vào đâu nếu nhìn sang tương lai đầy đe dọa bắt nguồn từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung.
Bắt đầu từ năm 2018, Trump khởi động chiến dịch tấn công vào nền kinh tế Trung Quốc và có thể cả vào hệ thống chính trị độc tài của quốc gia đông dân nhất thế gới này. Chỉ ít lâu sau đó, một làn sóng ngấm ngầm di chuyển vùng đầu tư từ các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam đã diễn ra. Còn đến khi Trump áp thuế cao ngất lên toàn bộ hàng hóa Trung Quốc thì làn sóng doanh nghiệp Trung đổ bộ vào Việt Nam đã trở thành một phong trào thực sự. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019, đã có đến 2,2 tỷ USD đăng ký vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam.
Nhưng nguồn cơn khiến Trump và nhiều quan chức Mỹ giận dữ là chính quyền Việt Nam đã trở thành một nhân tố tiếp tay cho hàng Trung Quốc gắn nhãn ‘made in Vietnam’ tràn ngập thị trường Hoa Kỳ.
Trong vụ tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế "thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc" vào tháng 12/ 2017, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã xác định rằng có đến 90% sản phẩm thép từ Việt Nam nhập sang Mỹ có xuất xứ từ Trung Quốc.
Trong khi đó ở Việt Nam, một số chuyên gia độc lập đã cảnh báo về việc nhôm tấm Trung Quốc mượn đường Việt Nam sang Mỹ nhưng chính phủ và Bộ Công thương Việt Nam không có hành động cứng rắn gì. Không những thế, còn có một lỗ hổng pháp lý mà dường như bộ này cố tình để lại cho Trung Quốc tuồn hàng qua Việt Nam.
Cũng có nghĩa là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ bao gồm cả giá trị hàng hóa thép và nhôm có xuất xứ từ Trung Quốc, tức Việt Nam đã thông đồng với Trung Quốc để lừa người Mỹ.
Nếu Mỹ "siết" các điều kiện thương mại như đánh thuế xuyên biên giới, dựng đứng hàng rào kiểm nghiệm chất lượng đối với hàng hóa Việt Nam mà trước đó cá basa, tôm, gạo đã trở thành "nạn nhân", đánh mạnh thuế lên thép và nhôm Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan, và cho dù chưa đưa Việt Nam vào danh sách các nước thao túng tiền tệ nhưng vẫn xếp Việt Nam vào danh sách các nước cần theo dõi về vấn đề này, giá trị xuất siêu hàng năm của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tụt thê thảm.
Lần đầu tiên mời Mỹ đến Việt Nam để điều tra
Không phải vô duyên vô cớ mà vào kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2019, quan chức Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam - phải vội vã cảnh báo "Nhưng thực tế lại không chứng minh điều đó, mà ngược lại, trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết. Ai dám chắc chúng ta không bị trừng phạt khi xuất siêu vào Mỹ ?", khi đề cập về cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và việc rất nhiều chuyên gia dự báo rằng Việt Nam sẽ hưởng lợi, sẽ trở thành công xưởng mới của nền kinh tế toàn cầu. Có thể hiểu cách nhìn và nỗi lo lắng của Lộc cũng chính là trạng thái tâm lý của ‘đảng và nhà nước ta’.
Hẳn đó là nguồn cơn mà đã khiến giới chóp bu Việt Nam phát sốt và phải tìm nhiều cách, với thái độ ngày càng ‘chân thành’, hạn chế đòn đánh thương mại của Trump.
Một trong những cách né tránh trên là cho điều tra gấp rút vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam. Và phô trương kết quả điều tra ban đầu như một cách kể công với Mỹ.
Nhưng tiến trình quan hệ Việt - Mỹ còn bay bổng hơn cả thế. Cuộc điều tra này đã trở nên một trong số hiếm hoi lần các cơ quan chức năng Việt Nam dám làm rõ hành vi gian lận thương mại của Trung Quốc, thể hiện qua việc lần đầu tiên phía Việt Nam đã ‘can đảm’ mời Bộ An ninh nội địa của Hoa Kỳ tham gia vào cuộc điều tra này ngay tại Việt Nam.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/11/2019
Một nghịch lý kinh khủng đã, đang và sẽ còn hiện hình trong ‘nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa’ và trong ‘chính phủ kiến tạo’ ở Việt Nam : trong tài khóa năm 2020, chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc dự kiến phải vay đến 460.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 20 tỷ USD để ‘bù đắp ngân sách’, bất chấp chính phủ này vẫn tung ra các báo cáo đầy lạc quan về tốc độ tăng trưởng GDP lên đến 7% và giống hệt chỉ số thành tích GDP của ‘đảng anh’ Trung Quốc, gấp đôi mức tăng trưởng của Hoa Kỳ và gấp gần 3 lần mức tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU).
Nghịch lý ‘tăng trưởng 7%’ nhưng vẫn phải vay nợ 20 tỷ USD/năm
Vì sao lại nghịch lý ?
Từ ‘GDP ma’ đến ‘vay đảo nợ’
Nếu quả thực kinh tế Việt Nam tăng trưởng đến 7% GDP thì trừ đi khoảng hơn 4% trượt giá (đây là tỷ lệ lạm phát ‘ma’ do chính phủ ‘kiến tạo’ chứ hoàn toàn không phải là lạm phát thực), vẫn còn lại đến 3% tích lũy cho ngân sách, tương đương 6 - 7 tỷ USD.
Nhưng trong thực tế, một số chuyên gia phản biện độc lập đã tính lại rằng GDP thực của Việt Nam chỉ đạt khoảng 2 - 2,5% - căn cứ theo số liệu của Tổng cục Thống kê. Nhưng vì số liệu của Tổng cục Thống kê lại thường không đáng tin cậy do quá thiên về chủ nghĩa thành tích và động cơ chính trị ‘đại hội 13’ mà do đó thường vống hoặc khống, người ta cần có những số liệu thực tế hơn nhiều để tính lại GDP. Theo đó, không loại trừ khả năng GDP của Việt Nam chỉ tăng khoảng một vài phần trăm, thậm chí là âm, phù hợp với tình trạng số doanh nghiệp bị giải thể và phá sản ngày càng nhiều, cùng tốc độ đẩy tín dụng ra thị trường bị suy yếu, cho thấy sức khỏe nền kinh tế khá ốm yếu và mang nhiều triệu chứng suy thoái trong những năm gần đây.
Hơn nữa, chỉ trong trường hợp GDP tăng trưởng thấp, nền kinh tế và ngân sách quốc gia mới ít hoặc không có tích lũy, và do đó mới cần phải vay nợ lớn từ trong nước và từ nước ngoài. Người ta có thể tự hỏi vì sao trong rất nhiều năm qua, năm nào chính phủ cũng phải vay nợ từ 15 - 20 tỷ USD, trong đó có một phần là dạng ‘vay đảo nợ’.
Trước đây, ‘vay đảo nợ’ là cụm từ bị chính quyền xem là ‘nhạy cảm chính trị’ và cấm báo chí nói về nó. Nhưng về sau này khi mạng xã hội phát triển và quá nhiều thông tin nhạy cảm được đăng tải trên mạng xã hội, khái niệm ‘vay đảo nợ’ đã không còn bị xem là cấm kỵ.
Còn bây giờ thì đành phải huỵch toẹt ra : ‘vay đảo nợ’ tức vay nợ mới để trả nợ cũ.
Trong nhiều năm qua, thực tế đã được chính giới chuyên gia tài chính nhà nước xác nhận là ngân sách Việt Nam không còn kết dư, cũng chẳng còn nguồn dự phòng để trả cho vô số các khoản nợ trong nước và nước ngoài, mà phải cắm đầu vay mượn : ở nước ngoài vay từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á châu, Nhật Bản và một số nước khác, với phần lớn số tiền vay được dùng để trả nợ cho nợ gốc và lãi cho chính những chủ nợ này ; còn trong nước vay từ các ngân hàng thương mại cổ phần, từ quỹ Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế, và đổi lại là phát hành ‘trái phiếu chính phủ’ để trả nợ, nhưng thực chất trái phiếu này mất giá nhanh theo thời gian và chẳng có gì bảo đảm là sẽ bù đắp vốn gốc cho những chủ nợ.
Không phải bỗng dưng mà trong những năm gần đây, báo chí và dư luận xã hội lo lắng về hai quỹ Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế phải chịu nguy cơ vỡ quỹ. Hai quỹ này được tích góp từ tiền của ngưới lao động và dân chúng, bị chính phủ ‘vay bắt buộc’ nhưng chẳng có gì bảo đảm là sẽ hoàn trả nguyên trạng và nguyên giá trị tiền cho người dân.
Hiện thời, nợ nước ngoài của chính phủ - được công bố chính thức - đã vượt quá 100 tỷ USD. Còn nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, cũng hơn 100 tỷ USD. Nếu tính cả phần nợ vay trong nước, tổng nợ công vào thời điểm năm 2019 có thể xấp xỉ 500 tỷ USD, tức gấp hơn hai lần GDP mỗi năm của Việt Nam (gần 500 tỷ USD bao gồm nợ công Việt Nam đã được xác định là 431 tỷ USD vào năm 2016, cộng với nợ tăng thêm mỗi năm khoảng 20 tỷ USD từ năm 2017 đến nay).
Thời ‘phá chưa từng có’ chưa hề dừng lại
Sau đời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị xem là ‘ăn ốc’ và ‘phá chưa từng có’, chính phủ ‘đổ vỏ’ Nguyễn Xuân Phúc vừa phải cắm mặt trả nợ cho đời chính phủ trước, nhưng cũng không quên ‘kiến tạo’ những chiêu thức mới để vay nợ thêm nhằm làm giàu cho các nhóm lợi ích giao thông, khiến núi nợ công ngày càng chồng chất lên bờ vai dân tộc chỉ còn giơ xương.
