Thông tấn xã Việt Nam vào ngày 6/4 vừa qua đưa tin cho hay tỉnh ven biển miền Trung Khánh Hòa sẽ phát triển Vân Phong thành Khu kinh tế ven biển, tập trung phát triển đa ngành, trở thành động lực kinh tế của tỉnh và khu vực Nam Trung bộ vào năm 2025.
FB Bắc Vân Phong
Hãng tin dẫn nội dung Chương trình hành động về phát triển Khu kinh tế Vân Phong giai đoạn 2021/2025 cho biết, khu kinh tế này dự kiến thu hút vốn đầu tư tối thiểu 150 nghìn tỷ đồng, giải ngân ít nhất 75 nghìn tỷ đồng, đóng góp khoảng Nộp ngân sách Nhà nước địa phương 30 - 40%.
Trước đó, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc vào ngày 24/6/2020 đã có quyết định tạm dừng triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Bắc Vân Phong cho đến khi Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt được Quốc hội thông qua, theo đề nghị của UBND tỉnh Khánh Hòa và các bộ có liên quan.
Trao đổi với RFA tối 7/4, nhà báo độc lập Võ Văn Tạo, đang sinh sống tại Khánh Hòa, cho hay, Vân Phong có thể làm du lịch sinh thái, trung tâm nghỉ mát dưỡng bệnh, mặt nước tốt có thể nuôi trồng thủy sản ; tuy nhiên đến nay vẫn chưa được khai thác tiềm năng :
"Vào khoảng năm 2009, Chính phủ Việt Nam có định làm cảng phi trường quốc tế, đã khởi công rồi và giao cho Vinalines nhưng doanh nghiệp không có tiền nên làm bôi bác, đóng cọc xong rồi bỏ đến giờ.
Nếu để nguyên hoang sơ thì sẽ lãng phí nhưng làm thế nào một cách khéo léo để có thể phát huy được tiềm năng Vịnh Vân Phong nhưng vẫn đảm bảo được an ninh quốc phòng vững chắc là vấn đề đòi hỏi chính phủ Việt Nam hết sức lưu ý.
Chúng ta đều biết những khu vực miền núi, hải đảo biên giới, trong đó có Vân Phong là những khu vực khá nhạy cảm về an ninh quốc phòng".
Theo bản tin Thông tấn xã Việt Nam loan tải ngày 6/4, Khu kinh tế biển Vân Phong sẽ có giá trị công nghiệp - xây dựng chiếm gần 40% tổng sản phẩm trong vùng của tỉnh, đồng thời tạo ra khoảng 10.000 việc làm.
Bên cạnh đó, tỉnh Khánh Hòa sẽ tập trung điều chỉnh quy hoạch chung Khu kinh tế Vân Phong, thực hiện có hiệu quả các chính sách xúc tiến đầu tư, hỗ trợ nhà đầu tư, huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng trọng điểm phục vụ các lĩnh vực chức năng, cải cách thủ tục hành chính, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc gia.
Chính phủ Hà Nội năm 2018 đã chỉ đạo soạn thảo dự án Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đối với Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, gọi tắt là Dự luật đặc khu để trình Quốc hội xem xét.
Khắp cả nước vào mùa hè năm đó đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống Dự luật đặc khu. Nhiều người dân và chuyên gia ở Việt Nam lo ngại điều khoản thuế, chính sách nhập cảnh, và quan trọng hơn hết là việc cho người nước ngoài thuê đất lên đến 99 năm trong dự luật có thể khiến người Trung Quốc vào chiếm đất của Việt Nam, nhất là ở những vị trí địa lý quan trọng là ba vùng đặc khu kể trên.
Dưới sức ép từ phía dư luận, chính phủ Hà Nội quyết định dời lại việc bàn thảo về Dự luật này, đến nay vẫn chưa thông qua.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh vào ngày 15/5/2020 đã tổ chức Lễ công bố Nghị quyết số 102 của Chính phủ về việc thí điểm thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế Vân Đồn trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Đến tháng 1/2021, trong bài phỏng vấn với Thông tấn xã Việt Nam, ông Huỳnh Quang Hưng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc, có nhắc đến nội dung xây dựng thành phố đảo thông qua mô hình ‘Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt’.
Nay thêm việc Vân Phong cũng được nói sẽ phát triển thành Khu kinh tế biển, nhiều ý kiến cho rằng Chính phủ Hà Nội đang dùng biện pháp để lách luật đặc khu bằng cách đưa Vân Phong, Vân Đồn và Phú Quốc thành khu kinh tế.
Không đồng ý với quan điểm vừa nêu, Nhà báo Võ Văn Tạo nhận định :
"Theo tôi nghĩ thì không hoàn toàn như vậy vì Luật Đặc khu kia có nội dung hơi khác một chút.
Cùng là để phát triển kinh tế nhưng mà dự thảo trong Luật Đặc khu rất nguy hiểm. Bây giờ họ không phải đưa vào từng đặc khu, không gọi là đặc khu nữa mà chỉ là khu kinh tế thì nội dung cũng khác, nhất là thời hạn cho thuê đất.
Chắc chắn tôi cho rằng trong chuyện chọn lựa nhà đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam cũng phải lưu ý yếu tố an ninh từ phía Trung Quốc.
Tôi nghĩ nếu làm tốt vẫn có thể được chứ không hoàn toàn là lách chuyện lùm xùm về Luật Đặc khu mấy năm trước".
Từng trao đổi với RFA về vấn đề liên quan, luật sư Đặng Đình Mạnh từ Sài Gòn nói rõ rằng Khu kinh tế là một khu vực dành cho các hoạt động kinh tế, mà nếu doanh nghiệp hoạt động trong đó sẽ được hưởng nhiều quyền lợi ưu đãi hơn so với hoạt động bên ngoài.
Trong khi đó, Đặc khu kinh tế tương tự như khu kinh tế nhưng ưu đãi đặc biệt hơn, như thời gian thuê đất dài hạn hơn, thậm chí có quyền tài phán riêng biệt...
Từ Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng độc lập nêu lên quan điểm của ông :
"Vấn đề không phải là mình gọi là đặc khu kinh tế, khu công nghiệp hoặc trung tâm gì đó, vấn đề không phải tên mà vấn đề là có những đặc quyền gì cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mình sẽ có những chế tài gì, những quy định gì, những ưu đãi gì cho các nhà đầu tư nước ngoài, đó mới là quan trọng".
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nêu ví dụ điển hình về việc một số người đã phản đối Chính phủ về đặc khu Bắc Vân Phong trước đây vì họ cho rằng Chính phủ Hà Nội có ưu đãi quá nhiều cho các công ty Trung Quốc trong đặc khu đó, bao gồm cả việc cho phép đồng Nhân dân tệ lưu hành trong địa bàn. Ông nói tiếp :
"Việc mời gọi nhà đầu tư nước ngoài là quan trọng nhưng để cho phép các nhà đầu tư lưu hành đồng tiền của họ trên lãnh thổ Việt Nam thì nó xâm phạm đến chủ quyền tiền tệ Việt Nam. Điều đó chính tôi cũng không đồng ý".
Thêm vào đó, theo nhà báo Võ Văn Tạo, không chỉ riêng những đặc khu giờ thành ba khu kinh tế mà kể cả những khu khác trong nội địa, thực tế đã chứng minh nhiều lúc Chính phủ Việt Nam có những sơ hở rất khủng khiếp.
"Chẳng hạn cho những doanh nghiệp Trung Quốc thuê rừng thời gian rất dài và người ta phá rừng phòng hộ đầu nguồn, đến lúc báo chí và những người dân quan tâm la làng lên thì nhà nước mới giật mình".
Tuy vậy, Nhà báo Võ Văn Tạo vẫn cho rằng việc thành lập những khu kinh tế là điều nên làm, có chăng :
"Tôi nghĩ cần phải phát triển kinh tế vì đất nước chúng ta không thể nào dậm chân tại chỗ mãi được, nhưng phát triển kinh tế thế nào, trong điều kiện ràng buộc nào đối với đầu tư nước ngoài, lựa những ngành nghề gì, đi theo hướng nào. Đấy là điều quan trọng".
Đồng quan điểm vừa nêu, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho hay ông hoan nghênh những khu kinh tế biển, nhưng phải ở trong chừng mức kiểm soát được.
"Vấn đề là phải có những quy định chặt chẽ để không tạo điều kiện cho những thiệt hại, chẳng hạn như thiệt hại về môi trường. Những khu công nghiệp như thế thường có tác hại về môi trường. Thứ hai nữa là các nhà đầu tư có đặc quyền gì".
Theo Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, việc thành lập những khu kinh tế biển là điều tốt cho sự phát triển của vùng biển vì Việt Nam có hàng nghìn cây số bờ biển, nếu có những khu kinh tế ven biển sẽ rất thuận lợi cho vấn đề giao thông hàng hải vì tiếp cận mặt biển, tận dụng, khai thác được biển, cũng là nơi hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang vào ngày 2/4 vừa qua đã tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập khu kinh tế cửa khẩu Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, sau 12 năm thực hiện các chính sách thí điểm.
Đây là khu kinh tế cửa khẩu duy nhất của tỉnh Kiên Giang, có diện tích 1.600 ha và được nói đã thu hút được 35 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 4.400 tỷ đồng, với hơn 3.000 cơ sở sản xuất, kinh doanh, hơn 80 doanh nghiệp tham gia xuất – nhập khẩu.
Nguồn : RFA, 08/04/2021
Hình thành hai khu kinh tế Phú Quốc và Vân Đồn, có phải dự luật đặc khu được ‘lách’ thành công ?
RFA, 14/01/2021
Trong văn bản của hãng Thông tấn xã Việt Nam phỏng vấn ông Huỳnh Quang Hưng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc, với tựa đề "Tương lai tươi sáng phía trước cho thành phố Phú Quốc", có nhắc đến tuyên bố của người đứng đầu thành phố về nội dung xây dựng thành phố đảo thông qua mô hình ‘Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt’.
Khu Vân Đồn - Thanh niên
Cụ thể, khi trả lời câu hỏi của phóng viên về những ưu tiên đầu tư và phát triển của Thành phố Phú Quốc, ông Huỳnh Quang Hưng cho hay Thành phố Phú Quốc sẽ tập trung các nguồn lực phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững theo mô hình đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Bên cạnh đó, ông cũng nói thêm thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hóa, đồng thời ưu đãi cho các nhà đầu tư thực hiện dự án, sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố.
Không riêng Phú Quốc, trước đó, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh vào ngày 15/5/2020 tổ chức Lễ công bố Nghị quyết số 102 của Chính phủ về việc thí điểm thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế Vân Đồn trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Theo đó, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh vào đầu tháng 6/2019 đã ban hành kế hoạch muốn Vân Đồn trở thành khu kinh tế đặc thù với tổng nhu cầu vốn cần huy động để đầu tư giai đoạn 2019 – 2030 theo quy hoạch là 171.550 tỷ đồng.
Đáng quan tâm, Vân Đồn ở Quảng Ninh, Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, và Bắc Vân Phong ở Khánh Hòa là 3 địa phương nằm trong danh sách đặc khu trong dự án Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, gọi tắt là Dự luật đặc khu được chính phủ Hà Nội soạn thảo vào năm 2018.
Dự luật này gặp phải nhiều phản đối của người dân cả nước vào tháng 6/2018. Nguyên nhân được nói do nhiều nhà quan sát kinh tế, chính trị và cả những người dân lúc bấy giờ lo ngại nếu Dự luật đặc khu được thông qua với những đặc quyền về thuế, chính sách nhập cảnh, và đặc biệt là thời hạn thuê đất lên đến 99 năm, có thể Việt Nam sẽ mất cả 3 đặc khu này vào tay Trung Quốc.
Dưới sức ép từ phía dư luận, cuối năm đó, chính phủ Hà Nội quyết định dời lại việc bàn thảo về Dự luật này, tới nay vẫn chưa thông qua.
Vì vậy, khi hai khu kinh tế Phú Quốc và Vân Đồn được hình thành, nhiều ý kiến cho rằng liệu đây có phải là biện pháp mà lãnh đạo Việt Nam ‘lách’ dự luật đặc khu thành công?
Trao đổi với RFA tối 14/1, Nhà báo Nguyễn Vũ Bình từ Hà Nội cho rằng nếu để xác định nhà cầm quyền Việt Nam có lách luật hay không thì cần phải so sánh những quy chế của đặc khu kinh tế trước đây và bây giờ xem có những khác biệt nào không và những khác biệt đó có phải là vấn đề cốt lõi quan trọng không, lúc đó mới có thể đánh giá. Tuy nhiên, ông nêu lên thực tế :
"Cách thức của Đảng cộng sản hay làm là khi đối đầu trực diện không được người ta sẽ đi đường vòng, khi mục tiêu chính không đạt được thì họ thường lách, họ tìm những cách thức giảm nhẹ đi về hình thức nhưng mục tiêu, mục đích ban đầu họ vẫn giữ".
Biểu tình ở Thành phố Hồ Chí Minh phản đối luật An ninh mạng và dự luật Đặc Khu tháng 6/2018AFP
Đồng quan điểm nêu trên, ông Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, nguyên vụ truởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân Vận Trung ương nhìn nhận :
"Họ không thông qua đặc khu được nhưng dưới những tên gọi khác thì họ âm thầm làm. Đấy là cái mẹo của họ, họ cứ biến Phú Quốc thành thành phố, rồi Vân Đồn thì không gọi là đặc khu, họ vẫn cứ tiếp tục thực hiện".
Giải thích điểm khác nhau giữa khu kinh tế và đặc khu kinh tế, Luật sư Đặng Đình Mạnh ở Sài Gòn cho hay khu kinh tế là một khu vực dành cho các hoạt động kinh tế, mà nếu doanh nghiệp hoạt động trong đó sẽ được hưởng nhiều quyền lợi ưu đãi hơn so với hoạt động bên ngoài.
Trong khi đó, đặc khu kinh tế tương tự như khu kinh tế, nhưng ưu đãi đặc biệt hơn, như thời gian thuê đất dài hạn hơn, thậm chí, có quyền tài phán riêng biệt...
Luật sư Đặng Đình Mạnh nói thêm :
"Thật ra sau thời điểm Luật Đặc khu tạm gác lại sau phản ứng của người dân nhiều giới, thời điểm đó người ta đã biết ở Vân Đồn thực tế là đã sử dụng rất nhiều, thậm chí nhiều ban bệ đã được sắp đặt sẵn, nên việc Quốc hội hoãn như vậy thì chắc chắn ảnh hưởng đến họ rất nhiều. Vừa rồi ta thấy đưa Vân Đồn ra để làm thí điểm như một kiểu đặc khu là cách mà chính quyền cứu Vân Đồn, tức cứu một sự thật đã lỡ làm trước, thực ra việc này đúng ra là không nên vì giống như cầm đèn chạy trước ô tô".
Chính phủ Hà Nội vào ngày 17/2/2020 đã ban hành quyết định số 266 được Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc ký duyệt để Vân Đồn được chính thức quy hoạch đến năm 2040 thành khu kinh tế biển đa ngành, đa lĩnh vực; là cửa ngõ giao thương quốc tế.
Theo ông Nguyễn Khắc Mai, vấn đề đáng được quan tâm là tổ chức những khu vực đặc khu kinh tế, tức những vùng kinh tế cần thiết đầu tư là việc nước nào cũng phải làm, lấy những vị trí đắc địa nhất để tiến hành làm. Ông tiếp lời:
"Phú Quốc phải phát triển vì nó rất đắc địa, một hòn đảo thiên nhiên đẹp, bãi biển phong phú, tổ chức ở đấy đơn vị kinh tế văn minh, tiến bộ, làm cho đời sống người dân có thu nhập cao, điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài lành mạnh thì đấy là chuyện rất cần thiết, không nên bài bác. Vấn đề là phải xem thử họ nhân danh nghĩa làm như thế nhưng họ nghiên cứu đến đâu, họ bất chấp môi trường bị hủy hoại đến đâu, bất chấp đầu tư tiêu cực đến đâu thì mình phải tìm cách kiểm soát, theo dõi để ngăn ngừa".
Vẫn theo ông Nguyễn Khắc Mai, những khu vực kinh tế văn minh, tiến bộ thì phải đi đôi với việc phát huy quyền kiểm soát, giám sát của nhân dân. Ông cho rằng đây là vấn đề lớn phải đặt ra.
"Chỉ có điều là chính sách, chủ trương có nhất quán, minh bạch không. Thứ hai nữa là nó có thật sự ngăn ngừa những yếu tố ngoại lai tiêu cực, ví dụ như để cho sự lũng đoạn của Tàu Cộng xâm nhập vào thì rất nguy hiểm".
