Vì sao bắt Phạm Chí Dũng ?
Người Buôn Gió, 21/11/2019
Thực sự thì tôi cũng không biết chắc chắn vì sao, đành phải đặt câu hỏi này làm tiêu đề để bình luận cùng các bạn.
Đảng cộng sản Việt Nam cho bắt nhà báo Phạm Chí Dũng, một nhà báo độc lập và sáng lập và kiêm chủ tịch hội nhà báo độc lập Việt Nam.
Câu trả lời có thể rất dễ dàng, vì Đảng cộng sản Việt Nam là chế độ độc tài, cho nên những cây bút phản biện vạch ra những điều xấu xa của Đảng cộng sản Việt Nam tất nhiên sẽ bị bắt.
Câu trả lời có thể rất khó, chẳng hạn như hỏi vì sao lại bắt ở thời điểm này thì chẳng biết trả lời sao cho đúng.
Dư luận đưa ra nhiều câu trả lời, ví dụ như :
1/ bắt để đánh lạc hướng câu chuyện ở Hương Cảng ;
2/ bắt vì chuyến thăm của bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, muốn lấy lòng Trung Quốc, gây sức ép với Mỹ ;
3/ bắt vì sắp tới Việt Nam phải cho thành lập công đoàn độc lập ;
4/ ông Dũng thuộc phe nào đó, bị thanh trừng ;
5/ bắt để ngăn chặn bình luận gây ảnh hưởng đến đại hội 13.
Theo tôi thì điều 1 là đánh lạc hướng chuyện ở Hương Cảng là không đúng lắm, vì việc bắt này chỉ dấy lên một vài ngày, nhiều người quan tâm đến Hương Cảng họ không nằm trong số quan tâm tới việc ông Dũng bị bắt.
Điều thứ 4 cũng không phải, vài năm gần đây cách bình luận của ông Phạm Chí Dũng có vẻ trung dung, không nghiêng theo phe nào cả.
Điều thứ 3 cũng không chắc chắn cho lắm, vì việc công đoàn độc lập ra đời còn lâu, Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã kiểm soát được các tổ chức công đoàn độc lập khi cho người của mình đứng ra thành lập. Nhưng ít nhiều nó có khả năng hơn 2 điều trên.
Điều thứ 2 và thứ 5, theo tôi có lý hơn.
Ngay trong khi bộ trưởng quốc phòng Mỹ tới Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam cho bắt nhà báo Phạm Chí Dũng, một nhà báo độc lập và sáng lập và kiêm chủ tịch hội nhà báo độc lập Việt Nam. Việc bắt bớ này vừa thể hiện với Mỹ rằng nếu có giúp Việt Nam về quân sự, đừng đòi hỏi Việt Nam ở vấn đề nhân quyền. Cũng là câu trả lời với Trung Quốc rằng Việt Nam có quan hệ với Mỹ, nhưng bản chất cộng sản theo mô hình Trung Quốc sẽ không thay đổi. Những điểm này phù hợp với câu trả lời thứ 2 đã đặt ra.
Năm 2014 có 3 người Việt Nam được vinh danh " Anh hùng thông tin " của tổ chức phóng viên không biên giới, những người đó là Phạm Chí Dũng, Trương Duy Nhất và linh mục Anton Lê Ngọc Thanh.
Trong 3 người trên thì có 2 người có khả năng bình luận, phân tích thông tin và tìm kiếm thông tin đúng nghĩa chuyên nghiệp là Trương Duy Nhất và Phạm Chí Dũng.
Linh mục Lê Ngọc Thanh có lẽ được vinh danh vì những hoạt động đóng góp xây dựng trang web Dòng Chúa Cứu Thế với đội ngũ cộng tác viên đa dạng.
Anh Nhất và anh Dũng đều từng làm việc trong bộ máy nhà nước Việt Nam, họ là những cây bút bình luận nội chính trong tốp hàng đầu những người viết bình luận chính trị Việt Nam về mật độ bài viết, hầu như tất cả những gì họ viết đều liên quan đến nội tình chính trị Việt Nam, đến các quan chức lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong những tài liệu của Đảng cộng sản Việt Nam chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ 13, có mục nêu rõ cần ngăn chặn những thông tin bất lợi cho đại hội đảng, những thông tin về nội bộ, thông tin về các quan chức lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Thời gian vài năm đổ lại đây, Phạm Chí Dũng là người trong nước viết bình luận chính trị Việt Nam siêng năng nhất và khách quan nhất (khách quan ở đây là anh không thuộc phe phái nào, anh viết theo nhận định của anh, nhận định ấy có đúng hay sai là là vấn đề khác).
Bài viết gần đây nhất, anh Dũng đánh giá khả năng Nguyễn Phú Trọng phải rời ngôi vị, để cho thế lực khác vươn lên. Có lẽ đây là bài viết khiến anh bị bắt. Bởi động đến sự ra đi của Nguyễn Phú Trọng là điều cấm kỵ khi mà quyền lực của Nguyễn Phú Trọng đang nắm cả trong tay. Lấy ví dụ như Osin Huy Đức từng đòi làm rõ sức khỏe của Đinh Thế Huynh, Trần Đại Quang và đi xa hơn Osin Huy Đức còn lớn tiếng dựa theo định chế này nọ để đòi Trần Đại Quang phải từ chức. Nhưng đến khi Nguyễn Phú Trọng biệt tăm cả tháng vì đột quỵ, Osin Huy Đức không hề dám nhắc đến một lời, thậm chí khi dư luận sôi nổi bàn về sức khỏe Nguyễn Phú Trọng, Osin Huy Đức ỡm ờ buông câu trên Facebool là "chuyện đâu có gì ầm ĩ ".
Trước khi chạy trốn sang Thái Lan, Trương Duy Nhất đã nhận thấy có những dấu hiệu nguy hiểm cho mình, đó là sau khi anh viết bài về Con Khỉ đầu đàn có trong tay chất độc giết người, bài viết được Nguyễn Xuân Phúc nêu ra là ám chỉ tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và chỉ đạo bắt Nhất.
Đảng cộng sản Việt Nam do Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo không muốn người dân bàn đến tình hình nội bộ nhân sự của đảng, như đã nói trên ông Trọng còn ra văn bản quy định bộ công an phải ngăn chặn những thông tin xấu về Đại hội đảng 13.
Nhà báo Phạm Chí Dũng không những đề cập đến nội tình nhân sự đảng nhiệm kỳ 13, mà anh còn đề cập đến chính vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng với một nhận định không sáng sủa về tương lai tới của ông ta.
Theo tôi nhận định thì lý do bắt nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng nằm ở điều 2 và điều 5, ở điều 2 là thích hợp với điều kiện trước mắt là thể hiện quan điểm với chuyến thăm của bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, ở điều 5 là những gì chuẩn bị cho đại hội 12 ở năm sau.
Những nhà bình luận chính trị ở Việt Nam khác họ khôn ngoan hơn, họ có thể bình luận về nhân sự, về nội bộ đảng nhưng theo chiều hướng nghiêng về bênh vực phe mạnh trong đảng, phe có khả năng chiến thắng trong đại hội sau. Về khoản này không ai qua được Osin Huy Đức, chúng ta nhớ lại Huy Đức đã từng khen Nguyễn Xuân Phúc là một nhà kỹ trị, kiến tạo hoặc Nguyễn Phú Trọng là người liêm chính, công tâm trước khi đại hội 12 diễn ra ít ngày, cứ như Huy Đức thần tượng họ từ lâu lắm rồi, nhưng thực ra những năm trước đó thì anh ta không hề mấy khi nhắc đến họ, thậm chí trước đó vài năm anh ta còn phán nếu không nhờ Nông Đức Mạnh thì Nguyễn Phú Trọng chỉ là một lão già (ý nói vô hại, vô tích sự).
Sẽ chẳng lạ gì, khi có thể năm sau, Osin Huy Đức lại ca ngợi Vương Đình Huệ, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Văn Bình như những nhà cải cách, kỹ trị, kiến tạo, liêm chính, gần dân như anh ta đã từng ca ngợi những kẻ thắng cuộc trước kia.
Người Buôn Gió
Nguồn : nguoibuongio1972, 21/11/2019
*****************
Phạm Chí Dũng
Dương Quốc Chính, Tiếng Dân, 22/11/2019
Anh Phạm Chí Dũng là một trong số ít người đấu tranh dân chủ có kiến thức và nhãn quan tốt về chính trị, kinh tế. Anh này có nhiều tố chất lãnh đạo, kiểu Trần Huỳnh Duy thức.
Phạm Chí Dũng đấu tranh mạnh mẽ cho xã hội dân sự, mà hiện nay việc thành lập công đoàn độc lập đang là bắt buộc để gia nhập EVFTA. Biết đâu anh Dũng đang rục rịch để tham gia cái đó ?
Việc anh Dũng đứng ra thành lập hội nhà báo độc lập và duy trì một tờ báo mạng là cái gai trong mắt chính quyền từ lâu rồi. Vì hiện tại Việt Nam vẫn chưa có luật lập hội, coi như việc lập hội đó là vi phạm pháp luật, dưới con mắt của cơ quan an ninh.
Có lẽ nguyên nhân chính khiến Phạm Chí Dũng bị hốt là vì những gì anh làm offline (lập hội), còn những bài viết của anh trên Facebook thực ra không có quá nhiều ảnh hưởng đến đa số dân chúng (lượng tương tác khá thấp). Phần lớn là do anh hay viết kiểu chính luận, về các đề tài vĩ mô, nên không có sự thu hút với bần nông. Nhưng cách viết nghiêm túc đó, kiểu như báo Nhân Dân nhưng theo chiều ngược lại, lại là nguy hiểm đối với an ninh.
Phạm Chí Dũng đã từng bị hốt một lần, với tội danh còn nghiêm trọng hơn, là lật đổ chính quyền, bị tạm giam 4 tháng, nhưng lại được đình chỉ điều tra, có thể do không có đủ bằng chứng hoặc phe cánh không thỏa thuận với nhau được. Lúc đó anh, bị cho là, đứng sau trang Quan Làm Báo. Trang đó kể ra cũng nguy hiểm cho chính quyền đương thời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng !
Phạm Chí Dũng là một đảng viên, bộ đội, cán bộ tuột xích, lại là con của nguyên trưởng ban tổ chức thành ủy HCM. Lẽ ra, nếu ngoan, không tự diễn biến và với bằng Tiến sĩ kinh tế, anh cũng có thể "phấn đấu" ít nhất ở vị trí Giám đốc Sở ở Sài Gòn, hoặc có thể cao hơn. Vì từng nằm trong hệ thống và gia đình truyền thống cách mạng, nên Phạm Chí Dũng có những nhận định sắc sảo về hệ thống chính trị hiện tại. Điều đó rất không tốt khi Đại hội đảng đang cận kề, mà có ông cứ ngồi bình luận nọ kia, rất là phức tạp, nên tốt nhất là cho nhập kho.
Hi vọng lần này anh cũng may mắn như lần trước.
Dương Quốc Chính
Nguồn : Tiếng Dân, 22/11/2019
Sau nhiều năm công khai hoạt động vô luật ở Việt Nam nhưng các trang mạng bị xem là ‘giả danh lãnh đạo’ vẫn không hề hấn gì, chỉ đến năm 2019 vấn nạn này mới lần đầu tiên được nêu ra một cách tương đối cụ thể trong kỳ họp tháng 10 - 11 của Quốc hội, cũng là lần đầu tiên được nêu công khai trong nội bộ đảng cầm quyền.
Chẳng hạn hình này : nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dành trọn một ngày tại Chùa Thiên Hưng, được trích xuất từ trang nguyentandung.org.
Công an đạo diễn ?
"Thực tế có nhiều trang mạng làm giả những trang mạng của Chính phủ, của Đảng, làm giả những trang của các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Chính phủ. Nhiều trang mạng đưa ra thông tin rất chính thống, sau đó lại khéo léo lồng ghép với thông tin trái lề vào đó thì chúng tôi, người dân, cử tri không thể phân biệt được đâu là thật, đâu là giả, vì họ đang dùng chiêu hư hư thực thực" - một số đại biểu quốc hội chất vấn Bộ trưởng 4T (Bộ Thông tin và truyền thông) Nguyễn Mạnh Hùng.
Các trang mạng bị xem là ‘giả danh lãnh đạo’ là nguyentandung.org, nguyenphutrong.org, nguyenxuanphuc.org, nguyenthikimngan.org, tolam.org… sinh đẻ theo cấp số cộng qua mỗi năm. Tổng cộng có đến gần… 50 trang mạng như thế.
Nhưng không phải mỗi trang mạng trên đều có ban biên tập riêng, mà chúng chỉ khác nhau về tên gọi và khác đôi chút về hình thức trình bày, còn phần lớn nội dung đăng tải là giống hệt nhau, giống đến mức không cần hoài nghi về việc những trang mạng này được thiết lập bởi cùng một nhóm người.
Trong thực tế, đã có tin trên mạng xã hội cho biết các trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’ đều có cùng một bàn tay đạo diễn, và bàn tay này thường họp với ‘ban biên tập’ tại một nhà hàng ở Hà Nội định kỳ hàng tháng. Những trang mạng này thường có được nguồn tin tức nhanh hơn và sâu hơn so với khối báo chí nhà nước nói chung, thỉnh thoảng còn đăng cả những tin tức nội bộ trong ngành công an mà báo chí ngoài ngành này khó mà có được.
Cũng đã xuất hiện nhiều dư luận về việc các trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’ có nguồn gốc và sự tham gia của cơ quan an ninh Việt Nam, được tài trợ bởi một nhóm tài phiệt trong đảng, bao gồm quan chức chính trị và đại gia tài chính.
Cũng không loại trừ khả năng đã có những chóp bu nào đó trong Bộ Chính trị đảng đứng phía sau và ‘bảo kê’ cho những trang mạng này.
Bộ Chính trị có bảo kê’ ?
Cho dù thỉnh thoảng vẫn có ý kiến trong nội bộ đảng cho rằng những trang mạng trên là giả danh lãnh đạo, nhưng chính tình trạng hết sức an toàn trong hoạt động của chúng, thậm chí còn công khai cả khung nhuận bút mà không bị bất kỳ cơ quan nào - từ Ban Tuyên giáo trung ương, Bộ Thông tin và tuyền thông, Bộ Công an đến các cơ quan quản lý thông tin ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh sờ gáy, cho thấy những trang mạng này cần được gọi đích danh là ‘đứng tên lãnh đạo’ và rất có thể được ‘lãnh đạo’ bảo kê.
Rất nhiều người dân đã nghi ngờ rằng liệu có thật các quan chức trong Bộ Chính trị đảng như Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang (đã chết), Tô Lâm, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thị Kim Ngân… không biết gì về những trang mạng vừa nặc danh vừa mạo danh này, hay biết nhưng vẫn ngầm che chắn và toa rập.
Với thực tế nền chính trị Việt Nam mà bị nhiều người xem là đầy rẫy chất liệu mafia, nguồn cơn thật dễ hiểu là các trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’ chỉ có thể tồn tại được với điều kiện được những cấp rất cao bảo đảm cho các hoạt động của chúng. Chính yếu tố này đã khiến bất kỳ cơ quan quản lý thông tin nào nếu muốn kiểm tra, xử phạt hành chính hay dùng biện pháp hình sự đối với những trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’ đều phải bó tay.
Nhưng chữ ‘nếu’ trên chỉ mang tính hoàn toàn giả định, vì trong thực tế nhiều năm qua, và ngay cả từ sau khi Luật An ninh mạng được triển khai chính thức vào đầu năm 2019, người ta chỉ thấy hệ thống pháp luật và Luật An ninh mạng gia tăng siết bức đối với những tiếng nói bất đồng chính kiến và phản kháng xã hội trên mạng, nhưng không hề đả động đến các trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’. Hẳn lợi ích được đánh bóng và lobby chính trị của một số quan chức cấp cao đã bắt buộc tất cả các cơ quan quản lý truyền thông đều trở thành đồng lõa với những trang mạng này.
Nhưng không chỉ là lợi ích đánh bóng trong thì hiện tại, mà còn là những âm mưu chính trị ủ chứa cho thời tương lai.
Cuộc ‘tổng nổi dậy’ sắp tới
Tương lai đang ập đến chính trường Việt Nam cùng hàng núi biến động mà độ rung chấn của nó có thể chẳng kém thua gì so với vụ ‘cả ba bị bắn’ ở Yên Bái năm 2016.
Nhưng ngay giờ đây, bầu không khí đầy kích động của thời tiền Đại hội 12 đang trở lại với chính trường Việt Nam sau tháng 4/2019, tức sau thời điểm mà Nguyễn Phú Trọng thình lình bị một cơn bạo bệnh tại xứ Kiên Giang "nhà Ba Dũng".