Một trong những thủ đoạn như thế đã lộ diện : vào năm 2018 và 2019, Nguyễn Xuân Phúc đã trực tiếp chỉ đạo Tổng cục Thống kê ‘tính lại GDP’ và từ đó ‘lòi’ thêm đến 76.000 doanh nghiệp, do đó đã làm cho mỗi đầu người dân Việt bỗng nhiên có thêm 400 USD, còn GDP được tăng đến 30%.
Theo Luật về Nợ công, tỷ lệ nợ công quốc gia được tính theo công thức : nợ công/GDP. Mẫu số GDP càng lớn thì tỷ lệ nợ công càng nhỏ và do đó càng làm cho tình trạng vay nợ (vay trong nước và vay nước ngoài) của Chính phủ lẫn các doanh nghiệp "an toàn" hơn, đồng thời có thêm lý do để Chính phủ báo cáo và công bố về thành tích "bảo đảm an toàn nợ công" của mình.
Thủ pháp kinh tế - chính trị quá sức đơn giản là chỉ cần làm vài phép tính, cộng thêm 30% phần kinh tế phi chính thức vào GDP thì ngay lập tức tỷ lệ nợ công sẽ giảm đến 15%, tức chỉ còn khoảng 50% GDP, trở thành một con số còn bóng lộn hơn cả báo cáo nợ công "chỉ có 55% GDP" thời Nguyễn Tấn Dũng.
Khi đó, các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước cùng Chính phủ sẽ tha hồ vay được ít ra 15% GDP nữa, tương đương khoảng 30 tỷ USD, chẳng hạn "phục vụ dự án trọng điểm sân bay Long Thành và đường bộ cao tốc Bắc Nam". Hai dự án này lần lượt chiếm vốn đầu tư là 16 tỷ USD và hơn 15 tỷ USD, cộng lại xấp xỉ với "quota" 30 tỷ USD mà Chính phủ có thể vay trực tiếp hoặc bảo lãnh vay nếu thành công trong việc "tính lại GDP". Đó là chưa kể đến dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam mà Bộ GTVT đã ‘vẽ’ đến 58 tỷ USD… Cơ hội để các nhóm lợi ích "ăn tàn phá hại" vốn ODA và những nguồn vốn vay khác sẽ lại mở ra không khác gì thời Nguyễn Tấn Dũng.
Nếu kịch bản "tính lại GDP" thành công theo "yêu cầu đặc biệt" của Thủ tướng Phúc, gần 100 triệu dân Việt sẽ càng có cơ hội đội thêm gánh nặng nợ nần ngập đầu cho hiện tại và cho rất nhiều đời con cháu mai sau.
Nhưng còn quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia - vẫn thường được chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tự hào lên đến hơn 70 tỷ USD ? Tại sao chính phủ không dùng quỹ này để trả nợ nước ngoài ?
Núi nợ đang lao đến kỳ đáo hạn
Ngay cả kho dự trữ ngoại hối quốc gia hơn bảy chục tỷ USD cũng chỉ là một khái niệm tạm bợ về mặt an toàn ngoại thương, vì chỉ đáp ứng cho tiêu chí tối thiểu ba tháng nhập khẩu, trong khi còn phải chi trả nợ nước ngoài và chi dùng cho đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức hành chính với ít ra 30% trong số đó là ăn không ngồi rồi và ‘hành là chính’.
Nhưng lại chẳng có gì chắc chắn và minh chứng cho báo cáo tô hồng của chính phủ về con số trên 70 tỷ USD trên, bởi cho tới nay, Ngân hàng Nhà nước trước sau vẫn chỉ thông tin duy nhất con số này mà không minh bạch bất kỳ chi tiết nào về cơ cấu của quỹ dự trữ ngoại hối (bao nhiêu phần trăm là USD, vàng và ngoại tệ chuyển đổi được (SDR)). Cũng bởi thế, con số hơn 70 tỷ USD của quỹ này vẫn bị nghi ngờ rất lớn là ‘số ma’, còn thực tế ngoại tệ trong quỹ thấp hơn nhiều.
Về thực chất, ngân sách Việt Nam đang thiếu tiền nghiêm trọng, đặc biệt là thiếu tiền để trả các khoản nợ gốc và lãi nước ngoài lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm, và nhiều khoản nợ đang lao đến kỳ đáo hạn vào những năm 2020 và 2021, bất chấp Nhà máy In tiền quốc gia thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã rất thường báo lãi lớn trong hơn một thập kỷ và qua do… in tiền ồ ạt.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 31/10/2019
Vào kỳ họp tháng 10 - 11 của Quốc hội Việt Nam, một bộ phận dư luận xã hội đang lay lắt hy vọng về thái độ của cơ quan được xem là ‘dân cử tối cao’ này đối với Trung Quốc, rằng gần C nếu một lần nữa không dám mở miệng mà cũng chẳng dám hé răng về một nghị quyết Biển Đông.
Lần đầu tiên vấn đề Biển Đông được đưa ra trước hơn 500 đại biểu Quốc hội kể từ khi xảy ra vụ đụng độ ở khu vực gần Bãi Tư Chính vào tháng 7/2019.
Và cũng đừng lấy việc tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc vừa rút về nước để né tránh nghĩa vụ chính trị của Quốc hội.
Trục hoành và trục tung
Khung đồ thị với trục hoành biểu thị mức hèn nhát và trục tung biểu thị độ can đảm, hoặc chính xác là đỡ hèn hơn, đã lần đầu tiên, sau rất nhiều năm trời, ghi nhận đường biểu diễn ‘can đảm’ có một chút ngóc đầu khỏi trục hoành để hướng lên trục tung. Lần đầu tiên, sau rất nhiều năm, vấn đề Biển Đông được đưa vào nghị trình làm việc của Quốc hội.
Vào ngày 21/10 khi khai mạc kỳ họp quốc hội, cơ quan thẩm tra của Quốc hội lần đầu tiên lên tiếng công khai : "việc xảy ra vi phạm của các tàu Trung Quốc hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thời gian qua là nghiêm trọng".
Thế nhưng đó chỉ là cú ngóc đầu lên một chút, khỏi cái trục hoành mà đã từ quá lâu úp mặt xuống đó.
Người ta có thể nghi ngờ rằng tại sao sự lên tiếng trên lại dồn vào cơ quan thẩm tra của Quốc hội chứ không phải được phát ngôn thẳng xương sống bởi chính Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Cũng chẳng người dân nào quên rằng nếu trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào năm 2014 đã xông thẳng vào Biển Đông như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị đảng Việt Nam, Quốc hội và Nguyễn Thị Kim Ngân đã không há nổi miệng và cũng chẳng hé ra được nghị quyết nào về Biển Đông, thì 2019 còn tồi tệ hơn : trong khi bà Ngân ‘mắt liếc mày cong’ với Tập Cận Bình ở Bắc Kinh về ‘làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược toàn diện’ và cả một khái niệm cực kỳ trừu tượng và bỉ bôi là ‘đại cục’, cái bóng ma Hải Dương 981 lại hiện hình trên Biển Đông. Nhưng ngay cả thế, từ khi chia tay Tập đến nay, Nguyễn Thị Kim ngân vẫn không thốt nổi một lời về phản đối Trung Quốc.
Trong khi đó, Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc chỉ lặp lại trơn tuột cụm từ "không bao giờ nhân nhượng" đối với vấn đề độc lập, chủ quyền khi ông ta cúi mặt đọc báo cáo trước nghị trường.
Vào đầu tháng 10 năm 2019, mạng xã hội từng sôi lên khi Thủ tướng Phúc, dù đã dám hé răng về ‘căng thẳng Biển Đông’, nhưng lại không đủ can đảm nêu tên Trung Quốc.
Song những con cừu Việt lại thật đồng lòng trước nỗi sợ Trung Quốc, và chẳng có con cừu nào bị rơi vào trạng thái tuyệt đối cô đơn.
Tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Mỹ vào cuối tháng 9 năm 2019, đã có một cơ hội dành cho tân thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc là Việt Nam để cầu cứu cộng đồng quốc tế hỗ trợ vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính. Thế nhưng Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh lại chỉ ấp úng ‘các bên liên quan’ về căng thẳng ở Biển Đông mà không một lần dám nhắc đến cái tên tàu Hải Dương 8 hay kẻ nào đứng sau hoạt động thách thức của tàu này. Và cũng rất đồng điệu với Nguyễn Xuân Phúc, không một lần Minh dám nhắc đến cái tên Trung Quốc. Thái độ cúi đầu cam chịu ấy đã khiến Minh cùng sếp của ông ta là Nguyễn Phú Trọng bị mạng xã hội chỉ trích và lên án dữ dội.
Toàn bộ chứng tự kỷ chính trị câm nín ấy diễn ra trong bối cảnh đã gần bốn tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Sẽ ‘chống giặc bằng cờ’ thay cho nghị quyết Biển Đông ?
Dù kéo dài trong suốt một tuần lễ, Hội nghị trung ương 11 vào tháng 10 năm 2019 đã chỉ như mê nhảm khi Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn bế mạc hội nghị với sự lồng ghép câu ‘thần chú’ : "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo quốc gia trên cơ sở luật pháp quốc tế", sau khi đã phát biểu khai mạc Hội nghị 11 bằng cách thập thò ‘phân tích dự báo tình hình Biển Đông’.
