"Tôi chưa bao giờ thấy chính phủ Việt Nam tiến triển như vậy" - ông John Rockkeep, Giám đốc Energy Capital Việt Nam ngạc nhiên khi nói với hãng tin kinh tế Bloomberg vào một ngày cuối tháng 9 năm 2019.
Tập đoàn lớn của Mỹ chính thức tham gia Dự án Nhà máy điện Sơn Mỹ 2 - Ảnh minh họa
Ngạc nhiên !
Sự việc đáng ngạc nhiên trên là một dự án khí điện khí hóa lỏng (LNG) tại tỉnh Bình Thuận, với hàng tỷ USD nhiên liệu nhập khẩu từ Mỹ, đang được chính phủ của Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo sát sao như một phần trong nỗ lực mua sản phẩm của Mỹ.
Đến đầu tháng 10 năm 2019, không khí ngạc nhiên còn được hiện thực hóa hơn khi một đoàn làm việc của Bộ Công thương Việt Nam đã lặng lẽ đến Washington, để sau đó công bố rằng Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã trao đổi Biên bản ghi nhớ Hợp tác (MOU) về đối tác hợp tác năng lượng toàn diện. Cùng lúc, Bộ trưởng Công Thương Việt Nam Trần Tuấn Anh thông báo là chính phủ Việt Nam vừa cấp phép cho Tập đoàn AES của Mỹ đầu tư 5 tỷ đôla vào dự án nhà máy điện khí hóa lỏng LNG đầu tiên tại Việt Nam.
Vì sao Việt Nam ‘nhiệt tình’ cho Mỹ đầu tư 5 tỷ đôla vào nhà máy điện khí hóa lỏng như thế ?
Cử chỉ trên được xem là nhằm làm ‘hài hòa cán cân thương mại’ với Mỹ.
Từ "kẻ thù thương mại’ đến "kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất"
Việt Nam là một trong những quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ làn sóng thặng dư thương mại với Mỹ.
Sau gần hai chục năm hoàng kim từ thời tổng thống George Bush, Bill Clinton đến Barack Obama và cả thời của Donald Trump, Việt Nam đã kích hoạt lượng xuất khẩu phi mã vào thị trường Hoa Kỳ và tăng vọt số suất siêu lên đến khoảng 160 lần so với năm 2001 - thời điểm mà Việt Nam mới ký với Mỹ Hiệp định thương mại song phương (BTA) đầu tiên.
Chỉ trong 3 năm gần đây, Việt Nam đã tạo được một lượng xuất siêu kỷ lục - lên đến hàng trăm tỷ USD - vào thị trường Mỹ.
Vào năm 2017, Việt Nam xuất sang Mỹ lượng hàng hóa tổng giá trị 41,6 tỷ USD nhưng chỉ nhập khẩu có 9,2 tỷ USD, nâng mức thặng dư thương mại lên con số 32,4 tỷ USD với Mỹ.
Đến năm 2018, Việt Nam đã đạt giá trị xuất siêu ở mức kỷ lục tới 35 tỷ USD.
Chỉ trong 7 tháng đầu năm 2019, thặng dư thương mại Việt - Mỹ đã lên con số 30 tỷ USD, cao hơn 39% so với trong cùng kỳ năm ngoái, theo dữ liệu của Cục điều tra dân số Mỹ, nâng mức dự kiến xuất siêu đến 38 - 40 tỷ USD vào thị trường Mỹ trong năm 2019.
Sự chênh lệch quá lớn trên càng củng cố một cách chắc chắn vị trí thứ 5 của Việt Nam trong số 16 quốc gia bị Donald Trump liệt vào danh sách ‘gây hại’ cho nền kinh tế Mỹ.
Khác hẳn với thời ‘êm ấm’ với Tổng thống Obama mà đã chẳng phải nhận đòn trừng phạt kinh tế nào, giờ đây Việt Nam và cả nền chính trị độc tài của nó đang phải đối mặt với nguy cơ bị Trump biến thành ‘kẻ thù thương mại’, và do đó phải gánh chịu những hậu quả khó lường về bức tường thuế quan, kiểm định hàng hóa cùng những biện pháp khác mà Trump phát nổ trong thời gian tới.
Vào tháng 6 năm 2019, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nổi đóa và tặng cho Việt Nam một biệt danh mới : Việt Nam là "kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất" !
"Rất nhiều công ty đang dời sang Việt Nam, nhưng Việt Nam lợi dụng chúng ta còn tệ hơn cả Trung Quốc" và "Việt Nam gần như là kẻ lạm dụng tồi tệ nhất trong số tất cả mọi người" (It's almost the single worst abuser of everybody) - Trump chỉ trích gay gắt và cáo buộc Việt Nam đang lợi dụng cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ.
Có thể cho rằng phát ngôn trên là góc cạnh và cứng rắn nhất từ trước tới giờ của Trump nhắm vào Việt Nam về vấn đề thâm hụt thương mại. Trong hơn hai năm rưỡi nắm quyền, Trump thường than phiền về thâm hụt mậu dịch của Mỹ trong quan hệ với nhiều nước và đang cố gắng thực hiện những biện pháp quyết liệt hơn để điều chỉnh tình trạng mất cân bằng thương mại.
Không chỉ dừng ở ‘kẻ làm dụng thương mại tồi tệ nhất’, Trump còn đe dọa sẽ đưa Việt Nam vào danh sách ‘các quốc gia thao túng tiền tệ’.
Một trong ba tiêu chí mà Mỹ sử dụng để đánh giá việc thao túng tiền tệ của một quốc gia là thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la.
Nếu bị xem là quốc gia lũng đoạn tiền tệ, cửa vào ‘kinh tế thị trường’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam, vốn đã chẳng rộng mở gì, sẽ càng thêm hẹp lại. Khi đó, tương lai rất cận kề là theo lệnh của Tổng thống Trump, Đại diện Thương mại Mỹ sẽ nâng cao mức thuế suất đánh vào hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ - tương tự chiến dịch nâng thuế suất đến 25% của Mỹ đối với toàn bộ 500 tỷ USD giá trị hàng hóa của Trung Quốc vào thị trường Mỹ.
Và nếu bị Mỹ đánh thuế nặng hàng xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng Việt Nam sẽ lâm vào cảnh phá sản, còn nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không thể chịu nổi thuế suất cao mà sẽ phải rút khỏi Việt Nam, khiến nền kinh tế nước này lao nhanh vào suy thoái trầm kha và càng khiến tuổi thọ của chính thể độc đảng trở nên ngắn ngủi đến khó lường.
Món quà đi Mỹ ?
Trở lại việc Việt Nam ‘nhiệt tình’ cho Mỹ đầu tư 5 tỷ đôla vào nhà máy điện khí hóa lỏng, Bộ Công thương cho biết hợp đồng xây dựng nhà máy điện này có tổng trị giá khoảng hơn 5 tỷ đôla, và khi chính thức đi vào vận hành sẽ tạo ra nhu cầu nhập khẩu khí hóa lỏng từ Hoa Kỳ lên tới gần 2 tỷ đôla/năm.
Nói cách khác, phía Việt Nam sẽ phải tự trút hầu bao ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa của Mỹ.
Không chỉ có thế, mà còn là khí đốt tự nhiên từ Texas, than từ Pennsylvania, thịt lợn từ Iowa và thậm chí cả động cơ máy bay – một danh sách hàng hóa trị giá hàng tỷ USD được ‘gợi ý’ bởi phía Mỹ, dành cho cuộc viếng thăm Washington của một quan chức chóp bu Việt Nam vào tháng 10 năm 2019.
Sau những tín hiệu Việt Nam cử phái đoàn lo Đại hội 13 sang ‘nghiên cứu thực tiễn chính sách’ của Mỹ, và Hà Nội chủ trì tổ chức Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn - cha của nhà báo tự do Bùi Tín, việc chính thể này ‘nhiệt tình’ cho Mỹ đầu tư 5 tỷ đôla vào nhà máy điện khí hóa lỏng là một món quà, và cũng có thể là bằng chứng mới nhất và rõ nhất về ý đồ ‘đi Mỹ’ của giới chóp bu Hà Nội vẫn được giữ nguyên, sau rất nhiều hoạt động vận động chính thức lẫn ngoài lề của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Ý đồ này thậm chí càng trở nên cấp bách bởi cho tới nay vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính do ‘đảng anh’ Trung Quốc gây ra đã kéo dài tròn 3 tháng mà vẫn chưa hề có dấu hiệu kết thúc, khiến ‘đảng em’ lâm vào tình thế chân tường.
Trong tình cảnh khốn quẫn đó, rất dễ hiểu là chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đang cố gắng làm hài lòng chính sách ‘cân bằng và đối ứng’ về mậu dịch song phương của Tổng thống Trump, để đổi lại một cuộc gặp tại Phòng Bầu Dục và một chính sách ủng hộ hơn nữa của quân đội Hoa Kỳ với Việt Nam nhằm răn đe Trung Quốc - nhưng không chỉ răn đe chung chung ở Biển Đông, mà cần trực tiếp nhắm vào khu vực Bãi Tư Chính, miễn làm sao để Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cùng các đối tác của nó có thể bớt đau tim khi tiến hành khoan dầu nuôi đảng.
Đến thời điểm này, không nhất thiết là một Nguyễn Phú Trọng đang có dấu hiệu đuối sức trở lại bởi cơn bạo bệnh ở Kiên Giang vào tháng 4 năm 2019, mà có thể sẽ là Nguyễn Xuân Phúc thay Trọng đi gặp Trump.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 16/10/2019
Rốt cuộc, cái gì phải đến cũng đã đến. Hay chính xác hơn, bắt đầu đến.
Đó là cuộc hội thảo khoa học về vùng biển Bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế do Viện Nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển tổ chức tại Hà Nội vào ngày 6/10/2019.
Tọa đàm về bãi Tư Chính, diễn ra ở Hà Nội hôm 6/10/2019
‘Quân đỏ’ và ‘quân xanh’
Điều mà nhiều trí thức phản biện và trí thức - cựu quan chức tham gia vào nhóm phản biện đã kiến nghị hay đòi hỏi từ nhiều năm qua về hình thành cơ chế đối thoại giữa đảng và trí thức, rốt cuộc đã lờ mờ hiện ra dưới hình thức hội thảo giữa ‘quân đỏ’ và ‘quân xanh’. Và tất nhiên chẳng có tuyên bố chính thức nào cho dạng thức đối thoại đầu tiên này.
Hội thảo về Bãi Tư Chính không chỉ nhạy cảm về tính chủ đề - trong bối cảnh chiến dịch xâm phạm Bãi Tư Chính của Trung Quốc đã kéo dài quá ba tháng và còn chưa có dấu hiệu nào kết thúc, mà còn bởi yếu tố thành phần tham dự hội thảo này.