Cơn bạo bệnh trên có vẻ cấp tính và nguy hiểm đến mức chẳng bao lâu sau đó đã xuất hiện kịch bản về chuyển giao quyền lực của Nguyễn Phú Trọng cho người khác. Rõ là khoảng trống quyền lực mà Trọng có thể phải từ bỏ là miếng bánh hấp dẫn hơn nhiều so với thời ông ta chỉ là tổng bí thư, tạo sức hút thơm ngậy và mê dại đối với các quan chức khác trong bộ chính trị. Trong dư luận nội bộ cũng ngày càng phổ biến câu cửa miệng "lực bất tòng tâm" nhằm ám chỉ một Nguyễn Phú Trọng rất có thể sẽ không còn với tới Đại hội 13, tuy chẳng ai dám công khai nói về tương lai "nhắm mắt xuôi tay" của ông ta.
Quy luật thường thấy trong chính trường là độc tôn quyền lực cá nhân đủ lâu hoặc quá lâu sẽ càng sinh biến loạn nội bộ một khi cá nhân đó phải chấm dứt quyền lực. Trường hợp Nguyễn Phú Trọng cũng rất có thể đang và sẽ là như vậy.
Nhưng sự ra đi của người này lại là nỗi vui sướng và niềm hy vọng cho kẻ khác.
"Âm binh" bắt đầu nổi lên ngay dưới ghế của Nguyễn Phú Trọng.
Cuộc chiến của những kẻ được xem là ngang cơ và ẩn mình dưới ghế Trọng cũng bởi thế sẽ tưng bừng và khắp nơi sẽ "nổi lửa lên em", cho đến khi Đại hội 13 kết thúc.
Truyền thông dọn đường
Cuộc chiến đó thuộc về những quan chức ‘âm binh’ sôi sục tham vọng lấp vào khoảng trống quyền lực mà Nguyễn Phú Trọng trước sau cũng phải nhả ra, và cũng thuộc về các trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’, dẫn dắt và hướng lái dư luận để phục vụ cho những nhân vật chính trị bất ngờ chiếm ghế khi đó, đặc biệt khi chính trường sắp bước vào năm 2020 mang tính quyết định về các nhân sự chủ chốt trong Bộ Chính trị và trong ‘tam trụ’ hoặc ‘tứ trụ’.
Cuộc chiến đó cũng sẽ được dẫn dắt bởi những trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’, mà ‘phe cánh chính trị’ đã từ lâu trở thành thuộc tính của chúng. Nếu không có gì thay đổi, vào năm 2020 những trang mạng này sẽ hiện nguyên hình với tên riêng chứ chẳng cần mượn danh lãnh đạo nào nữa.
Dù Bộ trưởng Thông tin và truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, khi trả lời chất vấn tại Quốc hội, cho rằng "Bộ đã làm rất mạnh về chuyện gỡ xuống các trang mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Trong hai tháng vừa qua gỡ 207 trang, có những trang là trang web thì chúng ta ngăn chặn, có những trang trên nền tảng mạng xã hội thì chúng ta hợp tác với nền tảng mạng xã hội. Trong số đó có 46 trang liên quan đến tên của đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước", nhưng đó chỉ là một cách nói lấp liếm hay một cách nói trong tư thế bị ‘khóa miệng’ của Bộ trưởng Hùng, bởi cho tới nay các trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’ vẫn còn nguyên hình dạng và nội dung như một thách thức rất lớn trước Luật An ninh mạng và những kẻ đẻ ra luật này.
Và dù Nguyễn Phú Trọng - chẳng mấy quan tâm đến mạng xã hội và lợi ích có được từ những trang mạng ‘đứng tên lãnh đạo’ - nên có thể đã chỉ đạo cho Bộ Thông tin và truyền thông tìm cách tém dẹp những trang này, vẫn có thật nhiều kẻ khác không muốn mất đi mối lợi của cơ chế ‘truyền thông dọn đường cho Đại hội 13’ và xem lệnh của Trọng chẳng ra gì.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 20/11/2019
Sau Bãi Tư Chính với nguồn trữ lượng dầu khí còn khá dồi dào, quần đảo Trường Sa đã trở thành mục tiêu thứ hai liên tiếp mà Bắc Kinh đặt vào tầm ngắm và có thể phát động chiến tranh xâm lược.
Một trạm gác di động của Việt Nam tại Trường Sa. Hình chụp 2010.
Bàn đạp của chiến tranh
Ngày 8/11/2019, Bắc Kinh đã tiến thêm một bước gây hấn khi Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Cảnh Sảng tái khẳng định ‘quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc’. Thông thường, Trung Quốc ra tuyên bố về chủ quyền đối với Trường Sa trong bối cảnh quan hệ Trung - Việt thật sự căng thẳng.
Trước đó vào ngày 18/9, cũng là Cảnh Sảng đã tung ra một tuyên bố chưa từng có : khẳng định Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động khai thác dầu khí ở nơi này.
Đã có thể nhìn ra rất rõ ý đồ của Trung Quốc trong chiến dịch mang tên Hải Dương 8 từ đầu tháng 7 năm 2019 đến nay : biến vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế của Việt Nam thành ‘vùng tranh chấp lãnh thổ’ với Trung Quốc, để sau đó từng bước tuyên bố không chỉ Bãi Tư Chính mà cả quần đảo Trường Sa cũng thuộc chủ quyền Trung Quốc, đánh lận con đen với dư luận quốc tế để tạo bàn đạp gây chiến khi cần thiết.
Nếu dầu khí ở Bãi tư Chính là nguồn tài nguyên thiên nhiên gần như duy nhất còn lại để nuôi bộ máy đảng Cộng sản Việt Nam cùng một thứ tín ngưỡng hệ thức hệ xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ tồn tại trong thực tiễn, Trường Sa tuy diện tích nhỏ nhưng lại có vai trò chiến lược quân sự khi quần đảo này nằm ở vị trí án ngữ ngay các luồng giao thông qua lại trên Biển Đông.
Nếu mất Trường Sa, Việt Nam sẽ mất nốt một cứ điểm quan trọng ở Biển Đông, sau khi quần đảo Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc vào năm 1974. Và nếu điều tồi tệ ấy xảy ra, Trung Quốc sẽ có được một trạm ‘BOT đường biển’ hết sức đắc ý mà có thể dựa vào đó để mặc cả và ‘thu phí’ thông thương đối với tàu bè các nước Mỹ, Nhật Bản , Ấn Độ, Úc…, trong đó 4 quốc gia vừa kể tên nằm trong nhóm ‘tứ giác kim cương’ - một liên minh về quân sự đối trọng với Trung Quốc ở vùng Thái Bình Dương.
Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ lữ đoàn, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong "đường lưỡi bò" mới được Trung Quốc vẽ bổ sung. Và với Trường Sa.
Bước đầu, Trung Quốc có thể tấn công các tàu hải cảnh của Việt Nam đang bảo vệ Bãi Tư Chính. Sau đó, cuộc chiến sẽ leo thang với sự đụng độ giữa các tàu chiến của hai bên. Sau đó Trung Quốc có thể tấn công Trường Sa. Hoặc có thể sẽ gây chiến ở Trường Sa trước khi đổ quân vào Bãi Tư Chính.
Việt Nam lấy gì để chống trả ?
Nếu xét về năng lực hải quân, cho dù có điều động toàn bộ số tàu chiến và hải cảnh ra Biển Đông, phía Việt Nam cũng chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng lượng tàu chiến và hải cảnh của Trung Quốc, chưa kể hàng chục ngàn tàu "thương mại dân sự," tức tàu cá được bọc sắt, mà Bắc Kinh tung ra như một đòn chiến thuật biển vào những lúc không cần có mặt tàu chiến. Hải quân Việt Nam sẽ khó lòng cầm cự được lâu nếu nổ ra chiến tranh ở Biển Đông.
Còn nếu xét về ý chí "hải quân bám bờ" trong suốt thời gian nhiều năm qua và tâm thế ngậm hột thị hiện thời thì chẳng có hy vọng gì về việc Hải quân Việt Nam dám can đảm chống cự tàu Trung Quốc khi bị tấn công. Thậm chí cảnh "bỏ của chạy lấy người" còn có thể lan tỏa rộng - đúng theo phương cách "chống giặc bằng cờ" mà giới chóp bu Việt Nam đang đốc thúc phát 1 triệu lá cờ đỏ sao vàng cho ngư dân để "bám biển."
Hiện thời, ngay cả chuyện nêu tên Trung Quốc và Bãi Tư Chính trong những phản ứng hiếm hoi của Bộ Ngoại giao và giới tướng lĩnh quân đội Việt Nam vẫn chỉ là giấc mơ cổ tích.
Rất đồng điệu với thái độ câm nín từ trên xuống dưới, từ Nguyễn Phú Trọng cho đến các ủy viên bộ chính trị và tất nhiên chẳng cần đếm tới gần hai trăm ủy viên trung ương, cho tới nay Bộ Quốc phòng Việt Nam thậm chí còn không đủ can đảm công bố chuyện đưa tên lửa ra Trường Sa để đối đầu với tên lửa Trung Quốc ở đảo Phú Lâm.
Hãy nhớ lại, vào đúng ngày 17/2 năm 2016, như một cách kỷ niệm 37 năm ngày khởi động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã bố trí phi pháp 8 tên lửa đất đối không HQ-9 và 1 hệ thống radar trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Những hình ảnh vệ tinh do hãng ImageSat International (ISI) chụp đã chứng minh rất rõ vụ việc này.
Một khi đã công khai đặt tên lửa ở đảo Phú Lâm để từ đó khống chế một phần Biển Đông, Trung Quốc sẽ chẳng mấy ngần ngại chọn Việt Nam như một mắt xích yếu nhất và hèn nhất trong khu vực những quốc gia Đông Nam Á để tạo nên một cuộc xung đột quân sự mang tính răn đe đối với Mỹ và những nước còn lại, đặc biệt sau phán quyết PCA quá bất lợi cho tác giả của "đường lưỡi bò 9 đoạn".
Đến tháng 8/2016, hãng tin Anh Reuters bất ngờ đẩy thể chế đối ngoại của Việt Nam vào thế không hề êm dịu và buộc phải mở miệng khi dẫn từ một "thông tin tình báo", cho thấy Hà Nội đã vận chuyển các giàn phóng tên lửa từ đất liền tới 5 căn cứ ở quần đảo Trường Sa trong những tháng trước đó.
Trong khi đó, giới chóp bu Việt Nam lúc nào cũng co rúm trước Trung Quốc như thỏ trước sói. Chuỗi logic của tư thế ẩn nấp tối đa như thế đã dẫn đến hậu quả là Hà Nội cùng Bộ Quốc phòng Việt Nam bị một vố đau điếng : ai đó đã bật mí về những giàn phóng tên lửa mà Việt Nam đang giấu giếm cho Reuters và buộc Việt Nam phải lộ diện trước cú phủ đầu hờm sẵn của Trung Quốc.
Thế nhưng cho tới nay, người ta đã chỉ có thể đoán biết về sự hiện diện của những giàn phóng tên lửa Việt Nam qua lời viên tướng Nguyễn Chí Vịnh - Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam - vào thời điểm năm 2016 : "Di chuyển bất kỳ loại vũ khí nào đến bất kỳ khu vực vào bất kỳ lúc nào trong vùng lãnh thổ có chủ quyền của chúng tôi là quyền hợp pháp của chúng tôi". Một cách nói chung chung và hàng hai theo đúng phong cách luôn lập lờ thủ thế của quan chức này.
Tuy vậy, Vịnh và những quan chức quân đội khác đã không phủ định sự hiện diện của tên lửa Việt Nam ở Trường Sa.
Có thể giới quan sát quốc tế không mấy biết đến cái tên Nguyễn Chí Vịnh. Nhưng nhiều người ở Việt Nam lại đã hiểu rõ thái độ lấp lửng cố hữu của viên tướng 3 sao này. Dưới thời Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, tướng Vịnh còn bị một số dư luận cho rằng "có yếu tố thân Trung Quốc". Biểu hiện rất dễ nhận ra của Nguyễn Chí Vịnh là trong hầu hết những cuộc "đối ngoại" với giới quân sự và các lãnh đạo Bắc Kinh, Vịnh luôn sử dụng một loại văn phong mô tả bầu không khí "Bốn tốt" lẫn "Mười sáu chữ vàng", thậm chí cả vào lúc tàu hải cảnh Trung Quốc công khai tấn công các tàu cá và giết hại ngư dân Việt Nam.
Cho tới nay, tướng Vịnh vẫn là người như thế. Còn cấp trên của ông ta là Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch thì chưa bao giờ dám phản ứng với Bắc Kinh. Theo một nhận xét gần đây nhất của tướng quân đội Lê Mã Lương, Ngô Xuân Lịch thậm chí còn chưa trải qua trận đánh nào và không biết đọc bản đồ thực địa quân sự !
Kẻ quỳ người đứng
5 năm sau cái năm 2014 vừa khốn khó vừa phải chịu nhục, chóp bu Việt Nam vẫn ngập ngụa nguyên trạng trong cảnh nguy khốn thực sự cùng tương lai đánh mất dầu khí và lãnh thổ.
Trong khi đó, bài toán ‘đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông - vẫn cứ ì ra đó bởi những quan chức Việt Nam chết đến đít vẫn còn kiêu căng hợm hĩnh ‘Mỹ cần Việt Nam hơn Việt Nam cần Mỹ’.
Ngay trước mắt, nếu Trung Quốc tiến thêm một bước là hạ đặt giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 trong khu vực Bãi Tư Chính, hoặc nằm ngoài khu vực này nhưng sát với một lô dầu khí màu mỡ nào đó mà Việt Nam đang khai thác, liệu các lực lượng được xem là ‘chức năng’ và ‘có trách nhiệm’ của Việt Nam có dám phản ứng ? Nếu phản ứng thì sẽ là gì ?
Khốn thay, dù được xem là quốc gia có lực lượng quân sự hùng hậu nhất Đông Nam Á, nhưng tư thế cúi rúc của Bộ Chính trị đảng ở Việt Nam còn lâu mới vươn kịp dáng đứng thẳng của nhà nước Philippines khi dám kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế và đã thắng kiện vào năm 2016.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 19/11/2019
Trước tháng 9/2018, thời điểm mà Nguyễn Phú Trọng chưa trở thành "tổng tịch" với việc soán cả hai ghế tổng bí thư kiêm chủ tịch nước, kịch bản biến động trong chính giới Việt Nam đã tính tới phương án "Trọng nghỉ giữa nhiệm kỳ" mà do đó sẽ để lộ ra một khoảng trống quyền lực, để sau đó sẽ là cuộc đua tranh chủ yếu giữa ba nhân vật Trần Quốc Vượng (thường trực Ban bí thư), Trần Đại Quang (chủ tịch nước) và Nguyễn Xuân Phúc (thủ tướng). Trong đó, ứng cử viên số một và được Nguyễn Phú Trọng tin dùng hơn cả, kèm nhận lời ngợi khen "làm việc gì ra việc đó", vẫn là Trần Quốc Vượng.
Ông Nguyễn Phú Trọng xuất hiện trong kỳ họp Quốc Hội hôm 21/10/2019. (Hình : Getty Images)
Đường một chiều mang tên Nguyễn Phú Trọng
Nhưng cho đến giữa năm 2018, vẫn không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Nguyễn Phú Trọng thực hiện "lời cam kết" tại Đại hội 12 là sẽ từ giã chính trường vào giữa nhiệm kỳ khóa 12. Sau đó ít lâu, tháng 9/2018, Trần Đại Quang thình lình đột tử. Ngay khi đó, không phải Trọng mà là Quang đã để lộ một khoảng trống quyền lực khá hấp dẫn, cho dù cương vị chủ tịch nước vẫn thường bị xem là hữu danh vô thực.
Ngã rẽ bất ngờ khi Nguyễn Phú Trọng chính thức trở thành "tổng tịch" vào tháng 10/2019, với độ tập trung quyền lực cao độ chưa từng có kể từ thời Lê Duẩn vào những năm 60 của thế kỷ 20, cũng tạm thời chấm dứt hy vọng ngoi lên của những quan chức cao cấp khác.
Nó cũng tạm thời chấm dứt cuộc tranh giành quyền lực cho ghế cao nhất trong đảng và đưa cuộc đua giành ghế tổng bí thư vào đường một chiều, với biển báo chỉ đường duy nhất mang tên Nguyễn Phú Trọng chứ không phải ai khác.
Hiện tượng bề mặt mô phỏng cho tình thế một chiều như thế là sau vào thời hậu Trần Đại Quang, hàng loạt quân tướng của Quang bị tróc nã, trong khi các bài viết "thông tin không chính thức" đấu đá nhau thưa hẳn trên mạng xã hội.
Cần nói thêm là, "thông tin không chính thức" là một khái niệm mới của đảng cầm quyền nhằm ám chỉ những tin tức từ nội bộ đảng tuồn ra ngoài và được đưa lên mạng xã hội, hoặc truyền khẩu để định hướng dư luận, nhưng chưa bao giờ được bất kỳ cơ quan nào của đảng hay chính quyền thừa nhận.
