Trung Quốc đòi Mỹ chấm dứt các chuyến bay do thám ở Biển Đông
RFA, 01/06/2023
Trung Quốc hôm 31/5 yêu cầu Mỹ chấm dứt các chuyến bay do thám ở Biển Đông mà Bắc Kinh cho là hành động khiêu khích nguy hiểm và khẳng định Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp để bảo vệ chủ quyền của mình.
Máy bay chiến đấu của Mỹ trên tàu sân bay Theodore Roosevelt ở Biển Đông hôm 10/4/2018 - AFP
Tuyên bố này được đưa ra sau khi có vụ máy bay Trung Quốc bay sát nguy hiểm đối với một máy bay do thám của Mỹ hôm thứ sáu tuần trước ở Biển Đông.
Hoa Kỳ hôm 30/5 ra thông cáo cho biết phi công một chiếc máy bay chiến đấu J-16 của Trung Quốc đã bay trực diện đến trước mũi chiếc máy bay RC-135 của Mỹ đang thực hiện hoạt động thường kỳ trên vùng trời quốc tế hôm 26/5.
Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ gọi hành động này của máy bay Trung Quốc là "nguy hiểm không cần thiết", đồng thời cho biết thêm là quân đội Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn trong năm năm trở lại đây với việc chặn máy bay và tàu chiến của Mỹ trong khu vực.
Vụ việc mới đây đã làm gia tăng thêm căng thẳng Mỹ Trung vào khi Mỹ ủng hộ một Đài Loan độc lập còn Trung Quốc tiếp tục khẳng định Đài Loan là một phần không thể tác rời của Hoa lục.
Căng thẳng giữa hai nước thêm gia tăng khi Trung Quốc mới đây cho biết Bộ trưởng Quốc phòng nước này sẽ không gặp Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin tại Đối thoại an ninh Shangri-La, Singapore, diễn ra vào cuối tuần này.
Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn diện tích Biển Đông bất chấp việc Tòa Trọng tài Thường Trực ở La Haye, vào năm 2016, đã bác bỏ những yêu sách chủ quyền rộng lớn của Trung Quốc trong một vụ kiện chống lại nước này của Philippines.
Nguồn : RFI, 01/06/2023
*************************
Biển Đông : Trung Quốc ngày càng hung hăng nhưng lại nói Mỹ cố tình khiêu khích
Trọng Nghĩa, RFI, 01/06/2023
Ngày 26/05/2023 vừa qua, khi đang hoạt động trong không phận quốc tế trên Biển Đông, một chiếc phi cơ do thám RC-135 của Mỹ đã bất ngờ bị một chiến đấu cơ J-16 của Trung Quốc cắt ngang đường bay, gây ra vùng nhiễu động không khí khiến phi cơ Mỹ bị rung mạnh. Washington ngày 30/05 đã lên tiếng tố cáo một "hành động gây hấn không cần thiết" của Trung Quốc, và đã lập tức bị Bắc Kinh đáp trả với lời lên án Mỹ có các "hành vi khiêu khích" trên Biển Đông.
Tàu hải cảnh Trung Quốc chặn một tàu tuần duyên Philippines tại khu vực Bãi Cỏ Mây, Biển Đông, ngày 23/04/2023. AP - Aaron Favila
Theo giới quan sát, cho đến nay, Trung Quốc đã liên tục có những động thái hung hăng gây sự trên Biển Đông, không chỉ nhắm vào Mỹ, mà còn nhắm cả vào các nước bên trong hoặc bên ngoài khu vực khác bị Bắc Kinh cáo buộc là xâm phạm vùng biển của Trung Quốc, dựa trên chủ quyền mà chính Bắc Kinh tự nhận, bất chấp phán quyết ngược lại của quốc tế, cụ thể là của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực La Haye.
Về sự cố mới nhất hôm 26/05, Bộ Tư Lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Quân Đội Mỹ INDOPACOM đã khẳng định phi cơ trinh sát Mỹ RC-135 đang hoạt động một cách bình thường trong không phận quốc tế thì bị tiêm kích Trung Quốc sách nhiễu, "áp sát một cách nguy hiểm".
Ngược lại, đối với phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Mao Ninh hôm 31/05, Mỹ đã thường xuyên triển khai phi cơ và chiến hạm áp sát Trung Quốc, gây tổn hại nghiêm trọng cho an ninh quốc gia của Bắc Kinh. Đối với phát ngôn viên này, bên gây nguy hiểm chính là Hoa Kỳ với các "hoạt động khiêu khích, nguy hiểm" vốn là nguyên do của các vấn đề an ninh trên biển.
Sự cố ngày 26/05 gần như là một kịch bản lập lại của một vụ đối đầu khác vào tháng 12/2022, khi cũng một chiến đấu cơ Trung Quốc áp sát một chiếc phi cơ do thám RC-135 của Mỹ, buộc phi cơ Mỹ phải "thực hiện các thao tác đổi hướng để tránh va chạm".
Đối với giới phân tích, nếu trước đây tương đối hiếm hoi, thì trong thời gian gần đây, các sự cố trên không và trên biển ở Biển Đông do các hành vi "thiếu chuyên nghiệp" từ phía Trung Quốc ngày càng tăng.
Một quan chức quốc phòng Mỹ cao cấp vào hôm qua ghi nhận với hãng tin Pháp AFP là số vụ can thiệp và đối đầu nguy hiểm trên biển do máy bay và tàu thuyền Trung Quốc đã "gia tăng một cách đáng báo động", với nguy cơ tiềm tàng là gây nên những "tính toán sai lầm hoặc sự việc không an toàn".
Điều đáng nói là khi nhận xét về hành vi của phi công Trung Quốc, quan chức Mỹ cho rằng đó không phải là những hành động tự phát, mà xuất phát từ một chiến thuật rộng lớn hơn. Đây là một chiến thuật hù dọa được Trung Quốc áp dụng không chỉ với Mỹ, mà cả với những quốc gia khác.
Trong một bài phân tích công bố hôm qua (31/05), trang mạng chuyên về quân sự Pháp Opex360 nhắc lại vào tháng 7 năm ngoái, ông Ely Ratner, một quan chức Lầu Năm Góc đã lưu ý : "Chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng mạnh của các hành vi nguy hiểm và thiếu chuyên nghiệp của tàu và phi cơ [Trung Quốc] không chỉ đối với lực lượng Hoa Kỳ mà còn đối với cả các lực lượng đồng minh hoạt động trong khu vực".
Theo Opex360, Hải quân Pháp, cũng từng phải trực diện với lực lượng Trung Quốc khi tuần tra tại Biển Đông, có cùng một nhận định rằng Quân Đội Trung Quốc ngày càng tỏ ra hiếu chiến, đặc biệt là ở những khu vực mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền.
Biển Đông : Mỹ tố cáo phi cơ Trung Quốc hung hăng gây nguy hiểm
Chi Phương, RFI, 31/05/2023
Quân đội Hoa Kỳ hôm 30/05 đã lên án hành động "hung hăng", "vô cớ" của một chiến đấu cơ Trung Quốc, khi tiến đến gần một máy bay trinh sát của Hoa Kỳ, đang hoạt động tại trên không phận quốc tế ở Biển Đông. Hôm nay, Bắc Kinh đã bác bỏ cáo buộc và cho rằng Washington là bên "khiêu khích".
Ảnh chụp từ video của Hải quân Mỹ cung cấp : Tiêm kích Trung Quốc J-16 bay sát gần phía trước máy bay do thám Mỹ RC-135 trên không phận quốc tế ở Biển Đông, ngày 26/05/2023. AP
Trong thông cáo, đăng tải ngày hôm qua, bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của quân đội Hoa Kỳ cho biết máy bay Trung Quốc đã bay "ngay phía trước và cách mũi máy bay trinh sát RC-135 khoảng 120 mét vào thứ Sáu (26/05), buộc máy bay của Mỹ phải bay qua vùng nhiễu động".
AFP dẫn lời một quan chức cấp cao của Hoa Kỳ xin giấu tên cho biết những vụ ngăn chặn, đối đầu nguy hiểm trên không và trên biển của tàu và máy bay Trung Quốc đã gia tăng đáng báo động. Vụ việc ngày 26/05 vừa qua không phải là một hành động độc lập của phi công Trung Quốc mà đã "lặp đi lặp lại trên quy mô lớn hơn".
Hôm nay, Trung Quốc đã lên tiếng đáp trả lcáo buộc của Hoa Kỳ. Phát ngôn viên của bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng Mỹ nên chấm dứt những hành động khiêu khích nguy hiểm và khẳng định : "Việc Hoa Kỳ cử tàu và máy bay một cách thường xuyên và dài hạn (đến khu vực này) để giám sát chặt chẽ Trung Quốc, làm tổn hại nghiêm trọng chủ quyền và an ninh quốc gia của Trung Quốc… Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh của mình".
Vụ việc trên xảy ra vào thời điểm quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington vốn đã căng thẳng, liên quan đến các vấn đề về Đài Loan hay vụ một khinh khí cầu Trung Quốc bị bắn rơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ hồi đầu năm nay.
Chiến lược bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, Nam Thái Bình Dương và đối phó của G7
RFA, 30/05/2023
"Hoạt động bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông, vùng biển Nam Thái Bình Dương, khu vực biên giới Trung Quốc - Ấn Độ và khu vực Ấn Độ Dương có nhiều điểm tương đồng với những gì nước này đã làm ở vùng biển xung quanh Nhật Bản và Đài Loan". Trao đổi với RFA, Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudson Institute nhận xét như trên về những động thái mới của cả Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng như khối G7 ở vùng biển Nam Thái Bình Dương. Theo nhà nghiên cứu ở Hudson Institute, những động thái của Trung Quốc ở Nam Thái Bình Dương có liên quan mật thiết tới Biển Đông vì cả hai đều nằm trong "chiến lược chuỗi đảo" của họ.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken và Thủ tướng Papua New Guinea tại cuộc họp báo hôm 22/5/2023 - The US Department of State
Những điểm chung trong chiến lược bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc
Điểm tương đồng đầu tiên của chiến thuật bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên cả ba vùng biển nói trên, Biển Đông, Hoa Đông và Nam Thái Bình Dương, là "coi thường luật pháp quốc tế hiện hành khi đưa ra yêu sách đối với lãnh thổ mới". Ông nói :
"Ở Biển Hoa Đông, Trung Quốc không tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku trước năm 1971, nhưng thái độ của họ đã thay đổi kể từ đó. Quần đảo Senkaku nằm ở vị trí chiến lược để gây sức ép với Đài Loan và có tiềm năng trữ lượng dầu mỏ.