Hiện tại, trong danh sách 3 đặc khu được nêu ra trong dự thảo Luật đặc khu, chỉ riêng Bắc Vân Phong ở Khánh Hòa vẫn chưa được thay đổi thành ‘khu kinh tế’ như Phú Quốc và Vân Đồn.
Truyền thông Việt Nam ngày 24/6/2020 đăng tin cho biết Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc ra quyết định tạm dừng triển khai lập Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Bắc Vân Phong cho đến khi Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt được Quốc hội thông qua, theo đề nghị của Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa và các bộ có liên quan.
Nguồn : RFA, 14/01/2021
***********************
Thành lập Phòng An ninh mạng tại Thành phố Hồ Chí Minh để ‘bảo vệ tuyệt đối an toàn’ cho Đại hội 13
VOA, 13/01/2021
Bộ Công an Việt Nam vừa có quyết định thành lập Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (PA05) tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữa bối cảnh an ninh trên cả nước đang được siết chặt để chuẩn bị cho kỳ đại hội 13 của Đảng cộng sản.
Nhiệm vụ trước mắt của Phòng PA05 là phối hợp với các đơn vị của Công an Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ an toàn cho Đại hội Đảng cộng sản lần thứ 13.
Tại buổi lễ ra mắt đơn vị an ninh mới hôm 12/1, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong được báo chí dẫn lời nói việc thành lập Phòng An ninh mạng là "một trong những yếu tố trụ cột" để xây dựng thành phố, vì đây là một đô thị đặc biệt, là địa bàn tập trung các hoạt động chống phá, tấn công mạng của tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Ngoài ra, việc thành lập đơn vị an ninh mới tại Thành phố Hồ Chí Minh vào thời điểm này còn được cho là "thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng".
Theo lịch trình dự kiến, kỳ đại hội để bầu ra ban lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam sẽ diễn ra từ ngày 25/1 – 2/2. An ninh đang được siết chặt vào thời điểm này, với nhiều nhà hoạt động, những người bất đồng chính kiến bị bắt giam và tuyên các án tù nặng nề gần đây.
Tại hội nghị tổng kết công tác năm 2020 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2021 diễn ra vào tháng trước, Cục An ninh mạng, thuộc Bộ Công an Việt Nam, cho biết đã có hơn 10.000 bài viết và video bị cho là "xấu độc" bị an ninh mạng vô hiệu hóa. Cơ quan này cũng cho biết đã ngăn chặn truy cập gần 3.400 trang mạng đặt máy chủ tại nước ngoài bị cáo buộc đăng tải "thông tin xấu độc".
Tại buổi lễ thành lập đơn vị mới, Thiếu tướng Nguyễn Minh Chính, Cục trưởng Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05 - Bộ Công an) cũng cho biết trước mắt, nhiệm vụ của Phòng PA05 là phối hợp với các đơn vị của Công an Thành phố Hồ Chí Minh để "bảo vệ tuyệt đối an toàn" cho Đại hội 13.
**********************
Cước phí xuất khẩu tăng cao kỷ lục bởi Covid-19 gây khó cho doanh nghiệp Việt
RFA, 14/01/2021
Giá cước vận chuyển container tăng vọt 25%
Theo thông tin từ Logistics Marketplace (Phaata.com), vào ngày 13/1, ghi nhận giá cước vận chuyển container tăng vọt 25% trên các tuyến Châu Á đến Bắc Âu và Địa Trung Hải trong suốt một tuần và đang ở mức gấp 3 lần so với thời điểm cuối tháng 10, theo chỉ số Freightos Baltic Index (FBX).
Các container hàng hóa tại cảng Đà Nẵng. Hình chụp ngày 16/6/2017. AFP
Logistics Marketplace, trước đó vào ngày 4/1, cho biết giá cước tăng cao vì tình trạng thiếu container tiếp tục kéo dài.
Truyền thông Nhà nước Việt Nam, vào ngày 6/1 ghi nhận phản ảnh từ một số doanh nghiệp xuất khẩu do thiếu container rỗng nên giá cước vận chuyển hàng hóa bị nhảy vọt từ 1.500 USD lên 10.000 USD/container 40 feet.
Tuổi Trẻ Online, vào ngày 26/12/2020, đăng tải thông tin nhiều doanh nghiệp phải giảm từ 50 đến 75% lượng hàng hóa xuất khẩu do thiếu container. Trong đó, xuất khẩu nông sản Việt Nam bị giảm hơn một nửa.
Giám đốc (giấu tên vì lý do an toàn) một công ty kinh doanh nông sản hữu cơ, tại Thành phố Hồ Chí Minh, vào tối ngày 14/1 lên tiếng với RFA liên quan vấn đề này.
"Các doanh nghiệp than khó nhiều lắm vì chi phí logistics bị tăng cao vì do các hãng tàu quyết định. Nói chung vì nguồn thu bị thiếu nên phải tăng giá thêm. Bây giờ các hãng vận tải trong nước cuối năm cũng tăng giá, với lý do là vào dịp Tết Nguyên đán. Các chuyến vận tải cũng bấy nhiêu nhưng vì không đủ nguồn thu nên họ có quyền tăng giá. Nói chung, doanh nghiệp cũng thương lượng lại nhưng mấy doanh nghiệp lớn còn được giá tốt chứ các công ty nhỏ thì khó".
Một tàu chở hàng neo đậu tại cảng ở thành phố San Lorenzo, Argentina ngày 22/12/2020, vì công nhân làm việc ở cảng đình công đòi tăng lương từ ngày 9/12/2020. AFP
Doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn
Cục Hàng hải Việt Nam, thuộc Bộ Giao thông-Vận tải và Cục Xuất nhập khẩu, thuộc Bộ Công thương vào ngày 12/1 tổ chức cuộc họp về việc tăng giá vận tải hàng hóa container bằng đường biển.
Tại cuộc họp vừa nêu, Tổng Thư ký Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), bà Huỳnh Thị Mỹ, cho biết doanh nghiệp ngành nhựa bị ảnh hưởng nghiêm trọng do cước vận tải biển tăng gấp 3-4 lần.
Bà Huỳnh Thị Mỹ trưng dẫn trường hợp điển hình một doanh nghiệp Ấn Độ trong khu công nghiệp Việt Nam-Singapore, chuyên sản xuất sợi xuất khẩu, phải tuyên bố đóng cửa nhà máy trong tháng 12/2020. Nguyên nhân được nói là do giá cước vận chuyển tàu biển quá cao, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và chi phí sản xuất tại Việt Nam không còn thấp như trước đây.
Các doanh nghiệp trong những ngành thủy sản, nhựa và gỗ, trong cuộc họp hôm 12/1, cũng cho rằng trong ba tháng vừa qua, giá thuê container rỗng tăng liên tục và đội giá quá cao là mức tăng bất hợp lý và các hãng tàu cần có sự minh bạch thông tin về giá, cũng như mức tăng sao cho phù hợp hơn.
Đài RFA, vào tối ngày 14/1, trao đổi với một nhân viên kinh doanh của Công ty Cổ phần Gỗ Đức Thành, trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh, và được cho biết công ty này bị gặp khó khăn vì tình trạng thiếu container. Nhân viên ẩn danh trình bày :
"Vấn đề này không chỉ xảy ra đối với Đức Thành mà các công ty khác ở Việt Nam, theo tôi biết, đã được đề xuất báo cáo với Thủ tướng về vấn đề thiếu hụt container để xuất khẩu. hệ lụy là giá container bị tăng lên đột biến. Công ty Đức Thành thì giá container bị tăng lên khoảng 2-3 lần, nhưng theo tin tức trên báo chí thì có một số doanh nghiệp phải trả phí container gấp 10 lần. Đó là tình hình khó khăn trong Quý III/2020".
Giải pháp
Trong cuộc họp do Cục Hàng hải Việt Nam và Cục Xuất nhập khẩu tổ chức vào ngày 12/1, các hãng tàu lên tiếng giải thích do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến cho việc giải phóng hàng và quay vòng container rỗng bị kéo dài.
Đại diện các hãng tàu cho biết thêm vào đó là lượng hàng hóa xuất đi Châu Âu và Mỹ tăng đột biến dẫn đến thiếu container rỗng đóng hàng.
Các hãng tàu khẳng định không cắt giảm chuyến đi từ Việt Nam, thậm chí còn tăng chuyến nhưng do lượng container bị thiếu hụt trầm trọng nên dẫn đến tình trạng giá cước bị tăng cao như hiện nay.
Tình hình thiếu hụt container được các hãng tàu dự báo có thể kéo dài đến hết Quý I/2021, thậm chí đến Quý II nếu tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp trên toàn cầu.
Đài RFA liên lạc được với nhân viên phụ trách vận chuyển hàng hóa thuộc Singapore Airlines, văn phòng tại Việt Nam và được cho biết trong năm 2020, thậm chí đến ngay cả hiện tại thì công ty vận chuyển hàng hóa đường biển lẫn đường hàng không (seafreight, airfreight) đều đối diện với khó khăn về năng lực vận hành bị hạn chế rất nhiều bởi dịch Covid-19.
Nhân viên đại diện của Singapore Airlines xác nhận các hãng hàng không đều đang chịu lỗ nặng và phải hoạt động cầm chừng trong khi công ty vận chuyển đường biển gặp ách tắc do nhu cầu đi đến Châu Âu và Mỹ tăng rất cao mà các hãng tàu lại không có đủ container cho khách hàng. Vì vậy, tình trạng thiếu container đã đẩy giá cước lên cao, tăng vọt đến 7-8 lần.
Nhân viên ẩn danh này cho RFA biết thêm rằng các hiệp hội vận tải đang kêu gọi chính phủ hỗ trợ vấn đề giá cước và nguồn cung container. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có kết quả nào.
RFA cũng ghi nhận các hãng tàu, tại cuộc họp ngày 12/1, đã đề xuất với các cơ quan chức năng của Việt Nam xem xét giải quyết tình trạng hàng ngàn container vô chủ ở cảng để "lấy nguồn" container rỗng cho xuất khẩu.
Ông Hoàng Hồng Giang, Phó Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, trong cuộc họp ngày 12/1, phản hồi rằng đề xuất phương án của các hãng tàu như giải tỏa container tồn đọng ở cảng sẽ được cân nhắc phù hợp.
Ông Hoàng Hồng Giang cho rằng giá cước thuê container rỗng đóng hàng tăng là do cung cầu của thị trường. Thế nhưng, Cục Hàng hải Việt Nam yêu cầu các hãng tàu cần thực hiện minh bạch giá.
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, ông Trần Thanh Hải, yêu cầu các hãng tàu cần minh bạch giá cước, chia sẻ chi phí với chủ hàng để tránh tăng giá quá cao. Ông Trần Thanh Hải cho biết Bộ Công thương và Bộ Giao thông-Vận tải sẽ báo cáo lên Thủ tướng vấn đề này để đảm bảo quyền lợi hài hòa giữa các bên.
Trong khi tình trạng doanh nghiệp xuất khẩu Việt phải trả chi phí container tăng kỷ lục và giải pháp cho tình trạng này chưa biết ngã ngũ về đâu thì doanh nghiệp chỉ có thể đối phó bằng cách, như chia sẻ của nhân viên Công ty Cổ phần Gỗ Đức Thành :
"Công ty Đức Thành đã thông báo đến khách hàng về tình hình này để cho họ chuẩn bị cũng như dự phòng các trường hợp thiếu hụt container và kế hoạch xuất khẩu của Đức Thành cũng bị ảnh hưởng".
Truyền thông Nhà nước Việt Nam ghi nhận nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt bị rơi vào hoàn cảnh không thể ký hợp đồng mới, vì lo ngại tình trạng cước phí vận chuyển tăng đột biến chưa thể kiểm soát được trong thời gian ít nhất nửa đầu năm 2021.
********************
Hải Dương phát hiện đường dây nhập lậu hàng hóa từ Trung Quốc về Hà Nội số lượng cực lớn
RFA, 14/01/2021
Công an tỉnh Hải Dương ngày 14/1 thông báo phát hiện một đường dây gồm 14 xe container vận chuyển hàng nhập lậu từ Trung Quốc về thành phố Hà Nội với số lượng hơn 300 tấn hàng hóa nhập lậu.
Các xe container bị giữ và kiểm tra. NLĐ/ RFA Edited
Truyền thông nhà nước Việt Nam dẫn lời Đại tá Lê Ngọc Châu, Giám đốc Công an tỉnh Hải Dương, cho biết đường dây vừa nêu lợi dụng việc nhập khẩu hàng hóa chính ngạch với số lượng lớn từ Trung Quốc qua cửa khẩu Hoành Mô, huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh để trà trộn hàng lậu đưa về Hà Nội.
Ông Lê Ngọc Châu cho hay, sau khi xác định được đường đi của các chuyến hàng thông qua 14 xe container di chuyển qua đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Cảnh sát Kinh tế đã tiến hành kiểm tra phát hiện lượng hàng hóa nhập lậu do Trung Quốc sản xuất gồm giầy dép, quần áo và nhiều hàng tiêu dùng khác…
Theo Công an tỉnh Hải Dương, đây là vụ vận chuyển hàng lậu lớn nhất từ trước đến nay qua tỉnh này. Hiện đoàn xe được đưa về thành phố Hải Dương để phân loại, kiểm đếm hàng hoá, dự kiến diễn ra trong 10 ngày.
Trong cùng ngày 14 tháng 1, ở phía nam, Ban Quản lý An toàn Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành kiểm tra đột xuất cơ sở kinh doanh thực phẩm tại phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân. Qua kiểm tra, ban này phát hiện hơn 5.590 kg thịt gia súc, gia cầm, thủy sản và các phụ phẩm động vật gồm 4.400 kg lá lách bò, 760 kg trứng gà non, hơn 340 kg thịt heo ba chỉ, 42 kg sụn gà, 50 kg cá thác lác không có giấy tờ và không xuất trình được hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ của lô hàng trên.
Chủ cơ sở này cho biết, lô hàng được thu mua từ các tỉnh thành và từ nhiều nguồn khác nhau nên không có hóa đơn, chứng từ. Ngoài việc phải tiêu hủy lô hàng vì không rõ nguồn gốc, dự kiến còn bị xử phạt với số tiền khoảng 90 triệu đồng.
Có phải Chính phủ dùng Nghị quyết để thay Luật đặc khu ?
Diễm Thi, RFA, 28/05/2020
Hôm 25/5/2020, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc ký nghị quyết số 80/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/7/2020, cho phép người nước ngoài được miễn thị thực nhập cảnh vào khu kinh tế ven biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Nghị quyết số 80/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/7/2020, cho phép người nước ngoài được miễn thị thực nhập cảnh vào khu kinh tế ven biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
Nghị quyết này đặc biệt căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam ngày 25/11/2019.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang A cho rằng không có Luật đặc khu thì ông Thủ tướng dùng Nghị quyết để thực hiện ý tưởng luật đặc khu trước đây :
"Tôi nghĩ đây là việc thực hiện Luật đặc khu mà vì sự phản đối của người dân nên không thành. Bây giờ họ tìm cách lách, tức không còn là đặc khu nữa mà là khu kinh tế bình thường. Ở Vân Đồn họ cũng lập ban quản lý, Phú Quốc thì miễn thị thực cho người nước ngoài. Tôi nghĩ chủ yếu vẫn là người Trung Quốc, cũng có thể có một số người khác trong khu vực và một số ít khách phương Tây.
Không có Luật Đặc khu thì ông Thủ tướng dùng Nghị quyết để thực hiện những ý định cũ của ông ấy, và thực sự đấy là điều khá nhất quán của chính phủ.
Ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư hồi xưa biện minh rằng không có cái nào nói đến Trung Quốc cả, nhưng trong cái dự luật đặc khu kinh tế Vân Đồn thì nêu rằng người nước ngoài mà có cùng biên giới với Quảng Ninh. Như vậy tức là thực sự họ tìm cách lắt léo thôi".
So với khu kinh tế, đặc khu kinh tế sẽ được ưu đãi nhiều hơn về các loại thuế suất như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế tiêu thụ đặc biệt. Mức thuế thu nhập cá nhân tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao trong nước chỉ được giảm 50%, nhưng tại đặc khu dự kiến sẽ được miễn hoàn toàn trong 5 năm đầu.
Khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong hay Phú Quốc ngay từ đầu có tên gọi là các đặc khu kinh tế. Từ năm 2017, Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam đã có kế hoạch xây dựng ba đề án thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt gắn với ba đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc.