Cử động thập thò trên đã chỉ hiện ra sau một làn sóng chỉ trích Trọng xuất hiện trong nội bộ đảng và càng sôi sục hơn về ý chí ‘hèn với giặc, ác với dân’ trong dư luận xã hội.
Thế nhưng "độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ’ và "không bao giờ nhân nhượng" là tất cả sáo ngữ hiếm hoi mà Nguyễn Phú Trọng dám mở miệng, trong khi tuyệt đối khép miệng về hai cái tên Bãi Tư Chính và Trung Quốc.
Chủ nào tớ nấy. Đến giờ thì người ta có thể hiểu vì sao cả Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thị Kim Ngân cùng một lô lốc tướng quân đội - mà theo mô tả của tướng Lê Mã Lương là ‘chỉ giỏi nhiều tiền’ và ‘không biết đọc bản đồ thực địa’ - đã chỉ biết lặp tới lặp lui những cụm sáo ngữ của Trọng, hệt như học sinh lớp cơm nát mở miệng tập nói.
Và không biết vô tình hay hữu ý, đúng vào ngày khai mạc kỳ họp quốc hội 21/10, lại có "đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu tham dự Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 9 khai mạc tại Bắc Kinh, Trung Quốc" như không có chuyện gì xảy ra !
Trong lúc 6 tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Việt Nam được cho là còn phải đi chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn, còn các tàu chiến khác, kể cả ‘tàu buồm hiện đại nhất thế giới’ mang tên Lê Quý Đôn tuyệt đối mất dạng, phần lớn lực lượng hải quân Việt Nam vẫn phủ phục trong tư thế bất lực và kiên định… bám bờ, còn viên đô đốc hải quân Nguyễn Văn Hiến vừa bị khởi tố bởi tội ‘ăn đất’, các tàu Trung Quốc đã thả giàn tung hoành ở Biển Đông và ngay trong ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi’ của Việt Nam.
Vậy nếu nổ ra ‘tình huống xấu nhất’ với Trung Quốc, hải quân Việt Nam sẽ đánh chác ra sao ? Sẽ tiếp tục phát cờ cho ngư dân để "thuyền ra biển lớn" và lại khiến rộ lên câu vè dân gian "Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động" ?
Ngay trước mắt, động tác cho đoàn của ‘bộ trưởng không biết đọc bản đồ thực điịa’ Ngô Xuân Lịch đi Trung Quốc tham dự Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 9 đã gián tiếp trả lời cho câu hỏi ‘Quốc hội liệu có ra nghị quyết về Biển Đông hay không ?’.
Thậm chí ngay cả trong trường hợp lòng can đảm nhích lên một chút theo trục tung để Quốc hội Việt Nam trưng ra một nghị quyết về Biển Đông trong kỳ họp tháng 10 - 11 năm 2019, cũng chẳng có gì bảo đảm là trong tờ giấy đó có được cụm từ ‘Bãi Tư Chính’, càng không hy vọng nào rằng tờ giấy ấy sẽ dám đả động cái tên Trung Quốc.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 29/10/2019
trong chiến dịch mang tên Bãi Tư Chính, một phần do phản ứng của Mỹ và Liên minh Châu Âu ? Hay động thái này chỉ thuần túy là ‘nghỉ giải lao giữa hiệp’ và nhằm chuẩn bị cho một giai đoạn gây hấn mới ?
Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc đang hoạt động ngoài khơi bờ biển Việt Nam (Ảnh : China Geological Survey)
‘Sống không ra sống, chết không ra chết’
Tàu Hải Dương 8 và nhóm tàu hộ vệ cho tàu này đã từng khiến giới chóp bu Việt Nam mừng hụt khi rời khỏi Bãi Tư Chính vào tháng 8 và tháng 9 năm 2019, nhưng không phải ‘một đi không trở lại’ mà chỉ đơn giản là quay về đảo Đá Chữ Thập để tiếp liệu và nghỉ ngơi. Sau đó, Hải Dương 8 đã quay trở lại Bãi Tư Chính và còn tỏ ra ‘nguy hiểm hơn xưa’, không chỉ quần thảo ở khu vực này mà còn phô diễn một loạt đường đan áo dọc theo vùng duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam, kè sát vùng biển Bình Thuận, Phan Rang, Khánh Hòa, Phú Yên, với cự ly cách đất liền Việt Nam có lúc thu ngắn chỉ còn khoảng 100 - 110 km. Trong suốt hải trình đày đọa ấy, hệ thống tuyên giáo và báo đảng Việt Nam im bặt trong nỗi khiếp nhược khôn tả, còn Bí thư quân ủy trung ương Nguyễn Phú Trọng và các đồng đảng của ông ta đã không một lần thốt nổi cái tên Bãi Tư Chính hay lên án Trung Quốc.
Đã rất rõ là Tập Cận Bình và giới lãnh đạo ‘đảng anh’ không hề muốn buông tha ‘đảng em’ một cách êm ái, mà sẽ phải là một kiểu ‘sống không ra sống, chết không ra chết’. Một khi Bắc Kinh đã có thừa thời gian để cho tàu Hải Dương 8 và các tàu hải giám hành hạ tinh thần lẫn thể xác của giới chóp bu Việt Nam đến ba tháng rưỡi trời - lâu hơn hẳn thời gian hơn hai tháng mà giàn khoan Hải Dương 981 ngự trị ở Biển Đông ngay trước mũi Bộ Chính trị đảng Việt Nam vào năm 2014, chẳng có lý do đặc biệt gì để Trung Quốc không tiếp tục chiến dịch gây hấn ở Bãi Tư Chính và còn có thể ở quần đảo Trường Sa trong những tháng tới.
Việc Trung Quốc tự rút tàu Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính và quay trở lại Trung Quốc vào ngày 24/10 cũng bởi thế chẳng có gì đáng tự hào và tự tin cho chính sách ‘đấu tranh khôn khéo’ và ‘vờn tàu’ của Việt Nam.
Thậm chí ngược lại, ba tháng rưỡi là thời gian quá đủ để chứng minh một Việt Nam cô độc tận cùng trên trường quốc tế bởi lối hành xử đu dây ngả ngớn, chính sách ‘Ba Không’ gậy ông đập lưng ông và thói ‘hèn với giặc, ác với dân’, trong khi lại cho thấy Bắc Kinh đã đạt được thành công bước đầu khi dần biến Bãi Tư Chính từ ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’ thành ‘khu vực tranh chấp’, trước khi nhốt thẳng cánh vùng biển dồi dào dầu khí này vào ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc’.
Lịch đi Hương Sơn và Trọng không đi Mỹ
Đáng chú ý, vụ rút Hải Dương 8 lại trùng với thời điểm Ngô Xuân Lịch - Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam - dự Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh. Trong phát biểu, Lịch đã chẳng một lần dám đề cập đến vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính mà chỉ nói chung chung về ‘căng thẳng Biển Đông’, nhưng lại được các dư luận viên Việt Nam tung hô là ‘thái độ dũng cảm’.
Việc đích thân Ngô Xuân Lịch, chứ không phải là một cấp thứ trưởng quốc phòng, dự Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh phải chăng nhằm thỏa mãn yêu sách ‘triệu tập chư hầu’ của Tập Cận Bình, và do đó Trung Quốc đáp lại bằng hành động tạm rút Hải Dương 8 về nước ?
Hay phải chăng sau một thời gian cố gắng ‘triệu tập’ Nguyễn Phú Trọng nhưng không được, thay vào đó là những chuyến đi Trung Quốc thay thế của Nguyễn Xuân Phúc và Nguyễn Thị Kim Ngân, Bắc Kinh đành tạm hài lòng với sự có mặt bổ sung của Ngô Xuân Lịch ?
Hoặc, và trường hợp này có thể là tệ nhất, giới ‘văn dốt võ dát’ Việt Nam đã thông qua Ngô Xuân Lịch, hay qua kênh ngoại giao, để nhượng bộ trước một số yêu sách nào đó của Trung Quốc ? Đó là những yêu sách gì ?
Một chi tiết khác đáng chú ý là tàu Hải Dương 8 rút về Trung Quốc chỉ ít ngày sau khi Nguyễn Phú Trọng lần đầu tiên thú nhận ‘cũng là đang là bệnh nhân’ trong một cuộc tiếp xúc cử tri Hà Nội vào trung tuần tháng 10 năm 2019. Trong mắt rất nhiều người, đó là thông điệp gián tiếp về việc ông ta không có khả năng đi Mỹ theo kế hoạch đã hẹn với Donald Trump. Và tất nhiên, việc Trọng ngồi một chỗ sẽ làm cho Trung Quốc hài lòng hơn cả, bởi một trong những mục đích chính của tàu Hải Dương 8 gây hấn ở Bãi Tư Chính là nhằm buộc ‘đảng em’ không rơi vào vòng tay Hoa Kỳ, không có ‘đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ và cũng không tham gia vào liên minh quân sự Mỹ - Nhật - Ấn - Úc.
Nếu giả thiết trên là đúng, chiến dịch mang tên Hải Dương 8 đã tạm kết thúc, mà về thực chất là hoàn thành thắng lợi giai đoạn đầu : buộc Nguyễn Phú Trọng từ bỏ giấc mơ đi Mỹ.
Tuy nhiên, cơ chế nghỉ giải lao của chiến dịch trên chỉ là tạm thời, trong khi chẳng có gì chắc chắn là Hải Dương 8 là hình ảnh cuối cùng của Bắc Kinh ở Biển Đông và Bãi Tư Chính trong năm 2019 và năm 2020.