Nhưng bầu không khí đầy kích động của thời tiền Đại hội 12 đã trở lại với chính trường Việt Nam sau tháng 4/2019, tức sau thời điểm mà Nguyễn Phú Trọng thình lình bị một cơn bạo bệnh tại xứ Kiên Giang "nhà Ba Dũng".
"Âm binh" nổi lên
Cơn bạo bệnh trên có vẻ cấp tính và nguy hiểm đến mức chẳng bao lâu sau đó đã xuất hiện kịch bản về chuyển giao quyền lực của Nguyễn Phú Trọng cho người khác. Rõ là khoảng trống quyền lực mà Trọng có thể phải từ bỏ là miếng bánh hấp dẫn hơn nhiều so với thời ông ta chỉ là tổng bí thư, tạo sức hút thơm ngậy và mê dại đối với các quan chức khác trong Bộ chính trị. Trong dư luận nội bộ cũng ngày càng phổ biến câu cửa miệng "lực bất tòng tâm" nhằm ám chỉ một Nguyễn Phú Trọng rất có thể sẽ không còn với tới Đại hội 13, tuy chẳng ai dám công khai nói về tương lai "nhắm mắt xuôi tay" của ông ta.
"Âm binh" bắt đầu nổi lên ngay dưới ghế của Nguyễn Phú Trọng.
Sau lần Nguyễn Phú Trọng phải vắng mặt tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 9/2019, hầu như chắc chắn vấn đề sức khỏe suy sụp đang là thách thức lớn nhất đối với ông ta, chứ không phải là cú vỗ mặt nổ đom đóm của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính.
Vào tháng 10/2019, Nguyễn Phú Trọng lần đầu tiên phải thú nhận ông ta "cũng đang là bệnh nhân" trong một cuộc tiếp xúc cử tri Hà Nội. Sự thú nhận này cho thấy quả thật sức khỏe của Trọng đã trở nên nan giải đến mức ông ta không những không thể thực hiện chuyến công du Hoa Kỳ trong năm 2019 theo kế hoạch, mà còn chưa biết sẽ "xuôi tay" vào lúc nào.
Quy luật thường thấy trong chính trường là độc tôn quyền lực cá nhân đủ lâu hoặc quá lâu sẽ càng sinh biến loạn nội bộ một khi cá nhân đó phải chấm dứt quyền lực. Trường hợp Nguyễn Phú Trọng cũng rất có thể đang và sẽ là như vậy.
Kịch bản xung đột quyền lực trong chính trường Việt Nam đang diễn tiến theo hướng mức độ xung đột quyền lực tỷ lệ nghịch với tình hình sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng. Tức nếu Trọng còn khỏe hoặc tạm thời còn nắm quyền chỉ đạo toàn diện cho dù bị hạn chế đáng kể khả năng vận động tứ chi, xung đột quyền lực dưới chân ghế của Trọng vẫn chỉ ngấm ngầm với mức độ bình thường. Nhưng nếu ngược lại, sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng xuống nhanh thì cuộc tranh giành khoảng trống quyền lực sẽ càng có khuynh hướng lộ thiên và sống mái.
Sau khi Nguyễn Phú Trọng phải thú nhận là bệnh nhân, cùng cảnh tượng Đài Truyền Hình Việt Nam (VTV) "vô tình" phát đi hình ảnh Trọng đi đứng loạng choạng trong cuộc tiếp những người anh em xã hội chủ nghĩa Lào, không nghi ngờ gì nữa về lời giã từ chính trường được ông ta nêu ra một cách không chính thức, tương ứng với việc Trọng không thể chạy đua đến Đại hội 13 mà sẽ "nửa đường gãy gánh".
Nhưng sự ra đi của người này lại là nỗi vui sướng và niềm hy vọng cho kẻ khác.
Cuộc chiến của những kẻ được xem là ngang cơ cũng bởi thế sẽ tưng bừng và khắp nơi sẽ "nổi lửa lên em", cho đến khi Đại hội 13 kết thúc.
Kịch bản "vua" của chính giới Việt Nam giờ đây rõ ràng đang nghiêng về khả năng "minh quân" Nguyễn Phú Trọng không còn trụ nổi cho tới Đại hội 13. Đồng thời, danh sách các ứng cử viên thay Trọng đã trở nên dài hơn, mà ngoài Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc, còn có "quân hậu" Nguyễn Thị Kim Ngân, chủ tịch Quốc hội.
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà hàng loạt đơn thư tố cáo nội bộ và bài viết đấu đá lẫn nhau tung ra như bươm bướm trên mạng xã hội trong bối cảnh trên, dày đặc hơn hẳn khi Nguyễn Phú Trọng còn chưa bị bạo bệnh. Những bài viết này cũng được xem là "thông tin không chính thức".
Cho tới nay, đã có hai con sóng "thông tin không chính thức" lan tràn trên mạng xã hội và tác động mạnh đến dư luận nội bộ lẫn dư luận xã hội : một lần trước Hội nghị Trung ương 10 vào tháng 5/2019, và lần kế tiếp trước Hội nghị Trung ương 11 vào tháng 10/2019.
Thậm chí cái bóng ma quái dữ dội của trang mạng Chân Dung Quyền Lực, từng làm mưa làm gió trên mạng xã hội, thu hút ghê gớm dư luận xã hội và tác động kinh khủng vào nội bộ vào khoảng thời gian cuối năm 2014, đầu năm 2015, đang trở lại với chính trường Việt Nam, nhưng đã biến thể sang những bút danh khác và nội dung, đối tượng công kích cũng khác.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Thị Kim Ngân đột nhiên bị "đánh tơi tả" vào thời gian ngay trước Hội nghị Trung ương 11, khi nổ ra vụ báo Nam Hàn bỗng dưng có được tin tức 9 người trong đoàn quốc hội của Nguyễn Thị Kim Ngân đi Nam Hàn vào cuối năm 2018 đã bỏ trốn ở lại quốc gia này, đến nay vẫn chưa phát hiện số người đó ở đâu.
Cứ với đà này, con sóng "thông tin không chính thức" lần thứ ba sẽ trào lên vào khoảng thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, có thể diễn ra vào cuối năm 2019 hoặc đầu năm 2020, và hẳn sẽ dữ dội hơn cả hai con sóng trước đó.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 17/11/2019
Vì sao EU vội vã và dễ dãi ký kết EVFTA và IPA ?
Phạm Chí Dũng, VOA, 16/11/2019
Cho đến nay, nhiều người vẫn không hiểu vì nguyên do đặc biệt nào mà một số quan chức của EU lại tỏ ra vồ vập Hiệp định Thương mại Tự do Liên Âu và Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo vệ Đầu tư (IPA), luôn tìm cách thúc đẩy để hai hiệp định này được ký kết và phê chuẩn sớm nhưng lại không hề quan tâm đến khía cạnh mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thương mại EU - Việt Nam, và đặc biệt là không quan tâm đến cải thiện nhân quyền là nội dung nằm trong hai hiệp định này.
Lễ ký kết EVFTA và IPA tại Hà Nội ngày 30/06/2019
Những dấu hỏi lớn
Khác với cách đánh giá của chính quyền Việt Nam và một số quan chức EU cho rằng có EVFTA và IPA sẽ làm gia tăng đáng kể lợi ích kinh tế cho EU, thực tế đã chứng minh ngược lại : trong quan hệ thương mại song phương và đa phương giữa EU và Việt Nam trong nhiều năm qua, hầu như năm nào EU cũng phải nhập siêu từ Việt Nam đến 20 - 25 tỷ USD, và giá trị nhập siêu này ngày càng tăng theo thời gian. Nếu xét trên phương diện lợi thế so sánh về kinh tế, rõ ràng giá trị nhập siêu quá lớn này cho thấy EU không phải là đối tác được hưởng lợi đáng kể, mà ngược lại EU phải chịu thiệt thòi đáng kể trong giao thương với Việt Nam. Có chăng, chỉ là một nhóm nhỏ trong các doanh nghiệp của EU làm ăn với Việt Nam được hưởng lợi và hưởng lợi đặc biệt.
Một dấu hỏi lớn bật ra : phải chăng nhiều dư luận từ trước tới nay là có cơ sở đáng tin cậy khi đề cập một số doanh nghiệp thuộc EU đã thông qua một số quan chức EU và người đứng đầu của Phái đoàn EU tại Việt Nam - ông Bruno Angelet (vừa hết nhiệm kỳ tại Việt Nam vào năm 2019) để vận động Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu, Hội đồng Châu Âu và Quốc hội Châu Âu cho ký kết và phê chuẩn EVFTA và IPA nhưng bỏ mặc tình trạng vi phạm nhân quyền cực kỳ nghiêm trọng của chính quyền Việt Nam ?
Và phải chăng luận điểm của một số quan chức EU cho rằng nếu không có EVFTA sẽ thiệt thòi lớn cho doanh nghiệp Châu Âu chỉ nên hiểu là về thực chất, đó chỉ là sự thiệt thòi cho một nhóm nhỏ, chứ không phải tất cả, doanh nghiệp thuộc EU ?
EU bị Việt Nam coi thường và qua mặt
Dù chưa rõ Phái đoàn EU tại Việt Nam đã từng tham mưu cho EU ra sao về EVFTA, IPA và tình hình nhân quyền ở Việt Nam, nhưng không ít người đã cho rằng vào thời ông Bruno Angelet làm Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam, cơ quan này có lẽ là một trong những cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài hoạt động mờ nhạt nhất về nhân quyền Việt Nam, hầu như không có tác động nào đến chính quyền Việt Nam về cải thiện nhân quyền, còn cá nhân ông Bruno là tâm điểm của nhiều dư luận về việc ông ta quá gần gũi với giới quan chức trong chính quyền Việt Nam, thường nói tốt cho chính quyền này trong khi né tránh các vụ đàn áp nhân quyền.
Tình trạng trên hẳn là một trong những nguyên nhân chính yếu dẫn đến hệ lụy là 8 cuộc đối thoại nhân quyền EU- Việt Nam trong những năm qua đã hầu như không có tác dụng gì. Có thể cho rằng đến 95% những khuyến nghị của EU về cải thiện nhân quyền đã bị chính quyền Việt Nam bỏ qua, sau khi hứa hẹn ngọt lịm. Một vài nội dung mà chính quyền Việt Nam thực hiện về nhân quyền chỉ là giới tính - một vấn đề vô thưởng vô phạt mà không làm ảnh hưởng gì tới chân đứng chính trị của chế độ độc đảng và độc tài ở Việt Nam.
Có một vài hoạt động mà có thể mang dấu ấn của EU như vận động chính quyền Việt Nam trả tự do cho hai tù nhân lương tâm là Luật sư Nguyễn Văn Đài và Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh vào năm 2018. Song chính quyền Việt Nam lại bắt bù, tức thả một người thì bắt lại và xử án tù từ 10 - 20 người bất đồng chính kiến khác. Chỉ tính riêng từ đầu năm 2019, khi chính thức áp dụng Luật An ninh mạng, cho tới nay chính quyền Việt Nam đã tống giam đến 18 người bất đồng chính kiến chỉ vì họ phải đối những chính sách bất công và của chính quyền và nạn tham nhũng của các quan chức chính quyền. Về thủ đoạn ‘bắt bù’ như thế, chính ông Tom Malinowsky - Trợ lý ngoại trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về dân chủ, lao động và nhân quyền, và là Trưởng đoàn đối thoại nhân quyền Mỹ - Việt vào năm 2015, là người nắm rất rõ và đã từng phải phản ứng ra mặt đối với thủ đoạn ấy.
Cũng có những thông tin từ trong nội bộ đảng cầm quyền ở Việt Nam về việc chính quyền này rất coi thường bản lĩnh của EU trong các cuộc đối thoại hàng năm EU - Việt Nam về nhân quyền. Rất thường là chính quyền Việt Nam chỉ cử một quan chức bậc trung (cấp vụ trưởng) và hoàn toàn không có thẩm quyền quyết định để gặp phái đoàn EU. Quan chức này đưa ra những hứa hẹn ngọt ngào mà có thể làm cho các thành viên đoàn EU hài lòng, nhưng sau đó Việt Nam không thực hiện, hoặc chỉ thực hiện rất ít những khuyến nghị về nhân quyền của phái đoàn EU. Còn trong cung cách đối xử với bất đồng chính kiến trong nước, rõ ràng chính quyền Việt Nam đã làm ngược lại những khuyến nghị của EU.
Sẽ ra sao nếu dễ dãi phê chuẩn EVFTA ?
Vào lúc này và khi thời điểm Nghị viện Châu Âu xem xét bỏ phiếu EVFTA đang đến gần, có thể sẽ diễn ra vào tháng 2/2020, chính thể độc tài ở Việt Nam đang tìm cách thúc giục EU sớm phê chuẩn EVFTA, nhưng sẵn sàng qua mặt EU thêm một lần nữa bằng những hứa hẹn ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ hoàn toàn đầu môi chót lưỡi.
Nhưng những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm nhân quyền, cộng với tình trạng đàn áp bất đồng chính kiến ngày càng leo thang của chính thể độc tài ở Việt Nam là một thực tế trần trụi và đau đớn mà nhiều nghị sĩ EU không nên bỏ qua khi cân nhắc bỏ phiếu có thông qua hay không Hiệp định EVFTA và IPA. Một cái gật đầu dễ dãi của Nghị viện Châu Âu đối với EVFTA và IPA sẽ phủ nhận toàn bộ bản nghị quyết nhân quyền Việt Nam của chính cơ quan này, khiến uy tín lẫn hình ảnh của Nghị viện Châu Âu bị giảm sút không ít trong đánh giá của cộng đồng quốc tế.
Vào tháng 2/2019, Hội đồng Châu Âu đã từng thông báo hoãn việc ký kết EVFTA và IPA. Ngay trước sự kiện này là một thư kiến nghị của 18 tổ chức xã hội dân sự quốc tế và Việt Nam đề nghị EU hoãn ký kết hai hiệp định thương mại do chính quyền Việt Nam hầu như không có sự thay đổi nào theo hướng tiến bộ về nhân quyền. Nhưng chỉ sau đó vài tháng, khi chính quyền Việt Nam đưa Công ước 98 về lao động ra quốc hội nước này để phê chuẩn, dường như Hội đồng Châu Âu đã hài lòng quá sớm, từ đó dẫn đến việc co quan này chấp thuận cho Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu ký kết EVFTA và IPA với Việt Nam vào tháng 6/2019. Tuy nhiên thái độ quá dễ dãi và có phần vội vã của Hội đồng Châu Âu đã có câu trả lời : từ đó đến nay, bức tranh đàn áp nhân quyền ở Việt Nam ngày càng xám xịt.
13 năm sau sự kiện "Việt Nam được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chấp thuận cho trở thành thành viên thứ 150", kịch bản "vào trước, bắt sau" hầu như đang tái hiện ở Việt Nam. Vào năm 2006, chính thể Việt Nam đã nhún mình giảm bớt đàn áp và bắt bớ giới nhân quyền và bất đồng chính kiến để tiếp đón Tổng Thống Mỹ George Bush tại Hà Nội, và sang năm 2007 Việt Nam được Mỹ nhấc khỏi CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo), tức được giảm cấm vận kinh tế và được hưởng những điều kiện ưu đãi về vay tín dụng và viện trợ không hoàn lại của quốc tế. Nhưng chỉ một năm sau đó, từ năm 2008 trở đi, công an Việt Nam liên tiếp gia tăng tống giam người bất đồng như một kiểu "bắt bù". Các nhà tù Việt Nam chật kín tù chính trị với con số bị bắt và bị xử tù lên đến nửa trăm người mỗi năm.
Còn lần này là EVFTA và IPA. Rất nhiều dấu hiệu trong thời gian gần đây cho thấy chính quyền Việt Nam đang chờ được Quốc hội Châu Âu phê chuẩn EVFTA và IPA là sẽ ra tay, với cường độ cao hơn hẳn tình trạng ‘bắt hạn chế’ vào lúc này, để bắt bớ hàng loạt tiếng nói bất đồng chính kiến trong nước, đặc biệt là những người dám phản đối Việt Nam vào EVFTA do vi phạm nhân quyền, và tiếp tục xử án tù nặng nề các công dân yêu nước dám phản kháng Trung Quốc.
Tháng 11 năm 2019, một lần nữa nhiều tổ chức xã hội dân sự quốc tế và Việt Nam đã gửi Thư ngỏ cho Chủ tịch quốc hội Châu Âu và các cơ quan thuộc quốc hội này, đề nghị Nghị viện Châu Âu hoãn việc phê chuẩn EVFTA và IPA cho đến khi các yêu cầu về nhân quyền đề ra được chính quyền Việt Nam đáp ứng.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 16/11/2019
*********************
Về lá thư "tha thiết kiến nghị hoãn phê chuẩn EVFTA
Nguyễn Hiền, VNTB, 16/11/2019
Ông Phạm Chí Dũng, nhà báo độc lập, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam vừa có một lá thư gửi Chủ tịch Quốc hội EU và các quan chức cao cấp khác của khối này "kiến nghị hoãn phê chuẩn EVFTA và IPA" [1].