Đến năm 2018, Chính phủ Hà Nội chỉ đạo soạn thảo dự án Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đối với Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, còn gọi là Dự luật đặc khu để trình Quốc hội xem xét. Nhiều nhà quan sát kinh tế, chính trị và người dân lo ngại nếu Dự luật đặc khu được thông qua với những đặc quyền về thuế, chính sách nhập cảnh, và đặc biệt là thời hạn thuê đất lên đến 99 năm sẽ mất cả 3 đặc khu này vào tay Trung Quốc.
Anh Phạm Minh Vũ, một người đấu tranh bằng những bài viết trên mạng xã hội, từng bị tù với tội danh bị áp là "Lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích Nhà nước" chia sẻ với RFA qua ứng dụng facebook messenger về Nghị quyết 80/NĐ-CP :
"Mặc dầu luật hoá, nhưng ai cũng thấy một điều là cụm từ ‘người nước ngoài’ ở đây không ai khác chính là dành cho người Trung Quốc. Người Trung Quốc đã mua đất Việt Nam núp dưới bóng doanh nghiệp hay người Việt gốc Hoa làm dấy lên lo ngại về an ninh quốc gia. Rõ ràng đây là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
Vừa lập khu kinh tế Vân Đồn có hệ thống hành chính, con dấu, lại miễn thị thực thì rõ ràng dọn đường cho "đại bàng" đến lót tổ như ông Phúc nói hôm vừa rồi. Khổ ở chỗ đại bàng ở đây không ai khác là Trung Quốc".
Tháng 8/2014, tại cuộc làm việc với lãnh đạo tỉnh ủy Kiên Giang và huyện Phú Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết đề án xây dựng đặc khu hành chính - kinh tế Phú Quốc là vấn đề Bộ Chính trị rất quan tâm bởi đây là mô hình mới, ngay cả các nước trên thế giới cũng chỉ có đặc khu hành chính hoặc đặc khu kinh tế chứ chưa có mô hình đặc khu hành chính - kinh tế.
Đến tháng 11/2016, Chính phủ đã thống nhất nguyên tắc xây dựng mô hình ba đặc khu kinh tế gồm : Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang). Mỗi đặc khu được lựa chọn phát triển thế mạnh riêng có, nhằm khai thác tối đa tiềm năng của nó.
Có kế hoạch xây dựng đặc khu kinh tế thì phải có Luật Đặc khu. Luật Đặc khu là tên gọi vắn tắt của Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc. Dự luật này đã vấp phải phản đối của người dân từ khi có kế hoạch trình Quốc hội vào tháng 6/2018.
Theo dư luận trên mạng xã hội cũng như những người mà RFA trò chuyện, hầu hết họ đều cho rằng Nghị quyết 80 của Chính phủ là một hình thức lách luật.
Trung tá quân đội Đinh Đức Long phân tích hai khía cạnh của nghị quyết này :
"Theo tôi nghĩ, chuyện người nước này qua nước kia không cần thị thực không có gì mới cả. Các nước trong khối Schengen hay 10 nước trong khối ASEAN cũng đi lại tự do không cần thị thực và có thể cư trú một tháng. Cái quan trọng là chính quyền Việt Nam có kiểm soát được họ đến với mục đích gì hay không ; có lợi hay hại cho đất nước ?
Nếu vào được Phú Quốc thì họ vào những nơi khác theo đường biển, đường bộ có quản lý được không ?
Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là ngày 10/6/2018, khi Quốc hội dự kiến thông qua Luật đặc khu, người dân biểu tình phản đối và dự luật phải bỏ ra khỏi chương trình của Quốc hội. Đây liệu có phải là cách lách luật, biến Luật đặc khu không được thông qua trở thành nghị quyết của chính phủ về khu kinh tế ven biển ? Giữa đặc khu và khu kinh tế ven biển có gì khác nhau hay là chỉ thay tên để lách luật ? Đó là cái cần làm rõ".
Vào các ngày 9, 10 và 11/6/2018, một đợt biểu tình với đông đảo người dân tham gia nổ ra tại nhiều tỉnh, thành của Việt Nam với mục đích phản đối hai dự luật đặc khu và an ninh mạng.
Ngày 9/6/2018, Văn phòng Chính phủ bất ngờ ra thông báo quyết định lùi Dự thảo Luật Đặc khu đến kỳ họp kế tiếp vào tháng 10. Đến ngày 11/6, Quốc hội lại bỏ phiếu lùi thời gian xem xét, thông qua dự luật này.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 28/05/2020
*******************
Lãnh đạo Kiên Giang sẽ bị xử lý thế nào khi phá tan đảo ngọc Phú Quốc ?
RFA, 28/05/2020
Giới chức lãnh đạo được nêu tên
Truyền thông trong nước cho biết UBND tỉnh Kiên Giang, vào ngày 15/5, gửi công văn hỏa tốc đến các cơ quan ban ngành trong tỉnh yêu cầu thực hiện theo kết luận của Thanh tra Chính phủ liên quan đến sai phạm đất đai, tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường ở tỉnh.
Những khu phân lô, tách thửa trái quy định ở khu Ba Trại, xã Cửa Dương, huyện Phú Quốc. Hình chụp tháng 4/2018. Courtesy : vov.vn
Trước đó khoảng 10 ngày, Thanh tra Chính phủ công bố kết luận thanh tra với xác định UBND tỉnh Kiên Giang, UBND các huyện, các sở, ngành đã vi phạm trong công tác quản lý và sử dụng đất đai, công tác quản lý nhà nước về khoáng sản, môi trường giai đoạn 2011-2017. Đặc biệt những sai phạm nghiêm trọng tại huyện đảo Phú Quốc là UBND huyện và UBND các xã, thị trấn trực thuộc đã buông lỏng quản lý về đất đai, về trật tự xây dựng đô thị, dẫn đến tình trạng xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp nhằm mục đích phân lô, tách thửa đất nông nghiệp với diện tích nhỏ để chuyển nhượng. Song song đó, còn cấp giấy quyền sử dụng đất chồng lấn với diện tích đất được chứng nhận cho Vườn Quốc gia sử dụng.
Trong kết luận thanh tra, Thanh tra Chính phủ nêu rõ Chính quyền tỉnh Kiên Giang thời kỳ 2011-2017 chịu trách nhiệm về những thiếu sót và sai phạm nêu trên. Đồng thời, làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân sai phạm.
Thanh tra Chính phủ còn yêu cầu các cơ quan hành chính của tỉnh Kiên Giang bao gồm UBND tỉnh, Sở Tài chính tỉnh, Cục thuế tỉnh phải truy thu về cho ngân sách nhà nước tổng cộng 334 tỷ đồng.
Báo mạng Tiền Phong Online vào ngày 27/5, dẫn lời một cán bộ lão thành của tỉnh Kiên Giang cho biết theo như yêu cầu của Thanh tra Chính phủ thì lãnh đạo giai đoạn 2011-2017 là các chủ tịch và phó chủ tịch UBND tỉnh trong nhiệm kỳ vừa nêu phải bị kiểm điểm.
Vị cán bộ lão thành (không nêu tên) đưa ra danh tính của các cán bộ lãnh đạo giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang mà ông cho là phải chịu trách nhiệm bao gồm cựu Chủ tịch-ông Nguyễn Thanh Sơn (từng giữ chức Bí thư Huyện ủy Phú Quốc và hiện là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương), cựu Chủ tịch-Thiếu tướng Công an Lê Văn Thi, cựu Chủ tịch-ông Phạm Vũ Hồng (từng giữ chức Chủ tịch huyện Phú Quốc).
Các Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang thời kỳ 2011-2017 lần lượt bao gồm : ông Nguyễn Thanh Nghị (nay là bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang), ông Mai Anh Nhịn, ông Lê Khắc Ghi, bà Lê Thị Minh Phụng…
Bên cạnh đó, một số cán bộ lãnh đạo thuộc cơ quan Chính quyền tỉnh Kiên Giang cũng được nêu tên.
Tại cuộc họp Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về Phòng chống tham nhũng, diễn ra vào ngày 26/5, Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh công tác phòng, chống tham nhũng vẫn phải làm rất quyết liệt và mạnh mẽ. Ông Trọng cũng khẳng định "không chỉ cốt xử nhiều, xử nặng mới là tốt…".
Trước tuyên bố vừa nêu của người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam, Đài RFA nêu câu hỏi với Giáo sư Đặng Hùng Võ về trường hợp giới chức Chính quyền tỉnh Kiên Giang sẽ bị xử lý như thế nào liên quan các sai phạm đất đai nghiêm trọng theo kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ. Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên-Môi trường, Giáo sư Đặng Hùng Võ, vào tối hôm 28/5 cho biết quan điểm của ông :
"Tôi luôn luôn hy vọng đã là xử lý thì phải đảm bảo nguyên tắc công bằng và đấy là điểm rất quan trọng trong việc phát triển xã hội. Phát triển xã hội mà không có công bằng thì sẽ không thể phát triển được. Lãnh đạo của Nhà nước Việt Nam vẫn luôn có một khẩu hiệu là ‘không có vùng cấm trong xử lý’. Do đó, tôi hy vọng là mọi việc sẽ được xử lý một cách công bằng. Tức là, ai, khuyết điểm đến đâu, thậm chí tội trạng đến đâu thì xử lý ở mức về phía đảng thôi hay tiếp tục liên quan đến hình phạt hành chính, hình sự".
Nhà lấn rừng trên các đảo nhỏ quanh Phú Quốc. Courtesy : Facebook Tùng Thiện
Vào hôm 21/5, cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng-Đô đốc Nguyễn Văn Hiến vừa bị tuyên 4 năm tù giam, liên quan vụ đại án tham nhũng đất Quốc phòng. Nhà báo Võ Văn Tạo đưa ra nhận xét với RFA rằng bản án này chỉ là "giơ cao đánh khẽ" đối với viên chức lãnh đạo cao cấp của Việt Nam. Chúng tôi cũng nêu vấn đề với Nhà báo Võ Văn Tạo về giới chức lãnh đạo tỉnh Kiên Giang bị xử lý ra sao ? Theo suy luận cá nhân của ông liệu rằng cũng có thể sẽ "nương tay" tương tự như trường hợp của ông Hiến hay không ? Nhà báo Võ Văn Tạo chia sẻ ý kiến như sau :
"Về trường hợp ở Phú Quốc sẽ xử lý ra sao thì rất là khó đoán. Bởi vì nhìn chung đối với quan chức thì bao giờ cũng nhẹ tay hơn đối với dân thường. Nói thẳng là như vậy. Mấy thanh niên nhà quê ăn cắp mấy con vịt bị đi tù 7 năm. Quan chức làm thất thoát hàng chục ngàn tỷ cũng đi tù 7 năm. Chuyện đấy là quy luật chung. Thế còn riêng từng vụ việc một có thể do quan điểm hay do phe nhóm như thế nào đó thì chúng tôi không thật rõ, nhưng cũng có những trường hợp tương đối là nghiêm túc và hình phạt xứng đáng với tội lỗi. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp chỉ kỷ luật hành chính thôi, chứ không bị hình sự. Ngay ở Khánh Hòa nơi tôi ở cũng xảy ra sai phạm quản lý đất đai, sơ sơ tính ra cũng 15-16 nghìn tỷ. Ủy ban Kiểm tra Tung ương cũng làm việc rồi. Thế nhưng cũng chưa thấy hình thức kỷ luật nào cho ra hồn. Chỉ mới kỷ luật trong Đảng, cách chức nguyên bí thư. Cách chức kiểu đó thì không tác dụng gì".
Chúng tôi cũng đề cập đến nhân vật đương kim Bí thư tỉnh Kiên Giang, ông Nguyễn Thanh Nghị là con trai của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người mà các lãnh đạo đảng trong một lần họp kỷ luật chỉ gọi là "đồng chí X".
Liên quan luồng dư luận cho là phe nhóm lợi ích triệt hạ nhau mà vốn dĩ đã từng có đồn đóan về sự đối nghịch giữa ông Trọng và ông Dũng, nên sẽ có thể một kịch bản "xử lý nghiêm, xử lý nặng" dành cho giới chức lãnh đạo tỉnh Kiên Giang, Nhà báo Võ Văn Tạo cho rằng biện pháp xử lý nặng nhất cũng là tuyên án tù. Tuy nhiên, Nhà báo Võ Văn Tạo nhấn mạnh :
"Ai cũng biết những quan chức tham nhũng như thế thì vơ vét cả hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng. Vài ba năm tù đối với họ có nghĩa lý gì đâu. Có nhiều người ở trong tù cũng sướng chẳng khác gì ở nhà. Từ hồi ông Lê Hồng Anh làm Bộ trưởng Công an thì ông đã cho phép chuyện tù nhân đầu tư vào trại giam như xây nhà, thậm chí gắn thiết bị máy lạnh, tủ lạnh…mua bán thoải mái nếu (phạm nhân) có điều kiện kinh tế. Ông Lê Hồng Anh cho rằng cách thức như thế có thể hiểu nôm na là ‘nhà nước và nhân dân cùng làm’, tức là cải thiện cơ sở vật chất của nhà tù. Thế thì đi tù cũng sướng như ở nhà".
Đài RFA cũng trao đổi vấn đề này với một số người dân ở đảo Phú Quốc, là nơi mà Chính phủ Việt Nam từng chủ trương xây dựng thành một phiên bản Singapore nhưng hiện tại được gọi tên là hòn đảo bị "tan rừng, nát biển". Những cư dân Phú Quốc chia sẻ với chúng tôi rằng họ không thật sự quan tâm mấy đến vị quan chức nào sẽ bị kiểm điểm hay hình phạt đối với các quan chức sai phạm nặng nhẹ ra sao. Bởi vì sự quan tâm chính của họ là Phú Quốc không còn là hòn đảo ngọc nếu như tiếp tục dưới sự quản lý lần lượt của các quan chức "không có tâm lẫn không có tầm", như chia sẻ của ông Duyệt, một người con của Phú Quốc phải than rằng :
"Nhìn thấy sự phát triển của Phú Quốc đi lên thì mình rất hãnh diện nhưng cũng có những nỗi buồn. Nói tóm lại là không quản lý chặt chẽ. Đời sống của người dân mà người bị lấy đất thì đi xuống, còn người bỏ tiền ra đầu cơ thì đi lên. Mạnh ai nấy phá, đốt rừng, chiếm đất cho nên từ chỗ đó cũng thấy buồn. Rồi tệ nạn xã hội ở Phú Quốc nhiều lắm, cũng buồn lắm…Do những người quản lý yếu kém".
Đó cũng là quan ngại của hầu hết người dân đối với thiệt hại gây ra không thể nào cứu vãn bởi những vô số quan chức "tự tung, tự tác" bấy lâu nay.
Nguồn : RFA, 28/025/2020
Gần đây, cách hành xử một cách độc đoán, thô lỗ của Trung Cộng trong Đại dịch Covid-19 đã khiến nhiều quốc gia trên thế giới kêu gọi tẩy chay Trung Cộng. Trong bối cảnh đó, cũng đã có một số chuyên gia Việt Nam kêu gọi đây là dịp tốt để Việt Nam có thể "Thoát Trung".
Người biểu tình phản đối dự luật Đặc khu tại Thành phố Hồ Chí Minh hôm 10/6/2018 - AFP. Hình minh họa
Vấn đề "Thoát Trung" đã được đặt ra từ năm 2014 với nhiều tranh luận sôi nổi. Ý kiến về nội hàm của khái niệm "Thoát Trung" của nhiều nhà trí thức đưa ra, không hẳn là hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung mà hầu hết các chuyên gia đều đồng ý, đó là "Thoát Trung" cần được hiểu một cách đơn giản là thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào Trung Cộng.
Thế nhưng vấn đề cần đặt ra là liệu Đảng cộng sản Việt Nam có thực sự muốn "Thoát Trung" ?
Việt Nam hiện nay lệ thuộc vào Trung Cộng nhiều thứ, nhưng về cơ bản, có thể kể ra đó là lệ thuộc về chính trị, kinh tế và đối ngoại.
Về mặt đối ngoại là lĩnh vực mà mọi người cảm thấy có nhiều hy vọng, khi thấy Việt Nam càng ngày càng có xu hướng ngả về phía Mỹ. Quan hệ Việt - Mỹ gần đây hết sức nồng ấm. Nhiều người nghĩ rằng, với việc Việt Nam đang xích về phía Mỹ sẽ khiến Việt Nam thoát khỏi "cái bóng" của Trung Cộng. Tuy nhiên, người cộng sản thường quan niệm "Chính sách đối ngoại là "cánh tay nối dài" của chính sách đối nội", vì thực ra, chính sách đối ngoại lại được quyết định bởi các nhân vật chính trị quan trọng trong nước. Thậm chí, có thể nói, chính sách đối ngoại Việt Nam phụ thuộc vào quyết định của những nhân vật cao cấp trong Bộ Chính trị Việt Nam, vốn có quyền quyết định tất cả vận mệnh của đất nước, chứ không chỉ riêng chính sách đối ngoại.