Ác mộng còn lâu mới hết
Giờ đây, bất cứ một phương án đi Mỹ của một nhân vật nào khác, được Nguyễn Phú Trọng ủy quyền, cũng rất dễ bị Trung Quốc ‘nổ súng’ để tiếp tục cuộc hành trình trừng phạt của Hải Dương 8, hoặc một tàu khác hay cả giàn khoan khổng lồ - như Đông Phương hay Hải Dương 982 - vào Biển Đông và lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cũng bởi sau sức ép đối với chuyện đi Mỹ của chóp bu Việt Nam, Trung Quốc vẫn còn đó một tham vọng ghê gớm khác : bắt Việt Nam phải ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ với Trung Quốc, mà thực chất là kế hoạch xông vào nhà người khác ăn cướp.
Trong tình cảnh dầu khí là nguồn tài nguyên thiên nhiên cuối cùng - với trữ lượng còn lại chỉ còn tối đa đến năm 2025 - mang lại ngoại tệ nuôi đảng, yêu sách chia bôi tài sản của Trung Quốc đang đẩy kẻ cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa vào chân tường và không lối thoát.
Sau cơn ác mộng mang tên Hải Dương 8, chính thể độc tài bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’ sẽ còn phải mất ngủ và đau tim trong những năm tháng tới đây.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 25/10/2019
Như một quy luật đã thành hình nhưng luôn bị giới chóp bu Đảng cộng sản Việt Nam cố tình giấu giếm, cứ vài năm lại xảy ra hiện tượng có đến hàng trăm đại biểu Quốc hội bỗng nhiên "mất tích" trong một phiên họp tại nghị trường.
Cảnh vắng hoe tại một phiên họp của Quốc hội CSVN. (Hình : VOV)
Nhưng càng về sau này, tần suất "mất tích" càng xảy ra dày hơn, còn chu kỳ "mất tích" lại được rút ngắn, trong khi số lượng "mất tích" ngày càng nhiều hơn.
Quy luật "mất tích"
Quốc hội đang bước vào kỳ họp tháng Mười và Mười Một, 2019. Liệu sẽ lại xảy ra nạn "mất tích" đại biểu Quốc hội tại kỳ họp này ?
Còn nhớ, kỳ họp thứ 7 của Quốc hội vào tháng Năm và tháng Sáu, năm 2017, chỉ là một trong những minh chứng hùng hồn cho bầu không khí trống vắng đến lạnh người.
Trống lạnh đến nỗi Nguyễn Thị Kim Ngân, chủ tịch quốc hội, phải thêm một lần nữa thừa nhận sự thật bỉ bôi này : "Chưa kỳ nào đại biểu quốc hội vắng nhiều như kỳ họp này. Không hôm nào vắng dưới 30 đại biểu, trung bình mỗi ngày có 30-50 đại biểu vắng họp", và "có những đoàn vắng một nửa số đại biểu. Cá biệt có hôm vắng trên dưới 100 đại biểu".
Trong khi một số quan chức lãnh đạo của Quốc hội đòi phải "chấn chỉnh, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội", thì cũng có những dư luận "thân đảng" lên tiếng phán quyết về việc những đại biểu Quốc hội "trốn họp" là không xứng đáng với vị trí mà người dân đã bầu cho họ và đồng tiền thuế mà nhân dân bỏ ra.
Những đánh giá trên là không sai và đã nhiều lần được nêu ra bởi dư luận người dân và mạng xã hội khi đặc biệt nhấn mạnh con số hàng tỷ đồng hoặc hơn tiền thuế của dân đã được chi cho mỗi ngày họp của Quốc hội, trước khi các cơ quan dân cử buộc phải thừa nhận sự thật tồi tệ này. Nhưng vẫn là chưa đủ…
Mà còn có những nguồn cơn sâu xa hơn hẳn.
"Nhất bộ, nhì ban, cơ nhỡ lang thang sang Quốc hội"
Đầu tiên là vai trò của Quốc hội trong thể chế chính trị độc đảng và kéo theo dàn nhân sự của các cơ quan quốc hội. "Nhất bộ, nhì ban, cơ nhỡ lang thang sang Quốc hội" – giới quan chức Quốc hội vẫn thường ta thán như thế khi so sánh với các bộ ngành màu mỡ bên chính phủ và sau đó là các ban đảng ít màu mỡ hơn.
Trong thực tế đúng là như vậy, số quan chức này không có thực quyền, chỉ có tiếng nhưng không có miếng. Còn Quốc hội cho dù được tiếng là "cơ quan dân cử tối cao", nhưng về thực chất chỉ là một loại cơ quan "yếu", nếu không nói thẳng là cơ quan bù nhìn.
Trong rất nhiều năm, dù không được phát lộ trong các cuộc họp chính thức của Quốc hội, nhưng bên lề nghị trường đã có một số đại biểu than vãn về tình trạng Quốc hội khá bị động khi xem xét và quyết định một số vấn đề, dự án mà bên chính phủ trình, nhưng vẫn phải "gật". Trong một số trường hợp, Quốc hội còn bị xem là "bù nhìn" vì chẳng được quyết định…
Tiêu biểu cho cơ chế "bù nhìn" của Quốc hội là một vấn đề được nêu ra trong kỳ họp thứ 7 : bất chấp các nghị quyết của Quốc hội và Luật Đầu Tư Công quy định dự án có tổng vốn đầu tư từ 10,000 tỷ đồng trở lên phải được trình qua Quốc hội, phía các cơ quan chính phủ vẫn phớt lờ, mà chỉ đến khi dự án gây hậu quả hoặc đội vốn quá cao và sinh nạn thiếu tiền thì mới chịu kêu gào đòi được thông qua vốn bổ sung.
Trong thực tế, khá nhiều dự án kinh tế với vốn đầu tư khổng lồ nhưng đã chỉ trình ra Quốc hội theo cách cho có, như dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam giá trị 15 tỷ USD, dự án sân bay Long Thành 18 tỷ USD, dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam lên đến gần 60 tỷ USD,… Trong khi đó, cơ quan thẩm định dự án của Quốc hội không chỉ bị xem là non kém chuyên môn mà luôn trở nên vô hiệu trong trường hợp dự án đã được "Bộ Chính trị phê duyệt rồi".
Vụ việc Bộ Chính trị "ngồi xổm trên pháp luật" mới nhất là vào tháng Giêng, 2019, cơ quan siêu bộ này tự cho nó thẩm quyền duyệt tăng vốn dự án Metro Bến Thành-Suối Tiên ở Sài Gòn lên gần 3 lần, trong tình thế dự án này đã đội vốn kinh khủng mà chỉ còn cách hoặc cắm đầu phê duyệt, hoặc cho bắt hết dàn quan chức quản lý dự án.
Không chỉ bị phía chính phủ phớt lờ và xem thường, giới đại biểu Quốc hội còn bị áp đặt nặng nề bởi ý chỉ "cương lĩnh đảng quan trọng hơn Hiến pháp" – như một tuyên bố không cần úp mở của Nguyễn Phú Trọng vào năm 2013, lại chính là người mà đã "trưởng thành" từ cái ghế chủ tịch Quốc hội.
Trong một thể chế chính trị nặng về đàn áp người dân, nhiều dự án luật quá cấp thiết cho quyền dân như dự luật về hội, dự luật biểu tình, dự luật trưng cầu dân ý… đã được quy định trong Hiến Pháp, nhưng đã bị đảng "treo" từ rất nhiều năm qua, cho đến nay vẫn không được đưa ra Quốc hội để bỏ phiếu thông qua.
Vô tích sự hay "phản động" ?
"Họp Quốc hội mà chỉ để bấm nút đồng ý cho những chuyện đã được Bộ Chính trị hay Thường trực Chính phủ quyết định rồi thì họp để làm gì ?" – có lần một đại biểu Quốc hội than thở ngoài hành lang nghị trường.
Còn không ít lời than vãn mang tính phản ứng của những đại biểu Quốc hội khác. Có đại biểu còn tuyên bố ngoài lề rằng họp hành cơ chế kiểu này thì thà đi nhậu sướng hơn.
Trong khi đó, Quốc hội của bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã làm gì để hạn chế tình trạng đại biểu bỏ họp ?
Không những không làm gì để tạo hưng phấn ngồi họp và mở miệng cho giới đại biểu, tại kỳ họp tháng Năm và tháng Sáu, 2019, bà Ngân còn lạnh lùng "chặn họng" những đại biểu cắc cớ hỏi về các vụ dự luật đặc khu và vụ phân bón giả Thuận Phong – hai vụ việc đều bị dư luận cho là ít nhiều có dính dáng đến đương kim chủ tịch Quốc hội.
Dân gian và giới "nghị gật" cũng nhớ như in là vào tháng Năm, 2018, chính Nguyễn Thị Kim Ngân đã lạm dụng cái ghế chủ tịch Quốc hội để át đi tiếng nói phản biện của một ít đại biểu Quốc hội phản bác dự luật đặc khu bằng lối nói đầy thủ thuật "Bộ Chính Trị đã quyết định về luật đặc khu rồi…"
Không chỉ hành xử khuất tất với dự luật đặc khu mà còn "gật vô thức" với một số vụ khác mang đậm yếu tố lợi ích nhóm như bỏ phiếu cho tăng giá điện, xăng dầu, dịch vụ y tế, với nhiều loại thuế được "kiến tạo" để bóp hầu bóp họng dân chúng,… Quốc hội đã tự biến nó thành cơ quan không chỉ vô tích sự về công tác phản biện và giám sát, mà còn bị không ít người dân xem là "phản động" – theo đúng nghĩa hành động ngược lại quyền lợi của tuyệt đại đa số nhân dân đã bầu ra nó.
