Ngày 4/7/2019 là một ngày đáng nhớ với nhiều người làm báo tự do, có chân trong tổ chức xã hội dân sự, dưới cái tên Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam. Đây là tổ chức tập hợp những người bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, lên tiếng cho công lý và vận động cho một xã hội không độc tài cộng sản. Nhân kỷ niệm năm năm của Hội, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam đã dành ít thời gian để nói về mình, về những anh em trong Hội, đã sống sót như thế nào qua những cuộc đàn áp, sách nhiễu… suốt thời gian qua.
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam là tập hợp những người bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, lên tiếng cho công lý và vận động cho một xã hội không độc tài cộng sản.
Phạm Chí Dũng : Hội Nhà báo độc lập Việt Nam giống như một con thuyền vượt thác, đã suýt chìm trong năm đầu tiên, gượng dậy trong năm thứ hai, tạm bình ổn trong những năm kế và đế năm thứ năm, thì có vẻ đã khởi sắc. Có thể hình dung như vậy.
Anh em trong Hội Nhà báo độc lập Việt Nam cũng đã trải qua nhiều rủi ro, không khác gì những anh chị em đấu tranh dân chủ trong nước. Tức là các Hội viên cũng đã bị công an liên tục triệu tập, sách nhiễu, đánh đập, bắt cóc… nhưng cho đến nay thì không có ai bỏ cuộc cả. Nói tóm lại là, chúng tôi hoạt động ôn hòa, mang sự thật khách quan đến cho người dân. Chúng tôi tự nhận thấy rằng cũng đã đạt được những điều tương đối trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, bên cạnh đó sự trả giá, cũng không là quá nhiều. Năm 2017, được coi là khởi đầu của đỉnh cao đàn áp. Nhiều người đã bị bắt bớ, bỏ tù… Hội Nhà báo độc lập Việt Nam cũng bị sứt mẻ nhưng vẫn duy trì được cho đến nay.
Trong suốt năm năm, trang báo điện tử của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam vẫn làm việc đều đặn, trong tình trạng bị tường lửa bao vây, vẫn luôn lên tiếng từng ngày, cũng không để thiếu nhuận bút với ai. So với năm đầu, lúc này thì số Hội viên đã tăng lên gấp đôi, gần 70 người. Đó là con số chắt lọc của giới cầm bút tự do có tiếng nói thuyết phục và tâm huyết.
Trong tình hình mới hiện nay của Việt Nam, dù vẫn xiết bức nhân quyền, nhưng đang lộ khuynh hướng ngã dần sang quỹ đạo của phương Tây, thì chúng tôi cho rằng đây là cơ hội để đẩy mạnh sự đòi hỏi về quyền thành lập hội nhóm xã hội dân sự, quyền tự do ngôn luận. Đặc biệt với việc ký kết các hiệp định thương mại quốc tế, lại là một cơ hội lớn cho người lao động xây dựng Công đoàn độc lập. Chúng tôi cũng coi đây là một phần nhiệm vụ quan trọng của mình, vì trên trang Việt Nam Thời Báo (IJAVN), đã có hẳn một mục riêng để thông tin, cổ xúy về vấn đề này.
Sẽ còn những khó khăn, nhưng với những gì đã qua, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam tin rằng con thuyền của mình dù có chòng chành, nhưng vẫn tiến về phía trước.
Tuấn Khanh : Điểm lại trong 2 năm vừa qua, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam đã liên tục đưa đến các đề tài phản biện đối với luật an ninh mạng, cũng như rất sát sao mọi chuyển động liên quan đến luật cho phép thành lập các nhóm xã hội dân sự, công đoàn độc lập…
Phạm Chí Dũng : Trước tiên, nói về luật an ninh mạng, thì đó là một đạo luật chống lại quyền tự do ngôn luận, và công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị mà nhà nước Việt Nam đã ký vào năm 1982. Chúng tôi đặt trọng tâm vào việc phản biện luật này, vì nó đi ngược lại xu thế của thời đại. Không chỉ phản biện, mà chúng tôi muốn chấm dứt nó.
Còn đối với quyền tự do thành lập các nhóm, hội xã hội dân sự là điều phải đến. Ngay cả ông Nguyễn Xuân Phúc, thủ tướng của chính thể độc tài tại Việt Nam, khi nói về các cột trụ giúp cho kinh tế ở Việt Nam như doanh nghiệp, cơ sở kinh tế nhà nước và xã hội. Ông Phúc không dám nói rõ về "xã hội" tức là xã hội dân sự, mà chỉ nói mấp mé vậy. Ai cũng hiểu đó là một phần của cái kiềng ba chân của lý thuyết phát triển, là xã hội dân sự. Nên trong thời gian tới, Nhà nước Việt Nam không còn cách nào khác ngoài việc phải công nhận sự có mặt của hệ thống xã hội dân sự trong đời sống. Và đó cũng là cam kết mà Việt Nam đã ký về quyền dân sự và chính trị trước Liên Hợp Quốc.
Đó là hai điều rất quan trọng của xã hội Việt Nam lúc này, nên chúng tôi đặt mọi trọng tâm vào đó.
Tuấn Khanh : Là một tổ chức xã hội dân sự có lẽ là duy nhất còn hoạt động lúc này, giữa bối cảnh nhà nước cộng sản Việt Nam đã truy cùng đuổi tận tất cả các nhóm, cá nhân có khuynh hướng khác biệt với chủ trương độc tài, ông có nghĩ rằng Hội Nhà báo độc lập Việt Nam cũng đang trong tầm ngắm và cũng sẽ bị triệt tiêu bằng cây gậy An ninh mạng, sắp tới đây hay không ?
Phạm Chí Dũng : Về bản chất mà nói, luật An ninh mạng cũng như nghị định 72 được ban hành trước đây, mọi thứ đều phản tác dụng và vô nghĩa trước Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị.
Nhưng với quan điểm của tôi, thì tôi không đặt nặng chuyện luật An ninh mạng như là một mối hiểm nguy đối với Hội Nhà báo độc lập Việt Nam nói riêng, và giới hoạt động cho dân chủ nhân quyền nói chung.
Lý do là thế này, không cần đến luật an ninh mạng, mà chỉ cần nghị định 72 (năm 2013) về quản lý internet, điều 88, trong bộ luật hình sự cũ, tức điều luật mơ hồ về "tuyên truyền chống nhà nước" thì cũng đã quá đủ cho công an xiết bức, bóp cổ bóng họng giới đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền. Luật An ninh mạng chỉ màng một sự nối dài của nghị định 72, của luật về an toàn thông tin của ngành công an để kiểm soát về an ninh mạng mà thôi. Và luật An ninh mạng không thể phát triển đến mức tối đa mục tiêu của nó về vấn đề chế tài An ninh mạng. Vì nếu triệt tiêu hoàn toàn hệ thống thông tin này, tức sẽ triệt tiêu luôn môi trường đấu đá nội bộ, phương tiện để đấu đá nội bộ mà phe phái ở trong đảng đã tận dụng từ năm 2012 cho đến nay.
Do đó, tôi không đặt nặng những rủi ro từ luật An ninh mạng. Mà nói thật ra thì có một luật An ninh mạng hay hàng chục luật An ninh mạng cũng không có ảnh hưởng gì đáng kể đến giới đấu tranh dân chủ nói chung, và cho quyền tự do ngôn luận nói riêng.
Tuấn Khanh : Hội Nhà báo độc lập Việt Nam dù đứng trên vị trí là phát triển quyền tự ngôn luận và phản biện xã hội, nhưng thật ra tiêu chí ấy chưa bao giờ được chấp nhận ở trong một xã hội - ngày càng độc tài như ở Việt Nam. Trải qua năm năm của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, theo ông, liệu tiêu chí này của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam có tạo được nên được các tác động tích cực nào với nhà cầm quyền không ? Hay Hội Nhà báo độc lập Việt Nam vẫn là "những giọng điệu đánh phá của thế lực thù địch ?"
Phạm Chí Dũng : Có một ví dụ,như một bằng chứng, như thế này. Mới đây tôi đưa ba mình đi khám bệnh ở một nơi có tên nguyên văn là Ban bảo vệ sức khỏe Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Có một cụ già đến gặp tôi. Cụ trước đây là cán bộ của Ban Tuyên huấn Thành ủy. Cụ nói với tôi rằng "Dũng ơi, những bài của Dũng viết, không chỉ có tôi mà có cả những người trong nội bộ đảng đã đọc. Nhưng theo tôi, đòi bỏ điều 4 Hiến pháp về độc đảng là khó lắm. Nên bây giờ cần kêu gọi đảng phải dân chủ và chống Trung Quốc".
Tôi kể chuyện này như một ví dụ để thấy rằng ngay cả những người công tác lâu năm trong đảng cộng sản, đã nói trực tiếp với tôi điều đó. Điều đó cho thấy rằng – một cách nào đó như anh đã nêu ra - thì công việc cổ xúy cho tự do ngôn luận, khai dân trí của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam hay của chúng ta nói chung, không chỉ tác động đến người dân mà tác động đến cả nội bộ đảng cộng sản. Và công việc đó, đã nhận được sự đồng tình, đồng cảm và kể cả yêu thương của những người ở trong nội bộ đảng cộng sản. Rõ ràng điều chúng ta làm có hiệu quả, nhưng hiệu quả như tế nào thì tôi không dám nói là quá lớn, nhưng chắc chắn là có hiệu quả. Và theo phản ánh của nhiều nguồn dư luận, nhiều anh em, kể cả các đảng viên, rằng nhiều bài viết trên trang Việt Nam Thời Báo đã nhận được sự đồng thuận tương đối. Tức có những đảng viên theo dõi thường xuyên. Thậm chí cánh công an cũng vậy. Những người công an về hưu tiết lộ cho tôi biết. Không đâu xa, ngay cả một sĩ quan công an về hưu ở ngay phường tôi cư trú cũng cho biết ông theo dõi thường xuyên bài vở trên Việt Nam Thời Báo và đồng tình với những luận điểm khách quan của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam.
Hiệu quả là như vậy. Nhưng với những luận điểm phản biện hay chỉ trích mang tính ôn hòa, không có nghĩa là Hội Nhà báo độc lập Việt Nam đang đi tìm con đường thỏa hiệp với đảng cộng sản. Chúng tôi – Hội Nhà báo độc lập Việt Nam – không bao giờ có quan điểm đó. Tôi luôn yêu cầu anh em trong Hội là phải luôn đặt vấn đề có tính chiến đấu. Mỗi bài viết là một viên đạn phản biện xã hội, viết bằng sự bức bối của mình, bằng tình cảnh của mình, đó là việc ưu tiên. Sau đó mới nâng dần bài viết lên bằng chuyên môn của mình.
Trong Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, có những bạn trẻ khởi đầu tham gia, viết còn rất ngô nghê, thì nay đã hoàn toàn chuyên nghiệp. Bằng giác quan của một nhà báo tự do, những cây viết đó đã dần dần có được chỗ đứng trong lòng bạn đọc.
Tuấn Khanh : Chấp nhận những thách thức để xiển dương quyền tự do ngôn luận, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam đã có được những niềm kiêu hãnh riêng của mình qua chặng đường năm năm, thay mặt cho các cây viết của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, ông có lời gì muốn nhắn gửi đến những người đang dõi theo những thông tin từ trang Việt Nam Thời Báo ?
Phạm Chí Dũng : Tôi chân thành biết ơn rất nhiều độc giả đã công khai lẫn thầm lặng ủng hộ, trong đó có những mạnh thường quân đã giúp để trang Việt Nam Thời Báo vượt qua sóng gió. Tôi vẫn nói với anh em rằng chúng ta đã nhận được những nguồn giúp đỡ, những đồng tiền nhuận bút đáng tự hào. Đó là những đồng tiền đóng thuế cho tiền đề của một xã hội tiến bộ, và chúng ta đã không phung phí nó. Chúng ta sẽ trân trọng và sử dụng nguồn lực đó để khai dân trí, để đóng góp thêm sức sống tự do về trong lòng dân tộc.
Nói về báo chí tự do, không thể không nhắc đến Câu lạc bộ Báo chí tự do của anh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. Anh và những người bạn của mình đã đặt những viên gạch đầu tiên cho báo chí tự do trong lòng chế độ độc tài, và từ tiền đề đó cho Hội Nhà báo độc lập Việt Nam tiếp tục phát triển, chuẩn bị cho một xã hội tự do báo chí, dân chủ, mà tôi tin rằng sẽ không còn quá xa nữa.
Tuấn Khanh : Xin cám ơn anh, và những anh chị em của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam.
Tuấn Khanh (ghi)
Nguồn : RFA, 07/07/2019
Mặc Lâm, VOA, 09/07/2019
Đó không phải là thứ mà nhân dân từng nghĩ là mình có. Đó cũng không phải là câu nói mà người thấp cổ bé họng kêu gào trước các dinh thự mang tên "nhân dân", mà đó là câu nói khẳng định của một cán bộ tuyên giáo cao nhất nước về quyền của Đảng mà ông là người đại diện.
Ông Thưởng đang nói về ‘Quyền’ của ai ?
Nguyên văn câu nói của ông Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng ban Tuyên Giáo Trung ương : "Internet là xa lộ,cho mấy làn xe chạy là quyền của chúng ta" được phát biểu trong ngày 5 tháng 7 tại hội nghị báo cáo viên các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương.
Đây là lần thứ hai ông Võ Văn Thưởng chỉ đạo cấp dưới về vai trò của Internet đã, đang và còn gây nguy hại cho Đảng, cho chính phủ. Lần trước ông nói về mạng xã hội lần này ông nói về các thế lực đang lợi dụng Internet để chống đối lại chính quyền, và người dân thật sự ngạc nhiên khi ông Thưởng khẳng định, cho bao nhiêu làn xe chạy trên đó là "quyền của chúng ta".
Vậy "chúng ta" là ai mà quyền hành bao trùm cả đất nước như vậy ?
Không khó để trả lời, chúng ta là Đảng cầm quyền mà ông Võ Văn Thưởng là người phát ngôn cho sự thật mà bao năm nay Đảng vẫn cố tránh né, hay nói đúng hơn cố sơn phết bề ngoài với hàng trăm khẩu hiệu mà khẩu hiệu lớn nhất, hay nhất, ăn tiền nhất là "Nhà nước của dân, do dân, vì dân" vẫn đang còn treo trên khắp mọi miền đất nước.
Từ "của dân" nay trở thành "của chúng ta", ông Thưởng lật lá bài tẩy mà Đảng vẫn cố giấu về cái "quyền" mà người dân vẫn mơ hồ nghĩ là của mình. Cái quyền bé tí nằm trong Hiến pháp lâu quá không ai lật ra xem nay đã bị bụi thời gian che khuất. Quyền con người trong đó bao gồm quyền bày tỏ chính kiến, quyền lên tiếng trước cái hư đốn, bất toàn của chế độ, quyền mưu cầu hạnh phúc của từng cá nhân trong đất nước nay đã trở thành câu chữ thời thượng, làm dáng và hoàn toàn vô nghĩa trước nhà nước, trước chính quyền nhân dân.
Ông Thưởng không nói ngoa, ông chỉ trình bày sự thật và sự thật thì mất lòng. Người mất lòng là dân chúng, những người bị tước mất cái "quyền" của mình mà bây giờ mới biết.
Nhưng ông Võ Văn Thưởng, trong vai trò một cán bộ tuyên giáo cao cấp nhất của Đảng không ngại ngùng gì khi lật luôn con bài xấu xí của nhà cái, con bài mà ông gọi là 3 thành phần đang làm cho nghẽn lối đi trên xa lộ Internet và ông nhắn lại với nhân dân rằng ông muốn cho chạy hay cấm lúc nào cũng được, vì đó là quyền của ông, quyền của Đảng.