Ở Biển Đông, Trung Quốc đã mở rộng yêu sách lãnh thổ, phớt lờ phán quyết của tòa án quốc tế và xây dựng các đảo nhân tạo. Và Trung Quốc đã bắt đầu triển khai tên lửa và máy bay quân sự trên các đảo, mặc dù khẳng định chúng không có mục đích quân sự.
Thật vậy, đây là mô hình tương tự mà Trung Quốc đã làm theo khi thiết lập một căn cứ quân sự ở Djibouti. Trung Quốc tiếp tục xâm nhập dọc theo biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, mặc dù chính phủ lưu vong Tây Tạng đã tuyên bố rằng những khu vực này thuộc về Ấn Độ.
Trung Quốc đã phớt lờ luật pháp quốc tế hiện hành và mở rộng yêu sách lãnh thổ của mình ở cả ba khu vực nói trên".
Đặc điểm thứ hai của chiến lược mở rộng lãnh thổ của Trung Quốc là chiến thuật lợi dụng tính thời điểm. Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng Bắc Kinh khai thác tình hình bất cứ khi nào họ tìm thấy một "khoảng trống quyền lực".
Đối với Biển Đông, ông chỉ ra là chiến thuật "khai thác khoảng trống quyền lực" mà Trung Quốc thực hiện từ thập niên 1950s đến nay :
"Trung Quốc đã chiếm một nửa quần đảo Hoàng Sa ngay sau khi Pháp rút quân vào những năm 1950. Đến năm 1974—một năm sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam—Trung Quốc chiếm nửa quần đảo còn lại. Trong những năm 1980, Trung Quốc đã mở rộng các hoạt động của mình ở quần đảo Trường Sa và chiếm đóng sáu thực thể ở đó vào năm 1988, ngay sau khi Liên Xô giảm bớt sự hiện diện quân sự ở Việt Nam. Và vào năm 1995, Trung Quốc đã chiếm Đá Vành Khăn ba năm sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Philippines. Các hoạt động này cho thấy Trung Quốc có xu hướng mở rộng phạm vi lãnh thổ của mình khi phát hiện thấy thay đổi về cán cân quân sự và khoảng trống quyền lực theo hướng có lợi cho họ".
Trong hơn mười năm vừa qua, Trung Quốc đã mở rộng các yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, Đài Loan, Nam Thái Bình Dương, biên giới Ấn Độ Dương và Ấn Độ Dương theo cùng một chiến thuật như trên, khi họ phát hiện thấy một khoảng trống quyền lực ở những khu vực này - Tiến sĩ Nagao Satoru nhận xét. Theo ông, có thể nhận thấy khoảng trống quyền lực này qua Cơ sở dữ liệu chi tiêu quân sự của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) : từ năm 2011-2020, Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự lên 76%, nhưng trong cùng thời kỳ, Nhật Bản chỉ tăng 2,4% còn Hoa Kỳ giảm 10% chi tiêu.
Chiến thuật thứ ba của chiến lược mở rộng lãnh thổ của Trung Quốc là kiểm soát phi quân sự. Theo Tiến sĩ Nagao Satoru, Trung Quốc kết hợp chặt chẽ các quân bài kinh tế với mục tiêu mở rộng lãnh thổ :
"Trung Quốc đã sử dụng các dự án cơ sở hạ tầng nước ngoài—được gọi là Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI)—để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình.
Các quốc gia có khoản đầu tư và nợ đáng kể của Trung Quốc ngần ngại chỉ trích Trung Quốc, ngay cả khi nước này vi phạm các quy tắc quốc tế. Trung Quốc cũng đang sử dụng "ngoại giao vắc-xin" đối với Covid-19 để thúc đẩy thiện chí giữa các nước nhận viện trợ. Do đó, đối với Trung Quốc, các phương pháp phi quân sự như các dự án cơ sở hạ tầng, sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng và vắc-xin nhằm mở rộng ảnh hưởng và quyền lực của họ.
Ngay cả đối với các nước phát triển như Nhật Bản và Úc, Trung Quốc cũng sử dụng phương pháp kiểm soát kinh tế này. Ví dụ, khi Úc khăng khăng yêu cầu một cuộc điều tra quốc tế để xác định nguồn gốc của Covid-19, Trung Quốc đã trì hoãn xử lý hàng nhập khẩu của Úc như rượu vang và tôm hùm. Sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc là vũ khí lợi hại để Bắc Kinh mở rộng ảnh hưởng, và cuối cùng là mở rộng lãnh thổ".
Các nước G7 "phản công"
Tiến sĩ Nagao Satoru cho biết hội nghị thượng đỉnh G7 tại Hiroshima đặc biệt quan tâm đến khu vực Nam Thái Bình Dương. Các động thái xâm nhập vào vùng Nam Thái Bình Dương của Trung Quốc nằm trong tổng thể chiến lược bành trướng trên biển và đất liền của nước này, trong đó có Biển Đông, với những chiến thuật tương đối giống nhau.
Ông Nagao Satoru cho rằng không phải ngẫu nhiên mà Tổng thống Biden đã có kế hoạch thăm các lãnh đạo các đảo quốc ở Nam Thái Bình Dương, ngay sau hội nghị thượng đỉnh G7 tại Nhật Bản để bàn cách đối phó với Trung Quốc. Tuy rằng vào phút chót, ông Biden đã phải hủy chuyến thăm này, trở về Thủ đô Washington DC để giải quyết vấn đề trần nợ công với Quốc Hội Mỹ nhưng theo Tiến sĩ Nagao Satoru, lịch trình sắp xếp trước đó của Tổng thống Biden cho thấy vùng Nam Thái Bình Dương quan trọng như thế nào với Hoa Kỳ và các nước G7. Lý do là sau khi chiếm thế thượng phong ở Biển Đông, Trung Quốc đang mở rộng ảnh hưởng ở vùng biển Nam Thái Bình Dương.
"Chiến lược chuỗi đảo" của Trung Quốc
Về lý do Trung Quốc không ngần ngại thể hiện tham vọng ở các đảo quốc Nam Thái Bình Dương, ông Nagao Satoru cho rằng có thể có hai lý do chủ yếu, một là các đảo này nhạy cảm về mặt địa quân sự với Hoa Kỳ và hai là vấn đề giữ thế mạnh ngoại giao cho Đài Loan.
Theo ông Nagao các đảo Nam Thái Bình Dương tuy nhỏ nhưng có tầm quan trọng chiến lược và nhạy cảm. "Trong quá khứ, khi Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng ở Nam Thái Bình Dương, quan hệ của Nhật với Mỹ và Australia xấu đi, và sự bành trướng này của Nhật thời đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến Thế chiến II".
Ngoài ra, các đảo ở Nam Thái Bình Dương và các đảo trên Biển Đông có một mối liên hệ trong chiến lược phòng thủ bằng các chuỗi đảo trên biển của Trung Quốc. Các quan niệm về chuỗi đảo này được xây dựng bởi chiến lược gia Hoa Kỳ John Foster Dulles năm 1951 trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Sau đó quan niệm này được Trung Quốc tiếp thu và phát triển. Các đảo trên Biển Đông là một phần của chuỗi đảo thứ nhất, còn các đảo ở Nam Thái Bình Dương thuộc về chuỗi đảo thứ hai và thứ ba. Tiến sĩ Nagao Satoru nhấn mạnh :
"Bây giờ, ở Trung Quốc, họ bắt đầu nói về chuỗi đảo thứ ba ở Thái Bình Dương, là tuyến phòng thủ của Trung Quốc với chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai.
Và Mỹ đã bắt đầu lo ngại rằng các hoạt động quân sự của Trung Quốc sẽ mở rộng sang chuỗi đảo thứ ba. Nếu Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ở Nam Thái Bình Dương, Mỹ và Australia sẽ nhận thấy mối đe dọa của Trung Quốc trở nên nghiêm trọng hơn.
Ví dụ, nếu Trung Quốc thiết lập một căn cứ hải quân ở Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc sẽ dễ dàng triển khai các tàu hải quân của mình đến Hawaii, Bờ biển phía Tây của Hoa Kỳ và Úc, v.v. Mỹ và Úc cho rằng một động thái như vậy của Trung Quốc sẽ là một thách thức nghiêm trọng đối với họ".
Ngoài vấn đề phòng thủ thông qua kiểm soát các chuỗi đảo, các đảo quốc Nam Thái Bình Dương còn liên hệ mật thiết tới sức mạnh ngoại giao của Đài Loan. Tiến sĩ Nagao nói :
"Điều gì sẽ xảy ra nếu Đài Loan mất hết các mối quan hệ ngoại giao chính thức ở Nam Thái Bình Dương ?
Những năm gần đây, Trung Quốc thuyết phục Kiribati và quần đảo Solomon ở Nam Thái Bình Dương cắt quan hệ ngoại giao chính thức với nước này và thiết lập quan hệ với Trung Quốc.
Hiện tại, Mỹ đã bắt đầu cho rằng Trung Quốc sẽ là đối thủ quan trọng nhất đối với Mỹ. Nếu Mỹ cần đối phó với Trung Quốc, Đài Loan rất quan trọng. Nếu Trung Quốc thuyết phục thành công các quốc đảo Thái Bình Dương vốn có các quan hệ ngoại giao với Đài Loan lâu nay cắt quan hệ, Đài Loan sẽ phải đối mặt với sự cô lập ngoại giao nghiêm trọng hơn. Nếu Đài Loan có đủ hỗ trợ ngoại giao, Trung Quốc sẽ khó xâm chiếm Đài Loan hơn. Nhiều nước cho rằng nếu Đài Loan bị cô lập về ngoại giao thì trong trường hợp Trung Quốc xâm lược nước này, sẽ có ít quốc gia chỉ trích hành động xâm lược của Trung Quốc. Lập luận của những nước ủng hộ Trung Quốc sẽ là hành vi xâm lược đó không vi phạm luật pháp quốc tế nếu Đài Loan không phải là một quốc gia độc lập. Do đó, trạng thái quan hệ ngoại giao của Đài Loan là vấn đề nghiêm trọng liên quan đến cuộc xâm lược có thể có của Trung Quốc trong tương lai".
Khác Biển Đông, nơi Trung Quốc từ lâu đã chiếm đảo Hoàng Sa, cải tạo đảo và xây dựng hoàn tất cả căn cứ quân sự lớn ở Trường Sa, trở thành tay chơi chiếm thế thượng phong trong vùng biển này, tại các đảo Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc chưa hoàn toàn chiếm thế thượng phong.