Hiệp định Thương mại Tự do Liên Âu
Lý do được đề ra, "95% những khuyến nghị của EU về cải thiện nhân quyền trong những năm qua đã bị chính quyền Việt Nam bỏ qua, sau khi hứa hẹn ngọt lịm". Hiện tượng "bắt bù" liên tiếp diễn ra trong thời gian gần đây với số lượng dao động từ 10 – 20 người.
Trước đó, trong cuộc tiếp xúc đoàn đại biểu quốc hội EU vào chiều ngày 29/10, TS Nguyễn Quang A [2], người thông tin " tình hình nhân quyền từ tháng 10 năm ngoái đến nay không được cải thiện mà còn xấu đi" trong bối cảnh dự kiến Hiệp định giữa Việt Nam – EU sẽ "ký kết vào 1-2020".
Tình trạng EVFTA có thể được miêu tả qua dòng "cân đo đong đếm thương mại và nhân quyền" ở cả hai phía EU và Nhà nước Việt Nam. Phía xã hội dân sự Việt Nam đang bị bỏ rơi bằng sự tham vấn hời hợt về phía EU và cả sự trấn áp từ phía Việt Nam.
Ông Thứ trưởng Trần Quốc Khánh bày tỏ, EVFTA không xuất phát từ con số 0 mà "xuất phát từ hiểu biết và tin cậy lẫn nhau nên tiến trình đàm phán đã diễn ra tương đối thuận lợi". Nhưng đúng như lá thư ông Phạm Chí Dũng mô tả, EU đang rơi vào trạng thức, sự nhận thức của khối này về vấn đề nhân quyền Việt Nam đầy sự mơ hồ, hoặc nhận thức của chính EU đang bị che mắt bởi nhóm lợi ích doanh nghiệp của khối.
Liệu ai sẽ còn tin vào giá trị nhân quyền mà khối EU khởi xướng khi mà bản chất của "cân đo đong đếm" trong EVFTA và IPA nghiêng hẳn về phía thương mại ? Chính vì yếu tố đó mà đã thúc đẩy nhân quyền Việt Nam trong năm 2019 không những cải thiện, mà hàng loạt Facebooker bị kết án với thời gian tù dài hạn và quyền của người lao động về công đoàn độc lập tiếp tục bị kéo dài hơn trong xác lập và thi hành ?
Làm thế nào để tin được các cam kết nhân quyền của Việt Nam khi mà ngay trong thời kỳ nhạy cảm nhất, tức là sát nút ký kết Nhà nước Việt Nam vẫn không khoan dung với người bất đồng chính kiến ? Và liệu rằng đó có phải là cảnh báo tức thì của Nhà nước Việt Nam sau khi ký kết xong sẽ đẩy mạnh một cuộc trấn áp trên bình diện rộng hơn, với mức độ nặng nề hơn ?
Lá thư của ông Phạm Chí Dũng là đáng chú ý, vì ông cảnh báo hiện tượng lịch sử lặp lại, khi mà lời "hứa hẹn suông" về nhân quyền có từ thời kỳ ký kết WTO tiếp tục hiện diện ở EVFTA. Cũng như nhún nhường những vấn đề "dân sự" chưa thực sự cấp thiết như giới tính để làm đẹp báo cáo nhân quyền cho phía EU.
Cho đến nay, ngoài TS Nguyễn Quang A ra, thì TS Phạm Chí Dũng là người nằm trong khối xã hội dân sự độc lập theo dõi sát sâu nhất về tiến trình đàm phán và ký kết EVFTA, cũng như lên tiếng về vấn đề nhân quyền, cam kết và khả năng thực thi nhân quyền trong hiệp định thương mại tự do này ?
Nhưng tại sao đến nay chỉ cũng có hai người này ? Những người còn lại đang ở đâu và đang làm gì ?
Tại sao đến nay, sau bản kiến nghị chung của các tổ chức xã hội dân sự, lại chỉ có mỗi một mình ông TS Phạm Chí Dũng là ra lá thư "tha thiết kiến nghị". Có phải những cá nhân, nhà hoạt động và thúc đẩy nhân quyền Việt Nam đang chán chường trước tính chất "bị bỏ rơi bên thềm hội nghị" mỗi khi có một hiệp định thương mại gắn liền với nhân quyền ? Hay là vì những cá nhân và nhà hoạt động, thúc đẩy nhân quyền Việt Nam chưa nhận thức được khả năng nâng cao, hạ xuống về nhân quyền khi EVFTA được ký kết mà không có sự đấu tranh điều chỉnh ? Hay là vì bản thân những cá nhân, nhà hoạt động và thúc đẩy nhân quyền cho rằng, đây là cuộc chơi riêng của nhà nước Việt Nam và EU ?
Dù bất cứ lý do nào đi chăng nữa, thì lá thư của ông Phạm Chí Dũng cũng đánh động nhiều vấn đề, không chỉ nằm ở "chiến thuật ký kết và đàm phán" của Nhà nước Việt Nam, mà cả thái độ "thờ ơ, lạnh nhạt đến khó hiểu" của EU, và một cộng đồng xã hội dân sự cũng không kém phần chán chường.
Nếu không có quá nhiều cá nhân "tha thiết kiến nghị" dựa trên sự hiểu biết đa chiều, và không có quá nhiều tổ chức xã hội dân sự độc lập hoặc được chính phủ công nhận giám sát, thì nhân quyền (về quyền dân sự và chính trị) chắc chắn sẽ bị bỏ rơi.
EVFTA và IPA có tốt không ? Hẳn nhiên là rất tốt, tốt cho nền kinh tế quốc gia, và dân tộc ? Nhưng tại sao ông Phạm Chí Dũng, ông Nguyễn Quang A liên tiếp lên tiếng kêu gọi "hoãn ký kết", đó là bởi cả hai ông và nhiều những người khác nhận thức được rằng, khi nhân quyền được ghi nhận nhưng không được cam kết và thực hiện thì có khả năng những thành quả thương mại EVFTA và IPA sẽ không đảm bảo tính lâu dài (bền vững). Và tác động của EVFTA, IPA sẽ tác động rộng lớn, có chiều sâu đến nhiều người thay vì chỉ một đối tượng nhỏ là doanh nghiệp. Nhân quyền là bệ đỡ của thịnh vượng, là bạn đồng hành của thương mại, chứ không phải là "con rơi" của thương mại, càng không phải "thảm lót đường" cho thương mại.
Hiện nay, vẫn có một sẽ quan điểm hẹp cho rằng, hãy cứ cổ vũ và ủng hộ EVFTA, IPA. Vì "nước giàu, dân mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh", thế nhưng câu chuyện "nước mạnh" không đồng nghĩa với "dân chủ" được mở rộng, và trường hợp Trung Quốc là một viên thuốc đắng cho các chính khách Mỹ từng theo đuổi lý thuyết "giàu có, ĐCSTQ sẽ mở rộng dân chủ" [1].
Lá thư của ông Phạm Chí Dũng không chỉ thể hiện quyền của một nhà báo độc lập ưa chuộng tự do, dân chủ, mà còn là một công dân tâm huyết, trăn trở với sự bền vững và thịnh vượng lâu dài của quốc gia – dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 16/11/2019
Chú thích :
[2] https://www.facebook.com/a.nguyenquang.16/posts/2592654134295946
****************
Thư kiến nghị hoãn phê chuẩn EVFTA và IPA
Phạm Chí Dũng, VNTB, 13/11/20192
Việt Nam là một trong những nước giam giữ tù nhân lương tâm nhiều nhất trên thế giới.
Kính gửi :
- Ông David Sassoli, Chủ tịch Quốc hội Âu Châu
- Ông Bernd Lange, Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc hội Âu Châu
- Ông David MacAllister, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Quốc hội Âu Châu
- Bà Marie Aréna, Chủ tịch Ủy ban Nhân Quyền Quốc hội Âu Châu
- Ông Tomas Tobé, Chủ tịch Ủy ban Phát Triển Quốc hội Âu Châu
- Các cơ quan thuộc Quốc hội Âu Châu
Tôi là Phạm Chí Dũng, nhà báo độc lập, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam - một tổ chức xã hội dân sự độc lập và đấu tranh cho dân chủ nhân quyền, ra đời vào năm 2014 ở Việt Nam, với hơn 70 nhà báo tự do, hoạt động hoàn toàn độc lập về quan điểm và nội dung, không phụ thuộc vào chính quyền về đường lối quan điểm, nhân sự và tài chính.
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam và cá nhân tôi đặc biệt quan tâm đến Hiệp định Thương mại Tự Do giữa Liên Âu và Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo vệ Đầu tư (IPA) mà Liên minh Châu Âu (EU) đã ký và có thể sẽ xem xét việc phê chuẩn với Việt Nam. Chúng tôi đã có rất nhiều bài viết nghiên cứu và phân tích, đăng trên trang web của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam là vietnamthoibao.org và nhiều trang mạng khác, nêu rõ quan điểm việc ký kết, phê chuẩn và triển khai hai hiệp định này cần được bắt đầu từ việc chính quyền Việt Nam phải cải thiện một cách có thể chứng minh được các vấn đề nhân quyền liên quan đến các công ước quốc tế về lao động, công đoàn độc lập, tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do lập hội, xã hội dân sự, tù nhân lương tâm…
Cho tới nay, tôi vẫn ngạc nhiên không biết vì nguyên do đặc biệt nào mà một số quan chức của EU lại tỏ ra vồ vập EVFTA và IPA, luôn tìm cách thúc đẩy để hai hiệp định này được ký kết và phê chuẩn sớm nhưng lại không hề quan tâm đến khía cạnh mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thương mại EU - Việt Nam, và đặc biệt là không quan tâm đến cải thiện nhân quyền - là nội dung quan trọng nằm trong hai hiệp định này và cũng nằm trong tiêu chí của EU về tăng cường dân chủ ở các nước trên thế giới.
Khác với cách đánh giá của chính quyền Việt Nam và một số quan chức EU cho rằng có EVFTA và IPA sẽ làm gia tăng đáng kể lợi ích kinh tế cho EU, tôi cho rằng thực tế đã chứng minh ngược lại : trong quan hệ thương mại song phương và đa phương giữa EU và Việt Nam trong nhiều năm qua, hầu như năm nào EU cũng phải nhập siêu từ Việt Nam đến 20 - 25 tỷ USD, và giá trị nhập siêu này ngày càng tăng theo thời gian. Nếu xét trên phương diện lợi thế so sánh về kinh tế, rõ ràng giá trị nhập siêu quá lớn này cho thấy EU không phải là đối tác được hưởng lợi đáng kể, mà ngược lại EU phải chịu thiệt thòi đáng kể trong giao thương với Việt Nam. Có chăng, chỉ là một nhóm nhỏ trong các doanh nghiệp của EU làm ăn với Việt Nam được hưởng lợi và hưởng lợi đặc biệt từ chuyện buôn bán này.
Tôi tự hỏi phải chăng nhiều dư luận từ trước tới nay là có cơ sở đáng tin cậy khi đề cập một số doanh nghiệp thuộc EU đã thông qua một số quan chức EU và người đứng đầu của Phái đoàn EU tại Việt Nam - ông Bruno Angelet (vừa hết nhiệm kỳ tại Việt Nam vào năm 2019) để vận động Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu, Hội đồng Châu Âu và Quốc hội Châu Âu cho ký kết và phê chuẩn EVFTA và IPA nhưng bỏ mặc tình trạng vi phạm nhân quyền cực kỳ nghiêm trọng của chính quyền Việt Nam.
Và phải chăng luận điểm của một số quan chức EU cho rằng nếu không có EVFTA sẽ thiệt thòi lớn cho doanh nghiệp Châu Âu chỉ nên hiểu là về thực chất, đó chỉ là sự thiệt thòi cho một nhóm nhỏ, chứ không phải tất cả, doanh nghiệp thuộc EU ?
Vào tháng 10 năm 2018, ngay sau khi chính quyền Việt Nam phải cử một phái đoàn đến Bruxelles để điều trần về nhân quyền - EVFTA, ông Bruno Angelet - Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam - đã vào Sài Gòn và có một cuộc gặp với tôi và một luật sư nhân quyền là Lê Công Định. Khi đó, chúng tôi đã có phần hy vọng rằng rốt cuộc thì ông Bruno cũng bắt đầu chú ý tới việc cải thiện nhân quyền, khi trước đó ông ta hầu như rất ít gặp gỡ giới đấu tranh dân chủ nhân quyền ở Việt Nam. Nhưng nội dung cuộc gặp này lại khiến chúng tôi hết sức thất vọng, vì ông Bruno trong khi hoàn toàn không đề cập gì đến tình trạng vi phạm nhân quyền của chính quyền Việt Nam và việc cải thiện nhân quyền, thì lại gợi ý với chúng tôi rằng Việt Nam đã có tự do ngôn luận, tự do báo chí nên đề nghị chúng tôi viết theo hướng ủng hộ việc ký kết EVFTA và IPA (cũng có thể được hiểu là chúng tôi nên hạn chế viết bài phản bác việc ký hai hiệp định này do chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền).
Tôi không biết Phái đoàn EU tại Việt Nam đã từng tham mưu cho EU ra sao về EVFTA, IPA và tình hình nhân quyền ở Việt Nam, mà chỉ biết rằng vào thời ông Bruno Angelet làm Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam, cơ quan này có lẽ là một trong những cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài hoạt động mờ nhạt nhất về nhân quyền Việt Nam, hầu như không có tác động nào đến chính quyền Việt Nam về cải thiện nhân quyền, còn cá nhân ông Bruno lại là tâm điểm của nhiều dư luận về việc ông ta quá gần gũi với giới quan chức trong chính quyền Việt Nam, thường nói tốt cho chính quyền này trong khi né tránh các vụ đàn áp nhân quyền, đến mức ông ta bị xem là ‘thân chính quyền Việt Nam’. Điều này hẳn là một trong những nguyên nhân chính yếu dẫn đến hệ lụy là 8 cuộc đối thoại nhân quyền EU- Việt Nam trong những năm qua đã hầu như không có tác dụng gì. Chúng tôi có thể đánh giá rằng đến 95% những khuyến nghị của EU về cải thiện nhân quyền trong những năm qua đã bị chính quyền Việt Nam bỏ qua, sau khi hứa hẹn ngọt lịm. Một vài nội dung mà chính quyền Việt Nam thực hiện về nhân quyền và khoa trương với quốc tế chỉ là giới tính - một vấn đề vô thưởng vô phạt mà không làm ảnh hưởng gì tới chân đứng chính trị của chế độ độc đảng và độc tài ở Việt Nam.
Có một vài hoạt động mà có thể mang dấu ấn đóng góp của EU như vận động chính quyền Việt Nam trả tự do cho hai tù nhân lương tâm là Luật sư Nguyễn Văn Đài và Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh vào năm 2018. Song chính quyền Việt Nam lại bắt bù, tức thả một người thì bắt lại và xử án tù từ 10 - 20 người bất đồng chính kiến khác. Chỉ tính riêng từ đầu năm 2019, khi chính thức áp dụng Luật An ninh mạng, cho tới nay chính quyền Việt Nam đã tống giam đến 18 người bất đồng chính kiến chỉ vì họ phải đối những chính sách bất công và của chính quyền và nạn tham nhũng của các quan chức chính quyền. Về thủ đoạn ‘bắt bù’ như thế, chính ông Tom Malinowsky - Trợ lý ngoại trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về dân chủ, lao động và nhân quyền, và là Trưởng đoàn đối thoại nhân quyền Mỹ - Việt vào năm 2015, là người nắm rất rõ và đã từng phải phản ứng ra mặt đối với thủ đoạn ấy.
Chúng tôi cũng đã nghe được những nguồn tin từ trong nội bộ đảng cầm quyền ở Việt Nam về việc chính quyền này rất coi thường bản lĩnh của EU trong các cuộc đối thoại hàng năm EU - Việt Nam về nhân quyền. Rất thường là chính quyền Việt Nam chỉ cử một quan chức bậc trung (cấp vụ trưởng) và hoàn toàn không có thẩm quyền quyết định để gặp phái đoàn EU. Quan chức này đưa ra những hứa hẹn ngọt ngào mà có thể làm cho các thành viên đoàn EU hài lòng, nhưng sau đó Việt Nam không thực hiện, hoặc chỉ thực hiện rất ít những khuyến nghị về nhân quyền của phái đoàn EU. Còn trong cung cách đối xử với bất đồng chính kiến trong nước, rõ ràng chính quyền Việt Nam đã làm ngược lại những khuyến nghị của EU.