Ba nhóm đối tượng mà ông Thưởng chỉ ra làm cho không ít người ngạc nhiên, nhất là nhóm thứ nhất mà ông gọi là nhóm 1 "bao gồm những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trong cuộc đấu tranh chính trị giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản". Luận cứ này đúng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, khi miền Nam đại diện cho chế độ tự do dân chủ chống lại cuộc chiến mà Cộng Sản phát suất từ Liên xô lan tràn trên khắp thế giới. Lúc ấy miền Nam phải nghiên cứu chủ thuyết Mác Lê, Chủ nghĩa xã hội nhằm vạch trần những ngụy biện, những sai lầm hay những biện giải mà người dân bình thường khó hiểu được ngọn ngành. Thế nhưng từ khi đất nước gom về một mối thì không mấy ai phải tra sách, vào thư viện hay tìm tòi về học thuyết mà người cộng sản gối đầu giường nữa. Lý do : mọi lý thuyết đều được phơi bày trước mặt người dân từ thực tiễn đời sống.
Vì vậy đào đâu ra những người "nghiên cứu lý luận giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản" trên không gian mạng Internet như ông Thưởng áp đặt. Nếu có, ông nên mừng và nên phát huy vai trò của họ vì đơn giản là còn ai tin chủ nghĩa xã hội nữa mà nghiên cứu ?
Nhóm thứ hai ông Thưởng nhắc đến là những tổ chức cực đoan ở hải ngoại như Việt Tân, hay Việt Nam Phục Quốc… đang lợi dụng Internet để chống phá Việt Nam. Lập luận này khá mù mờ vì với sức mạnh của Việt Nam hiện nay, công an dễ dàng ngăn cản mọi đường truyền không phù hợp với khẩu vị nhà nước không cho mọi lập luận phản lại cách mạng và lũng đoạn thể chế mà ông Thưởng khẳng định toàn quyền cấm hay không cấm.
Nhóm thứ 3, có lẽ là nhóm mà ông Thưởng lo lắng nhất nhưng cố che dấu đem nó xuống hàng thứ yếu để giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của nó. Đó là "lực lượng len lỏi, phức tạp không khó để nhận ra nhưng lại rất khó về đấu tranh đó là cán bộ đảng viên, kể cả có những đảng viên từng giữ chức vụ trung cao cấp trong bộ máy, hệ thống chính trị của chúng ta, suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hoá."
Từ nhiều năm nay những người phản tỉnh trong đảng ngày càng nhiều. Họ là những đảng viên cao cấp nằm trong hệ thống quyền lực nhưng sớm nhận ra sai lầm của mình khi bỏ cả tuổi thanh xuân ra làm bàn đạp cho Cộng sản cướp chính quyền và sau đó cướp cả quyền sống của nhân dân. Họ là những đảng viên trung cấp suốt đời tận tụy cho guồng máy nhưng đổi lại là những bi kịch mà họ và gia đình phải đối mặt hàng ngày dưới chế độ mà họ hết lòng bảo vệ. Họ là những đảng viên oan vì mất đất, mất nhà mất cả sổ hưu vì lên tiếng chống lại chính sách trưng thu đất của nhà nước. Họ là những trí thức đảng viên mất cả quyền suy nghĩ của một trí thức chân chính mà phải hướng bộ não vào ngón tay định hướng của Đảng. Họ là nhân dân từng tin vào đảng, những người bòn mót từng lon gạo nuôi quân, từng chỉ vàng hiếm hoi cho cuộc chiến tranh thần thánh…
Vậy thì làm sao ông Thưởng và Đảng cầm quyền của ông chống lại nổi lực lượng hùng hậu này ? Họ có mặt khắp mọi nơi và không ít ỏi như ông nghĩ chẳng qua họ chưa tập trung đủ để ông và Đảng cầm quyền nhận ra đúng sức mạnh tiềm ẩn của họ.
Con đường mà ông Thưởng ví von trên Internet chẳng qua là con đường ảo, nếu ông cấm được thì cũng không thu về bất cứ kết quả nào, có chăng là danh tiếng của riêng ông, người dám đứng trước mặt 95 triệu "nhân dân" mà tuyên bố "quý nhân dân không còn quyền gì nữa đâu vì đảng đã trưng thu quyền của quý vị".
Mặc Lâm
Nguồn : VOA, 09/07/2019
*******************
Võ Văn Thưởng, khi 49 ‘lú’ hơn cả 75
Trân Văn, VOA, 08/07/2019
Ông Võ Văn Thưởng, 49 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Trưởng ban Tuyên giáo của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam vừa chứng minh, ông hơn hẳn ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư, 75 tuổi, về độ… "lú".
Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Trưởng ban Tuyên giáo của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
***
Nhiều người đang bày tỏ sự bất bình về những nhận định, tuyên bố của ông Thưởng tại "Hội nghị Báo cáo viên các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc trung ương", mới diễn ra hôm 5 tháng 7 (1).
Đa số chỉ trích việc ông Thưởng cho rằng : Internet là xa lộ, cho dùng bao nhiêu làn là quyền của đảng, thành ra đảng không cần lo lắng về chuyện tự do Internet sẽ ảnh hưởng tới nhân quyền hay tự do ngôn luận.
Tuy tuyên bố vừa kể bộc lộ sự nghiệt ngã trong nhận thức, sự trịch thượng cả về tâm thế lẫn tư thế của thành viên trẻ nhất trong Bộ Chính trị nhưng với kẻ viết bài này, điều đó vẫn chưa phải là lõi để nhìn ra cốt cách của đại diện một thế hệ sẽ kế thừa quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối Việt Nam trong vài năm tới. Khả năng, tư cách của đồng chí Võ Văn Thưởng thế nào, nằm ở chỗ khác và cần được nhận diện sớm…
***
Nhìn một cách tổng quát, phát biểu của ông Thưởng tại "Hội nghị Báo cáo viên các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc trung ương" có rất nhiều điểm tối và điểm tối nhất là về "nền tảng tư tưởng" của một Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách tuyên giáo.
Có đúng đảng ta "đã có sự phát triển lớn về lý luận, chẳng hạn, xác định các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, xác định được những mối quan hệ lớn trong quá trình phát triển mà chúng ta cần phải giải quyết trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xác định được mô hình tổng thể về kinh tế đó là kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa…" ?
Có đúng "Tổng bí thư hiện nay thực sự là nhà lý luận có tầm tư tưởng. Tuy nhiên, đảng ta với tinh thần khiêm tốn, không muốn sùng bái cá nhân, không muốn tuyệt đối hóa vai trò cá nhân mà đề cao vai trò tập thể của đảng cho nên đôi khi không tuyên truyền một cách đầy đủ làm cho chúng ta không thấy đủ, thấy hết hệ thống đầy đủ những thành tựu về mặt lý luận mà chúng ta đã đạt được" ?
Thay vì tranh luận với ông Thưởng, tốt nhất, nên sử dụng những nhận định, tuyên bố của chính ông Nguyễn Phú Trọng để xác định… độ "lú" của ông Thưởng hơn xa ông Trọng.
Ngày 24/10/2013, khi tham gia góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ông Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, không đồng tình với một số điểm trong "Lời nói đầu" của dự thảo có liên quan đến xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lúc đó, ông Trọng từng thú nhận, chuyện xây dựng chủ nghĩa xã hội còn dài lắm, hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa (2)…
Từ đó đến nay, không riêng ông Trọng, nhiều viên chức cao cấp mà quá trình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam dày hơn, dài hơn ông Thưởng, liên tục đưa ra những thú nhận tương tự. Gần nhất – cách nay chưa đầy hai tháng, tại Hội nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa 12 – ông Trọng công khai đề nghị toàn đảng thảo luận về vai trò của kinh tế nhà nước, có thực thi đổi mới chính trị hay không (3) ?...
Hai dẫn chứng vừa kể cho thấy, rõ ràng ông Thưởng nói láo. Trong khi chính ông Trọng không giấu giếm sự lúng túng về định hướng, ông Thưởng lại khăng khăng khẳng định : Tổng bí thư hiện nay thực sự là nhà lý luận có tầm tư tưởng. Nếu đồng chí, đồng bào chưa nhận ra "tầm" của ông Trọng và "những thành tựu về lý luận" thì đó là do đảng… khiêm tốn, không muốn sùng bái cá nhân, không muốn tuyệt đối hóa vai trò cá nhân !
Bất chấp thực tế khen lấy được, trâng tráo tới mức như thế ngay trước thềm Đại hội đảng khóa 13, có nên xem ông Thưởng "nịnh" và là một biểu hiện điển hình, đại diện cho những phần tử "cơ hội về chính trị" ? Chuyện bất chấp thực tế khen lấy được như ông Thưởng vừa biểu diễn là "biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự nghiệp cách mạng do đảng lãnh đạo" hay là điểm son về "tư tưởng, lập trường" ?
***
Trong ba năm vừa qua, tuy là Ủy viên Bộ Chính trị, kiêm Trưởng ban Tuyên giáo của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, ông Thưởng nói rất ít. Mãi tới gần đây, khi toàn đảng bắt đầu rộn ràng cho Đại hội đảng khóa 13, ông mới "xuất đầu, lộ diện", lập ngôn qua một số bài viết, phát biểu. Ngoài chuyện khen lấy được như đã dẫn tại hội nghị vừa kể, ông Thưởng còn bộc lộ tâm thế, tư thế của một bạo chúa.
"Đồng chí" Võ Văn Thưởng không giấu diếm hận thù với đám đông dám góp ý "băng rôn sai chính tả, băng rôn sai ngày tháng năm", khẳng định đó là "đả phá và tấn công vào đội ngũ của chúng ta". Dường như "đồng chí" cũng là người đầu tiên, công khai xếp cán bộ, đảng viên, kể cả cao cấp, nói khác với chủ trương, đường lối của đảng vào "nhóm thứ ba thuộc thế lực thù địch".
"Đồng chí" hết sức bất bình khi xử lý cán bộ, đảng viên có ý kiến khác với chủ trương, đường lối quá nhẹ nhàng. Theo "đồng chí", chuyện một đảng viên, làm việc tại Văn phòng UBND Thành phố Hồ Chí Minh đưa hình ảnh một cựu lãnh đạo đảng, nhà nước lên Internet, tố giác nhân vật này tham nhũng, rồi phê phán cả Trưởng ban Tuyên giáo của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam nhưng chưa xử lý tới nơi, tới chốn là không thể chấp nhận được.
"Đồng chí" còn là người đầu tiên cảnh báo về đội ngũ giảng viên chính trị. Theo "đồng chí", những câu chuyện tiếu lâm chính trị nguy hại không phát xuất từ vỉa hè mà là từ đội ngũ này, thành ra phải chấn chỉnh ngay lập tức "công tác giáo dục chính trị, tư tưởng". Ngoài "gia tăng bồi dưỡng, cập nhập kiến thức" còn phải "xây dựng đội ngũ giáo viên lý luận chính trị đạt yêu cầu".
Với "đồng chí" Võ Văn Thưởng, những hậu quả thảm khốc liên quan tới đặt định chỉ tiêu để xử lý trong "cải cách ruộng đất", "cải tạo tư sản",… không đáng bận tậm. Cho nên "đồng chí" yêu cầu, từ nay tới Đại hội đảng thứ 13, mỗi địa phương phải "chắt lọc đối tượng", "xử lý một vài đảng viên vi phạm, một vài công dân sử dụng Internet, mạng xã hội vi phạm Luật An ninh mạng" nhằm răn đe và mạnh miệng bảo đảm "tình hình sẽ tốt hơn rất nhiều".
Chưa rõ cảm nhận của "đồng chí" Võ Văn Thưởng về vai trò, vị trí của "đồng chí" trong tương lai thế nào nhưng rõ ràng "đồng chí" đang "nhe nanh, múa vuốt". "Đồng chí" không hài lòng với việc xử lý sai phạm của báo chí như vừa qua vì giống "gãi ghẻ". Đó là lý do thời gian gần đây, xử lý báo chí không theo các qui phạm pháp luật hiện hành mà "chủ yếu bằng phương pháp của đảng".
***
"Đồng chí" Võ Văn Thưởng vừa nhấn mạnh thêm một lần nữa : "Cả thế giới lo lắng trước sự phát triển của mạng xã hội, truyền thông xã hội" ! Trên thực tế, mạng xã hội, truyền thông xã hội tạo ra đủ dạng cơ hội cho các giới nhưng giống như xã hội thực, thế giới ảo cũng có nhiều vấn nạn. Lo lắng của thiên hạ là lo lắng về những tác động bất lợi đến trật tự, trị an, văn hóa, giáo dục, y tế,…
Thiên hạ không lo lắng và tổ chức ngăn chặn, xử lý những người chia sẻ thông tin, ý kiến khác với hệ thống chính trị, hệ thống công quyền xứ họ. Dẫn "lo lắng của thế giới" để bịt miệng, trấn áp đồng bào có sự khác biệt với mình về tư tưởng, nhận thức là ngụy biện. Phải hiểu thế nào khi "nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý, sử dụng Internet và mạng xã hội" chỉ là chặn, xử những người khác biệt về tư tưởng, nhận thức nhưng làm ngơ, tạo điều kiện cho những khuynh hướng lạc hậu, phản khoa học kiểu như "sinh con thuận tự nhiên" (4), "thực dưỡng" (5),… tràn lan trên mạng xã hội, truyền thông xã hội dù chúng nguy hại cho sức khỏe cộng đồng, đe dọa tính mạng con người ?
Khi "nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý, sử dụng Internet và mạng xã hội" như "đồng chí" Võ Văn Thưởng và các "đồng chí" lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền chủ trương đang đi theo chiều ngược lại với tiến trình phát triển chung của nhân loại thì chúng ta sẽ đi đến đâu : Thời kỳ đồ… đồng hay thời kỳ đồ… đá ? "Đồng chí" Võ Văn Thưởng – ngôi sao vừa lóe sáng trên vòm trời chính trị Việt Nam - trả lời được không ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 08/07/2019
Chú thích :
*********************
Thấy gì từ bài nói chuyện 'bắt câm mồm phải câm mồm' của Võ Văn Thưởng ?
Trúc Giang, VNTB, 07/07/2019
Từ đầu tháng 7/2019, trụ sở báo Bình Phước bị ‘xóa sổ’ và ‘được’ sát nhập vào Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bình Phước. Giám đốc cơ quan hợp nhất là Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước.
Đây là tỉnh thứ hai, sau tỉnh Quảng Ninh (thực hiện từ tháng 1/2019) đã thực hiện việc "Đảng hóa 100%" báo chí trên phạm vi tỉnh. Bất kỳ tiếng nói phản biện nào ‘bàn ra’ về chính sách của Đảng và Nhà nước, đều không được phép ghi nhận và đăng tải ở báo và đài phát thanh truyền hình của hai tỉnh đó.
Điều này được cho rằng là nghiêm túc tuân theo 'hành lang lề lối' của cơ quan Tuyên giáo Trung ương, nơi mà vị trưởng ban Võ Văn Thưởng vừa đăng đàn tuyên bố tại hội nghị báo cáo viên các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương hôm 5/7, rằng : "Internet là xa lộ, cho mấy làn xe chạy là quyền chúng ta".
Bài nói chuyện này của ông Võ Văn Thưởng dài đến 75 phút với rập khuôn kiểu ví von như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tự sướng "EVFTA và EVIPA là hai tuyến cao tốc nối Việt Nam và EU" (1), khi ông Thưởng ‘kiêu ngạo cộng sản’ cho rằng, ‘không cần phải lo lắng tự do internet sẽ ảnh hưởng tới nhân quyền hay tự do ngôn luận’, vì trên xa lộ thông tin, ‘cho mấy làn xe, loại xe nào chạy là quyền chúng ta’.
Tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Bình Phước đã có tuyến xa lộ chỉ có một làn xe dành cho Đảng. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, chuyện này cũng bắt đầu qua việc từ tháng 7/2019, ấn phẩm "Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần" đã đình bản, sau 16 năm hoạt động. Số báo 809 phát hành hôm 28/06/2019 là số cuối cùng. Có thể gọi đây là tờ báo tư nhân, do nhà báo Trần Trọng Thức cùng nhóm của họa sĩ thiết kế Nguyễn Văn Vinh ‘nhận thầu’ thực hiện hoàn toàn bằng đồng vốn từ tiền túi cá nhân.