Nhưng với "bạn vàng" thì khác hẳn. Nếu trong vụ Hải Dương 981 vào năm 2014, Quốc hội và Nguyễn Thị Kim Ngân đã không há nổi miệng và cũng chẳng trút ra được một nghị quyết nào về Biển Đông, thì 2019 còn tồi tệ hơn : trong khi bà Ngân "mắt liếc mày cong" với Tập Cận Bình ở Bắc Kinh về "làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược toàn diện" và cả một khái niệm cực kỳ trừu tượng và bỉ bôi là "đại cục", cái bóng ma Hải Dương 981 lại hiện hình trên Biển Đông. Nhưng ngay cả thế, từ khi chia tay Tập đến nay, Nguyễn Thị Kim ngân vẫn không thốt nổi một lời về phản đối Trung Quốc.
Rốt cuộc, ngày càng nhiều đại biểu Quốc hội bỏ họp. Đó cũng là cái cách lãn công và biểu thị ý chí phản ứng gián tiếp của ít nhất 20% trong tổng số gần 500 "nghị gật" trước ý chỉ độc đoán của đảng, thủ thuật làm trước báo sau của chính phủ và các nhóm lợi ích kinh tế "thế hệ 4.0", thói áp chế ngôn luận bởi giới chóp bu của Quốc hội, và có thể với ý chí "hèn với giặc, ác với dân" của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chính đảng giật dây nó trong vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính – điều mà nhiều đại biểu dường như đã dám nghĩ đến trong đầu tuy chẳng dám nói ra.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 24/10/2019
Trước khi Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền diễn ra vào nửa đầu tháng 10 năm 2019, không ít người đã hy vọng rằng ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sẽ trở thành ‘minh quân’ với một tuyên bố lên án Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính và hội nghị này sẽ phát ra một nghị quyết về Biển Đông, làm tiền đề quan trọng cho việc kiện Trung Quốc.
Nhóm nhân sỹ mang Tuyên bố Biển Đông đến Quốc hội đi qua Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội hôm 8/8/2019. (Ảnh chụp video đăng trên Facebook A Nguyen Quang)
Vẫn ‘câm như hến’ !
Thêm một lần nữa trong nhiều lần, một ít chuyên gia và cũng chỉ một ít tờ báo nhà nước - thật sự sốt ruột trước cảnh ‘trùm mền’ của giới chóp bu Việt Nam - đã phải liệt kê hàng nửa tá cơ sở cho triển vọng ‘Việt Nam sẽ chắc thắng nếu kiện Trung Quốc’.
Người dân hy vọng rằng Bộ Chính trị Việt Nam phải tính đến việc kiện Trung Quốc, hoặc ít nhất cũng lấp ló khả năng kiện tụng ra trước công luận nhằm xoa dịu phản ứng của dư luận xã hội về một chế độ chỉ biết ‘hèn với giặc, ác với dân’.
Hội nghị trung ương 11 diễn ra trong bối cảnh đã hơn ba tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Thế nhưng kết quả của Hội nghị 11 thật bi đát : dù kéo dài trong suốt một tuần lễ, hội nghị 11 đã chỉ như mê nhảm khi Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn bế mạc hội nghị trên với sự lồng ghép câu ‘thần chú’ : "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo quốc gia trên cơ sở luật pháp quốc tế", sau khi đã phát biểu khai mạc Hội nghị 11 bằng cách thập thò ‘phân tích dự báo tình hình Biển Đông’.
‘Không nhân nhượng’ hay đã ‘nhượng nước’ ?
Vài ngày sau Hội nghị 11, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng có một cuộc tiếp xúc với các đại biểu thuộc đơn vị bầu cử số 1 thuộc 3 quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ ở Hà Nội vào sáng ngày 15/10/2019. Sau khi đã lần đầu tiên thú nhận ‘đang là bệnh nhân’ với giọng có vẻ mệt mỏi và cam phận chung sống với bệnh tật, Trọng huấn thị : "Làm sao giữ đất nước yên bình, tiến lên nhưng đồng thời giữ đất nước độc lập thế mới là giỏi. Cha ông ta cũng thế thôi, các cụ khôn khéo lắm. Cố gắng giữ quan hệ nhưng cái gì về độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ta không bao giờ nhân nhượng".
Phát ngôn trên xảy ra trong bối cảnh tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc và các tàu hộ vệ cho tàu này đã tiến rất sâu vào vùng lãnh hải Việt Nam ở các tỉnh Bình Thuận, Phan Rang, Phú Yên, Bình Định…, với nhiều lần di chuyển đan áo mà có lần chỉ còn cách bờ biển Việt Nam khoảng 100 km.
Lời huấn thị của Nguyễn Phú Trọng đã mâu thuẫn, mâu thuẫn khủng khiếp với với thực tế mất chủ quyền và đang dần mất nước.
Không chỉ nhân nhượng, mà về thực chất Đảng cộng sản Việt Nam đã để mặc cho kẻ thù biến vùng lãnh hải chủ quyền của Việt Nam thành ‘vùng biển đang tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam’, bộc lộ sự ươn hèn không thể chấp nhận được.
Nguồn cơn nào đã khiến Nguyễn Phú Trọng và các đồng đảng của ông ta ra nông nỗi ấy ?
‘Vi phạm các thỏa thuận song phương’ : Trọng đã ký cái gì ?
Hãy nhớ lại, vào ngày 18/9/2019 lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tung ra tối hậu thư lên án Việt Nam đã xâm phạm quyền lợi của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính.
Rất đáng chú ý, tuyên bố trên có nội dung : "Kể từ tháng Năm năm nay, phía Việt Nam đã tiến hành khoan dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính (Wan'an Tan) của Trung Quốc, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của Trung Quốc. Đây cũng là hành vi vi phạm các thỏa thuận song phương, bao gồm Hiệp định về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề liên quan đến biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, Điều thứ năm của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những điều khoản của UNCLOS".
Tuy Cảnh Sảng - người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc - không nói rõ về thỏa thuận song phương nào, nhưng chừng đó là quá đủ để dư luận hình dung và liên tưởng đến hàng loạt ‘thỏa thuận song phương’ mà giới chóp bu Việt Nam đã lén lút ký với Trung Quốc nhưng không công khai cho người dân biết, dẫn tới hậu quả mất thác Bản Giốc trước đây, liên quan đến vô số đồn đoán về ‘Mật ước Thành Đô’ 1990 - hay còn gọi là ‘thỏa thuận bán nước’, những thỏa thuận song phương nào đó về xử lý tranh chấp ở Biển Đông liên quan đến ‘đường lưỡi bò 9 đoạn’ của Trung Quốc, và quá nhiều thiệt hại trong quan hệ kinh tế Việt - Trung sau này.
Điều mà người ta tự hỏi và cho tới giờ vẫn còn kinh ngạc về cái dấu hỏi to tướng ấy là vì sao cho tới nay, sau hơn 3 tháng tàu Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm vào ‘vùng biển chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, vẫn không một quan chức nào trong Bộ Chính trị Việt Nam dám nhắc tới cái tên Trung Quốc ?
Phải chăng cái gọi là ‘thỏa thuận song phương’ mà những quan chức chóp bu như Nguyễn Phú Trọng đã ký kết với Bắc Kinh đã quá bất lợi cho phía Việt Nam để đẩy tới tình thế ‘há miệng mắc quai’ - cả Bộ Chính trị Việt Nam phải câm như hến khi bị phía Trung Quốc bắt bẻ ? Nếu đúng thế, những điều khoản nào bị sơ hở và bất lợi ? Trách nhiệm soạn thảo, thông qua và ký kết những điều khoản bất lợi đó thuộc về những quan chức nào ? Bộ Chính trị và Quốc hội Việt Nam có dám đòi hỏi Nguyễn Phú Trọng và những quan chức cận thần của ông ta phải công khai các thỏa thuận song phương đã ký với Trung Quốc cùng những điều khoản bất lợi đang khiến Trọng ‘ngậm hột thị’ ?
Lại giở bài ‘độc quyền yêu nước’ và ‘ác với dân’
Cho tới nay và rất tương đồng với tinh thần "hèn với giặc, ác với dân" của năm 2014 và tại nhiều thời điểm khác, chính quyền và giới quân sự Việt Nam vẫn "rúc mặt vào gối" mà không dám hành động mạnh mẽ trước Trung Quốc.
Hội nghị trung ương 11 và cá nhân Nguyễn Phú Trọng đã cung cấp thêm một bằng chứng hùng hồn về tinh thần ‘không kiện Trung Quốc’ như thế - tiền đề dẫn tới tương lai mất trắng toàn bộ lãnh thổ Việt Nam vào tay kẻ thù.
Không những không dám hé môi cái tên Trung Quốc, Nguyễn Phú Trọng còn nói như chì chiết trong cuộc tiếp xúc cử tri ngày 15/10 : "Hiện nay có một số phần tử cố tình kích động, to tiếng lên, lên gân lên, ra vẻ ta là anh hùng, ra vẻ ta là yêu nước, vậy còn Trung ương đảng, Chính phủ, Tổng bí thư không yêu nước à ? Vô trách nhiệm à ?"
Một tuần lễ trước cuộc tiếp xúc cử tri trên là một hội thảo khoa học về Bãi Tư Chính, với thành phần gồm nhiều trí thức phản biện mà bị đảng cầm quyền cho là ‘phản động’. Trong đó, tướng Lê Mã Lương đã mãnh liệt tố cáo nhiều tướng ở Bộ Quốc phòng ‘chỉ giỏi nhiều tiền’ và Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch còn không biết xem bản đồ thực địa quân sự. Đa số ‘phản động’ còn lại đều chỉ trích thái độ nhu nhược hèn yếu trước Trung Quốc của chính quyền…
Rõ ràng Trọng đã tìm cách trả đũa ‘thế lực phản động’ đã dám chỉ trích ông ta và Đảng cộng sản Việt Nam là hèn nhát.