Về mặt chính trị, sự gần gũi giữa hai Đảng Cộng sản, cộng với những sự tương đồng trong văn hoá, đã khiến bộ máy nhà nước Việt Nam như một bản sao thu nhỏ từ bộ máy nhà nước Trung Cộng. Tất cả các cơ quan nhà nước Việt Nam đều có cấu trúc và tên gọi giống như cơ quan tương tự bên Trung Cộng. Trong chương trình đào tạo các quan chức Việt Nam, có rất nhiều chương trình đưa các cán bộ sang đào tạo tại Trung Cộng. Và đã có chuyên gia lên tiếng cảnh báo việc Trung Cộng tìm cách khai thác, mua chuộc, khống chế cán bộ Việt Nam khi đi học tại Trung Cộng.
Ngay cả việc "nhóm lò" chống tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, người quan sát thấy rõ đây là "phiên bản" của kế hoạch "đả hổ diệt ruồi" của Tổng bí thư Trung Cộng Tập Cận Bình. Mặc dù giương lên ngọn cờ "cao cả" là chống tham nhũng, nhưng thực chất đây là việc tiêu diệt các phe phái đối lập, để phe mình nắm giữ quyền lực.
Về mặt kinh tế, bao lâu nay Chính phủ Việt Nam vẫn lúng túng khi cố tuyên bố tìm cách phát triển kinh tế, tránh lệ thuộc quá nhiều vào Trung Cộng. Vấn đề này đã được nhiều chuyên gia và quan chức công khai đặt ra, nhưng trong thực tế, Nhà nước Việt Nam vẫn loay hoay chưa tìm được lối ra. Vậy lực cản nào đã dẫn đến sự lệ thuộc này ?
Báo chí trong nước mới đây cho biết, khi cử tri Hải Phòng kiến nghị "tình trạng người Trung Cộng mua đất đai gần các khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh hiện nay là rất đáng ngại". Bộ Quốc phòng Việt Nam đã cung cấp số liệu, theo đó, từ năm 2011 đến 2015, trên địa bàn khu vực biên giới biển Thành phố Đà Nẵng có 134 lô, 1 thửa đất liên quan đến cá nhân, doanh nghiệp người Trung Cộng đang sở hữu, "núp bóng" sở hữu và thuê của UBND Thành phố Đà Nẵng.
Bộ Quốc phòng cũng cho biết thêm để sở hữu các lô đất ở Thành phố Đà Nẵng, người Trung Cộng chủ yếu dựa theo 2 hình thức :
Thứ nhất, là thành lập doanh nghiệp liên doanh với Việt Nam. Ban đầu, người Trung Cộng góp vốn thấp hơn người Việt (người Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng đất), doanh nghiệp sẽ do người Việt Nam điều hành. Sau một thời gian, bằng nhiều cách, người Trung Quốc tăng vốn, giành quyền điều hành doanh nghiệp. Do tài sản góp vốn là đất, nên quyền sở hữu các lô đất rơi vào tay người Trung Cộng.
Thứ hai, người Trung Quốc đầu tư tiền cho cá nhân người Việt Nam (chủ yếu người Việt gốc Hoa) để mua đất. Hầu hết các lô đất đều ở vị trí các đường lớn, ven biển, đắc địa cho hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa quan trọng trong khu vực phòng thủ.
Bộ Quốc phòng cho rằng cử tri và dư luận xã hội thấy "đáng ngại" về việc cơ quan chức năng Thành phố Đà Nẵng cấp chứng nhận quyền sử dụng 21 lô đất cho người Trung Cộng là có cơ sở.
Đây không phải là vấn đề mới, ngay từ giai đoạn 2015 đã có nhiều chuyên gia tỏ ý lo ngại về vấn đề này trên báo chí.
Thêm nữa, báo chí mới đây cũng đưa thêm những thông tin "giật mình". Ngoài việc sở hữu bất động sản có vị trí trọng yếu mà Bộ Quốc phòng vừa chỉ ra, các nhà đầu tư đến từ Trung Cộng đang ồ ạt thâu tóm thêm nhiều dự án của Việt Nam, đặc biệt lĩnh vực liên quan đến năng lượng, tài nguyên, thương mại điện tử..
Trong lĩnh vực năng lượng, có thể kể đến dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 (Bình Thuận) với công suất 1.240 MW, tổng mức đầu tư 1,755 tỉ USD. Dự án này hiện đã thuộc sở hữu của Công ty lưới điện Phương Nam TQ (chiếm 55% vốn), Công ty điện lực quốc tế Trung Cộng (CPIH) 40%, trong khi Tổng công ty điện lực (Vinacomin) chỉ nắm giữ có 5%.
Tại Hà Tĩnh, dự án Nhiệt điện Vũng Áng 2 có tổng mức đầu tư 2,187 tỉ USD, công suất 1.200 MW, cũng đã rơi vào tay Công ty One Energy Asia (Hồng Kông), sau khi công ty này thâu tóm lại cổ phần của Tổng công ty lắp máy VN (LILAMA) 25%, Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) 23%. Chưa dừng lại ở đó, tại dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 3 (Bình Thuận), Công ty One Energy cũng rót 55% vốn để kiểm soát, còn EVN nắm 29% và Tập đoàn Thái Bình Dương nắm 16% vốn.
Còn nhiều thương vụ mua bán - sáp nhập (M&A) khác có giá trị lớn do công ty TQ tiến hành dưới dạng mua cổ phần chi phối, như Tập đoàn China Investment nhận chuyển nhượng 19% cổ phần (96,9 triệu USD) từ một tập đoàn VN để đồng sở hữu liên doanh Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 2 tại Quảng Ninh. Thương vụ đình đám nhất trong lĩnh vực nông nghiệp là vụ thâu tóm C.P VN. Công ty mẹ CPG ở Thái Lan đã chuyển nhượng toàn bộ cổ phần nắm giữ ở C.P VN (71%) sang cho công ty con - Công ty Pokphand (CPP) trụ sở ở Hồng Kông. Khi đó, C.P VN đang nắm thị phần chủ yếu lĩnh vực thức ăn chăn nuôi của VN.
Đáng chú ý là tất cả những vấn đề này đã được các chuyên gia và người dân nói lên nỗi lo ngại của mình từ rất lâu, trên các phương tiện truyền thông chính thống. Việc công dân Trung Cộng mua bất động sản gần căn cứ quân sự đã xảy ra nhiều lần, cụ thể năm 2012, báo chí đã gióng lên hồi chuông báo động khi nhiều người Trung Cộng nuôi cá bè ngay gần cảng quân sự Cam Ranh, dẫn đến những đe doạ về an toàn quân sự đối với quốc phòng Việt Nam. Thế nhưng tất cả vẫn lặp lại, người Trung Quốc vẫn có thể dễ dàng "thâu tóm, khống chế" các doanh nghiệp cũng như toàn bộ xương sống của nền kinh tế Việt Nam, thậm chí dễ dàng mua đất có vị trí quốc phòng quan trọng.
Năm 2018, Nhà nước Việt Nam đã công bố Dự thảo Luật đơn vị kinh tế hành chính đặc biệt (Gọi tắt là Luật Đặc khu), với ba địa điểm : Vân Đồn ; Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Dự luật này được chuẩn bị một cách vô cùng cẩu thả, sao chép lẫn nhau một cách thô vụng, và không dựa trên những cơ sở thuyết phục. Mặc dù bà Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch quốc hội Việt Nam khẳng định trước Quốc hội rằng "Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật". Tuyên bố này của bà Chủ tịch quốc hội hàm ý Bộ Chính trị là quyết định cao nhất, tất cả nhân dân có nghĩa vụ phải tuân theo.
Sau đó, đã dẫn đến sự kiện người dân cả nước cùng xuống đường biểu tình để tỏ thái độ không đồng ý với Dự luật này. Điều mà tất cả người dân lo ngại là sự đe doạ trước sự "xâm lăng không tiếng súng" của Trung Cộng, đặc biệt với Vân Đồn - một khu vực biển có vị trí tiền tiêu của Tổ quốc. Các chuyên gia cũng đã chỉ rõ khả năng các doanh nghiệp Trung Cộng có thể thâu tóm hoặc mua đất đai khu vực này (Dự luật cho thuê đất tới 99 năm), và như nhiều trường hợp trước đây ở Việt Nam, người Trung Cộng làm gì trong đất đai mà họ nắm giữ đó thì Chính quyền Việt Nam không thể hay biết.
Những tưởng với quyết tâm giữ gìn chủ quyền biển, đảo, Nhà nước Việt Nam phải cảnh giác trước các âm mưu "thực dân mới" của Trung Cộng thông qua các khoản vay, đầu tư và tham nhũng, hối lộ mà "Vành đai, Con đường" là kế hoạch tiêu biểu. Thế nhưng, câu chuyện lại không phải như vậy.
Mới đây, báo chí tỉnh Quảng Ninh tưng bừng công bố Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 14/11/2019 của Chính phủ về việc thí điểm thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế (KKT) Vân Đồn trực thuộc UBND tỉnh.
Điều đó cho thấy, mặc dù các khuyến cáo, lo ngại của người dân và các chuyên gia, Đảng và Nhà nước vẫn "đánh úp" nhân dân bằng các quyết định "âm thầm" của mình. Dự luật người dân phản đối thì Chính phủ ban Nghị quyết, và chẳng có ai còn hơi sức để phản đối nữa. Và như vậy, câu chuyện đặc khu Vân Đồn lại được tiếp tục. Rồi có thể 5 hoặc 10 năm nữa, các cơ quan như Bộ Quốc phòng lại công bố một loạt các thông tin "chấn động" khi Trung Cộng đã "làm chủ" toàn bộ đặc khu này. Và nếu người dân phản đối thì lại "Đảng và Nhà nước biết hết rồi, có phương án hết cả rồi" hay "chúng ta chỉ chống lại hay khởi kiện Trung Cộng khi nào chúng ta đủ mạnh, thoát khỏi sự lệ thuộc từ Trung Cộng đã". Tuy nhiên, với các kế hoạch như hiện nay của Nhà nước Việt Nam, việc thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Cộng là mãi mãi không thể.
Trong một bài trả lời phòng vấn gần đây, Tiến sĩ Trần Đình Thiên cho rằng "thoát Trung cũng chính là hàm nghĩa "thoát Ta". Ý kiến này xem ra rất đúng. Có lẽ, ông Trần Đình Thiên chưa thể nói thẳng ra được rằng, muốn "Thoát Trung", lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam cần thoát khỏi các lợi ích cá nhân của chính họ đi đã. Phải đặt lợi ích của đất nước và dân tộc lên trên, chứ cứ chỉ tập trung vào lợi ích cá nhân của chính "Ta" thì muôn đời cũng chẳng "Thoát Trung" được.
Hải Đăng
Nguồn : RFA, 19/05/2020
Người Việt lại sôi sùng sục khi 404 đại biểu của Quốc hội Việt Nam khóa 14, tham dự Kỳ họp thứ tám, vừa bỏ phiếu thông qua "Dự luật sửa Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài". Theo luật mới, ngoại kiều sẽ được miễn thị thực vào khu kinh tế ven biển nếu thời gian cư trú dưới 30 ngày (1).
Biểu tình chống hai dự luật đặc khu và an ninh mạng hồi giữa năm 2018.
Luật mới giao thẩm quyền miễn thị thực vào khu kinh tế ven biển cho chính phủ kèm điều kiện : "Phải có sân bay quốc tế, có không gian riêng biệt, có ranh giới địa lý xác định, cách biệt với đất liền, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội và không làm phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Việt Nam".
Với những điều kiện như vừa kể, ai cũng có thể nhận ra đó là một cách thực thi một phần "tinh thần" của "Dự luật về Đơn vị Hành chính – Kinh tế Đặc biệt" mà người Việt quen gọi là "luật đặc khu" – dự luật từng kéo cả nước ra đường phản đối hồi giữa năm ngoái, thành ra Quốc hội Khóa 14 phải gạt ra khỏi chương trình nghị sự của Kỳ họp thứ năm.
Sở dĩ người Việt dị ứng với "luật đặc khu" và mới đây, phẫn nộ vì "Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài" là vì trong "khu kinh tế ven biển" có bóng dáng… đặc khu và "miễn thị thực" cho ngoại kiều có thể mở thêm một con đường khác cho người Trung Quốc tràn vào Việt Nam…
Tuy nhiên vấn đề không chỉ có thế !
***
Năm ngoái, khi giới thiệu chủ trương thành lập cùng lúc ba "đặc khu" (Vân Đồn - Quảng Ninh, Bắc Vân Phong - Khánh Hòa và Phú Quốc - Kiên Giang), hệ thống chính trị và hệ thống công quyền Việt Nam giải thích là để "thử nghiệm thể chế", gia tăng thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, phát triển kinh tế.
Năm nay, tuy vẫn chưa thể khai sinh "đặc khu" nhưng hệ thống chính trị và hệ thống công quyền Việt Nam vẫn tìm mọi cách để giúp các "khu kinh tế ven biển" mang tính chất như đã từng mô tả về "đặc khu", cho dù thực tế đã và đang chỉ ra, các "khu kinh tế ven biển" không hữu hiệu.
Việt Nam hiện đã có 18 "khu kinh tế ven biển", chiếm 730.553 héc ta mặt đất và mặt biển (2). Tuy nhiên miền Trung - khu vực đầu tiên có "khu kinh tế ven biển" (Khu Kinh tế Chu Lai - Quảng Nam, 2003), sau này có thêm hàng loạt "khu kinh tế ven biển" nữa như : Khu Kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi, 2005), Khu Kinh tế Nhơn Hội (Bình Định, 2005), Khu Kinh tế Chân Mây – Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế, 2006), Khu Kinh tế Vân Phong (Khánh Hòa, 2006), Khu Kinh tế Nam Phú Yên (Phú Yên, 2008) vẫn không thể thoát ra khỏi đói nghèo ! Cho tới năm ngoái, trừ Đà Nẵng, Khánh Hòa có thể đóng góp cho ngân khố, các tỉnh còn lại đều ngửa tay xin chính quyền trung ương trợ giúp…
Chỉ tính từ đầu thập niên 2000 đến cuối năm 2010, tổng vốn đầu tư cho các "khu kinh tế ven biển" ở Việt Nam đã xấp xỉ 170.000 tỉ đồng. Tuy hệ thống công quyền Việt Nam chưa công bố, từ 2010 đến nay đã rót thêm bao nhiêu tiền cho 18 "khu kinh tế ven biển" ấy, song có thể đoan chắc, con số đó không nhỏ, không thể dưới mức hàng trăm ngàn tỉ đồng nữa nhưng Ban Quản lý Khu Kinh tế ven biển nào cũng than thiếu tiền, chưa được đầu tư đúng mức thành ra hiệu quả chưa như mong đợi.
Tại sao hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không xem xét, chấn chỉnh 18 "khu kinh tế ven biển" hiện hữu để chúng tạo ra những hiệu ứng thật sự tích cực cho kinh tế - xã hội Việt Nam mà chỉ bận tâm suy tính và tìm đủ mọi cách để hỗ trợ cho vài "khu kinh tế ven biển" mang các đặc điểm "có sân bay quốc tế, có không gian riêng biệt, có ranh giới địa lý xác định, cách biệt với đất liền", kể cả sửa luật về chuyện xuất nhập cảnh của ngoại kiều để "miễn thị thực" nếu cư trú dưới 30 ngày ?
Thực trạng đất ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc bị thâu tóm từ trước có liên quan gì đến chuyện Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khuyến cáo các đại biểu còn ngần ngại với "luật đặc khu" rằng : "Bộ Chính trị đã kết luận rồi, phải bàn để ra luật" (3) ? Thất bại trong việc ban hành "luật đặc khu" để… thử nghiệm ba "đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt", khiến nhiều ngàn tỉ đồng mà các "nhà đầu tư" đổ vào đất ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc bị đóng băng, hoạt động của "sân bay quốc tế" Vân Đồn (phi trường đầu tiên do tư nhân đầu tư, tổng vốn đầu tư dự kiến tới 7.400 tỉ) trở thành èo uột,… tác động như thế nào tới nỗ lực dùng luật khác, "miễn thị thực" cho ngoại kiều ?