Đảng cộng sản của ông trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng sợ gì ở tờ có tên "Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần", hay báo giấy của tỉnh ủy Bình Phước, Quảng Ninh ?
Sự sợ hãi ở đây là có thật theo đúng nghĩa đen.
Trong bài nói chuyện 75 phút về nội dung quán triệt Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng nói rằng lâu nay Đảng cộng sản có cả ‘thù trong lẫn địch ngoài’, với 3 nhóm đối tượng thù địch.
Nhóm 1 bao gồm những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trong cuộc đấu tranh chính trị giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Nhóm thứ 2 là lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài kết hợp với số chống đối, bất mãn trong nước để lập ra các tổ chức như Việt Tân, Việt Nam phục quốc…
Nhóm "thế lực thù địch" thứ 3, theo ông Thưởng, là lực lượng len lỏi, phức tạp không khó để nhận ra, nhưng lại rất khó về đấu tranh đó là cán bộ đảng viên, kể cả có những đảng viên từng giữ chức vụ trung cao cấp trong bộ máy, hệ thống chính trị, nhưng lại suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa.
Báo chí là nơi để cả 3 nhóm thù địch này lợi dụng, do đó, theo ông Võ Văn Thưởng giờ đây cần phải khẳng định quyền lực chuyên chế của Đảng cầm quyền ở Việt Nam trong lãnh vực truyền thông thời đại Internet.
"Tôi nói thật, Tổng bí thư hiện nay thực sự là nhà lý luận có tầm tư tưởng. Tuy nhiên, Đảng ta với tinh thần khiêm tốn, không muốn sùng bái cá nhân, không muốn tuyệt đối hóa vai trò cá nhân mà đề cao vai trò tập thể của Đảng, cho nên đôi khi không tuyên truyền một cách đầy đủ, làm cho chúng ta không thấy đủ, thấy hết hệ thống đầy đủ những thành tựu về mặt lý luận mà chúng ta đã đạt được". Ông Võ Văn Thưởng phát biểu 'xu nịnh lộ liễu' như vậy.
Ông Võ Văn Thưởng còn đe dọa sắp tới tiếp tục đóng cửa nhiều tờ báo nữa, thay cho chuyện chỉ xử phạt hành chính, vì "xử phạt báo chí như gãi ghẻ". Ông hùng hổ tuyên bố :
"Internet là một xa lộ thông tin, chúng ta cho 4 làn, 6 lan hay 20 làn xe chạy, xe 4, 6, 8 bánh chạy là quyền của chúng ta. Đừng lo tự do internet là ảnh hưởng nhân quyền, tự do ngôn luận gì hết !" (1).
Ông Thưởng yêu cầu từ nay tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, "mỗi địa phương chắt lọc đối tượng trên địa bàn, xử lý một vài đảng viên vi phạm, xử lý một vài cá nhân, công dân sử dụng internet, mạng xã hội vi phạm luật An ninh mạng".
"Xin góp ý với đồng chí Võ Văn Thưởng. Đồng chí không cần phải suy nghĩ nghiên cứu gì nhiều về các phương pháp kiểm soát internet vì lo bị các thế lực công kích chống phá trên không gian mạng. Xin đồng chí hãy tập trung tất cả trí tuệ để cùng ban lãnh đạo Đảng chỉ đạo có hiệu quả cuộc chiến chống tham nhũng. Tiêu diệt được mọi nhóm quyền lực thân hữu đen trong nội bộ. Thực hiện đúng các cam kết làm trong sạch bộ máy mà Đảng ta từng nhiều lần tuyên bố với nhân dân. Chỉ cần vậy thôi là chúng ta có thể mỉm cười mà chấp tất cả mọi thế lực phản động rồi !". Nhà báo L.Q, phó tổng thư ký một tờ báo thuộc cơ quan tỉnh ủy, góp ý.
Người viết bài này không là đảng viên, với tư cách là đồng môn và tạm gọi là sinh viên ở nhiều khóa trước của ông Võ Văn Thưởng tại trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh), "Xin thưa bạn Võ Văn Thưởng, Đảng của bạn cứ làm sao triệt phá được tham nhũng, tiêu cực, lãng phí ; Đảng viên như bạn và của bạn biết đồng cam cộng khổ với nhân dân... thì chẳng có lực lượng thù địch nào chống phá được !. Xin dừng lại việc đập nồi cơm của anh em báo chí chúng tôi. Bởi nếu quả thực Đảng của bạn Võ Văn Thưởng có tính khiêm tốn, thì Đảng ấy phải biết lắng nghe hơn nữa, chứ sao lại nhìn đâu cũng thấy vi trùng, cũng thấy ghẻ lở như một ám ảnh...".
Trúc Giang
Nguồn : VNTB, 07/07/2019
(1) https://youtu.be/IXRMX2QyS3Y
*********************
Võ Văn Thưởng không muốn "đối thoại" nữa ?
Nguyễn Tường Thụy, RFA, 07/07/2019
Hôm 5/7 Trưởng ban tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng có bài giảng khá dài cho các báo cáo viên cấp dưới. Thời buổi bây giờ, bài giảng tới 75 phút là dài, chẳng biết học trò của Võ Văn Thưởng nghe được đến đâu hay là "ngồi dưới xem iPad, iPhone, đọc tin, nhắn tin".
Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng phát biểu tại hội nghị sáng 5/7 - Ảnh Lê Hiệp, Thanh niên.
Theo như báo Thanh niên tóm tắt thì Võ Văn Thưởng nêu ra toàn những mối lo là mối lo. Đương nhiên, theo bài vở thì mối lo đầu tiên phải là thế lực thù địch chống phá. Bản thân không ra gì nhưng cái gì cũng đổ cho thế lực thù địch, mở ,iệng ra là thế lực thù địch. Thế lực thù địch ở đây còn chia ra 3 nhóm cho "khoa học, biện chứng". Đáng chú ý và cũng khá thú vị là Võ Văn Thưởng cho rằng thế lực thù địch còn nằm ngay trong nội bộ đảng, giữ chức vụ trung cao cấp hẳn hoi.
Rồi mối lo yếu kém ở khâu "quán triệt nghị quyết" (phổ biến chưa hay, người nghe không chú ý), xử phạt báo chí không đủ răn đe...
Điều đáng chú ý nhất trong bài giảng của Võ Văn Thưởng mà báo Thanh niên dùng để giật tít (Ông Võ Văn Thưởng : 'Internet là xa lộ, cho mấy làn xe chạy là quyền chúng ta' ) là lối tư duy sặc mùi độc tài của anh ta :
"Internet là một xa lộ thông tin, chúng ta cho 4 làn, 6 lan hay 20 làn xe chạy, xe 4, 6, 8 bánh chạy là quyền của chúng ta…".
Phần bình luận của bạn đọc về bài báo cũng chủ yếu xoay quanh việc Võ Văn Thưởng đòi hạn chế, cấm đoán Internet này. Trong 9 comment chỉ có 1 ý kiến ủng hộ, 1 ý kiến chung chung còn lại là mai mỉa, cho rằng lỗi ở mình còn kêu ai.
Hình chụp đoạn đầu phần comment trong bài báo
*
Giọng của Võ Văn Thưởng lần này có vẻ cay cú, bi đát chứ không như 2 năm trước đây. Ngày 18/5/2017, bàn về việc trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đảng, Võ Văn Thưởng nói khá tự tin : "Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý"
Võ Văn Thưởng còn cho biết :
"Ban Tuyên giáo Trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước".
Từ chỗ không sợ tranh luận đến chỗ đòi hạn chế Internet, Võ Văn Thưởng đã đi một bước khá dài về độc tài hóa tư tưởng. Từ chỗ muốn "cọ xát và tranh luận", Võ Văn Thưởng đi đến không muốn nghe ý kiến trái chiều (ở trên các làn thông tin mà Võ Văn Thưởng muốn hạn chế).
Ấy là nhắc đến lời nói, chứ trên thực tế hai năm qua chưa hề có một cuộc đối thoại nào. Bất chấp sự phản đối, Luật An ninh mạng vẫn cứ ra đời. Đây là luật mà dư luận trong đó có nhiều nhà chuyên môn cho là không cần thiết, bởi những nội dung nó đề cập đều đã được thể hiện ở nhiều luật khác.
Không hề có đối thoại nhưng lại có thừa những vụ bắt bớ do sử dụng Internet mà chủ yếu là facebook, bị qui chụp là tuyên truyền chống phá nhà nước. Nhiều trang mạng trái chiều bị chặn trong khi rất nhiều trang chuyên bịa đặt và chửi bới tha hồ dựng chuyện, xuyên tạc, bôi nhọ những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền. Thế mà Võ Văn Thưởng vẫn cứ lo, đòi bóp mạnh hơn nữa tự do ngôn luận.
Internet là phát minh vĩ đại làm thay đổi lịch sử nhân loại. Lần đầu tiên, bất cứ người dân nào cũng có thể cung cấp thông tin và tham gia vào mạng thông tin toàn cầu. Mỗi người dân đều có thể trở thành một nhà báo tự do, làm cho khối lượng thông tin vô cùng phong phú. Nhờ có Internet kiến thức khoa học kỹ thuật và chính trị, xã hội được phổ biến tiện lợi hơn bao giờ hết, con người ở mọi nơi trên trái đất trở nên gần gũi nhau hơn.
Và cũng nhờ Internet, mọi mảng tối dần dần bị phơi bày ra ánh sáng. Nhờ thông tin đa chiều, người ta cũng dễ phân biệt hơn điều hay lẽ phải. Phải chăng, Võ Văn Thưởng sợ nhất điều này cho nên anh ta hô hào, cho sử dụng Internet đến đâu là "quyền của chúng ta".
Với phát ngôn này, Võ Văn Thưởng không cần đến những thông tin trung thực, không cần đến những phản biện, những ý kiến trái chiều. Võ Văn Thưởng muốn một xã hội không có phản biện ? Một tổ chức chính trị không cần phản biện thì hoạch định đường lối, chính sách ra sao ? Điều này chỉ có hại cho đảng của Võ Văn Thưởng mà thôi.
*
Võ Văn Thưởng là ủy viên trẻ nhất Bộ Chính trị, trẻ hơn người tiếp theo tới cả chục tuổi. Con đường chính trị vì vậy có thể còn dài và có lẽ vì vậy, Võ Văn Thưởng phải thể hiện mình hăng hái, kiên định lập trường, tư tưởng để chiếm lĩnh những vị trí cao hơn. Anh ta lại học toàn Mác với Lê. Nhìn sang ông Trọng, cũng học Mác Lê và xây dựng đảng, chiếm được cả 2 ghế trong tứ trụ. Nhưng việc tiến thân không chỉ trông vào mấy thứ đó mà còn cần nhiều tố chất, trong đó có cả sự khôn khéo nữa, cho dù khôn ngoan trong bịp lừa. Hăng hái quá, nói năng bạt mạng sẽ làm mất "uy tín" của đảng. Hăng hái quá dễ bộc lộ những gì đảng đang muốn giấu, chưa chắc đã được đồng chí của mình ủng hộ. Việc này vô hình trung làm tổn hại đến đảng. Kiểu hăng hái, trung thành như Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyễn Thị Quyết Tâm là những ví dụ. Đinh La Thăng cũng là mẫu người hăng hái, xốc vác, giữ chức vụ cao nhất cho đến nay trước khi làm "ma tù"
Tuy nhiên, "thế lực thù địch" có thể rất cần những người như Võ Văn Thưởng leo lên ở vị trí cao hơn nữa.
Nguyễn Tường Thụy
Nguồn : RFA, 06/07/2019 (nguyentuongthuy's blog)
Vào những ngày này, giới chóp bu của chính thể độc tài ở Việt Nam hẳn đang khó ngủ. Thật trớ trêu, buổi ban mai cho một hiệp định thương mại giữa chính thể này với Liên Hiệp Châu Âu (EVFTA) vừa hé mở thì lại phải nhận ngay một dự cảm cảm tối sẫm về những đòn trừng phạt thương mại đến từ Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Mỹ đánh thuế thép Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc lên đến 531% vào cuối năm 2019.
Lại đánh thuế thép Việt Nam !
Bởi cái cách mà Trump thốt ra - một cách mỉa mai và có phần nổi đóa - về Việt Nam là "kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất" trong cuộc trả lời phỏng vấn trực tiếp trên đài Fox Business vào cuối tháng 6 năm 2019 là khá giống với tâm trạng và ngôn ngữ của Trump ngay trước khi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra.
Biệt danh đầy miệt thị trên, không có vẻ là cách nói bốc đồng của Trump, đã phát ra một chỉ dấu đáng sợ : nền kinh tế Việt Nam - lảo đảo như một kẻ say rượu trong suốt 11 năm suy thoái qua - vào lần này phải đối mặt với một nguy cơ thực sự khi Việt Nam có thể trở thành đối tượng thứ ba, sau Trung Quốc và Mexico, bị Trump áp thuế trừng phạt lên hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Nói là làm. Chỉ ít ngày sau sự xuất hiện biệt danh "kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất" của Tổng thống Mỹ, Bộ Thương mại nước này đã thông báo sẽ đánh thuế lên các sản phẩm thép từ Việt Nam có xuất xứ từ Hàn Quốc và Đài Loan nhằm tránh thuế chống bán phá giá, với thuế suất có thể lên tới 456,23% - một cú bồi tiếp theo việc Mỹ đánh thuế thép Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc lên đến 531% vào cuối năm 2019.
Vì sao giới chức Mỹ trở nên nghiêm khắc với hàng hóa Việt Nam ?
Việt Nam đã thông đồng với Trung Quốc để lừa người Mỹ ?
Từ cuối năm 2017, những đòn trừng phạt đầu tiên của Trump đã khởi động. Thoạt đầu là những cú tăng vọt thuế lên mặt hàng tôm, rồi sau đó là thép và cả nhôm của Việt Nam xuất sang Mỹ. Nhưng những đòn này vẫn chưa thấm vào đâu nếu nhìn sang tương lai đầy đe dọa bắt nguồn từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung.
Bắt đầu từ năm 2018, Trump khởi động chiến dịch tấn công vào nền kinh tế Trung Quốc và có thể cả vào hệ thống chính trị độc tài của quốc gia đông dân nhất thế gới này. Chỉ ít lâu sau đó, một làn sóng ngấm ngầm di chuyển vùng đầu tư từ các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam đã diễn ra. Còn đến khi Trump áp thuế cao ngất lên toàn bộ hàng hóa Trung Quốc thì làn sóng doanh nghiệp Trung đổ bộ vào Việt Nam đã trở thành một phong trào thực sự. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019, đã có đến 2,2 tỷ USD đăng ký vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam.
Nhưng nguồn cơn khiến Trump và nhiều quan chức Mỹ giận dữ là chính quyền Việt Nam đã trở thành một nhân tố tiếp tay cho hàng Trung Quốc gắn nhãn ‘made in Vietnam’ tràn ngập thị trường Hoa Kỳ
Trong vụ tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế "thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc" vào tháng 12/ 2017, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã xác định rằng có đến 90% sản phẩm thép từ Việt Nam nhập sang Mỹ có xuất xứ từ Trung Quốc.
Trong khi đó ở Việt Nam, một số chuyên gia độc lập đã cảnh báo về việc nhôm tấm Trung Quốc mượn đường Việt Nam sang Mỹ nhưng chính phủ và Bộ Công thương Việt Nam không có hành động cứng rắn gì. Không những thế, còn có một lỗ hổng pháp lý mà dường như bộ này cố tình để lại cho Trung Quốc tuồn hàng qua Việt Nam.
Cũng có nghĩa là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ bao gồm cả giá trị hàng hóa thép và nhôm có xuất xứ từ Trung Quốc, tức Việt Nam đã thông đồng với Trung Quốc để lừa người Mỹ.
Bất chấp chính thể Việt Nam đang cố sức ve vãn Mỹ bằng nhiều thủ thuật ngoại giao, bằng bức tranh lợi ích thương mại và đầu tư của doanh nghiệp Mỹ tại thị trường Việt, bằng miếng mồi ‘hợp tác quốc phòng giữa hai nước’ và có thể bằng cả triển vọng lực lượng quân sự Mỹ có thể đặt chân lên quân cảng Cam Ranh, tiền vẫn là tiền - trong não trạng, quan niệm và bản chất của một nhà kinh doanh quá đỗi thực dụng như Donald Trump.
Một lần nữa, nhưng vào lần này có vẻ là thật, quy tắc ‘công bằng và đối ứng’ của Trump rất có thể sẽ áp đặt một cách thực chất lên cán cân thương mại Việt - Mỹ.
Việt Nam sẽ chỉ được xuất siêu vào Mỹ dưới 8 tỷ USD/năm ?
Chỉ ít tháng sau khi nhậm chức tổng thống, Donald Trump đã giương cao ngọn cờ ‘công bằng và đối ứng’ - một đòn thương mại liệt Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia ‘gây hại cho kinh tế Mỹ’ và đòi hỏi các Bộ Thương mại và Bộ Tài chính Mỹ phải thực thi những biện pháp quyết liệt về hàng rào thuế quan thương mại đối với hàng Việt Nam.
Đến tháng 5 năm 2018, một tin rất xấu xảy đến với chính thể độc đảng ở Việt Nam : Hoa Kỳ lộ hẳn mục tiêu ‘đòi nợ’ qua cán cân thương mại Mỹ - Việt quá chênh lệch trong những năm qua. Khi đó, ông Jeffrey Gerrish - Phó Đại diện Thương mại Mỹ đã tiến hành một chuyến công du đầy ẩn ý đến Hà Nội và gặp một quan chức cao cấp phụ trách kinh tế của Việt Nam là Ủy viên bộ chính trị kiêm Phó thủ tướng Vương Đình Huệ.
Mặc dù báo đảng Việt Nam chỉ tường thuật sơ sài "ông Jeffrey Gerrish, Hoa Kỳ mong muốn đạt được các thoả thuận với Việt Nam liên quan tới các vướng mắc về nhập khẩu ô tô, thanh toán điện tử và quy định về đặt thiết bị quản lý dữ liệu người dùng Việt Nam tại Việt Nam trong dự thảo Luật An ninh mạng", nhưng một số nhà quan sát kinh tế cho rằng nội dung chính mà Jeffrey Gerrish làm việc với Việt Nam sẽ là "san bằng thâm hụt thương mại" theo yêu cầu của Tổng thống Trump, nhằm buộc Việt Nam phải hạ mức thâm hụt thương mại xuống mức dưới 8 tỷ USD/năm.
Quả thật, nếu trong những năm tới Việt Nam phải tự cắt giảm mức thâm hụt thương mại vào thị trường Mỹ, bi kịch xuất khẩu sẽ kéo theo bi kịch kinh tế và cũng là bi kịch ngân sách dành cho chế độ một đảng ở Việt Nam.
Con số xuất siêu chỉ có 8 tỷ USD/năm trên sẽ khiến giá trị xuất siêu của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ hụt đến 75 - 80% so với những năm trước, làm cho cán cân nhập siêu của Việt Nam từ các thị trường khác, đặc biệt từ Trung Quốc, tăng mạnh.
Trong khi đó, bức tranh quan hệ thương mại tổng thể giữa Việt Nam với các thị trường khác đang mang gam màu tối.
Trong tổng số 16 FTA (hiệp định thương mại tự do) của Việt Nam với các nước, chỉ có hai FTA với Mỹ và Châu Âu là còn xuất siêu được - lần lượt là hơn 30 tỷ USD và 25 tỷ USD mỗi năm. Còn thặng dư xuất siêu với Nhật bằng 0, trong khi ngay cả Hàn Quốc, tưởng là "dễ ăn", nhưng Việt Nam lại phải nhập siêu đến 20 tỷ USD vào năm 2016, gần 25 tỷ USD vào năm 2017 và 24 tỷ USD vào năm 2018.
Còn với Trung Quốc thì khỏi nói : con số nhập siêu chính ngạch lên đến 20 - 30 tỷ USD/năm, chưa kể phần tiểu ngạch khoảng 20 tỷ USD nữa, tổng cộng đến 40 - 50 tỷ USD nhập siêu mỗi năm dành cho Việt Nam.
Trọng sẽ làm gì để đối phó ?
Sau "công bằng và đối ứng" về thép, nhôm và tôm, và sau phát ngôn độc đáo "Việt Nam gần như là kẻ lạm dụng tồi tệ nhất trong số tất cả mọi người" của Trump, dấu hỏi lớn là Trump sẽ còn có thêm những chế tài thương mại nào đối với Việt Nam ?
Nếu Mỹ "siết" các điều kiện thương mại như đánh thuế xuyên biên giới, dựng đứng hàng rào kiểm nghiệm chất lượng đối với hàng hóa Việt Nam mà trước đó cá basa, tôm, gạo đã trở thành "nạn nhân", đánh mạnh thuế lên thép Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan, đồng thời ngưng trệ vô thời hạn Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ hoặc làm cho hiệp định này trở nên khó khăn hơn nhiều so với những năm trước, và cho dù chưa đưa Việt Nam vào danh sách các nước thao túng tiền tệ nhưng vẫn xếp Việt Nam vào danh sách các nước cần theo dõi về vấn đề này, giá trị xuất siêu hàng năm của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tụt thê thảm.
Vậy Nguyễn Phú Trọng sẽ làm thế nào để gỡ khó từ ràng buộc ‘công bằng và đối ứng’ và ‘kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất’ của Trump ?
Nhiều khả năng, và trên thực tế tương quan quyền lực nội bộ đảng hiện nay thì cũng chẳng còn khả năng nào khác, chính Nguyễn Phú Trọng sẽ dẫn ‘đoàn cấp cao’ để công du Mỹ trong thời gian tới, trên cơ sở chuyến đi tiền trạm của Phạm Bình Minh vào tháng 5 năm 2019.
Để ‘năn nỉ’ Mỹ nhằm trì hoãn đánh thuế lên hàng Việt Nam.
Chính vào lúc này, cần nhìn nhận một sự thật mà có lẽ giới tuyên giáo đảng ở Việt Nam chẳng hề muốn đả động : những chuyến công du quốc tế của giới chóp bu Việt Nam không còn vênh vang như thời Việt Nam được tham dự vào bàn tiệc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 và còn ngửi thấy mùi nợ công quốc gia lẫn nợ xấu ngân hàng, mà xảy ra trong bối cảnh Việt Nam đã bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 11 liên tiếp, nợ xấu ngập đầu còn nợ công phi mã đến ít nhất 210% GDP, ngân sách có nguy cơ cạn kiệt, trong lúc các kênh "ngoại viện" gần như đóng lại.
Nhưng với Nguyễn Phú Trọng thì vẫn là giấc mơ cám dỗ về ‘kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’ và ‘đất nước có bao giờ được như thế này !’. Không chịu cứng rắn ngăn chặn hàng hóa Trung Quốc xuất sang Mỹ dưới nhãn ‘made in Vietnam’, cũng không chịu cải cách bất kỳ cái gì trong một thể chế kinh tế lẫn chính trị song hành lụn bại như nhau, Trọng sẽ quá khó để thuyết phục Trump không biến Việt Nam thành đối tượng chiến tranh thương mại tiếp theo.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 07/07/2019
Việc Tô Lâm - quan chức bộ trưởng công an - hiện diện với tư cách người chứng kiến lễ ký kết hai hiệp định thương mại EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) và EVIPA (Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên Minh Châu Âu) giữa đại diện của Liên Hiệp Châu Âu (EU) và đại diện của Chính phủ Việt Nam vào ngày 30/6/2019 tại Hà Nội là… khá lạ.
Trong lễ ký kết có Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, các Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam, Trương Hòa Bình, Trịnh Đình Dũng được mời lên chứng kiến lễ ký. Ngoài ra còn có Bộ trưởng Công an Tô Lâm (bìa trái), Bộ trưởng Lao động, thương binh và xã hội. Về bên phía EU, chứng kiến có đại sứ Romania và Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam.
Một gương mặt lầm lì và ủ dột
Lạ là bởi dấu hỏi ‘công an chuyên nghề an ninh hay cảnh sát thì có gì liên quan đến hiệp định kinh tế mà phải chứng kiến ?".
Một chi tiết khác cũng đáng mổ xẻ là trong tấm hình lễ ký kết trên được báo chí quốc doanh loan tải rộng rãi, gương mặt của Tô Lâm lại lầm lì, nặng nề, nếu không nói là ủ dột, thuộc loại kém tươi vui nhất so với vẻ hớn hở của Nguyễn Xuân Phúc - thủ tướng, Trương Hòa Bình - Phó thủ tướng thường trực và cơ mặt giãn ra của những phó thủ tướng ‘thường’ là Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam, Trịnh Đình Dũng.
Cũng tại lễ ký kết trên, Thủ tướng Phúc đã có một phát biểu đáng lưu ý : "Để quá trình triển khai thành công, Việt Nam sẽ ban hành 1 chương trình hành động quốc gia thực hiện 2 hiệp định với các nhiệm vụ biện pháp cụ thể, thực thi nghiêm túc, đầy đủ các cam kết, triển khai đến các bộ, cơ quan, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp và người dân, gắn với phát huy sự năng động sáng tạo trong quá trình thực hiện, hướng đến mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển giàu mạnh, hùng cường".
Phát biểu trên rõ ràng là lời cam kết của chính phủ Việt Nam với EU về việc thực thi nghiêm túc các cam kết trong hai hiệp định EVFTA và EVIPA, với trách nhiệm thực thi liên quan đến nhiều ngành - trước hết là Bộ Công thương, sau đó đến các bộ và cơ quan ngang bộ khác như Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Ngoại giao…
Còn Bộ Công an thì sao ?
Phải chăng Bộ Công an được xem là một trong những cơ quan có liên quan về trách nhiệm thực thi nghiêm túc EVFTA và EVIPA ? Trách nhiệm đó là gì ?
Hẳn là Tô Lâm đã chẳng việc gì phải ‘điểm danh’ trong lễ ký kết EVFTA, nếu gần một năm trước đó đã không diễn ra một cuộc gặp bất thường giữa ông ta và Bernd Lange - Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế (INTA) thuộc Nghị viện Châu Âu (EP) vào chiều 27/7/2018 tại Hà Nội.
Bernd Lange ‘đòi nợ’
INTA là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm tham mưu cho EP về các hiệp định thương mại quốc tế. Theo quy định của EU, quá trình xem xét các hiệp định thương mại quốc tế như EVFTA phải trải qua 2 giai đoạn : Giai đoạn 1, Ủy ban thương mại quốc tế của chủ tịch Bernd Lange sẽ rà soát toàn diện hiệp định nhằm đảm bảo thông tin, tình trạng pháp lý đầy đủ. Giai đoạn 2, Ủy ban thương mại quốc tế sẽ trình lên Nghị viện Châu Âu để thông qua.
"Ngài Bernd Lange khẳng định, cá nhân mình và EU sẽ cố gắng thúc đẩy Hiệp định EVFTA sớm được thông qua, cũng như mong muốn tiếp tục tăng cường hợp tác với Bộ Công an trong thời gian tới..". - trang web Bộ Công an Việt Nam đưa một bản tin ‘lạ’ ngay sau cuộc gặp Tô Lâm - Bernd Lange.
Vì sao EU muốn ‘tăng cường hợp tác với Bộ Công an’ ?
Vào tháng Chín năm 2017, Bernd Lange cũng đã đến Hà Nội về EVFTA, nhưng không có cuộc gặp nào với Tô Lâm. Chuyến đi này diễn ra một tháng rưỡi sau vụ Chính phủ Đức cáo buộc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc ở Berlin và khiến nổ ra cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức - Việt, biến thành một cơn địa chấn không chỉ trong nền chính trị Đức mà còn gây chấn động cả Châu Âu.
Vào thời điểm trên, ông Bernd Lange đã nói thẳng "Nhân quyền là vấn đề trọng tâm trong đàm phán thương mại giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu- EU". Ông Bernd Lange cũng nói rằng nếu Việt Nam không giải quyết đầy đủ các quan ngại về nhân quyền thì e rằng chuyện thương thảo giữa đôi bên sẽ gặp rắc rối.
Phát ngôn của Bernd Lange là sự nối tiếp của nghị quyết mang số hiệu 2016/2755 (RSP) của Nghị viện Châu Âu. Nghị quyết này được ban hành vào tháng 6/2016, lần đầu tiên thể hiện thái độ và từ ngữ cứng rắn chưa từng có khi đề cập và lên án tình trạng đàn áp nhân quyền trầm trọng ở Việt Nam.
Phát biểu tại hội thảo ‘Kinh doanh và Quyền Con người trong Quan hệ Thương mại và Chuỗi Cung ứng Toàn cầu tại Việt Nam’ vào sáng 25/7/2017 tại Hà Nội, ông Bernd Lange cho biết 3 công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đang là mối quan tâm của các Nghị sĩ Châu Âu. Việc Việt Nam đưa ra những cam kết rõ ràng và mang tính ràng buộc sẽ góp phần thuyết phục các nghị sĩ sớm thông qua EVFTA.
Rõ ràng trong cuộc gặp với Tô Lâm vào năm 2018, Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế Bernd Lange mang trên mình nhiệm vụ ‘đòi nợ’ phức tạp nhưng đầy ý nghĩa : vừa thuyết phục vừa sòng phẳng với ‘Bộ đàn áp nhân quyền’ (một biệt danh mà người dân Việt Nam đặt cho Bộ Công an) phải thả lỏng cơ chế siết bức dân chủ và dần cải thiện tình trạng đàn áp nhân quyền vốn đang xảy ra quá trầm trọng.
Đến ngày 15/11/2018, Nghị viện Châu Âu lại tung ra nghị quyết 2018/2925(RSP) về nhân quyền Việt Nam. Bản nghị quyết này còn cứng rắn hơn cả bản nghị quyết về vấn đề nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2016/2755(RSP) công bố vào tháng Sáu năm 2016.
Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925(RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đanh thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng về tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí, nạn bắt bớ người hoạt động nhân quyền, không chịu ký kết các công ước quốc tế về lao động…
Sau nhiều năm giữ ôn hòa với chính quyền Việt Nam và thậm chí còn bị cho là khá mềm yếu trước quá nhiều vi phạm nhân quyền, từ giữa năm 2016 đến nay EU ngày càng quan tâm đặc biệt đến chủ đề nhân quyền cho Việt Nam và nói thẳng đây là một trong những điều kiện bắt buộc, để nếu Việt Nam không chịu cải thiện nhân quyền thì sẽ không có cơ hội nào có được EVFTA.
Còn Tô Lâm thì sao ?
Có một thỏa thuận ngầm về cải thiện nhân quyền ?
Dù muốn hay không, Tô Lâm cũng phải tuân theo ‘chính sách Nguyễn Phú Trọng’ về ‘EVFTA là ưu tiên số một’, để sau đó vẫn còn cơ hội ‘đạt hiệp định trước, bắt nhân quyền sau’ như chính quyền Việt Nam đã hung hãn ‘bắt bù’ vào thời hậu WTO giai đoạn 2008 - 2012.
Nhưng ngay trước mắt khi EVFTA còn phải chờ đợi Nghị viện Châu Âu bỏ phiếu có thông qua hay không vào cuối năm 2019 hoặc đầu năm 2020, còn EVIPA thì phải lâu hơn thế bởi phải chờ đợi sự đồng thuận của quốc hội 28 quốc gia trong khối EU, chính quyền Việt Nam chưa thể có được ‘dư địa’ để tha hồ bắt bớ và xử án nặng nề giới bất đồng chính kiến. Thay vào đó, chính quyền này đang phải tìm cách đối phó với những đòi hỏi của Nghị viện Châu Âu như trả tự do cho các tù nhân lương tâm, đặc biệt là những người được nêu tên trong tuyên bố của 32 nghị sĩ Quốc hội Châu Âu vào ngày 17/9/2018.
Vào năm 2018, tín hiệu thông qua EVFTA của EU đã được chính quyền Việt Nam trả treo bằng việc trả tự do trước thời hạn nhưng tống xuất ra nước ngoài hai tù nhân lương tâm là luật sư Nguyễn Văn Đài và blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.
Còn vào năm 2019, một khả năng có thể là đã có một thỏa thuận giữa EU với chính quyền Việt Nam, đặc biệt là với Bộ Công an, về việc Việt nam phải đáp ứng một số yêu cầu cải thiện nhân quyền của EU trong khoảng thời gian từ lúc ký kết EVFTA cho đến khi Nghị viện Châu Âu tổ chức họp bỏ phiếu cho hiêp định này.
Vài nguồn tin đáng tin cậy từ hải ngoại đã xác nhận có thỏa thuận trên. Tuy nhiên, dường như bà Cecilia Malmstrom - Cao ủy Thương mại EU - chưa muốn công bố thỏa thuận này nhằm giữ cái được xem là thể diện của chính thể độc tài ở Việt Nam.
Hẳn đó chính là nguyên do Bộ trưởng công an Tô Lâm được yêu cầu có mặt trong buỗi lễ ký kết EVFTA và EVIPA tại Hà Nội vào ngày 30/6/2019, để những gì mà bộ này sẽ làm trong những tháng tới sẽ chứng thực cho việc chính phủ Việt Nam có thực thi đúng cam kết trong hai hiệp định thương mại ký với EU hay không, và cũng là cơ sở để Nghị viện Châu Âu xem xét và quyết định có cho chính thể độc tài Việt Nam ‘ăn’ hai hiệp định béo ngậy này hay sẽ ‘treo niêu’ thương mại song phương.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 06/07/2019
Mặc dù cố công giấu diếm nhưng rốt cuộc nhà cầm quyền Việt Nam cũng không thể che đậy một sự thật trần trụi đã và đang diễn ra một làn sóng ngày càng mạnh là càng nhiều quan chức cấp xã và cả cấp huyện, quận tìm kế "ra đi tìm đường cứu thân" thông qua con đường xuất khẩu lao động.
Ngoài lực lượng công an chính quy, nhà cầm quyền Việt Nam còn phải nuôi một lực lượng công an viên cấp phường xã bằng ngân sách. (Hình : Getty Images)
Bi kịch "còn đảng còn mình"
Trong nửa đầu năm 2019, báo chí nhà nước nhiều lần đưa tin về nhiều lãnh đạo, viên chức đảng viên từ cấp xã cho đến cấp tỉnh ở Hà Tĩnh và một số địa phương khác đã nghỉ việc trong hệ thống hành chính nhà nước để đi tìm tương lai mới bằng con đường xuất khẩu lao động, hoặc đi làm ở ngoài.
Phan Khắc Ấn, phó bí thư đảng ủy xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh là một đơn cử. Quan chức cấp nhỏ này đã xin nghỉ việc vì lương không đủ nuôi gia đình, mặc dù ông Ấn đã được cơ cấu quy hoạch vào làm lãnh đạo xã trong tương lai.
Vào Tháng Giêng, 2019, ông Dương Văn Quyền, phó chủ tịch xã Kỳ Hợp, huyện Kỳ Anh, cũng đã xin nghỉ việc để đi xuất khẩu lao động bên Đức vì sau 14 năm làm việc vì lương quá ít. Sáu viên chức, lãnh đạo khác cấp xã cũng đã nghỉ việc vì lương không đủ lo cho gia đình.
Nạn nghỉ việc không chỉ thuộc về khối hành chính dân sự mà còn gắn bó mật thiết với lực lượng "còn đảng còn mình" và "thanh kiếm và lá chắn" : công an.
Ông Trần Huy Liệu, phó giám đốc Sở Nội Vụ tỉnh Hà Tĩnh cho biết, thực trạng viên chức, lãnh đạo tại Hà Tĩnh, chủ yếu là trưởng và phó trưởng công an cấp xã bỏ việc đi xuất khẩu lao động đã diễn ra từ vài năm trở lại đây. Nguyên nhân là những người này muốn có một môi trường làm việc với thu nhập tương xứng hơn so với công sức họ đã bỏ ra.
Nguyễn Văn Mạnh, phó trưởng công an xã Kỳ Hợp đã phải nghỉ việc đi làm nhân viên cho công ty gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh.
Vào năm 2018, báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh cho biết tại xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh, trưởng công an xã Thiên Lộc là ông Lê Anh Thắng đã làm đơn xin nghỉ việc để đi xuất khẩu lao động.
Ông Thắng tốt nghiệp trung cấp an ninh, được bổ nhiệm trưởng công an xã vào Tháng Ba năm 2017, vào biên chế hệ số lương chưa được 3 triệu đồng/tháng. Trong đơn, ông Thắng nêu lý do vì thu nhập không đảm bảo cuộc sống gia đình cho nên xin nghỉ việc để đi làm ăn kinh tế, kiếm kế sinh nhai, đảm bảo cuộc sống.
Trước đó vào năm 2017, chỉ riêng ở Bà Rịa-Vũng Tàu đã có ít nhất 60 trường hợp công an xã, công an ấp nghỉ việc để ra ngoài làm công nhân, bảo vệ, phụ việc nhà giúp gia đình.
Một con số từ công an Bà Rịa-Vũng Tàu đã chứng thực cho tình trạng khốn khó của công an xã : mức phụ cấp của giới này đã rớt xuống chỉ còn 1.6-1.7 triệu đồng/người/tháng, tức giảm đến phân nửa so với những năm trước.
Tuy báo chí nhà nước ít khi đưa tin, hoặc hạn chế thông tin về sự thật chưa từng có trên, song tình trạng công an xã và trên cấp xã nghỉ việc không chỉ xảy ra ở Bà Rịa-Vũng Tàu mà còn là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều tỉnh và kể cả thành phố khác.
Hệ lụy của ngân sách tồi tệ rõ ràng đang gây tác động tiêu cực ngay với giới công chức, giới công an trị và khiến xảy ra xu hướng khó cưỡng lại là một bộ phận trong giới này phải "ra đi tìm đường cứu thân", đồng thời phác ra triển vọng không chỉ công chức, công an cấp xã, mà sắp tới còn cả công chức, công an cấp quận huyện, cấp tỉnh thành và cả cấp bộ có thể rơi vào tình trạng "bán thất nghiệp", "thu không đủ chi" và do đó có thể kéo nhau xin nghỉ việc.
Hiện tượng hàng loạt quan chức cấp xã bỏ việc để đi xuất khẩu lao động lại liên đới trực tiếp đến tình hình thu ngân sách quốc gia ngày càng èo uột.
Bi kịch ngân sách
2017 là năm đầu tiên mà ngân sách bị hụt thu đến hơn 3% so với dự toán đầu năm, nếu không tính đến khoản "bán mình" – tức 110,000 tỷ đồng thu được từ bán vốn nhà nước tại Sabeco (tổng công ty Rượu Bia-Nước Giải Khát).
Kết quả 96.8% thu ngân sách trên không những không được xem là thành tích mà còn bị coi là một thất bại, bởi đây là lần đầu tiên sau nhiều năm, thu ngân sách quốc gia không đạt so với dự toán. Cũng là năm thứ ba liên tiếp, thu ngân sách từ khối trung ương không đạt dự toán.
Hẳn đó là nguồn cơn sâu xa khiến chính thể độc đảng ở Việt Nam phải hoảng hồn trước cơn ác mộng ngân sách cho đội ngũ "còn đảng còn mình".
Bồi thêm một phát đại bác vào bức thành loang lổ rệu mục của ngân sách Việt Nam, hội thảo "Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2018 : Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng" – tổ chức ngày 25 Tháng Ba, 2019 tại Hà Nội – có một đánh giá rất quan trọng : "Quy mô thu ngân sách của Việt Nam hiện đã ở mức cao và khó có thể gia tăng thêm".
Bản nghiên cứu trên đã gián tiếp cảnh báo về nạn "thu cùng diệt tận giai đoạn cuối" của đảng Cộng Sản và chính phủ của thủ tướng "Cờ Lờ Mờ Vờ" : nếu xem tiền trong túi dân chúng là một nguồn tài nguyên vô tận thì đó là một não trạng áp đặt rất chủ quan duy ý chí, cả tham lẫn ngu và cực kỳ sai lầm.
Cho dù "Bộ Thắt Cổ" (một tục danh mà người dân biệt đãi cho Bộ Tài Chính) vẫn còn treo đó thuế VAT (thuế giá trị gia tăng) mà chưa dám tăng từ 10% lên 12% do phản ứng dữ dội của doanh nghiệp, người dân và còn bởi cơ chế tăng thuế VAT rất nhiều khả năng sẽ nhấn thêm nền kinh tế vào nạn suy thoái, sự thật hiển nhiên và trần trụi là trong hai năm 2017 và 2018, Tổng Cục Thuế đã phải chịu cảnh thất thu ở nhiều địa phương, kể cả Sài Gòn – nơi được Hà Nội ví là "Con bò sữa".
Có còn theo đảng ?
Mặc dù công an, cùng với quân đội, là lực lượng có hệ số "lương cứng" thuộc loại cao nhất quốc gia, nhưng thu nhập của những giới này ngày cang teo tóp trong cơn bão giá cả và lạm phát ở Việt Nam. Hàng năm, trong khi Chính phủ và Tổng Cục Thống Kê chỉ đưa ra chỉ số lạm phát dưới 5%, mức trượt giá thực tế cao hơn rất nhiều – có thể lên tới 20-30%. Một trong những nguồn cơn chính gây ra lạm phát là in tiền.
Vào những cái tết nguyên đán gần đây, một số nhân viên an ninh than vãn : những tết năm trước còn được 180 ngàn đồng và một cặp bánh chung, nhưng năm nay chỉ có 180 ngàn đồng mà không có bánh chưng!
Một mục sư Tin Lành ở Sài Gòn cho biết cơ quan công an địa phương nơi ông cư trú có chủ trương giảm đến 30% nhân sự. Không biết vô tình hay hữu ý, từ khoảng một năm qua "cơ chế" an ninh canh theo (canh gác – theo dõi) mục sư này đã lơi hẳn. Nếu trước đó luôn có vài ba công an mặc thường phục "chốt" ngay trước nhà ông hàng ngày, từ giữa năm 2016 đến nay công an đã bỏ chế độ canh theo thường xuyên mà chỉ còn "chốt chặn" vào những đợt cao điểm như hành lễ tôn giáo hoặc các dịp lễ 30 Tháng Tư, 2 Tháng Chín…
Tuy thế, một tương lai không mấy mong đợi dành cho giới công an trị là sẽ không mấy dễ dàng để chuyển qua công việc khác. Tương lai giới công an trị có thể được đi xuất khẩu lao động cũng khá ngặt nghèo. Trường hợp trưởng công an xã Thiên Lộc Lê Anh Thắng đi xuất khẩu lao động được cho là một may mắn hiếm có.
Bởi đến nay, nhiều thị trường lao động truyền thống của Việt Nam đã chính thức đóng cửa và trả lại lao động cho Việt Nam, khiến con số lao động Việt Nam dôi dư hiện thời mà không thể xuất khẩu lao động lên đến hàng triệu người.
Trong lúc tỷ lệ thất nghiệp thực tế ở Việt Nam lên đến ít ra 20% – gấp hàng chục lần con số báo cáo của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội, nhiều cử nhân đại học còn phải chạy xe ôm hoặc làm công nhân…, những người có xuất thân công an ít chuyên môn, kỹ năng, lại là giới bị người dân và doanh nghiệp ít ưa nhất, sẽ rất khó để tìm được những công việc "màu mỡ" hay có mức thù lao cao. May ra chỉ có thể đi làm bảo vệ như một số công an xã sau khi xin nghỉ công việc "bảo vệ đảng".
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 06/07/2019
Phó thủ tướng Vương Đình Huệ là quan chức cao cấp thứ ba của chính thể ‘kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’ phải mở miệng chào bán các ngân hàng 0 đồng, sau thủ tướng đã về vườn ‘làm người tử tế’ là Nguyễn Tấn Dũng và thủ tướng ‘cờ lờ mờ vờ’ đang rất hãnh tiến là Nguyễn Xuân Phúc.
Chào bán ngân hàng 0 đồng ‘thành công’ ra sao ?
Trong chuyến thăm Hàn Quốc vào tháng 6 năm 2019, Vương Đình Huệ đã tiếp xúc với lãnh đạo các tập đoàn, ngân hàng, công ty tài chính của Hàn Quốc là Tập đoàn Shinhan và Công ty Alliex tại thủ đô Seoul và gợi ý các ngân hàng của Hàn Quốc có thể xem xét mua lại các ngân hàng yếu kém đang được cơ cấu lại hiện nay như OCEAN Bank, GPBank và CBBank, hoặc mua lại một công ty tài chính của Việt Nam khi thị trường này đang diễn ra sôi động ở Việt Nam.
Vì sao phải chào bán những ngân hàng trên ? Thực chất của những ngân hàng trên là thế nào ?
Thực chất đen tối của ngân hàng 0 đồng
Có một sự thật không thể chối bỏ là vào năm 2015, trước khi Đại Hội 12 của đảng cầm quyền diễn ra, Nguyễn Văn Bình – thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước vào thời gian đó - là tác giả kiêm đạo diễn mua Ngân Hàng Xây Dựng (CBBank hay còn gọi là VNCB), Ngân Hàng Đại Dương (OceanBank) và Ngân Hàng Dầu Khí Toàn Cầu (GPBank) với giá 0 đồng.
Cũng vào năm 2015, theo những tin tức đã từng được coi là "tuyệt mật" nhưng rút cục được công khai trên báo chí, nợ xấu của ba ngân hàng trên là hơn 20.000 tỷ đồng – một con số không cách gì trả nổi so với vốn điều lệ của ba ngân hàng chỉ vào khoảng 10.000 tỷ đồng. Cả ba ngân hàng này lại đều có quan chức lãnh đạo bị khởi tố và sau đó bị truy tố lẫn án tù rất cao - từ chung thân Hà Văn Thắm đến tử hình Nguyễn Xuân Sơn.
Vậy tại sao Nguyễn Văn Bình và Ngân Hàng Nhà Nước lại phải mua ba ngân hàng trên với giá 0 đồng ? Phải chăng Thống Đốc Bình làm theo lệnh của thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng để "đạt thanh tích trước Đại Hội 12", nghĩa là vừa bảo đảm "nợ xấu không vượt quá 3%", vừa "khoanh" những ngân hàng xấu mà không để bị phá sản – một bằng chứng mà nếu xảy ra thì chắc chắn sẽ bị những đối thủ chính trị của ông Nguyễn Tấn Dũng lợi dụng triệt để để quy trách nhiệm "điều hành yếu kém" đối với ông ?
Hay hành động Ngân Hàng Nhà Nước quyết định mua lại các ngân hàng trên với giá 0 đồng là một chiêu thức thâu tóm lẫn nhau giữa các nhóm lợi ích ngân hàng ?
Với "đặc thù" cùng có 2-3 cán bộ lãnh đạo bị bắt và sau đó không lâu đều "được" Ngân Hàng Nhà Nước mua lại với giá 0 đồng, trường hợp của GP, VNCB và OceanBank đang đặt ra dấu hỏi rất lớn : phải chăng có một thế lực bí ẩn và thâm sâu nào đó muốn mượn tay Ngân Hàng Nhà Nước để "thôn tính" các ngân hàng nhỏ thông qua "cơ chế bắt chủ ngân hàng ?"
Hay hành vi mua 3 ngân hàng giá 0 đồng nhắm tới cả hai mục tiêu được che giấu trên ?