Nhưng với không ít người dân thì từ ‘hèn nhát’ vẫn còn quá lịch sự. Nếu Nguyễn Phú Trọng đủ can đảm đóng vai một gã xe ôm thì chỉ trong vài giờ đồng hồ, ông ta có thể nghe được quá nhiều từ ‘bán nước’ mà người dân dành tặng cho chế độ độc tài và ‘kiên định không kiện Trung Quốc’ của Trọng.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 23/10/2019
Có lẽ đáng ngạc nhiên khi ông Mark Esper, người vừa trở thành Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, sẽ có chuyến công du Việt Nam, nhiều khả năng diễn ra tháng Mười, 2019, với mục đích danh nghĩa là "thảo luận việc gia tăng hợp tác quốc phòng giữa hai nước".
Hai chuyến công du Việt Nam vào năm 2018 của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis đã gần như công cốc. (Hình : Getty Images)
Nếu điều này đúng, thì đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba chỉ trong vòng hai năm của các bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ.
Tiền trạm cho Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper là ông Randall Schriver, phụ tá bộ trưởng quốc phòng phụ trách an ninh khu vực Ấn Độ Thái Bình Dương.
Randall Schriver đã có một cuộc gặp với thứ trưởng quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Tuy nhiên đã không có tin tức đặc việt nào được đưa lên mặt báo chí nhà nước Việt Nam về nội dung trao đổi giữa hai giới chức này.
Thậm chí một số dư luận còn nghi ngờ không biết cuộc gặp Randall Schriver với Nguyễn Chí Vịnh có gì được xem là thực chất hay không.
Mối ngờ vực trên là có cơ sở. Bởi vào năm 2018, Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis đã có đến hai lần công du Việt Nam, vào tháng Ba và tháng Mười, một mật độ đáng ngạc nhiên, cho thấy Hoa Kỳ vẫn giữ nguyên chiến lược xoay trục về Châu Á – Thái Bình Dương và mối quan tâm về vấn đề Biển Đông và Việt Nam.
Trước hai chuyến thăm Việt Nam của James Mattis, cũng đã có những phụ tá Bộ quốc phòng Mỹ làm việc với Bộ quốc phòng Việt Nam.
Thế nhưng kết quả được xem là thành công nhất của James Mattis với phía Việt Nam chỉ là một hàng không mẫu hạm của Mỹ là USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng vào tháng Ba năm 2018, sự kiện lịch sử kể từ năm 1975, và từ sau năm 1995 khi Mỹ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ, gần giống một vành đai tạm thời bảo vệ cho Tập đoàn dầu khí ExxonMobil khai thác mỏ Cá Voi Xanh.
Ngoài ra, người ta đã không nhận ra bất kỳ một dấu hiệu tiến triển nào trong khái niệm được gọi là "làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ". Tất cả vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái "giao lưu".
Từ đó đến nay, những đề nghị của Hoa Kỳ được cho là muốn tiếp cận sâu hơn nữa hệ thống cảng biển Việt Nam, đặc biệt là quân cảng Cam Ranh, hoặc một vị trí cảng biển là nơi có thể dùng làm căn cứ hậu cần – kỹ thuật cho hải quân Mỹ, đã bị phía Việt Nam lặng lẽ khước từ.
Nguyễn Phú Trọng, ngoài việc ngồi cả hai ghế tổng bí thư và chủ tịch nước còn là Bí thư Quân ủy trung ương và nắm giữ cả vận mệnh quốc phòng của quốc gia, đã cùng với Bộ Ngoại giao của ông ta cố thủ nguyên tắc "Ba Không," nhất là không liên minh quân sự với nước này để chống nước khác, và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam.
Ngay cả khi đã bị Trung Quốc gây hấn và đe dọa sát sườn ở khu vực Bãi Tư Chính trong hai năm liên tiếp 2017 và 2018, Trọng cũng chỉ muốn "dựa hơi" hàng không mẫu hạm và các tàu chiến Mỹ để "hù" Trung Quốc.
Tức là chỉ mở rộng khái niệm "Việt Nam tôn trọng tự do hàng hải" và cả "tự do hàng không" để tàu chiến và máy bay Mỹ có thể áp sát các căn cứ quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng vẫn không chịu nhả bất kỳ vị trí quân sự nào trên đất liền của Việt Nam để việc hợp tác phòng thủ quân sự với Mỹ có được một chút gì đó thực chất.
Nói cách nào đó, hai chuyến công du Việt Nam vào năm 2018 của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis đã gần như công cốc.
Nhưng trong thực tế, chính sách "Ba Không" của Việt Nam đã thẳng thừng gậy ông đập lưng ông.
"Ba Không" và tương lai lộn cổ
Bởi cuộc chiến giàn khoan của Trung Quốc còn lâu mới chịu kết thúc. Đến năm 2019, vụ tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, và sau đó là hàng lô hàng lốc phương tiện khai thác dầu như tàu cẩu Lam Kình, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 kéo vào Biển Đông, giễu qua ngay trước mũi Bộ Chính trị Việt Nam, và có trời mới biết còn bao nhiêu hình ảnh ngáo ộp nữa sẽ được Bắc Kinh cho trình diễn trong tương lai gần…, đã và sẽ làm tê tái những kẻ vẫn cắm mặt giương cao lá cờ mang tên "Mười Sáu Chữ Vàng" ở Hà Nội.
Liệu đến lúc này, Việt Nam có chịu xem xét lại chính sách "Ba Không" và nín lặng từ bỏ một phần của chính sách này ?". Hay vẫn cố giữ nguyên chính sách đó và lại tìm cách đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ… cho tới lúc té lộn cổ ?
Tương lai té lộn cổ của giới chóp bu chuyên thói bắt cá nhiều tay của Việt Nam là hầu như không cần bàn cãi.
Đương Kim Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper. (Hình : Getty Images)
Cho tới nay khi đã phải chịu sức ép nặng nề và liên tiếp của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính và một số vùng biển Phan Rang, Phan Thiết, Phú Yên…, Bộ Chính trị Việt Nam đã trở thành một kẻ cô độc theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen khi không nhận được bất cứ sự ủng hộ nào, thậm chí còn không có nổi sự chia sẻ nào từ không chỉ các nước trong khối ASEAN, mà còn từ 12 quốc gia "đối tác chiến lược" với Việt Nam, kể cả Nga là nước có lợi ích trong dự án khai thác mỏ Lan Đỏ.
Nhưng đau đớn nhất lại chính là "đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất" – Trung Quốc, theo cái cách cắm đầu ca tụng không còn biết liêm sỉ là gì của giới lãnh đạo Việt Nam dành cho kẻ cướp, lại là kẻ đang dồn "đảng em" vào chân tường.
Chỉ còn lại có Mỹ, đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng chưa bao giờ là "đối tác chiến lược" của Việt Nam.
Nhưng người Mỹ sẽ làm gì cho Việt Nam ? Mỹ sẽ chỉ bảo vệ cho ExxonMobil và mỏ dầu Cá Voi Xanh, hay còn muốn đứng bên Việt Nam ở Bãi Tư Chính ?
Song đến lúc này, rất có thể người Mỹ đã rút ra một bài học xương máu trong quan hệ với các nước cộng sản : Mỹ càng tỏ ra vồ vập và vội vã bao nhiêu trong quan hệ hợp tác thì chính thể độc tài ở Việt Nam càng kiêu ngạo cộng sản và càng nêu cao tinh thần ỷ lại bấy nhiêu, trong khi vẫn không thể uốn thẳng lưng trước kẻ cùng chung ý thức hệ là Trung Quốc.
Donald Trump gửi điều kiện nào qua Mark Esper ?
Sau ba lần ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam ở cấp Bộ Ngoại giao, phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc đã im bặt. Tương tự, sau khi tiến vào Biển Đông, hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Mỹ đã chỉ làm nhiệm vụ "tuần tiễu" mà chẳng thèm bén mảng đến gần Bãi Tư Chính – nơi mà giới chóp bu Việt Nam đang lo sốt vó. Cách nào đó, người Mỹ đang cố tình để mặc cho các tàu Trung Quốc tung hoành ở đó.
Tin tức chính thức về chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper lại xảy ra đồng thời với một thông tin không chính thức về chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng bị hoãn lại.
Hoặc Trọng không thể đi Mỹ vì gánh nặng sức khỏe đang trở nên quá nan giải đối với ông ta, đặc biệt là những di chứng không thể xem thường sau cú bạo bệnh ở xứ Kiên Giang "nhà ba Dũng" vào tháng Tư, 2019.
Hoặc ngay cả nhân vật nào được cử thay Trọng để đi Washington gặp Trump cũng không thể chắc chắn là có được Tổng thống Mỹ tiếp hay là không.
Cách chơi và đàm phán của người Mỹ đã thay đổi, thay đổi nhiều so với thời một tổng thống Barack Obama dễ đoán, dễ chơi và cũng dễ bị ăn hiếp bởi giới quan chức Việt Nam chói sáng tính khôn lỏi và các thủ đoạn tiểu xảo.
Đến lúc này, tại sao lại không nghĩ rằng chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper là một phép thử mà Tổng thống Trump, với tính cách thật thực dụng của ông ta, đặt ra đối với Hà Nội ?
Rằng trước khi có một cuộc gặp chính thức ở cấp nguyên thủ quốc gia ở Washington và đề cập đến điều gì đó na ná như "quan hệ đối tác chiến lược," Hà Nội cần phải chứng tỏ dứt khoát quan điểm về từ bỏ "Ba Không" và thói đu dây, về tính thực chất phải có chứ không thể mãi mãi chỉ là phép tô hồng nếu "quan hệ đối tác chiến lược Việt – Mỹ" được chính thức hình thành, và cách quan hệ cùng cách chơi với Mỹ. Đó có thể là những điều kiện cứng rắn của Trump.