***
Cho dù người Việt vẫn nhắc nhau phải luôn luôn đề phòng dã tâm và thủ đoạn của Trung Quốc nhưng Trung Quốc là chuyện bên ngoài, vấn nạn bên trong đáng ngại hơn.
Có những dấu hiệu cho thấy, chủ trương, chính sách từ thượng tầng không nhằm làm cho "quốc thái, dân an", việc đề ra chủ trượng, soạn chính sách chỉ để bảo vệ, đem lại lợi ích cho một số cá nhân, một số nhóm. Họa không nằm ở ngoài mà ẩn ngay bên trong, thành ra bất kể nhiều đại biểu can ngăn, không ưng chuyện "miễn thị thực" cho ngoại kiều đến các "khu kinh tế ven biển" (5), song miễn thị thực giờ đã là luật !
Khi hệ thống chính trị, hệ thống công quyền chuyển động theo tác động của những kẻ cầm dây đứng trong hậu trường thì phải giải quyết nội phản song song với phòng ngừa ngoại xâm. Những cá nhân hữu trách sẵn sàng đem công quyền ra bán sỉ và lẻ, líu lo, khoa chân, múa tay theo ý muốn của những kẻ giựt dây để được chia chác các nguồn lợi, chắc chắn không bận tâm về tiền đồ quốc gia, tương lai dân tộc. Đã táo tợn đến mức bất chấp nhân tâm, dân ý, nếu ngoại nhân chịu trả giá cao, sá gì mà không bán nước ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 27/11/2019
Chú thích
(2) http://enternews.vn/18-khu-kinh-te-cua-viet-nam-da-duoc-quy-hoach-17481.html
(3) http://vneconomy.vn/chu-tich-quoc-hoi-phai-ban-de-ra-duoc-luat-dac-khu-20180416130046666.htm
(4) https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/sau-1-nam-dot-dat-dac-khu-tien-ty-chon-vui-542642.html
Ý định của chính phủ Việt Nam muốn lập ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc gây tranh cãi trong công luận mà đỉnh điểm là các cuộc biểu tình rầm rộ trên cả nước hồi tháng 6. Tác giả Nguyễn Minh Quang, giảng viên Đại học Cần Thơ và là đồng sáng lập viên của Diễn đàn Môi trường Mekong, vừa có bài viết liên quan đến đề tài này đăng trên tờ Diplomat, phân tích về bối cảnh và tình hình chính trị trong nước để giải thích quyết tâm của Hà Nội trong việc phát triển các đặc khu kinh tế cùng những lợi-hại từ các đặc khu.
Cảng Cái Rồng nằm ở phía đông thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Chính phủ Việt Nam xem các đặc khu kinh tế (SEZ) là nguồn tạo ra đà tăng trưởng kinh tế quan trọng trong tương lai và dẫn đến những cải cách thể chế mang tính đột phá. Tuy nhiên, không may là sự khởi đầu của các đặc khu kinh tế ở Việt Nam không có vẻ gì là xán lạn cho lắm. Trong lúc chỉ còn một vài tuần nữa là luật đặc khu được đưa ra Quốc hội tại kỳ họp sắp tới, chúng ta cũng nên xem lại dự thảo bộ luật cũng như xem lại các đặc khu kinh tế trong nước để xác định những vấn đề lớn và những bài học lâu dài cho chính phủ trong việc xây dựng các đặc khu - một ván bài kinh tế lớn mà trước đây đã từng được thử nghiệm và bãi bỏ.
Tại sao lại làm đặc khu kinh tế ?
Sau ba thập niên thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), Việt Nam đã thành lập 18 khu kinh tế ven biển với gần 325 khu công nghiệp được Nhà nước hậu thuẫn trên khắp cả nước. Những khu công nghiệp này ra đời để tung ra một loạt những ưu đãi cho các nhà đầu tư, bao gồm miễn giảm thuế (hay thậm chí là mức thuế bằng không) đối với một số mặt hàng chọn lọc, giảm hoặc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm tiền thuê đất cũng như các chi phí khác. Do phần lớn đất nông nghiệp được lấy để phục vụ công nghiệp hóa vẫn chưa được sử dụng, những khu kinh tế hiện tại vẫn còn chỗ trống cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vậy thì tại sao chính phủ lại muốn mở thêm các đặc khu kinh tế nữa ?
Phân tích kỹ về bối cảnh và tình hình chính trị trong nước sẽ giúp giải thích quyết tâm của Hà Nội trong việc phát triển các đặc khu kinh tế.
Trước tiên, chính phủ Việt Nam cảm thấy hứng thú và khích lệ trước sự phát triển thần kỳ của các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và Singapore. Thứ hai, có một đà mới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước là hết sức quan trọng trong bối cảnh Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đã dẫn đến những thay đổi toàn cầu. Thứ ba, chính quyền trung ương và các địa phương đã đưa ra những ưu đãi hấp dẫn nhất mà họ có nhưng vẫn không thu hút được nhiều nhà sản xuất cao cấp, các công nghệ mới và những kiến thức quản lý hiện đại mà họ mong muốn. Trong khi đó, các tài nguyên đất đai và khoáng sản cho những ngành nghề truyền thống đã bị khai thác quá mức.
Thêm vào đó, nhiều thỏa thuận tự do thương mại song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết, chẳng hạn như với Liên minh châu Âu và Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn diện và Tiến bộ (CPTPP), sẽ chóng có hiệu lực. Những hiệp định thương mại tự do này sẽ giảm đáng kể doanh thu thuế và tăng gánh nợ công của Việt Nam. Do đó, thiết lập những đặc khu kinh tế mới sẽ đem đến một lựa chọn thay thế rõ ràng để giúp đảm bảo ngân sách nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ước tính rằng các đặc khu kinh tế mỗi năm sẽ đem về 10 tỷ đô la từ tiền thuế và tiền cho thuê đất.
Hơn nữa, kể từ khi Đổi Mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn nhận vai trò của các doanh nghiệp tư nhân như là động lực phát triển kinh tế và là điều kiện cần thiết trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện tại có những khiếm khuyết và không thể đáp ứng yêu cầu cao hơn của ‘chủ nghĩa xã hội tự do mới’ và hội nhập quốc tế. Tình trạng tham nhũng tràn lan và những vụ thua lỗ nghìn tỷ của các tập đoàn nhà nước nhấn mạnh nhu cầu thiết yếu phải có những sửa đổi về thể chế. Do đó, ba đặc khu kinh tế ven biển được đề xuất ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc vốn có những ưu thế địa chiến lược và giàu tài nguyên thiên nhiên dường như là những lựa chọn tối ưu để chính phủ có những thử nghiệm về thể chế vào lúc này.
Một số người thuộc giới tinh hoa ở Hà Nội lập luận rằng ‘các đặc khu kinh tế là nơi thu hút phượng hoàng đến đẻ trứng. Nếu Việt Nam chỉ xây những cái tổ nhỏ cho chim se sẻ thì phượng hoàng sẽ không đến.’ Nhưng các đặc khu kinh tế sẽ trông như thế nào và những nhà đầu tư kiểu nào mới được xem là ‘phương hoàng’ vẫn là những câu hỏi chưa có lời giải đáp trong dự luật. Những người ủng hộ cũng cho rằng đặc khu kinh tế cần phải được điều hành bằng ‘cơ chế chính trị đặc biệt cũng như các chính sách đặc thù’, nhưng dự luật đặc khu và bộ luật hiện hành về các khu kinh tế lại giống nhau rất nhiều ngoại trừ điều khoản cho thuê đất 99 năm, những ưu đãi về thuế hào phóng hơn và dịch vụ sòng bạc.
Mục tiêu công khai của các đặc khu được nêu trong dự luật là ưu tiên phát triển các ngành kỹ nghệ ‘xanh, công nghệ cao và dựa vào tri thức’. Tuy nhiên, trên thực tế, những ngành nghề không liên quan hay thậm chí trái ngược như sân golf, các khu nghỉ mát, du lịch đại chúng, sòng bài và lắp ráp máy móc lại có vị trí nổi bật trong danh sách các ngành nghề kinh doanh được phê chuẩn. Dự thảo luật đặc khu hiên tại, nếu không được sửa đổi, dường như ưu đãi cho các nhà đầu tư bất động sản và những kẻ đầu cơ đất đai vốn đang làm mưa làm gió tại ba địa điểm được đề xuất xây đặc khu và những kẻ chuyên trốn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Một vấn đề còn quan trọng hơn nữa là những người soạn thảo dự luật đặc khu không đưa ra được bất kỳ ý tưởng đột phá nào khác biệt với mô hình đặc khu tương tự ở 13 quốc gia trên khắp thế giới mà các nhà hoạch định chính sách Việt Nam đã nghiên cứu học hỏi. Chính vì vậy, dự luật của Việt Nam không xây dựng được bản sắc riêng cho các đặc khu. Ưu đãi cho các nhà đầu tư có thể rất quan trọng trong việc đưa các đặc khu đi vào hoạt động, nhưng mô hình đặc khu kinh tế dựa trên ưu đãi đã chứng tỏ không còn là mô hình có hiệu quả trong nền kinh tế trí thức toàn cầu ngày nay mà những yếu tố như sự minh bạch, tính liêm chính và một môi trường kinh doanh lành mạnh dường như quan trọng hơn rất nhiều so với các ưu đãi về thuế và đất đai.
Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất ở đông nam Á muốn phát triển đặc khu. Ít nhất ba đặc khu đang được xây dựng ở Myanmar trong khi Campuchia và Lào đang hứng chịu những tác dụng phụ của các đặc khu của họ vốn đang trở thành những lãnh địa của người Trung Quốc. Do đó, Việt Nam có cơ hội cân nhắc lại và quyết định mô hình đặc khu nào sẽ phù hợp với đất nước : đặc khu kiểu Trung Quốc, đặc khu kiểu thực dân mới hay đặc khu dựa trên kinh tế trí thức thật sự ? Nếu không có những ý tưởng mới, những chính sách tốt và những chiến lược thận trọng để thu hút đầu tư nước ngoài, các đặc khu của Việt Nam sẽ không có gì đặc biệt trong mắt các nhà đầu tư toàn cầu và trở thành những điểm nóng đầu tư có tính cạnh tranh cao.
Bài học gì từ các khu kinh tế hiện tại ?
Những tiếng nói chỉ trích các đặc khu kinh tế thường gặp nhất là viện đến các yếu tố an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ, tăng gánh nợ công và mô hình quản trị đặc khu theo như trong dự thảo. Độ phức tạp và sự thất bại của nhiều đặc khu kinh tế toàn cầu đã chứng tỏ có những nguy cơ lớn mà chính phủ Việt Nam cần phải tính đến một cách kỹ lưỡng. Do đó, thay vì tập trung vào các triển vọng trong tương lai, cần nhìn kỹ hơn vào những di sản mà những khu kinh tế hiện tại để lại thì mới có thể thấy được những bài học quý giá trong việc định hình chính sách đối với đặc khu kinh tế.
Trước hết, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc liên tục nhấn mạnh rằng chính phủ muốn Việt Nam chủ động hội nhập vào Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0, nhưng liệu những đặc khu kinh tế này có phải là nơi tốt nhất để khởi động cuộc cách mạng công nghiệp này ở Việt Nam ? Xương sống của những đặc khu thành công ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore và UAE chính là vị trí địa chiến lược vốn quyết định dòng đầu tư nước ngoài. Còn ở Việt Nam, rất ít khu kinh tế nào trong số 325 khu thành công nhờ vào sự gần gũi về địa lý với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Khó mà nhận ra lý do đằng sau quyết định chọn những đặc khu kinh tế mới này vốn đều cách biệt về địa lý với trình độ kinh tế xã hội và cơ sở hạ tầng vẫn còn hoàn toàn kém phá triển và không thích hợp cho các hoạt động kinh tế dựa trên kỹ thuật cao. Một số người thậm chí còn cho rằng đó là lựa chọn sai lầm do những nơi đề xuất xây đặc khu đều là những khu vực nhạy cảm về địa chính trị : Vân Đồn ở Vịnh Bắc Bộ, Bắc Văn Phong nằm hướng ra Biển Đông còn Phú Quốc nằm ở Vịnh Thái Lan ngay sát bên đặc khu kinh tế Sihanoukville của Campuchia vốn Trung Quốc có sự hiện diện áp đảo. Với chế độ cho thuê đất lâu dài như thế và các chính sách miễn thị thực như trong dự luật thì chắc chắn Trung Quốc sẽ là nước được lợi nhiều nhất nhất là khi Việt Nam đã là nơi các đầu tư Trung Quốc nhắm đến trong những năm gần đây.
Thứ hai, không có quy trình chuẩn mực hướng dẫn cách làm khi các đặc khu kinh tế không đáp ứng được mục tiêu đề ra. Hoạt động và quản lý yếu kém tại đa số các khu công nghiệp và khu kinh tế của Việt Nam hiện nay, cộng với sự suy thoái môi trường trầm trọng và lãng phí đất đai, chắc chắn là những thiếu sót lớn. Tệ hơn nữa, chúng là bằng chứng rõ ràng cho thấy sự khinh suất của chính phủ trong quá trình chuẩn bị cho các dự án đầu tư nước ngoài. Sự vô dụng của chính quyền địa phương trước thất bại của các khu kinh tế này thể hiện rõ sự thiếu vắng cơ chế giảm thiểu nguy cơ và các chính sách phản ứng vốn cần thiết cho bất kỳ ván bài kinh tế nào.
Bên cạnh đó, câu trả lời cho câu hỏi người dân Việt Nam sẽ có lợi ích như thế nào từ các đặc khu này vẫn còn mơ hồ. Tương tự, cũng không có câu trả lời rõ ràng đối với việc chính phủ sẽ giải quyết như thế nào gánh nợ công tăng cao do đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng và những khoản đầu tư ban đầu vào các đặc khu, mất trật tự xã hội, cạnh tranh không công bằng giữa các nhà đầu tư bên trong và bên ngoài các đặc khu, trốn thuế bên cạnh những vấn đề khác. Số tiền đổ vào các đặc khu có thể có ích rất nhiều trong việc hiện đại hóa các trung tâm kinh tế hiện tại, xây dựng các cơ hội mới, hợp tác mới và tương lai mới cho những người dân bị bỏ lại phía sau. Chính phủ Việt Nam rõ ràng nhìn ra những vấn đề này, nhưng giải quyết chúng ngay từ đầu là việc quan trọng để tránh những hậu họa chính tri đáng lo hơn sau này.
Vấn đề sau cùng là liệu các đặc khu có dẫn đến mối liên hệ đáng kể giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội hay không ?
Việt Nam hiện đang đối mặt một nghịch lý rõ ràng : có quá nhiều khu kinh tế mọc lên nhưng có quá ít cơ hội việc làm cho những sinh viên tốt nghiệp trong các ngành khoa học, kỹ thuật, kỹ sư và toán.
Kết quả là, hàng chục ngàn sinh viên tốt nghiệp các ngành này mỗi năm nhưng lại có rất ít cơ hội việc làm. Các công việc chân tay vẫn chiếm ưu thế trong các khu kinh tế trên cả nước trong khi dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu được thúc đẩy bởi lao động giá rẻ và những ưu đãi lớn. Đầu tư nước ngoài kiểu này dẫn đến nhận thức đáng lo rằng học hành thật tốt lại có cơ hội công việc tồi do tỉ lệ thất nghiệp trong số những sinh viên tốt nghiệp đang ở mức cao.
Rõ ràng là có sự trật nhịp giữa giáo dục, vốn đang tạo ra lực lượng lao động trình độ cao, với mô hình tăng trưởng kinh tế hiện tại vốn dẫn đến rất nhiều cơ hội việc làm trình độ thấp. Nói cách khác, có một sự đánh đổi giữa tăng trưởng ngắn hạn và cam kết phát triển bền vững. Rõ ràng là chính phủ Việt Nam rất cần tăng trưởng kinh tế liên tục để duy trì phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, những đánh giá lạc quan về ‘thành tựu’ phát triển kinh tế của Việt Nam trong những thập niên qua và sự tiếp tục chiến lược đầu tư nước ngoài như thể hiện trong luật đặc khu cần phải được xem xét lại.
Nguyễn Minh Quang
Nguồn : VOA, 26/09/2018
Ông Nguyễn Minh Quang là giảng viên Đại học Cần Thơ và là đồng sáng lập viên của Diễn đàn Môi trường Mekong. Ông hiện là nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Viện Nghiên cứu Xã hội Quốc tế (IISS), Đại học Erasmus Rotterdam, Hà Lan. Bài phân tích này được đăng trên tờ Diplomat.