Về khả năng đối phó với Trung Quốc ở khu vực Nam Thái Bình Dương, Tiến sĩ Nagao Satoru cho rằng ngay cả khi Trung Quốc đã mở rộng ảnh hưởng trong vùng, cũng không khó cho G7 xoay chuyển thái độ của các đảo này một lần nữa. Khác với các đảo ở Biển Đông nơi điều kiện tự nhiên vốn không thể duy trì cư dân cư trú, nhiều đảo Nam Thái Bình Dương là những quốc đảo dù quy mô của các đảo này rất nhỏ. Mỹ, Australia, Nhật Bản có thể chuẩn bị đầu tư quy mô tương đương với đầu tư của Trung Quốc. Ông cho biết :
"Đó là lý do tại sao sau hội nghị thượng đỉnh của nhóm G7 tại Hiroshima thì hội nghị thượng đỉnh QUAD diễn ra tại Sydney vào ngày 24/5/2023 sẽ tập trung vào các vấn đề Nam Thái Bình Dương. Tổng thống Biden cũng đã lên kế hoạch thăm các lãnh đạo các đảo Nam Thái Bình ngay trước hội nghị thượng đỉnh QUAD. Dù sau đó ông Biden phải hủy bỏ chuyến thăm vì vấn đề quốc nội những những động thái này sẽ có ảnh hưởng tác động để xoay chuyển tình thế.
Vì vậy, nếu Trung Quốc tiếp tục mở rộng ảnh hưởng ở Nam Thái Bình Dương sẽ đẩy Mỹ, Australia, Nhật Bản thậm chí cả Ấn Độ vào thế bị ép quá đáng và các nước này phải ra đòn đáp trả.
Hiện Trung Quốc đã mở 8 đại sứ quán và lãnh sự quán ở các đảo Nam Thái Bình Dương (Micronesia, Kiribati, Samoa, Papua New Guinea, Solomon, Vanuatu, Fiji, Tonga). Mỹ mở 9 đại sứ quán và lãnh sự quán (Micronesia, Marshal, Kiribati, Samoa, Palau, Papua New Guinea, Solomon, Fiji, Tonga). Do đó, mặc dù Trung Quốc có lợi thế trong một số lĩnh vực, nhưng Mỹ đang đáp trả".
Tiến sĩ Nguyễn Khắc Giang ở Viện ISEAS của Singapore thì cho rằng các đảo ở Nam Thái Bình Dương quan trọng với Mỹ, nhưng đối với Úc thì còn quan trọng hơn. Do các đảo này nằm án ngữ vùng "phên dậu" của Úc. Sự xâm nhập của Trung Quốc vào vùng Nam Thái Bình Dương là lý do khiến cho Úc phải tăng cường phòng thủ, trong đó phải kể đến đại dự án tàu ngầm hạt nhân AUKUS hợp tác với Mỹ và Anh.
So sánh về tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông với Việt Nam và các đảo trên vùng biển Nam Thái Bình Dương với Úc, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Giang cho rằng mức độ quan trọng là như nhau vì cùng nằm án ngữ "phên dậu". Nhưng về mức độ kiểm soát đối với các đảo tiền tiêu này thì Việt Nam yếu hơn Úc. Từ sau 1945, Việt Nam chưa thực sự bao giờ kiểm soát hoàn toàn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi đó, Úc luôn coi Nam Thái Bình Dương như là "sân sau". Úc đã đầu tư vào các đảo này khá nhiều, hơn nữa, mỗi khi có bạo động ở những hòn đảo như Tonga hay Papua New Guinea thì toàn Úc và New Zealand gửi quân gìn giữ hòa bình đến.
Khi Trung Quốc tìm cách lấn vào vùng Nam Thái Bình Dương, vùng ảnh hưởng và quan trọng về mặt an ninh của Úc cũng như Mỹ, vùng này sẽ có những rủi ro nhưng cũng được hưởng lợi vì được quan tâm đầu tư nhiều hơn, theo nhận xét của Tiến sĩ Nagao Satoru ở Hudon Institute :
"Nhìn từ lợi ích của các quốc đảo này, họ sẽ lo lắng "khi voi đánh nhau, cỏ bị giày nát". Tuy nhiên, đồng thời, đầu tư của hai phía đang kéo đến vì ở đó có sự cạnh tranh. Và vì quy mô của các quốc đảo Nam Thái Bình Dương này, không có gì là quá muộn để Hoa Kỳ di chuyển vào khu vực. Trong tương lai gần, số lượng đại sứ quán và lãnh sự quán sẽ tăng lên và đầu tư cũng sẽ tăng lên".
Trung Quốc tiến hành khảo sát trong vùng EEZ của các nước ở Biển Đông và Nam Thái Bình Dương
RFA, 30/05/2023
Từ nửa đầu tháng 5/2023 trở lại đây, Trung Quốc liên tục đưa tàu khảo sát xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của các nước xung quanh Biển Đông và vùng biển Nam Thái Bình Dương cùng một lúc.
Vị trí của 5 tàu khảo sát của Trung Quốc : Xiang Yang Hong 10, 14, 31, tàu Jia Geng ở Biển Đông và tàu Haiyang Dizhi 6 ở Nam Thái Bình Dương - Marine Traffic / RFA
Như RFA đã đưa tin, Trung Quốc tung tàu khảo sát Xiang Yang Hong 10 (Hướng Dương Hồng 10) xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam liên tục từ ngày 7 tháng 5 đến nay. Việt Nam điều tàu Kiểm Ngư 465 và 468 cùng tàu cảnh sát biển 7011 giám sát hiện trường. Đến hôm nay, tàu Xiang Yang Hong 10 vẫn đang khảo sát bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trong khi tàu Xiang Yang Hong 10 đang khảo sát vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, hôm 10/5/2023, một tàu khảo sát khác là Xiang Yang Hong 31 cũng tiến từ đảo Hải Nam xuống căn cứ quân sự đá Xu Bi mà Trung Quốc xây dựng ở Trường Sa, rồi từ ngày 23/5 tiến xuống đá Vành Khăn (Mischief Reef) thuộc quần đảo Trường Sa và nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines (cách đường cơ sở của nước này khoảng 120 hải lý.) Tàu Xiang Yang Hong 31 vẫn đang khảo sát ở đá Vành Khăn từ đó đến nay.
Từ cuối tháng 4, trước khi tàu Xiang Yang Hong 10 tiến hành khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, tàu khảo sát Xiang Yang Hong 14 đã tiến đến căn cứ quân sự đá Xu Bi (Subi Reef) ở Trường Sa và di chuyển giữa đá Xu Bi và căn cứ quân sự đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef). Hôm nay, 30/5, tàu Xiang Yang Hong 14 vẫn đang ở căn cứ Xu Bi.
Vị trí của tàu khảo sát Xiang Yang Hong 14 và 31 ở khu vực Trường Sa, Xiang Yang Hong 10 trong EEZ Việt Nam. Đồng thời, hiện nay tàu khảo sát Nga Akademik Oparin cũng đang hoạt động ở bãi Nam Côn Sơn trong một hợp tác giữa Việt Nam và Nga. (Ảnh : Marine Traffic / RFA)
Trong một diễn biến khác, trong khi Xiang Yang Hong 10 khảo sát vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, Trung Quốc tung tàu khảo sát khác là Jia Geng (Gia Canh) vào Biển Đông. Theo dữ liệu AIS mà RFA ghi nhận được, tàu Jia Geng xuất phát từ Macao hôm 13 tháng 5, tiến vào Biển Đông từ ngày 14, rồi đi thẳng vào vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ngày 20 tháng 5.
Tàu khảo sát Jia Geng khảo sát trong EEZ của Philippines, cách đường cơ sở chỉ khoảng 50 hải lý. (Ảnh : Marine Traffic / RFA)
Tàu Jia Geng đã khảo sát bên trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này đến 23 tháng 5 rồi tiến về phía nam. Trong thời gian đó, tàu Jia Geng có lúc khảo sát ở khu vực cách đường cơ sở của Philippines chỉ 50 hải lý. Hôm nay 30/5, tàu Jia Geng đi thẳng vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, khu vực đảo Ranai. Đảo Ranai có dân số hơn 20 ngàn người, là thủ phủ của quần đảo Natuna của Indonesia, có đủ điều kiện để có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng.
Đây là lần Trung Quốc tiến hành xâm nhập và khảo sát đồng thời ở cả hai vùng biển là Biển Đông và biển Nam Thái Bình Dương cùng một lúc. Ông Raymond Powell, Giám đốc chương trình nghiên cứu Biển Đông tại Đại học Stanford, cho biết trong khi các tàu khảo sát Xiang Yang Hong 10, 14, 31 và Jia Geng xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Phillipines, Indonesia ở Biển Đông, thì Trung Quốc cũng điều tàu khảo sát Haiyang Dizhi Liuhao (Hải Dương Địa Chất Lục Hiệu, tức Hải Dương Địa Chất 6) tiến vào vùng biển Nam Thái Bình Dương, xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của đảo quốc Palau từ ngày 24 tháng 5 vào khảo sát ở đó đến nay. Có thời điểm tàu Haiyang Dizhi này khảo sát cách đường cơ sở của Palau chỉ khoảng 50 hải lý. Ông Powell cho biết "đây không phải là lần đầu tiên tàu khảo sát Trung Quốc vi phạm vùng biển của Palau". Động thái này của Trung Quốc diễn ra chỉ sau hai ngày, khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã tham dự lễ ký kết Thỏa thuận Hoa Kỳ-Palau 2023 vào ngày 22 tháng 5. Ông Raymond Powell nhận xét :
"Trung Quốc thường xuyên sử dụng các hoạt động khảo sát để khẳng định chủ quyền của mình. Tất nhiên, điều đó không áp dụng cho các cuộc khảo sát từ tuần trước ở vùng biển của Palau, vì họ không đòi hỏi chủ quyền ở vùng biển đó. Nhưng họ biết rằng Palau có rất ít khả năng phản đối các cuộc khảo sát của họ".