Có lẽ đã có những hứa hẹn ngon ngọt với Mark Esper, như thường thấy trước đây của Bộ quốc phòng Việt Nam để bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ chấp nhận đến Hà Nội, để rồi chẳng nhận được cái gì thực chất ngoài những lời hứa ngon ngọt vẫn tuôn ra trên vành môi thơn thớt của bộ mặt thỗn thện nung núc mỡ màng.
Tuy nhiên trời chưa thể sáng nếu chưa có nắng. Tất cả vẫn còn ở phía trước. Rồi đây người ta sẽ biết rõ về Nguyễn Phú Trọng và thể chế chính trị uốn éo của ông ta có còn ôm giữ thói đầu môi chót lưỡi hay là không.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 20/10/2019
Trong bối cảnh chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc vẫn tiếp nối đà say men thắng lợi với những con số tăng trưởng GDP lên đến 7% nhưng lại bị nghi ngờ lớn về ‘ma số liệu’, còn ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vẫn mê man về ‘đất nước ta chưa bao giờ ổn định như thế này !’ và ‘triển vọng phát triển còn tốt lắm’, vào ngày 10/10/2019 hãng đánh giá tín nhiệm có uy tín của quốc tế là Moody's đã bất ngờ thông báo đang xem xét hạ mức tín nhiệm quốc gia Việt Nam xuống từ mức Ba3 hiện tại, đồng thời xem xét hạ mức đánh giá 17 ngân hàng Việt Nam, vì một lý do hiếm khi được công bố : Chính phủ Việt Nam chậm thanh toán một số khoản nợ tới hạn.
Việt Nam bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia ?
‘Rủi ro tín dụng đáng kể’ và núi nợ xấu ngân hàng
Thang xếp hạng của Moody's được cấu tạo từ Aa đến Caa với ký hiệu các con số 1, 2 và 3 ; con số càng thấp thì xếp hạng càng cao. Mức từ Aa đến Aa3 có chất lượng cao nhất và rủi ro tín dụng thấp nhất ; từ A1 đến A3 có chất lượng trên trung bình và mức rủi ro thấp ; từ Ba1 đến Ba3 có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng đáng kể ; còn các mức xếp dưới nữa lần lượt có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng cao ; và chất lượng thấp và rủi ro tín dụng rất cao.
Hiện thời, mức Ba3 mà Moody's xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam là có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng đáng kể.
Mức xếp hạng trên là phù hợp với thực tế về tình trạng tăng trưởng nóng về tín dụng (đẩy vốn ra thị trường) của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong nhiều năm qua, đặc biệt vốn tín dụng được bơm vào hai kênh đầu cơ chủ yếu là thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.
Hậu quả của chính sách tăng trưởng tín dụng nóng và sử dụng đòn bẩy cao (margin) từ những năm 2006, 2007 đến nay là một núi nợ xấu ngân hàng, trong đó nợ không thể đòi (những khoản vay mất khả năng thanh toán) có thể chiếm đến 50% tổng nợ xấu.
Tổng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn cao ngất, có thể lên đến 900.000 - 1 triệu tỷ đồng hoặc hơn, bất chấp việc Ngân hàng Nhà nước và chính phủ vẫn luôn công bố là đã ‘khuôn’ nợ xấu dưới mức 3%. Cho tới nay và sau 5 năm Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) ra đời, hoạt động ‘xử lý nợ xấu’ vẫn chỉ chủ yếu… trên giấy.
Và núi nợ nước ngoài
Từ trước tới nay chính phủ và Bộ Tài chính Việt Nam vẫn luôn công bố rằng họ luôn trả nợ nước ngoài đầy đủ và kịp thời. Tuy nhiên, họ lại chưa bao giờ công bố chi tiết về các khoản nợ nước ngoài, bao gồm nợ của chính phủ, nợ do chính phủ bảo lãnh, và nợ tự vay tự trả của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhưng động thái xem xét hạ mức tín nhiệm Việt Nam của Moody's đã cho thấy tình trạng chậm thanh toán nợ tới hạn đang ở mức báo động, điều mà có thể dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán và do đó dẫn tới hậu quả cuối cùng là vỡ nợ quốc gia. Khi đưa ra những đánh giá về mức xếp hạng như thế, điều hiển nhiên là Moody's đã phải có trong tay những cơ sở thông tin tài chính và kinh tế chắc chắn, thu thập từ chính các chủ nợ của lớn nhất chính phủ Việt Nam như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB), Nhật Bản…
Cho tới nay, con số chung nhất được chính phủ Việt Nam công bố là chính phủ này nợ nước ngoài hơn 100 tỷ USD.
Nhưng ngoài con số trên, còn có hơn 100 tỷ USD khác là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, để cộng chung lại số nợ nước ngoài của Việt Nam hiện thời là hơn 200 tỷ USD, gần bằng toàn bộ GDP một năm của đất nước này.
Nhưng đó mới chỉ là nợ nước ngoài, chưa kể một núi nợ khác - nợ trong nước bằng tiền đồng Việt Nam, tương đương hơn 200 tỷ USD nợ của chính phủ và của các doanh nghiệp.
Đáng chú ý, số nợ nước ngoài hơn 200 tỷ USD chỉ là nợ được thống kê chính thức, trong khi vẫn có thể phát sinh những khoản nợ nước ngoài lớn từ các doanh nghiệp. Vào tháng 9 năm 2019, Tổng cục Thống kê Việt Nam thình lình công bố phát hiện thêm 76.000 doanh nghiệp mà trước đó không nằm trong sổ sách của cơ quan này - mà động cơ phía sau công bố này là nhằm ‘hô biến’ GDP tăng thêm để lấy ‘thành tích đại hội 13’ cho Thủ tướng Phúc. Nhưng cũng chính công bố phát sinh này - chiếm đến hơn 10% tổng số doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam - chắc chắn sẽ kéo theo nhiều khoản vay nước ngoài mà trước đây không được thống kê bởi Bộ Tài chính.
"Doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài tăng vọt, ai sẽ trả nợ ?"- giới chuyên gia, báo chí và cả quan chức cùng hốt hoảng kêu lên. "Nếu các doanh nghiệp này là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chiếm cổ phần chi phối không có khả năng trả nợ thì nợ này ai trả, bởi đây đều là các doanh nghiệp nhà nước ?".
Thực tế trong nhiều năm qua cho thấy nhiều tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vay nợ tràn lan, với tâm lý vay là cực kỳ vô trách nhiệm. Thậm chí một số doanh nghiệp còn có sẵn sàng "xù nợ" khi làm ăn lỗ lã.
Có đến ít nhất 30% số tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào vòng lỗ lã, và đối mặt với nguy cơ phá sản kể từ năm 2008, khi kinh tế Việt Nam bắt đầu rơi vào giai đoạn suy thoái.
Vào năm 2015, thủ tướng lúc đó là Nguyễn Tấn Dũng cho biết Việt Nam phải trả nợ đến 20 tỷ USD. Đến năm 2016, người "may mắn" thế chỗ cho ông Dũng là Nguyễn Xuân Phúc cho biết Việt Nam phải trả 12 tỷ USD. Những năm gần đây, nợ nước ngoài phải trả cũng có thể lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm.
Bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia ?
Công bằng mà xét, Nguyễn Xuân Phúc là đời thủ tướng "cực hình" nhất trong lịch sử tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam. Trả nợ nhiều nhất, kinh tế be bét nhất, xã hội hỗn tạp nhất, chính trị "tan nát" nhất…
Vào năm 2017, chính phủ của thủ tướng ‘đổ vỏ’ Nguyễn Xuân Phúc đã phải đề ra hạn ngạch bảo lãnh cho vay chỉ 1 tỷ USD - con số thấp nhất trong nhiều năm gần đây. Mức bảo lãnh chỉ có 1 tỷ USD như thế đã phải giảm mạnh so với những năm trước đó (năm 2015 là 2,5 tỉ USD và 2016 là 1,5 tỉ USD), và giảm rất mạnh so với mức 6,6 tỷ USD của năm 2014.
Sang năm 2018 và 2019, hạn ngạch bảo lãnh này thậm chí còn ít ỏi hơn nữa, hoặc gần như không còn tồn tại.
Nợ nhiều đến mức vào năm 2017, chính phủ phải tuyên bố thẳng thừng sẽ không đưa nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào khái niệm nợ công, nằm trong Luật về Nợ công (sửa đổi). Điều này đồng nghĩa với việc chính phủ từ chối trả thay nợ vay nước ngoài cho doanh nghiệp, và hẳn sẽ có nhiều doanh nghiệp nhà nước phải phá sản.
Trong bối cảnh giật gấu vá vai như thế, vào năm 2018 Ngân hàng thế giới đã đưa ra một cảnh báo giật mình : trong 3 năm tới, có đến 50% nợ trong nước của Chính phủ sẽ đáo hạn, tức chính phủ này phải đối mặt với nguy cơ rất lớn là không biết lấy đâu ra tiền để trả nợ, trừ việc… in tiền ồ ạt.
Còn đến giờ đã gần hết năm 2019, lọt thỏm vào giai đoạn ‘50% nợ trong nước của Chính phủ sẽ đáo hạn’, tương ứng với đánh giá của Moody's về việc Chính phủ Việt Nam chậm thanh toán một số khoản nợ tới hạn và đồng thời xem xét hạ mức đánh giá 17 ngân hàng Việt Nam. Nếu động thái này được Moody's hoàn tất, sẽ có đến 50% trong số các ngân hàng Việt Nam rơi vào tình trạng bị hạ bậc tín nhiệm - nhiều nhất từ trước tới nay.