Chính phủ nói các chính sách không nhằm ủng hộ Bắc Kinh, nhưng mối quan tâm của của người dân Việt Nam không vì thế mà giảm.
Công an đã giải tán một cuộc biểu tình tại Hà Nội vào tháng 6 liên quan đến dự thảo luật đặc khu kinh tế, được coi là ủng hộ Trung Quốc. Ảnh : Reuters
Kế hoạch mở ba đặc khu kinh tế đầu tiên của chính phủ Việt Nam đã bị đình trệ cho đến năm sau, do các cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổ ra tại nhiều tỉnh thành.
Đầu tháng 6, biểu tình nổ ra khắp cả nước, kể cả ở Hà Nội và Hồ Chí Minh. Một số nhà máy, cửa hàng gặp vấn đề, ít nhất 1.000 người bị bắt – một hiện tượng bất thường tại Việt Nam, nơi duy trì một lực lượng an ninh hùng hậu nhằm kiểm soát người dân.
Quốc hội Việt Nam đã phản ứng lại bằng cách trì hoãn việc thảo luận và thông qua dự luật về đặc khu trong tháng đó, gần đây đã quyết định dời lại trong một phiên họp tháng 10.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư, ông Nguyễn Chí Dũng cho biết : Dự thảo không có một từ, một chữ nào liên quan tới Trung Quốc.
Ông Dũng cho biết thêm. ‘Một số người cố tình hiểu theo hướng đó, đẩy vấn đề lên để chia rẽ quan hệ giữa ta với Trung Quốc’. Lời tuyên bố thẳng thừng, bất thường về Trung Quốc nhằm ổn định tình hình, dù đây là một chủ đề mà các chính trị gia Việt Nam có xu hướng e dè.
Năm 2013, Việt Nam bắt đầu khởi thảo về đặc khu với 3 tỉnh thành : Quảng Ninh - một tỉnh ven biển phía đông Hà Nội và giáp với Trung Quốc ; trung tâm nghỉ dưỡng Khánh Hòa và đảo Phú Quốc. Các vị trí này được thiết kế để thu hút đầu tư FDI cũng như các lợi ích sẽ có sau khi cho thuê đất lên đến 99 năm ; kể cả cho mở casino.
Việt Nam chấp nhận mô hình đặc khu muộn hơn các nước Châu Á khác.
Đằng sau mối quan tâm của người dân là ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong nước. Năm ngoái, đầu tư FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam đạt 1,4 tỷ USD, gấp 5 lần con số năm 2012. Số khách tăng gấp 3 lần trong khoảng thời gian đó, lên gần 4 triệu. Tại các khu nghỉ mát như Đà Nẵng, Nha Trang và Phú Quốc, người Trung Quốc làm chủ nhiều dự án bất động sản [*], và các khu phố Tàu nổi lên ở một số khu vực.
Nhiều người Việt Nam không tin tưởng vào Trung Quốc, quốc gia từng đụng độ trong cuộc chiến biên giới và xung đột vũ trang những năm 70 và 80, và nay vẫn phải đối mặt căng thẳng trên vấn đề chủ quyền Biển Đông.
Trong khi đó, các nước láng giềng như Campuchia và Lào đang ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc trong các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư trực tiếp.
Đặc khu được thiết kế để thu hút các nhà đầu tư từ nhiều quốc gia trên thế giới và không cố ý ủng hộ Trung Quốc (?). Mặc dù các điều khoản cho thuê đất 99 năm đang định đánh giá lại, và dự kiến sẽ rút ở mức 70 năm. Nhưng 3 địa điểm được chọn làm đặc khu lại có số dân Trung Quốc phát triển nhanh nhất Việt Nam, và tất cả đều có tầm chiến lược phòng thủ quan trọng. Khánh Hòa là nơi có Vịnh Cam Ranh, một vịnh sâu quan trọng gắn liền với cơ sở quân sự lớn.
Về vấn đề này. ‘có sự chia rẽ quan điểm ngay trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam’, một nguồn tin từ Chính phủ cho biết.
Có khả năng một số cá nhân bên đảng hoặc các bên khuyến khích các cuộc biểu tình của tháng 6, vì lý do chính trị. Vị trí của các cuộc biểu tình ác liệt nhất là Bình Thuận, một tỉnh vùng sâu vùng xa phía nam của Thành phố Hồ Chí Minh, nơi không có khu kinh tế đặc biệt nào được quy hoạch.
Atsushi Tomiyama
Nguyên tác : Vietnam's economic zones derailed by anti-China protests, Nikkei Asian Review, 03/09/2018
Ánh Liên lược dịch
Nguồn : VNTB), 05/09/2018
[*] Chú thích từ người dịch : Công ty con của Phú Mỹ Hưng vay 400 triệu USD từ một loạt ngân hàng Trung Quốc
Trước phản ứng dữ dội của nhân dân luật đặc khu hai lần bị hoãn thông qua. Lần đầu sau những cuộc biểu tình khắp ba miền dịp ngày 10/6/2018 quốc hội phải tạm hoãn thông qua dành kỳ họp vào tháng 10. Tiếp theo, vào kỳ họp tháng 7 của Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng không đưa luật đặc khu vào chương trình nghị sự và hôm 24/8/2018 Quốc hội lại thông báo tiếp tục dừng xem xét luật đặc khu "tiếp tục xin ý kiến nhân dân, các tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học, để hoàn chỉnh dự án luật thông qua vào kỳ họp sau". Như vậy nhanh nhất luật đặc khu mới được đưa ra xem xét tiếp vào kỳ họp Quốc hội tháng 5/2019.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp đón bà Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam. Ảnh : VOV
Trước những động thái lài nhiều người hy vọng nhà cầm quyền sẽ dẹp bỏ đặc khu. Tuy nhiên, theo ý kiến của những người có kinh nhiệm về Trung Quốc, quan hệ Việt Trung và những gì đã đầu tư cho dự án này thì rất khó để nhà cầm quyền Việt Nam hủy bỏ chương trình đặc khu.
Đặc khu đã được thực hiện cơ bản trên thực tế
Từ năm 2013 ông Phạm Minh Chính, bí thư Quảng Ninh, đại diện cho phía Việt Nam sang Trung Quốc nghiên cứu, bàn bạc rồi cùng họ tới Việt Nam khảo sát, thỏa thuận dự án đặc khu Vân Đồn, có buổi ra mắt như một sự khai trương (xem ảnh). Từ đó 3 đặc khu được âm thầm thực hiện và ồ ạt nhất là từ khi ông Trump trúng tổng thống Mỹ tuyên bố sẽ lập lại trật tự trong thương mại với Trung Quốc. Một trong những hạng mục quan trọng ở khu Vân Đồn là Sân bay Vân Đồn với vốn đầu tư 7.258 tỷ đồng (cỡ 2 tỷ USD-quá đắt) được Sungroup hối hả xây dựng từ năm 2015, khai trương ngày 11/7/2018. Cao tốc Hạ Long-Vân Đồn 12.000 tỷ đã cơ bản xong tháng 8/2018. Cao tốc Móng Cái -Vân Đồn nối với Trung Quốc cấp tốc phê duyệt hôm 17/8/2018 với vốn đầu tư 11.190.220 triệu đồng. Các con đường thông với Trung Quốc cũng được nâng cấp cải tạo, từ 2017 xe tự lái Trung Quốc tấp nập đi, về...
Ngoài những khoản "đầu tư nổi" trên còn rất nhiều khoản "đầu tư chìm" của nhiều quan chức, đại gia, cá nhân. Từ năm 2013-2014 khi ba đặc khu trở thành hiện thực, dân buôn đất đã thăm dò, sục sạo bao chiếm, đặt cọc mua bán diễn ra rất nhộn nhịp. Đâu đâu cũng nói chuyện đất ở ba đặc khu... Từ năm 2016, 2017 việc cưỡng chế, giải tỏa mặt bằng diễn ra hối hả, quyết liệt ở Vân Đồn, Phú Quốc, giá đất đẩy lên hàng chục, trăm lần. Nhiều khu rừng, đất nông nghiệp ở Phú Quốc bị tàn phá tan hoang. Có thể nói ba đặc khu đã thực hiện xong quá nửa việc chuẩn bị, "lót ổ chờ rồng lớn" ? Việc chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân hùng hồn tuyên bố : "Chủ trương đặc khu bộ chính trị đã thông qua, luật không trái hiến pháp phải bàn để ra luật" như một mệnh lệnh, "ván đã đóng thuyền".
Lê Khai thông xe du lịch tự lái qua biên giới tuyến Hạ Long - Quế Lâm.
Mặc dù đến nay những tham vọng của Trung Quốc dùng các đặc khu làm căn cứ quân sự khép kín "con đường tơ lụa" nhằm khống chế tây Thái Bình Dương, toàn bộ Ấn Độ Dương, bảo đảm vai trò bá chủ những con đường hàng hải trên hai đại dương này tiến tới bá chủ thế giới bị Mỹ, các đồng minh ngăn chặn nhưng các đặc khu vẫn còn nhiều giá trị với Trung Quốc.
Những gì diễn ra ở các các đặc khu như Boten ở Lào, Shihanoukville, Kokong ở Campuchia, Hambantota của Sri Lanka, Naval ở Djibouti, dự án đường sắt, ống dẫn khí ở Malaysia... chính là những nơi "chôn nợ" của Trung Quốc nhằm khống chế các chính phủ phải dùng lãnh thổ gán nợ, nơi di dân, đồng hóa dân bản địa, công cụ làm tha hóa giới quan chức, đại gia nước sở tại vốn quá nhiều tiền nhưng thiếu chỗ an toàn để ăn chơi đàng điếm... giúp Trung Quốc thâu tóm các quốc gia này. Đặc biệt, các đặc khu đích thực là các căn cứ quân sự, tình báo thu thập, truyền tin quân sự, tình báo phục vụ chính sách bành trướng của Trung Quốc.
Âm mưu thôn tính cả thế giới của Trung Quốc biểu hiện qua kế sách "Made in China 2025, một vành đai, một con đường..." dù bị nhiều nước tẩy chay nhưng họ sẽ không từ bỏ ba đặc khu ở Việt Nam do vị trí, tính chất quan trọng của nó trong chiến lược thâu tóm Biển Đông, khống chế con đường hàng hải Thái Bình Dương- Ấn Độ Dương và được chủ nhà ủng hộ. Vì vậy luật đặc khu có thể vẫn được thông qua vào thời điểm thích hợp.
Việc gần đây nhà cầm quyền thuyết giáo cái lợi ‘trên trời" của ba đặc khu, xuyên tạc, vu cáo người biểu tình, đe dọa trấn áp thẳng tay ai xuống đường phản đối... chứng tỏ họ vẫn "tha thiết" ba đặc khu. Nếu thật sự trong sáng trong dự án này thì nhà cầm quyền Việt Nam hãy công khai thẳng "ba đặc khu không dành cho Trung Quốc" chắc nhân dân không lo lắng gì nữa. Thời đại này chỉ có các chế độ độc tài như Trung Quốc, Nga đi xâm lược mà thôi.
"Tiến thoái lưỡng nan"
Thời các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Thể... các quan chức, đại gia bất chính đã nghĩ ra và thực hiện cách móc túi dân rất trắng trợn : Sửa chữa, cải tạo, mở rộng một chút con đường cũ hoặc làm một đoạn đường mới nhưng thu phí trên những con đường cũ, độc đạo để vét túi dân vô tội vạ. Họ "trấn lột" dân (lời nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng quốc hội Nguyễn Sỹ Dũng) đến năm 2016 thì bị phản đối quyết liệt làm nhà cầm quyền đứng trước lựa chọn khó khăn : Nếu dùng tiền ngân sách trả cho các đại gia chủ dự án bỏ thu phí thì không có tiền. Cứ để nhiều BOT móc túi dân, đưa lực lượng vũ trang đến bảo vệ đám "trấn lột" thì chút uy tín nhờ tuyên truyền của đảng cộng sản bị hao tổn, dân phẫn nộ mất kiểm soát bất cứ lúc nào...
Quả địa cầu bán ở Ukraine được cho là in sai bản đồ Việt Nam
Đến nay dự án ba đặc khu cũng đang rơi vào tình thế BOT : Nếu cứ quyết tâm"bàn để ra luật" người Trung Quốc kéo sang thì nguy cơ mất an ninh quốc gia quá rõ sẽ bị dân phản đối. Những ngày xuống đường rầm rộ dịp 10/6/2018 phản đối ba đặc khu của hàng triệu người ở cả ba miền nhà cầm quyền lu loa "thế lực thù địch, lưu manh nghiện ngập kích động, dân hiểu nhầm, được cho tiền,..." nhưng đó chỉ là tuyên truyền, tự đối mình. Thực chất họ đã thấy rõ sự phẫn nộ của nhân dân trước hiểm họa Trung Quốc là như thế nào. Thế nhưng nếu bãi bỏ ba đặc khu thì các con đường, sân bay đã đầu tư, đất đai các đại gia (vốn là những thế lực lớn) đã gom mua và có thể tiền "bôi trơn" các quan chức đã nhận nay không thành đặc khu thì sẽ ra sao ? Ví như 7.280 nghìn tỷ đồng của Sungroup đã đầu tư vào sân bay Vân Đồn ai trả ? Ai sẽ bay đến Vân Đồn nếu nó không còn là nơi "đổ rác", gia công hàng hóa thay nhãn mác cho hàng Trung Quốc, không còn là nơi cờ bạc, buôn người, nơi sinh con, đẻ cái, đồng hóa dân bản địa, không còn là nơi "bất khả nhòm ngó" quan chức, đại gia thỏa mãn chơi bời và nhất là Trung Quốc sẽ phản ứng ra sao... Rất khó !.
Rõ ràng tình thế BOT lặp lại : Cứ làm đặc khu thì dân nổi giận, chính quyền có khi nguy hiểm, không làm thì nợ các nhà đầu tư "nổi, chìm" mà không có tiền trả, còn Trung Quốc chắc chắn không thể hài lòng.
Lại một vụ "tiến thoái lưỡng nan"của chính quyền Việt Nam.
Nguyễn Đình Ấm
Nguồn : VNTB, 31/08/2018
Malaysia đã từng tranh thủ đầu tư từ Trung Quốc. Bây giờ họ lo ngại trở nên mắc nợ trong các dự án lớn không khả thi và cũng không cần thiết cho dân địa phương, mà chỉ có lợi cho Trung Quốc và bọn bán nước làm lợi cho cá nhân và gia đình.
Vị trí diễn ra các dự án đầu tư của Trung Quốc tại Malaysia. Đồ họa : NYT
Trong một địa điểm có tầm chiến lược hàng hải quan trọng nhất trên thế giới với khả năng quan sát các thương thuyền vận tải ở Châu Á, một công ty điện lực Trung Quốc đang đầu tư vào một cảng nước sâu đủ lớn cho hoạt động một tàu sân bay. Một công ty quốc doanh khác của Trung Quốc đang cải tạo một bến cảng khác ở Malaysia dọc theo Biển Đông.
Một ngân hàng của chính phủ Trung Quốc đang đầu tư để xây dựng một mạng lưới đường sắt gần các cảng nầy để tăng tốc độ vận tải hàng hóa của Trung Quốc dọc theo một con đường tơ lụa Silk mới. Một nhà thầu Trung Quốc đang xây cất bốn hòn đảo nhân tạo đủ rộng cho 700 ngàn người và chuẩn bị để bán rộng rãi cho các công dân Trung Quốc, mặc dầu đây là phần lảnh thổ của Malaysia.
Các dự án xây dựng trên là ở Malaysia, một nền dân chủ Đông Nam Á. Malaysia là nơi mà Trung Quốc đặt trọng tâm trong nổ lực nhằm tăng cường ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc.
Thủ tướng Maylaysia Mahathir Bin Mohamad. Ảnh : NYT
Trước đây, Malaysia đã nổ lực để khuyến khích đầu tư từ Trung Quốc. Nhưng bây giờ, Malaysia đứng hàng đầu trong một hiện tượng mới : thách thức Bắc Kinh khi các quốc gia ở Châu Á lo sợ chính quyền các nước nầy trở nên mắc nợ quá nhiều khi dính líu vào các dự án với Trung Quốc mà không khả thi hoặc không cần thiết cho các nước nầy.
Nhưng những dự án lớn nầy lại có giá trị chiến lược cho Trung Quốc hay Trung Quốc đầu tư với mục đích dùng các dự án nầy để khuynh loát các chính phủ trong vùng và dàn dựng để duy trì các chế độ lãnh đạo thân Trung Quốc.