Ngoài những người chủ trì cuộc hội thảo như ông Hoàng Ngọc Giao - nhân sự thuộc một trong những hội đoàn nhà nước là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, còn có những cái tên cựu quan chức ‘thân chính quyền’ nhưng có tiếng nói phản biện như ông Lê Văn Cương - cựu viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an), là một trong số hiếm hoi cựu quan chức ngành công an dám tương đối thường xuyên trả lời phỏng vấn của đài RFA Việt ngữ (Á châu Tự do) ; ông Vũ Ngọc Hoàng - cựu Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương, là một trong những người đã thiết kế giàn giáo ‘kiểm soát quyền lực’ cho ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng, và mới đây đã có một bài viết yêu cầu chính quyền Việt Nam phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế ; anh hùng lực lượng vũ trang Lê Mã Lương - người thường xuyên lên tiếng về ‘thoát Trung’… Có thể xem những quan chức này là ‘quân đỏ’.
Còn về ‘quân xanh’, người ta có thể ngạc nhiên khi nhìn thấy những gương mặt Chu Hảo, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Trung, Nguyên Bình, Nguyễn Đình Cống, Nguyễn Xuân Diện, Đào Tiến Thi, Phạm Viết Đào… Đa số những gương mặt này thuộc ‘nhóm 23’, gồm các trí thức và cựu quan chức mang tính phản biện, dù nhiều người trong nhóm này vẫn còn là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam và vẫn sinh hoạt đảng. Nhưng trong số những gương mặt dự hội thảo Bãi Tư Chính vào ngày 6/10 còn có những người luôn đòi bỏ điều 4 hiến pháp đảng về tính độc tài cai trị của Đảng cộng sản Việt Nam, những người mà đã nhiều lần bị giới dư luận viên của đảng miệt thị và xúc phạm không thương tiếc.
‘Nhóm 23’ cũng là nơi phát xuất nhiều nhất thư yêu cầu được đối thoại với đảng.
Nội bộ đảng đang chia rẽ ra đến mức nào ?
Hội thảo khoa học về vùng biển Bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế đã bị đảng chỉ đạo hoãn lại khi định tổ chức vào ngày 22/9/2019, với một lý do rất vớ vẩn như ‘để có thời gian chuẩn bị chu đáo hơn’. Nhưng đó lại là thời điểm gần sát ngày quốc khánh Trung Quốc - sự kiện mà toàn thể Bộ Chính trị Việt Nam, trong lúc tuyệt đối ‘câm như hến’ về Bãi Tư Chính và cái tên Trung Quốc, vẫn mở miệng chúc tụng Bắc Kinh.
Rõ ràng, chủ đề hội thảo và thành phần tham dự hội thảo trên - điều mà trước đây chưa bao giờ được diễn ra và cũng chưa bao giờ có dấu hiệu được chấp thuận bởi bất kỳ cơ quan đảng hay chính quyền nào - là quá nhạy cảm và thách thức đối với chính thể độc tài ở Việt Nam.
Vậy tại sao hội thảo về Bãi Tư Chính, với thành phần nhiều trí thức đã bị đảng xem là ‘phản động’, lại diễn ra êm thắm vào ngày 6/10 tại Hà Nội ?
Phải chăng đảng áp dụng chiến thuật ‘xả xu páp’ trước phản ứng của nhân dân đối với Trung Quốc và với cả sự im lặng đớn hèn của đảng, nên cho tổ chức hội thảo theo cách mị dân và tỏ ra một chút dân chủ ?
Nhưng khả năng trên là rất khó xảy ra. Trước đây, thỉnh thoảng cũng diễn ra một cuộc hội thảo, tọa đàm về xã hội dân sự, nhưng nội dung chỉ rất chung chung và thành phần tham dự hầu như không có mặt ‘phản động’. Bởi thế nếu cho tổ chức hội thảo Bãi Tư Chính chỉ để mị dân, người ta sẽ chỉ nhận ra toàn ‘quân ta’ mà khó lòng lọt vào phòng họp một gương mặt ‘phản động’ nào.
Hay phải chăng đảng cầm quyền đã ‘hồi tâm’ và muốn lắng nghe tiếng nói phản biện của trí thức nên mới cho hội thảo này diễn ra suôn sẻ ?
Nhưng lại có một dấu hỏi phản biện khác : nếu đảng có một chút hồi tâm thì tại sao lại không cử một hay một nhúm quan chức ‘có thẩm quyền’ nào tham dự hội thảo này để ghi nhận ý kiến ?
Cái cách giới quan chức trốn biệt như thế là sự phản ánh rất đời thường về não trạng ‘cái gì cũng sợ, chỉ ăn là không’ của tầng lớp quan lại Việt Nam.
Nhưng khác với trước đây quan chức vừa trốn vừa không cho hội thảo, giờ đây tình thế đã khác hẳn : cuộc khủng hoảng Bãi Tư Chính đã khiến phân hóa và chia rẽ sâu sắc trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam, thể hiện ít nhất với sự hình thành hai phe - phe ‘kiện Trung Quốc’ với phe ‘không kiện Trung Quốc’.
Và cả mâu thuẫn ngày càng khó thỏa hiệp giữa hai luồng quan điểm : ‘dựa Mỹ’ hay tiếp tục ‘đu dây’.
Những người nói thay và tương lai ‘đối thoại’
5 năm sau cái năm 2014 vừa khốn khó vừa phải chịu nhục bởi giàn khoan Hải Dương 981, chóp bu Việt Nam vẫn ngập ngụa nguyên trạng trong cảnh nguy khốn thực sự cùng tương lai mất dầu khí và lãnh thổ.
Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ lữ đoàn, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong "đường lưỡi bò" mới được Trung Quốc vẽ bổ sung.
Lối thoát duy nhất của giới quan chức Việt Nam là phải càng nhanh càng tốt dựa vào sức mạnh của hải quân Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông. Và vận động quốc tế để kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Thế nhưng cái mớ bùng nhùng đa nguyên trong đảng về chuyện kiện hay không kiện vẫn khiến không ít chóp bu Việt Nam ‘tâm tư’ đến mất ngủ cứ mỗi nghe tiếng động từ phương Bắc.
Ở một chiều kích ngày càng trái ngược với nhóm quan chức trên, không ít quan chức khác - có thể chiếm phần lớn trong số quan chức được xem là ‘có trách nhiệm’ về chuyện nên làm gì với tàu Trung Quốc - càng lúc càng nghiêng về quan điểm dựa Mỹ và nhân thể kiện Trung Quốc. Số quan chức này, vì nhiều lý do riêng tư như tài sản và thân nhân nằm ở Mỹ và các nước phương Tây chứ tuyệt đối không có ở Trung Quốc, hẳn đã phải nhìn nhận rằng từ lâu họ đã bỏ quên giới trí thức phản biện - những người dù có lúc bị xem là ‘phản động’ nhưng lại dám nói thẳng và nói thật về hiện tình đất nước và vạch ra lối thoát. Giờ đây, những trí thức phản biện ấy đang nói thay cho những kẻ mà chưa mở miệng đã toát mồ hôi vì sợ ‘nói trái với đường lối cương lĩnh của đảng’.
Hẳn đó là nguồn cơn vừa sâu xa vừa trực tiếp khiến hội thảo về Bãi Tư Chính được tổ chức trót lọt vào tháng 10 năm 2019 tại Hà Nội, cùng thành phần nhiều gương mặt ‘phản động’ là khách mời chính thức, thậm chí hội thảo này còn được đưa tin bởi những báo đài của đảng.
‘Đối thoại’ cũng vì thế bắt đầu lờ mờ xuất hiện, giữa ‘quân đỏ’ và ‘quân xanh’, giữa trí thức nhà nước và trí thức phản biện.
Sau đó mới là sự hiện hình, thập thò hiện ra để ấp úng từ ngữ ‘đối thoại’ của một số quan chức từ cấp thấp dần lên cao hơn…
Chẳng phải quan điểm của cộng đồng người Việt hải ngoại luôn là ‘Muốn nói chuyện với người Việt hải ngoại, trước tiên nhà cầm quyền Việt Nam phải đối thoại với giới bất đồng trong nước’ sao ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 15/10/2019
Hội nghị Trung ương 11 của đảng cầm quyền ở Việt Nam, từ ngày 7 đến ngày 13/10/2019, diễn ra trong bầu không khí được cho là căng thẳng.
Từ trái qua : Thường trực Ban bí thư Trần Quốc Vượng ; Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ; Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại phiên khai mạc hội nghị Trung ương 10, khóa 12. Ảnh : TTXVN
Căng thẳng không phải vì vụ tàu Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính đã ròng rã hơn 3 tháng và đang có nguy cơ nổ ra xung đột quân sự Trung-Việt ở khu vực này cùng nguy biến Việt Nam mất dầu khí lẫn lãnh thổ, mà bởi nguồn cơn tranh đấu và chia chác nhân sự.
Những tình huống trồi sụt nhân sự và do đó dẫn tới những phương án giả định về cơ cấu nhân sự cấp cao cũng bởi thế đã dần lộ ra.
Trần Quốc Vượng
Đa phần những luồng dư luận từ "thông tin không chính thức" sát Hội nghị Trung ương 11 đều xác nhận về vị thế ứng cử viên số một không mấy suy suyển cho ghế tổng bí thư của Trần Quốc Vượng – hiện là thường trực Ban bí thư và được xem là người được Nguyễn Phú Trọng sủng ái nhất, thậm chí còn được cho là "bản sao" của Trọng về mặt tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đường lối đu dây không mệt mỏi giữa Trung Quốc và Mỹ và tính cách thâm trầm, dạn dày kinh nghiệm cùng thủ đoạn chính trị.
"Thông tin không chính thức" là một khái niệm mới của đảng cầm quyền nhằm ám chỉ những tin tức từ nội bộ đảng tuồn ra ngoài và được đưa lên mạng xã hội, hoặc truyền khẩu để định hướng dư luận, nhưng chưa bao giờ được bất kỳ cơ quan chức năng nào của đảng hay chính quyền thừa nhận.
Ngoài Trần Quốc Vượng "ổn định", hai ứng cử viên tổng bí thư còn lại đều có sự biến thiên và hoán đổi vị trí lẫn nhau. Đó là Nguyễn Thị Kim Ngân – chủ tịch Quốc hội, và Nguyễn Xuân Phúc – thủ tướng Chính phủ.
Nguyễn Thị Kim Ngân
Nếu tại Hội nghị Trung ương gần nhất vào tháng 5/2019, vai trò của Phúc vẫn còn được xem là ứng viên số 2 cho ghế tổng bí thư, thì gần đây vị trí này có thể đã bị thay thế bởi Ngân.