Vào giữa tháng 11/2018, Quốc hội Châu Âu đã ban hành nghị quyết về nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2018/2925 (RSP). Đây là nghị quyết rất rộng và sâu, văn phong mạnh mẽ, đề cập đến hầu hết những vấn đề vi phạm nhân quyền ở Việt Nam trong các lĩnh vực lao động, tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do ngôn luận trên mạng Internet, tù nhân lương tâm... và yêu cầu chính quyền Việt Nam phải cải thiện nhân quyền ngay. Bản nghị quyết này đã gây ấn tượng mạnh và tạo nên hy vọng lớn trong giới đấu tranh dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Nhưng cho đến ngày 30 tháng Sáu năm 2019 khi hai hiệp định EVFTA và IPA được Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu ký với Việt Nam tại Hà Nội, chỉ mới một phần rất nhỏ trong toàn bộ nội dung của bản nghị quyết về nhân quyền này được phía Việt Nam đáp ứng.
Trước yêu cầu phải ký 3 công ước quốc tế còn lại của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chính thể Việt Nam đã chỉ mang ra quốc hội bàn việc ký và phê chuẩn Công ước 98 về thỏa ước lao động, là định chế mà về thực chất không có ảnh hưởng gì đến nền chính trị độc tài. Còn hai công ước quốc tế còn lại về lao động là Công ước 105 về chống cưỡng bức lao động, và đặc biệt Công ước 87 – công ước then chốt quy định bắt buộc về quyền của người lao động được tự do thành lập công đoàn độc lập – lại bị chính quyền Việt Nam treo đến năm 2023 hoặc năm 2025. Nhưng chẳng có gì chắc chắn là đến năm đó Công ước 87 sẽ được ký và nhất là sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc.
Cần chú ý rằng trong quan điểm của chính quyền Việt Nam, công đoàn độc lập bị xem là ‘phản động’ nhất và khiến chính quyền này lo sợ nhất, vì Việt Nam luôn so sánh đồng dạng công đoàn độc lập với Công đoàn Đoàn kết cùng hành động ‘lật đổ chính quyền’ ở Ba Lan vào những năm 80 của thế kỷ XX. Việc Việt Nam kéo lùi thời điểm ký Công ước 87 về thực chất là một thủ thuật câu giờ và hy vọng sẽ làm cho EU và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nản lòng mà không đòi hỏi Việt Nam phải ký Công ước 87 nữa.
Trong khi đó, việc Việt Nam sửa đổi Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn cũng trí trá và ma mãnh không kém khi dự thảo này tuyệt đối không đề cập đến khái niệm "công đoàn độc lập", trong khi dựng lên một núi thủ tục hành chính để làm nản lòng những công nhân muốn tự tay thành lập công đoàn phi nhà nước.
Cũng trong khi đó, không khí đàn áp nhân quyền ở Việt Nam vẫn đặc sệt như một thùng thuốc súng. Công an Việt Nam vẫn liên tiếp bắt bớ và hành hung dã man những người hoạt động nhân quyền và xã hội dân sự, bắt bớ và giam cầm từ nghệ sĩ làm phim về dân oan đất đai cho đến những phụ nữ chống BOT bẩn… Vẫn chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho bất kỳ một "cải thiện nhân quyền" nào, dù chỉ mang tính mị dân hoặc để đối phó với cộng đồng quốc tế…
Vào lúc này và khi thời điểm Nghị viện Châu Âu xem xét bỏ phiếu EVFTA đang đến gần - có thể sẽ diễn ra vào tháng 2/2020, chính thể độc tài ở Việt Nam đang tìm cách thúc giục EU sớm phê chuẩn EVFTA, nhưng sẵn sàng qua mặt EU thêm một lần nữa bằng những hứa hẹn ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ hoàn toàn đầu môi chót lưỡi.
EVFTA và IPA là đặc biệt cần cho Việt Nam, trong bối cảnh từ nhiều năm qua Việt Nam chỉ có thể xuất siêu sang thị trường EU (khoảng 20 - 25 tỷ USD/năm) và sang thị trường Hoa Kỳ (khoảng 35 - 40 tỷ USD/năm), nhưng lại phải nhập siêu lớn từ các thị trường khác như Hàn Quốc (khoảng 25 tỷ USD/năm) và đặc biệt là nhập siêu từ Trung Quốc (gần 50 tỷ USD/năm). Và trong bối cảnh ngân sách Việt Nam đang thiếu trầm trọng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài…
Vào lúc này, quá nhiều khó khăn kinh tế đã tích tụ và chồng chất để trở thành nỗi bế tắc được định dạng ngay trên gương mặt của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu không khẩn cấp tìm ra lối thoát kinh tế và tài chính, chẳng mấy năm nữa đảng sẽ không còn tiền nuôi đội ngũ công chức viên chức lên đến gần ba triệu người, cùng một lực lượng vũ trang và bán vũ trang hoặc chỉ biết đàn áp quyền làm người của dân chúng, hoặc chỉ lo làm "kinh tế quốc phòng" mà chẳng hề bảo vệ ngư dân Việt trong lúc tàu Trung Quốc hùng hổ tấn công, hành hung và bắn giết.
Trong toàn bộ bức tranh u tối kinh tế ở Việt Nam đương đại, EVFTA và IPA là lối thoát được Bộ Chính Trị đảng ở Việt Nam kỳ vọng nhất.
Nhưng những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm nhân quyền, cộng với tình trạng đàn áp bất đồng chính kiến ngày càng leo thang của chính thể độc tài ở Việt Nam là một thực tế trần trụi và đau đớn mà nhiều nghị sĩ EU không nên bỏ qua khi cân nhắc bỏ phiếu có thông qua hay không Hiệp định EVFTA và IPA. Một cái gật đầu dễ dãi của Nghị viện Châu Âu đối với EVFTA và IPA sẽ phủ nhận toàn bộ bản nghị quyết nhân quyền Việt Nam của chính cơ quan này, khiến uy tín lẫn hình ảnh của Nghị viện Châu Âu bị giảm sút không ít trong đánh giá của cộng đồng quốc tế.
Vào tháng 2/2019, Hội đồng Châu Âu đã từng thông báo hoãn việc ký kết EVFTA và IPA. Ngay trước sự kiện này là một thư kiến nghị của 18 tổ chức xã hội dân sự quốc tế và Việt Nam đề nghị EU hoãn ký kết hai hiệp định thương mại do chính quyền Việt Nam hầu như không có sự thay đổi nào theo hướng tiến bộ về nhân quyền. Nhưng chỉ sau đó vài tháng, khi chính quyền Việt Nam đưa Công ước 98 về lao động ra quốc hội nước này để phê chuẩn, dường như Hội đồng Châu Âu đã hài lòng quá sớm, từ đó dẫn đến việc co quan này chấp thuận cho Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu ký kết EVFTA và IPA với Việt Nam vào tháng 6/2019. Tuy nhiên thái độ quá dễ dãi và có phần vội vã của Hội đồng Châu Âu đã có câu trả lời : từ đó đến nay, bức tranh đàn áp nhân quyền ở Việt Nam ngày càng xám xịt.
13 năm sau sự kiện "Việt Nam được Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO) chấp thuận cho trở thành thành viên thứ 150", kịch bản "vào trước, bắt sau" hầu như đang tái hiện ở Việt Nam. Vào năm 2006, chính thể Việt Nam đã nhún mình giảm bớt đàn áp và bắt bớ giới nhân quyền và bất đồng chính kiến để tiếp đón Tổng Thống Mỹ George Bush tại Hà Nội, và sang năm 2007 Việt Nam được Mỹ nhấc khỏi CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo), tức được giảm cấm vận kinh tế và được hưởng những điều kiện ưu đãi về vay tín dụng và viện trợ không hoàn lại của quốc tế. Nhưng chỉ một năm sau đó, từ năm 2008 trở đi, công an Việt Nam liên tiếp gia tăng tống giam người bất đồng như một kiểu "bắt bù". Các nhà tù Việt Nam chật kín tù chính trị với con số bị bắt và bị xử tù lên đến nửa trăm người mỗi năm.
Còn lần này là EVFTA và IPA. Rất nhiều dấu hiệu trong thời gian gần đây cho thấy chính quyền Việt Nam đang chờ được Quốc hội Châu Âu phê chuẩn EVFTA và IPA là sẽ ra tay, với cường độ cao hơn hẳn tình trạng ‘bắt hạn chế’ vào lúc này, để bắt bớ hàng loạt tiếng nói bất đồng chính kiến trong nước, đặc biệt là những người dám phản đối Việt Nam vào EVFTA do vi phạm nhân quyền, và tiếp tục xử án tù nặng nề các công dân yêu nước dám phản kháng Trung Quốc.
Vì những lý do trên đã trở nên quá cấp bách, tôi tha thiết kiến nghị với Quốc hội Liên minh Châu Âu hoãn phê chuẩn hai hiệp định EVFTA và IPA, cho tới lúc nào chính quyền Việt Nam có được những cải thiện nhân quyền có thể chứng minh được, và chứng minh đã tuân thủ một cách nghiêm túc nghị quyết nhân quyền Việt Nam số 2018/2925 (RSP) của Quốc hội Châu Âu.
Tôi chịu trách nhiệm về những thông tin, số liệu và nhận định trong thư kiến nghị này.
Chân thành cám ơn các ông/bà trong Quốc hội Châu Âu.
Việt Nam ngày 10 tháng 11 năm 2019
Phạm Chí Dũng
Nhà báo độc lập, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam
Hiện sống ở thành phố Sài Gòn, Việt Nam
Email : Cette adresse e-mail est protégée contre les robots spammeurs. Vous devez activer le JavaScript pour la visualiser.
------------------------------
English version :
Vietnam, 10 November, 2019
PETITION TO POSTPONE THE RATIFICATION OF THE EVFTA AND IPA
To :
Mr. David Sassoli, President of European Parliament
Mr. Bernd Lange, Chairman of European Parliament's International Trade Committee
Mr. David MacAllister, Chairman of the European Parliament's Foreign Affairs Committee
Mrs. Maria Arena, Chair of Subcommittee on Human Rights at the European Parliament
Mr. Tomas Tobé, Chairman of Committee on Development
European Parliament’s Departments
Subject : Postponing the ratification of the EU-Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) and Investment Protection Agreement (IPA)
I am Pham Chi Dung, independent journalist - Chairman of Independent Journalists Association of Vietnam (IJAVN). Founded in 2014, the association is an civil organization consisting of more than 70 journalists and operates independently.
IJAVN and I keenly concern about the signed EU-Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) and Investment Protection Agreement (IPA) and their coming ratification. Having published many researches and posts on our website (www.vietnamthoibao.org ), we expect that the regime of Vietnam would improve its poor human rights records ; ratify International Labour Organization (ILO) Convention 87 on the right to organize, 98 on collective bargaining, and 105 on the abolition of forced labor ; respect the rights to freedom of press, religions and association ; prisoners of conscience ; etc as its commitments to the EU.
I am wondering why some of EU representatives are too eager to have EVFTA and IPA ratified regardless of the EU trade deficit with Vietnam and human rights violations whereas human rights improvement is the core value of the agreements and also part of the EU’s supports to democracy around the world.
The EU trade deficit with Vietnam widened annually and up to 20-25 billion dollars. As the trade deficit reflects, Vietnam is likely to be the main beneficiary of EU-Vietnam trade deals but not the EU. There might be only a small group of EU companies but not all EU business benefiting from the agreements.
It is alleged that a number of particular EU business groups had the EVFTA and IPA lobbied by the former head of the Delegation of the European Union to Vietnam Bruno Angelet and some EU representatives, but neglect the serious human rights abuses of the Vietnamese government.
In October 2018, after the hearing of Vietnam delegation on human rights - EVFTA in Brussels, the former head of the Delegation of the European Union to Vietnam Bruno Angelet had met with lawer Le Cong Dinh and me in Saigon. By then we did hope that Mr. Bruno Angelet would finally have paid attention to human rights situations in Vietnam since he had hardly met up with any right activists or dissidents.
However, we were totally disappointed with the outcome of the meeting. Mr. Bruno Angelet did not mention the poor human rights records nor the need to improve human right situations. Instead, Mr. Bruno Angelet stated that Vietnam had granted freedom of press and expression, and then suggested that we should have written more articles to support EVFTA and IPA. In other words, we should not have published articles to oppose the agreements due to human rights violations.
I have not known how the Delegation of the European Union to Vietnam advised the EU on EVFTA, IPA and human rights situation in Vietnam. However, during Ambassador Bruno Angelet’s tenure, the Delegation had put few pressure on Vietnamese regime to improve human rights situation. Ambassador Bruno Angelet himself seemed too closed to Vietnamese authorities, often praised the regime and hardly mentioned human rights violations. Some considered the Ambassador as a " good friend of the Vietnam’s regime".
This might be one of the reasons that made the 8 EU-Vietnam human rights dialogues in the recent years fruitless. I estimated roughly 95% of the EU recommendations on human rights being ignored or offering false promises. The only progress in human rights is supporting LGBT community and it did not affect the one-party ruled system and dictatorship in the country.
There are a number of activities that could mark the contribution of the EU as pressing Vietnam to released two prominent prisoners of Conscience - Nguyen Van Dai and blogger Nguyen Ngoc Nhu Quynh - in 2018. However, Vietnam intensified crackdowns against right activists and dissidents. Since the new Cyber Security Law came to effect in January 2019, Vietnam imprisoned 18 dissidents because they criticized the government and its corruption system. Assistant secretary of state for democracy, human rights and labor ; and chairman of the US-Vietnam human rights dialogue in 2015 - Tomasz P. Malinowski knew clearly about this tactics and had opposed it.
From private source, it is said that Vietnam does not highly evaluate the EU stance on EU-Vietnam human rights dialogues. During these dialogues, Vietnam delegation usually was led by the Director general of International Organisations Department of the Vietnamese Ministry of Foreign Affairs who were not able to make any decisions. The head delegation seems to make all the promises to smooth the EU delegation but only a few of the promises would be kept. Vietnam’s crackdowns on dissidents sent out the signals that Vietnam do not take the EU’s recommendations on human rights issues.
In November 2018, European Parliament (EP) issued resolution on Vietnam, notably the situation of human rights (2018/2925(RSP)). The resolution addressed most of human rights violations in the country such as labor ; freedom of religion, press, and expression on the internet, prisoners of conscience ; and called for significant improvements. The local activists were impressed by the resolution and they were looking forwards changes in the political and right atmosphere. However, Vietnam had complied with only a minor part of the resolution by EVFTA and IPA were signed in Hanoi on June 30, 2019.
Hanoi has so far ratified International Labour Organization (ILO) Convention 98 on collective bargaining ; and set timeline for the ILO Convention 87 on the right to organize, and Convention 105 on the abolition of forced labor between 2023 and 2025. There is no detailed timeline for ratification or any guarantee that Hanoi will meet their commitments.
Hanoi considers independent unions as " reactionary" ideas because of the impact of Polish the trade union Solidarity on the fall of communist system in Poland in 1989. Vietnam's delay in signing the 87th Convention is essentially a timeless trick and hopes to frustrate the EU and the International Labor Organization (ILO) without requiring Vietnam to sign the 87 Convention again.
The term "independent trade union" is not included in the ongoing revision of Vietnam’s Labor Code and Trade Union Law but a complicated process for those who intend to found non state trade unions.
The violations of human rights is intensive and Hanoi hardly made any improvements in its human rights records. The police harassed and imprisoned rights activists, from a film producer who made films about land grabs victims to a female anti-BOT activist. There has not been any sign of any "human rights improvement", either demagogical or to deal with the international community …
The EU Parliament (EP) might consider to vote for EVFTA in February 2020 and Vietnam tries to have the EVFTA ratified. But Vietnam might again come up with their false promises on human rights.
Vietnam exported to the EU around 20-25 billion US and 35-40 billion US dollars to the U.S. Thus, the EVFTA and IPA are extremely important to Hanoi to balance its huge trade deficit with China and Korea which mounted to 50 billion US dollars and 25 billion US dollars respectively. And Vietnam is in need of foreign currencies to pay off its external debts.
The communist regime currently encounters too many challenges. If Hanoi can not export more, they will not be able to afford the three million state-employees, the People’s army, and Civil Defense Force. It is likely that the army focus more on human rights violations or on " economic activities" but not on defending the fishermen against China on the South China Sea.
In the whole picture of economic gloom in contemporary Vietnam, the Political Bureau of the Central Committee Communist Party of Vietnam expects the EVFTA and IPA to increase the country’s GDP.
However, MEPs should consider Vietnam’s crucial human rights violations, intensified dissidents crackdowns before voting for the agreements. Any haste or easy votes for the agreements will affect the EP’s human rights resolution on Vietnam and the EU’s image.
The EU Council once postponed the ratification of the EVFTA and IPA in February 2019 after 18 NGOs called the EU to postpone consent to the agreements. A few months later, Vietnam deposit of the instrument of ratification of ILO Convention 98 (Right to Organise and Collective Bargaining Convention ) ; and as a result, the EU and Vietnam signed the agreements on 30 June 2019. Hence, since then Vietnam again intensified rights crackdowns.
Thirteen years after Vietnam became the 150th member of the World Trade Organization, Vietnam repeated its "tactics". In 2006, Vietnam made some progress on human rights to host the U.S. President George Bush in Hanoi ; and then Vietnam was removed from the CPC list and joined the World Trade Organization in January 2007. One year later, 2008, Vietnam imprisoned more dissidents and convicted up to 50 political prisoners annually.
The regime is likely to jail more dissidents after the EU ratify the EVFTA and IPA. Prominent dissidents who opposes EVFTA due to Vietnam’s poor human rights records and those who stand up against China will receive heavy prison sentences.
With all the above-mentioned reasons, I would like to call the EP to postpone the ratification of the EVFTA and IPA until the Vietnam’s regime fulfills its commitments on human rights and proves that Vietnam complies with the resolution 2018/2925(RSP) issued by the EP.
I am fully aware of all the information, data, and comments represented in this letter.
Thank you for your attention.
Yours sincerely,
Pham Chi Dung
Independent Journalist, Chairman of Independent Journalists Association of Vietnam
Living in Saigon city, Vietnam
Đến lúc này và dù chẳng muốn chút nào, cơ quan phụ trách về nguồn tài nguyên thiên nhiên gần như duy nhất để nuôi đảng - dầu khí - là Bộ Công thương vẫn phải hô hoán cảnh báo về mối nguy hiểm cạn kiệt kiệt dầu đang rất cận kề.
Ngày 9/8, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) cho biết vừa có phát hiện dầu khí mới tại giếng Mèo Trắng Đông-1X (do Liên doanh Việt Nga Vietsopetro tìm kiếm)
Cạn kiệt
Trong 10 tháng đầu của năm 2019, sản lượng khai thác khí đốt thiên nhiên ước đạt 8,6 tỷ m3, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, nhưng sản lượng khai thác dầu thô ước chỉ đạt 11,1 triệu tấn, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm 2018. Hoạt động khai thác dầu ở các mỏ chủ lực trong năm 2019 đang trong giai đoạn suy kiệt, sản lượng giảm mạnh, các mỏ mới phát hiện đều khá nhỏ, cận biên, điều kiện phát triển, vận hành phức tạp, chi phí cao… - bản báo cáo mới nhất của Bộ Công Thương tại kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2019 thừa nhận.
Kết quả khai thác khá thất vọng trên là chuỗi tiếp nối của hai năm 2017 và năm 2018 khi hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam bị Trung Quốc gây sức ép tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở Bãi Tư Chính, mỏ Lan Đỏ và cả ở mỏ Cá Voi Xanh mà đã khiến Bộ Chính trị Việt Nam mất ăn ngay trên ‘vùng biển chủ quyền không tranh cãi’ của mình.
Đến lúc này, cấp độ hô hoán đã được chuyển từ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam - PVN) lên bộ chủ quản, mà chẳng mấy chốc sẽ chiếm phần nổi bật trong báo cáo kêu than của Chính phủ.
Vậy thực trạng nguồn trữ lượng mới thì sao ?
Chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác !
Những năm tới sẽ là một thách thức khủng khiếp : làm sao đảng và PVN tìm ra được nguồn trữ lượng dầu khí mới ở Biển Đông để thay thế cho những mỏ sắp biến thành dĩ vãng và để ngân sách của đảng lẫn đảng khỏi chết theo ?
Ngay trước mắt là một mất cân đối quá lớn đối với ‘khoa học khai thác dầu khí’ : năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu tấn, nhưng phần tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng chỉ là 4 triệu tấn, tức trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác. Nếu tình trạng mất cân đối giữa tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng và khai thác vẫn tiếp diễn như hiện nay thì chỉ vài năm nữa, sản lượng khai thác dầu khí của PVN sẽ chỉ còn 1/3 sản lượng so với hiện thời.
Vào đầu năm 2017, một báo cáo của PVN đã thừa nhận rằng gia tăng trữ lượng dầu khí năm 2017 đạt thấp hơn nhiều so với mục tiêu chiến lược đề ra : mục tiêu đề ra trong nước là 20-30 triệu tấn/năm và ở nước ngoài là 8-12 triệu tấn/năm (tổng cộng là 28-42 triệu tấn/năm) nhưng trong hai năm 2016 và 2017 PVN đều không hoàn thành khi đạt thấp hơn nhiều (năm 2016 đạt 16,66 triệu tấn quy dầu và năm 2017 đạt 4,0 triệu tấn quy dầu). Hầu hết các mỏ đều đã khai thác trong thời gian dài và đang trong giai đoạn cuối dẫn tới suy giảm sản lượng tự nhiên hàng năm từ 15% tới trên 30%.
2017 cũng là năm gia tăng trữ lượng dầu khí thấp nhất từ trước đến nay, chỉ đạt 4 triệu tấn dầu, thấp nhất lịch sử. Một quan chức của PVN là Tổng giám đốc Nguyễn Vũ Trường Sơn phải thừa nhận : "trước đây hàng năm, PVN khoan 30-40 giếng thăm dò, chi phí tốn từ 2-2,5 tỷ USD, gia tăng được 35-40 triệu tấn quy dầu. Thế nhưng, từ 2015 trở lại đây, đầu tư của ta và nước ngoài chỉ đâu đó 400-500 triệu USD cho tìm kiếm thăm dò, giảm 5 lần so với trước".
Với tình trạng trữ lượng dầu cạn kiệt nhanh trong khi quá khó để tìm ra nguồn trữ lượng mới, có thể hình dung là vào năm 2021, ngân sách chế độ sẽ mất hẳn số thu hàng trăm ngàn tỷ đồng từ PVN mà do đó sẽ ‘kiến tạo’ một lỗ thủng toang hoác không lấy gì bù trám được.
Bạch Hổ cũng sắp ‘chết’
Trước đó vào những ngày đầu năm mới 2019, PVN đã mang lại một thất vọng tím tái cho các cấp trên của nó khi thông báo rằng căng thẳng ở Biển Đông sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam trong năm nay. Cụ thể, PVN dự tính sẽ khai thác 12,37 tấn dầu thô trong năm nay, giảm 11,45% so với năm ngoái.
Tỷ lệ 11,45% thậm chí còn thấp hơn mức tiết giảm dự kiến 10% mỗi năm của PVN vào năm 2018.
Còn trước đó nữa, vào tháng 11 năm 2018 PVN lần đầu tiên cho biết với trữ lượng gia tăng quá thấp khiến từ nay đến năm 2025, sản lượng khai thác dầu sẽ giảm đều đặn mỗi năm 10% - tương đương với hơn 2 triệu tấn.
Vào năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu tấn. Nhưng với đà ‘suy giảm tự nhiên’ và với mức giảm bắt buộc hơn 2 triệu tấn/năm, đến năm 2025 sản lượng khai thác quy dầu sẽ cao lắm là 10 triệu tấn/năm. Còn nếu trong giai đoạn 2019 - 2015 mà PVN phải chịu sức ép quá mạnh từ Chính phủ và Bộ Chính trị đảng để phải giữ nguyên hoặc thậm chí gia tăng sản lượng khai thác dầu khí nhằm bù đắp cho một nền ngân sách mau chóng cạn kiệt, đặc biệt là gần như cạn hoàn toàn các nguồn ngoại tệ dùng để trả nợ nước ngoài và chi xài cho công tác ăn tiêu trong đảng, đến năm 2025 PVN sẽ có thể chẳng còn dầu để khai thác nữa.
Những thông tin trên là chuỗi tiếp nối logic với một thông tin từ ông Từ Thành Nghĩa - Tổng giám đốc Vietsovpetro - vào đầu tháng 2/2018 về "Móng mỏ Bạch Hổ còn quanh quẩn 10 triệu tấn, tối đa chỉ khai thác được 4-5 năm nữa thôi", tại Hội nghị tổng kết năm 2017 của PVN.
Điều đó có nghĩa là ngay cả mỏ Bạch Hổ - cung cấp sản lượng lớn nhất, chiếm hơn 60% sản lượng của PVN từ xưa đến nay - đã vào giai đoạn suy kiệt.
Vào năm 2021 hoặc 2022 khi mỏ Bạch Hổ trở thành ‘mỏ chết’, PVN sẽ phải dựa hoàn toàn vào 40% sản lượng còn lại, với điều kiện trữ lượng của những mỏ dầu còn lại vẫn còn mà không suy kiệt hẳn như Bạch Hổ.
Đếm ngược !
Năm 2020 sắp hiện ra với sắc màu tê tái dành cho nền ngân sách thiếu hụt ngoại tệ trầm trọng của Việt Nam.
Tương lai đen tối trên đang hiển hiện trong bối cảnh hiện thời các nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và cả nguồn kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ đều khá bi đát.
Từ năm 2014, chính thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi. Trong khi đó, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vào năm 2017 và 2018 có thể sụt giảm đến phân nửa so với mức đỉnh 13,5 tỷ USD vào năm 2015…
Trong khi đó, tốc độ bóp hầu bóp cổ dân chúng thông qua thành tích ‘thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước’ và được giới quan chức Việt Nam tự sướng bằng tính từ ‘đáng khích lệ’ sẽ khó lòng gia tăng hơn nữa trong những năm tới.
Tại kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2019, một sự thật mà giới đại biểu ‘nghị gật’ phải thừa nhận là cơ cấu thu chưa bền vững do những khoản thu từ dầu khí và tiền sử dụng đất bị giảm mạnh, kể cả tại ‘con bò sữa’ TP.HCM. Đặc biệt, thu từ 3 khối doanh nghiệp đều không đạt kế hoạch.
Cũng trong khi đó, nợ công Việt Nam đang khốn quẫn ghê gớm.
Hiện thời, nợ nước ngoài của chính phủ - được công bố chính thức - đã vượt quá 100 tỷ USD. Còn nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, cũng hơn 100 tỷ USD. Nếu tính cả phần nợ vay trong nước, tổng nợ công vào thời điểm năm 2019 có thể xấp xỉ 500 tỷ USD, tức gấp hơn hai lần GDP mỗi năm của Việt Nam (gần 500 tỷ USD bao gồm nợ công Việt Nam đã được xác định là 431 tỷ USD vào năm 2016, cộng với nợ tăng thêm mỗi năm khoảng 20 tỷ USD từ năm 2017 đến nay). Thực tế sống sượng và quá nguy cấp này là hoàn toàn phản ngược với lối báo cáo ‘nợ công vẫn dưới ngưỡng nguy hiểm 65% GDP’ của Chính phủ Việt Nam.
Nổi lên trên bức tranh khốn quẫn ấy, dầu thô - nguồn tài nguyên gần như duy nhất để nuôi đảng - đang biến thành kim đồng hồ đếm ngược tuổi thọ của chế độ độc tài ở Việt Nam theo đúng quy luật của Mác ‘kinh tế quyết định chính trị’.
Nhưng những năm tuổi còn lại ấy thậm chí còn khó có thể trôi dạt và ăn bám như kế hoạch giảm dần sản lượng dầu khai thác của PVN, với lý do là khi PVN lên kế hoạch này thì chưa xảy ra vụ Trung Quốc quyết liệt cho tàu khống chế khu vực Bãi Tư Chính và đòi Việt Nam phải ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ - mà về thực chất là ép Bộ Chính trị ‘đảng em’ phải mời kẻ cướp vào nhà để chia bôi tài sản với tỷ lệ có thể đến 60% dành cho Bắc Kinh.
Cũng bởi thế, cái kim đồng hồ đếm ngược không biết có còn cơ hội để chạm mốc 2025 hay sẽ ‘deadline’ trước đó.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 13/11/2019
Nếu không xảy đến cái tát tai rát mặt mang tên Hải Dương 8 mà kẻ cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa dành tặng cho "đảng em" ở Việt Nam, không biết đến bao giờ Nguyễn Phú Trọng và những đồng đảng mới chợt tỉnh ngộ để bắt đầu dò dẫm "giãn Trung" về kinh tế.
Đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông do nhà thầu Trung Quốc xây giữa thủ đô Hà Nội. Dù được loan báo là hoàn tất nhưng đến nay chưa thể vận hành vì kém an toàn. (Hình : Getty Images)
Vụ điều tra nhôm Trung Quốc là chủ trương của Bộ Chính trị đảng ?
Tháng 10/2019 đã ghi nhận lần đầu tiên Tổng cục Hải quan Việt Nam mời các đặc vụ của Bộ An ninh nội địa của Hoa Kỳ tham gia vào cuộc điều tra vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam (trị giá đến 4,3 tỷ USD) và về thực chất là một ổ bạch tuộc khổng lồ, ngay tại Việt Nam.
Nhưng có phải chỉ riêng Tổng cục Hải quan Việt Nam dám quyết định cơ chế mời rất nhạy cảm chính trị đối nội lẫn nhạy cảm đu dây quốc tế trên ?
Nếu căn cứ và "truyền thống" Việt Nam từng nhiều lần mời các đoàn cấp bộ của Hoa Kỳ và những đoàn thuộc nghị viện Mỹ sang thăm Việt Nam, thì vụ này phải do cấp Thường trực Ban bí thư và "tập thể Bộ Chính trị" chấp thuận.
Hẳn nhiên Tổng cục Hải quan đã phải xin ý kiến từ Bộ Chính trị, hay xin ý kiến của đích thân "Tổng Tịch" Nguyễn Phú Trọng và được Trọng cho phép. Hoặc việc này là do chính chủ ý của Trọng yêu cầu, thì tổng cục này mới đủ can đảm mời các đặc vụ của Bộ An ninh nội địa của Hoa Kỳ tham gia vào cuộc điều tra.
Trong cơ chế "đảng lãnh đạo toàn diện" và cấp dưới thường im như thóc mà chẳng dám động đậy chân tay trước khi có ý kiến của cấp trên như hiện thời, rất nhiều khả năng vụ mời và phối hợp điều tra trên thuộc về chủ ý của Bộ Chính trị đảng, hoặc của Trọng.
Nó cũng có nghĩa là công tác điều tra hành vi gian lận thương mại của các doanh nghiệp Trung Quốc đã trở thành một chủ trương không công bố của đảng cầm quyền tại Việt Nam và được chỉ đạo triển khai cho các ngành liên quan như hải quan, công an, tài chính, công thương. Hành động này xuất hiện lần đầu tiên sau nhiều năm và sau cả một thời gian dài nền kinh tế Việt Nam gần như bị các cơ quan quản lý nhà nước bỏ mặc để các doanh nghiệp Trung Quốc tha hồ thao túng và lũng đoạn.
Hoặc còn hơn cả thế, chủ trương điều tra vụ 1.8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam không chỉ mang tính an ninh kinh tế mà còn có hàm ý an ninh chính trị và an ninh đối ngoại.
Nó như một cú trả đũa gián tiếp của "đảng em" đối với "đảng anh" Trung Quốc sau nhiều tháng khu vực Bãi Tư Chính và vùng duyên hải của Việt Nam bị tàu Hải Dương 8 cùng nhiều tàu hộ vệ quần thảo như chốn vô chủ quyền, như một sự xúc phạm ghê gớm vào mặt giới quan chức Việt chưa đánh đã sợ đến "đái ra quần".
Bởi cho tới nay, không loại trừ việc thế lực đứng sau doanh nghiệp Nhôm Toàn Cầu Việt Nam và hai ông chủ của nó, mang quốc tịch Úc nhưng có gốc Trung Quốc và chủ nhân của 1,8 triệu tấn nhôm – chính là chính phủ Trung Quốc.
Hành động điều tra vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam đã cho thấy kể từ khi bị té lộn cổ bởi thói đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ, giới chóp bu Việt Nam đang lờ mờ tỉnh ngộ và đang tìm cách thoát ly khỏi quỹ đạo nhền nhện của "đảng anh", cùng lúc nhích thêm một chút về phía người Mỹ.
Trong khi chưa có dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy Nguyễn Phú Trọng hay một quan chức được ông ta ủy quyền sẽ đi Washington để "nâng cấp đối tác chiến lược" với Mỹ, sự thật rất hiển nhiên là Hà Nội đang sợ hãi đến mất ngủ trước nguy cơ trở thành đối tượng sau Trung Quốc bị Trump thi hành đối sách chiến tranh thương mại, trong đó hai mặt hàng thép và nhôm của Việt Nam chắc chắn sẽ nằm hàng đầu trong sổ đen của Bộ Thương Mại và Bộ Tài Chính Mỹ.
Cần nhắc lại, trong vụ tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế "thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc" vào Tháng Mười Hai năm 2017, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã xác định rằng có đến 90% sản phẩm thép từ Việt Nam nhập sang Mỹ có xuất xứ từ Trung Quốc.
Trong khi đó ở Việt Nam, một số chuyên gia độc lập đã cảnh báo về việc nhôm tấm Trung Quốc mượn đường Việt Nam sang Mỹ nhưng chính phủ và Bộ Công thương Việt Nam không có hành động cứng rắn gì. Không những thế, còn có một lỗ hổng pháp lý mà dường như bộ này cố tình để lại cho Trung Quốc tuồn hàng qua Việt Nam.
Cũng có nghĩa là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ bao gồm cả giá trị hàng hóa thép và nhôm có xuất xứ từ Trung Quốc, tức Việt Nam đã thông đồng với Trung Quốc để lừa người Mỹ. Đó chính là nguồn cơn khiến Trump và nhiều quan chức Mỹ giận dữ, để Trump thốt lên "Việt Nam là kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất" đầy đe dọa.
Và đó cũng là nguồn cơn mà đã khiến giới chóp bu Việt Nam phát sốt và phải tìm nhiều cách, với thái độ ngày càng "chân thành", hạn chế đòn đánh thương mại của Trump.
Một trong những cách né tránh trên là cho điều tra gấp rút vụ 1,8 triệu tấn nhôm Trung Quốc đội lốt nhôm Việt Nam. Và phô trương kết quả điều tra ban đầu như một cách kể công với Mỹ.
Hiện tượng "giãn Trung, gần Mỹ" trên là dấu hiệu thứ hai, cùng tính chất, xuất hiện trong thời gian hai tháng gần đây trong cùng lĩnh vực kinh tế.
Có "giãn Trung" bền vững ?
Vào tháng 9/2019, Bộ Giao thông và vận tải đã phải hủy bỏ sơ tuyển đấu thầu dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam và ưu tiên cho các nhà thầu trong nước. Ngay trước đó, một bản kiến nghị được một số tổ chức xã hội dân sự và nhiều trí thức, người dân ký tên đòi công khai vụ việc này và loại các nhà thầu Trung Quốc khỏi dự án cao tốc Bắc Nam vì lo bị Trung Quốc lũng đoạn về quốc phòng và an ninh trong dự án này.
Vụ hủy bỏ trên nằm trong bối cảnh lần đầu tiên yếu tố an ninh quốc phòng được nhấn mạnh trong dự án có vốn đầu tư nước ngoài bởi chính một nghị quyết của Bộ Chính trị đảng vào tháng 8/2019.
Mặc dù chẳng có báo đảng nào hé miệng, nhưng ai cũng hiểu rằng yếu tố nhạy cảm về an ninh quốc phòng trong dự án có yếu tố nước ngoài chính là Trung Quốc – quốc gia đã đầu tư rất nhiều vào hệ thống hạ tầng cơ sở của Việt Nam và biến nơi đây thành một bãi rác công nghệ khổng lồ.
Vụ hủy bỏ cơ chế sơ tuyển đấu thầu quốc tế dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam có thể xứng đáng là một sự kiện lịch sử, là một bằng chứng chưa có tiền lệ về tương quan nhỉnh hơn của phe "giãn Trung" so với phe "thân Trung" trong đảng sau nhiều năm giằng co, thậm chí phe "giãn Trung" còn phải chịu lép vế trong nhiều thời điểm.
Cùng với những dấu hiệu "giãn Trung" về kinh tế là hiện tượng "giãn Trung" về xã hội. Trong thời gian qua tại một số tỉnh thành trọng yếu của Việt Nam đã diễn ra phong trào "bắt Trung Quốc" : đường dây đánh bạc do người Trung Quốc tổ chức, đường dây sex cũng do người Trung Quốc lập ra, hàng loạt người Trung Quốc ăn trộm ATM và dùng thẻ tín dụng giả… Những vụ tội phạm đó đã tồn tại từ rất lâu, nhưng cho tới nay mới được công an xử lý, cứ như thể mới lần đầu tiên được phát hiện.
Ngay cả khuynh hướng "giãn Trung" về kinh tế và xã hội trên cũng chưa có gì chắc chắn sẽ được duy trì một cách bền vững, bởi di sản "cõng rắn cắn gà nhà" mà nhiều bộ ngành kinh tế – kỹ thuật và lớp quan chức "thân nhân dân tệ" Việt Nam để lại và đang tiếp tục "kiến tạo" là núi nhập siêu khổng lồ lên đến gần 50 tỷ USD mỗi năm của Việt Nam từ hàng hóa Trung Quốc, trong đó có đến 20 tỷ USD là dạng "nhập siêu tiểu ngạch" và "phi chính thức".
Trong khi đó, vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy Việt Nam dám "giãn Trung" về chính trị.
Chẳng phải hoài nghi rằng cơn ung thư đu dây chính trị và ngả ngớn với Trung Quốc đã di căn quá sâu vào cơ thể và não bộ đảng cầm quyền ở Việt Nam. Đã rất nhiều lần trong quá khứ, cứ sau mỗi lần căng thẳng quan hệ Trung – Việt nhưng khi Bắc Kinh nhón một ngón tay hữu hảo ra thì ngay lập tức Hà Nội lại đâu vào đấy, sẵn sàng rúc mặt xuống cát để đổi lấy một chút bình yên giả tạo trước chén thuốc độc của Tập Cận Bình.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 10/11/2019
Nhóm lợi ích Bộ Giao thông và vận tải dĩ nhiên không chịu dừng lại ở phong trào BOT bẩn mà đang để lại đến 55.000 tỷ đồng nợ nhanh chóng biến thành nợ xấu, dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam mà suýt chút nữa đã để lọt vào tay nhà thầu và có thể cả cục tình báo Trung Quốc, còn đang công nhiên tiến hành chiến dịch xây dựng sân bay Long Thành với mục tiêu ‘một ăn ba’.
Bỏ phiếu tại Quốc Hội cho dự án sân bay Long Thành, 2015. Hình minh họa.
Nhóm lợi ích Bộ Giao thông và vận tải gấp rút thúc Quốc hội
Tại kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2019, người đại diện cho nhóm lợi ích Giao thông và vận tải là Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể, cũng là người thừa kế ‘nhiệm vụ lịch sử’ của các đời bộ trưởng Giao thông và vận tải trước đây là Đinh La Thăng và Trương Quang Nghĩa để làm thế nào biến sân bay Long Thành thành có giá trong khi ‘dìm hàng’ sân bay Tân Sơn Nhất, đang gấp rút thúc lưng Quốc hội để thông qua các nội dung tài chính và kỹ thuật dự án sân bay Long Thành càng sớm càng tốt.
Sân bay Long Thành có tổng mức đầu tư 336.630 tỷ đồng (tương đương 16 tỷ USD). Tháng 11/2017, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sân bay Long Thành với tổng mức đầu tư gần 23.000 tỷ đồng.
Theo tờ trình của Chính phủ báo cáo nghiên cứu khả thi dự án xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn một do Bộ trưởng Giao thông và vận tải Nguyễn Văn Thể đọc, Chính phủ đề xuất Quốc hội thông qua nghị quyết giao Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) đầu tư các hạng mục chính giai đoạn 1, gồm công trình trụ sở cơ quan quản lý nhà nước, công trình thiết yếu của cảng hàng không... với tổng mức đầu tư 4,8 tỷ USD (khoảng 111.000 tỷ đồng). Còn các công trình phục vụ quản lý bay được đề nghị giao cho Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam (VATM) trực tiếp đầu tư bằng vốn của doanh nghiệp.
Nhưng trong phần thẩm tra sau đó, quan chức Vũ Hồng Thanh - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - đã nêu một nhận xét đánh chú ý là báo cáo của Chính phủ chưa có đánh giá tác động cụ thể đến nợ công nếu vay ODA, mà mới tập trung vào phương án sử dụng vốn doanh nghiệp Nhà nước để làm dự án này. Trong gần 4,2 tỷ USD vốn của ACV rót vào dự án, dự kiến doanh nghiệp này phải vay gần 2,63 tỷ USD. Theo Luật Quản lý nợ công, dự án này thuộc đối tượng được Chính phủ bảo lãnh. "Nếu vậy thì khoản vay này sẽ được tính vào nợ công", ông Thanh nói, và đề nghị Chính phủ báo cáo thêm về khả năng cấp bảo lãnh với khoản vay của ACV để có cơ sở đánh giá đầy đủ phương án huy động vốn với nợ công.
Mặt khác, ACV là doanh nghiệp do nhà nước chi phối, nên dù huy động vốn dưới hình thức nào thì Nhà nước vẫn có trách nhiệm trong việc xử lý khi có rủi ro đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Do đó, ngay cả khi Chính phủ không cấp bảo lãnh đối với khoản vay này thì cũng cần có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động vay, sử dụng vốn vay của ACV.
Có thể ghi nhận đây là một trong hiếm hoi lần cơ quan quốc hội tỏ ra ‘tâm tư’ với quốc nạn nợ công, còn trước đây cũng chính Quốc hội đã nhiều lần ‘nhắm mắt gật’ với các dự án có tổng kinh phí hàng chục ngàn tỷ đồng do chính phủ ‘ấn’ vào.
Tại kỳ họp quốc hội lần này, một lần nữa chính phủ của Thủ tướng Phúc lại báo cáo ra Quốc hội về tỷ lệ nợ công năm 2019 chỉ ở mức 56,1% GDP, thậm chí còn giảm so với mức 58,4% GDP năm 2018, tức đang khá ‘an toàn’ so với ngưỡng nguy hiểm 65% GDP.
Nhưng thực tế nợ công Việt Nam đang khốn quẫn đến thế nào ?
Hiện thời, nợ nước ngoài của chính phủ - được công bố chính thức - đã vượt quá 100 tỷ USD. Còn nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, cũng hơn 100 tỷ USD. Nếu tính cả phần nợ vay trong nước, tổng nợ công vào thời điểm năm 2019 có thể xấp xỉ 500 tỷ USD, tức gấp hơn hai lần GDP mỗi năm của Việt Nam (gần 500 tỷ USD bao gồm nợ công Việt Nam đã được xác định là 431 tỷ USD vào năm 2016, cộng với nợ tăng thêm mỗi năm khoảng 20 tỷ USD từ năm 2017 đến nay). Thực tế sống sượng và quá nguy cấp này là hoàn toàn phản ngược với lối báo cáo ‘nợ công vẫn dưới ngưỡng nguy hiểm 65% GDP’ của Chính phủ Việt Nam.
Nếu dự án sân bay Long Thành ‘vay vốn thắng lợi’, gần 100 triệu dân Việt sẽ càng có cơ hội đội thêm gánh nặng nợ nần ngập đầu cho hiện tại và cho rất nhiều đời con cháu mai sau.
Nhưng trong khi đó, vụ ‘sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất’ lại bị chính Bộ Giao thông và vận tải xử lý chậm hơn rùa bò và như thách thức cơ quan siêu bộ cấp trên của nó là Bộ Chính trị lẫn toàn thể công luận.
Âm mưu ‘một ăn ba’
Sân golf Tân Sơn Nhất, nằm ở phía Bắc, từ nhiều năm nay đã chiếm dụng một diện tích 157 ha – nằm trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, chính là nguyên nhân chính khiến cho sân bay Tân Sơn Nhất rơi vào tình trạng kẹt cứng cả dưới đất lẫn trên trời.
Thảm nạn dễ thấy nhất từ hành vi cố tình rùa bò trên là cho đến nay, đường vào sân bay Tân Sơn Nhất (Tân Sơn Nhất) vẫn còn nguyên nỗi kinh hoàng với tất cả hành khách. Rất nhiều lần tuyến chính dẫn vào sân bay là đường Trường Sơn cùng các đường nhánh bị kẹt suốt 3-4 tiếng đồng hồ, khiến nhiều hành khách phải bỏ xe hơi, ôm hành lý chạy vội vào nhà ga phi trường để khỏi lỡ chuyến bay.
Không những kẹt dưới đất, sân bay Tân Sơn Nhất còn bí lối cả yên trời. Ngày càng dày hơn tần suất máy bay phải bay lòng vòng mà chưa thể hạ cánh theo lịch bay vì có quá nhiều máy bay muốn hạ cánh cùng một lúc.
Tuy nhiên phương án giải tỏa sân golf để lấy đất mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất và mở rộng các tuyến đường bị kẹt xe vẫn không hề được nhắc tới trong hai cuộc họp gần đây nhất của chính phủ và các bộ ngành liên quan - vào tháng 8 năm 2019 - về việc đầu tư các dự án giảm tải cho Tân Sơn Nhất và thu hồi toàn bộ đất quốc phòng hoạt động sai phạm.
Chi tiết đáng chú ý là cả thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc lẫn các quan chức lãnh đạo khối đảng và khối chính quyền TP.HCM đều ‘câm như hến’ mà không đả động gì đến sân golf Tân Sơn Nhất. Còn Bộ Quốc phòng thì khỏi nói: sân golf này chính là một ‘cơ sở kinh tế quốc phòng’, là một nguồn lợi cho nhiều quan chức và có thời, khi bị dư luận xã hội và cả nội bộ đảng lên án dữ dội, sân golf này còn được tôn thành ‘lá chắn phòng thủ quốc gia’.
Khi hệ thống lại toàn bộ hành vi và lời nói của các quan chức chính phủ và hai Bộ Giao thông và vận tải và Quốc phòng từ trước tới nay, người ta có thể ngẫm ra rằng không phải bỗng dưng mà từ năm 2015, các nhóm lợi ích ODA, giao thông và chính sách đã ‘hiệp đồng tác chiến’ một cách bài bản trên hai mặt trận thủ tục hành chính và truyền thông nhằm tống tiễn càng nhanh càng tốt trọng điểm sân bay từ Tân Sơn Nhất về Long Thành như mô hình ‘cặp đôi hoàn hảo’.
Để nếu thành công, chiến dịch “dời Tân Sơn Nhất về Long Thành” sẽ đạt được những mục tiêu ‘một ăn ba’ : ‘xả hàng’ đến 5000 ha đất xung quanh sân bay Long Thành với giá trên trời, ăn đậm ODA vay từ Trung Quốc và ‘hô biến’ đất vàng sân bay Tân Sơn Nhất - có giá thị trường lên đến nhiều chục tỷ USD - vào túi giới quan tham cộng sản.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 09/11/2019
Trái với mong mỏi của nhiều trí thức, cựu quan chức "thân chính quyền", Hội nghị Trung ương 11 của đảng cầm quyền ở Việt Nam vào tháng 10/2019, đã biệt tăm nghị quyết về vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính và lên án Trung Quốc, cũng mất tích luôn chuyện nếu "Tổng Tịch" Nguyễn Phú Trọng không thể đi Mỹ gặp Tổng thống Donald Trump thì ai sẽ thay thế ông ta.
Nguyễn Phú Trọng (phải) với tư thế "đứng không vũng" khi đón Tổng bí thư, Chủ tịch Lào Bounnhang Vorachith. (Hình : Cắt từ clip, Nhandantv)
"Đang là bệnh nhân" đi đứng ra sao ?
Ít ngày sau khi Hội nghị Trung ương 11 trôi qua như một cái bóng vô hồn, tại buổi họp báo chiều 17/10/2019, của Bộ Ngoại giao Việt Nam, khi được hỏi về "khả năng thăm Mỹ của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng", Phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng đã trả lời : "Như tôi đã nói ở các lần họp báo trước đây, hoạt động đối ngoại của Việt Nam, trong đó có hoạt động của lãnh đạo cấp cao, sẽ được thông báo vào thời gian thích hợp".
Cách phát ngôn trên của Bộ Ngoại giao Việt Nam, như thường thấy trong rất nhiều lần trả lời báo chí khi không muốn hoặc không thể khẳng định về lịch trình công du đối ngoại của chóp bu Việt Nam, đã gián tiếp xác nhận cuộc gặp Trump-Trọng chưa thể diễn ra.
Cũng đã rõ như ban ngày rằng Nguyễn Phú Trọng chưa thể đi Mỹ vào tháng 10/2019, như một số dự đoán trước đó, thậm chí không thể đi trong những tháng cuối năm 2019.
Thậm chí chuyến đi này còn phải dự liệu cho năm sau, nếu như Donald Trump còn chút thời gian ngoài cuộc chạy đua tái cử tổng thống Mỹ bận ngập đầu, và tất nhiên với điều kiện Trọng phải có đủ sức khỏe để không những thực hiện một chuyến bay dài đến Washington, mà còn phải xuất hiện trước ống kính soi mói và phân tích tỉ mẩn của báo giới và các cơ quan tình báo phương Tây đến từng nếp nhăn trên mặt của ông ta.
Ngay trước buổi họp báo của Bộ Ngoại giao Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng đã có một cuộc tiếp xúc bất thường với cử tri Hà Nội, nơi mà ông ta đã lần đầu tiên thú nhận "đang là bệnh nhân" kể từ khi suýt bị cơn bạo bệnh quật ngã tại xứ Kiên Giang "nhà ba Dũng" vào tháng 4/2019.
Đến gần cuối tháng 10/2019, mạng xã hội chợt rộ lên tin đồn về một cú té ngã nào đó do bất cẩn của Nguyễn Phú Trọng. Nhưng chỉ vài ngày sau đồn đoán này, y như rằng vào ngày 28/10 Trọng lại "tái xuất" trong cuộc đón tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch Lào Bounnhang Vorachith nhân dịp "Kỷ niệm 70 năm Ngày Truyền thống Lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào".
Thế nhưng những hình ảnh trong một bản tin ngắn về cuộc đón tiếp trên do truyền hình báo Nhân Dân phát – một trong hiếm hoi lần là "ảnh sống", tức nhân vật có cử động tứ chi và cử động cơ mặt, chứ không phải "ảnh chết" – lại khiến lộ ra chân dung một Nguyễn Phú Trọng đi đứng chập choạng, hai chân cố choãi ra, mà làm cho người xem có cảm giác thân hình ông ta có thể đổ nghiêng hoặc đổ ngang bất cứ lúc nào nếu không có người đỡ.
Không còn nghi ngờ gì nữa, tình trạng đi đứng chập chững như trẻ chín tháng tuổi của Trọng sẽ khó có thể làm cho Donald Trump còn hào hứng muốn mời ông ta đến Washington nữa.
Quyết định của Trọng đang và sẽ là quá muộn
Tuy nhiên ngoài vấn đề sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng mà giờ đây đã trở thành vấn nạn rất nghiêm trọng đối với ông ta, người ta đã không thấy Bộ Ngoại giao Việt Nam nói gì về việc quan chức nào sẽ thay Trọng đi Mỹ gặp Trump.
Nguồn cơn hết sức dễ hiểu của thái độ im lặng trên là Bộ Ngoại giao – của một Phạm Bình Minh đã trở nên "ngoan hiền, dễ bảo" trước Nguyễn Phú Trọng trong thời gian vài năm gần đây – đã không thể nói gì khác ngoài chỉ thị của ông Trọng. Nếu Nguyễn Phú Trọng đã không có bất kỳ một chỉ đạo hay gợi ý nào về ai đó được phép thay thế ông ta đi Washington, điều đó có nghĩa là mọi người phải chờ quyết định cuối cùng của Trọng.
Tuy thế, quyết định của Trọng về bản thân ông ta hay ai đó được đi thế ông ta sang Mỹ đang và sẽ là quá muộn. Bởi năm 2019 không phải là 2015, và tình thế hiện thời không còn là lúc mà Trọng có thể nhẩn nha vừa đi Mỹ vừa làm cao trước một tổng thống dễ chơi và có phần dễ bị qua mặt vào thời đó là Barak Obama.
Chuyến công du Washington vào tháng Bảy, năm 2015, của Nguyễn Phú Trọng diễn ra trong bối cảnh không khí "vừa hợp tác vừa đấu tranh" Việt-Trung chìm trong sự yên tĩnh giả tạo, dù thỉnh thoảng vẫn nổi lên vài vụ "tàu lạ" đâm va và bắn giết ngư dân Việt.
Khi đó, dù Trung Quốc đã phổ biến "đường lưỡi bò chín đoạn" quét qua hầu hết các lô dầu khí lớn của Việt Nam trên Biển Đông, nhưng các dự án mà Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam liên doanh với nước ngoài cùng khai thác tại mỏ Lan Đỏ, Cá Rồng Đỏ và Cá Voi Xanh vẫn chỉ trong giai đoạn chuẩn bị. Do đó sau khi cho giàn khoan Hải Dương 981 vào Biển Đông khủng bố tinh thần Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 2014, đến năm 2015 Trung Quốc tạm thời để yên cho "đảng em", để sau khi Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ về là chuyến đón tiếp Tập Cận Bình tại Hà Nội vào cuối năm đó.
Nhưng giờ đây, tình thế đã biến động rất nhiều. "Đảng em" cùng chính thể độc tài này của nó đã vào ngõ cụt, và mức độ nguy hiểm do bị "đảng anh" Trung Quốc đe dọa ngày càng hiện rõ.
Sau tuyên bố (được hiểu như một tối hậu thư) vào tháng 9/2019, của Bộ Ngoại giao Trung Quốc về "chủ quyền" của Bắc Kinh ở Bãi Tư Chính và đòi hỏi Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động khai thác dầu khí ở khu vực này, xác suất nổ ra chiến tranh từ lá cờ "mười sáu chữ vàng" đã tăng vọt, cho dù vào gần cuối tháng 10/Trung Quốc đã tạm rút tàu Hải Dương 8 về nước.
Tình thế nguy khốn ấy buộc "đảng em" – trong nỗi cơ đơn tận cùng dù đã thủ trong túi chẵn một tá "đối tác chiến lược" với nhiều nước – phải tranh cướp thời gian để nhích sang Hoa Kỳ – đối trọng quân sự duy nhất với "đối tác chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam" là Trung Quốc ở Biển Đông.
Do đó câu chuyện đi Mỹ hiện nay đang cấp bách đến nỗi không còn thuộc về chủ ý của cá nhân Nguyễn Phú Trọng nữa, và nếu trong thời gian tới Trọng cứ khư khư không chịu ủy quyền cho người khác đi thay mình thì rất có thể ít nhất hai phần ba số ủy viên Bộ Chính Trị sẽ phải gào lên rằng Việt Nam chắc chết nếu không dựa vào Mỹ và liên minh quân sự với Mỹ. Khi đó và dù muốn hay không, Nguyễn Phú Trọng cũng phải chịu một sức ép đáng kể từ những đồng đảng vốn trước đó đã quen im lặng và phục tùng trước ông ta. Khi đó và dù có thích hay không, Trọng có thể sẽ phải gật đầu chấp nhận cử một người khác đi Washington thay cho mình.
Người đó có thể là ai ? Ứng cử viên số một cho ghế tổng bí thư là Trần Quốc Vượng chăng ?
Hay ai khác ?
Nhưng Vượng là người bên đảng, mà Trump thì không có thói quen tiếp đảng chính trị, nhất là đảng Cộng Sản.
Chỉ còn lại Phúc và Ngân – hai nhân vật còn lại trong "tam trụ".
Nếu xét về số thứ tự trong danh sách ứng viên cho chức tổng bí hoặc chủ tịch nước tại Đại hội 13, cái tên Nguyễn Xuân Phúc có lẽ chỉ đứng thứ hai sau Trần Quốc Vượng, thậm chí còn xếp sau cả Nguyễn Thị Kim Ngân tại thời điểm này. Nhưng Trump chắc chắn sẽ chẳng tiếp Quốc Hội "nghị gật" của Việt Nam vì sẽ chẳng giải quyết được gì.
Chỉ còn lại Nguyễn Xuân Phúc. Duy nhất Phúc.
Nhưng cần nhắc lại, ngay cả trong thời gian Nguyễn Phú Trọng phải liên tục chuyển giường từ bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn ra bệnh viện Quân Y 108 ở Hà Nội cũng không hề có chỗ cho phương án "Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu đoàn đại biểu đi thăm Mỹ thay cho Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng". Ai cũng hiểu đi Mỹ là độc quyền của "Tổng Tịch".
Đến tháng 6/2019, khi Trọng đã tạm bình phục và đã có thể thoắt hiện thoắt ẩn trong một kỳ họp Quốc Hội để đọc Công ước Quốc tế 98 về lao động, một chuyến tiền trạm Mỹ do Phạm Bình Minh thực hiện đã xảy ra, chuẩn bị cho chuyến công du của Trọng dự kiến vào tháng Bảy.
Thế nhưng nỗi ám ảnh về vỡ động mạch sinh đột quỵ luôn thường trực trong tâm não các bệnh nhân bị tai biến mạch máu não. Chuyến đi Mỹ vào tháng Bảy cũng bởi thế đã không diễn ra.
Chỉ đến khi đó mới loáng thoáng có tin ngoài lề về khả năng Nguyễn Xuân Phúc được cử thay cho Trọng đi Mỹ.
Nhưng rõ là bệnh nhân Nguyễn Phú Trọng, dù vẫn bộc lộ nhiều dấu hiệu chưa thể đi lại bình thường, đã chẳng hề quên nhu cầu chính trị lẫn nhu cầu danh tiếng nào ngay sau khi ông ta tạm phục hồi sức khỏe. Và kể cả khi những dấu hiệu "xuôi tay" lại lộ ra.
Từ sau tháng 7/2019 đến nay, và ngay cả khi đã phải thú nhận "đang là bệnh nhân", vẫn không có bất kỳ một dấu hiệu bật đèn xanh nào của Nguyễn Phú Trọng dành cho Nguyễn Xuân Phúc, cho dù phương án Phúc đi Mỹ sẽ có thể không gặp phải sự phản đối của Trump.
Và cho dù Phúc có thể là người rất thích đi Mỹ, rất muốn mang về Việt Nam "quan hệ đối tác chiến lược" với Mỹ để thỏa ý chí rất thích làm tổng bí thư khóa 13.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 03/11/2019
Ít ngày sau khi Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền ở Việt Nam kết thúc, quan chức Trần Quốc Vượng - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư - đã có một chuyến công du vừa công khai vừa lặng lẽ đến Cộng hòa Czech từ ngày 22 đến 24 tháng 10, được báo đảng mô tả là "theo lời mời của Phó chủ tịch Thứ nhất Hạ viện Czech, Chủ tịch Đảng Cộng sản Czech và Morava (KSCM) Vojtech Filip".
111111111111111
Trần Quốc Vượng trong một lần gặp Tập Cận Bình, ngày 20/8/2018 - Photo Vnews.gov.vn
Bắt đầu ‘xuất cảnh’
Kể từ khi Trần Quốc Vượng được Nguyễn Phú Trọng bố trí vào ghế Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương và sau đó được đôn lên chức Thường trực Ban bí thư để trở thành nhân vật số 2 trong đảng, đây là một trong hiếm hoi lần ông ta xuất hiện ở nước ngoài trên danh nghĩa ‘quan hệ kênh đảng’.
Czech là quốc gia có tiền thân là cộng sản từ thời Tiệp Khắp và được xem là có mối quan hệ khắng khít ‘anh em xã hội chủ nghĩa’ với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã vào những năm 90 của thế kỷ XX, Czech vẫn được Việt Nam xem là ‘quốc gia thiện chí’ về quan hệ thương mại. Quốc gia này cũng là bến đỗ của hàng trăm ngàn người Việt, trong đó không thiếu mặt dân giang hồ buôn lậu và rửa tiền.
Vào năm 2017, cái tên Czech còn trở nên nổi bật khi nổ ra vụ sân bay Bratislava ở thủ đô của nước láng giềng với Czech là Slovakia bị giới cảnh sát điều tra của Slovakia và Đức nghi ngờ là trạm trung chuyển cho nhóm bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Nhóm bắt cóc này lại bị đặc tả là mật vụ Việt Nam và có dính dáng đến đương kim bộ trưởng công an Tô Lâm. Một người Việt sống ở Czech tên là Nguyễn Hải Long, được cho là đã tiếp tay cho nhóm bắt cóc Thanh, đã bị đưa ra tòa án thượng thẩm Berlin xử và phải nhận án tù giam. Quan hệ Czech - Việt cũng bởi thế đã trở nên lạnh nhạt và có phần căng thẳng trong một thời gian khá dài.
Việc lựa chọn Czech là điểm đến cho quan chức ‘đảng phó’ rất có thể là do Czech ‘dễ chơi’ - theo cách nhìn của Bộ Ngoại giao và Bộ Công thương Việt Nam. Những người lãnh đạo của Cộng hòa Czech, tuy có thể đã biết tỏng thói khôn lỏi và ‘xin không được thì bắt cóc’ của giới quan chức Việt, dù sao vẫn còn đối xử nhẹ nhàng hơn nhiều so với việc Nhà nước Đức đã thẳng tay tạm đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng 9 năm 2017, hai tháng sau khi nổ ra vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Chuyến công du Czech của Trần Quốc Vượng vào lần này, ngoài chuyện ‘quan hệ kênh đảng’, còn là những cuộc gặp của Vượng với một số quan chức bậc trung cao của Czech như Phó Thủ tướng Thứ nhất kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Czech, đồng thời là Chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội (CSSD) Jan Hamacek ; Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Công thương Karel Havlicek, hội đàm với lãnh đạo Đảng Cộng sản Czech và Morava (KSCM) "nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Cộng hòa Czech thực chất, hiệu quả và sâu sắc hơn".
Tuy nhiên, đã không có tin tức nào về việc Trần Quốc Vượng tiếp xúc với cấp cao hơn cấp phó thủ tướng. Với nhân vật có quyền lực đứng thứ hai trong Đảng cộng sản Việt Nam, kết quả như vậy là hơi đáng thất vọng.
Nhưng dù gì với chuyến công du trên, Trần Quốc Vượng đã có chuyến ‘xuất khẩu hình ảnh’ gần như đầu tiên của mình, bắt đầu có thể chạy đua với ‘hình ảnh đối ngoại’ mà hai ứng cử viên tổng bí thư khác là Nguyễn Thị Kim Ngân và Nguyễn Xuân Phúc đã có thừa thời gian để vun vén.
Đảng có ‘thay ngựa giữa dòng’ ?
Từ năm 2017 đến nay, Ngân và Phúc đã dồn dập đi châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu, nhằm vận động cho Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu (EVFTA). Sau những hình ảnh về nhiều bộ áo cánh diêm dúa của Nguyễn Thị Kim Ngân được phô bày lả lướt, hay tiếng nổ vang trời của Thủ tướng Phúc ‘cho bọn phản động rã rời chân tay luôn’ ở vùng Đông Âu, cả hai nhân vật này đều thu lượm kết quả đánh bóng không quá tệ trên mặt báo đảng về ‘vận động EVFTA thắng lợi’. Mà loại thành tích như thế lại đặc biệt có ích khi cần vận động tranh cử tổng bí thư.
Trong khi đó, những quan chức thuần túy thuộc khối đảng, làm công tác đảng và hình như chẳng biết gì ngoài đảng như Trần Quốc Vượng lại không có danh nghĩa nhà nước để xuất ngoại và để được chính phủ các nước ‘mình phải như thế nào thì người ta mới tiếp đón như thế chứ’.
Ngoài chuyến công du Cộng hòa Czech, một chỉ dấu khác cho thấy Trần Quốc Vượng vẫn được Nguyễn Phú Trọng ‘tin yêu’ và vẫn giữ vai trò ứng cử viên số một cho ghế tổng bí thư ở Đại hội 13 là tại Hội nghị trung ương 11 vào tháng 10 năm 2019, Vượng đã được Trọng phân công chủ trì hai ngày họp của ban chấp hành trung ương, bằng với số ngày chủ trì của Phúc và Ngân. Tuy nhiên tính chất chủ trì của Trần Quốc Vượng lại được một luồng phân tích chính trị cho là ‘chủ trì toàn diện’ mà do đó ‘làm thay tổng bí thư’, khác với Phúc và Ngân là ‘chủ trì thường’ và vẫn dưới bàn tay điều khiển của Nguyễn Phú Trọng.
Chuyến ‘xuất khẩu hình ảnh’ của Trần Quốc Vượng tại Cộng hòa Czech diễn ra trong bối cảnh đảng cầm quyền ở Việt Nam đang chuẩn bị cho Hội nghị trung ương 12 vào cuối năm 2019 hoặc đầu năm 2020, mà nhiều khả năng sẽ chốt danh sách sơ bộ các ủy viên bộ chính trị cho khóa 13. Chuyến đi này cũng nằm trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng đang có những dấu hiệu suy yếu sức khỏe khá rõ, không thể đi Mỹ gặp Trump và thậm chí khó lòng trụ nổi đến Đại hội 13.
Nếu kịch bản Trọng bị ‘thay ngựa giữa dòng’ xảy ra, Trần Quốc Vượng sẽ là cái tên đầu bảng để trám vào ghế tổng bí thư.
Ngay khi chuyến xuất cảnh đầu tiên của Trần Quốc Vượng diễn ra, một dấu hỏi cũng theo đó xuất hiện : phải chăng trong tình thế không thể đi Mỹ mà phải tìm một người khác thay thế mình, Nguyễn Phú Trọng đang muốn Vượng tập làm quen với việc được chính giới phương Tây tiếp đón và hy vọng sau đó sẽ đến lượt Trump chìa tay ra với Vượng, thay vì ủy quyền cho Phúc bước qua ngưỡng cửa Phòng Bầu Dục ?
Nhưng như thói đời kiêm thói đảng, càng lên cao càng dễ bị thị phi và cả ‘đâm dao sau lưng’. Từ năm 2018, cái tên Trần Quốc Vượng bắt đầu xuất hiện trong vài bài viết trên mạng xã hội và những bài viết đả kích ấy kéo dài cho đến nay với tần suất ngày càng dày hơn.
Chỉ có điều, Trần Quốc Vượng vẫn có thể tự an ủi mình : dù sao tên ông ta không rơi vào lời sấm Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm : "Bỉnh chúc vô minh, quang tự diệt ; Trọng ngân bạc phúc, sản tất vong" - mà đã cồn lên như sóng thần biển khơi sau cái chết đầy nghi vấn của Trần Đại Quang trên ghế chủ tịch nước vào tháng 9 năm 2018.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 04/11/2019