Khi kết thúc chuyến thăm kéo dài 5 ngày ở Bắc Kinh, lãnh đạo mới của Malaysia, ông Mahathir Mohamad, gần đây cho biết ông đã tạm dừng hai dự án lớn liên quan đến Trung Quốc, trị giá hơn 22 tỷ đô la, trong hiện tình là có các cáo buộc là chính phủ tiền nhiệm của ông đã ký hợp đồng với Trung Quốc có hại cho Malaysia. Chính phủ trước đã chuyển nhượng một phần tài khoản liên hệ để có tiền giải cứu sự thâm thủng trong một quỹ đầu tư nhà nước. Chính phủ trước cũng đã dùng một khoản tiền nầy để chỉnh đốn việc tiếp tục nắm quyền của ông tổng thống trước, Najib Razak.
Thông điệp của ông Mahathir trong suốt các cuộc họp của ông với các quan chức Trung Quốc, và trong ý kiến công bố trước công chúng, đã rõ ràng. "Chúng tôi không muốn trở lại một chủ nghỉa thực dân mới bởi vì các nước nghèo không thể cạnh tranh với các nước giàu", ông nói hôm 20 tháng 8 tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh sau cuộc họp với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Khu công viên Malaysia-China Kuantan Industrial Park. Ảnh Lauren DeCicca/The New York Times
Trong một thời gian, có vẻ như các bài bản của Trung Quốc để gây ảnh hưởng với lãnh đạo Malaysia đã có kết quả tốt cho Trung Quốc. Trung Quốc đã thành công với ông Najib, với các khoản vay dễ dàng và các dự án lớn có tiêu chí để trưng bày, và các giao dịch bảo đảm có giá trị chiến lược cho tham vọng của Trung Quốc.
Nhưng vào tháng 5, ông Najib đã bị thất cữ vì dân Malaysia mệt mỏi vì những vụ bê bối tham nhũng xoay quanh ông, một số trong đó liên quan đến các giao dịch đầu tư cao nhất của Trung Quốc tại Malaysia. Ông Mahathir, 93 tuổi, đã được bầu làm Tổng Thống với một nhiệm vụ bao gồm cả việc đưa đất nước ra khỏi nợ nần - khoảng 250 tỷ đô la, một phần nợ của các công ty Trung Quốc.
Từ Sri Lanka và Djibouti đến Myanmar và Montenegro, nhiều người nhận tiền từ chiến dịch tài chính cơ sở hạ tầng khổng lồ của Trung Quốc, Belt and Road Initiative, đã phát hiện ra rằng đầu tư của Trung Quốc có kèm theo các điều kiện che dấu với nguy cơ tiềm ẩn cho chính quyền vay nợ từ Trung Quốc, và các đầu tư nầy tạo điều kiện cho Trung Quốc đem một số lớn công nhân từ lục địa sang các quốc gia nầy, cạnh tranh với người địa phương trong các công ăn việc làm và mạch sống của dân địa phương, vốn dĩ nghèo và thiếu cơ hội có việc làm.
Trên thế giới, nỗi lo sợ ngày càng tăng lên rằng Trung Quốc đang sử dụng chi tiêu ở nước ngoài để giành được chỗ đứng ở một số nơi chiến lược nhất trên thế giới, và thậm chí có thể cố tình thu hút các quốc gia vào bẫy nợ mà Trung Quốc dàn dựng để tăng cường sự thống trị của Trung Quốc, nhất là khi ảnh hưởng của Hoa Kỳ đang mất dần trong thế giới đang phát triển.
Cựu Thủ tướng Najib Razak đến dự phiên tòa xử ông về tội tham nhũng tại Kuala Lumpur cuối tháng 7 vừa qua. Ảnh Fazry Ismail/EPA, via Shutterstock
Khor Yu Leng, một nhà kinh tế chính trị của Malaysia, người đã nghiên cứu đầu tư của Trung Quốc vào khu vực Đông Nam Á, cho biết : "Người Trung Quốc hẳn đã suy nghĩ", Chúng ta có thể chọn mọi thứ với giá rẻ ở đây ". "Họ đã có đủ vốn kiên nhẫn để chơi trò chơi dài, thu hút và chờ đợi các chính quyền địa phương vay quá khả năng trả nợ, khiến cho các chủ quyền, đất đai và tất cả vốn cổ phần đều thuộc về Trung Quốc".
Trong chuyến đi ở Bắc Kinh, ông Mahathir cho biết ông đã tạm dừng hợp đồng cho Công ty Xây dựng Truyền thông Trung Quốc, xây dựng Liên kết Đường sắt phía Đông, được cho là có giá khoảng 20 tỷ đô la, cùng với một thỏa thuận trị giá 2,5 tỷ đô la của một công ty năng lượng Trung Quốc để xây dựng đường ống dẫn khí đốt. Trước đó ông đã đình chỉ các dự án, khiến nhiều người tin rằng ông muốn thương lượng lại các điều khoản trong chuyến đi Trung Quốc. Thay vào đó, ông đã thông báo chấm dứt các giao dịch nầy.
Công trình xây dựng cảng nước sâu ở Kuantan. Ảnh Lauren DeCicca / The New York Times
"Đó là tất cả về việc vay quá nhiều tiền, mà chúng tôi không có khả năng và không thể trả được vì chúng tôi không cần những dự án này ở Malaysia", ông Mahathir nói.
Một báo cáo Lầu Năm Góc của Hoa Kỳ được phát hành tuần trước cho biết "Sáng kiến Vành đai và Đường bộ - Belt and Road Initiatives - BRI" trong chủ định là nhằm phát triển mối quan hệ kinh tế lệ thuộc của các nước khác vào Trung Quốc, định hướng lợi ích của các nước nầy để phù hợp với Trung Quốc, và ngăn chặn sự đối đầu hoặc chỉ trích về cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các vấn đề nhạy cảm, như là vi phạm nhân quyền, đàn áp những người bất đồng chính kiến".
"Các nước tham gia BRI có thể phát triển sự phụ thuộc kinh tế vào vốn của Trung Quốc, mà Trung Quốc có thể tận dụng cách cho vay để đạt lợi ích cho không bất cứ ai ngoài Trung Quốc", báo cáo cho biết.
Bộ trưởng tài chính mới của Malaysia, Lim Guan Eng, đã nêu lên ví dụ về Sri Lanka, nơi một cảng nước sâu được xây dựng bởi một công ty nhà nước Trung Quốc đã không thu hút được nhiều công việc kinh doanh. Nước Sri Lanka mắc nợ quá nhiều đã buộc phải giao cho Trung Quốc một hợp đồng thuê 99 năm trên cảng và nhiều vùng đất gần đó, khiến cho Bắc Kinh chiếm đoạt được một tiền đồn gần những đường vận chuyển hàng hải bận rộn nhất trong vùng.
"Chúng tôi không muốn một tình huống như Sri Lanka, nơi họ không thể trả tiền và người Trung Quốc đã kết thúc việc tiếp quản dự án", ông Lim nói
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với tờ The New York Times, ông Mahathir đã nói rõ về những gì ông nghĩ về chiến lược của Trung Quốc. "Họ biết rằng khi họ cho vay một khoản tiền lớn cho một đất nước nghèo, cuối cùng họ có thể phải thực hiện dự án cho chính họ", ông nói.
"Trung Quốc biết rất rõ rằng họ phải đối phó với các hiệp ước bất bình đẳng trong quá khứ thực dân phương Tây áp đặt lên Trung Quốc", ông Mahathir nói thêm, đề cập đến những nhượng bộ mà Trung Quốc phải đưa ra sau khi thất bại trong các cuộc chiến tranh thuốc phiện. "Vậy Trung Quốc nên thông cảm với chúng ta. Họ biết chúng ta không thể đủ khả năng để dính vào các món nợ và dự án lớn này".
Vị trí chiến lược
Malaysia từ lâu đã bị nhòm ngó bởi các cường quốc đi tìm thuộc đia, với tầm chiến lược, địa lý và chính trị quan trong hơn nhiều so với kích thước tương đối nhỏ của quốc gia nầy. Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh đã đổ xô đến đây, hăm hở kiểm soát một điểm tựa liên kết Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trung Quốc là sức mạnh mới nhất với tham vọng thuộc địa hóa Malaysia, qua các dự án "hợp tác" xuyên qua BRI.
Kuantan, một thành phố Malaysia nép mình trên bờ biển Nam Trung Hoa (biển Đông theo tên Việt), chưa bao giờ là một địa điểm đặt được nhiều chú ý. Nhưng sau đó Trung Quốc bắt đầu bổ sung thêm lực lượng quân sự vào các khát vọng lãnh thổ của mình trên biển Đông, nơi mà 5 chính phủ khác, có cả Malaysia, có những tuyên bố cạnh tranh và tranh dành các đảo trên biển nầy.
Tài chính Trung Quốc bắt đầu đổ vào Kuantan cách đây 5 năm trước. Tập đoàn cảng quốc tế Vịnh Quảng Tây, một công ty nhà nước từ khu tự trị tối cao của Trung Quốc, đã giành được hợp đồng được chính phủ Malaysia hỗ trợ xây dựng một nhà máy nước sâu và khu công nghiệp. Gần đó là một ga xe lửa trên tuyến đường sắt East Coast Rail Link mà chủ yếu được tài trợ bởi Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc, một tổ chức chính phủ.
Dự án cải tạo cảng và xây khu công nghiệp Melaka Gateway bao gồm những bãi đá nhân tạo xây lấn trên biển. Ảnh Lauren DeCicca / The New York Times
Chủ trì sự ra mắt chính thức của Khu công nghiệp Kuantan Malaysia-Trung Quốc năm 2013, ông Najib đã đánh giá rằng dự án nhập khẩu nầy có tính cách toàn cầu.
"Trung Quốc và Malaysia vẫn gắn bó chặt chẽ vào thời điểm mà cán cân thương mại toàn cầu đang nghiêng về phía Châu Á", ông nói. "Về hợp tác kinh tế - và ngoại giao - Tôi tự hào nói rằng Malaysia đang đi tiên phong trong việc nầy".
Cư dân Kuantan, mặc dù, từ lâu đã lo lắng rằng thành phố có thể bị mắc kẹt với các dự án quá lớn từ Trung Quốc mà không chắc sẽ đem lại lợi ích cho cư dân.
"Chúng tôi hoan nghênh đầu tư và phát triển nước ngoài, nhưng chúng tôi đặt câu hỏi về mức giá khổng lồ mà chúng tôi sẽ phải trả", Fuziah Salleh, một nhà lập pháp Kuantan cho liên minh mới của Malaysia cho biết. "Ai là người hưởng lợi thực sự của tất cả tài chính này ? Người Malaysia hay người Trung Quốc ?"
"Tôi lo lắng rằng chủ quyền của chúng tôi đã bán đi", bà Fuziah nói.
Tuy nhiên, ông Mahathir là người có khả năng và kinh nghiệm để đối phó với các siêu cường trong việc bảo vệ quyền lợi của Malaysia. Ông là thủ tướng trước đây, từ năm 1981 đến năm 2003, và ông đã chống lại Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác vì những gì ông nói là một âm mưu ngăn chặn các quốc gia đang phát triển như Malaysia.
"Mahathir nghĩ rằng Trung Quốc là một lực lượng bá chủ có thể kiểm soát các nền kinh tế như Malaysia", Edmund Terence Gomez, một nhà kinh tế chính trị tại Đại học Malaya cho biết. "Ông ấy luôn lo lắng về lực lượng mạnh mẽ từ các cường quốc. Trước đó là Hoa Kỳ, giờ là Trung Quốc".
Chính quyền của ông Mahathir chỉ mới nắm quyền lực ít hơn 100 ngày. Trong thời gian đó, các nhà chức trách Malaysia cho biết, họ đã phát hiện ra rằng hàng tỷ đô la trong các hợp đồng với Trung Quốc bị thổi phồng để lấy tiền giải quyết các khoản nợ liên quan đến một quỹ đầu tư của nhà nước Malaysia, bao gồm các vụ tham nhũng và thất thu dẫn đến sự sụp đổ của ông Najib.
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã cáo buộc ông Najib và gia đình và bạn bè của ông cướp bóc hàng tỷ đô la từ quỹ đầu tư của nhà nước Malaysia, Malaysia Development Berhad (MDB). Khi quỹ bắt đầu bán tài sản, hai công ty lớn của Trung Quốc, Tổng công ty Điện hạt nhân Trung Quốc và Tổng công ty Cơ khí Đường sắt Trung Quốc, tiến vào giúp đỡ tài chính cho qủy nầy, làm cho dân Malaysia có ấn tượng rằng Bắc Kinh đang cố gắng để duy trì chính quyền "nợ nguốt đầu" của ông Najib khỏi sụp đổ.
Trong một cuộc phỏng vấn sau cuộc bầu cử, ông Mahathir chỉ vào một tờ giấy tờ trước mặt ông. Đó là một đề xuất từ một công ty xây dựng Malaysia mà ông cho biết có bằng chứng cho thấy dự án East Coast Rail Link xây chung với Trung Quốc có thể xây với phân nữa giá đầu tư nếu xây bởi một công ty Malaysia. Thậm chí với ít hơn một nửa trong số hợp đồng trị giá 13,4 tỷ đô la của Công ty Xây dựng Truyền thông Trung Quốc, một công ty được coi như là vững chắc với các hoạt động rộng lớn ở nước ngoài.
Đáng chú ý, quá trình đấu thầu cho hợp đồng đường sắt nầy là theo quá trình đấu thầu không có cạnh tranh, đấu thầu kín.
Mô hình dự án khu đô thị Forest City ở Johor Bahru, Malaysia. Ảnh : NYT
Ông Lim, Bộ trưởng Tài chính, nói với Quốc hội rằng Malaysia sẽ không thể trang trải chi phí hoạt động cho đường sắt East Coast Rail Link, và không thể trả nổi chi phí vốn vay từ Trung Quốc, mà ông ước tính gần 20 tỷ USD thay vì 13,4 tỷ USD. Cả công ty Trung Quốc lẫn đối tác của các công ty nầy ở Malaysia không đáp lại yêu cầu bình luận từ báo chí.
"Có vẻ như không phải tất cả số tiền đang được sử dụng để xây dựng tuyến đường sắt", ông Mahathir nói về thỏa thuận đường sắt East Coast Rail Link. "Khả năng là tiền đã bị đánh cắp".
Các nhà điều tra Malaysia đang xem xét liệu một cộng sự của con trai của ông Najib tên là Jho Low có thể đã môi giới thỏa thuận về đấu thầu của Trung Quốc trong dự án đường sắt để giảm bớt khoản nợ được tích lũy bởi công ty đầu tư chính phủ MDB, hoặc để tài trợ cho chiến dịch tái tranh cử của ông Najib. Bộ Tài chính Hoa Kỳ đang xem xét việc Jho Low, bây giờ là một nhà tài chính lưu vong, người đang bị truy nã, là nhân viên chính trong vụ bê bối ở MDB. Vào đêm trước chuyến đi của ông Mahathir tới Trung Quốc, các quan chức Bộ Tài chính Malaysia cho biết họ tin rằng ông Low đã trốn sang Trung Quốc.
Chính quyền mới của Malaysia, cũng đang duyệt xét thỏa thuận trị giá 2,5 tỷ USD cho một công ty con liên hệ đến Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc để xây dựng đường ống dẫn năng lượng ở Malaysia. Ông Lim cho biết ông đã phát hiện rằng chính phủ Malaysia đã chi hơn 2 tỷ đô la cho dự án. Đây là một điều bất ngờ. "Từ những gì chúng tôi hiểu", ông Lim nói, "0%, không một công việc xây dựng nào đã được bắt đầu".
Xây dựng cảng lớn
Trong khi vai trò của tiền Trung Quốc trong việc nâng bi chính quyền tham nhũng của ông Najib đã nhận được sự chú ý, một dự án lớn khác của Trung Quốc còn tạo ra nhiều câu hỏi về tham vọng trong trọng điểm địa hình và chính trị của Bắc Kinh.
Thành phố Malacca của Malaysia từng là trạm nối từ Châu Á đến Châu Âu trong việc giao thương và vận tải các loại gia vị và kho báu. Phần lớn thương mại trên biển của Châu Á - và hầu hết các nhập khẩu của Trung Quốc đều chảy qua đường eo biển Malacca.
Tuy nhiên, cảng Malacca đã bị bồi cạn bởi bùn cát nhiều thế kỷ trước và bây giờ là nơi nước đọng. Thay vào đó, Singapore gần đó, nằm ở cuối phía nam eo biển Malacca, được xếp hạng là trung tâm trung chuyển nhộn nhịp nhất thế giới.