50% lại là ước tính của giới chuyên gia tài chính về khả năng có đến phân nửa số ngân hàng đang tồn tại phải bị sáp nhập, hoặc cho phá sản do tỷ lệ nợ xấu quá cao và không bảo đảm khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên mối nguy hiểm thường trực này vẫn bị bưng bít bởi Ngân hàng Nhà nước trong những năm gần đây. Chỉ là con đê bị trám bít loang lổ ấy sẽ bục vỡ vào một thời điểm nào đó mà thôi - có thể gọi là thời điểm ‘Minsky’, tức hoàn toàn mất khả năng thanh toán các khoản vay nợ.
Phá sản ngân hàng đang trở thành tương lai hầu như chắc chắn, để cộng hưởng với tình trạng mất khả năng trả nợ nước ngoài của chính phủ và doanh nghiệp, nền tài chính Việt Nam sẽ rơi gọn cả hai chân vào hố sâu khủng hoảng.
Còn ngay vào lúc này khi hiện ra công bố hạ tín nhiệm của Moody's, phải chăng Việt Nam đã bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 21/10/2019
"Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe, năm nay 75 rồi, cũng đang là bệnh nhân" - ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng nói với các đại biểu thuộc đơn vị bầu cử số 1 khi ông ta tiếp xúc cử tri 3 quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ thuộc Hà Nội vào sáng ngày 15/10/2019.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lắng nghe ý kiến của cử tri. (Ảnh Ngọc Thắng, chụp từ màn hình Zing News)
Dấu ấn lần đầu tiên
Đó là lần đầu tiên kể từ sau cơn bạo bệnh tại xứ Kiên Giang ‘nhà Ba Dũng’, Nguyễn Phú Trọng mới chịu thú nhận mình là bệnh nhân.
Còn trước đó, chỉ có ý kiến của cử tri hé lộ về ‘đồng chí Nguyễn Phú Trọng đang điều trị’ và ‘mong tổng bí thư - chủ tịch nước mau khỏi bệnh để lãnh đạo đất nước’. Tình cảm mong mỏi này được thể hiện bởi một vài cử tri được xem là ‘gà’ của đảng, luôn được xuất hiện trước ống kính truyền hình và ca ngợi ‘Minh quân’, ‘Người đốt lò vĩ đại’ và thậm chí ‘Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’. Nhưng không có bất kỳ biểu cảm hay phát ngôn nào của Nguyễn Phú Trọng về tình trạng bệnh tật của ông ta, bất chấp làn sóng đồn đoán sôi sục trong dư luận xã hội và trên mạng xã hội về bệnh tình của Trọng suốt từ tháng 4 năm 2019 đến gần đây.
Một điểm nhấn dư luận đáng chú ý trong thời gian gần đây là từ cuối tháng 9 năm 2019, bắt đầu rộ lên thông tin bên lề chính trường Việt Nam về việc ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng gặp phải vấn đề khó khăn về sức khỏe nên sẽ khó có thể đi Washington gặp Tổng thống Trump, dự kiến vào tháng 10.
Dấu hiệu gần nhất và dễ nhận ra nhất là Nguyễn Phú Trọng đã phải vắng mặt tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Mỹ vào cuối tháng 9 năm 2019 - một hội nghị quốc tế lớn mà nếu còn đủ sức khỏe thì Trọng đã luôn hớn hở ‘mình phải như thế nào thì người ta mới tiếp đón như thế chứ’.
Vậy là từ nửa cuối tháng 9 năm 2019, bắt đầu xuất hiện một luồng ‘tin nội bộ’ lan truyền trong một số dư luận về việc ‘Cụ tổng’ Nguyễn Phú Trọng chắc chắn sẽ không đi Mỹ, thay vì đi như dự kiến vào tháng 10 năm 2019.
Lý do : Trump là người đồng bóng và hay có những quyết định thất thường, vậy nên ‘cụ tổng’ không muốn đi.
Lý do trên trái ngược hẳn với bầu không khí hồ hởi : Nguyễn Phú Trọng nhiệt tình nhận lời mời đi thăm Mỹ của Donald Trump khi tổng thống Mỹ đến Hà Nội vào tháng 2 năm 2019 để đối thoại song phương với Kim Jong-un.
Thách thức tự thân với Trọng là biểu đồ hồi phục sức khỏe của ông ta sau một thời gian ngắn tạm ổn nhưng giờ đây lại có vẻ chựng lại và có dấu hiệu đi xuống. Trong ít lần xuất hiện gần nhất, rõ ràng là vận động tứ chi của Trọng không khả quan hơn so với trước đây.
Tục ngữ ‘lực bất tòng tâm’ ngày càng nở rộ trên cửa miệng các quan chức dưới trướng Trọng. Nhiều kẻ đã thấu cày rằng ‘cụ tổng’ chẳng còn mấy hơi sức để tiếp tục ‘cống hiến cho sự nghiệp cách mạng’ nữa.
Và cũng thấu cáy rằng cái cách loan tin về ‘cụ tổng không đi Mỹ vì Trump đồng bóng’ hẳn chỉ thuần túy do nhu cầu sĩ diện cá nhân phải ngồi một chỗ của Nguyễn Phú Trọng.
Tham vọng trời đày
Không có chuyện Nguyễn Phú Trọng không thèm quan tâm những gì mà thiên hạ đang nghĩ ngợi và bàn tán về sức khỏe của ông ta.
Cuộc tiếp xúc cử tri ngày 15/10 của Nguyễn Phú Trọng cho thấy ông ta đã có một cố gắng nhỏ khi ‘tự đứng’ và bắt tay những người xung quanh - hiện tượng tương tự trước đây khi Trọng bất ngờ hiện ra để ‘chủ trì họp Bộ Chính trị’ hoặc gặp gỡ một số quan chức trong nước và ngoại quốc, ứng với mỗi lần mạng xã hội ồn ào về tình hình sức khỏe của ông ta ‘rất xấu’ hay sắp phải từ giã chính trường.
Tuy nhiên, cái cách nói "Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe, năm nay 75 rồi, cũng đang là bệnh nhân" của Trọng lại như thể ông ta, sau một thời gian tranh đấu giằng co với căn bệnh trời giáng, đã bắt đầu phải chấp nhận tình cảnh chung sống với bệnh tật với thái độ xuôi xị.
Cách nói xuôi xị và có vẻ chấp nhận số phận trên lại có thể là một thông điệp - bằng chứng gián tiếp về khả năng Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ gần như không còn nữa.
Nếu không thể đi Mỹ với tư cách nguyên thủ quốc gia và lôi về thêm một ‘quan hệ đối tác chiến lược’ nữa, Nguyễn Phú Trọng sẽ mất đi một thành quả lớn nhằm khuếch trương thành tích của ông ta để dọn đường cho Trọng bước vào nhiệm kỳ ‘tổng bí thư kiêm chủ tịch nước’, hoặc ít nhất cũng là chủ tịch nước tại đại hội 13 - điều tương tự theo cách mà ông ta đã khá thành công trong việc ‘đánh quả Hiệp định TPP’ sau chuyến đi Mỹ vào tháng 7 năm 2015, để nửa năm sau đó tái đắc cử tổng bí thư sau khi đã loại trọn vẹn đối trọng Nguyễn Tấn Dũng.
Đến lúc này, rõ ràng vấn đề sức khỏe và mức độ cải thiện bệnh tật của Nguyễn Phú Trọng không chỉ quyết định việc ông ta có đi Mỹ được hay không, mà quan trọng hơn cả với Trọng là chuyện ông ta có được phép ‘ngồi’ tiếp hay không ở đại hội 13 - sự kiện chỉ còn hơn một năm nữa sẽ diễn ra.
Cần nhắc lại, quy định 205 về kiểm soát quyền lực mà Nguyễn Phú Trọng ký ban hành vào tháng 9 năm 2019 rất có thể là biểu hiện đầu tiên, tính từ lúc ông ta bị bạo bệnh vào tháng 4 năm 2019, cho thấy Trọng vẫn không muốn buông rời quyền lực tối cao của mình, và vẫn muốn kéo dài quyền lực đó được năm nào hay năm nấy.
Một thứ tham vọng trời đày.
Cho dù đang độc tôn quyền lực với một cái ghế đúp chủ tịch nước lẫn tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng vẫn không thể tự tin khi đang bắt đầu hiện ra những ‘âm binh’ nổi lên ngay dưới chân ghế ông ta - một hiện tượng rất đặc biệt mà đã nổi bật hẳn lên từ khi Trọng bị cơn bạo bệnh ở xứ Kiên Giang ‘nhà ba Dũng’, dẫn đến niềm hy vọng khó nói và khó tả của không ít quan chức về tương lai ‘đẩy’ Trọng về vườn để ngồi luôn vào khoảng trống quyền lực để lại - quá lớn và quá hấp dẫn.
Hẳn đó là nguồn cơn khiến bản quy định về kiểm soát quyền lực đã không được ban hành trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2018 - khoảng thời gian mà Nguyễn Phú Trọng gần như không gặp phải một thách thức hay đối trọng chính trị đáng kể nào, mà chỉ được tung ta vào năm 2019 - thời khắc mà Trọng rơi vào cơn bạo bệnh bất khả kháng và kéo theo những mầm mống không tránh khỏi về sự thách thức quyền lực của ông ta, thậm chí là những âm mưu lật đổ quyền lực của ông ta âm thầm hiện ra sau tấm màn nhung đỏ quạch màu máu của sân khấu chính trường Việt Nam.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 17/10/2019