Tàu khảo sát Haizang Dizhi Liuhao đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của đảo quốc Palau ở Nam Thái Bình Dương. (Marine Traffic / RFA)
Trở lại với Biển Đông, theo dữ liệu AIS mà RFA ghi nhận được, có những thời điểm tàu Kiểm ngư của Việt Nam và tàu Hải cảnh Trung Quốc di chuyển gần nhau ở khoảng cách khoảng 300 mét đến 1.000 mét. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp ở Viện ISEAS của Singapore nhận xét về khả năng va chạm giữa hai bên trong thời gian tới, căn cứ vào những bài học trước đây và những động thái ngày càng gia tăng áp lực của Trung Quốc :
"Hai tàu đi cách nhau 300 mét cũng chưa phải là một cái gì đó nguy hiểm. Trước đây, tàu hai bên có lúc còn phun vòi rồng và húc nhau
Có nhiều yếu tố tác động đến những chiến dịch xâm nhập EEZ Việt Nam như vậy của Trung Quốc, trong đó thời tiết là một yếu tố. Đợt xâm nhập 2019, Trung Quốc đã khảo sát EEZ Việt Nam từ tháng 7 đến 10. Từ nay đến tháng 7 là mùa biển lặng nên Trung Quốc có thể sẽ còn xâm nhập EEZ Việt Nam liên tục. Nếu hai bên không kìm chế, có thể tàu hai bên sẽ phun nước, húc nhau, dọa chĩa súng như một số lần trước".
Các nước ở Biển Đông và Nam Thái Bình Dương bị Trung Quốc xâm nhập trái phép cùng lúc nhưng không hành động cùng nhau để phản đối Trung Quốc. Mỗi nước có một cách riêng để chống lại "người khổng lồ" này. Philippines liên minh với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Palau ký kết thỏa thuận tương trợ Hoa Kỳ - Palau. Ông Raymond Powell ở Đại học Stanford nhận xét :
"Các quốc gia trong khu vực hiếm khi cùng nhau hành động đối với các vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Điều này mang lại lợi ích cho Bắc Kinh. Trung Quốc tuyên bố công khai là họ ưu tiên cho các cuộc thảo luận song phương. Họ làm bất cứ điều gì có thể để ngăn cản những hành động tập thể trong khu vực".
Ông Raymond Powell nhận xét về cách phản ứng của Hà Nội với chiến dịch xâm nhập của Trung Quốc :
"Tôi nghĩ rằng, cho đến nay Hà Nội đã thực sự cố gắng giảm thiểu sự cố này để tránh leo thang. Chính phủ đã trì hoãn bình luận cho đến khi sự chú ý của quốc tế đạt đến mức mà tại đó họ không thể giữ im lặng một cách đáng tin cậy nữa. Ngay cả khi đó, báo chí do Nhà nước kiểm soát của Việt Nam cũng đề cập khá ít đến vấn đề này".
Tàu khảo sát Trung Quốc bám tại EEZ Việt Nam : Bắc Kinh muốn gì ?
RFA, 30/05/2023
Đến ngày 30/5, tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 của Trung Quốc vẫn hoạt động trong vùng biển Việt Nam.
Tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 vẫn hoạt động trong vùng biển Việt Nam vào ngày 30/5. Ảnh : MarineTraffic
Theo thông tin từ trang web của nhà báo, nhà nghiên cứu Biển Đông Duân Đặng, ngoài hai tàu hải cảnh 5305 và 3303, cùng một số tàu dân binh, đội hình hộ tống của tàu Hướng Dương Hồng 10 dường như được bổ sung thêm tàu Hải cảnh 4103.
Về phía Việt Nam, hai tàu kiểm ngư KN-465 và KN-469 vẫn bám sát đội hình này.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho biết theo luật quốc tế về biển thì tàu thuyền của các quốc gia khác được đi qua vùng biển của Việt Nam, nhưng phải tuân theo nguyên tắc "Đi qua không gây hại", nghĩa là không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của các quốc gia khác :
"Thế nhưng, trường hợp này nó (tàu Hướng Dương Hồng 10 - PV) không phải là đi qua mà nó đến đấy để thực hiện những hoạt động thăm dò không được phép và họ bảo rằng đó là biển của họ, thì đó là một hoạt động không còn là vô hại nữa".
Theo ông Hà Hoàng Hợp, hành động của Trung Quốc có bốn mục tiêu chính. Thứ nhất là Trung Quốc muốn quấy rầy, xâm phạm trắng trợn chủ quyền Việt Nam :
"Họ (Trung Quốc - PV) làm vậy để chứng tỏ đó cũng là vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Trung Quốc, dù là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Họ đưa các hoạt động thực địa ra để tái khẳng định cái đòi hỏi đó".
Thứ hai, ông Hà Hoàng Hợp cho biết nếu để ý đường đi của tàu khảo sát thì "sẽ thấy rằng nó muốn phá các hoạt động khai thác dầu khí của Liên doanh Nga và Việt Nam.
Thứ ba là Trung Quốc muốn thử nghiệm một động tác mới, nằm trong tổng thể chiến thuật vùng xám của Trung Quốc :
"Cái mới ở đây là họ lần đầu tiên dùng các tàu cá có trang bị vũ trang của dân binh đi hộ tống. Từ trước đến nay chỉ có tàu hải cảnh của Trung Quốc đi kèm thôi".
Mục tiêu thứ tư, theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, là Trung Quốc liên tục sử dụng chiến thuật vùng xám thách thức Việt Nam, tuyên bố chủ quyền một cách vô lý, vô pháp của họ.
Nhận định về vụ việc lần này, giáo sư Carl Thayer, một nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam, cho biết các yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông là không có căn cứ theo luật pháp quốc tế, và trong trường hợp này là vi phạm quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng biển và tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế của mình :
"Trung Quốc dường như đang phản ứng với các hoạt động thăm dò dầu mới ở khu vực gần Bãi Tư Chính. Bằng việc cử một tàu khảo sát cùng với các tàu hộ tống, Trung Quốc đang gửi một thông điệp tới Việt Nam rằng họ không công nhận quyền tài phán của Việt Nam ở khu vực này".
Trả lời RFA qua email, ông Vũ Xuân Khang, Nghiên cứu sinh Tiến sĩ ngành An ninh quốc tế tại Đại học Boston (Boston College) cho rằng lần này, ngoài mục đích chính là khẳng định chủ quyền của họ trên biển Đông, Trung Quốc còn có một mục đích khác ít người đề cập đến :
"Đó là cho Việt Nam thấy rằng bất chấp Hà Nội đi tìm sự ủng hộ quốc tế với vấn đề Biển Đông, sẽ không có nước nào sẵn sàng đứng về phía Việt Nam và ủng hộ Việt Nam thực chất.
Mỹ, Ấn Độ, Úc, hay Nhật Bản đều có quyền lợi của riêng họ, và không có lý do gì họ phải giúp đỡ Việt Nam cả, và Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy là Việt Nam cô độc trên biển Đông và đừng nên đối đầu với Trung Quốc vô ích".
Phá hoại hoạt động thăm dò dầu khí của Việt - Nga
Theo Reuters, tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 đã di chuyển phần lớn qua lô khí đốt 04-03, do Vietsovpetro, một liên doanh giữa Zarubezhneft và PetroVietnam, vận hành.
Nó cũng thường xuyên đi qua các lô 132 và 131 mà Việt Nam đã cấp phép cho Vietgazprom, một liên doanh giữa tập đoàn khổng lồ Gazprom của Nga và PetroVietnam. Trung Quốc đã đưa ra các hồ sơ dự thầu cạnh tranh để cấp phép cho hai lô đó.
Theo ông Hà Hoàng Hợp, việc di chuyển lại gần khu vực khai thác nêu trên cho thấy Trung Quốc muốn quấy phá hoạt động khai thác bình thường, hợp pháp của liên doanh Nga - Việt :
"Tính chất của việc làm này là rất nặng nề. Trung Quốc thấy rằng nước Nga đang gặp phải vụ rắc rối ở Ukraine cho nên họ quấy phá, họ muốn đuổi người Nga đi khỏi vùng này, nhưng mà không bao giờ có thể đuổi được Nga bởi vì Nga không có một thỏa thuận nào để rút khỏi cái vùng biển đó".
Phân tích thêm về việc Trung Quốc quấy rối trong lô dầu khí mà Nga và Việt Nam đang vận hành, giáo sư Carl cho biết, trong năm 2017 và 2018, Trung Quốc đã phản đối các hoạt động thăm dò của Repsol của Tây Ban Nha và Rosneft của Nga ở vùng biển gần Bãi Tư Chính.
Năm 2019, Trung Quốc triển khai tàu khảo sát và hộ tống đến Bãi Tư Chính để quấy rối hoạt động thăm dò dầu khí của Repsol của Tây Ban Nha. Trung Quốc được cho là đã đưa ra những lời đe dọa buộc lãnh đạo Việt Nam khi đó phải ra lệnh dừng hoạt động và trả tiền bồi thường cho Repsol.
Trong thời gian gần đây, các quan chức Chính phủ Nga đã từ chối yêu cầu của Trung Quốc là ra lệnh cho Rosneft ngừng hoạt động. Tình hình lần này khác vì Nga phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc do cuộc chiến của Putin ở Ukraine.
Trong một bức tranh lớn hơn, tập đoàn Gazprom của Nga có lợi ích từ Lô Cá Ngừ của Indonesia. Tập đoàn này có kế hoạch dẫn khí đốt đến Việt Nam bằng cách kết nối với cơ sở hạ tầng trong khu vực Bãi Tư Chính. Trung Quốc muốn gây áp lực lên cả chính quyền Hà Nội và Jakarta để làm gián đoạn các kế hoạch vừa nêu.
Trung Quốc sẽ tăng cường quấy nhiễu
Theo Giáo sư Carl Thayer, khu vực chính mà Trung Quốc muốn nhắm đến hiện nay là Biển Tây Philippines, do hợp tác quốc phòng giữa Philippines và Hoa Kỳ được tăng cường. Trung Quốc không có lợi khi kích động sự đối đầu ở vùng biển mà cả Philippines, Indonesia và Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Do đó, ông đưa ra dự báo :
"Trung Quốc có thể sẽ ưu tiên tăng cường áp lực lên Philippines. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ không bỏ mặc Việt Nam và Indonesia. Tàu Trung Quốc rất có thể sẽ quay trở lại đồng thời Trung Quốc sẽ đưa ra lời cảnh báo và áp lực ngoại giao đối với Jakarta và Hà Nội".
Ông Vũ Xuân Khang dự đoán, sắp tới, Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền mà họ tuyên bố và cho Việt Nam thấy rằng Việt Nam không có cơ hội đối đầu với Trung Quốc trên biển :
"Cần nhớ rằng Việt Nam chưa bao giờ thắng một trận hải chiến ngoài khơi với Trung Quốc, nên Trung Quốc hoàn toàn tự tin vào khả năng bắt nạt Việt Nam trên biển".