Một dự án phát triển trị giá 10 tỷ USD - được hỗ trợ bởi PowerChina International, một công ty lớn của Trung Quốc, và hai nhà phát triển cảng Trung Quốc - được cho là sẽ thúc đẩy Malacca trở thành vị trí giá trị toàn cầu, như là một điểm dừng quan trọng trên tuyến thương mại hàng hải kéo dài từ Shanghai đến Rotterdam.
Kế hoạch cho dự án này, Melaka Gateway, bao gồm ba hòn đảo nhân tạo và một hòn đảo tự nhiên mở rộng, sẽ tổ chức một khu công nghiệp, bến du thuyền, công viên giải trí, trạm hải hành và trụ tàu, trung tâm tài chính và khách sạn bảy sao. Dự án sẽ bao gồm một cảng nước sâu mới, với cầu cảng đủ lớn để chứa một tàu sân bay. Nhà điều hành cảng đã được cho thuê đất với hợp đồng giá trị trong 99 năm, chứ không phải là khung thời gian 30 năm mà thường là thời gian trung bình của loại hợp đồng nầy.
Các đối tác địa phương của Trung Quốc Melaka Gateway là KAJ Development, một công ty Malaysia mà thành tích lớn là xây dựng một sở thú địa phương và một công viên cho chim ở.
Để giải thích cách một công ty ít được biết đến có thể làm việc với các công ty Trung Quốc để biến đổi một vị trí chiến lược như vậy, người dân địa phương đã nhận xét về mối quan hệ chặt chẽ giữa người đứng đầu KAJ Development và guồng máy lãnh đạo đảng của ông Najib. Công ty nầy đã không trả lời yêu cầu bình luận.
"Chúng tôi có rất nhiều câu hỏi về dự án nhưng không có câu trả lời", Sim Tong Him, cựu nhà lập pháp từ Malacca cho biết. "KAJ đã nhận được hợp đồng như thế nào ? Điều gì có thể xảy ra nếu phía Malaysia không thể trả tiền ? Người Trung Quốc rất bí mật về điều này. Việc giấu diếm và che đậy khiến chúng tôi cảm thấy rất nghi ngờ. "
Bộ trưởng mới của bang Malacca đã hứa hẹn một cuộc điều tra về tính khả thi của toàn bộ dự án, bao gồm việc bán đất trên một hòn đảo cho đa số là người Trung Quốc.
Sự cần thiết của dự án Melaka, ít nhất là cho người dân địa phương, chưa bao giờ được giả thích một cách rõ ràng. Làm sao để cảng Melaka cạnh tranh với cảng Singapore gần đó ? Chưa kể là Malaysia đã mở rộng các cảng khác, ngay cả khi nhiều cảng đang hoạt động.
"Chúng tôi rất quan tâm vì ngay từ đầu chúng tôi không cần thêm bất kỳ cảng nào", ông Mahathir nói về dự án Malacca.
"Chúng tôi không phải phụ thuộc vào người nước ngoài đến làm lao động trong các dự án ở Malaysia" ông nói thêm. "Khi họ xây dựng, họ sử dụng lao động nước ngoài, vật liệu nước ngoài. Chúng ta có được gì không ? Không".
Nhưng Bắc Kinh đã tài trợ cho việc xây dựng các cảng trên khắp Ấn Độ Dương, một chiến lược được gọi là chuỗi ngọc trai. Các chuyên gia quân sự đã nâng cao khả năng một ngày nào đó các cảng này có thể chào đón tàu chiến và tàu ngầm của Trung Quốc.
A residential tower project under construction at Forest City.CreditLauren DeCicca for The New York Times
"Bạn nhìn vào một bản đồ và bạn có thể thấy những nơi Trung Quốc đang âm mưu các cảng và đầu tư, từ Myanmar đến Pakistan đến Sri Lanka, về phía Djibouti", Liew Chin Tong, phó bộ trưởng quốc phòng Malaysia cho biết. "Điều gì quan trọng cho Trung Quốc ? Eo biển chiến lược Malacca".
Dưới thời ông Najib, Malaysia tiến hành các cuộc tập trận quân sự chung với Trung Quốc và cho phép tàu ngầm Trung Quốc thực hiện thăm viếng các cảng ở Malaysia. Ông Mahathir đã thay đổi các cách hợp tác quân sự với Bắc Kinh.
"Tôi nói công khai rằng chúng tôi không muốn thấy các tàu chiến ở eo biển Malacca hay Biển Đông", ông nói.
Thành phố của những giấc mơ
Ở thành phố Forest, một đô thị mới được xây dựng ở cuối bán đảo Malaysia, một hướng dẫn viên du lịch nói với các nhà đầu tư từ một thị trấn có nhiều mỏ than ở miền bắc Trung Quốc.
Thành phố Forest, ông nói bằng tiếng Quan Thoại, là một viên ngọc trên Biển Đông.
Hay nhất, ông nói, tất cả mọi thứ trong thành phố được thiết kế cho khách hàng Trung Quốc, từ cách bố trí của các căn hộ sang trọng cho đến các bảng chỉ dẫn bằng tiếng Quan Thoại.
Sự phát triển - Bốn hòn đảo nhân tạo bao gồm khoảng tám dặm vuông, hoặc đủ không gian cho khoảng 700 ngànngười - được thiết kế bởi Vườn Quốc Gia, một trong những nhà phát triển bất động sản Trung Quốc tư nhân lớn nhất, phối hợp với một tổ chức đầu tư có cổ đông lớn nhất là các ông vua lãnh đạo Hồi Giáo địa phương.
Trong bộ sưu tập bán hàng, một màn hình điện tử phát lên "vị trí chiến lược" của Forest City và đặt nó ở trung tâm của bản đồ của siêu dự án BRI của Bắc Kinh. "Chúng tôi đang thực hiện việc thay đổi bản đồ thế giới", bộ sưu tập phát biểu.
Hơn bất kỳ dự án nào khác, Forest City đã giúp thay đổi tình cảm địa phương đối với tiền mặt của Trung Quốc, trong bối cảnh nghi ngờ rằng Trung Quốc và cộng sự địa phương đã âm mưu định hình lại cân bằng dân tộc tinh tế của Malaysia.
"Đây không phải là đầu tư của Trung Quốc mà là một khu định cư", ông Mahathir nói trong chiến dịch tranh cử, sử dụng Forest City như một chiếc túi đấm thường xuyên.
Thành phố Forest không phải là một trò chơi chiến lược của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc để đóng các tàu chiến ở Malaysia. Nó cũng không được xem như một cách để Bắc Kinh tài trợ cho một nhà lãnh đạo tham nhũng. Thay vào đó, nó đại diện cho một cái gì đó thậm chí còn đáng báo động với người trung bình Malaysia - bốn hòn đảo nhân tạo mà người Trung Quốc có thể sống theo ý thích của họ và, trong quá trình này, giảm thiểu bản sắc dân tộc Malaysia.
Mặc dù phần lớn người Malaysia là người Hồi giáo, nhóm dân tộc lớn thứ hai của nước này là người Trung Quốc, tiếp theo là dân số Ấn Độ. Nhiều người Trung Quốc di cư đến Malaysia trong thời kỳ thuộc địa, và cảm giác rằng họ đã được ưu đãi bởi những người Anh.
Thủ tướng Mahathir khẳng định các chương trình hành động để tạo bình đẵng xã hội, bắt đầu ngay trong thời gian đầu của chính phủ ông, bao gồm đảm bảo rằng người Malaysia và người dân bản địa có được cơ hội cân bằng hoặc tốt hơn so với người Malaysia gốc Trung Hoa.
Trong bối cảnh đó, viễn cảnh của một làn sóng di cư mới của Trung Quốc, ngay cả khi chỉ có một số tạm cư để tránh lạnh từ Bắc Trung Hoa, là một vấn đề nhạy cảm về mặt chính trị ở Malaysia.
Nhưng nếu làn sóng đó thậm chí không hiện thực được thì sao ? Việc kiểm soát vốn ở Trung Quốc đã làm cho người Trung Quốc khó kiếm tiền hơn để mua bất động sản ở nước ngoài. Việc nầy tạo nên lo lắng cho nhân viên bán hàng nói tiếng Quan Thoại tại Forest City. Ai sẽ mua tất cả những căn hộ chung cư này, có giá cao hơn nhiều so với thị trường bất động sản địa phương, nếu không phải là người Trung Quốc ?
"Tất cả chúng ta đều muốn thành phố Forest thành công, bởi vì chúng ta không thể đủ khả năng để nó thất bại và trở thành một thành phố ma trống", Wong Shu Qi, một thành viên của Quốc hội cho Đảng Hành động Dân chủ, là một phần của liên minh với chính phủ mới.
"Thực tế là chúng ta hy vọng và mong muốn một nhượng bộ của Trung Quốc tại Malaysia", cô nói thêm. "Thật buồn làm sao ?"
Hannah Beech
Kiều Phong dịch
Nguồn : VNTB, 26/08/2018
Bức ảnh có người đàn ông mặt áo nhạt màu, trên bệ đài phát biểu. Phía sau là một pano nền đỏ chữ vàng ghi rõ dòng chữ : Hội nghị báo cáo viên tháng 6/2018. Tuyên truyền về chủ trương xây dựng đặc khu kinh tế. Đơn vị chủ quản là Ban tuyên giáo tỉnh ủy An Giang.
Ảnh minh họa
An Giang thì khác Kiên Giang, nên An Giang không có cái gọi là 'đặc khu kinh tế', nhưng An Giang có vẻ thức thời khi làm hẳn chuyên đề báo cáo về tuyên truyền chủ trương xây dựng đặc khu. Và điều chắc chắn là, Ban tuyên giáo tỉnh ủy An Giang sẽ sớm nhận bằng khen về hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do Ban tuyên giáo Trung ương trao tặng.
Vấn đề, vì là công cụ tuyên truyền chính trị, nên đôi khi ban tuyên giáo các tỉnh thành lại học thuộc nghị quyết hay các văn bản hướng dẫn về một vấn đề gì đó bất kỳ. Tức cứ có Hội nghị báo cáo hay đợt tuyên truyền cao điểm, thì thành viên ban tuyên giáo lại trải qua kỳ thi học thuộc lòng. Vì học thuộc lòng, và bản thân đặc thù ngành là như vậy, cho nên giá trị mang lại của tuyên truyền từ tuyên giáo chỉ mang tính nhồi nhét là chính. Dù vậy, với cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực trải rộng hầu khắp các tỉnh thành, hình thành những 'nhịp cầu tôn giáo' nên sức ảnh hưởng của tuyên giáo đối với người dân, ngay cả đối với những vùng sâu xa, hải đảo, vùng mà người dân ý thức còn chưa cao,...
Những lời tuyên giáo nói là những lời đã được soạn sẵn, họ đâu có hiểu gì về đặc khu, họ nói về điều tốt nhiều vạn chữ, và cái hạn chế chỉ có vài chữ. Thậm chí, tính chất hạn chế của đặc khu đôi khi được xoa dịu bằng thủ thuật nối chữ 'tuy hạn chế nhưng chúng ta đã có phương hướng khắc phục'. Có nghĩa là làm cách gì, bằng cách nào đi chăng nữa thì với những gì mà nhà nước và đảng quyết, nhân dân hãy tin tưởng vào thắng lợi to lớn và cuối cùng.
Khi một chủ trương hay chính sách quyết sai, với sự tác động của ban tuyên giáo, thì hệ quả nó để lại di hại gấp nhiều lần. Bởi ban tuyên giáo lại không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, mà họ đồng thời hợp phức hoá cái gọi là 'dân quyết thì dân sai'. Tức đã tuyên truyền, và người dân đồng thì thì mặc nhiên xem đó là trách nhiệm thuộc về nhân dân ; thỉnh thoảng trong nhóm đối tượng tuyên truyền có cá nhân nổi lên phản biện nhưng đó chỉ là con số hiếm hoi. Ngay cả đối tượng được lựa chọn, nhìn chung nhất vẫn là nhóm đội ngũ công nhân viên chức, những người buộc phải phục tùng mệnh lệnh theo chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Tại khu vực phường xã, những 'cán bộ' sau học tập này sẽ tiến hành các hoạt động hiện thực hoá buổi học, trong đó chủ yếu là tiếp tục cho tuyên truyền trên hệ thống loa khối phố, làng xã ; có nơi còn in hẳn một văn bản 'đồng thuận' về đặc khu để vận động nhân dân ký lấy.
Vậy nếu kết quả tuyên truyền trong nhân dân không đạt được kết quả như tỉnh hay Trung ương mong muốn thì sao ? Không sao cả, sau khi tổng hợp và báo cáo, các tuyên giáo viên cũng biết làm sao cho 'tròn đẹp'.
Thế nên tuyên giáo khi chỉ là cái loa thì hại vô cùng, bởi nó phát và áp đặt một giá trị thông tin một chiều người dân. Điều này đồng nghĩa, tuyên giáo sẽ chỉ hữu ích khi cho phép giá trị phản biện đi vào trong, và điều này là vô cùng khó.
Khó là vì sao ? Không phải vì ban tuyên giáo, mà chính là vì chủ trương từ trên đề xuống theo nguyên tắc 'phải làm cho được', bản thân ban tuyên giáo được thành lập cũng để thực hiện quy trình cứng đó.
Trở lại với vấn đề đặc khu, thông tin từ VP Chính phủ trong ngày 24.08 cho hay, dự kiến kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 14 (tháng 10/2018), Quốc hội chưa xem xét dự án Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt.
Tin vui ? Tất nhiên Tuy nhiên, ngay cả khi chưa thông qua, thì người dân cũng hiểu đó chỉ mang tính tạm thời. Bởi trong Nghị quyết chung của Quốc Hội kỳ trước khi chưa thông qua Luật đã nhấn mạnh : Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để tạo sự đồng thuận trong cử tri và nhân dân.
Còn hiện giờ, thì Tổng Thư ký quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho hay : còn chờ vào kết quả quá trình tiếp thu ý kiến nhân dân thế nào, tiếp thu ý kiến cử tri thế nào, tóm lại rất thận trọng.
Vậy theo quy trình này, thì đặc khu sẽ phải thực sự tiến hành thận trọng qua con đường lấy ý kiến nhân dân và cử tri. Tuy nhiên, để đảm bảo kết quả sau cùng theo ý muốn, thì cần phải tăng cường và tuyên truyền để tạo đồng thuận. Với sự góp sức từ tuyên giáo và bộ máy truyền thông.
Nếu hiểu theo cách trên, thì 'đồng thuận trong nhân dân' sẽ có thể sử dụng số liệu từ ban tuyên giáo, với phương pháp của ban này là : ra sức tuyên truyền, mở rộng những tờ giấy ký kết và ủng hộ đặc khu ?
Liệu biện pháp mang tính 'cưỡng bức, lừa dối hoặc thiếu trung thực' sẽ thực hiện ? Điều này tuỳ thuộc vào trong quyết tâm chính trị của Đảng và nhà nước đến đâu, sự lắng nghe nhân dân thế nào. Còn nếu theo hướng truyền thống bấy lâu nay, thì chắc hẳn 'sự đồng thuận đầy mê hoặc' như từng diễn ra trong đợt lấy ý kiến nhân dân về Hiến pháp 2013 sẽ tái lặp lại (1).
Vấn đề là nếu nhân dân đồng thuận cao, nhưng khi dự luật được thông qua thì biểu tình tiếp tục nổ ra thì Chính phủ hay Ban tuyên giáo phải ăn nói thế nào với dân, về cái gọi là 'nhân dân đồng tình ủng hộ' ?
Chính vì vậy, thay vì làm mọi cách để được thông qua bằng một bộ phận 'nhân dân' (núp bóng dưới dạng 'đại bộ phận nhân dân', thì Chính phủ cần đẩy mạnh nghiên cứu và chỉnh sửa dự luật, chỉ đạo Ban tuyên giáo tiếp thu các ý kiến khác nhau trong nhân dân để trả về TW, tiến hành các hoạt động lắng nghe cử tri - nhân dân nói, kể cả tổ chức các diễn đàn đa chiều để làm rõ ý nhân dân muốn gì, cần gì - thay vì chú trọng 'tuyên truyền' là chính. Chỉ có như vậy, trong mắt dân, tuyên giáo mới không bị coi là công cụ, và giá trị thông tin của tuyên giáo đưa ra, hay Chính phủ đưa ra dân mới thực sự chấp nhận. Hay nếu không 'thận trọng', thì một lần nữa, ý chí Chính phủ và lòng dân sẽ trái ngược nhau.
Ánh Liên
Nguồn : VNTB, 26/08/2018