Ngay trước Hội nghị Trung ương 11, đã có "thông tin không chính thức" tiết lộ kết quả thăm dò phiếu tín nhiệm trong Bộ Chính trị vào tháng 12/2018, theo đó Nguyễn Phú Trọng xếp đầu bảng. Nhưng nhân vật đứng thứ hai sau Trọng lại không phải là Trần Quốc Vượng hay Nguyễn Xuân Phúc, mà chính là Nguyễn Thị Kim Ngân. Lục tục sau Ngân mới là Vượng và Phúc…
Nếu đúng thế, vị thế chính trị của Nguyễn Thị Kim Ngân đã thay đổi khá nhanh chóng trong vài năm. Thậm chí còn có dư luận cho rằng nếu Đại hội 13 diễn ra trong bối cảnh "long hổ quyết đấu" bất phân thắng bại thì Ngân có thể trở thành "ngư ông đắc lợi" – đúng theo cái cách mà các đời chủ tịch quốc hội trước Ngân là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng đã "buồn ngủ gặp chiếu manh" thành tổng bí thư.
Còn "khiêm tốn" hơn, Nguyễn Thị Kim Ngân có thể đã nằm trong phương án tiếp nhận cái ghế chủ tịch nước.
Tình trạng cải thiện đáng kể vị thế chính trị của Nguyễn Thị Kim Ngân có lẽ cũng góp phần giải thích việc tại sao bà ta bị "đánh tơi tả" trong thời gian gần đây, đặc biệt nổ ra vụ báo Hàn Quốc bỗng dưng có được tin tức 9 người trong đoàn quốc hội của Nguyễn Thị Kim Ngân đi Hàn Quốc vào cuối năm 2018 đã bỏ trốn ở lại quốc gia này, đến nay vẫn chưa phát hiện số người đó ở đâu.
Tỷ lệ nghịch với thế đi lên của Nguyễn Thị Kim Ngân là xu thế chìm xuống của Nguyễn Xuân Phúc, bất chấp ông ta được xem là quan chức tiềm năng nhất về "mạnh vì gạo, bạo vì tiền".
Nguyễn Xuân Phúc
Khác với thời tiền Đại hội 12 vào năm 2015, đến lúc này dường như Phúc không còn được Trọng "tin yêu". Thậm chí hố phân cách giữa hai nhân vật này có vẻ rộng ra theo thời gian. Không phải ngẫu nhiên mà khi Nguyễn Phú Trọng phải vắng mặt tại phiên họp Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 9/2019 – rất có thể do sức khỏe không cho phép, người thay thế cho ông ta chẳng phải là Thủ tướng Phúc mà lại là cấp phó thủ tướng – Phạm Bình Minh.
Nếu Đại hội 13 xếp cả ba trường hợp Trần Quốc Vượng, Nguyễn Xuân Phúc và Nguyễn Thị Kim Ngân – dù quá tuổi quy định là 65 – vào "trường hợp đặc biệt" và do đó được "ở lại", việc phân cao thấp trong cơ chế "tam trụ" (tổng bí thư kiêm chủ tịch nước – thủ tướng – chủ tịch quốc hội) hoặc "tứ trụ" (tổng bí thư – chủ tịch nước – thủ tướng – chủ tịch quốc hội) sẽ khá phức tạp giữa những người này.
Cơ chế "tứ trụ" chỉ hình thành với điều kiện phải có thêm một nhân vật nữa trong Bộ Chính trị ngoi lên. Người đó có thể là Trương Hòa Bình – hiện thời là Phó thủ tướng thường trực. Bình cũng có thể được xếp vào "trường hợp đặc biệt".
Khi đó, nếu Vượng là tổng bí thư, Ngân làm chủ tịch nước, hai cái ghế còn lại là thủ tướng và chủ tịch quốc hội sẽ do Phúc và Bình chia nhau.
Và có thể xảy ra một trường hợp không phải là không thể xảy ra : Bình "mạnh" hơn nên chiếm được ghế thủ tướng, còn Phúc phải ngậm ngùi nhận điều hành cơ quan "nhất bộ nhì ban, cơ nhỡ lang thang sang quốc hội".
Nhưng cũng không loại trừ khả năng Ngân "mạnh" đến mức được đảng chỉ định làm thủ tướng chính phủ – trên thực tế là nhân vật quyền lực thứ hai trong thể chế. Khi đó và cho dù có nhận ghế chủ tịch nước, Phúc vẫn chẳng thể hạnh phúc.
Lý thuyết u ám là vậy, nhưng trong thực tế vẫn còn ánh sáng cho Nguyễn Xuân Phúc : nếu sắp tới chính Phúc được đi Mỹ thay cho Trọng, và nếu chuyến đi này mang về cho Việt Nam được món quà "nâng tầm đối tác chiến lược" với Hoa Kỳ, dù món quà này chỉ mang ý nghĩa hình thức và tương tự như cái cách Thủ tướng Phúc chỉ đạo Tổng cục Thống kê Việt Nam "thổi" GDP thật cao để lấy thành tích, đó sẽ là một thành quả chính trị ghê gớm, đủ để biến cá nhân Nguyễn Xuân Phúc trở thành ứng cử viên số một cho cái ghế tổng bí thư tại Đại hội 13.
Tuy nhiên, các phương án nhân sự hiện thời, dù là "tam trụ" hay "tứ trụ" ở Đại hội 13, chỉ mang tính giả định và sẽ chỉ xảy ra khi Nguyễn Phú Trọng chịu "nghỉ".
Sau lần Nguyễn Phú Trọng phải vắng mặt tại phiên họp Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 9/2019, hầu như chắc chắn vấn đề sức khỏe suy sụp đang là thách thức lớn nhất đối với ông ta, chứ không phải là cú vỗ mặt nổ đom đóm của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính.
Liệu Trọng có thể vượt qua được thách thức tự thân này, hay sẽ phải sớm từ giã chính trường, thậm chí phải "nghỉ hẳn" trước khi Đại hội 13 diễn ra ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 13/10/2019
Tình hình ở Biển Đông đã ‘lý tưởng tương thông’ - trong biến cách của ‘Mười sáu chữ vàng’ - đến mức có thể xảy ra việc Trung Quốc cho hạ đặt giàn khoan ngay tại Bãi Tư Chính, hoặc sát khu vực một lô dầu màu mỡ nào đó mà Việt Nam đang khai thác.
Trung Quốc đã triển khai giàn khoan dầu Hải Dương 982 tại Biển Đông. Ảnh: Weibo.
Cỗ máy xay nghiền sắp vận hành
Từ cuối tháng 9 năm 2019, Trung Quốc đã điều giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 vào Biển Đông - động thái nhái lại hình ảnh của giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào năm 2014 như một cái tát vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam. Cùng với Hải Dương 982 là sự hiện diện của tàu cẩu Lam Kình - một trong những tàu cẩu lớn nhất của Trung Quốc - ở Biển Đông.
Đến đầu tháng 10 năm 2019, chính Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải lần đầu tiên xác nhận Trung Quốc đã điều đến 28 tàu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, tuy vẫn không quên thông báo thành tích bộ này đã ‘kịch liệt phản đối Trung Quốc’ đến… 40 lần.
Như vậy, Trung Quốc đã tổ chức khá đầy đủ những cơ phận trong cỗ máy xay nghiền sẵn sàng vận hành của nó : tàu cẩu, giàn khoan và các tàu bảo vệ.
Những cơ phận trên là sự tiếp nối cho một ‘tối hậu thư’ từ Trung Quốc : vào ngày 18/9, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc là Cảnh Sảng đã tung ra một tuyên bố chưa từng có : khẳng định Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động khai thác dầu khí ở nơi này.
Đầu tháng 10 năm 2019, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải lần đầu tiên xác nhận Trung Quốc đã điều đến 28 tàu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Dấu hỏi lớn tiếp liền : nếu Trung Quốc tiến thêm một bước là hạ đặt giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 trong khu vực Bãi Tư Chính, hoặc nằm ngoài khu vực này nhưng sát với một lô dầu khí màu mỡ nào đó mà Việt Nam đang khai thác, liệu các lực lượng được xem là ‘chức năng’ và ‘có trách nhiệm’ của Việt Nam có dám phản ứng ? Nếu phản ứng thì sẽ là gì ?
Chư hầu mới của Bắc Kinh ?
Cần nhắc lại, tới nay đã tròn ba tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Cơ hội gần nhất và rõ nhất để tố cáo Trung Quốc đã bị chính thể ‘để cho đảng và nhà nước lo’ làm cho trôi tuột là tại phiên họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York vào cuối tháng 9 năm 2019. Khi đó và với một Nguyễn Phú Trọng ‘không không thấy’, chỉ có Phạm Bình Minh - Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam - thậm chí còn chẳng dám hé môi về cái tên Trung Quốc.
Cho đến lúc này, hầu như đã rõ về ý đồ từ gây hấn đến gây chiến của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính. Bắc Kinh không chỉ muốn đóng vai kẻ cướp xông vào nhà người khác để đòi chia tài sản dầu khí theo một tỷ lệ nào đó, chẳng hạn 60 - 40, mà còn muốn chặn đường tiếp cận Mỹ của Nguyễn Phú Trọng hoặc một quan chức nào đó đi Mỹ thay cho Trọng.
Nếu phải quỳ mọp chấp nhận phải chia chác nguồn tài nguyên thiên nhiên cuối cùng là dầu khí cho kẻ cướp, đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ mất trắng nhiều tỷ đô la - tiền dùng để nuôi đảng và trả núi nợ nước ngoài ngập đầu đến hơn 100 tỷ USD - chỉ tính riêng cho khối chính phủ.
Song tình cảnh của giới chóp bu Việt Nam hiện thời không còn là tiến thoái lưỡng nan trong thế đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ, mà đã lâm vào nguy khốn : cho dù Bộ Chính trị Việt Nam có cắn răng ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ theo tối hậu thư của Ngoại trưởng Trung Quốc là Vương Nghị, chẳng có gì bảo đảm là Trung Quốc sẽ rút các tàu thăm dò và giàn khoan khỏi Biển Đông. Động tác tiếp liền, như một tối hậu thư khác của Trung Quốc, là đòi hỏi Nguyễn Phú Trọng - đích thân quan chức này - phải ‘chầu thiên triều’ trước khi đi Mỹ, hoặc phải tự kết liễu kế hoạch đi Mỹ.
Nếu chịu phủ phục trước cả hai yêu cầu trên của Trung Quốc, Việt Nam về thực chất sẽ trở thành một thứ chư hầu không cần tuyên bố của Bắc Kinh.
Chết đến đít vẫn kiêu căng hợm hĩnh
Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ lữ đoàn, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong "đường lưỡi bò" mới được Trung Quốc vẽ bổ sung.