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh sử dụng chiến thuật vùng xám và chiến thuật này sẽ leo thang đến gần giới hạn giữa vùng xám và xung đột vũ trang :
"Trong trường hợp đó, Việt Nam vốn là nước đã có kinh nghiệm trong việc tiến hành các biện pháp để phòng thủ quốc gia trong bối cảnh bất cân xứng, cho nên không có gì phải sợ cả. Tất nhiên là Việt Nam không bao giờ muốn phải đánh nhau, thế nhưng mà một khi đã bị tấn công thì ta sẽ đáp trả".
Tuy nhiên, theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, hiện Việt Nam vẫn còn nhiều phương cách phi quân sự khác nhau, như là các biện pháp về đối ngoại Nhà nước, quốc phòng, đối ngoại an ninh và đối ngoại nhân dân… để ngăn chặn xung đột từ sớm.
Tập Cận Bình dịu giọng ở các thượng đỉnh khu vực, nhưng hòa bình chưa quay lại ở Biển Đông
Những khoảnh khắc bất ngờ của Chủ tịch Tập Cận Bình tại các hội nghị thượng đỉnh ở Đông Nam Á hồi tuần trước đã mang đến những cái nhìn hiếm hoi về nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ và sự trấn an về chính sách ngoại giao thời hậu đại dịch của ông.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại APEC ở Bangkok hôm 19/11/2022 - AFP
Trái ngược với thái độ cứng rắn của ông tại Đại hội lần thứ XX của Đảng cộng sản Trung Quốc (Đại hội XX) vào tháng trước, nơi ông tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư nhiệm kỳ thứ ba chưa từng có tiền lệ, Tập Cận Bình tỏ ra thân mật và hợp tác tại Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Bali và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) ở Bangkok cách đây không lâu.
Con sói đã trở thành cừu ?
Đọc Tuyên bố chung nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được thông qua ngày 11/11 vừa qua và bài phát biểu của Tập Cận Bình tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á–Thái Bình Dương (APEC) hôm 17/11 tưởng chừng như các vấn đề ở Biển Đông đã kết thúc và một kỷ nguyên hòa bình đã bắt đầu với cách tiếp cận thay đổi của Trung Quốc.
Tuyên bố chung trên nhấn mạnh về việc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau phù hợp với luật pháp quốc tế bao gồm cả Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982. Tuyên bố cũng nhấn mạnh cam kết duy trì và thúc đẩy một môi trường có lợi để thực thi đầy đủ, hiệu quả DOC và để sớm thông qua một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất và hiệu quả, dựa trên sự đồng thuận, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982. Trong khi "cam kết duy trì, thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông đã được tái khẳng định", tuyên bố cũng nhấn mạnh rằng "các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS 1982, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), năm nguyên tắc chung sống hòa bình, và các nguyên tắc được công nhận phổ quát khác của luật pháp quốc tế sẽ đóng vai trò là những chuẩn mực cơ bản chi phối quan hệ của các quốc gia" (1).
Tương tự, bài phát biểu của Tập Cận Bình tại APEC (ngày 17/11/2022) cũng đi theo đường hướng trên. Ông Tập đã nói về sự cần thiết phải đi theo con đường phát triển hòa bình, cởi mở và bao trùm, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của tiêu chuẩn kết nối cao hơn nữa cũng như đặt kế hoạch cho "Sáng kiến phát triển toàn cầu" (GDI) của ông nhằm giải quyết sự mất cân bằng trong phát triển (2).
Cả hai bài phát biểu trên của Tập Cận Bình đều chỉ ra rằng đã có sự thay đổi quan điểm của Chủ tịch Trung Quốc và "kỷ nguyên chèn ép, bắt nạt" sẽ chấm dứt. "Chung sống trong tình trạng hỗn loạn" ở Biển Đông sẽ được chuyển thành "chung sống trong hòa bình" mà không có sự xâm phạm nào đối với các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia khác và khu vực này sẽ được quản lý bởi luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Không có kịch bản nào tốt hơn có thể được hình dung cho Biển Đông, nơi căng thẳng đang leo thang. Một số chuyên gia nhận định rằng sau khi đảm bảo nhiệm kỳ thứ ba, Tập Cận Bình đang cố gắng quảng bá hình ảnh của mình như một chính khách có trách nhiệm và là sứ giả hòa bình.
Sói vẫn là sói cho dù đội lốt cừu
Tuy nhiên, điều này quá xa vời. Những tuyên bố như vậy cũng đã được đưa ra trước đó. So sánh hai bài phát biểu trên với Tuyên bố chung được đưa ra năm 2021 nhân dịp kỷ niệm 30 năm Đối thoại ASEAN-Trung Quốc, cho thấy rằng những đảm bảo tương tự cũng đã được đưa ra khi đó. Tập Cận Bình đã đưa ra các cam kết tương tự trong tất cả các hoạt động tiếp xúc ngoại giao. Tại APEC, ông Tập đã cố gắng quảng bá Sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI) cũng như GDI của mình. GDI là ý tưởng mới của ông Tập trong khi BRI trở nên không bền vững và lu mờ. GDI ít đem lại rắc rối, trong khi đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, cả hai đều là một phần trong "ngoại giao bẫy nợ" của Trung Quốc.
Với việc Tập Cận Bình sử dụng sự lừa dối, ép buộc, sức mạnh kinh tế cũng như sức mạnh quân sự như những công cụ trong "nghệ thuật cai trị" để đối phó với các nước ASEAN, Tuyên bố chung được đưa ra trong năm nay và bài phát biểu tại APEC có thể được xếp vào loại bài "phát biểu nước đôi" thường thấy của Chủ tịch Trung Quốc. Tập Cận Bình là "đệ tử vĩ đại" của Tôn Tử, người đã tuyên bố rằng "tất cả chiến tranh đều dựa trên sự lừa dối". Tập Cận Bình đã nắm bắt được khía cạnh này của cuộc chiến. "Phát biểu nước đôi" của ông Tập là một phần trong chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu bằng cách giữ cho các đối thủ yên tâm về việc Trung Quốc sẵn sàng giải quyết mọi vấn đề thông qua đàm phán, trong khi thực hiện các bước nhỏ, không thu hút bất kỳ phản ứng đáng kể nào từ những nước khác nhưng những điều này sẽ tích lũy dần theo thời gian và sẽ trở thành một thách thức chiến lược nghiêm trọng.
Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại APEC hôm 19/11/2022 ở Bangkok, Thái Lan. Hình : Reuters
COC vẫn chỉ là mộng tưởng
Thực tế là ngay cả sau 20 năm, DOC vẫn chỉ là một văn bản chính trị trên giấy và đang được Bắc Kinh sử dụng thường xuyên để nhấn mạnh rằng cần phải tạo ra một môi trường phù hợp để thực hiện nó. Nỗ lực này là để phản ánh rằng các nước ASEAN phải chịu trách nhiệm về sự chậm trễ đó. COC mặc dù có một dự thảo duy nhất nhưng vẫn chưa thể hoàn thiện. Dự thảo duy nhất chỉ chứa các quan điểm không thể dung hòa của các bên liên quan.
Bài phát biểu của ông Tập tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng cộng sản Trung Quốc (Đại hội XX) đã tiết lộ chiến lược và mục tiêu của ông ở Biển Đông, trong đó nhấn mạnh về việc sử dụng vũ lực, giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh cục bộ cũng như kế hoạch phục hưng của Trung Quốc. Phục hưng ở đây có nghĩa là giành lại tất cả các khu vực ở ngoại vi mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Mục tiêu tổng thể của Trung Quốc cần phải được theo dõi kỹ càng. Hành vi hung hăng, hoạt động xâm lấn vào EEZ của các quốc gia khác, chèn ép, bắt nạt và sử dụng sức mạnh kinh tế của Trung Quốc cho thấy ý đồ của Bắc Kinh không chỉ nhằm chiếm đóng Biển Đông, mà còn nhằm phá vỡ các yếu tố cốt lõi của trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Trong vài năm gần đây, hành vi hung hăng của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể, trong đó gồm có việc đặt giàn khoan dầu trong EEZ của các quốc gia khác, cản trở hoạt động khoan dầu của các quốc gia khác trong khu vực của họ, thường xuyên tuần tra trong khu vực "Đường 9 đoạn", tận dụng các hoạt động gây ảnh hưởng để thao túng tâm lý của các mục tiêu bao gồm giới hoạch định chính sách, thu phục các chính trị gia tham nhũng của các đối thủ bằng các biện pháp bất hợp pháp, sử dụng nguồn nước làm vũ khí, tăng cường tuyên truyền để thuyết phục các nước khác về yêu sách của Bắc Kinh.
Trung Quốc cũng thường xuyên cấm các quốc gia khác đánh bắt cá, bề ngoài là để bảo vệ môi trường biển nhưng thực chất là để từ chối hoạt động đánh bắt cá của các quốc gia khác. Trong khi đó, lực lượng dân quân Trung Quốc vẫn tiếp tục các hoạt động đánh bắt cá. Trung Quốc không chỉ tạo ra các đảo nhân tạo mà còn quân sự hóa các thực thể này cho dù họ đã đưa ra lời đảm bảo với Mỹ vào năm 2015 là "sẽ không tiến hành các hoạt động như vậy". Hỗ trợ thương mại và tài chính được lợi dụng làm mồi nhử để lôi kéo các nước ASEAN ủng hộ Trung Quốc.
Để khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông, Trung Quốc đã thành lập các đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời trao quyền cho lực lượng Hải cảnh để ngăn chặn các tàu, thuyền nước ngoài.
Ở Biển Đông, Bắc Kinh có lợi ích gấp bốn lần - thiết lập quyền kiểm soát hoàn toàn đối với "Đường 9 đoạn", bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông và Đài Loan, thiết lập quyền bá chủ bằng cách loại bỏ tầm ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực, và dần mở rộng ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã tuyên bố rằng chủ quyền của họ ở Biển Đông là không thể thương lượng. Nước này cũng cho rằng đằng sau tranh chấp Biển Đông, có sự cạnh tranh giữa Washington và Bắc Kinh. Do đó, trọng tâm của Trung Quốc là thay đổi nguyên trạng trong khu vực bằng cách thiết lập quyền bá chủ của họ.
Hiện có cảm giác rằng một khi chiếc ô an ninh của Mỹ bị loại bỏ khỏi khu vực này, các quốc gia nhỏ hơn đang tranh chấp với các yêu sách của Trung Quốc sẽ phải chấp nhận chủ quyền của nước này trong "Đường 9 đoạn". Trung Quốc coi việc quyền kiểm soát không thể tranh cãi đối với khu vực ở Biển Đông là hoàn toàn cần thiết vì các lý do chiến lược, kinh tế và thương mại.
ASEAN cần tỉnh giấc
Giờ đây, các nước ASEAN đang nhận ra sự hai mặt của Tập Cận Bình. Sau khi Malaysia đệ trình (tháng 12/2019) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) yêu cầu quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, một số công hàm ngoại giao đã được 10 quốc gia trao đổi, trong đó có Malaysia, Indonesia, Việt Nam, Philippines và Trung Quốc. Đây là các bên có yêu sách trực tiếp liên quan đến Biển Đông. Ngoài ra còn có các quốc gia khác như Australia, Pháp, Đức, Mỹ và Anh là các bên hoàn toàn không có yêu sách ở Biển Đông.
Ngoại trừ Trung Quốc, các quốc gia khác đã đề cập rằng các yêu sách về quyền và quyền tài phán ở Biển Đông phải phù hợp với UNCLOS và để hỗ trợ cho quan điểm của mình, các nước này đã viện dẫn phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) năm 2016 ở La Haye (Hà Lan). Các bên không yêu sách nêu trên cũng ủng hộ việc giải quyết tranh chấp phù hợp với UNCLOS và thi hành phán quyết PCA. Các thành viên trong nhóm Bộ tứ (Mỹ, Australia, Nhật Bản và Ấn Độ) đang thúc đẩy trật tự quốc tế dựa trên luật lệ trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và chấp nhận vai trò trung tâm của ASEAN. Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương không thể đạt được nếu không có hòa bình ở Biển Đông.
Đã đến lúc phải nhấn mạnh việc thực thi phán quyết PCA hơn là dung thứ cho cách tiếp cận dối trá của Tập Cận Bình. Các nước ASEAN phải kiên quyết thúc đẩy việc thực thi phán quyết PCA. Việc "chiều lòng" Trung Quốc sẽ chỉ làm gia tăng hành vi chèn ép từ quốc gia này. Điều này chỉ có thể khả thi nếu cộng đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ các bên yêu sách trong ASEAN theo một phương thức thống nhất. Cần phải khẳng định rõ rằng "Đường 9 đoạn" của Trung Quốc là không có giá trị và phán quyết PCA sẽ là cơ sở cho mọi khiếu nại. Càng trì hoãn lâu, cơ hội giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình sẽ ngày càng xa vời.
Trương Minh Vũ
Nguồn : RFA, 27/11/2022
Tham khảo :
1. https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/202211/t20221114_10974284.html
Trung Quốc ra sức tuyên truyền
Trung Quốc lại đang ra sức thực hiện chiến dịch truyền thông, nhằm đánh lừa dư luận về vấn đề Biển Đông.
Reuters
Ngày 3/8, ông Ngô Sĩ Tồn (Wu Shicun) (1), Viện trưởng Viện nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông đã đăng bài một bài viết trên Khmer Times (Campuchia) với tựa đề "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là con đường tốt nhất để duy trì yên bình ở vùng biển này" (2).
Trước đó không lâu, Ngô Sĩ Tồn cũng đăng một bài trên Khmer Times, với tựa đề "DOC và Bộ quy tắc ứng xử để ngăn ngừa Biển Đông trở thành chiến trường cho các nước lớn" (3).
Trong bài viết này, Ngô Sĩ Tồn khẳng định rằng : "Do đó, cách duy nhất để tránh vấn đề nêu trên là thúc đẩy hợp tác hàng hải trong khuôn khổ DOC theo hướng thực dụng hơn, đồng thời đẩy nhanh việc xây dựng các quy tắc và cơ chế an ninh ở Biển Đông với việc tham vấn COC (Bộ quy tắc ứng xử) như một điểm khởi đầu, để đạt được hòa bình và ổn định lâu dài ở Biển Đông" (4).
Trong bài viết ngày 3/8 thì ông Ngô Sĩ Tồn cũng nói thêm : "Phương thức duy nhất để tránh những nguy cơ nêu trên là áp dụng một cách tiếp cận thực tế hơn đối với hợp tác hàng hải theo khuôn khổ tuyên bố, đồng thời đẩy nhanh hơn việc xây dựng các quy tắc và cơ chế an ninh ở Biển Đông thông qua tham vấn COC, với mục đích cuối cùng là một nền hòa bình và ổn định bền vững ở Biển Đông. Đàm phán COC là một sứ mệnh chung của Trung Quốc và 10 nước ASEAN ; việc xây dựng COC sẽ giúp ổn định mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN về lâu dài ; và sự đồng thuận về COC sẽ làm cho các bên liên quan trong vấn đề Biển Đông được hưởng lợi. Ở giai đoạn này, cần hướng tới mục tiêu tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, xây dựng sự đồng thuận và tìm kiếm điểm chung, đồng thời bảo lưu sự khác biệt trong các cuộc tham vấn về COC" (5).
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cũng có phát biểu gần đây rằng : "Là văn kiện chính trị đầu tiên được Trung Quốc và các nước ASEAN ký kết về Biển Đông, DOC đã thiết lập các nguyên tắc cơ bản và chuẩn mực chung để các bên xử lý các vấn đề liên quan. Với hành động tuân thủ DOC trong hai thập kỷ qua, chúng ta đã cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định và đảm bảo tự do và an toàn hàng hải ở Biển Đông. Trong hai thập kỷ qua, DOC đã là nền tảng cho đối thoại và hợp tác hàng hải tích cực của chúng ta, dẫn đến những thu hoạch sớm trong nhiều lĩnh vực. Trong hai thập kỷ qua, DOC cũng là một khuôn khổ cho phép chúng ta củng cố sự tin cậy lẫn nhau về chính trị và xây dựng các mối quan hệ sôi động. Việc ký kết và thực hiện thành công DOC đã mang lại cho chúng tôi những nguồn cảm hứng quan trọng" (6).
Ai là kẻ gây rối ở Biển Đông ?
Nếu chỉ đọc hay nghe những phát biểu của giới chức và học giả Trung Quốc thì có rất nhiều người sẽ tưởng Trung Quốc luôn "yêu chuộng hòa bình", và Biển Đông căng thẳng là do ai đó, chứ đâu phải do Trung Quốc.
Vậy ai là người đã gây ra các xung đột quân sự ở đây ? Chúng ta còn chưa quên, cuộc xung đột đầu tiên đã bùng phát khi quân đội Trung Quốc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi họ đang kiểm soát Hoàng Sa hồi năm 1974. Năm 1988, một cuộc đụng độ khác đã diễn ra giữa Trung Quốc và Việt Nam trên quần đảo Trường Sa. Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa nhờ sức mạnh hải quân. Năm 1992, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng Đá Vành Khăn - một rạn san hô đã được Philippines tuyên bố là lãnh thổ của họ.
Trong báo cáo "Những động cơ của các hành vi hung hăng ở Biển Đông" được Cục Nghiên cứu Châu Á Quốc gia (National Bureau of ASEAN Research - NBR) - một cơ quan nghiên cứu không lợi nhuận của Mỹ - công bố (7), học giả Andrew Chubb của Anh đã nghiên cứu các tranh chấp hàng hải và những thay đổi trong cách hành xử của chính phủ các nước có nhiều yêu sách nhất, bao gồm Trung Quốc, Philippines và Việt Nam. Báo cáo dựa trên các số liệu ghi nhận sự thay đổi hàng năm trong cách hành xử của ba quốc gia trên từ năm 1970 đến năm 2015. Chubb xác định bốn kiểu hung hăng mà các nhà nước thể hiện khi theo đuổi các lợi ích của mình ở Biển Đông, từ những khẳng định về chủ quyền bằng lời nói thông qua các tuyên bố và công hàm ngoại giao cho đến những lời đe dọa trừng phạt và sử dụng vũ lực. Một trong những phát hiện của báo cáo là thái độ hung hăng của Trung Quốc đã liên tục gia tăng Biển Đông, theo đó, kể từ năm 1970, hầu như năm nào Trung Quốc cũng thực hiện các động thái hiếu chiến.
Thêm vào đó, những hành vi hăm dọa của Trung Quốc, hay những hành vi liên quan đến những lời đe dọa trừng phạt, đã trở nên thường xuyên hơn sau năm 2007 - năm đánh dấu sự bắt đầu của các nỗ lực bành trướng, tăng cường kiểm soát và cải tạo đất ồ ạt của Trung Quốc. Báo cáo phát hiện ra rằng các hành vi hiếu chiến này của Trung Quốc chủ yếu nhắm vào Philippines và Việt Nam, và thường không bị chi phối bởi những động cơ trong mối quan hệ Trung-Mỹ, mặc dù Mỹ - nước không có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông - đã ngày càng lớn tiếng lên án cách hành xử của Trung Quốc trong thập kỷ qua. Gần đây hơn, Mỹ còn đẩy mạnh các chiến dịch tự do hàng hải và các cuộc tập trận quân sự tại những vùng biển này.
Hiện tại, Trung Quốc tuyên bố khoảng 90% Biển Đông là lãnh thổ chủ quyền của họ. Với sứ mệnh trở thành cường quốc thế giới, Trung Quốc coi Biển Đông là cơ hội để thể hiện cam kết hướng tới mục tiêu tuyên bố chủ quyền mà họ cho rằng trong lịch sử đã từng thuộc về mình. Kể từ khi tuyên bố chủ quyền trên vùng biển này hồi năm 2009, Trung Quốc đã thể hiện cam kết sâu sắc trong việc bảo vệ khu vực này. Trung Quốc bắt đầu xây dựng đảo nhân tạo vào năm 2012, bổ sung thêm 3.200 mẫu đất cho bảy thực thể tại Trường Sa và thay đổi Đá Chữ Thập thành một hòn đảo rộng 270 mẫu Anh. Việc biến các hòn đảo này thành các căn cứ quân sự và dân sự mang lại cho chúng nhiều giá trị chiến lược.
Mượn tay các bồi bút
Không chỉ các quan chức và học giả Trung Quốc ra sức "đổi trắng thay đen" cho các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Bắc Kinh còn huy động một số bồi bút để tiếp sức với họ.
Mới đây, trên Asia Times, Mark Valencia - một bồi bút của Trung Quốc đã viết một bài công kích một bài viết của Greg Poling - Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (Asia Maritime Transparency Initiative - AMTI) của CSIS, đăng trên Foreign Policy (8).
Bài viết của Mark Valencia với tiêu đề "’Sự hiện diện lịch sử’ không biện minh cho cách hành xử của Mỹ ở Biển Đông", trong đó nhận định rằng chuyên gia Gregory Poling của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Center for Strategic and International Studies - CSIS) đã cố biện minh cho chính sách và hoạt động của Mỹ ở Biển Đông bằng cách nêu chi tiết về "khoản đầu tư" lịch sử của Mỹ ở khu vực này.
Theo Valencia, mặc dù ông Poling đã công khai thừa nhận thành kiến của mình khi nói rằng nhiệm vụ của ông là "thúc đẩy lợi ích của Mỹ", nhưng việc đưa ra phân tích thiên lệch về các vấn đề quan trọng liên quan đến chính sách của Mỹ trong khu vực này không có lợi cho chính nước Mỹ.
Cần phải nói rõ với ông Valencia rằng, các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông, đặc biệt là đối với các quyền lịch sử trên toàn bộ cái gọi là "Đường 9 đoạn", đã đe dọa cam kết hàng thế kỷ của Mỹ về tự do hàng hải. Cam kết đó đã giúp tạo nền tảng cho sự thịnh vượng và an ninh của Mỹ. Ngày nay, cam kết bảo vệ trật tự tự do hàng hải giúp ổn định thương mại quốc tế, giảm bớt căng thẳng ở trên biển và đảm bảo tiếp cận công bằng các nguồn tài nguyên. Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea - UNCLOS) là kết quả của những nỗ lực trong nhiều thập kỷ để đàm phán và hệ thống hóa các quyền tự do đó. Giống với các quốc gia khác, Trung Quốc có nhiều tiếng nói trong quá trình soạn thảo Công ước. Và hầu hết các quốc gia láng giềng của Trung Quốc cũng vậy, đó là lý do tại sao họ kiên trì "bám" vào Công ước.
Các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc không chỉ làm suy yếu Công ước mà hơn thế, chúng phá hoại nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp quốc tế : sự bình đẳng giữa các quốc gia. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc sẽ đối xử với luật pháp quốc tế theo cách họ thực thi luật trong nước - sử dụng chúng như một công cụ quyền lực nhưng không bao giờ bị ràng buộc đối với nó. Việc làm suy yếu UNCLOS mà không phải trả giá sẽ càng xác nhận điều đó.
Trung Quốc vẫn đang cố gắng thúc đẩy chiến tranh thông tin bằng cách ra sức tuyên truyền và gây nhiễu các thông tin đến dư luận quốc tế. Thế nhưng bản chất luôn là bản chất. Con sói có đội lốt cửu thì nó vẫn hiện ra những tham vọng và đe doạ của con sói. Chính vì thế, dư luận thế giới cũng chả mấy ai tin giọng điệu hòa bình giả tạo của Bắc Kinh.
Trần Lâm
Nguồn : RFA, 22/08/2022
Tham khảo :
2. https://www.khmertimeskh.com/501124385/south-china-sea-declaration-best-path-to-keep-waters-calm/
5. https://www.khmertimeskh.com/501124385/south-china-sea-declaration-best-path-to-keep-waters-calm/
6. https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/wjdt_665385/zyjh_665391/202207/t20220725_10727703.html
7. https://www.nbr.org/wp-content/uploads/pdfs/publications/sr99_dynamicsofassertiveness_may2022.pdf
8. https://foreignpolicy.com/2022/08/14/the-united-states-is-deeply-invested-in-the-south-china-sea/
Anh Vũ, RFI, 30/07/2022
Trung Quốc thông báo tổ chức tập trận bắn đạn thật ngày 30/07/2022 trong khu vực eo biển Đài Loan, trong bối cảnh chủ tịch Hạ Viện Mỹ Nancy Pelosi có thể sẽ tới thăm Đài Bắc trong những ngày tới.
Ảnh minh họa : Một tầu hải cảnh Đài Loan tham gia cuộc tập trận thường niên Hán Quang (Han Kuang), ngày 26/07/2022, ngoài khơi Đài Loan, trong bối cảnh căng thẳng Trung Quốc dùng vũ lực chiếm hòn đảo và khả năng chủ tịch Hạ Viện Mỹ Nancy Pelosi thăm Đài Loan. AP - Huizhong Wu
Tuy nhiên, theo AFP, cuộc tập trận diễn ra trên quy mô nhỏ ở sát bờ biển của Trung Quốc. Thông báo về cuộc tập trận có từ hôm 28/07 nhưng một ngày sau mới được truyền thông Trung Quốc đưa tin. Thông cáo cho biết cuộc tập bắn đạn thật diễn ra trong khoảng thời gian từ 8 giờ 30 đến 21 giờ, giờ địa phương ở ngoài khơi đảo Bình Đàm (Pingtan), thuộc tỉnh Phúc Kiến. Bình Đàm là hòn đảo của Trung Quốc nằm gần Đài Loan nhất. Khu vực tập bắn đạn thật lần này chỉ cách bờ biển Đài Loan 120 km.
Thông báo tập bắn đạn thật trước cửa Đài Loan được đưa ra trong bối cảnh những ngày qua, thông tin chủ tịch Hạ Viện Mỹ có thể tới thăm Đài Loan đã khiến Bắc Kinh nổi giận. Vẫn coi Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, Bắc Kinh chống lại mọi sáng kiến có thể giúp Đài Loan có được tính chính đáng quốc tế, luôn phản ứng gay gắt với các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Đài Loan và các quốc gia khác
Gần đây, nhiều quan chức Mỹ đã tới thăm Đài Loan. Nhưng Trung Quốc cho rằng chuyến thăm Đài Loan của bà chủ tịch Hạ Viện Mỹ Nancy Pelosi, nếu diễn ra, sẽ là sự khiêu khích lớn và đe dọa sẽ có "hậu quả".
Không chỉ là nhân vật quan trọng lớn thứ 3 của chính quyền Mỹ, bà Nancy Pelosi từ lâu nay là người có quan điểm chống Trung Quốc. Trong chuyến thăm Bắc Kinh hồi năm 1991, khi đó trên cương vị một dân biểu, bà Pelosi đã tới quảng trường Thiên An Môn giương biểu ngữ tưởng nhớ các nạn nhân của phong trào đòi dân chủ bị đàn áp đẫm máu trước đó hai năm trên quảng trường này.
Chủ tịch Hạ Viện Mỹ dự kiến trong chuyến công du châu Á bắt đầu từ hôm qua 29/07, sẽ ghé thăm Đài Loan. Tuy nhiên đến giờ, bà Pelosi vẫn không khẳng định vì lý do an ninh.
Trong cuộc điện đàm với tổng thống Mỹ Joe Biden hôm 28/07, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình còn tuyên bố "những ai đùa với lửa sẽ bị bỏng" khi đề cập đến vấn đề Đài Loan. Đồng nhiệm Mỹ Joe Biden cũng đáp lại lập trường của Hoa Kỳ về vấn đề Đài Loan là không thay đổi. Washington kiên quyết chống lại các ý đồ đơn phương thay đổi nguyên trạng, đe dọa hòa bình và ổn định trong eo biển Đài Loan
Washington đã tìm cách đấu dịu căng thẳng với Bắc Kinh. Hôm qua, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken ngỏ ý hy vọng hai nước có khả năng tiếp tục xử lý các bất đồng một cách sáng suốt để sao cho không dẫn đến nguy cơ xung đột như đã làm trong hơn 40 năm qua.
Phát ngôn viên Nhà Trắng John Kirby tuyên bố Trung Quốc "không nên có những lời lẽ hiếu chiến". Ông cũng cho biết thêm ở vào thời điểm này, Hoa Kỳ không thấy có hoạt động quân sự nào đặc biệt của Bắc Kinh đối với Đài Loan.
Ý thức về hiểm họa Trung Quốc trên Biển Đông, Mỹ tìm cách đối phó
VOA, 29/07/2022
Mỹ và các nước đều lo ngại về ý đồ của Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông, thực hiện bá quyền trong khu vực, các quan chức và học giả Mỹ lên tiếng tại một hội thảo và cho biết Washington và các đối tác đang làm việc để chặn đứng tham vọng này của Trung Quốc.
Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan (trước) và USS Nimitz (sau) cùng đi vào Biển Đông hồi tháng Bảy năm 2020
Hội thảo thường niên về Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở thủ đô Washington DC hôm 26/7 đã quy tụ các quan chức chính quyền Mỹ cùng các học giả Mỹ và các nước trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để đánh giá về tình hình trên Biển Đông một năm qua.
Tại hội thảo, các quan chức Mỹ từ cả nhánh lập pháp và hành pháp đều bày tỏ quan ngại sâu sắc về cách hành xử ngày càng hung hăng của Bắc Kinh mà họ cho là đe dọa vị thế của Mỹ, làm tổn hại lợi ích của các nước, gây bất ổn cho khu vực và cho biết Washington phải quyết liệt đối phó.
Mối đe dọa từ Bắc Kinh
Dân biểu Rob Wittman, thành viên Cộng hòa thuộc Ủy ban Quân lực Hạ viện, nhắc lại việc kể từ năm 2018 sau khi bồi đắp các đảo nhân tạo trên Biển Đông, Trung Quốc đã triển khai vũ khí, xây đường băng nhằm quân sự hóa các đảo nhân tạo này.
"Trung Quốc không thể được phép hoạt động để khẳng định chủ quyền ở khu vực mà họ không có chủ quyền", ông quả quyết. "Và nếu nước Mỹ và các nước khác không phản công thì mặc nhiên Trung Quốc có thể nói rằng không có ai phản đối nên Biển Đông là thuộc chủ quyền của họ".
Mỹ là nước duy nhất thực hiện các chuyến tuần tra vì tự do hàng hải trên Biển Đông (FRONOP), ông chỉ ra và khẳng định điều này ‘hết sức quan trọng’ mà Washington cần tiếp tục thực hiện.
Nếu không có những hoạt động FRONOP này thì ‘đùng một cái Bắc Kinh sẽ có thể ngăn cấm tàu thuyền thương mại lưu thông qua vùng biển này’.
Ông nói việc đẩy lùi Bắc Kinh trên Biển Đông có ý nghĩa đối với tầm nhìn toàn cầu của Mỹ bởi vì ‘nếu Bắc Kinh đẩy được Mỹ ra khỏi Biển Đông thì họ cũng có thể đẩy Mỹ ra khỏi những nơi khác trên thế giới".
Về phần mình, bà Jung Pak, phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, lên án mạnh mẽ những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông mà bà cho là ‘quá đáng và bất hợp pháp’.
"Những đòi hỏi chủ quyền này, cùng với các hành động khiêu khích để áp đặt chủ quyền đó góp phần gây bất ổn cho khu vực, gây thiệt hại cho nền kinh tế của các quốc gia tranh chấp khác, phá hoại trật tự hiện tại trên biển và đe dọa quyền và lợi ích của tất cả các nước vốn dựa vào tuyến đường biển trọng yếu này", bà Pak phát biểu tại hội thảo.
Bà Pak chỉ ra những hành động ngày càng mạnh bạo của Bắc Kinh nhằm cưỡng ép, hăm dọa các nước tranh chấp cũng như các nước đồng minh của Mỹ trong khu vực, chẳng hạn như chặn máy bay của Úc đang bay trên không phận quốc tế trên Biển Đông hay quấy rối các tàu thăm dò dầu khí hay tàu tiếp tế của Philippines đang hoạt động trên vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của nước này.
"Những hành động khiêu khích này theo sau những nỗ lực mới đây của Bắc Kinh là áp dụng luật trong nước để thực hiện những đòi hỏi chủ quyền phi pháp, bao gồm thực thi đạo luật cho phép sử dụng vũ lực đối với tàu thuyền nước ngoài trong một số trường hợp", bà lên án.
Trong khi đó, dân biểu Wittman cảnh báo về việc hải quân Trung Quốc trong những năm qua đã tăng cường xây dựng lực lượng với ‘tốc độ kỷ lục’ và ‘ở mọi lĩnh vực’ từ đóng tàu trên mặt nước mới nhất, trang bị năng lực tân tiến cho khu trục hạm cho đến tự đóng hàng không mẫu hạm mới… Việc nâng cấp lực lượng này theo ông ‘cho thấy quyết tâm của Trung Quốc’.
Theo nhận định của bà Shuxian Luo, nghiên cứu viên hậu tiến sĩ thuộc Viện Brookings, thì Bắc Kinh gần đây đã từ bỏ cách tiếp cận trước giờ là phản ứng thụ động và chuyển sang chủ động đối đầu với các nước tranh chấp khác.
"Có vẻ như là Giải phóng quân Trung quốc vốn lâu nay chủ yếu vẫn yểm trợ cho lực lượng hải cảnh nay lại đóng vai trò ngày càng chủ động trong các tranh chấp trên Biển Đông", bà cho biết.
Riêng việc đụng độ trên không giữa Trung Quốc và máy bay các nước, bà Luo cho là ‘nguy hiểm nhất’ vì các may bay bay trên trời chạm trán nhau ở tốc độ nhanh hơn nhiều so với tàu chiến trên biển. Điều này cho thấy mức độ Bắc Kinh sẵn sàng chấp nhận rủi ro ‘cao hơn nhiều’.
Giải thích cho thái độ này của Bắc Kinh, vị học giả này cho rằng trước thềm Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 20 vào cuối năm nay ‘có cảm giác lo sợ ngày càng tăng ở Bắc Kinh rằng họ cần phải hành động khẩn trương hơn nữa để ngăn chặn điều mà họ cho là sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng tăng của Mỹ trong khu vực’.
Từ những gì bà quan sát thấy trong giới học giả Trung Quốc, bà Luo cho biết họ đang quan ngại về ‘khoảng cách năng lực quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ lại được nới rộng khi Washington đang tăng cường đầu tư để củng cố năng lực’.
Hành động của Mỹ
Dân biểu Wittman nói Washington nâng cấp lực lượng hải quân của họ không chỉ ở số lượng mà còn ở năng lực, công nghệ tác chiến mới nhất để đảm bảo ưu thế trước hải quân Trung Quốc.
Theo lời ông thì Mỹ phải có một lực lượng răn đe để khi cần thiết có thể ‘tấn công một cách nhanh chóng và quyết đoán’.
Tuy nhiên, ông chỉ ra thực trạng đáng quan ngại là hiện giờ số tàu chiến của Mỹ được cho nghỉ hưu nhiều hơn số tàu được đóng mới và với đà này, cho đến năm 2027, hải quân Mỹ chỉ có 270 tàu so với con số 460 tàu mà phía Trung Quốc dự định có cho đến năm 2030.
Không chỉ về số lượng tuyệt đối, mà về số tàu chiến có những công nghệ mũi nhọn cả tấn công và phòng thủ, hiện giờ Bắc Kinh có nhiều hơn số số tàu có năng lực bằng hoặc hơn tàu chiến Mỹ, ông cảnh báo.
Vị dân biểu cộng hòa này khẳng định Mỹ ‘không thể hành động một mình trên Biển Đông’ mà ‘cần phải có sự hợp tác với các nước cùng chung chí hướng’. "Đó là lý do tại sao Bộ Tứ (gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc) là hết sức quan trọng", ông nói.
Ông cho rằng điều quan trọng là Washington phải giữ vững cam kết của mình đối với nhóm Bộ Tứ cũng như đảm bảo làm đúng nghĩa vụ đã hứa với các nước ASEAN về các thỏa thuận chiến lược và kinh tế.
Về các đối tác của Mỹ trong khu vực, ông chỉ ra những nước rất quan trọng đối với chiến lược của Mỹ là Nhật Bản, Philippines và Việt Nam – những nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
"Chúng ta cần làm việc với những nước này để tìm hiểu làm sao để đẩy lùi những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và làm sao đẩy lùi những hành động hiểm ác của Bắc Kinh", ông nói. "Chúng ta phải nói với họ rằng nếu quý vị tiếp tục những hành động hiểm ác như vậy thì sẽ có hậu quả".
"Tôi trông đợi tháp tùng phái đoàn của Quốc hội Mỹ đi thăm đảo Guam, Philippines, Việt Nam và Úc vào tháng tới", ông bày tỏ.
Trên phương diện ngoại giao, bà Jung Pak nhấn mạnh Bộ Ngoại giao Mỹ vào năm 2020 đã công bố chính sách cập nhật trong đó bác bỏ ‘đòi hỏi chủ quyền bất hợp pháp’ của Trung Quốc trên Biển Đông.
Chính sách hợp tác của Mỹ với các đối tác trong khu vực bao gồm xây dựng năng lực, tập hợp sự lên án đa phương đối với tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp của Trung Quốc, thực thi ngoại giao pháp lý chuyên sâu, bày tỏ ủng hộ đối với tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, trừng phạt các thực thể Trung Quốc đe dọa hòa bình và an ninh khu vực và tiến hành các cuộc tập trận đa phương thường xuyên để củng cố lòng tin của các đối tác về quyết tâm của Mỹ, bà Jung Pak nói tại hội thảo.
"Tại Bộ Ngoại giao chúng tôi đang làm việc cật lực cùng với các đồng nghiệp trong chính quyền cũng như các đồng minh và đối tác để đảm bảo rằng chúng tôi định hình môi trường chiến lược để giúp các nước đông nam Á lèo lái mối quan hệ của họ với Bắc Kinh và đẩy lùi hành động ngày càng quả quyết và nguy hiểm của Bắc Kinh trong khu vực", bà cho biết.
Mục tiêu của Mỹ là giúp các nước có tranh chấp với Bắc Kinh có ‘công cụ và sức mạnh’ để đứng lên bảo vệ quyền tự quyết và chủ quyền của mình cũng như giúp xây dựng khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ‘mở, tự do và thịnh vượng’.
Bà khẳng định cam kết của chính quyền Joe Biden đối với khu vực và dẫn chứng một loạt các chuyến thăm đến khu vực của các quan chức chính quyền từ phó Tổng thống, các bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại giao, các thứ trưởng cũng như hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN vừa qua mà Tổng thống Biden tiếp các nhà lãnh đạo đông nam Á ở Nhà Trắng.
"Hội nghị thượng đỉnh ASEAN hồi tháng 10 năm 2021 là lần đầu tiên Tổng thống Mỹ quay trở lại khu vực kể từ năm 2017", bà Pak chỉ ra để khẳng định về cam kết của Mỹ đối với khu vực.
Thanh Hà, RFI, 28/07/2022
Hạm Đội 7 của Hải Quân Hoa Kỳ ngày 28/07/2022 xác nhận tàu sân bay USS Ronald Reagan quay trở lại Biển Đông. Đây là lần thứ hai trong cùng một tháng, hàng không mẫu hạm Mỹ hiện diện trong khu vực. Sự kiện diễn ra vào lúc căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng trước viễn cảnh chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ công du Đài Loan và vào lúc Joe Biden-Tập Cận Bình điện đàm.
Tầu sân bay USS Ronald Reagan và tầu sân bay USS Nimitz hoạt động ở Biển Đông ngày 06/07/2020. AP - Petty Officer 3rd Class Jason Tarleton
Sau 5 ngày dừng lại cảng Singapore, tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan đã rời căn cứ quân sự Changi hôm 26/07/2022. Trong thông cáo gửi đến hãng tin Anh Reuters, phát ngôn viên Hạm Đội 7 của Hải Quân Hoa Kỳ, Hayley Sims nói rõ : Hàng không mẫu hạm "USS Ronald Reagan và đội tàu hộ tống hướng đến Biển Đông sau chặng dừng tham quan cảng Singapore".
Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ghi nhận lộ trình của USS Ronald Reagan được dự trù "đi qua eo biển Đài Loan", nhưng phát ngôn viên Hạm Đội 7 của Hải Quân Hoa Kỳ từ chối xác nhận tin này, chỉ ghi nhận là tàu sân bay Mỹ "tiếp tục các hoạt động bình thường đã dự kiến trong khuôn khổ chương trình tuần tra bảo vệ một vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và rộng mở".
Chuyên gia về các vấn đề an ninh tại Châu Á, Ian Storey, thuộc viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak, Singapore, được Reuters trích dẫn, dự báo Bắc Kinh sẽ cho các đội tàu theo dõi sát hoạt động của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan. Theo ông, thường các hoạt động tương tác của tàu hai bên đều "chuyên nghiệp và an toàn", nhưng vẫn có nguy cơ các tàu đó đến gần nhau quá, gây nên xung đột.
Đây là lần thứ hai trong cùng tháng, tàu sân bay Mỹ hoạt động tại Biển Đông. Lần trước là vào ngày 13/07/2022. Giới quan sát ghi nhận hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ trở lại Biển Đông tuần này đúng vào thời điểm Bắc Kinh một lần nữa cảnh cáo Hoa Kỳ về những hậu quả nghiêm trọng nếu như chủ tịch Hạ Viện Mỹ, Nancy Pelosi giữ nguyên kế hoạch công du Đài Loan vào tháng 8. Bà Pelosi chưa ra thông cáo chính thức về ý định có duy trì chuyến đi Đài Bắc hay không, cho dù tổng thống Biden từng cho rằng đây không phải là thời điểm "thuận lợi". