Gần 4 năm sau cái đêm tù nhân lương tâm nổi tiếng Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bất thần bị công an dựng dậy ở nhà tù Nghệ An, với hành trang chỉ là đôi dép tổ ong mòn vẹt không kém nổi tiếng của các trại tù Việt Nam, bị áp giải tới sân bay quốc tế Nội Bài và bị tống xuất thẳng sang Hoa Kỳ, lịch sử đã lặp lại.
Ông Nguyễn Văn Đài, bà Vũ Minh Khánh (bên trái) và bà Lê Thu Hà, ngày 8/6/2018 tại Đức. Ảnh Facebook Vũ Minh Khánh.
Lịch sử lặp lại
Đêm 7 tháng Năm năm 2018, một tù nhân lương tâm được cộng đồng quốc tế và các tổ chức nhân quyền đặc biệt quan tâm là Luật sư Nguyễn Văn Đài, cùng nữ cộng sự của ông là Lê Thị Thu Hà, cũng đã bị nhà cầm quyền và công an Việt Nam tống xuất ra nước ngoài, nhưng không phải đi Mỹ mà là đi Đức.
Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà bị công an Việt Nam bắt vào tháng Mười Hai năm 2015. Nguyễn Văn Đài bị giáng án nặng nhất - 15 năm tù giam, còn người phụ nữ có hai con nhỏ là Lê Thị Thu Hà cũng bị đến 9 năm tù giam.
Nhưng vì sao chỉ vài tháng sau đó, nhà cầm quyền Việt Nam lại thả Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà, dù buộc phải hai nhà hoạt động nhân quyền này phải đi tị nạn chính trị ở Đức chứ không được ở lại quê hương ?
Vì ‘lý do nhân đạo’ hay thể hiện ‘lượng khoan hồng của đảng và nhà nước ta’ chăng ?
Ruỗng mục chân đứng
Vào lúc này, quá nhiều khó khăn kinh tế đã tích tụ và chồng chất để trở thành nỗi bế tắc được định dạng ngay trên gương mặt thất thần của đảng Cộng sản. Nếu không khẩn cấp tìm ra lối thoát kinh tế và tài chính, chẳng mấy năm nữa đảng sẽ sạch tiền, sẽ không còn tiền nuôi đội ngũ công chức viên chức ‘còn đảng còn mình’ lên đến gần 3 triệu người, cùng một lực lượng vũ trang và bán vũ trang hoặc chỉ biết đàn áp quyền làm người của dân chúng, hoặc chỉ lo làm ‘kinh tế quốc phòng’ mà chẳng hề bảo vệ ngư dân Việt trong lúc tàu Trung Quốc hùng hổ tấn công, hành hung và bắn giết.
Trong toàn bộ bức tranh u tối ấy, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu (EVFTA) là lối thoát được Bộ Chính trị đảng ở Việt Nam kỳ vọng nhất.
Về thực chất, cái chế độ tham lam, tham nhũng và đang rơi vào cảnh đói khát chỉ còn EVFTA là hiệp định thương mại mang lại lợi lộc nhiều nhất ứng với đà xuất siêu của Việt Nam sang Châu Âu lên đến 25 tỷ USD mỗi năm - gần bằng giá trị nhập siêu lên đến 30 tỷ USD hàng năm (chỉ tính theo đường chính ngạch, chưa kể khoảng 20 tỷ USD nhập siêu theo đường tiểu ngạch) của Việt Nam từ Trung Quốc.
Vào nửa đầu năm 2017, mọi việc đã tưởng như thuận buồm xuôi gió khi Việt Nam chỉ còn chờ Nghị viện Châu Âu ‘chốt’ EVFTA.
Thế nhưng chỉ trong vòng 9 tháng, cánh cửa của EVFTA vừa hé ra đã sập trở lại ngay trước mũi giới chóp bu Việt Nam.
Hai cú sập cửa
Cú sập đầu tiên xảy ra vào tháng Tám năm 2017, ngay sau khi Nhà nước Đức ra thông báo tố cáo mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin.
Bởi sau vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh", Nhà nước Đức không chỉ trục xuất hàng loạt cán bộ ngoại giao của Đại sứ quán Việt Nam tại Đức về nước, mà còn thẳng tay tuyên bố tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng 10/2017 và một tháng sau đã thông báo ngừng luôn hiệp định về miễn trừ visa đối với quan chức Việt Nam đi công tác ở Đức.
Vào tháng Sáu năm 2018, Bộ Quốc phòng Đức còn đình chỉ quan hệ làm việc cấp cao với Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng ngoại giao của Việt Nam đang được quốc tế hóa với tốc độ tên lửa.
Giờ đây, không chỉ người Đức, Slovakia, Ba Lan, mà nhiều nước trong khối EU và cả ngoài EU hẳn đang phải khẩn cấp thiết lập một hàng rào ngăn chặn mật vụ Việt Nam thâm nhập Lục Địa Già, dẫn đến nguy cơ khủng hoảng ngoại giao giữa Việt Nam với phần lớn Châu Âu.
Cú sập cửa thứ hai đã vang động đất nước của những tiếng sầm sập cửa nhà tù. Bản án bất công và án tù khủng khiếp đến 66 năm đối với 6 thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ đã kích thích phản ứng quốc tế có thể không mấy kém thua vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh".
Hội Anh Em Dân Chủ đã làm được nhiều hơn bất cứ tổ chức xã hội dân sự nào khác, và hơn hẳn toàn bộ khối tổ chức hội đoàn nhà nước như Mặt trận Tổ quốc, Tổng liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên cộng sản… trong mục tiêu hỗ trợ ngư dân và giáo dân 4 tỉnh miền Trung đòi lại công lý và tiền đền bù sau thảm họa xả thải ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra vào hai năm 2016 và 2017.
Bước ngoặt lớn
Hai cú sập cửa vang động đối với EVFTA đang khiến chính thể Việt Nam rất có thể sẽ phải chịu cảnh đổ vỡ hiệp định này sau khi đã gần như mất TPP, không những thế còn phải lâm vào cảnh cô đơn tuyệt đối về chính trị, hệt như chế độ độc trị tàn bạo ở Bắc Triều Tiên mà đã khiến tuyệt đại thế giới phải quay lưng với nó.
Nhưng sự cô đơn tuyệt đối không chỉ ứng với thân phận chế độ mà còn có thể ‘quả báo’ dành cho số phận cá nhân trong cái chế độ ấy. Tương lai sẽ đen tối và khủng khiếp đến thế nào nếu trong thời gian tới cơ quan công tố Đức phát tiếp lệnh truy nã toàn Châu Âu đối với giới quan chức cao cấp của ‘đảng và nhà nước ta’, sau một lệnh truy nã dành cho Trung tướng Đường Minh Hưng phụ trách an ninh của Bộ Công an ?
Muốn thoát ra tình trạng bế tắc tuyệt đối về kinh tế, chính trị và đối ngoại ấy, không còn cách nào khác là phải quay lại cơ chế ‘đổi nhân quyền lấy thương mại’ như thời TPP trước đây.
Nguyễn Văn Đài là cái tên được Chính phủ Đức đặc biệt quan tâm. Vào tháng Tư năm 2017 trong lúc đang bị Việt Nam giam giữ chờ khởi tố, ông Đài đã được Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier trao Giải Nhân quyền 2017 của Hiệp hội Thẩm phán Đức.
Việc chính thể Việt Nam chấp nhận trả tự do, dù vẫn theo cách tống xuất ra nước ngoài đối với Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà, không chỉ đơn thuần là việc thả hai tù nhân chính trị, mà quan trọng hơn nhiều là sự đánh dấu một điểm ngoặt lớn về tính xu thế : sau một thời gian dài co kéo mặc cả với Chính phủ Đức, sức bền mỏi của chính thể Việt Nam đã sa vào vùng giới hạn dưới mà không thể trả treo và kéo dài lâu hơn nữa.
Trong giới đấu tranh dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, có thể đánh giá Nguyễn Văn Đài là người năng nổ, sáng tạo, dám hành động và hành động có hiệu quả nhất, cũng là một trong số ít người có nhiều quan hệ với quốc tế và có ảnh hưởng quốc tế nhiều nhất. Vì thế đối với nhà cầm quyền Việt Nam, Nguyễn Văn Đài đương nhiên bị xem là nhân vật nguy hiểm nhất, cùng với Hội Anh Em Dân Chỉ là tổ chức nguy hiểm nhất.
Việc Việt Nam chấp nhận phóng thích nhân vật nguy hiểm nhất như Nguyễn Văn Đài càng cho thấy rõ hơn về điểm ngoặt, nếu không muốn nói là bước ngoặt, trong xu thế buộc phải cởi nới nhân quyền đang diễn ra ở Việt Nam - một xu thế tất yếu và không thể đảo ngược.
Có thể cho rằng nếu yêu cầu kiêm điều kiện của Đức về việc phải thả Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà không được thỏa mãn, với tư cách là đầu tàu kinh tế và cũng là một trong những đầu tàu chính trị trong khối EU, Đức sẽ thẳng tay phủ quyết EVFTA và còn thể đưa vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’ theo hướng quốc tế hóa và tạo ra thế triệt buộc đối với chính thể và một số quan chức cao cấp của Việt Nam.
Cũng có thể cho rằng con đường nhân quyền cho Việt Nam đã lật sang một trang mới, chuyển sang một thời kỳ mới từ sự kiện tự do của Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà vào tháng Sáu năm 2018.
Nhân quyền sang trang mới
Tuy nhiên khác với điều kiện ‘đổi nhân quyền lấy thương mại’ thuần túy khi phải phóng thích 12 tù nhân chính trị vào năm 2014, việc chính thể Việt Nam tống xuất Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà vào thời điểm này có thể chưa liên quan mật thiết đến các điều kiện để được thông qua EVFTA, mà ngay trước mắt có thể chỉ là một động tác ‘xin lỗi Đức’.
Xin lỗi về vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’.
Và cũng khác với trước đây chỉ ‘đổi hàng giá trị thấp hoặc trung bình’, giờ đây giới con buôn chính trị bắt buộc phải đổi hàng giá trị cao, thậm chí giá trị cao nhất. Như Nguyễn Văn Đài.
Còn sau đó sẽ là gì ?
Trong không ít lần đối thoại và đàm phán với Việt Nam, người Đức luôn đề cập đến giá trị của nhà nước pháp quyền, công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, thả tù nhân lương tâm quyền tự do lập hội, và tự do biểu tình, quyền tự do báo chí và tự do tôn giáo, xã hội dân sự độc lập…
Từ giữa năm 2016, bàn cờ đối thoại và đàm phán về nhân quyền đã dần chuyển từ tay người Mỹ sang Liên minh Châu Âu. Còn sau vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, có vẻ như người Đức duy lý, rất nguyên tắc và theo phương châm cứng rắn đang cầm chịch và cầm đằng chuôi trong phần lớn hoạt động và nội dung đàm phán nhân quyền, thậm chí đàm phán chi tiết ‘một đổi một’ với giới con buôn Hà Nội.
Có thể hình dung việc Việt Nam chấp nhận phóng thích Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà chỉ là biểu hiện có tính minh chứng đầu tiên về ‘cải thiện nhân quyền’ trong thời gian còn lại của năm 2018. Vẫn còn rất nhiều nhà hoạt động nhân quyền khác đang phải chịu ách kềm kẹp, trong đó có blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - người đàn bà hai con nhỏ đã được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh tặng danh hiệu ‘Người phụ nữ can đảm quốc tế’ vào đầu năm 2017 và đang phải chịu án tù 10 năm đằng đẵng…
Khác nhiều với thời kỳ trước khi đã ‘đi’ là thường ‘đi luôn’, những gương mặt đấu tranh nhân quyền nổi bật bị bắt vào thời gian này chỉ có án chứ không có ‘tuổi’. Bất chấp những bản án tù đối với họ nặng nề đến hàng chục năm hoặc hơn, họ vẫn có thể hiên ngang bước ra khỏi nhà tù vào bất cứ thời điểm nào mà áp lực quốc tế đủ mạnh để cánh cửa trại giam phải mở toang ra.
Khác nhiều những năm trước, tình trạng suy nhược cơ thể toàn diện của đảng Cộng sản đang tạo ra tương quan lực lượng cân bằng hơn giữa chính thể này với phong trào dân chủ nhân quyền.
Tháng Sáu năm 2018, nhân quyền Việt Nam bước sang một trang mới và hy vọng !
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 11/06/2018
Kể từ tháng Bảy năm 2017 khi lần đầu tiên phải cắm mặt yêu cầu hãng dầu khí Repsol của Tây Ban Nha lặng lẽ rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, cho đến gần đây chính thể độc đảng ở Việt Nam mới lần đầu tiên ‘hé răng’ một cách ẩn dụ rằng họ vẫn phải tìm cách khai thác dầu khí chứ không thể ngừng hoạt động này do sức ép của ‘đồng chí tốt’ ở phương Bắc.
Hãng dầu khí Repsol của Tây Ban Nha lặng lẽ rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ tháng Bảy, 2017.
Lần đầu tiên thừa nhận ‘tháo chạy’
Trong cuộc họp báo thường kỳ ngày 31/5/2018, khi phóng viên đặt câu hỏi về khả năng Việt Nam cân nhắc lại các dự án dầu khí của mình hay không khi Việt Nam đã đề nghị công ty dầu Repsol của Tây Ban Nha dừng khai thác, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao là bà Lê Thị Thu Hằng đã không phủ nhận câu hỏi này và trả lời : ‘Các hoạt động dầu khí cũng như các hoạt động kinh tế biển khác của Việt Nam được tiến hành bình thường trong khu vực biển hoàn toàn thuộc vùng thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam - được xác lập phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982’.
Mặc dù ‘công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982’ vẫn là cụm từ được Bộ Ngoại giao và giới chuyên gia ‘bảo vệ chủ quyền’ của Việt Nam lặp đi lặp lại không biết chán, nhưng từ sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao vào Biển Đông như một cái tát nổ đom đóm vào mặt những quan chức Việt vẫn còn mơ màng hay chăm bẳm về tình hữu nghị Việt - Trung, Bộ Chính trị đảng cầm quyền ở Việt Nam vẫn không có nổi một nghị quyết lên án Trung Quốc can thiệp vào Biển Đông hay đệ trình hồ sơ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Vậy dựa vào cơ sở nào mà Bộ Ngoại giao Việt Nam phát ra ẩn ý ‘khai thác dầu khí bình thường’ ở Biển Đông ?
Trong khi đó, hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam là hoàn toàn không bình thường, hoặc cực kỳ bất bình thường kể từ tháng Bảy năm 2017 đến nay.
Mất ăn ngay trong vùng chủ quyền
Tháng Bảy năm 2017 đã xảy ra một sự kiện mà xứng đáng được liệt vào loại "nhục quốc thể" : chính quyền Việt Nam phải "giương cờ trắng" khi yêu cầu Repsol ngừng hoạt động thăm dò khí đốt tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở khu vực Bãi Tư Chính mà luôn được Bộ Ngoại giao Việt Nam chiến đấu võ miệng "thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam." Dù chưa bao giờ giới tuyên giáo hay Bộ Ngoại Giao Việt Nam dám nói toạc về cái nguồn cơn sâu xa của vụ "nhục quốc thể" ấy, nhưng vụ "giương cờ trắng" này lại trùng hợp một cách kỳ lạ với tin tức quốc tế cho biết sau khi Bắc Kinh đe dọa sẽ tấn công một số căn cứ quân sự của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam cho phép Repsol tiếp tục khoan thăm dò dầu khí. Sau vụ bỏ chạy không ngoái cổ ấy của liên doanh dầu khí Việt Nam - Tây Ban Nha, đã có tin quốc tế xác nhận ý đồ của hải quân Trung Quốc là có kịch bản tấn công quân sự, đặc biệt khi ‘bạn vàng’ này đã đưa cả một giàn phóng tên lửa ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa vào năm 2016.
Vào tháng Tư, 2018, một lần nữa Repsol vội vàng tháo chạy khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ. Lần thứ hai phép thử lấy tiền trong túi quần của mình đã không thành công. Chính thể Việt Nam đã rơi vào cảnh nạn bĩ cực đến mức dù quá muốn khai thác dầu khí ngay trong vùng chủ quyền của mình cũng phải bó tay. Cũng vẫn do sức ép không hiểu đến mức độ nào của Trung Quốc.
Đến lúc đó, tình thế đã trở nên bi kịch hơn hẳn : không những các giàn phóng tên lửa của Việt Nam ở Trường Sa đã chẳng thể khiến Trung Quốc hoảng sợ, mà cả sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Mỹ USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu tháng Ba, 2018 - theo lời "cầu viện" chính thức của Bộ Quốc Phòng Việt Nam - cũng chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc.
Và thay vì tiếp tục "can đảm bám biển," "bản lĩnh Việt Nam" lại thể hiện bằng cơ chế "tự xử" : nếu ở "nỗi nhục Bãi Tư Chính" lần đầu, Petro Vietnam có thể phải bồi thường cho Repsol khoảng 36 triệu USD - phần kinh phí mà Repsol đã phải bỏ ra để thăm dò dầu khí, thì đến tháng Tư năm 2018, con số bồi thường đã lên đến 200 triệu USD.
Chính trong cuộc họp báo thường kỳ cuối tháng Năm năm 2018, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gián tiếp thừa nhận rằng họ đã yêu cầu Repsol - một hãng dầu khí Tây Ban Nha liên doanh với PetroVietnam - dừng khai thác dầu khí ở khu vực Bãi Tư Chính.
Trong khi đó, Tập Cận Bình lại cử Vương Nghị - Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc - đến Việt Nam ngay sau vụ Bãi Tư Chính lần hai, với một "tối hậu thư" : Việt Nam phải "cùng hợp tác khai thác" mỏ Cá Rồng Đỏ với Trung Quốc. Nếu không, "bản lĩnh Việt Nam" sẽ hết cửa kiếm tiền ngay trong vùng lãnh thổ của mình.
Hy vọng gì ở Lan Đỏ ?
Sau vụ Repsol và nỗi nhục Cá Rồng Đỏ, chính thể độc đảng ở Việt có vẻ ‘khôn ra’ khi tìm cách dựa dẫm vào Công ty dầu mỏ quốc gia Nga Rosneft để khoan giếng LD-3P, thuộc mỏ khí ngoài khơi Lan Đỏ ở Lô 06.1, cách phía đông nam Việt Nam 370 km.
Nhưng ‘cái khó lại ló cái ngu’. Ngay cả Rosneft của người Nga cũng đang có thể rơi vào tình trạng cám cảnh như Repsol của Tây Ban Nha khi bắt đầu bị Trung Quốc gây sức ép buộc phải rời bỏ mỏ Lan Đỏ.
Theo Reuters, ngày 17/5/2018 Rosneft đã phải lên tiếng bày tỏ lo ngại rằng hoạt động khoan dầu mới hợp tác với Việt Nam gần đây trong khu vực Biển Đông sẽ khiến Bắc Kinh nổi giận.
Tuyên bố của Rosneft được đưa ra vào lúc tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng lên tiếng cảnh cáo là không một quốc gia, tổ chức, công ty hoặc cá nhân nào có quyền tiến hành thăm dò hoặc khai thác dầu khí trong vùng biển của Trung Quốc nếu không được phép của Bắc Kinh.
Một thực trạng trần trụi là mỏ khí đốt Cá Rồng Đỏ ở lô 136/03 thuộc Bãi Tư Chính và mỏ Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi, và mỏ Lan Đỏ là một số ít tiềm năng cuối cùng có thể cứu vãn ngân sách Việt Nam đang cạn kiệt.
Chính thể Việt Nam, cùng nền ngân sách đang rơi vào cảnh suy kiệt mà chỉ còn trông chờ vào thói đè đầu dân chúng để tróc thuế và khai thác nguồn tài nguyên gần như duy nhất còn lại là dầu khí, lại đang lâm vào bi kịch không những phải ‘giương cờ trắng’ tại mỏ Cá Rồng Đỏ và mỏ Cá Voi Xanh, mà còn phải ‘quy hàng thiên triều’ ở mỏ Lan Đỏ.
Cho Bộ Chính trị ra khơi để khai thác dầu khí ?
Trong khi đó, ngày càng nhiều tàu cá Việt Nam bị tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc tấn công, đâm chìm, còn ngư dân Việt bị hành hung và bị hất xuống biển.
Không chỉ đặt tên lửa, Trung Quốc còn tiến thêm một bước dài khi mang cả máy bay quân sự ra đảo Đá Subi ở quần đảo Trường Sa.
Sau bi kịch quân sự là bi kịch xã hội. Phép thử chiến thuật "áo lưỡi bò" của du khách Trung Quốc phô diễn tại sân bay Cam Ranh - mang tính thách thức của giới chuyên gia tâm lý chiến Bắc Kinh - đã khiến cho toàn bộ bộ máy đảng cầm quyền, chính quyền và chính sách "Ba không" của Việt Nam hầu như tê liệt.
Giờ đây, cái bộ máy tê liệt đó sẽ ‘quyết tâm’ ra sao và sẽ làm cách nào để ‘khai thác dầu khí bình thường’ khi còn không dám nhìn thẳng vào mặt Bắc Kinh ? Sẽ đủ can đảm để chấp nhận một cuộc xung đột quân sự khi không muốn chia bôi lợi nhuận với kẻ cướp ? Cả Bộ Chính trị và 200 ủy viên trung ương đảng có dám chường mặt ra để khai thác dầu khí ? Hay lại ‘huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc’ như cách hô hào của thủ tướng bị xem là ‘phá chưa từng có’ - Nguyễn Tấn Dũng - và được di truyền cho các đời quan chức sau này vào bất kỳ khi nào chính quyền cần tróc thuế dân, mị dân và đàn áp dân theo cách ‘hèn với giặc, ác với dân’ ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 08/06/2018
Gần 3 tuần sau khi kết thúc Hội nghị trung ương 7 mà vẫn không bị ‘ra đi’ như một số đồn đoán trước đó, nhân vật Trần Đại Quang - chủ tịch nước - đã có một chuyến công du đáng chú ý đến Nhật Bản.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang chủ trì lễ đón chính thức Nhà vua Nhật Bản Akihito và Hoàng hậu ngày 01/03/2017 tại Hà Nội (Dân Trí)
Dường như chính khách nằm trong số ‘tứ trụ’ trên của Đảng cộng sản Việt Nam có duyên với nước Nhật, ít ra liên quan đến rất nhiều đồn đoán về việc ông ta đi chữa bệnh ở Nhật vào hai thời điểm tháng Bảy năm 2017 và tháng Tư năm 2018.
Hai lần ‘biến mất’
Trong hai sự kiện được cả giới truyền thông quốc tế chú ý vì sự ‘biến mất’ của Trần Đại Quang ở trên nhưng lại không được hệ thống tuyên giáo và báo đảng Việt Nam công bố, chỉ có lần đầu tiên ông Quang ‘biến mất’ vào năm 2017 là có một chút tin tức. Khi đó, Giáo sư Phạm Gia Khải - một thành viên của Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương - nói với BBC rằng Chủ tịch Trần Đại Quang đã "sang Nhật điều trị bệnh", tuy nhiên "không có thành viên nào của Ban Chăm sóc Sức khỏe Trung ương đi theo".
Nhưng điều kỳ lạ là trong cả hai lần ‘biến mất’ trên, đã không có bất kỳ một xác nhận chính thức nào từ phía các bệnh viện hoặc Bộ Y tế Nhật Bản về việc ông Quang đến các cơ sở y tế của nước này để chữa bệnh. Chính một tờ báo lớn của Nhật là Nikkey đã xác nhận việc ‘Trần Đại Quang không có ở Nhật’ vào thời gian tháng Bảy và tháng Tám năm 2017.
Có lẽ bài báo mang tính khẳng định của Nikkey về hành tung của Trần Đại Quang có thể khả tín đến mức ngay sau đó một số dư luận đã đặt ra dấu hỏi : nếu không ở Nhật thì ông Trần Đại Quang đã ở đâu trong khoảng thời gian từ cuối tháng Bảy đến cuối tháng Tám năm 2017 ? Và ở đâu trong khoảng thời gian từ đầu tháng Tư năm 2018 đến sát Hội nghị trung ương 7 vào đầu tháng Năm ? Việc một số nguồn tin trong nước cho biết ‘Trần Đại Quang đi Nhật chữa bệnh’ liệu chỉ là dạng thông tin ngây thơ, không nắm rõ thực chất vấn đề, hay là một thủ đoạn tung thông tin giả để đánh lạc hướng dư luận, nhằm phục vụ cho một ý đồ chính trị nào đó, hoặc cụ thể hơn là một dàn xếp chính trị nào đó ?
Nhưng dù là những lần ‘biến mất’ của Trần Đại Quang xảy ra một cách ngẫu nhiên hay theo một ý đồ chính trị, hoặc được giả định như một thuyết âm mưu chính trị, thì điều thú vị rờn rợn là cuối cùng - trong cả hai lần vào năm 2017 và 2018 - ông Quang vẫn ‘tái xuất giang hồ’ mà không ‘đi luôn’ như một số đồn đoán trước đó.
Hai lần ‘tái xuất’
Vào cuối tháng Tám năm 2017, sau khoảng một tháng ‘biến mất’, Trần Đại Quang đã xuất hiện trở lại với gương mặt xanh xao và hốc hác khiến dư luận một lần nữa, kể từ sau vụ scandal chấn động ‘Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh sang Pháp chữa bệnh’ vào giữa năm 2015, người ta nghi rằng hình ảnh chủ tịch nước Trần Đại Quang đang tái xuất không phải là thật.
Song khác nhiều với vụ tướng Phùng Quang Thanh không nói gì cả, không tiếp xúc riêng và chỉ xuất hiện rất ít vào năm 2015 khi trở lại Hà Nội, Trần Đại Quang lại có khá nhiều cuộc làm việc trong nội bộ đảng và gặp gỡ giới chức ngoại giao nước ngoài - được thông tin bởi các tờ báo đảng, kể cả Quân Đội Nhân Dân là tờ mà chỉ hãn hữu mới viết rằng Trần Đại Quang là ‘thống lĩnh các lực lượng vũ trang’, còn thông thường chỉ vắn tắt là ‘đại tướng, chủ tịch nước’.
Sau Hội nghị trung ương 6 vào tháng Mười năm 2017 mà chỉ thấy hình ảnh Nguyễn Phú Trọng tràn ngập trên báo đảng, đến tháng Mười Một cùng năm, Trần Đại Quang từ ngôi sao mờ đã bất chợt tỏa sáng trong sự kiện Hội nghị thượng đỉnh kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương APEC tổ chức tại thủ phủ miền Trung của Việt Nam là Đà Nẵng. Khi đó, người ta liên tiếp thấy ông Quang hiện ra trong cùng hình ảnh với các nguyên thủ quốc gia như Putin của Nga, Trump của Mỹ, Tập Cận Bình của Trung Quốc…, nhưng lại không thấy Nguyễn Phú Trọng đâu.
Chỉ sau đó ông Trọng mới ‘tỏa sáng’, nhưng lại là bên lề Hội nghị APEC : cuộc gặp của nhân vật này với Tập Cận Bình tại Hà nội ngay sau hội nghị này mà Nhân Dân - "cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam" - đã đăng một bản tin với tựa đề kỳ quặc : "Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp ; Chủ tịch nước Trần Đại Quang đón, hội đàm ; Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hội kiến Tổng thống Hoa Kỳ Đ. Trăm".
Tựa đề trên có thể khiến người đọc cảm thấy ngay đã có một sự phân chia "quyền lực" rất có chủ ý và cũng rất tỉ mẩn, lục đục giữa 3/4 của "tứ trụ" trong việc tiếp "Trăm" (phiên sang tiếng Anh là Trump).
Sự kỳ quặc của tựa đề trên cũng bởi đây là một tựa đề hiếm có, cứ như thể nếu không ghi rõ ra sự phân công trách nhiệm của từng thành viên trong Bộ Chính trị thì người đọc và dư luận quần chúng nhân dân sẽ không thể biết được ai là người có vai trò ra sao, nhất là ai mới là người có vai trò chủ chốt trong việc tiếp "Trăm".
Có lẽ sự lục đục trong đảng đã biến thành cao trào chỉ một tháng sau sự kiện Hội nghị APEC : vào đầu tháng Mười Hai năm 2017, song trùng với vụ Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chủ đạo bắt Ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng và truy nã Thượng tá tình báo công an Phan Văn Anh Vũ, một lần nữa nhân vật Trần Đại Quang mờ nhạt hẳn đi.
Trong những tháng sau đó, người ta không thấy ông Quang xuất hiện nhiều. Rồi có tin là căn bệnh ‘ung thư máu’ của ông tái phát.
Để đến sát Hội nghị trung ương 7 vào tháng 5 năm 2017, dư luận một lần nữa ồn ã về sự ‘biến mất’ của Trần Đại Quang, nhưng vào lần này còn tô đậm hơn : ông Quang sẽ phải ‘nghỉ’.
Song tại Hội nghị trung ương 7, Trần Đại Quang vẫn xuất hiện, thậm chí còn ngồi bên cạnh Nguyễn Phú Trọng và là người điều hành phiên hai mạc của hội nghị này.
Điều gì đã xảy ra ?
Hoặc bí mật nào bị che giấu ?
Người ta còn nói đến một ‘phép màu’ đã đưa Trần Đại Quang trở lại quyền lực, trong khi tưởng như ông Quang đã thật sự biến mất khỏi chính trường.
Có lần thứ ba ?
Như một quy luật đã thành hình vào các năm 2017 vào 2018 - vào năm trước là sự kiện APEC sau Hội nghị trung ương 6, còn vào năm nay là chuyến công du Nhật Bản - được chào đón bằng 21 phát đại bác và được đón tiếp với nghi lễ dành cho nguyên thủ quốc gia - sau Hội nghị trung ương 7, Trần Đại Quang ‘biến mất’ trước một hội nghị trung ương rồi lại xuất hiện sau hội nghị trung ương đó.
Điều gì đã xảy ra và bí mật nào đã choáng ngợp cả không gian chính trị thẫm tối trong buổi hoàng hôn triều đại cộng sản ?
Nhưng còn Hội nghị trung ương 8 của đảng cầm quyền - dự kiến sẽ được tổ chức vào cuối năm 2018 - thì sao ? Liệu trước hội nghị này Trần Đại Quang sẽ lại ‘biến mất’ theo quy luật ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 06/06/2018
Tại kỳ họp quốc hội đang diễn ra vào tháng Năm, 2018, một lần nữa giới "nghị gật" đã không còn giữ nổi tư thế "ngủ ngày" khi phải xót xa việc ngân sách Việt Nam bị nuốt dần bởi thực trạng tồi tệ của ba ngân hàng bị mua với giá 0 đồng.
Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh (trái) trao quyết định cho ông Nguyễn Văn Bình (phải) làm Trưởng ban kinh tế trung ương
Một báo cáo vừa được cơ quan Kiểm toán nhà nước trình Quốc hội cho hay tỉ lệ nợ xấu tại 3 ngân hàng thương mại là Ngân Hàng Xây Dựng (VNCB), Ngân Hàng Đại Dương (OceanBank) và Ngân Hàng Dầu Khí Toàn Cầu (GPBank) được Ngân hàng Nhà nước mua lại 0 đồng đang lên mức rất cao.
Ba ngân hàng trên – được Ngân hàng Nhà nước vào thời Thống đốc Nguyễn Văn Bình mua lại 0 đồng – hiện đang bị âm vốn gần cả tỷ đô la. Nợ xấu của VNCB (chưa bao gồm nợ của các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng) đang ở mức 18.073 tỷ đồng, chiếm đến 95% dư nợ. Nợ xấu của Oceanbank là 14.234 tỷ đồng, chiếm 72,3% dư nợ. Còn nợ xấu của GPBank là 2.800 tỷ đồng, chiếm 59,3% dư nợ.
Những nghi ngờ về Nguyễn Văn Bình
Một sự thật không thể chối bỏ là vào năm 2015, trước khi Đại Hội 12 của đảng cầm quyền diễn ra, nhân vật quyết định mua 3 ngân hàng trên với giá 0 đồng chính là Nguyễn Văn Bình – thống đốc Ngân hàng Nhà nước vào thời gian đó.
Cũng vào năm 2015, theo những tin tức đã từng được coi là "tuyệt mật" nhưng rút cục được công khai trên báo chí, nợ xấu của ba ngân hàng trên là hơn 20.000 tỷ đồng – một con số không cách gì trả nổi so với vốn điều lệ của ba ngân hàng chỉ vào khoảng 10.000 tỷ đồng. Cả ba ngân hàng này lại đều có quan chức lãnh đạo bị khởi tố và sau đó bị truy tố lẫn án tù.
Nhưng tại sao Nguyễn Văn Bình và Ngân hàng Nhà nước lại phải mua ba ngân hàng trên với giá 0 đồng ? Phải chăng Thống đốc Bình làm theo lệnh của thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng để "đạt thanh tích trước Đại Hội 12", nghĩa là vừa bảo đảm "nợ xấu không vượt quá 3%", vừa "khoanh" những ngân hàng xấu mà không để bị phá sản – một bằng chứng mà nếu xảy ra thì chắc chắn sẽ bị những đối thủ chính trị của ông Nguyễn Tấn Dũng lợi dụng triệt để để quy trách nhiệm "điều hành yếu kém" đối với ông ?
Hay hành động Ngân hàng Nhà nước quyết định mua lại các ngân hàng trên với giá 0 đồng là một chiêu thức thâu tóm lẫn nhau giữa các nhóm lợi ích ngân hàng ? Với "đặc thù" cùng có 2-3 cán bộ lãnh đạo bị bắt và sau đó không lâu đều "được" Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng, trường hợp của GP, VNCB và OceanBank đang đặt ra dấu hỏi rất lớn : phải chăng có một thế lực bí ẩn và thâm sâu nào đó muốn mượn tay Ngân hàng Nhà nước để "thôn tính" các ngân hàng nhỏ thông qua "cơ chế bắt chủ ngân hàng ?"
Hay hành vi mua 3 ngân hàng giá 0 đồng nhắm tới cả hai mục tiêu được che giấu trên ?
Chưa hết. Ngân hàng nhà nước lấy tiền ở đâu để mua các ngân hàng trên, dù là tuyên bố mua giá 0 đồng" ?
Từ sau vụ mua bán có vẻ rất ám muội trên, rất nhiều dư luận đã đặt dấu hỏi lớn về ý đồ Ngân hàng Nhà nước đã dùng tiền ngân sách, tức tiền đóng thuế của dân, để giải cứu những ngân hàng thương mại sắp đổ bể.
Nhưng từ sau Đại Hội 12 của đảng cầm quyền cho tới nay, bất chấp nhiều dư luận và cả đại biểu quốc hội nêu nghi vấn về việc Ngân hàng Nhà nước lấy đâu ra tiền để mua 3 ngân hàng trên, vẫn không hề có câu trả lời thỏa đáng nào từ phía Ngân hàng Nhà nước, còn Ủy viên Bộ chính trị – Trưởng ban Kinh tế trung ương Nguyễn Văn Bình thì "trốn biệt".
Sự thật bất chợt hé lộ sau lời khai của Đinh La Thăng
Trong lúc toàn bộ nghi ngờ đối với cựu Thống đốc Bình vẫn chưa hề có lời giải đáp và cũng chẳng hề le lói bất kỳ hy vọng nào cho lời giải này, thì lại xuất hiện một lời khai rất đáng chú ý của Đinh La Thăng vào đầu năm 2018 mà từ đó làm lộ ra sự thật của "ngân hàng 0 đồng".
Tại phiên tòa xử "Đinh La Thăng giai đoạn 2" – liên quan vụ 800 tỷ đồng của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) gửi vào OceanBank nhưng đã không cánh mà bay, ông Thăng đã tự bào chữa : "Thực tế, việc mua OceanBank với giá 0 đồng, chuyển thành ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì Ngân hàng Nhà nước đã bỏ đồng nào vào Ngân Hàng Đại Dương chưa khi vẫn đăng ký vốn điều lệ là 4.000 tỷ đồng ? Ngân hàng Nhà nước lấy tiền đâu để bỏ vào đấy ? Nếu Ngân hàng Nhà nước lấy tiền ngân sách bỏ vào đấy là vi phạm Luật Ngân sách nhà nước vì theo quy định, không thể lấy tiền của nhà nước bù lỗ cho doanh nghiệp".
Là một quan chức xuất thân từ kế toán trưởng, Đinh La Thăng hẳn phải rành rọt đường đi nước bước của nguồn tiền, dòng tiền và những trạng thái "biến thiên" của dòng tiền này trong từng phi vụ giao dịch qua ngân hàng. Chính vì thế, con số 4.000 tỷ đồng cùng mối nghi ngờ mà ông Thăng nêu ra là có cơ sở.
Trong khi đó, luật sư Nguyễn Huy Thiệp – người bào chữa cho ông Đinh La Thăng cho rằng : "có luật sư đặt ra rằng việc mua 0 đồng chính là cố ý làm trái. Tôi cho rằng nghiêm trọng hơn, nó nằm trong nhóm tội phạm về tham nhũng : lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ, hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản".
Rất đáng chú ý vì đây là lần đầu tiên xuất hiện một con số (4.000 tỷ đồng) liên quan đến vụ "mua ngân hàng giá 0 đồng", bởi trước đó đã không hề tồn tại bất kỳ con số nào, trong bất kỳ báo cáo hay phát ngôn nào của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan, cá nhân liên quan về vụ việc đầy khuất tất này.
Vậy con số 4.000 tỷ trên từ đâu ra ? Có phải được lấy từ ngân sách ?
Con số 4.000 tỷ trên lại chỉ mới chứng minh cho vụ mua giá 0 đồng đối với OceanBank, mà chưa tính tới những con số tương tự hoặc có thể còn lớn hơn để mua giá 0 đồng tại VCB và GP.
Tuy thế, sự thật lại một lần nữa bị chôn vùi khi Hội đồng xét xử của phiên tòa Thăng – Thanh không những không xem xét lời khai về con số 4.000 tỷ đồng của Đinh La Thăng, mà còn không có bất kỳ kiến nghị nào về việc "hồi tố" vụ Ngân hàng Nhà nước mua ba ngân hàng với giá 0 đồng.
Lê Minh Hưng có che chắn ?
Liệu vụ "ngân hàng 0 đồng" sẽ hoàn toàn chìm xuồng ?
Trách nhiệm trả lời những câu hỏi trên không chỉ thuộc về cựu Thống đốc Nguyễn Văn Bình mà còn là thống đốc đương nhiệm là Lê Minh Hưng.
Ngay trước kỳ họp quốc hội Tháng Năm, 2018, sau đề nghị của cử tri Thành phố Hồ Chí Minh về "cần làm rõ trách nhiệm đối với các ngân hàng này khi để thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng, cần thiết cần xử lý trách nhiệm hình sự từng trường hợp để tránh việc kinh doanh thua lỗ rồi để Ngân hàng Nhà nước gánh nợ", Thống đốc Lê Minh Hưng đã phát ra một văn thư đáng chú ý để trả lời, trong đó nêu : "phương án mua bắt buộc 3 ngân hàng là giải pháp cuối cùng khi không còn giải pháp xử lý khác khả thi hơn, nhằm mục tiêu bảo đảm sự an toàn, ổn định, trật tự của hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính ; bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ; bảo đảm quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng không ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội".
Nhưng thư trả lời trên lại hoàn toàn không đề cập đến những câu hỏi nhức nhối của dư luận, ít nhất về "Ngân hàng Nhà nước lấy tiền ở đâu để mua các ngân hàng trên, dù là tuyên bố mua giá 0 đồng".
Phải chăng ông Lê Minh Hưng đang cố gắng che chắn và che giấu cho những khuất tất của cựu Thống đốc Nguyễn Văn Bình ?
Bởi nếu quả đúng là Ngân hàng Nhà nước đã lấy 4.000 tỷ đồng từ ngân sách để mua OceanBank như lời khai của ông Đinh La Thăng, và cái cách lấy tiền ngân sách như vậy đã khiến ba ngân hàng trên đang dấn sâu vào tình trạng nợ xấu và kinh doanh tồi tệ, đây chính là một vụ cố ý làm trái với mức độ ghê gớm, xứng đáng để Nguyễn Văn Bình bị "hồi tố", sau đó bị khởi tố và truy tố, phải nhận một mức án không thua gì Đinh La Thăng.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 03/06/2018
Vào đầu năm 2017 khi Nguyễn Ngọc Sự phát ngôn đến mức trơ tráo ‘Tất cả các khoản nợ trước đây của Vinashin giờ Bộ Tài chính đứng ra xử lý’ - một cách đổ vấy trách nhiệm lên đầu ngân sách quốc gia và cũng là lên đầu dân đen phải è cổ đóng thuế để nuôi một bộ máy bị xem là ‘ăn tàn phá hại’ chưa từng có, có lẽ quan chức Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinashin này không thể hình dung là chỉ một năm sau đó ông ta đã phải tra tay vào còng, để lại một ‘con tàu đắm’ đang kéo chìm rất nhanh nền ngân sách chế độ chỉ còn tính bằng từng năm thoi thóp.
Trang web của Vinashin hồi 2013.
Và để lại ‘kẻ đổ vỏ vĩ đại’ - Nguyễn Xuân Phúc - cho một đời thủ tướng bị xem là ‘phá chưa từng có’ - Nguyễn Tấn Dũng.
Những con số ‘phi thường’
Tại kỳ họp quốc hội đang diễn ra vào tháng Năm năm 2018, nghị trường một lần nữa nóng rẫy bởi vụ việc có tiền sử là vụ án Vinashin : ‘con tàu đắm’ này tiếp tục cơn ác mộng dường như không bao giờ chấm dứt của nó khi tiếp tục lỗ đến 5.000 tỉ -7.000 tỉ đồng mỗi năm – tương đương đến 5% tổng thu ngân sách quốc gia.
Chính đại biểu quốc hội Nguyễn Phi Thường, một trong những giám sát viên của Quốc về kinh tế và tài chính, đã phải nói ra con số lỗ lã ‘phi thường’ trên. Nhưng nguy hiểm nhất vẫn là ‘không có hướng ra’ cho Vinashin.
Đây là lần thứ hai liên tiếp trong hai năm, bộ phận giám sát tài chính doanh nghiệp của Quốc hội phải lôi tuột thảm cảnh của Vinashin ra để kêu cứu, trong bối cảnh ngân sách đang không biết lấy tiền ở đâu để trám vào lỗ thủng toang hoác của ít nhất 30% công chức viên chức ‘không làm gì cả nhưng vẫn đều đều lãnh lương’.
Vào năm ngoái, khi chuẩn bị cho kỳ họp quốc hội mới vào cuối quý 1 năm 2017, phía chính phủ của ông Phúc cũng đã phải một lần nữa kêu than : dự phòng ngân sách nhà nước phải ứng trả thay cho Vinashin trong 10 năm tới lên tới 63,2 nghìn tỷ đồng !
Nhưng từ cái lần Nguyễn Xuân Phúc như muốn chối bỏ trách nhiệm ‘đổ vỏ’ trên cho đến nay, tình cảnh vẫn như cũ, vẫn hoàn cám cảnh. Không một khoản nợ đáng kể nào của Vinashin được xử lý. Tất cả vẫn nguyên trạng bế tắc.
Quả là chưa có một đời thủ tướng cộng sản nào phải "đổ vỏ" ghê gớm như thời ông Nguyễn Xuân Phúc. Chỉ riêng trong khu vực các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước mà con số nợ vay đã lên đến 237 tỷ USD, Chính phủ đã bảo lãnh đến bảo lãnh 21 tỷ USD và phải có trách nhiệm trả nợ cho số tiền mà vào thời buổi này "không biết đào đâu ra".
Trong đó, những cái tên như Vinalines, Vinashin (Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam) vẫn là nỗi ám ảnh thường trực.
Thật trớ trêu, Nguyễn Xuân Phúc lại phải ‘đổ vỏ’ cho thủ trưởng trực tiếp của ông Phúc vào nhiệm kỳ trước là Nguyễn Tấn Dũng.
Nguyễn Tấn Dũng đã ‘sáng tác’ gì ?
Vào thời thủ tướng cũ là Nguyễn Tấn Dũng, số nợ của Vinashin đã lên tới khoảng 86 ngàn tỷ đồng, tức khoảng 4 tỷ USD, chiếm đến 2,5% GDP vào thời gian đó.
Không thể rút rỉa ngân sách để "bù đắp khó khăn" cho Vinashin, vào năm 2005, chính phủ Việt Nam đã tìm cách phát hành trái phiếu quốc tế tại thị trường chứng khoán New York để vay 750 triệu đôla, với kỳ hạn 10 năm và lãi suất 7,125%/năm. Số trái phiếu này đến hạn trả nợ gốc và lãi vào năm 2016. Sau đó chính phủ đã cho Vinashin vay lại toàn bộ số trái phiếu nói trên, nhưng khoản vay này không hiểu do nguồn cơn nào mà đã tiêu tán, để cuối cùng Vinashin hầu như không có khả năng trả nợ cho chính phủ. Tuy thế, hồ sơ vụ này gần như bị đóng lại. Báo chí chỉ dám hé môi rồi sau đó im bặt.
Về sau này, một chuyên gia tài chính là ông Bùi Kiến Thành đã phải nói rằng việc chính phủ giao toàn bộ 750 triệu đôla vào tay Vinashin mà không cần có các dự án cụ thể để giải ngân là "lỗi cực kỳ lớn".
Đến năm 2010, số dư nợ của Vinashin đã lên đến 80 ngàn tỷ đồng và trở nên "vô phương cứu chữa".
Vào năm 2010, chính phủ Việt Nam lại phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu kỳ hạn 10 năm tại Sở giao dịch chứng khoán Singapore, với lãi suất 6,75%/năm. Số tiền này sau đó được chính phủ cho một số tập đoàn kinh tế lớn như dầu khí, điện lực, Vinalines… vay lại. Tuy thế, cũng không thấy tăm hơi nào từ số tiền "tái cơ cấu Vinashin". Doanh nghiệp được mệnh danh là "con tàu đắm" này cứ lần lượt nuốt chửng các khoản tiền khổng lồ.
Vào năm 2014, lần thứ ba chính phủ Việt Nam tìm cách phát hành 1 tỷ USD trái phiếu. Tuy nhiên lần này có vẻ không còn "thành công" như hai lần trước đó. Đây cũng là thời gian mà những xung đột chính trị trong chính trường Việt Nam trở nên quyết liệt hơn hẳn trên cung đường "lập thành tích chào mừng đại hội 12 của đảng".
Cuối năm 2015, chính phủ thêm một lần nữa cố gắng tạo ra kế hoạch "phát hành 3 tỷ USD trái phiếu đặc biệt ra quốc tế". Nhưng đến giữa năm 2016 thì kế hoạch này đã hoàn toàn tan vỡ.
Bóp dân để trả nợ cho Vinashin ?
Còn bây giờ là năm 2018. Tình thế hiện thời là vô cùng bế tắc đối với ‘quả đấm thép’ (từ ngữ mà thủ tướng trước đây là Nguyễn Tấn Dũng đã dùng để vinh danh Vinashin).
Món nợ khổng lồ của Vinashin vẫn còn gần như nguyên vẹn, và trách nhiệm phải xử lý không ai khác là "tân chính phủ" của người vẫn còn bị một số dư luận xem là "tân thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc".
Lấy đâu ra số tiền 63 ngàn tỷ đồng để trả nợ cho Vinashin trong 10 năm tới ? Hay lại xuất ngân sách để ‘đổ vỏ’ ?
Nhưng ngân sách lại đang ‘tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc’ vào thai kỳ cuối cùng trước khi xuất ra một quái thai đúng nghĩa.
Vào năm 2017, nếu không tính đến phần bán vốn Tổng công ty Rượu bia – nước giải khát (Sabeco), thu được chẵn 5 tỷ USD, tương đương 110.000 tỷ đồng, kết quả thu ngân sách năm 2017 chỉ là 1.173 ngàn tỷ đồng, tức chỉ đạt 96,8% dự toán thu đầu năm 2017.
Kết quả 96,8% thu ngân sách năm 2017 không những không được xem là thành tích mà còn bị coi là một thất bại, bởi đây là lần đầu tiên sau nhiều năm, thu ngân sách quốc gia không đạt so với dự toán. Cũng là năm thứ ba liên tiếp, thu ngân sách từ khối trung ương không đạt dự toán.
Giờ đây, một phần lớn phần được xem là ‘tăng thu’ của ngân sách chỉ biết dựa vào… thuế đất.
Trong khi dó, toàn bộ ba khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều bạc nhược trong chu kỳ suy thoái kinh tế kéo dài suốt từ năm 2008 đến nay.
Đó chính là nguồn cơn sâu xa và chua chát về việc tại sao trong năm 2018, Chính phủ phải tiếp tục đè dân thu thuế và tìm cách "bán mình" tại một số tập đoàn được xem là "bò sữa" luôn mang lại lợi ích cho chính thể và cầm hơi cho đảng cầm quyền, khiến cho tăng giá và thuế má trở thành một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt ở Việt Nam.
Nhưng vẫn còn một giải pháp khác mà Tổng bí thư Trọng đang lấp lóe hy vọng : bắt quan chức để thu hồi tài sản tham nhũng.
Thu hồi từ ai ?
Chỉ vài ngày sau khi kết thúc phiên tòa "Thăng – Thanh" và vào lúc một phiên tòa khác xử Trịnh Xuân Thanh tội "tham ô" gần chấm dứt vào đầu năm 2018, chiếc xe thùng cảnh sát của Tổng bí thư Trọng lại tiếp tục đỗ xịch trước cửa nhà nguyên Chủ tịch Hội đồng Thành viên Vinashin Nguyễn Ngọc Sự.
Vụ khởi tố và tống giam đối với cựu quan chức Nguyễn Ngọc Sự đã khiến bật ra những dấu hỏi lớn về ý đồ mới của Tổng bí thư Trọng : vì sao vụ án Vinashin đã trôi qua đến 7 năm với vụ xử "Phạm Thanh Bình và đồng bọn", nhưng đến gần đây được "xới lại" ? Việc bắt Nguyễn Ngọc Sự là nhắm đến trách nhiệm của quan chức này vào thời còn làm lãnh đạo ở Vinashin hay ở PVN ? Việc bắt Nguyễn Ngọc Sự chỉ đơn thuần là phạm trù cá nhân đối với ông Sự hay còn mang ẩn ý muốn nhắm đến một "cái ô" nào đã che chắn cho ông Sự ?
Một chi tiết đáng mổ xẻ là trong bản tin về bắt Nguyễn Ngọc Sự của báo Bảo vệ pháp luật có đoạn "Trước đó, ngày 9/10/2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1868/QĐ-TTg, điều động, bổ nhiệm ông Nguyễn Ngọc Sự, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN), giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Tại PVN, ông Sự là Phó Tổng Giám đốc phụ trách Tài chính của cả tập đoàn. Tháng 8/2017, ông Sự đã nhận quyết định nghỉ hưu, thôi vị trí Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy".
Cách đưa tin và có vẻ nhấn mạnh về "Thủ tướng Chính phủ" là khá đặc biệt, bởi thông thường báo chí Việt Nam khi đưa tin về quá tình của các nhân vật này kia thì chỉ viết ‘ông/bà được bổ nhiệm/trở thành…" mà không cần nêu rõ là ai bổ nhiệm.
Ở Việt Nam, nhiều người cũng biết rằng "Thủ tướng Chính phủ" vào năm 2012 là Nguyễn Tấn Dũng, cũng là quan chức cao cấp bị xem là phải chịu trách nhiệm về "quá đấm thép" mà sau đó đã trở thành "con tàu đắm" Vinashin.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 31/05/2018
Vào những lần đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ trước đây, phía Việt Nam luôn hứa, thậm chí hứa hẹn rất nhiều về đủ thứ ‘Việt Nam luôn quan tâm và bảo vệ quyền con người’ như tự do tôn giáo tự do báo chí, tự do hội họp, quyền của người lao động, tù nhân chính trị… Chỉ có điều lịch sử của các kỳ đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ vẫn thường khá trắc trở và luôn bị biến dạng ngay sau cái bắt tay kết thúc một kỳ họp. Bởi sau đó, chính thể độc đảng và giới công an trị ở Việt Nam đã không thực hiện hứa hẹn của mình, hoặc thậm chí làm ngược lại hứa hẹn, nghĩa là gia tăng đàn áp và bắt bớ người bất đồng và nhà hoạt động nhân quyền.
Ông Scott Busby, Phó Trợ lý Ngoại Trưởng Mỹ thuộc văn phòng phụ trách vấn đề dân chủ, nhân quyền, và lao động.
Lại số 0 ?
Còn trong Đối thoại nhân quyền thường niên lần thứ 22 giữa Việt Nam và Hoa Kỳ diễn ra ngày 17/5/2018 tại Washington DC, ấn tượng đáng ghi nhận nhất của là thậm chí còn không có nổi một lời hứa nào của phía Việt Nam được đưa ra trong cuộc đối thoại này - theo thông tin của ông Scott Busby, Phó Trợ lý Ngoại Trưởng Mỹ thuộc văn phòng phụ trách vấn đề dân chủ, nhân quyền, và lao động cho Đài Á Châu Tự Do (RFA).
Cho dù Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tiếp tục nêu quan ngại về tình trạng nhân quyền Việt Nam và nêu một số trường hợp đặc biệt, yêu cầu phía Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức, trong đó có hai trường hợp đặc biệt mà Hoa Kỳ nhấn mạnh là blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - người đã nhận giải ‘Phụ Nữ Quả Cảm’ từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 2017, và luật sư Nguyễn Văn Đài cùng những người cùng cộng tác trong Hội Anh Em Dân Chủ…
Có lẽ không thái quá khi cho rằng về thực chất, kết quả của Đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ năm 2018 chỉ là con số 0.
Nhìn lại 2017
Vào năm 2017, kết quả của Đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ thậm chí còn bị âm.
Cuộc Đối thoại nhân quyền Mỹ - Việt trong bối cảnh năm 2017 thậm chí còn có lợi thế khá lớn so với Đối thoại nhân quyền Mỹ - Việt 2018 khi giới chóp bu Việt Nam đã phải chủ động bắn tiếng về một chuyến thăm Mỹ dành cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, với mục đích quan trọng là nhằm đạt được Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ - một nhu cầu quá thiết thân được giới chóp bu Việt Nam đặt lên ưu tiên hàng đầu trong chính sách đu dây chính trị và làm tất cả để giữ được "sự tồn vong của chế độ", trong tình cảnh nền kinh tế đang hội tụ khá nhiều dấu hiệu khủng hoảng.
2017 cũng là bối cảnh mà giới nghị sĩ Mỹ, đặc biệt là nhóm "Vietnam Caucus" bao gồm vài chục nghị sĩ Mỹ quan tâm đến vấn đề Việt Nam - gia tăng áp lực đòi hỏi cải thiện nhân quyền đối với Hà Nội để đổi lấy thương mại với Mỹ. "Tùy Việt Nam thôi" - những thủ lĩnh của nhóm này như Thượng nghĩ sĩ Alan Lowenthal đã tuyên bố như vậy.
Nhưng từ giữa năm 2016, chiến dịch bắt bớ người hoạt động nhân quyền đã được chính quyền và công an đẩy cao và liên tục.
Kết quả Đối thoại nhân quyền Mỹ - Việt 2017 đã đánh dấu một thực tế mà khó dùng từ nào khác hơn là "thất bại" đối với phái đoàn đối thoại của bà Virginia Bennett - Trợ lý bộ trưởng ngoại giao về dân chủ, nhân quyền và lao động, một chính khách mới trong chính quyền Donald Trump và có lẽ chưa có mấy kinh nghiệm về các thủ thuật trả treo nhân quyền của giới lãnh đạo Việt Nam.
Kết quả mà bà Bennett nhận được bằng những lời hứa hẹn chung chung và xảo ngôn của trưởng đoàn đối thoại nhân quyền Việt Nam - một quan chức chỉ ở cấp vụ trưởng Bộ Ngoại giao và năm nào cũng có nhiệm vụ thông báo những lời hứa hẹn không hề được bảo chứng như thế - là sau cuộc đối thoại này đã không có gì được cải thiện.
Thậm chí sau khi Thủ tướng Phúc kết thúc cuộc gặp với Tổng thống Trump ở Mỹ mà đã không nhận được tín hiệu nào về Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ, thậm chí còn bị Trump "đòi nợ" về tình trạng nhập siêu quá nhiều của Mỹ đối với Việt Nam trong lúc Trump lại gần như không quan tâm đến vấn đề nhân quyền, giới cầm quyền Việt Nam đã bắt bớ đến gần ba chục nhà hoạt động nhân quyền chỉ riêng trong năm 2017, đồng thời đưa ra xử tù cực kỳ nặng nề đối với họ.
Trước tình trạng chính quyền Việt Nam gia tăng đàn áp người bất đồng, có vẻ phía Mỹ đã phải tạm ngưng đàm phán nhân quyền, dù cơ chế đối thoại nhân quyền giữa Mỹ và Việt Nam được duy trì 2 lần mỗi năm. Vào cuối năm 2017, đã không có đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ nào diễn ra.
Cần làm gì ?
Sau Đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ, ông Scott Busby trả lời đài RFA : ‘Chúng tôi đã nói với họ như đã nói trước kia rằng nếu không có sự tiến bộ và hợp tác trong vấn đề nhân quyền, bao gồm tự do tôn giáo và quyền của người lao động, mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam không thể đạt được triển vọng toàn bộ’.
Nhưng cụ thể là cần làm gì ? Cần làm gì để Đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ không thể bế tắc ?
Một dấu hỏi lớn đang được nêu ra là vì sao đã có trong tay một vũ khí nhân quyền rất sắc sảo là Luật Nhân quyền Magnitsky toàn cầu (Global Magnitsky Human Rights Accountability Act) - đã được Quốc hội Mỹ chính thức thông qua vào ngày 8/12/2016, người Mỹ lại chưa hề áp dụng những biện pháp chế tài thích đáng của đạo luật này đối với giới quan chức Việt nam kể từ đó đến nay ?
Theo Luật Nhân quyền Magnitsky toàn cầu, những quan chức vi phạm nhân quyền sẽ bị chế tài theo hai cách. Thứ nhất, cấm nhập cảnh Hoa Kỳ kể cả đi công vụ. Nếu muốn được miễn trừ lệnh cấm này thì Tổng thống phải có sự miễn trừ đặc biệt và phải giải thích với Quốc hội. Thứ hai, chính phủ Mỹ đóng băng tất cả các tài sản của những cá nhân vi phạm nhân quyền, cho dù họ che giấu bằng bất kỳ hình thức nào hay gửi gắm ai đứng tên.
Tại rất nhiều các nước độc tài, kẻ vi phạm nhân quyền cũng chính là những tay tham nhũng lớn, giấu của cải ở các nước phương Tây. Quan trọng hơn, Luật Nhân quyền Magnitsky toàn cầu áp dụng với tất cả các loại nhân quyền được quốc tế công nhận. Theo luật này, những người cưỡng đoạt tài sản của nhân dân cũng bị xem là những kẻ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Tình trạng dân oan bị mất đất ở Việt Nam lại rất phổ biến. Những giới chức tham nhũng mà trừng trị những người tố cáo tham nhũng cũng bị xem là vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Từ năm 2015, một dân biểu Mỹ là Ed Royce cũng đã đệ trình ra Quốc hội dự luật về chế tài nhân quyền Việt Nam, và hiện thời dự luật này đang được đưa ra Hạ viện xem xét. Theo dự luật này, vấn đề chính yếu không chỉ là hạn chế những khoản tín dụng và viện trợ có tính cách ưu đãi từ phương Tây, mà cả thực hiện những biện pháp chế tài đối với những trường hợp quan chức Việt Nam vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Nếu Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua, sẽ tương tự tình trạng chế tài nhân quyền đối với Nga và Syria khi hàng loạt nhân vật cao cấp và kể cả trung cấp của giới lãnh đạo Việt Nam bị đưa tên vào "sổ đen nhân quyền" của Mỹ và Liên minh Châu Âu, để từ đó những người này sẽ không được nhập cảnh vào Mỹ, cùng lúc tài khoản, tài sản của họ, kể cả của người thân của họ, sẽ bị Mỹ và Liên minh Châu Âu phong tỏa tại bất kỳ ngân hàng hoặc địa điểm quốc tế nào mà nước Mỹ có thể với tay tới.
Cũng từ năm 2015 đến nay, Ủy hội Tự do tôn giáo Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế cùng nhiều thượng nghị sĩ Mỹ đã đòi Chính phủ Hoa Kỳ phải đưa Việt Nam trở lại Danh sách CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo). Nếu Việt Nam đã được Mỹ nhấc khỏi Danh sách này vào năm 2006, thì nay lại đang khá gần với triển vọng "tái hòa nhập" CPC. Nếu bị đưa vào CPC một lần nữa, có nhiều khả năng Việt Nam sẽ bị áp dụng cơ chế cấm vận từng phần về kinh tế và cả quốc phòng. Khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn đã chênh vênh bên bờ vực thẳm, sẽ càng dễ sa chân sụp đổ. Cơ chế cấm vận này cũng sẽ khiến con đường để Việt Nam tiếp cận Hiệp định thương mại song phương với Mỹ là chông gai hơn hẳn hiện thời, nếu không nói là vô vọng.
Hoa Kỳ có khá đầy đủ ưu thế để thiết lập biện pháp chế tài nhân quyền trên cơ sở cán cân thương mại với Việt Nam.
Có một điểm khác biệt cơ bản giữa năm nay và năm ngoái : vào năm 2018, tình hình kinh tế và ngân sách của Việt Nam còn tồi tệ hơn cả năm 2017.
Bởi Việt Nam vẫn đang cần đến Mỹ hơn bao giờ hết trên phương diện thương mại, nhất là làm sao để duy trì được số xuất siêu hơn 30 tỷ USD vào Mỹ mỗi năm để bù đắp cho hơn 40 - 50 tỷ USD Việt Nam phải nhập siêu từ Trung Quốc cứ sau 12 tháng.
Sau nhiều năm quần quật nếm trải với Việt Nam về nhân quyền, rốt cuộc có vẻ người Mỹ đã rút ra một bài học đắt giá : đặc tính của chính quyền Việt Nam là luôn dùng tù nhân lương tâm để mặc cả về các hiệp định kinh tế, thương mại và viện trợ. Nhưng khi đạt được mục đích của mình, chính quyền Việt Nam lập tức trở mặt và bắt bớ người hoạt động nhân quyền.
Nếu không ở vào thế cùng quẫn về kinh tế và ngân sách, nếu không bị chế tài về lợi ích cá nhân, bản chất sẵn sàng vi phạm nhân quyền của chế độ toàn trị và giới quan chức ở Việt Nam sẽ không bao giờ thay đổi.
Một trong những bài học kinh nghiệm thành công nhất của người Mỹ chính là Miến Điện.
Nhiều thông tin cho biết sự hiện diện của một bản danh sách của Mỹ bao gồm tới 5.000 cái tên quan chức quân đội và dân sự Miến Điện - liên đới đàn áp nhân quyền và tham nhũng mà phải bị chế tài về nhập cảnh vào Mỹ và phong tỏa tài sản cá nhân - đã góp phần không nhỏ khiến thể chế quân phiệt của Miến Điện phải chuyển đổi sang bầu không khí dân chủ hóa kể từ năm 2011.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 30/05/2018
Từ sau thời "ngàn năm Bắc thuộc," xã hội và lãnh thổ Việt Nam chưa bao giờ cận kề với nguy cơ bị Hán hóa như giờ đây.
Phép thử mới nhất mà Bắc Kinh tung ra, xem ra đã thành công bước đầu : "áo lưỡi bò".
Du khách Trung Quốc cố tình mặc áo in hình "lưỡi bò" nhập cảnh vào Việt Nam tại phi trường Cam Ranh hôm 13 tháng Năm, 2018. (Hình : Facebook)
Cơ thể chính trị bại xụi
Ngày 13 tháng Năm, 2018, 14 du khách Trung Quốc – được chuẩn bị như một hành vi tập thể, có tổ chức – đã đồng loạt cởi áo ngoài để lộ hẳn áo thun nổi bật hình "đường lưỡi bò" ngay tại sân bay Cam Ranh – một vị trí nằm trọn trong tầm ngắm của giàn tên lửa của Trung Quốc đặt tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Trong khi đó, nhiều tàu cá Việt Nam vẫn bị tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc tấn công, đâm chìm, còn ngư dân Việt bị hành hung và bị hất xuống biển.
Không chỉ đặt tên lửa, Trung Quốc còn tiến thêm một bước dài khi mang cả máy bay quân sự ra đảo Đá Subi ở quần đảo Trường Sa.
Đến lúc này, tình thế đã trở nên bi kịch hơn hẳn : không những các giàn phóng tên lửa của Việt Nam ở Trường Sa đã chẳng thể khiến Trung Quốc hoảng sợ, mà cả sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Mỹ USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu tháng Ba, 2018 (theo lời "cầu viện" chính thức của Bộ Quốc Phòng Việt Nam) cũng chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc.
Sau bi kịch quân sự là bi kịch xã hội. Phép thử chiến thuật "áo lưỡi bò" mang tính thách thức của giới chuyên gia tâm lý chiến Bắc Kinh đã khiến cho toàn bộ bộ máy đảng cầm quyền, chính quyền và chính sách "Ba không" của Việt Nam hầu như tê liệt.
Trong suốt hai tuần lễ từ ngày 13 tháng Năm đến nay, đã không có bất kỳ một phản ứng ra hồn ra vía nào từ phía các cơ quan chức năng được xem là "có trách nhiệm" của Việt Nam. Trong khi phó giám đốc công an tỉnh Khánh Hòa nói như vớt vát "Chúng tôi phải điều tra, khi đấy mới có đủ cơ sở kết luận để có hướng xử lý," thì cơ chế "phản ứng nhanh" đã được thể hiện thành văn bản giữa Tổng Cục Du Lịch, Bộ Ngoại Giao và Bộ Công An đã trở thành một cơ thể bại xụi.
Sau những cuộc họp liên ngành và chắc chắn vụ áo "lưỡi bò" đã được báo cáo cho thường trực Ban Bí Thư và Bộ Chính Trị, vẫn không có bất kỳ cơ quan nào dám chịu trách nhiệm để thực thi một động tác cảnh cáo nào, càng không xử lý du khách Trung Quốc, thậm chí còn không dám công khai nêu ra bất kỳ một đề xuất nào để xử lý vụ việc tưởng nhỏ nhưng đã lộ rõ nguy cơ mất nước này.
Cụm từ "cả hệ thống chính trị vào cuộc" mà giới quan chức từ cao cấp lan xuống cấp dưới của Việt Nam ưa khoa trương đã biến sạch khỏi đầu môi chót lưỡi. Thay vào đó là hình ảnh "trùm mền" và đùn đẩy trách nhiệm chính trị giữa các cơ quan.
Sau vụ khiêu khích công khai của các du khách Trung Quốc, điều rất dễ hình dung là các cơ quan như chính quyền Khánh Hòa, Bộ Công An, Bộ Ngoại Giao, Tổng Cục Du Lịch đã quyết liệt… họp. Nhưng cũng hệt như rất nhiều cuộc họp thậm chí được tổ chức ở cấp Bộ Chính Trị khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao thẳng vào vùng chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông như chốn không người vào thời gian từ tháng Năm đến tháng Bảy năm 2014, đã chẳng có nổi một giải pháp, càng không có lấy một hành động ra hồn nào được thực hiện.
"Giải pháp" duy nhất để xử lý vụ khủng hoảng trên té ra lại là "Không để sự cố nhỏ ảnh hưởng đại cục" – thuộc về Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Du Lịch Nguyễn Văn Tuấn – một quan chức mà ngay sau phát ngôn này đã bị mạng xã hội phản ứng dữ dội và thái độ của Nguyễn Văn Tuấn bị lên án là không khác gì sự chuẩn bị cho hành vi bán nước.
Chỉ giỏi ‘hèn với giặc, ác với dân’
Rốt cuộc, bạc nhược và hèn yếu vẫn là đặc trưng lớn nhất của một chế độ luôn tuyên rao "bảo vệ chủ quyền lãnh thổ," thêm một lần nữa minh chứng cho cái hiện thực khốn quẫn về chính quyền Việt Nam chỉ giỏi "hèn với giặc, ác với dân".
Cho tới nay, tất cả những biểu thị và những cuộc xuống đường của người dân yêu nước phản đối "đường lưỡi bò" của Trung Quốc vẫn bị chính quyền và công an Việt Nam cấm đoán quyết liệt. Trong lúc rất nhiều cảnh sát mất dạng khi xảy ra những vụ cướp bóc mà phải để giới hiệp sĩ đường phố ra tay và chết thế mạng, người ta lại quá dễ chứng kiến đàn đàn công an sắc phục và thường phục nhảy xổ vào những người biểu tình phản đối Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt vào bất kỳ khi nào có một cuộc xuống đường hay chỉ là một cuộc biểu thị nhỏ.
Trong khi đó, quan hệ Việt – Trung đang "cải thiện" thấy rõ. Nếu trước đây, tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc chỉ dừng ở mức độ áp sát, ngăn cản, hoặc tấn công đánh đập ngư dân Việt, húc lật thuyền Việt… chứ không trực tiếp bắn thẳng vào ngư dân Việt, thì gần đây hành vi "đám người lạ" nhảy thẳng sang tàu cá Việt Nam để bắn chết ngư dân là chưa từng thấy. Vụ ngư dân Trương Đình Bảy bị "tàu lạ" dùng súng AK bắn chết vào tháng Mười Một, 2015 là một minh chứng quá đau đớn.
Vào năm 2017, Quảng Ngãi là địa phương phải chịu áp lực gây hấn nặng nề nhất. Rất nhiều tàu cá và ngư dân Việt đã bị một số lực lượng của Trung Quốc tấn công, trong đó ba tàu cá bị tông va, đập phá dẫn đến chìm.
Các vụ tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt và bắn giết ngư dân Việt đột ngột tăng mạnh kể từ tháng Bảy năm 2017 – thời điểm Việt Nam đưa giàn khoan Repsol – liên doanh với Tây Ban Nha – ra khu vực Bãi Tư Chính để khoan thăm dò dầu khí, cho đến nay.
Thái độ bị xem là quá phụ thuộc và quá ươn hèn của chính thể Việt Nam đã "di truyền" từ quá khứ đến tận hiện tại, khi cả chính phủ lẫn các bộ ngành liên quan của Việt Nam tuyệt đối "cấm khẩu" trước hàng loạt tàu cá Việt bị "tàu lạ" đâm chìm, còn ngư dân Việt tiếp tục bị người Trung Quốc bắn giết.
Trong mối quan hệ với Hải Quân Hoa Kỳ, có một sự thật trần trụi và đau đớn là giới chóp bu Việt Nam đã chỉ quan tâm đến việc bảo vệ những mỏ dầu và khí đốt phục vụ cho lợi ích cùng sự tồn tại của đảng cầm quyền, trong khi chẳng hề quan tâm đến nhiều cái chết của ngư dân Việt bị bắn giết bởi tàu Trung Quốc.
Hiện rõ mất nước !
Hình ảnh "đường lưỡi bò" lại xuất hiện ở Việt Nam gần như trùng với một sự kiện được xem là "nhục quốc thể" : vào tháng Tư năm 2018, công ty khai thác dầu khí Repsol của Tây Ban Nha – liên doanh với Vietsopetro của Việt Nam – đã lần thứ hai trong vòng 9 tháng phải cắm mặt rút khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ ở khu vực Bãi Tư Chính phía Đông Nam Việt Nam. Nguồn cơn của vụ rút lui này, dù không hề được giới tuyên giáo và báo đảng Việt Nam thông tin, nhưng ai cũng biết đó là do sức ép và đe dọa của Trung Quốc.
Với bản đồ mới nhất được Bắc Kinh tự vẽ, "đường lưỡi bò" liếm qua đến 67 lô dầu khí, tức gần như toàn bộ các vùng biển có trữ lượng dầu khí mà Việt Nam đã hợp tác với Tây Ban Nha để khai thác, và đang định hợp tác với những công ty dầu khí của Mỹ và Nga để khai thác.
Nhưng "nhục quốc thể" không chỉ bởi vụ chính quyền Việt Nam phải "giương cờ trắng" trước Trung Quốc khi muối mặt yêu cầu Repsol rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ vào tháng Bảy năm 2017 và tháng Tư năm 2018, mà còn là nỗi nhục không còn đất để chui trong phát ngôn "bán nước" của Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Du Lịch Nguyễn Văn Tuấn : "Không để sự cố nhỏ ảnh hưởng đại cục".
Cuộc chiến không cần tiếng súng của Trung Quốc đã bắt đầu từ lâu và đang khởi động một giai đoạn mới. Từ nhiều năm qua, xã hội và toàn bộ thể chế đảng kèm chính phủ ở Việt Nam đã buộc phải quen với tình trạng thương lái Trung Quốc tung hoành ở khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long khi họ tìm cách vơ vét đến cả lá điều khô, dừa khô, rễ tiêu, rễ sim, rễ hồi, lá khoai mì, lá khoai lang và cả… đỉa.
Cũng hàng chục năm qua, lớp nông dân Việt Nam nhẹ dạ luôn lao từ nỗi bấn loạn này sang cơn điêu đứng khác khi phải chặt bỏ những cây nông nghiệp chính và lâm vào cảnh bị ngân hàng xiết nợ.
Nhưng khi thương lái Trung Quốc "xù" hợp đồng cũng là lúc nông dân lẫn ngư dân Việt Nam rơi vào cảnh điêu đứng vì nợ vay ngân hàng và sản phẩm không tiêu thụ được.
Đó là cuộc chiến và những thủ đoạn chiến tranh kinh tế của Trung Quốc.
Còn với chiến thuật áo "lưỡi bò," hẳn là Bắc Kinh đã tính toán lấn từng bước và tự tạo hình ảnh "đường lưỡi bò" ngay trên lãnh thổ Việt Nam, ngay trước mũi các cơ quan bị xem là "cực kỳ vô trách nhiệm" của Việt Nam, và lâu dần sẽ khiến hình ảnh này trở nên bình thường hóa trong nhận thức và tâm lý của người dân, và khi đó sẽ là thành công của chủ trương "Hán hóa Việt Nam".
Được "nội gián" bởi không ít quan chức của chế độ CSVN, có thể chẳng bao lâu nữa Bắc Kinh sẽ hoàn tất kế hoạch Hán hóa Việt Nam. Trạng thái vô cảm, cấm khẩu và có thể cả tê dại vì sợ hãi của các cơ quan "có trách nhiệm" ở Việt Nam sẽ là một nhân tố tích cực để xúc tác cho một phong trào du khách Trung Quốc, và cả một số người Hoa sinh sống ở Việt Nam, phô diễn "áo lưỡi bò," cùng những hình ảnh và hành động biểu thị chủ quyền Trung Quốc trong vùng chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông, trong không bao lâu nữa.
Việt Nam, một đất nước vô luật.
Để đến lúc đó, thêm một lần nữa, trong rất nhiều lần của lịch sử "bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước," nước Việt khốn khổ này bị đẩy vào nhà tù Bắc thuộc.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 27/05/2018
Quyền biểu tình của người dân Việt Nam đang mang trên mình một món nợ thời gian khủng khiếp : hơn một phần tư thế kỷ ma mị kể từ Hiến pháp 1992 mà không trôi dạt một ảo ảnh thiện tâm nào.
Người dân Việt Nam xuống đường biểu tình vụ cá chết tại Hà Nội, ngày 1/5/2016. Ảnh : VOA
Kỳ họp quốc hội tháng Năm năm 2018 đã tiếp biến thái độ ma mị bằng động tác ‘lùi Luật Biểu tình’, một lần nữa trong quá nhiều lần bộ luật quyền dân này bị chính phủ từ thời ‘nắm chắc ngọn cờ dân chủ’ của Nguyễn Tấn Dũng đến ‘liêm chính, kiến tạo, hành động’ của Nguyễn Xuân Phúc, cùng ‘cơ quan dân cử tối cao’ là Quốc hội lợi dụng như một thứ mồi nhử nhân quyền để mặc cả thương mại với Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.
"Ủy Ban Pháp Luật của Quốc Hội cho biết đến nay, chính phủ vẫn chưa chuẩn bị xong để báo cáo quốc hội đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về Luật Biểu Tình" – báo chí nhà nước đưa tin, cũng theo cách đưa tin của rất nhiều lần trong ít nhất 5 năm qua.
Vậy ‘Chính phủ’ là cơ quan nào ?
Một sự thật hết sức trớ trêu ở Việt Nam là vào năm 2011, thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng đã giao cho Bộ Công an – một cơ quan bị xem là ‘công an trị’ và chuyên trấn áp, đàn áp những cuộc xuống đường vì môi sinh môi trường của người dân, ‘chịu trách nhiệm soạn thảo Luật Biểu tình’.
Kể từ đó đến nay, đã quá nhiều lần Bộ Công an thập thò bộ luật này. Và cũng quá nhiều lần cơ quan bộ này yêu cầu hoãn Luật Biểu tình khi nại ra lý do : "Trong quá trình soạn thảo có một số nội dung phát sinh cần tiếp tục đầu tư thời gian, công sức nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo, khảo sát thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm quốc tế như khái niệm "biểu tình", "quyền tự do biểu tình", "nơi công cộng", "tụ tập đông người"… ; phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật (có bao gồm cả việc tổ chức mít-tinh, biểu tình do Đảng, Nhà Nước, các tổ chức chính trị xã hội tổ chức ; việc khiếu kiện đông người, đình công, bãi công, bãi thị, bãi khóa hay không) ; vấn đề áp dụng các biện pháp trấn áp tương xứng, có hiệu quả đối với hành vi lợi dụng biểu tình vi phạm pháp luật ; trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình biểu tình…"
Một luật gia cho rằng đã có đủ căn cứ để thấy rằng việc cố tình kéo dài thời gian soạn thảo dự luật biểu tình của Bộ Công an là hành vi tắc trách công vụ, vi phạm vào Điều 4 của nghị quyết điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 do chủ tịch Quốc Hội ký ban hành tại kỳ họp thứ 7, tháng Sáu, 2014.
Trong thực tế và chẳng cần đến luật biểu tình chưa biết khi nào mới được 500 đại biểu Quốc hội đồng gật, từ năm 2007 đã diễn ra nhiều cuộc tuần hành và tọa kháng của dân oan đất đai. Năm 2011 đã làm nên dấu mốc lịch sử bởi hàng ngàn trí thức, nhân sĩ và người dân đã tổ chức hàng chục cuộc xuống đường để phản đối Trung Quốc, cùng truy vấn thái độ im lặng đầy khuất tất của đảng cầm quyền và chính phủ trước một bí mật bắt đầu bị hé lộ : Hội nghị Thành Đô năm 1990.
Ở Sài Gòn, cuộc biểu tình mang tính "kinh điển" vào tháng Năm 2014 phản đối giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã lên đến hàng chục ngàn người khiến toàn bộ lực lượng công an, dân phòng, quân đội bất động.
Những năm gần đây, phong trào bất tuân dân sự đang lớn mạnh và khởi sắc hẳn. Cuộc trước là nguồn cảm hứng cho cuộc sau. Từ các cuộc biểu tình phản đối chặt hạ cây xanh và tổng đình công của công nhân một số tỉnh Nam Bộ vào năm 2015 đến phong trào biểu tình phản đối Formosa của người dân miền Trung vào năm 2016 và 2017, cánh lái xe phản đối các trạm BOT thu phí và phản kháng dân sự đối với chính quyền.
Đến lúc này, công an chẳng biết phải làm gì để "siết" nữa. Từ lâu, những đòn phép đối phó với phong trào biểu tình dân oan từ năm 2007 và biểu tình chính trị từ năm 2011 đã được tung ra hết : trên hết là thói trấn áp và "biện pháp nghiệp vụ" của ngành công an, sau đó là luật Giao thông đường bộ, luật Hình sự về "gây rối trật tự công cộng", kể cả những điều luật khắc nghiệt chính trị như "lợi dụng các quyền tự do dân chủ" (258), "tuyên truyền chống nhà nước" (88), "lật đổ chính quyền nhân dân" (79) đã từ lâu được dùng để áp chế giới bất đồng chính kiến nhưng chỉ khiến nảy sinh "bắt một sinh mười".
Đói quá lâu sẽ hết đói. Cuối cùng, bánh vẽ Luật Biểu tình đã công nhiên trở thành một thứ phế thải. Cuối cùng, người dân Việt Nam đã tự động xuống đường mà bất cần một khung luật nào cho phép. Trong cơn phẫn nộ và bế tắc tận cùng, trong nỗi thất vọng vượt quá giới hạn trước một chế độ đặc trưng quá tham nhũng, độc đoán và khiến phát sinh đủ thứ hậu quả xã hội trầm kha, ngày càng có thêm nhiều người dân vượt qua nỗi sợ của mình để bước ra đường, mở miệng và thét to những gì họ muốn.
Đến lúc này, mọi chuyện đã quá muộn đối với chính thể. Quá muộn để "lấy lại lòng tin của nhân dân". Cũng quá muộn để ban hành Luật Biểu tình.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : CaliToday, 24/05/2018
Chính Bộ trưởng ‘Bộ bóp cổ’ (một cách gọi của dân gian đương đại dành cho vô số sắc thuế ‘kiến tạo’ của Bộ Tài chính đè đầu dân) - ông Đinh Tiến Dũng - đã phải thừa nhận một sự thật trần trụi và tàn nhẫn trong cơ cấu thu ngân sách của chính thể độc đảng ở Việt Nam vào năm 2017 : dù tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước năm 2017 vượt 49,16 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội, vượt 76,48 nghìn tỷ so với dự toán, nhưng số tăng thu đạt được chủ yếu không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà là nhờ tăng thu từ tiền sử dụng đất (61,58 nghìn tỷ đồng so với dự toán), và một phần khác từ thu cổ tức và lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp nhà nước (15,19 nghìn tỷ đồng), tăng thu từ dầu thô (11,28 nghìn tỷ đồng so với dự toán).
Sabeco, đã được bán với giá 5 tỷ USD.
Khi ‘Bộ bóp cổ’ phải thú thật
Sự thừa nhận trên hiện hình trong một cuộc báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào trung tuần tháng Năm năm 2018.
Trong khi đó, Ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội đánh giá rằng thu từ sản xuất kinh doanh của 3 khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài quốc doanh trong khoảng 3 năm liền kề đều thấp hơn so với dự toán với mức khá lớn và đều thấp hơn số ước thực hiện đã báo cáo Quốc hội.
Mặc dù Ủy ban Tài chính và ngân sách không nêu cụ thể thực trạng ‘thấp hơn’ là bao nhiêu, nhưng một số chuyên gia đã ước tính tỷ lệ thu từ khối doanh nghiệp nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh chỉ đạt khoảng 80-85% so với dự toán – tức thấp hơn rất nhiều so với kết quả của những năm trước.
Riêng khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài - một trong những niềm tự hào lớn nhất của ngành thuế Việt Nam trong nhiều năm qua - cũng rơi vào số phận hụt thu có thể lên đến 7% trong năm 2017.
Mà khi thu thuế từ 3 khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài quốc doanh bị giảm mạnh, lấy đâu ra ‘kinh tế Việt Nam đạt thành tích tăng trưởng 7,31% GDP’ - gấp gần 3 lần tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ và EU - như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên rao đầy tự hào vào cuối năm 2017 và được các bộ ngành, giới chuyên gia cận thần và báo đảng đồng ca đầy sống sượng lẫn trơ tráo ?
Ông Nguyễn Xuân Phúc có thể không thuộc bài ‘một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không thể là sự thật’, song sự thật của nền kinh tế mà đến nhiều địa phương ông Phúc đều hô hào là ‘đầu tàu kinh tế’ chỉ là sự cám cảnh của nạn suy thoái đã kéo dài suốt từ năm 2008 đến nay - hoàn toàn trái ngược với hành vi ngụy tạo thành tích kinh tế nhằm động cơ chạy đua vào chức vụ tổng bí thư tại đại hội 13 của đảng cầm quyền vào năm 2021.
‘Bóp cổ’ dân !
Nếu không tính đến phần bán vốn Tổng công ty Rượu bia – nước giải khát (Sabeco), thu được chẵn 5 tỷ USD, tương đương 110.000 tỷ đồng, thì kết quả thu ngân sách năm 2017 ra sao ?
Phép trừ đơn giản nhất cho thấy kết quả thu nhân sách năm 2017 chỉ là 1.173 ngàn tỷ đồng (1.283 ngàn tỷ trừ 110 ngàn tỷ), chỉ đạt 96,8% dự toán thu đầu năm 2017, nếu không tính đến 110.000 tỷ đồng thu được từ bán vốn nhà nước tại Sabeco.
Kết quả 96,8% thu ngân sách năm 2017 không những không được xem là thành tích mà còn bị coi là một thất bại, bởi đây là lần đầu tiên sau nhiều năm, thu ngân sách quốc gia không đạt so với dự toán. Cũng là năm thứ ba liên tiếp, thu ngân sách từ khối trung ương không đạt dự toán.
Đó chính là nguồn cơn sâu xa và chua chát về việc tại sao trong năm 2018, Chính phủ phải tiếp tục đè dân thu thuế và tìm cách "bán mình" tại một số tập đoàn được xem là "bò sữa" luôn mang lại lợi ích cho chính thể và cầm hơi cho đảng cầm quyền.
Tăng giá và thuế má là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt.
Vào năm 2017, ‘Bộ bóp cổ’ đã tham mưu cho chính quyền âm thầm, hoặc lén lút tăng thuế sử dụng đất phi nông nghiệp gấp 3-4 lần mà không thông báo trước cho dân.
Trong cơ cấu thu ngân sách quốc gia, tiền thuế sử dụng đất chiếm khoảng 9%, tương đương khoảng 100 ngàn tỷ đồng. Nếu đồng loạt tăng thuế sử dụng đất ở các tỉnh thành, ngân sách sẽ có thể "móc túi" dân gấp ít ra vài ba lần con số trăm ngàn tỷ đó.
Năm 2017 lại là năm mà thị trường bất động sản ở Việt Nam được giới đầu cơ cá mập lẫn đầu cơ nhỏ lẻ ‘đánh lên’ ở nhiều tỉnh thành. Ở miền Nam như Sài Gòn, Đồng Nai, Long An, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Ở miền Trung như Đà Nẵng. Ở miền Bắc như Hà Nội, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hải Phòng. Đặc biệt là ‘đánh lên’ dữ dội ở ba đặc khu kinh tế tương lai là Vân Đồn (quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang).
Mặt bằng giá đất được đẩy lên cao đến mức hoang tưởng - hàng chục lần, thậm chí hàng trăm lần.
Đó cũng là bối cảnh mà có đến 80 - 90% kẻ mua người bán đất là nhằm mục đích đầu cơ chứ không phải để ở. Hồ sơ mua bán đất chồng chất như núi ở các văn phòng đăng ký đất đai và cơ quan thuế, mà do đó đã giúp cho Tổng cục Thuế một năm bội thu.
Nhưng niềm vui thu thuế không phải cứ kéo dài mãi mãi. Cũng như những cơn sóng bất động sản vào những năm 2000 và giai đoạn 2007 - 2011 đều có điểm kết thúc bi kịch của nó, phong trào đầu cơ bất động sản từ năm 2016 kéo dài đến nay đã đẩy mặt bằng giá đất quá cao so với giá trị thực và tạo nên một quả bom khổng lồ chỉ chực chờ phát nổ vào năm 2019, hoặc có thể ngay trong năm 2018.
Nếu nguồn thu từ đất giảm mạnh ?
Sự thừa nhận của Bộ trưởng ‘Bộ bóp cổ’ Đinh Tiến Dũng về tăng thu ngân sách chủ yếu do tăng tiền thu từ thuế đất cũng vô hình trung chứng minh cho một sự thật khác.
Một dấu hỏi quá khốn quẫn đối với nền ngân sách ăn bám của nhà nước cộng sản : nếu quả bom bất động sản nổ, hoặc không nổ đột ngột thì sẽ phải xì hơi dần, chắc chắn mật độ thương vụ mua bán đất đai sẽ giảm dần hoặc giảm mạnh, kéo theo số thu thuế từ giao dịch đất đai sẽ giảm đáng kể trong những năm sau. Khi đó, ngân sách sẽ khó còn có nguồn thu tăng thêm từ tiền đất lên đến 60.000 - 70.000 tỷ đồng/năm, trong khi nguồn thu từ 3 khối kinh tế đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn không có gì khả quan hơn trong thời buổi kinh tế ngập ngụa suy thoái. Vậy ngân sách nhà nước sẽ lấy đâu ra tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức ‘còn đảng còn mình’ mà có ít nhất 30% trong số đó ăn không ngồi rồi ?
Kết quả thu ngân sách về thực chất chỉ đạt 96,8% dự toán của năm 2017 là một chỉ dấu lớn cho thấy thu ngân sách 2018 nhiều khả năng còn tồi tệ hơn năm 2017 và có thể sẽ sụt tới 5-7% so với dự toán đầu năm 2018, nếu không tính tới phần đè dân thu thuế và "bán mình".
Nỗi lo lắng của Bộ trưởng ‘Bộ bóp cổ’ Đinh Tiến Dũng là hết sức ‘chính đáng’ : ngay vào năm 2018 này, trong khi Bộ Tài chính vẫn chưa thể hình thành khung luật cho thuế VAT vì bị dư luận xã hội lên án và chửi rủa ghê gớm, làm cách nào để đạt chỉ tiêu thu ngân sách mà Bộ Chính trị của ông Nguyễn Phú Trọng đã giao và một quốc hội ‘bù nhìn’ của bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã ‘gật’ ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 25/05/2018
Nửa năm sau những triệu chứng nguội lạnh bất thường tại Hội nghị trung ương 6 vào tháng Mười năm 2017, một lần nữa lại xuất hiện dấu hiệu đổ bệnh của ‘lò ông Trọng’ ở Hội nghị trung ương 7 vào tháng Năm năm 2018.
Nguyễn Phú Trọng và bức thư yêu cầu công khai tài sản.
‘Lò’ lại đổ bệnh
‘Ai đã trót nhúng chàm thì sớm tự giác gột rửa’ và ‘mở đường cho người ta tiến’ là những phát ngôn đượm nét xuôi xị của Tổng bí thư Trọng trong một cuộc tiếp xúc với cử tri Hà Nội sau Hội nghị trung ương 7, cho dù ông Trọng vẫn không quên dùng bổ túc từ ‘lò đã nóng rực’.
‘Nhân văn’ cũng là một từ được ‘Người đốt lò vĩ đại’ - một tụng danh mà Đài Tiếng nói Việt Nam của ủy viên trung ương đảng Nguyễn Thế Kỷ đặc cách dành để tôn cao Nguyễn Phú Trọng - lặp lại một cách đầy chủ ý kể từ lúc được phát ra lần đầu tiên vào trước tết nguyên đán năm 2018.
Sau khi xuất hiện ‘chủ nghĩa nhân văn Nguyễn Phú Trọng’, đã có một luồng dư luận cho rằng thực ra ông Trọng là người thiếu kiên quyết trong chống tham nhũng và phần đa chỉ là giơ cao đánh khẽ, chủ đích nhằm răn đe để giữ đảng, thu hồi tài sản tham nhũng và lấy tiếng ‘Sỹ phu Bắc Hà’ hay ‘Minh quân’ cho cá nhân mình.
Từ quá khứ đến hiện tại
Còn nhớ vào ngày 29/11/2017, đại biểu quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành cuộc tiếp xúc cử tri thường lệ sau kỳ họp thứ 4 của Quốc hội Việt Nam. Tại đây, những khẩu hiệu cũ được ông Trọng tiếp tục hô : "Lò đã nóng lên rồi thì tất cả phải vào cuộc", "Không để các vụ tham nhũng chìm xuồng"…
Khi đó, ông Trọng chưa có biệt danh ‘Người đốt lò vĩ đại’, nhưng đã được vài ba văn sĩ cận thần xưng tụng là "Minh quân" và "Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo".
Thế nhưng ông Trọng đã khiến cho một bộ phận không nhỏ cán bộ lão thành, công chức và người dân vốn còn nặng tâm lý "theo đảng, tin đảng" một lần nữa suýt vỡ tim vì thất vọng.
Bởi triết lý mới nhất khi đó của ông Trọng là : "xử lý là để cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn, mở đường cho người ta tiến, chứ không phải kỷ luật nhiều mới là tốt. Quan trọng là nhắc đừng có nhúng chàm nữa và đã trót nhúng rồi thì phải sửa".
Nếu so sánh "Lò đã đốt lên rồi thì củi tươi đưa vào cũng phải cháy" - một phát ngôn cảm xúc cao độ của ông Trọng vào đầu tháng Tám năm 2017 khi nổ ra vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh "theo cáo buộc của Chính phủ Đức, còn phía Việt Nam thì công bố trên truyền hình "Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về đầu thú", với "Ai đã trót nhúng chàm thì sớm tự giác gột rửa", và "Từ nay bất cứ ai vi phạm kỷ luật sẽ bị xử lý nghiêm" - những phát ngôn của Tổng bí thư Trọng trong bài diễn văn bế mạc Hội nghị 6, cho đến "Quan trọng là nhắc đừng có nhúng chàm nữa và đã trót nhúng rồi thì phải sửa", thì khẩu khí khi đó của ông Trọng đã xuống dốc ghê gớm.
Một ngày sau Hội nghị trung ương 6, trước nhiều bức xúc của cán bộ lãnh thành và nhiều cử tri Hà Nội hỏi tại sao cho đến lúc đó Thanh tra chính phủ vẫn chưa công bố kết luận thanh tra biệt phủ của Phạm Sỹ Quý, giám đốc Sở Tài nguyên môi trường Yên Bá, ông Nguyễn Phú Trọng vẫn cho rằng ‘phải bình tĩnh xem xét toàn diện các mặt để tìm nguyên nhân, khi xử lý thì không phải dập cho người ta không thể ngóc đầu dậy được, Bác Hồ dạy cốt để cán bộ sửa sai, để tiến bộ trưởng thành…’.
Cần đối chiếu với quá khứ gần để nhận ra thực chất hiện tại và tương lai.
Từ sau Hội nghị trung ương 6, nhiều dư luận xã hội đã đặt một dấu hỏi lớn về liệu đã có một "thỏa thuận ngầm" nào đó giữa người đứng đầu đảng cầm quyền với một thế lực chính trị nào đó từ ngay trước hội nghị này, để những vụ tày trời như Võ Kim Cự - cựu bí thư Hà Tĩnh và bị xem là một trong những thủ phạm gây ra nạn xả thải của nhà máy Formosa làm ô nhiểm biển 4 tỉnh miền Trung, Nguyễn Thị Kim Tiến - đương kim bộ trưởng Bộ Y tế và là nhân vật phải chịu trách nhiệm về vụ Công ty Pharma nhập thuốc ung thư giả gây phẫn uất trong dư luận, biệt phủ gây phẫn nộ dư luận của Phạm Sỹ Quý, giám đốc Sở Tài nguyên môi trường Yên Bái và là em ruột Bí thư tỉnh ủy Yên Bái Phạm Thanh Trà… được cho "chìm xuồng"…
Nhưng dù sao tại Hội nghị trung ương 6 vẫn có một ủy viên trung ương là bí thư thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh bị ‘mổ’. Còn Hội nghị trung ương 7 mà trước đó đã xuất thần phát ngôn ‘Ai không chống tham nhũng được thì dẹp sang một bên’ của Tổng bí thư Trọng lại đã kết thúc bằng một con số 0 to tướng : không có bất cứ ủy viên trung ương đảng nào, từ Trương Minh Tuấn - Bộ trưởng thông tin truyền thông với dấu hiệu cố ý làm trái và tham nhũng trong vụ AVG, Tất Thành Cang - Phó bí thư thường trực thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh với dấu hiệu tham nhũng và cố ý làm trái trong vụ Tân Thuận… bị đưa ra kỷ luật.
Nguy cơ chìm xuồng vụ AVG
Ngay sau Hội nghị trung ương 7, vụ ‘Mobifone mua AVG’ đầy hứa hẹn trở thành đại án này đã có nguy cơ chìm xuồng trong việc xử lý các cá nhân sai phạm như Phạm Nhật Vũ, Lê Nam Trà, Nguyễn Bắc Son, Phạm Đình Trọng, Trương Minh Tuấn.
Dư luận đang đặc biệt chú ý trường hợp Bộ trưởng Thông tin và truyền thông Trương Minh Tuấn - nhân vật từng được ông Trọng sủng ái và chỉ định kiêm phó trưởng ban tuyên giáo trung ương vào năm 2016.
Trước Hội nghị trung ương 7, Trương Minh Tuấn có vẻ đã ‘được cho’ xuất hiện trở lại trên cương vị Bộ trưởng Thông tin và truyền thông khi ông ta được chủ trì cuộc họp quản lý báo chí của bộ này cùng vài cuộc họp không quan trọng khác.
Sau Hội nghị trung ương 7, Trương Minh Tuấn lại xuất hiện với vai trò chủ trì một cuộc tọa đàm có tên Tọa đàm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội vì một môi trường mạng lành mạnh tại Việt Nam, trong đó ông Tuấn đánh giá ‘Nhiều bí mật nhà nước bị lộ trên mạng xã hội’ (có thể bao gồm cả những bí mật có liên quan đến Trương Minh Tuấn chăng ?).
Mặc dù sau khi công bố kết luận thanh tra vụ ‘Mobifone mua AVG’, Bộ trưởng Thông tin và truyền thông Trương Minh Tuấn đã ‘đạo diễn’ để AVG trả lại tiền cho Mobifone như một cách ‘khắc phục hậu quả’, nhưng động tác này đã bị nhiều ý kiến cho là ‘chạy tội’.
Nếu Trương Minh Tuấn được cho "hạ cánh an toàn" trong vụ này, ông Trọng sẽ đương nhiên bị dư luận đánh giá rất thiếu công tâm khi bao che cho "phe ta", và chiến dịch ‘đốt lò’ của ông Trọng sẽ chẳng còn có ý nghĩa gì nữa.
Nguy cơ chìm xuồng vụ Thủ Thiêm và đổ vỡ ‘đốt lò’
Ở một vụ việc Thủ Thiêm - có dấu hiệu tham nhũng và cố ý làm trái còn lớn hơn nhiều vụ AVG - đang có dấu hiệu chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh xin trung ương ‘xử lý nội bộ’, còn Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa tổ chức một cuộc họp về vụ Thủ Thiêm với kết luận rất nước đôi và rất yếu ớt, như thể ông Phúc đang cố che chắn cho một nhóm lợi ích nào đó đã ‘ăn đất’ ở cái vùng đất đã chứng kiến không ít oan hồn dân oan phẫn uất này.
Trong kết luận chỉ đạo của mình vào trung tuần tháng Năm năm 2018, Thủ tướng Phúc dường như đã cố tình bỏ qua việc làm rõ tính pháp lý của Quyết định 367 của Thủ tướng Võ Văn Kiệt và một quyết định ‘thay thế’ của Phó chủ tịch chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Đua, trong lúc lập lờ khi chấp nhận 99% diện tích giải tỏa của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh, tức chấp nhận cả phần ít nhất 140 đất giải tỏa lố mà đã đẩy đuổi cưỡng chế hàng chục ngàn người dân khỏi mảnh đất sinh nhai duy nhất của họ.
Ông Phúc cũng hoàn toàn không đề cập một từ nào về sự biến mất vô cùng khó hiểu của tấm bản đồ gốc quy hoạch Thủ Thiêm được phê duyệt vào năm 1996. Ông Phúc cũng chỉ dùng từ ‘sai sót’ đối với trách nhiệm của giới quan chức Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi vụ Thủ Thiêm có quá nhiều dấu hiệu của hành vi ‘cố ý làm trái’ và tham nhũng…
Sau vụ chỉ đạo bắt cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng vào tháng Mười Hai năm 2017 và giáng hai bản án tổng cộng 31 năm tù giam đối với nhân vật này, Nguyễn Phú Trọng đã chính thức ‘leo lên lưng cọp’, chính thức xóa bỏ tiền lệ ủy viên bộ chính trị không bị bắt giam và xử tù, và cũng chính thức vượt qua lằn ranh lo sợ ‘mình mà xử thằng này thì thằng khác sẽ xử mình’.
Hiện tại và tương lai, ông Trọng dù có muốn cũng không còn nhảy khỏi lưng cọp được nữa.
Nhưng lại đang có những biểu hiện cho thấy ông Trọng đang thỏa mãn quá sớm với bản thành tích chống tham nhũng còn quá ít ỏi của ông, để trong khi tương lai trở thành ‘bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’ và ‘lưu danh sử xanh’ của ông còn xa mới đạt tới, Nguyễn Phú Trọng có thể bị hất đổ vào bất kỳ thời điểm nào ông bị đổ bệnh hoặc phải tạm thời rời bỏ quyền lực tối cao, để sau đó bị ‘hồi tố’ - không chỉ bởi những đối thủ chính trị và các thế lực tham nhũng, mà còn có thể do chính những ‘người tâm phúc’ và cận thần mà ông Trọng đã từng tin cậy như loại ‘cộng sản tốt tương đối’ hoặc ‘có nhùng chàm nhưng đã gột rửa’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 23/05/2018