Bước đầu, Trung Quốc có thể tấn công các tàu hải cảnh của Việt Nam đang bảo vệ Bãi Tư Chính. Sau đó, cuộc chiến sẽ leo thang với sự đụng độ giữa các tàu chiến của hai bên.
Tuy nhiên xét về năng lực hải quân thì cho dù có điều động toàn bộ số tàu chiến và hải cảnh ra Biển Đông, phía Việt Nam cũng chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng lượng tàu chiến và hải cảnh của Trung Quốc, chưa kể hàng chục ngàn tàu "thương mại dân sự", tức tàu cá được bọc sắt, mà Bắc Kinh tung ra như một đòn chiến thuật biển vào những lúc không cần có mặt tàu chiến. Hải quân Việt Nam sẽ khó lòng cầm cự được lâu nếu nổ ra chiến tranh ở Biển Đông.
Còn nếu xét về ý chí "hải quân bám bờ" trong suốt thời gian nhiều năm qua thì chẳng có hy vọng gì về việc Hải quân Việt Nam dám can đảm chống cự tàu Trung Quốc khi bị tấn công, thậm chí cảnh "bỏ của chạy lấy người" còn có thể lan tỏa rộng – đúng theo phương cách "chống giặc bằng cờ" mà giới chóp bu Việt Nam đang đốc thúc phát 1 triệu lá cờ đỏ sao vàng cho ngư dân để "bám biển".
5 năm sau cái năm 2014 vừa khốn khó vừa phải chịu nhục, chóp bu Việt Nam vẫn ngập ngụa nguyên trạng trong cảnh nguy khốn thực sự cùng tương lai mất dầu khí và lãnh thổ.
Trong khi đó, bài toán ‘đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông - vẫn cứ ì ra đó bởi những quan chức Việt Nam chết đến đít vẫn còn kiêu căng hợm hĩnh ‘Mỹ cần Việt Nam hơn Việt Nam cần Mỹ’, cùng lúc đẩy số phận Nguyễn Phú Trọng và đảng cộng sản của ông ta từ ‘những người khốn khổ’ thành ‘những kẻ khốn cùng’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 09/10/2019
"Sao không thấy hình ảnh Nguyễn Phú Trọng đi lại ?"
Từ cuối tháng 9 năm 2019, bắt đầu rộ lên thông tin bên lề chính trường Việt Nam về việc ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng gặp phải vấn đề khó khăn về sức khỏe nên sẽ khó có thể đi Washington gặp Tổng thống Trump, dự kiến vào tháng 10.
Ẩn số trong phương trình ‘Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ’ dường như đang lộ dần đáp án. Vì sao lại là Nguyễn Xuân Phúc mà không phải quan chức khác, nếu quả thật Trọng không thể ‘tự đi’ ?
Dấu hiệu gần nhất và dễ nhận ra nhất là Nguyễn Phú Trọng đã phải vắng mặt tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Mỹ vào cuối tháng 9 năm 2019 - một hội nghị quốc tế lớn mà nếu còn đủ sức khỏe thì Trọng đã luôn hớn hở ‘mình phải như thế nào thì người ta mới tiếp đón như thế chứ’.
Nếu cuộc gặp Trump - Trọng vào tháng 10 bị bỏ lỡ, đó sẽ là lần thứ hai trong năm 2019 bất thành chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng. Lần đầu tiên không thành là chuyến đi dự kiến vào tháng 7, khi đó Trọng chỉ vừa tạm phục hồi sau cơn bạo bệnh ở Kiên Giang vào tháng 4 năm 2019 nên chưa thể tiến hành được.
Biểu hiện rõ nhất cho ý đồ Nguyễn Phú Trọng vẫn giữ kế hoạch đi Mỹ, dù ông ta đã ‘trốn biệt’ không đi Trung Quốc suốt từ đầu năm 2019 đến giờ, là ‘con thoi’ Phạm Bình Minh. Viên phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao này đã có một chuyến tiền trạm ở Washington vào tháng 5 năm 2019, với vai trò được nâng cấp hẳn lên sau một thời gian khác dài bị thất sủng trước Trọng từ sau sự biến khủng hoảng ngoại giao Việt - Đức vào năm 2017. Trong chuyến đi Mỹ đó, thậm chí Phạm Bình Minh còn có những cuộc làm việc với cả Bộ Quốc phòng Mỹ, cho thấy rất rõ là Minh đang trở thành một trong những quan chức có được quyền đàm phán song phương, đặc biệt là đàm phán về việc nâng cấp mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thậm chí có thể vươn từ ‘đối tác toàn diện’ lên tầm ‘đối tác chiến lược’ - một nhu cầu mà Đảng cộng sản Việt Nam luôn õng ẹo theo não trạng ‘Mỹ cần ta hơn ta cần Mỹ’, nhưng bất chợt trở nên thúc bách khi nổ ra vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính lần thứ ba vào đầu tháng 7 năm 2019.
Cũng vào tháng 5 năm 2019, người ta không nghe nói gì đến ‘phương án Nguyễn Xuân Phúc đi Mỹ’. Vào thời điểm đó, có vẻ việc đi Mỹ và gặp Trump là độc quyền của Nguyễn Phú Trọng. Thêm vào đó, Trump đã có lời mời đích danh Trọng - khi đó đã nghiễm nhiên là chủ tịch nước chứ không chỉ là một tổng bí thư đảng ‘danh không chính ngôn không thuận’ - đi Washington.
Tuy nhiên cho đến tháng 9 năm 2019, tình hình sức khỏe của ông Trọng dường như vẫn trầy trật. Dù báo đài đảng đã cố gắng đưa hình ảnh và phát sóng về ông ta đi nơi này nơi kia cùng vài buổi họp hành trong đảng, nhưng điều lộ diện bị nhiều người thắc mắc nhất vẫn là ‘sao không thấy, hoặc có quá ít hình ảnh Nguyễn Phú Trọng đi lại ?’
Thách thức tự thân với Trọng là biểu đồ hồi phục sức khỏe của ông ta sau một thời gian ngắn tạm ổn nhưng giờ đây lại có vẻ chựng lại và có dấu hiệu đi xuống. Trong ít lần xuất hiện gần nhất, rõ ràng là vận động tứ chi của Trọng không khả quan hơn so với trước đây.
Người ta tự hỏi là với tình trạng sức khỏe chỉ đủ ‘ngồi’ mà không phải là ‘đi’, liệu Nguyễn Phú Trọng có thể bảo đảm cho một chuyến công du dài đến Washington, gặp Trump và sau đó dĩ nhiên phải xuất hiện trước ống kính soi mói của báo chí phương Tây ?
Đến lúc đó, bắt đầu manh nha vài tin tức ‘có thể Nguyễn Xuân Phúc sẽ đi Mỹ thay cho Nguyễn Phú Trọng’.
Vì sao lại là Nguyễn Xuân Phúc mà không phải quan chức khác, nếu quả thật Trọng không thể ‘tự đi’ ?
Cơ hội lịch sử của hội chứng buồn ngủ gặp chiếu manh
Nếu xét về số thứ tự trong danh sách ứng viên cho chức tổng bí hoặc chủ tịch nước tại đại hội 13, cái tên Nguyễn Xuân Phúc có lẽ chỉ đứng thứ hai, sau Trần Quốc Vượng. Vượng tuy là Thường trực Ban bí thư, nhưng được xem là ‘ngoan hiền dễ bảo’ hơn Phúc và đã lọt vào mắt xanh của Trọng như ứng cử viên số một. Chỉ có điều, Trần Quốc Vượng là người bên đảng, mà Trump thì không có thói quen tiếp đảng chính trị, nhất là Đảng cộng sản.
Nếu Nguyễn Phú Trọng không thể ‘cải lão hoàn đồng’ càng sớm càng tốt, vai trò đi Mỹ của ông ta sớm muộn sẽ rơi vào tay người khác, bất chấp Trọng có thích hay không.
Hơn nữa, tình thế của Đảng cộng sản Việt Nam cùng chính thể độc tài này đã vào ngõ cụt, và mức độ nguy hiểm do bị ‘đảng anh’ Trung Quốc đe dọa ngày càng hiện rõ. Sau tuyên bố - được hiểu như một tối hậu thư - vào tháng 9 năm 2019 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc về ‘chủ quyền’ của Bắc Kinh ở Bãi Tư Chính và đòi hỏi Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động khai thác dầu khí ở khu vực này, xác suất nổ ra chiến tranh từ lá cờ ‘Mười sáu chữ vàng’ đã tăng vọt.
Tình thế nguy khốn ấy buộc ‘đảng em’ - trong nỗi cơ đơn tận cùng dù đã thủ trong túi chẵn một tá ‘đối tác chiến lược’ với nhiều nước - phải tranh cướp thời gian để nhích sang Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với ‘đối tác chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam’ là Trung Quốc ở Biển Đông.
‘Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc cũng bởi thế đang đứng trước cơ hội lịch sử của hội chứng buồn ngủ gặp chiếu manh : nếu sắp tới chính Phúc được đi Mỹ thay cho Trọng, và nếu chuyến đi này mang về cho Việt Nam được món quà ‘nâng tầm đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ, dù món quà này chỉ mang ý nghĩa hình thức và tương tự như cái cách Thủ tướng Phúc chỉ đạo Tổng cục Thống kê Việt Nam ‘thổi’ GDP thật cao để lấy thành tích, đó sẽ là một thành quả chính trị ghê gớm, đủ để biến cá nhân Nguyễn Xuân Phúc trở thành ứng cử viên số một cho cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13, nếu từ đây đến đó Nguyễn Phú Trọng không thể cải thiện hơn về mức độ đề kháng tai biến mà có thể khiến cho ‘thái tử’ Trần Quốc Vượng mất ngôi.
Cũng không loại trừ khả năng chuyến đi Mỹ nếu thành công của Nguyễn Xuân Phúc sẽ đưa vị thế của ông ta trong nội bộ đảng sánh ngang với uy quyền một thời của người tiền nhiệm là Nguyễn Tấn Dũng. Và chính thức trở thành một đối thủ chính trị để đối chọi với tham vọng ‘ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi’ của Nguyễn Phú Trọng, trong trường hợp Trọng bỗng nhiên ‘trẻ mãi không già’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 07/10/2019
Dù thỉnh thoảng vẫn phải nhảy lầu hay tự treo cổ, giới quan tham nước Việt vẫn le lói hy vọng về "người đốt lò vĩ đại" sẽ sớm "xuôi tay", hoặc ít ra cũng không còn hăng hái truy sát tham nhũng như cái cách "lò đã nóng lên rồi thì củi tươi đưa vào cũng phải cháy" mà ông ta tuyên bố đầy tự tin vào tháng 8/2017.