Chưa hết, Ngân hàng nhà nước lấy tiền ở đâu để mua các ngân hàng trên, dù là tuyên bố mua giá 0 đồng" ?
Từ sau vụ mua bán có vẻ rất ám muội trên, rất nhiều dư luận đã đặt dấu hỏi lớn về ý đồ Ngân Hàng Nhà Nước đã dùng tiền ngân sách, tức tiền đóng thuế của dân, để giải cứu những ngân hàng thương mại sắp đổ bể.
Nhưng từ sau Đại Hội 12 của đảng cầm quyền cho tới nay, bất chấp nhiều dư luận và cả đại biểu quốc hội nêu nghi vấn về việc Ngân Hàng Nhà Nước lấy đâu ra tiền để mua 3 ngân hàng trên, vẫn không hề có câu trả lời thỏa đáng nào từ phía Ngân Hàng Nhà Nước, còn Ủy Viên Bộ Chính Trị – Trưởng Ban Kinh Tế Trung Ương Nguyễn Văn Bình thì "trốn biệt".
Trong lúc toàn bộ nghi ngờ đối với cựu Thống Đốc Bình vẫn chưa hề có lời giải đáp và cũng chẳng hề le lói bất kỳ hy vọng nào cho lời giải này, thì lại xuất hiện một lời khai rất đáng chú ý của Đinh La Thăng - cựu ủy viên bộ chính trị và là chủ tịch hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - vào đầu năm 2018 mà từ đó làm lộ ra sự thật của "ngân hàng 0 đồng".
Tại phiên tòa xử "Đinh La Thăng giai đoạn 2" – liên quan vụ 800 tỷ đồng của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) gửi vào OceanBank nhưng đã không cánh mà bay, ông Thăng đã tự bào chữa : "Thực tế, việc mua OceanBank với giá 0 đồng, chuyển thành ngân hàng TNHH MTV thì Ngân Hàng Nhà Nước đã bỏ đồng nào vào Ngân Hàng Đại Dương chưa khi vẫn đăng ký vốn điều lệ là 4,000 tỷ đồng ? Ngân Hàng Nhà Nước lấy tiền đâu để bỏ vào đấy ? Nếu Ngân Hàng Nhà Nước lấy tiền ngân sách bỏ vào đấy là vi phạm Luật Ngân Sách Nhà Nước vì theo quy định, không thể lấy tiền của nhà nước bù lỗ cho doanh nghiệp".
Là một quan chức xuất thân từ kế toán trưởng, Đinh La Thăng hẳn phải rành rọt đường đi nước bước của nguồn tiền, dòng tiền và những trạng thái "biến thiên" của dòng tiền này trong từng phi vụ giao dịch qua ngân hàng. Chính vì thế, con số 4.000 tỷ đồng cùng mối nghi ngờ mà ông Thăng nêu ra là có cơ sở.
Trong khi đó, luật sư Nguyễn Huy Thiệp – người bào chữa cho ông Đinh La Thăng cho rằng : "có luật sư đặt ra rằng việc mua 0 đồng chính là cố ý làm trái. Tôi cho rằng nghiêm trọng hơn, nó nằm trong nhóm tội phạm về tham nhũng : lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ, hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản".
Rất đáng chú ý vì đó là lần đầu tiên xuất hiện một con số (4.000 tỷ đồng) liên quan đến vụ "mua ngân hàng giá 0 đồng", bởi trước đó đã không hề tồn tại bất kỳ con số nào, trong bất kỳ báo cáo hay phát ngôn nào của Ngân Hàng Nhà Nước và các cơ quan, cá nhân liên quan về vụ việc đầy khuất tất này.
Vậy con số 4.000 tỷ trên từ đâu ra ? Có phải được lấy từ ngân sách ?
Con số 4.000 tỷ trên lại chỉ mới chứng minh cho vụ mua giá 0 đồng đối với OceanBank, mà chưa tính tới những con số tương tự hoặc có thể còn lớn hơn để mua giá 0 đồng tại VCB và GP.
Nếu quả đúng là Ngân Hàng Nhà Nước đã lấy 4.000 tỷ đồng từ ngân sách để mua OceanBank như lời khai của ông Đinh La Thăng, và cái cách lấy tiền ngân sách như vậy đã khiến ba ngân hàng trên đang dấn sâu vào tình trạng nợ xấu và kinh doanh tồi tệ, đây chính là một vụ cố ý làm trái với mức độ ghê gớm, xứng đáng để Nguyễn Văn Bình bị "hồi tố", sau đó bị khởi tố và truy tố, phải nhận một mức án không thua gì Đinh La Thăng.
‘Chết không có chỗ chôn’
Bất chấp vụ Nguyễn Văn Bình đã ‘cố ý làm trái’, tình trạng của 3 ngân hàng 0 đồng vẫn thật tồi tệ.
Tại kỳ họp quốc hội tháng Năm năm 2018, một báo cáo của cơ quan Kiểm Toán Nhà Nước trình ra Quốc Hội đã cho biết tỉ lệ nợ xấu tại 3 ngân hàng VNCB, OceanBank và GPBank được Ngân Hàng Nhà Nước mua lại 0 đồng đã lên mức rất cao và bị âm vốn gần cả tỷ đô la. Nợ xấu của VNCB (chưa bao gồm nợ của các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng) ở mức 18.073 tỷ đồng, chiếm đến 95% dư nợ. Nợ xấu của Oceanbank là 14.234 tỷ đồng, chiếm 72,3% dư nợ. Còn nợ xấu của GPBank là 2.800 tỷ đồng, chiếm 59,3% dư nợ.
Cũng như số phận 500 bộ hồ sơ chào bán nợ xấu mà Ngân hàng Nhà nước đã gửi đi nhưng không nhận được hồi âm lạc quan nào, cho tới nay vẫn chưa có bất kỳ tín hiệu hồi đáp khả quan nào từ những ‘đối tác thân thiện’ mà Nguyễn Xuân Phúc và Vương Đình Huệ đã chào bán ngân hàng 0 đồng. Xác suất những ngân hàng này ‘chết không có chỗ chôn’ đang dâng cao vời vợi.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 03/07/2019
Chỉ ít ngày sau khi gọi Việt Nam là đối tác thương mại "thứ dữ" trong một bình luận mà có vẻ như một lời khen ngợi, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã quay ngoắt sang một biệt danh khác : Việt Nam là "kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất" !
Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại G20 ở Osaka, Nhật ngày 28/6/2019. Photo : Chụp từ VTV1
Biệt danh mới
Nền kinh tế Việt Nam - lảo đảo như một kẻ say rượu trong suốt 11 năm suy thoái qua - vào lần này phải đối mặt với một nguy cơ thực sự : Việt Nam có thể trở thành đối tượng thứ ba, sau Trung Quốc và Mexico, bị Trump áp thuế trừng phạt lên hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Biệt danh "kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất" được Trump thốt ra - một cách mỉa mai và có phần nổi đóa - trong một cuộc phỏng vấn trực tiếp trên đài Fox Business vào cuối tháng 6 năm 2019, chỉ vài tiếng trước khi ông lên đường sang Nhật Bản dự hội nghị của Nhóm 20 cường quốc kinh tế.
"Rất nhiều công ty đang dời sang Việt Nam, nhưng Việt Nam lợi dụng chúng ta còn tệ hơn cả Trung Quốc" và "Việt Nam gần như là kẻ lạm dụng tồi tệ nhất trong số tất cả mọi người" - Trump chỉ trích gay gắt và cáo buộc Việt Nam đang lợi dụng cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ.
Có thể cho rằng phát ngôn trên là góc cạnh và cứng rắn nhất từ trước tới giờ của Trump nhắm vào Việt Nam về vấn đề thâm hụt thương mại. Trong hơn hai năm rưỡi nắm quyền, Trump thường than phiền về thâm hụt mậu dịch của Mỹ trong quan hệ với nhiều nước và đang cố gắng thực hiện những biện pháp quyết liệt hơn để điều chỉnh tình trạng mất cân bằng thương mại.
Thời hoàng kim của Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ làn sóng thặng dư thương mại với Mỹ.
Sau gần hai chục năm hoàng kim từ thời tổng thống George Bush, Bill Clinton đến Barack Obama và cả thời của Donald Trump, Việt Nam đã kích hoạt lượng xuất khẩu phi mã vào thị trường Hoa Kỳ và tăng vọt số suất siêu lên đến khoảng 160 lần so với năm 2001 - thời điểm mà Việt Nam mới ký với Mỹ Hiệp định thương mại song phương (BTA) đầu tiên.
Chỉ trong 3 năm gần đây, Việt Nam đã tạo được một lượng xuất siêu kỷ lục - lên đến hàng trăm tỷ USD - vào thị trường Mỹ.
Vào năm 2017, Việt Nam xuất sang Mỹ lượng hàng hóa tổng giá trị 41,6 tỷ USD nhưng chỉ nhập khẩu có 9,2 tỷ USD, nâng mức thặng dư thương mại lên con số 32,4 tỷ USD với Mỹ.
Đến năm 2018, Việt Nam đã đạt giá trị xuất siêu ở mức kỷ lục tới 35 tỷ USD, còn năm 2019 và dự kiến xuất siêu đến 38 - 40 tỷ USD vào thị trường Mỹ, càng củng cố một cách chắc chắn vị trí thứ 6 của Việt Nam trong số 16 quốc gia bị Donald Trump liệt vào danh sách ‘gây hại’ cho nền kinh tế Mỹ.
Nhưng khác hẳn với thời ‘êm ấm’ với Tổng thống Obama mà đã chẳng phải nhận đòn trừng phạt kinh tế nào, giờ đây Việt Nam và cả nền chính trị độc tài của nó đang phải đối mặt với nguy cơ bị Trump biến thành ‘kẻ thù thương mại’, và do đó phải gánh chịu những hậu quả khó lường về bức tường thuế quan, kiểm định hàng hóa cùng những biện pháp khác mà Trump phát nổ trong thời gian tới.
Những đòn trừng phạt đầu tiên
Còn nhớ chỉ ít tháng sau khi nhậm chức tổng thống, Donald Trump đã giương cao ngọn cờ ‘công bằng và đối ứng’ - một đòn thương mại liệt Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia ‘gây hại cho kinh tế Mỹ’ và đòi hỏi các Bộ Thương mại và Bộ Tài chính Mỹ phải thực thi những biện pháp quyết liệt về hàng rào thuế quan thương mại đối với hàng Việt Nam.
Đặc biệt, cả thép và nhôm Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ đều có thể sẽ bị đánh thuế cao do ‘đặc thù’ của những mặt hàng này. Vào đầu năm 2018, một báo cáo từ Bộ Thương mại Mỹ cho biết Việt Nam nằm trong số các nước mà Bộ Thương mại Mỹ đề xuất áp mức thuế quan nặng lên các sản phẩm thép và nhôm xuất khẩu sang Mỹ.
Trong vụ tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế "thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc" vào tháng 12/2017, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã xác định rằng có đến 90% sản phẩm thép từ Việt Nam nhập sang Mỹ có xuất xứ từ Trung Quốc. Chỉ tính riêng Việt Nam, mặt hàng thép cuộn lạnh nhập vào Mỹ năm 2015 đã tăng vọt, từ 11 triệu đôla lên tới 295 triệu đôla. Biện pháp trừng phạt này chắc chắn sẽ có tác động tiêu cực lên toàn bộ ngành thép Việt Nam, trong đó có nhiều sản phẩm thép do chính Việt Nam sản xuất.
Trong khi đó theo chính bản tin của Tổng cục Hải quan Việt Nam thì "giả mạo xuất xứ, đóng lại bao bì bất hợp pháp thường xảy ra đối với hàng dệt may, thủy sản, nông sản, gạch men, mật ong, sắt, thép, nhôm và gỗ ép… từ Trung Quốc". Cùng lúc, một số chuyên gia độc lập ở Việt Nam đã cảnh báo về việc nhôm tấm Trung Quốc mượn đường Việt Nam sang Mỹ nhưng chính phủ và Bộ Công thương Việt Nam không có hành động cứng rắn gì. Không những thế, còn có một lỗ hổng pháp lý mà dường như bộ này cố tình để lại cho Trung Quốc tuồn hàng qua Việt Nam.
Cũng có nghĩa là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ bao gồm cả giá trị hàng hóa thép và nhôm có xuất xứ từ Trung Quốc, tức Việt Nam đã thông đồng với Trung Quốc để lừa người Mỹ.
Chỉ một tháng sau việc bất thần tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế "thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc", Hoa Kỳ đã khiến giới chức thương mại Việt Nam" chịu sốc thêm một lần nữa khi thông báo với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về 8 công ty mà lẽ ra Việt Nam phải đăng ký là "doanh nghiệp nhà nước" theo quy tắc thương mại toàn cầu.
Tám công ty mà Mỹ khai báo với WTO đều là những cái tên nổi đình nổi đám ở Việt Nam : Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) và công ty con là Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam (Vinapco/SkyPec), Tổng công ty Lương thực miền Bắc và Tổng công ty Lương thực miền Nam (Vinafood I và Vinafood II), Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) và Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin).
Thoạt nhìn, sự kiện trên có vẻ không mấy bất thường trong quan hệ các thỏa thuận giao thương đa phương quốc tế. Tuy nhiên xét về chiều sâu quan hệ thương mại song phương giữa Mỹ và Việt Nam cũng như quan hệ thương mại đa phương giữa Việt Nam với nhiều quốc gia, sự kiện này không chỉ mang tính cảnh báo hay như một động tác trừng phạt mới về thương mại của Mỹ đối với Việt Nam, mà còn có thể khiến Việt Nam bị không ít quốc gia quay lưng vì thói "gian lận thương mại" đã và đang hiển lộ một cách có hệ thống.
Vụ việc 8 doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam bị phía Hoa Kỳ cáo buộc lên WTO chắc chắn sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp này, bởi cả 8 doanh nghiệp nhà nước này đều tham gia hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu.
Cho tới nay vẫn không thấy phía Việt Nam đưa ra được các chứng cứ có tính thuyết phục để bác bỏ cáo buộc từ phía Hoa Kỳ.
Nếu các nước phát triển ủng hộ quan điểm của Hoa Kỳ thì sẽ dẫn đến khối lượng hàng hóa xuất khẩu của 8 doanh nghiệp nhà nước trên sẽ giảm sút, thậm chí các doanh nghiệp khác ngoài 8 doanh nghiệp nhà nước bị cáo buộc xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài cũng có thể gặp khó khăn.
Những đòn trừng phạt tiếp theo
Tháng 5 năm 2019, Bộ Tài chính Mỹ lại tung ra một đòn trừng phạt mới, hoặc chính xác là một mối đe dọa mới đối với Việt Nam.
Lần đầu tiên, Việt Nam đã suýt bị liệt vào danh sách các nước thao túng tiền tệ - danh sách được Bộ Tài chính Mỹ cập nhật cứ sau mỗi 6 tháng.
Mỹ sử dụng ba tiêu chí để đánh giá việc thao túng tiền tệ của một quốc gia : thặng dư tài khoản vãng lai lớn hơn 3% GDP, thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la, và can thiệp vào thị trường ngoại hối vượt quá ít nhất 2% GDP.
Việt Nam bị Mỹ xem là một nước lũng đoạn tiền tệ vì đã cho hạ giá đồng tiền của mình một cách giả tạo.
Trong vài năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã liên tiếp tăng tỷ giá trung tâm để kích thích gom USD trôi nổi. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2019, dù đã trám bớt lỗ hổng toang hoác của Quỹ dự trữ ngoại hối để có tiền trả nợ nước ngoài, nhưng cơ quan ‘siêu ngân hàng’ này đã phải trút vào thị trường tự do đến 200.000 tỷ đồng - chiếm đến hơn 4% GDP, tức vượt xa giới hạn 2% GDP mà Mỹ quy định đối với quốc gia thao túng tiền tệ.
Việt Nam cũng đã ‘thỏa mãn’ tiêu chí thặng dư thương mại khi đạt giá trị xuất siêu vào thị trường Mỹ ở mức kỷ lục tới 35 tỷ USD vào năm 2018, không chỉ củng cố một cách chắc chắn vị trí thứ 6 mà còn có triển vọng leo lên vị trí thứ 5 trong danh sách 16 quốc gia bị Donald Trump liệt vào danh sách ‘gây hại’ cho nền kinh tế Mỹ.
Nếu bị xem là quốc gia lũng đoạn tiền tệ, cửa vào ‘kinh tế thị trường’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam, vốn đã chẳng rộng mở gì, sẽ càng thêm hẹp lại. Khi đó, tương lai rất cận kề là theo lệnh của Tổng thống Trump, Đại diện Thương mại Mỹ sẽ nâng cao mức thuế suất đánh vào hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ - tương tự chiến dịch nâng thuế suất đến 25% của Mỹ đối với toàn bộ 500 tỷ USD giá trị hàng hóa của Trung Quốc vào thị trường Mỹ.
Và nếu bị Mỹ đánh thuế nặng hàng xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng Việt Nam sẽ lâm vào cảnh phá sản, còn nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không thể chịu nổi thuế suất cao mà sẽ phải rút khỏi Việt Nam, khiến nền kinh tế nước này lao nhanh vào suy thoái trầm kha và càng khiến tuổi thọ của chính thể độc đảng trở nên ngắn ngủi đến khó lường.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/07/2019
Nghị Viện Châu Âu sẽ kêu gọi cấm vận và chế tài quan chức cộng sản Việt Nam ?
Khác nhiều với thái độ và hành động xuê xoa trước đây, EU (Liên Hiệp Châu Âu) đang có những hành động cứng rắn chưa từng có đối với những quốc gia còn lại trên thế giới nằm trong chế độ cộng sản.
Công an trấn áp người biểu tình phản đối Trung Quốc trước đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội hồi tháng Năm, 2014. (Hình : Getty Images)
EU kêu gọi cấm vận quan chức Trung Quốc, dừng xuất cảng công nghệ tới Trung Quốc.
Theo trang "trithucvn.net", trong một phiên họp toàn thể vào ngày 18/04/2019, Nghị Viện Châu Âu đã phê chuẩn một nghị quyết khẩn cấp, kêu gọi cộng đồng quốc tế chú ý tới tình trạng nhân quyền ở Trung Quốc, nhất là đối với cộng đồng dân tộc thiểu số và cộng đồng tín ngưỡng ở quốc gia này. Đặc biệt, lần đầu tiên Nghị Viện Châu Âu lên tiếng kêu gọi Hội Đồng Châu Âu ra lệnh cấm vận các quan chức Trung Quốc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, và kêu gọi các nước Châu Âu nói riêng cũng như phương Tây nói chung dừng xuất khẩu công nghệ và hàng hóa phục vụ cho hệ thống theo dõi công dân độc tài của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Trung Quốc là nơi có những nhóm tù nhân tôn giáo lớn nhất thế giới. Các cộng đồng Kitô giáo phải đối mặt với sự đàn áp ngày càng tăng ở Trung Quốc. Tình hình ở Tân Cương, nơi có 10 triệu người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ và người Kazakh sinh sống, ngày càng xấu đi. Hàng chục ngàn tới hàng triệu người bị giam giữ trong trại cải tạo không qua xét xử. Chính phủ Trung Quốc đã từ chối nhiều yêu cầu tới Tân Cương từ nhiều nhóm điều tra của Liên Hợp Quốc. Còn tình hình ở Tây Tạng đã xấu đi trong vài năm qua với việc chính quyền Trung Quốc cắt giảm một loạt các quyền con người dưới cái cớ an ninh và ổn định, và tham gia vào các cuộc tấn công không ngừng chống lại bản sắc và văn hóa Tây Tạng.
Đáng chú ý, đối với các nước thành viên, Nghị Viện Châu Âu kêu gọi :
– Kêu gọi các quốc gia thành viên Liên Hiệp Châu Âu EU ngăn chặn mọi hoạt động do chính quyền Trung Quốc thực hiện trên lãnh thổ EU nhằm quấy rối cộng đồng người Turk, người Tây Tạng và các nhóm tôn giáo hoặc sắc tộc khác để buộc họ làm người cung cấp thông tin, buộc họ quay trở lại Trung Quốc hoặc buộc họ im lặng.
– Kêu gọi các quốc gia thành viên giám sát tình hình nhân quyền đáng lo ngại ở Tân Cương mạnh hơn, bao gồm cả hành vi đàn áp và giám sát của chính phủ, và lên tiếng chống lại các vi phạm nhân quyền ở Trung Quốc.
– Kêu gọi Hội Đồng Châu Âu xem xét áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quan chức chịu trách nhiệm về vấn đề đàn áp ở Khu Tự Trị Tân Cương.
– Kêu gọi EU, các quốc gia thành viên và cộng đồng quốc tế tạm dừng mọi hoạt động xuất khẩu và chuyển giao công nghệ, hàng hóa và dịch vụ – những thứ đang được Trung Quốc sử dụng để mở rộng và cải thiện bộ máy giám sát công nghệ cao. Đồng thời bày tỏ lo ngại rằng Trung Quốc đã đang xuất cảng công nghệ này tới các quốc gia độc tài khác trên toàn thế giới.
Trong rất nhiều nghị quyết lên án nhân quyền ở Trung Quốc, lần đầu tiên sau nhiều năm, Nghị Viện Châu Âu đề cập tới việc cấm vận và ngừng xuất khẩu sang Trung Quốc. Đây là một hành động mạnh mẽ, nằm trong một bối cảnh chung trên thế giới, khi hàng loạt quốc gia công khai gây áp lực tới chính quyền Bắc Kinh trước thực trạng nhân quyền của nước này. Cùng với những áp lực về thương chiến, áp lực nhân quyền cũng khiến Bắc Kin ngày càng lo sợ hơn.
Châu Âu không phải là nơi duy nhất đang cân nhắc tới lệnh cấm vận đối với quan chức Trung Quốc.
Trước đó, các nghị sĩ Mỹ từ cả Thượng Viện và Hạ Viện đã lên tiếng kêu gọi chính quyền cấm vận Trung Quốc vì nhân quyền. Các chuyên gia cũng đang tác động tới chính phủ Canada nhằm cấm vận các quan chức Trung Quốc theo đạo luật Magnitsky được ban hành hơn 18 tháng trước.
Úc và Liên Hiệp Châu Âu đã tham gia cùng Anh, Mỹ, Canada, Estonia, Latvia và Lithuania để dự lập một đạo luật Magnitsky quốc tế. Đạo luật này sẽ cho phép cộng đồng quốc tế có thể thực hiện nhiều biện pháp cấm vận các quốc gia vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Ý nghĩa của nó là việc cấm vận đối với chính quyền ĐCSTQ sẽ có thể xảy ra trên phạm vi toàn cầu.
EU sẽ kêu gọi cấm vận và chế tài quan chức Việt Nam ?
Chỉ trong ít tháng gần đây, EU đã có loạt hành động phản ứng nhà cầm quyền Việt Nam gia tăng bắt bớ và xử tù nặng nề đối với những người bất đồng chính kiến và hoạt động nhân quyền, xã hội dân sự.
Vào tháng Năm, 2019, Phái đoàn Liên Hiệp Châu Âu tại Việt Nam đã phản ứng sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai kết án nặng nề đối với hai người bất đồng là bà Vũ Thị Dung và bà Nguyễn Thị Ngọc Sương, và "mong đợi việc bà Vũ Thị Dung và bà Nguyễn Thị Ngọc Sương sẽ được trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện".
Đến tháng Sáu, 2019, mức độ phản ứng đã lên đến cấp EU ở Bruxelles, Bỉ (nơi đặt trụ sở của EU) đối với trường hợp kỹ sư Nguyễn Ngọc Ánh bị tòa án Việt Nam tuyên án 6 năm tù và 5 năm quản chế, đồng thời nhận định đây là "một sự phát triển đáng lo ngại".
Vào lúc này, có thể những người Châu Âu đã đã rút ra được bài học xương máu như người Mỹ trong các cuộc đàm phán nhân quyền bất tận và vô nghĩa với Việt Nam : chính sách "đổi tù nhân lương tâm lấy lợi ích thương mại" của Việt Nam là cực kỳ "xuyên suốt" cho đến khi nào chính thể này còn chưa bị đẩy vào chân tường.
Đã đến lúc EU cần có một khung luật của mình như Luật Nhân quyền Magnitsky.
Nếu trước đây Luật Nhân quyền Magnitsky chỉ áp dụng đối với Cộng hòa Liên bang Nga và một ít quốc gia khác, thì bộ luật này đã được Quốc hội Mỹ chính thức thông qua vào tháng 12/2016 và được tổng thống Mỹ ký ban hành trong cùng tháng. Những cái tên quốc gia đặc biệt nhất nằm trong bộ luật này chắc chắn sẽ là những địa chỉ có "thành tích nhân quyền" tai tiếng nhất : Bắc Hàn, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba…
Gieo nhân nào ắt gặt quả nấy. Giới quan chức công an trị Việt Nam – đối tượng chủ yếu và gây ra tuyệt đại đa số vụ hành hung và bức bách đến chết người dân – đã đến lúc phải trả giá, tương tự vài chục trường hợp quan chức Nga và Syria vi phạm nhân quyền đã bị Chính phủ Mỹ chế tài bằng cách cấm nhập cảnh vào Mỹ và đóng băng tài sản của họ ở Mỹ và những quốc gia đồng thuận với quan điểm chế tài của Mỹ.
Theo quy định pháp luật Việt Nam, các quan chức cấp Bộ Công an chịu trách nhiệm về chỉ đạo "ngành dọc" và chịu trách nhiệm toàn diện về tình hình an ninh – trật tự trong phạm vi quốc gia. Tại các tỉnh, thành phố, cơ chế bảo đảm an ninh – trật tự cũng tương tự đối với giám đốc công an, phó giám đốc công an phụ trách an ninh và phụ trách cảnh sát của các tỉnh, thành phố này.
Hoàn toàn có thể hiểu và áp dụng rằng những quan chức có trách nhiệm bảo vệ an ninh – trật tự này cũng đồng thời phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra các vụ bắt bớ người hoạt động nhân quyền, hành hung và sách nhiễu những người hoạt động nhân quyền và dân oan đất đai, người bảo vệ môi trường…
Thậm chí ngay cả cấp trưởng phòng hay phó phòng nghiệp vụ của công an quận, huyện và cấp tỉnh, thành phố – những nhân vật thường đặt bút ký giấy triệu tập sai quy định pháp luật (công an chỉ được triệu tập người dân khi có quyết định khởi tố vụ án) – cũng sẽ phải chịu trách nhiệm liên quan, bất kể họ nhận chỉ thị từ cấp trên nào để liều mình ký giấy triệu tập như thế.
Mặc dù cho tới nay vẫn chưa có con số thống kê toàn diện nào, nhưng cần chú ý một dư luận rằng tương tự Trung Quốc, rất nhiều quan chức Việt Nam có tài sản và thân nhân ở nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Úc… Nếu vài chục năm trước số quan chức này chủ yếu là cao cấp thì nay còn có cả quan chức trung cấp. Theo đó, dàn quan chức công an từ cấp phó giám đốc, giám đốc công an tỉnh, thành phố trở lên đều thuộc loại cao cấp, còn cấp trưởng, phó phòng nghiệp vụ của công an cấp tỉnh, thành phố và cấp quận huyện thuộc loại trung cấp, đều có thể liên quan với một khối tài sản nào đó ở nước ngoài.
Năm 2016, hồ sơ Panama đã tiết lộ có đến 19 tỷ USD được người Việt Nam chuyển ra nước ngoài. Rất nhiều dư luận cho rằng phần lớn trong số tiền này có nguồn gốc từ tham nhũng và được chuyển ra nước ngoài nhằm mục đích rửa tiền.
Riêng với các cơ quan tư pháp Mỹ, việc điều tra về tài sản và thân nhân của giới quan chức Việt Nam và Trung Quốc trên đất Mỹ là hoàn toàn không có gì khó khăn. Nghe nói một bản danh sách dài về giới quan chức Việt Nam có tài sản ở Mỹ đã được vài tổ chức người Việt hải ngoại lập ra với nội dung rất cụ thể…
Không loại trừ khả năng trong thời gian tới, nếu chính quyền Việt Nam vẫn gia tăng đàn áp nhân quyền hoặc không có động tác nào cải thiện nhân quyền, những gì mà Nghị Viện EU kêu gọi chế tài đối với Trung Quốc và giới chức vi phạm nhân quyền Trung Quốc sẽ được lặp lại đối với chính thể độc tài ở Việt Nam. Khi đó, những quan chức vi phạm này sẽ hết đường đi Mỹ và cả sang Châu Âu, còn tài sản của họ gửi ở các ngân hàng nước ngoài – tích góp vơ vét từ xương máu của người dân Việt – sẽ bị phong tỏa và bị tịch thu.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 30/06/2019
Tại kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2019, đã hiện hình một bằng chứng không thể chối cãi về nạn lạm phát thực tế ở Việt Nam và một chế độ lao vào tử lộ thu cùng diệt tận đối với dân chúng.
Vào năm 2019, dự toán thu ngân sách với số thu lên đến 1.411 ngàn tỷ đồng. Hình minh họa.
Tăng thu dã man gần gấp đôi !
Báo cáo thu ngân sách trong giai đoạn 2013 - 2018 đã phô trương thành tích : vào năm 2013, thu ngân sách là hơn 828 nghìn tỷ đồng thì 5 năm sau, thu ngân sách đã tăng lên 1,4 triệu tỷ đồng.
Theo tử lộ đó, chỉ trong khoảng thời gian 5 năm gần đây, thu ngân sách liên tục tăng mạnh, tăng ‘dã man’ gần gấp đôi !
Chưa kể vào năm 2019, dự toán thu ngân sách với số thu lên đến 1.411 ngàn tỷ đồng.
Báo cáo thu ngân sách với số thu gần gấp đôi trong giai đoạn 2013 - 2018 đã vô hình trung tiết lộ tỷ lệ lạm phát tối thiểu (chỉ tính theo số liệu trong báo cáo mà chưa phải lạm phát thực tế) đã lên gần 10% mỗi năm, chứ tuyệt đối không phải "được kềm chế dưới 5%/năm" như các báo cáo chính phủ bất cần biết dân chúng và dân sinh. Cơ sở chủ yếu của mức lạm phát này là khi lập dự toán phần thu ngân sách cho năm tiếp tới, các cơ quan của chính phủ và quốc hội luôn phải tính theo tốc độ lạm phát tối thiểu của năm cũ và chấp nhận thực tế này như một sự mặc định.
Vậy là liên tiếp trong nhiều năm qua, dự toán thu ngân sách năm sau đều được ‘quyết’ tăng hơn nhiều so với năm trước – từ 10 đến 12% vào thời kỳ kinh tế còn chưa rơi hẳn vào cơn suy thoái nhưng vẫn vống đến 8 đến 9% trong những năm gần đây, bất chấp phản ứng gay gắt của dư luận xã hội và tiếng kêu than oán ‘doanh nghiệp và sức dân đã cạn’, mà bằng chứng thảm thiết nhất là tỷ lệ doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và phá sản cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới.
Chẳng hạn vào năm 2017, trước tình trạng ngân sách cạn kiệt và đè đầu dân chúng, thuế sử dụng đất đã được âm thầm "thí điểm" tăng gấp 3-4 lần ở một số địa phương, đặc biệt tại "con bò sữa Sài Gòn" là nơi có số doanh nghiệp nhiều nhất và mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất quốc gia. Nhiều gia đình do không biết âm mưu tăng vọt thuế như vậy nên đã vẫn lầm lũi nộp tiền sử dụng đất cho đến nay, khiến kết quả thu ngân sách từ sắc thuế này lên đến hơn 80 ngàn tỷ đồng chỉ trong 10 tháng đầu năm 2017.
Nhưng chi ngân sách luôn cao hơn hẳn phần thu. Dự toán chi ngân sách năm 2019 lên đến 1.633 ngàn tỷ đồng, trrong đó hơn 70% là ‘chi thường xuyên’ để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức "còn đảng còn mình", trong khi tỷ lệ này ở các nước tiên tiến trên thế giới chỉ khoảng 50% hoặc dưới 50%. Đây chính là nguồn cơn khủng khiếp nhất khiến ngân sách luôn thu không đủ chi và luôn bị bội chi.
Vậy chính phủ ‘kiến tạo’ của ông Nguyễn Xuân Phúc đã làm được gì để tinh giảm biên chế và tinh gọn bộ máy ?
Giảm 40 ngàn chỉ là số ảo ?
Dù báo cáo của Bộ Nội vụ ngày 24/12/2018 về tình hình thực hiện ‘công tác cải cách hành chính’ năm 2018 cho biết kết quả tinh giản biên chế tính từ năm 2015 đến ngày 15/10/2018, tổng số biên chế cả nước đã được tinh giản là 40.500 người, nhưng thật ra chiếm phần lớn trong số đó vẫn là người hưởng chính sách về hưu trước tuổi với 34.948 người (chiếm gần 86,3%), còn số đương chức đương quyền thì chẳng có mấy.
Sau khi xem xét kỹ hơn sau con số báo cáo của Bộ Nội vụ, Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội đã phải cho rằng việc tinh giản biên chế các cơ quan hành chính nhà nước, đẩy mạnh tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập để giảm chi ngân sách còn bất cập, cụ thể : Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách còn nhiều…
Cần nói thêm, số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách đã lên tới 11 triệu, chiếm đến hơn 10% trong tổng dân số.
Trong thực tế, bài toán ‘tinh gọn bộ máy’ và ‘tinh giản biên chế’ vẫn còn lâu mới được giải quyết, hoặc chẳng bao giờ được giải quyết.
Từ sau Hội nghị trung ương 6 vào tháng Mười năm 2017 khi đảng ra nghị quyết về giảm 10% biên chế, cho tới nay bộ máy của đảng và các cơ quan chính phủ vẫn tiếp tục phình to mà chẳng hề giảm đi chút nào. Con số tinh giản biên chế được 40 người của Bộ Nội vụ là rất đáng nghi ngờ, bởi nhiều thông tin cho biết rất nhiều trường hợp công chức nằm trong diện bị cho nghỉ việc đã tìm cách ‘chạy’ sang những cơ quan khác cùng ngạch công chức, hoặc chuyển về những đơn vị sự nghiệp để trở thành viên chức.
Có nghĩa là trong lúc chỉ hô khẩu hiệu về giảm biên chế, đảng và chính phủ lại chăm chăm tìm mọi các để ‘bóc lột dân ta đến tận xương tủy’, hoàn toàn không quan tâm gì đến số người nghèo đang tăng phi mã ở rất nhiều địa phương. Và cũng không hề biết là đến một lúc nào đó, có lẽ không còn xa nữa, hàng triệu người dân và cả công chức hưu trí sẽ phải ồ ạt xuống đường để phản kháng chính sách thu cùng diệt tận giai đoạn cuối của chính thể ‘chỉ biết ăn không biết làm’ này.
Chế độ ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’
Ngân sách nhà nước năm 2019 và những năm tới sẽ đào đâu ra tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức "còn đảng còn mình" ?
Lại in tiền và in tiền ồ ạt ?
Song vào lúc này, ngay cả thao tác in tiền để "bù đắp khó khăn ngân sách" đang trở nên quá nguy hiểm trong bối cảnh lạm phát thực tế đã lên tới vài ba chục phần trăm mỗi năm. Chỉ so sánh con số tổng dư nợ tín dụng cho vay vào thời điểm năm 2008 là 2,3 triệu tỷ đồng và vào năm 2017 lên đến khoảng 7 triệu tỷ đồng - tức gấp đến 3 lần, thì trong gần một chục năm qua Bộ Chính Trị đảng và Ngân Hàng Nhà Nước rất có thể đã phải cho in tiền từ 400.000 - 500.000 tỷ đồng/năm, đặc biệt vào thời Nguyễn Tấn Dũng "tiền ra như nước Sông Đà".
Chỉ còn cách tăng thuế.
Thuế, thuế và thuế !
Giá điện, giá xăng dầu phi mã và cả ‘giặc cướp’ mang tên BOT…
Các mưu đồ và hành vi tăng thuế lại xảy ra trong bối cảnh dân tình Việt ngày càng khốn khó trong một nền kinh tế đã rơi vào thảm trạng suy thoái đến năm thứ 11 liên tiếp, một xã hội bị acid đậm đặc bởi căn bệnh tham nhũng không còn cách gì cứu chữa. Thuế chồng thuế, chồng lên đôi vai gày guộc của người nghèo.
Tăng giá và thuế má là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt. Một đảng Cộng sản ‘của dân, do dân và vì dân’ nhưng đang đẩy dân chúng vào cảnh tàn mạt bởi chế độ ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 28/06/2019
Hứa hẹn ‘cuối tháng Sáu sẽ có kết luận thanh tra Thủ Thiêm’ của Phan Nguyễn Như Khuê - quan chức mới được đảng cho thăng chức từ vị trí Phó đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh lên ghế Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - rốt cuộc đã đúng, sau ít nhất 3 lần giới quan chức hứa cuội và ma mị người dân khiếu tố về việc sẽ ban hành kết luận thanh tra Thủ Thiêm.
Người dân Thủ Thiêm bức xúc khi trao đổi với các Đại biểu Quốc Hội ngày 9/5/2018
Mới chỉ được một nửa !
Nhưng về thực chất, hứa hẹn trên mới chỉ đúng một nửa. Một lần nữa trong quá nhiều lần, người dân lại chìm nghỉm vào tâm thế ‘trong một đất nước mà cái gì cũng tăng khủng khiếp, may quá vẫn còn một thứ giảm thê thảm : lòng tin !’.
Bởi bản kết luận thanh tra vụ Thủ Thiêm của Thanh tra chính phủ chỉ quy trách nhiệm của các tổ chức cá nhân trong việc quy hoạch Khu đô thị mới Thủ Thiêm, làm thất thoát ngân sách nhà nước, phá vỡ quy hoạch chung theo Quyết định 367, thu hồi tiền của các dự án về cho nhà nước…, mà không nói gì đến việc bồi thường và trả lại đất cho hàng chục ngàn người dân bị cưỡng chế giải tỏa theo kiểu luật rừng, tan nhà nát cửa và bị biến thành dân oan đất đai bất đắc dĩ.
Đặc biệt trong Kết luận thanh tra trên không nói gì về 115 người dân đang khiếu kiện ở Hà Nội nằm ở 5 khu phố ở 3 phường ngoài ranh theo Quyết định 367. Kết luận này cũng không trả lời được những câu hỏi như "Cơ sở nào kết luận 4,3 ha của phường Bình An nằm ngoài ranh ?", "160 ha tái định cư biến đi đâu và rơi vào túi nhũng kẻ nào ?", "Tấm bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm biến đi đằng nào ?"…
Làm cho có !
‘Vụ án’ Thủ Thiêm đã kéo dài suốt hai chục năm trời, nhiều đoàn dân oan rồng rắn kéo ra Hà Nội khiếu nại tố cáo, nhưng đỉnh điểm là cơ chế cưỡng bức giải tỏa phi nhân tính của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của nhiều người dân. Không ít người dân đã tự treo cổ vì vì phẫn uất tột cùng, quá quẫn bách và không lối thoát.
Nhưng cho tới trước năm 2018, hầu hết những cuộc kiểm tra, thanh tra của các cơ quan công quyền tại Thủ Thiêm đều quá chiếu lệ và đậm mùi chung chi.
Một trong những cuộc thanh tra đầy mùi như thế được đầu đàn bởi Phó tổng thanh tra chính phủ Ngô Văn Khánh vào năm 2015 - một cuộc thanh tra mà cho tới nay vẫn chẳng ai thấy mặt mũi kết luận thanh tra dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Vào thời gian đó, có những dấu hiệu khuất tất khiến nhiều người dân Thủ Thiêm nghi ngờ rằng đã có một sự móc ngoặc giữa đoàn thanh tra chính phủ của Ngô Văn Khánh với giới quan chức nhiều tiền lắm của ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Rốt cuộc, hàng núi hồ sơ khiếu kiện và tố cáo của dân oan Thủ Thiêm đã bị quẳng vào một xó xỉnh nào đó, nước mắt dân oan vẫn tiếp tục tuôn ra, máu của dân oan vẫn tiếp tục đổ, còn Ngô Văn Khánh trở về Hà nội, để từ đó báo chí càng bất ngờ khi phát hiện những tài sản ngồn ngộn mới cứng của nhân vật này. Nhưng đến giờ, quan chức này đã chính thức ‘hạ cánh an toàn’.
Chỉ đến năm 2018, vụ Thủ Thiêm ‘bỗng dưng’ được báo chí và đảng quan tâm, với nguồn cơn hoặc do chiến dịch ‘đốt lò’ của Nguyễn Phú Trọng, hoặc do động cơ thanh toán đất vàng Thủ Thiêm của nhóm nhóm cá mập mới đối với nhóm cá mập cũ, hoặc bởi cả hai nguyên do này.
Nhưng với cơ quan Thanh tra chính phủ, tất cả cũng chỉ dừng tại hình thức kết luận kiểm tra, chứ không phải kết luận thanh tra, vào tháng 9 năm 2018. Điểm nổi bật nhất của bản kết luận kiểm tra này là sự chung chung và mơ hồ về tất cả mọi thứ - hành vi vi phạm, trách nhiệm quan chức và hậu quả dân phải lãnh.
Thực tế đã minh chứng rằng bản kết luận kiểm tra trên chỉ được làm cho có và rất tương ứng với diễn tiến sau đó : từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019 vẫn không có bất kỳ động tác đủ thành tâm và có tính thực chất nào từ phía các cơ quan ‘có trách nhiệm’ để khiến người dân Thủ Thiêm đủ tin về một chính quyền không đến nỗi quá vô trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo.
Sao không chịu phê duyệt lại ranh giới khu 4,3ha Thủ Thiêm ?
Không thể chịu đựng hơn được nữa, hàng trăm người dân Thủ Thiêm lại tiếp tục ra Hà Nội và tới các cơ quan Trung ương liên tục trong nhiều ngày để phản ánh việc này, yêu cầu Chính phủ cần thanh tra toàn diện khu đô thị và đưa ra kết luận cuối cùng, xử lý sai phạm của các cá nhân liên quan, đồng thời bồi thường thỏa đáng cho người dân…
Sau cuộc đấu tranh gian khổ của hàng ngàn dân oan Thủ Thiêm và giới đấu tranh dân chủ nhân quyền, được hỗ trợ rất lớn bởi mạng xã hội, rốt cuộc vào tháng 4 năm 2019 Thủ tướng Phúc đã không còn có thể câu giờ vụ người dân khiếu kiện 4,3 ha đất của dân nằm ngoài quy hoạch nhưng vẫn bị chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh cưỡng chế giải tỏa.
Trong một động thái cập rập để một lần nữa trấn an phản ứng của dân oan và dư luận xã hội, Nguyễn Xuân Phúc đã đá quả bóng trách nhiệm lại cho chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh khi "đồng ý cho UBND TP HCM phối hợp với Bộ Xây dựng phê duyệt lại ranh giới khu 4,3ha mà Thanh tra Chính phủ kết luận nằm ngoài ranh giới Thủ Thiêm" – theo một văn bản thông báo của Văn phòng chính phủ.
Nhưng người dân lại quá nghi ngờ rằng liệu chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh – được đại diện bởi những quan chức bị xem là ‘xôi thịt’ như Bí thư Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Nguyễn Thành Phong…, có chịu phê duyệt lại ranh giới khu 4,3ha Thủ Thiêm, hay vẫn cố tình treo vụ việc này để vừa không bồi thường thỏa đáng cho dân oan, vừa tìm cách bao che cho những kẻ ‘ăn đất’ như Lê Thanh Hải, Nguyễn Văn Đua, Lê Hoàng Quân, Tất Thành Cang ?
Rốt cuộc, từ tháng 4 năm 2019 đến nay, mọi chuyện vẫn hũ nút. Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh vẫn câm lặng. Không có bất kỳ động tác nào phê duyệt lại ranh giới khu 4,3ha Thủ Thiêm.
Hãy nhớ lại, từ tháng Năm năm 2018 khi tấm bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm ‘vô tình’ bị báo chí nhà nước phát hiện đã bị biến mất, cho đến nay cái điều nghịch lý kinh khủng ấy vẫn còn là một bí mật khổng lồ mà không có bất kỳ cơ quan hay cá nhân quan chức nào phải chịu trách nhiệm.
Sự thật đen tối
Ngay sau khi bản kết luận thanh tra vụ Thủ Thiêm của Thanh tra chính phủ được công bố vào tháng 6 năm 2019, rất nhiều người dân Thủ Thiêm lẫn dư luận xã hội đã dậy lên phản ứng đối với cơ quan này nói riêng và với đảng cầm quyền nói chung.
Vì sao kết luận thanh tra vụ Thủ Thiêm của Thanh tra chính phủ chỉ quy trách nhiệm của các tổ chức cá nhân trong việc quy hoạch Khu đô thị mới Thủ Thiêm, làm thất thoát ngân sách nhà nước, phá vỡ quy hoạch chung theo Quyết định 367, thu hồi tiền của các dự án về cho nhà nước…, mà không nói gì đến thân phận của hàng ngàn dân oan đất đai và việc bồi thường cho họ ?
Sự phiến diện đến mức bất công trên đã làm lộ ra một sự thật đen tối : bằng bản kết luận thanh tra trên, Thanh tra chính phủ cùng đằng sau cơ quan này là đảng cầm quyền đã chỉ nhằm mục đích bắt các quan tham ‘ăn đất’ như ‘Hai - Ba - Sáu’… (Hai Nhật - tức Lê Thanh Hải, Hai Quân - tức Lê Hoàng Quân, Ba Đua - tức Nguyễn Văn Đua, Sáu Cang - tức Tất Thành Cang…) phải ‘ói ra’, chứ không hề quan tâm đến số phận màn trời chiếu đất của nhân dân.
‘Ói ra’ hay ‘quyết tâm thu hồi tài sản tham nhũng’ đã trở thành chủ trương của đảng, khởi nguồn từ từ năm 2017 bởi ‘người đốt lò vĩ đại’ Nguyễn Phú Trọng - một động thái nhái lại những gì mà Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn đã làm ở Trung Quốc. Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng chỉ chưa đầy 10% trong thời gian trước đó là quá thấp và khiến Trọng không thể hài lòng khi, mà mục tiêu là phải bắt quan tham ‘ói ra’ ít nhất 50% số tài sản đã ‘nuốt’ thì mới thu hồi được một phần tiền để ‘hô hấp’ cho đảng. Một chục ngàn tỷ đồng hoặc thậm chí nhiều gấp vài ba lần như thế mà lũ ‘Hai - Ba - Sáu’ phải ‘ói lại’ vào ngân sách đảng để thoát khỏi xà lim sẽ giúp đảng có đủ tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức, với 30% trong số đó bị xem là vô tích sự, trong…3 ngày.
Hẳn đó là nguồn cơn khiến phát sinh một hiện tượng hết sức lạ lùng : cho tới nay dư luận và người dân vẫn tuyệt đối không nghe Nguyễn Phú Trọng đả động đến vụ Thủ Thiêm và thân phận dân oan Thủ Thiêm dù chỉ một từ, dù trong các cuộc tiếp xúc cử tri của ông ta tại Hà Nội luôn có những chất vấn của giới tướng lĩnh về hưu và cựu thần trung thành về thảm nạn ‘ăn đất’ kinh thiên động địa này.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 29/06/2019