Nguyễn Phú Trọng sau cú "ngã bệnh" hồi Tháng Tư, 2019. (Hình : Getty Images)
Những dấu hiệu "xuôi tay"
Dấu hiệu "xuôi tay" đã bộc lộ rõ ràng trong khoảng thời gian "Tổng tịch" Nguyễn Phú Trọng suýt chút nữa đã "tịch" sau cơn bạo bệnh tại xứ Kiên Giang "nhà ba Dũng" vào tháng 4/2019, và kéo dài thời gian nằm điều trị cho đến tận tháng 7 cùng năm.
Đó là những tháng mà bầu không khí chống tham nhũng lắng hẳn, phản ánh rất rõ một nhận định trước đó : trên nóng, dưới lạnh ; còn trên không nóng thì dưới lạnh ngắt.
Các cơ quan chủ chốt của Nguyễn Phú Trọng về chống tham nhũng là Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, hai cục An ninh Điều tra và Cảnh sát Điều tra thuộc Bộ Công an, Thanh tra Chính phủ đều "nghỉ xả hơi". Cùng lúc, trong giới công chức rỉ tai nhau câu chuyện những "anh Ba", "anh Hai"… tổ chức tiệc tùng nhậu nhẹt linh đình nhân sự kiện… "Trọng bệnh".
Dấu hiệu "xuôi tay" thậm chí còn hiện ra ngay cả khi ông Trọng đã có nhiều dấu hiệu phục hồi sức khỏe kể từ cuối/7, 2019. Từ đó đến nay, dù vẫn tiếp tục một số vụ bắt bớ quan tham và mở rộng vụ đại án AVG, vẫn chưa có tín hiệu nào cho thấy những vụ việc khác quá xứng đáng là đại án như Thủ Thiêm, Junin 2-Venezuela, Trần Bắc Hà (đã "tự chết")… được điều tra theo chiều sâu.
Những cựu quan chức cao cấp từng được xem là "bố già", và thậm chí hiện thời vẫn được xem là như vậy, như Nguyễn Tấn Dũng-thủ tướng và Lê Thanh Hải-bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, vẫn "an nhiên tự tại".
Dấu hiệu "xuôi tay" gần nhất và dễ nhận ra nhất là Nguyễn Phú Trọng đã phải vắng mặt tại phiên họp Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Mỹ vào cuối/9, 2019 – một hội nghị quốc tế lớn mà nếu còn đủ sức khỏe thì Trọng đã luôn hớn hở "mình phải như thế nào thì người ta mới tiếp đón như thế chứ".
Cũng từ cuối tháng 9, 2019, đã bắt đầu rộ lên tin ngoài lề về khả năng Nguyễn Phú Trọng không thể đi Mỹ theo lịch trình bởi độ ổn định chống tai biến của ông ta là… không ổn định.
Thời gian còn lại là không nhiều, hoặc đang rút ngắn một cách nhanh chóng, đối với Nguyễn Phú Trọng. Chỉ còn chưa đầy một năm rưỡi nữa là đến Đại hội đảng 13, dự kiến tổ chức vào quý đầu của năm 2021, mà nếu ông ta không mau chóng xử lý các "đống rác" ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh hành khác thì sẽ không thể có được cơ hội "thay máu" dàn chóp bu ở những địa phương đó, càng không thể làm nhân sự ở thành phố đầu não là Hà Nội.
Cũng không còn nhiều thời gian để Trọng thử nghiệm chiến dịch chống tham nhũng của mình bằng cách diệt những con chuột nhắt và chuột nhỡ, bất chấp việc Trọng vẫn tuyên bố sẽ tiếp tục chống "giặc nội xâm" sau khi ông ta tạm thời phục hồi sức khỏe.
Bởi sau cú bạo bệnh, hẳn Nguyễn Phú Trọng đã biết rằng cơn tai biến tiếp theo có thể xảy ra vô chừng mà không thể đoán định trước. Nếu không gấp rút xử lý các vụ tham nhũng lớn mà ông ta đã có trọn hồ sơ trong tay, một cơn tai biến tiếp theo có thể chấm dứt mọi nỗ lực và hơi thở của "minh quân", hay "bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo".
Không chỉ dở dang việc trị đảng trị quân, Nguyễn Phú Trọng còn ngổn ngang việc đối ngoại. "Trốn biệt" không chịu đi "triều kiến" Tập Cận Bình ở Bắc Kinh suốt từ đầu năm 2019 đến nay. Nhưng thành tích đó sẽ mau chóng lu mờ nếu Trọng chẳng làm nên công cán gì trong chuyến công du Washington – dự kiến vào tháng 10 năm nay.
Tình thế bị Trung Quốc chẹn ngay yết hầu ngân sách nuôi đảng ở các mỏ dầu khí đang khiến Nguyễn Phú Trọng và những người đồng đảng của ông ta phải gấp rút tìm kiếm và đi đến quyết định có còn ngả ngớn đu dây với Bắc Kinh hay sẽ dứt khoát xoay trục sang Hoa Kỳ.
Trong khi đó, chính trường Việt Nam đang tưng bừng "toàn đảng, toàn quân lập thành tích chào mừng Đại hội 13"…
Những "đặc thù" của thời tiền Ðại hội 13
Đang hiện ra một đặc trưng như thời năm 2015 trước Đại hội 12 của đảng cầm quyền, nếu vào năm 2015 đã hiện hình cuộc chiến công khai trên mạng xã hội bằng các đơn thư tố cáo và các bài viết của hai phe cánh chính trị chính là "phe Trọng" và "phe Dũng", năm 2019 và đặc biệt vào nửa cuối của nó cũng đang trở lại cái không khí xốc nổi, quyết thắng và công khai thách thức lẫn nhau ấy.
Năm 2019 lại được xem là "năm bản lề" về cơ cấu "cán bộ cấp chiến lược" cho Đại hội 13. Nếu Hội nghị Trung ương 10 vào tháng 5/2019, chủ yếu "sắp ghế" cho 200 ủy viên trung ương, thì Hội nghị Trung ương 11 (sẽ diễn ra vào cuối năm 2019) thậm chí còn có tầm đại hội đảng với nhiệm vụ chốt danh sách sơ bộ các gương mặt ủy viên bộ chính trị cho khóa 13.
Sau biến cố "Trọng bệnh", đã nảy nòi một cuộc sát phạt không tuyên bố giữa các quan chức cấp cao, những người đang nhìn thấy thế độc tôn độc tài của "bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo" chẳng còn tồn tại được bao lâu nữa và muốn qua mặt những kẻ khác để giành giật ngay lấy vị trí do khoảng trống quyền lực để lại.
Đặc thù của thời đại mới đã được tô thắm bới tính chất đa phe phái, đa trung tâm quyền lực hơn và do đó cũng kéo theo nhiều nhóm lợi ích hơn.Nếu Hội nghị Trung ương 10 chỉ là cuộc đấu giữa những "cá bé", thì Hội nghị Trung ương 11 mới thật sự là cuộc sát phạt của "cá mập" với nhau.
Năm 2019 lại được tôn lên một khác biệt lớn so với năm 2015, nếu cuộc chiến trước Đại hội 12 chủ yếu xoay quanh trục Trọng-Dũng, thì thế trận trước Đại hội 13 phong phú hơn khá nhiều, với nhiều trục : các phe phái – chủ yếu là "phe chính phủ" và "phe đảng" tranh giành quyền lực.
Trong khi ở một số địa phương nổi lên tình trạng "loạn sứ quân", còn Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt với một nhóm đối thủ mà có thể bao gồm phe chính phủ lẫn bên đảng muốn triệt tiêu "sự nghiệp cách mạng" của ông ta.
Làm gì có chuyện "hạ cánh an toàn" !
Chẳng có gì khó khăn để dự đoán là Nguyễn Phú Trọng sẽ vấp phải một thách thức khủng khiếp về sức khỏe tự thân của ông ta, đặc biệt là vấn đề tim mạch và huyết áp, điều có thể kiến ông ta nếu không cẩn trọng sẽ phải sớm từ giã chính trường.
Bất kỳ tình trạng suy yếu hay nguy biến nào về sức khỏe của Trọng cũng là cơ hội để các nhóm đối thủ tung hê và còn có thể cường điệu tình trạng bệnh tật tồi tệ của ông ta, như một cách khủng bố tâm lý những quan chức thuộc phe Trọng và những người còn "tin yêu bác Cả", làm suy giảm sức mạnh của "phe Trọng" trong cuộc đua tới Đại hội 13 và cả mục đích dội nước vào cái lò vẫn còn âm ỉ của Trọng.
Tuy vẫn nắm được quyền lực tập trung được xe là chưa từng có so với nhiều đời tổng bí thư trước, nhưng Nguyễn Phú Trọng dường như ngày càng bất lực trước xu thế đa trung tâm quyền lực, cát cứ địa phương và sang chấn tham nhũng bè lũ mới đang nổi lên ngay dưới chân ghế ông ta.
Và trong khi Trọng mới chỉ thanh toán được một phần nhỏ những di họa để lại từ thời Nguyễn Tấn Dũng, ông ta lại phải đối mặt với vô số thảm họa mới do những nhóm quyền lực – lợi ích mới gây ra. Dự luật Đặc khu là một trong nhiều ví dụ thuộc về cái trào lưu thảm họa mới ấy.
Còn nếu Nguyễn Phú Trọng phải sớm "về vườn" ?
Ngay cả với kịch bản phải từ giã chính trường tại Đại hội 13 do không đủ sức khỏe, chứ không phải do tuổi tác đã quá cao, tương lai của Nguyễn Phú Trọng cũng không thể được xem là "hạ cánh an toàn".
Bởi kể từ thời điểm hạ lệnh cho bắt Đinh La Thăng vào tháng 12/2017, Nguyễn Phú Trọng đã phá vỡ tiền lệ "ủy viên Bộ Chính trị không thể bị truy tố" và do đó ông ta đã chính thức leo lên lưng cọp.
Cũng một cách chính thức, không một ủy viên Bộ Chính trị nào (đã nghỉ hưu và cả đương chức) có thể kê gối ngủ ngon sau vụ Đinh La Thăng. Chẳng có gì bảo đảm là nếu không kịp thanh loại những kẻ thù chính trị cũ và nhung nhúc đám đối thủ chính trị mới, Nguyễn Phú Trọng sẽ có được cơ hội dưỡng bệnh và dưỡng già mà không bị một thế lực nào đó lôi ra "hồi tố" sau khi Đại hội 13 "thành công tốt đẹp", nếu quả thực còn có Đại hội đó.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 06/10/2019
Sau đợt tự sướng như thể ‘tiểu nhân đắc chí tiểu nhân cười’ vào tháng 4 năm 2019 về thành tích đã thu gom được hơn 8 tỷ USD và tích lũy cho quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia đến hơn 60 tỷ USD - cao chưa từng thấy từ trước tới nay, dàn đồng ca do Ngân hàng Nhà nước lĩnh xướng và các tờ báo quốc doanh phụ họa chợt im bặt. Im cho đến nay.
Tổng thể quý 2/2019, Ngân hàng Nhà nước cũng không nói đến thành tích thu gom ngoại tệ và quỹ dự trữ ngoại hối - Ảnh minh họa
Từ tự sướng đến im bặt
Thậm chí khi công bố số liệu về cán cân thanh toán tổng thể quý 2/2019, Ngân hàng Nhà nước cũng không nói đến thành tích thu gom ngoại tệ và quỹ dự trữ ngoại hối, cho dù đó là những con số mà Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc luôn tự hào và đã có lúc bật đèn xanh cho báo chí nhà nước đăng tin thả giàn về vấn đề từng được xem là ‘nhạy cảm’ và nằm trong độ ‘MẬT’ này.
Chỉ có một vài công ty chuyên phân tích chỉ số kinh tế, như SSI Research, đưa ra nhận định rằng quỹ dự trữ ngoại hối vẫn tiếp tục tăng cao chưa từng có, ước tính khoảng 70 tỷ USD.
Nhưng ở một chiều kích khác và âm thầm, có tính toán cho biết Ngân hàng Nhà nước vẫn âm thầm gom ngoại tệ và đã gom được 9,15 tỷ USD sau nửa đầu năm 2019. Tuy nhiên gần đây con số đó dường như đã chựng lại mà không phát triển thêm nữa.
Vì sao chính phủ Việt Nam không còn khoe khoang thành tích dự trữ ngoại hối ? Khiêm tốn chăng ? Hay bởi nguồn cơn khó nói nào ?
Cùng lúc, một số bài viết trên báo quốc doanh đã tỏ ra lo lắng về tương lai ‘Việt Nam có thể bị Mỹ xếp vào danh sách các nước thao túng tiền tệ’, và nguy cơ đó cho đến nay vẫn tồn tại.
Đó mới chính là nguồn gốc của sự nín miệng.
Hãy ngoái đầu về dĩ vãng gần…
Mấp mé bờ vực thao túng tiền tệ
Vào đầu năm 2019, Mỹ đã sử dụng ba tiêu chí để đánh giá việc thao túng tiền tệ của một quốc gia : thặng dư tài khoản vãng lai lớn hơn 3% GDP, thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la, và can thiệp vào thị trường ngoại hối vượt quá ít nhất 2% GDP. Nhưng khi đó đã không vang vọng lời cảnh báo nào từ trong nội bộ các cơ quan kinh tế Việt Nam. Bài ca ‘tự sướng’ vẫn reo vui bất tận cùng với đà tăng trưởng thặng dư xuất khẩu vào thị trường Mỹ và sự phình ra đáng kể của quỹ dự trữ ngoại hối.
Sau nhiều năm liên tục gia tăng giá trị xuất siêu vào thị trường Hoa Kỳ, đến năm 2018 Việt Nam đã đạt thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ (còn gọi là giá trị xuất siêu) ở mức kỷ lục tới 35 tỷ USD, càng củng cố một cách chắc chắn vị trí thứ 6 của Việt Nam trong số 16 quốc gia bị Donald Trump liệt vào danh sách ‘gây hại’ cho nền kinh tế Mỹ. Không chỉ dừng ở đó, năm 2019 sẽ có thể mang lại giá trị xuất siêu trên 40 tỷ USD trong cán cân thương mại Việt - Mỹ.
Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục nâng tỷ giá trung tâm trong những tháng cuối năm 2017 và trong 4 tháng đầu năm 2019, trong bối cảnh thị trường và tỷ giá USD/VND ổn định, và đặc biệt là trong điều kiện cung ngoại tệ dồi dào và nhà điều hành mua vào lượng lớn, để dẫn đến kết quả đã mua vào lượng khá lớn ngoại tệ hơn 8 tỷ USD.
Việc Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ giá trung tâm để kích thích gom USD trôi nổi, dù đã trám bớt lỗ hổng toang hoác của quỹ dự trữ ngoại hối để có tiền trả nợ nước ngoài, nhưng lại khiến cơ quan ‘siêu ngân hàng’ này phải trút vào thị trường tự do đến 200.000 tỷ đồng trong 4 tháng đầu năm 2019 - chiếm đến hơn 4% GDP, tức vượt xa giới hạn 2% GDP mà Mỹ quy định đối với quốc gia thao túng tiền tệ.
Như vậy xét theo hệ thống tiêu chí của Mỹ, Việt Nam đã vi phạm về hai tiêu chí thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la, và can thiệp vào thị trường ngoại hối vượt quá ít nhất 2% GDP, khiến Việt Nam đầy triển vọng bị Mỹ đặt vào danh sách các nước thao túng tiền tệ, nếu không phải trong năm 2019 thì cũng vào những năm sau đó.
Vậy Việt Nam có thể tự làm gì để khỏi lọt vào danh sách tai họa đó ?
Tiến thoái lưỡng nan
Tình thế giờ đây đã có vẻ quá trễ cho một sự rút lui, dù có muốn rút lui theo trật tự.
Bởi Việt Nam khó có thể giảm mức độ thặng dư thương mại với Mỹ trong ngắn hạn, tức ngay trong năm 2019 và nửa đầu năm 2020, khi mà diễn biến xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ vẫn còn đà và vẫn chưa vấp phải một hàng rào thuế quan dụng đứng như bức tường mà Mỹ đã dựng trước hàng hóa của Trung Quốc. Ngoài ra, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang Việt Nam cùng với việc hàng hóa Việt Nam dần thay thế hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ khiến cho thặng dư thương mại với Mỹ nhiều khả năng sẽ vẫn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới.
Chưa kể đến thặng dư với Mỹ tăng nhanh chóng trong thời gian vừa qua đến một phần từ việc hàng hóa Trung Quốc lách xuất xứ qua Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ, điển hình là mặt hàng thép. Theo đánh giá của một số chuyên gia kinh tế, nếu nhìn tương quan giữa các nhóm ngành xuất khẩu sang Mỹ và các nhóm ngành nhập khẩu từ Trung Quốc, ngoại trừ điện thoại và linh kiện, khá nhiều các nhóm hàng đạt tốc độ tăng trưởng mạnh sang Mỹ lại trùng khớp với các nhóm hàng gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc như máy tính và sản phẩm điện tử, máy móc phụ tùng khác, gỗ và sản phẩm từ gỗ.
Mà như thế, Việt Nam chỉ còn cách phải kiểm soát chặt chẽ tình trạng nhập nhèm trên thì xuất siêu của Việt Nam với Mỹ trong thời gian tới, dù vẫn tăng, nhưng tốc độ có thể chậm lại so với nửa đầu năm 2019 và do đó mới có thể khiến Trump bớt giận dữ về ‘kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất’ (cụm từ mà Trump thốt ra vào tháng 5 năm 2019, không hẳn là bốc đồng, nhằm chỉ trích Việt Nam).
Còn với việc can thiệp thị trường ngoại hối, nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ phải tự giảm bớt tỷ lệ can thiệp xuống mức 2% bằng cách bán bớt một phần ngoại tệ đã thu gom trước đây, mà con số bán ra có thể vào khoảng 3 - 4 tỷ USD.
Hiệu ứng của Danh sách các nước thao túng tiền tệ mà Hoa Kỳ tạo ra là thấy rõ, bởi sau khi bị Mỹ áp hệ tiêu chí về việc này, cả Ngân hàng Nhà nước lẫn chính phủ Việt Nam đã chỉ phản ứng một cách yếu ớt. Thậm chí còn có thể lượng hóa hiệu ứng đó : nếu vào năm 2019 Ngân hàng Nhà nước đã mang lại số lời lãi lớn cho Nhà máy In tiền Quốc gia bằng những đơn đặt hàng in thêm núi tiền đến hơn 200.000 tỷ đồng để thu gom hơn 9 tỷ USD, thì đến năm 2019 số đơn đặt hàng in tiền đã bị thu ngắn đáng kể, đến nỗi Nhà máy In tiền Quốc gia còn bị lỗ đến hơn 11 tỷ đồng chỉ trong nửa đầu năm 2019.
Nếu không gấp rút thực thi những biện pháp cấp bách để khỏi vi phạm các tiêu chí của Mỹ, sắp tới Việt Nam rất có thể bị Mỹ xếp vào danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ, để tương lai rất cận kề là theo lệnh của Tổng thống Trump, Đại diện Thương mại Mỹ sẽ nâng cao mức thuế suất đánh vào hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ - tương tự chiến dịch nâng thuế suất đến 25% của Mỹ đối với toàn bộ 500 tỷ USD giá trị hàng hóa của Trung Quốc vào thị trường Mỹ.
Và nếu bị Mỹ đánh thuế nặng hàng xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng Việt Nam sẽ lâm vào cảnh phá sản, còn nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không thể chịu nổi thuế suất cao mà sẽ phải rút khỏi Việt Nam, khiến nền kinh tế nước này lao nhanh vào suy thoái trầm kha và càng khiến tuổi thọ của chính thể độc đảng trở nên ngắn ngủi đến khó lường.
Chưa kể cửa vào ‘kinh tế thị trường’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam, vốn đã chẳng rộng mở gì, sẽ càng thêm hẹp lại…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 06/10/2019
Ngay sau vụ Phạm Bình Minh không thốt nổi một từ về Trung Quốc tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Mỹ vào cuối tháng 9 năm 2019, hàng đàn công an Việt Nam đã được ‘tháo xích’ để canh chặn thô bạo hàng trăm người hoạt động dân chủ nhân quyền, không cho họ ra khỏi nhà vào ngày 1 tháng 10 năm 2019 - quốc khánh của ‘đảng anh’ Trung Quốc.
Ai còn mơ màng ‘đảng ta sẽ thoát Trung’ ? - Ảnh minh họa
Thay vì tố cáo Trung Quốc gây hấn ở Bãi Tư Chính, Phạm Bình Minh chỉ ấp úng ‘các bên liên quan’ về căng thẳng ở Biển Đông mà không một lần dám nhắc đến cái tên tàu Hải Dương 8 hay kẻ nào đứng sau hoạt động thách thức của tàu này. Thái độ cúi đầu cam chịu ấy đã khiến Minh cùng sếp của ông ta là Nguyễn Phú Trọng bị mạng xã hội chỉ trích và lên án dữ dội.
Nhưng Phạm Bình Minh không hề cô đơn. Trước đó, mạng xã hội cũng sôi lên bởi Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc đã không một lần đủ can đảm nêu tên Trung Quốc khi ông ta dám nói về căng thẳng Biển Đông.
‘Hèn - Nhược - Tham - Ngu’ lại trở thành cụm tính từ mà mạng xã hội dành tặng cho chính thể độc tài ở Việt Nam.
Vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính gây ra bởi ‘đồng chí tốt’ Bắc Kinh đã kéo dài đến ba tháng, nhưng với cảnh tượng không dám nổ súng cảnh cáo, không dám nhắc tên Trung Quốc và không dám kiện Trung Quốc, chóp bu Việt Nam đã khiến Bắc Kinh không chỉ ngày càng coi thường ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, mà còn giành ưu thế vượt mặt giới chóp bu Việt Nam trong hoạt động vận động quốc tế, cũng là nguồn cơn khiến Bắc Kinh tự tin và ngạo mạn khi đưa ra tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, và bây giờ còn muốn đuổi Việt Nam ra khỏi đó.
Thậm chí hoạt động ‘phản biện trong luồng’ và có vẻ chẳng mấy nguy hiểm của giới trí thức mang khuynh hướng thân chính quyền cũng bị cấm cản: buổi tọa đàm khoa học “Vùng biển bãi Tư chính và Luật pháp Quốc tế” do Viện nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển (Viện PLD), trực thuộc Liên Hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) dự định tổ chức vào sáng ngày 22/9/2019 tại Hà Nội đã bị chính quyền hoãn đến sau ngày 5/10/2019, tức sau ngày quốc khánh 1/10 ở Bắc Kinh.
Nhưng sau 1/10 lại rất có thể là Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền. Có rất nhiều lý do mà chính quyền này thường nại ra để không cho phép hội thảo, tọa đàm về những vấn đề bị xem là nhạy cảm. Số phận của cuộc hội thảo về Bãi Tư Chính cũng vì thế sẽ còn rất chông chênh.
Rất tương đồng với tinh thần kiên định không hiện hình của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng mà do đó không phải trả bài cho dư luận xã hội về cách xử lý khủng hoảng Bãi Tư Chính, những động thái cấm cản giới hoạt động dân chủ nhân quyền và hoạt động hội thảo khoa học về chủ đề Biển Đông đã làm sáng mắt những người dân và trí thức vẫn còn mơ màng về ‘bản lĩnh cụ tổng’, về triển vọng ‘thoát Trung’ nhanh chóng của đảng cầm quyền.
Không, chưa có gì gọi là nhanh chóng với triển vọng ‘thoát Trung’. Thậm chí trong tình thế bị Trung Quốc đe dọa có thể gây chiến ở Biển Đông, và mối đe dọa này hữu hình chưa từng có, một số quan chức cao cấp Việt Nam mới chỉ lục tục ‘giãn Trung’, tức nhích xa một chút khỏi cái cái mạng nhện chẳng chịt độc hại mà trước đó họ đã tự nguyện đu dây và treo toòng teng lơ lửng trong đó.
Trong thực tế, Nguyễn Phú Trọng và những đồng đảng của ông ta sẽ chẳng thể sáng mắt nếu không bị Trung Quốc dồn vào chân tường và phải chịu một đòn vỡ mặt từ Bắc Kinh. Bởi ngay vào lúc này khi còn đang ‘vờn tàu’ mà chưa có tiếng súng nổ ở Bãi Tư Chính, ‘đảng em’ vẫn hy vọng Tập Cận Bình sẽ chỉ đe nẹt mà không ra đòn quá mạnh, vẫn toan tính có thể tiếp tục đu dây uốn éo giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và vẫn tiếp diễn trò dọa nạt phương Tây ‘nếu bị ép mạnh phải cải cách và cải thiện nhân quyền, Việt Nam sẽ ngả vào vòng tay Trung Quốc’.
Tất cả những chiêu trò đã trở nên nhàm cũ và ti tiện ấy rốt cuộc lại biến thành gậy ông đập lưng ông. Một tính toán của chóp bu Việt Nam về khả năng Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU) sẽ vội vã hỗ trợ Hà Nội bằng hạm đội Thái Bình Dương và những hành động quân sự khác đã bị việt vị. Sau vài lần lên tiếng gián tiếp ủng hộ Việt Nam ở Biển Đông nhưng lại khiến Bộ Chính trị đảng Việt Nam tăng cường dựa dẫm vào Mỹ chứ không làm sao tự uốn thẳng lưng hơn được, Washington đã trở lại thói quen dè dặt, nhất là thận trọng trước thói ngả ngớn đu dây đã ăn vào bản chất của chế độ cộng sản đầy lươn lẹo ở Việt Nam.
Và EU cũng thế. Cho dù cả ba nước Anh, Pháp, Đức đều đã mở lời về vụ Bãi Tư Chính, nhưng không có một hành động nào đi kèm.
Tất cả đều đang chờ đợi ‘bản lĩnh Việt Nam’ sẽ trôi về đâu nếu đến cái tên Trung Quốc cũng chẳng dám hé môi.
Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - nhiều khả năng diễn ra vào nửa đầu tháng 10 năm 2019 - cũng bởi thế vẫn có thể lâm vào tình trạng gà mắc tóc, y hệt những hội nghị trung ương vào những năm 2017 và 2018 là lúc mà Trung Quốc đã gây hấn tại Bãi Tư Chính lần đầu tiên và lần thứ hai. Vẫn khó có được ‘nội lực tự thân’ nào để giới chóp bu Việt Nam tìm ra giải pháp xử lý khủng hoảng bãi Tư Chính, thoát khỏi trạng thái u mê lầy lội và khỏi cảnh ngụp lặn trong trò chơi ‘Bốn Tốt’ với Trung Quốc.
Cùng lúc và thật bỉ bôi, tinh thần ‘thoát Trung’ lẽ ra phải có sẽ được thay thế bằng những cuộc đấu đá sát phạt không tiếc thương giữa các nhóm ‘đồng chí’ trong đảng cầm quyền ở Việt Nam tại Hội nghị trung ương 11. Giữa các nhóm quyền lực - tài phiệt mới với các nhóm quyền lực - tài phiệt cũ thời đại hội 12, và giữa các nhóm quyền lực - tài phiệt mới với nhau. Tất cả đều ‘miệng nam mô, bụng một bồ dao găm’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 04/10/2019
Trái với dự đoán của một số nhà quan sát chính trị, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng đã biệt tăm tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Mỹ.
Phạm Bình Minh, chứ không phải Nguyễn Phú Trọng, đại diện Việt Nam tại phiên họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York.
Thay cho sự trống vắng của Trọng chỉ là Phạm Bình Minh - Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng giao Việt Nam.
Phạm Bình Minh đã làm gì ở đó ?
‘Kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’
Thay vì tố cáo Trung Quốc gây hấn ở Bãi Tư Chính, Minh chỉ ấp úng ‘các bên liên quan’ về căng thẳng ở Biển Đông mà không một lần dám nhắc đến cái tên tàu Hải Dương 8 hay kẻ nào đứng sau hoạt động thách thức của tàu này.
Chóp bu Việt Nam cũng bởi thế đã thêm một lần nữa bị vuột cơ hội vận động quốc tế về vụ Bãi Tư Chính, nhưng bởi chính thói đớn hèn đã trở thành nan y của chế độ này.
Từ không dám nổ súng cảnh cáo, không dám nhắc tên Trung Quốc và không dám kiện Trung Quốc, chóp bu Việt Nam đã khiến Bắc Kinh không chỉ ngày càng coi thường ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, mà còn giành ưu thế vượt mặt giới chóp bu Việt Nam trong hoạt động vận động quốc tế, cũng là nguồn cơn khiến Bắc Kinh tự tin và ngạo mạn khi đưa ra tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, và bây giờ còn muốn đuổi Việt Nam ra khỏi đó.
‘Kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’
Đưa đầu chịu báng
Ngay sau hiện tượng câm nín tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Phạm Bình Minh đã bị rất nhiều người dân trong nước và hải ngoại chỉ trích và lên án dữ dội.
Hệ lụy quá rõ rệt là Phạm Bình Minh đã phải đưa đầu chịu báng. Thay cho Nguyễn Phú Trọng.
Bởi nếu Nguyễn Phú Trọng đi dự phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, ông ta chắc chắn cũng phải nhận rất nhiều phản ứng của dư luận bởi không mấp máy nổi một từ về Trung Quốc.
Đã ba tháng lao qua kể từ khi Bắc Kinh cho tàu Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính của Việt Nam như vào chốn vô chủ quyền, Nguyễn Phú Trọng vẫn ‘trốn biệt’ mà không một lần xuất hiện để cho bàn dân thiên hạ thấy rằng ông ta không phải quá sợ hãi mà chẳng dám hé miệng về vụ việc đáng tầm nhục quốc thể đó.
Sau Trọng, chỉ có hai quan chức là Nguyễn Xuân Phúc và Phạm Bình Minh ‘dám’ đề cập đến vụ Bãi Tư Chính, nhưng lại không hề dám nêu tên Trung Quốc.
Cũng đã rất rõ về tính tinh ranh của Nguyễn Phú Trọng khi ông ta ‘đẩy’ Phạm Bình Minh đi dự phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, khiến Minh phải trực tiếp nhận búa rìu dư luận, thay vì Trọng.
Còn gì nữa ?
Việc Nguyễn Phú Trọng cử Phạm Bình Minh đi New York khiến nổi lên một dấu hỏi : vì sao cử Minh mà không cử Phúc, trong khi Phúc là thủ tướng và ‘xứng đáng’ đi họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hơn là Minh ?
Dấu hỏi trên có thể được giải mã phần nào nếu đối chiếu với những thông tin không chính thức về chuyến đi Washington của Nguyễn Phú Trọng có thể diễn ra vào tháng 10 năm 2019 hoặc sau đó, cùng những cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Việt vẫn tiếp tục diễn ra, trong đó Việt Nam đang cố gắng gia tăng nhập khẩu khoảng 5 tỷ USD hàng hóa Mỹ để giảm giá trị xuất siêu của hàng Việt Nam sang Mỹ và làm cho Trump bớt giận dữ bởi tình trạng Mỹ bị thặng dư xuất siêu quá lớn từ Việt Nam.
Tức ngoài việc ‘đọc bài’ công khai về vụ Bãi Tư Chính ở phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Phạm Bình Minh còn có thể có một nhiệm vụ khác và không công khai : bí mật làm việc với giới chức Mỹ để thu xếp cho cuộc gặp Trọng - Trump.
Tất nhiên, tin tức về cuộc gặp trên là tuyệt mật đối với phía Việt Nam, bởi giới chóp bu Hà Nội luôn sợ ‘đảng anh’ Trung Quốc sẽ nổi đóa nếu biết ‘đảng em’ tìm cách dựa dẫm vào Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông.
Và đặc biệt giữ tuyệt mật với bất kỳ động thái đi Mỹ nào của Nguyễn Phú Trọng, cùng ý đồ nâng cấp lên ‘đối tác chiến lược’ giữa hai quốc gia này.
Vào tháng 5 năm 2019, Phạm Bình Minh đã từng đi Washington với tư cách Bộ trưởng ngoại giao và tiền trạm cho chuyến đi Mỹ Nguyễn Phú Trọng, khi đó dự kiến là vào tháng 7 năm 2019. Chuyến tiền trạm đó cho thấy lần đầu tiên kể từ khi bị thất sủng trước Trọng tại hội ngị trung ương 6 vào cuối năm 2017, Phạm Bình Minh đã được ‘phục hồi nhân phẩm’, được Trọng lựa chọn là người bắc cầu với giới chức Mỹ và còn được làm việc với cả Bộ Quốc phòng Mỹ, chứ không phải là Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc - bị xem là quá háo danh, tham vọng chính trị và ‘nổ bán trời không văn tự’.
Tuy nhiên có vẻ tình trạng sức khỏe của Trọng không thật khả quan nên chuyến đi Mỹ của ông ta đã liên tục phải dời lại, kể cả ngay vào lúc này điều đó vẫn có thể xảy ra.
Trong khi đó, nội tình chính trường Việt Nam ngày càng xung khắc, tiểm ẩn bên trong lẫn sôi trào trên bề mặt. Cũng ngày càng rộ lên những thông tin không chính thức và đồn đoán về việc Nguyễn Xuân Phúc bị thất sủng trước Nguyễn Phú Trọng, khiến cung đường giành chiếm ngôi vị tổng bí thư đảng của Phúc tại đại hội 13 ngày càng dài dằng dặc.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 02/10/2019
Tháng 9 năm 2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng bất ngờ ký ban hành Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Cái cách hạ bút này xảy ra chỉ ít ngày trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - dự kiến tổ chức vào tháng 10 năm 2019.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức chạy quyền ngày 23/9/2019. Ảnh: Phương Hoa/TTXVN
Đây là lần đầu tiên trong đảng cầm quyền xuất hiện một đảng văn về kiểm soát quyền lực - điều chưa từng tồn tại ở các đời tổng bí thư trước đây.
Từ ‘hiện tượng Nguyễn Tấn Dũng’
Trước đây, ‘kiểm soát quyền lực’ thậm chí còn là một cụm từ bị xem là mang màu sắc của tư bản phương Tây và nhạy cảm chính trị với chế độ xã hội chủ nghĩa, do đó dù cụm từ này đã được một số học giả cộng sản nêu ra tính cần thiết áp dụng nó, nhưng chỉ đến khi nổi lên ‘hiện tượng Nguyễn Tấn Dũng’ thì ‘kiểm soát quyền lực’ mới dần được giới chóp bu của đảng nhìn nhận như một khái niệm hợp thời.
‘Hiện tượng Nguyễn Tấn Dũng’ đã thật sự nổi lên và trở thành một chấn động khuynh đảo quyền lực chế độ từ những năm 2009, 2010. Đến năm 2012, hiện tượng đó đã trở thành mối đe dọa rất trực tiếp đối với những quan chức chưa biết làm sao để kiểm soát quyền lực như Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư, Trương Tấn Sang - Chủ tịch nước.
Hẳn sự thiếu am hiểu về kiểm soát quyền lực đã trở thành nguyên nhân chính yếu dẫn tới thất bại chua chát của cánh Trọng - Sang tại Hội nghị trung ương 6 vào cuối năm 2012. Bởi khi đã tưởng như có thể ‘trục’ Thủ tướng Dũng khỏi Ban chấp hành trung ương thì phe muốn kỷ luật lại không ngờ có đến 75% trong tổng số 200 ủy viên trung ương bỏ phiếu không đồng ý kỷ luật ‘đồng chí X’.
Làm thế nào mà Nguyễn Tấn Dũng lại có thể ‘nắm đầu’ được đến 3/4 Ban chấp hành trung ương ? Sự thật khi đó đã nổi lên rành rành : trong khi phe Trọng - Sang còn chưa biết làm sao để kiểm soát quyền lực của Dũng, thì Dũng đã có thừa kinh nghiệm về làm cách nào để thâu tóm quyền lực, và có thể đã rất chuyên nghiệp về ‘cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền’.
Đặc biệt từ năm 2012, nhu cầu về kiểm soát quyền lực đã trở nên thiết yếu với đảng và thiết thân đối với Nguyễn Phú Trọng. Nhu cầu đó càng lớn khi ông ta phải đối mặt với một Nguyễn Tấn Dũng tưởng như chỉ đưa tay ra là nắm gọn cái ghế tổng bí thư tại đại hội 12. Năm 2015 cũng bởi thế là khoảng thời gian mà một loạt bài viết về kiểm soát quyền lực đã bất chợt rộ lên trên mặt báo đảng, bắt đầu từ Nhị Lê - Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, ‘quê hương’ trước đó của Nguyễn Phú Trọng, và sau đó là một quan chức được xem là ‘học trò cưng’ của Trọng là Vũ Ngọc Hoàng - Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương.
Thế nhưng sau đại hội 12, chủ đề về kiểm soát quyền lực bỗng lắng hẳn trên diễn đàn thảo luận của đảng. Cũng không dồn dập bài viết về chủ đề này trên mặt báo đảng. Khi đó, Nguyễn Tấn Dũng đã tạm yên phận ‘về làm người tử tế’, chỉ còn một Nguyễn Phú Trọng độc tôn nắm vận mệnh nhân sự của đảng.
‘Kiểm soát quyền lực’ cũng không còn được nhắc tới vào các năm 2017 và 2018 - khoảng thời gian đã tạm nổi lên một nhân vật khác và được dư luận xem là đối thủ chính trị với tổng bí thư : Trần Đại Quang - chủ tịch nước xuất thân từ bộ trưởng công an.
Sau khi Quang thình lình chết vào tháng 9 năm 2018, dĩ nhiên không còn ai nhắc tới cụm từ ‘kiểm soát quyền lực’ nữa.
Vậy tại sao chủ đề kiểm soát quyền lực lại được nêu ra, thậm chí còn trở thành một quy định của đảng và do đích thân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành vào tháng 9 năm 2019 ?
Cát cứ và sứ quân
Đã thành một quy luật bất thành văn và không bao giờ trở thành chính thức : văn theo người ; đảng văn theo nhân sự. Có một số quy định nội bộ của đảng chỉ xuất hiện vào mỗi lúc tình thế trở nên ‘có biến’. Chẳng phải Nguyễn Tấn Dũng đã bị đá văng khỏi vũ đài chính trị bởi một quy định ‘cực kỳ vớ vẩn’ mà hẳn ông ta, với thói kiêu căng tự mãn lộ rõ trên mặt, đã chẳng bao giờ thèm ghé mắt nhìn : "đảng viên không được phép tự ứng cử mà không có ý kiến của tập thể chi bộ" sao ?
Quy định về kiểm soát quyền lực mới ban hành sẽ nhắm tới công tác cán bộ tại Hội nghị trung ương 11, mà cụ thể là hội nghị này sẽ chọn ra một danh sách sơ bộ các ủy viên bộ chính trị cho khóa 13. Quy định về kiểm soát quyền lực cũng sẽ được duy trì liên tục từ đây đến đại hội 13 vào đầu năm 2021. Đó là bề nổi mà nhiều người nhìn ra.
Nhưng còn bề chìm và cái chiều sâu thăm thẳm đầy những góc tối của nó ?
Sau một thời gian bị quên lãng, chủ đề kiểm soát quyền lực được nêu trở lại một cách chính thức cho thấy dường như Nguyễn Phú Trọng đang lo ngại về khả năng bảo đảm quyền lực tập quyền trung ương và vấn đề tập quyền cá nhân của ông ta có thể bị đe dọa bởi những lực cản đủ mạnh nào đó.
Những lực cản đó là gì ?
Một nguy cơ mà từ năm 2017, thâm tâm đảng cầm quyền có thể còn lo sợ hơn quốc nạn tham nhũng, là tình trạng cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương.
Từ sau đại hội 12, bất chấp quyền uy gần như tuyệt đối của Tổng bí thư Trọng, tình trạng cát cứ quyền lực đã nổi lên tràn lan ở một số bộ ngành và địa phương. Tất cả đều lao vào hội chứng ‘hốt cú chót’.
Không phải vô cớ mà Trọng đã chọn Đà Nẵng, TP.HCM và sau đó đến Đồng Nai là những tỉnh thành cần phải ‘đốt lò’. Đã từ lâu, ở những tỉnh thành này đã xuất hiện nhiều biểu hiện về lãnh đạo gia đình trị và hoành hành như thể những ông vua con vào thời ‘Mười hai sứ quân’ trong lịch sử Việt Nam.
Cũng không phải vô cớ mà Nguyễn Phú Trọng lại ‘xẻ thịt’ Bộ Công an, xóa bỏ toàn bộ cấp tổng cục của bộ này vào đầu năm 2018, trong khi vẫn giữ nguyên 6 tổng cục ở Bộ Quốc phòng.
Nhưng kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm xử lý nạn cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương, mà còn có thể mang một ẩn ý không hề được nói ra…
‘Ngồi, ngồi nữa…’
Cho dù đang độc tôn về quyền lực với một cái ghế đúp chủ tịch nước lẫn tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng vẫn không thể tự tin khi đang bắt đầu hiện ra những ‘âm binh’ nổi lên ngay dưới chân ghế ông ta - một hiện tượng rất đặc biệt mà đã nổi bật hẳn lên từ khi Trọng bị cơn bạo bệnh ở xứ Kiên Giang ‘nhà ba Dũng’, dẫn đến niềm hy vọng khó nói và khó tả của không ít quan chức về tương lai ‘đẩy’ Trọng về vườn để ngồi luôn vào khoảng trống quyền lực để lại - quá lớn và quá hấp dẫn.
Và nếu quy luật ‘văn là người’ vẫn đúng trong tình cảnh oái oăm này, đảng văn về kiểm soát quyền lực đã lần đầu tiên, kể từ khi Nguyễn Phú Trọng bị bạo bệnh, hé lộ ý định ‘ngồi nữa’ của ông ta. Nếu quy định về kiểm soát quyền lực phát huy tối đa tác dụng của nó mà nhờ đó sẽ không thể xuất hiện một đối thủ nào có thể cạnh tranh với Trọng, ông ta sẽ yên tâm ngồi tiếp tại đại hội 13, thậm chí còn có thể ‘ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi’ như ‘hoàng đế Tập Cận Bình’ ở Trung Quốc, với điều kiện không bị hành hạ bởi những cơn tai biến.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/10/2019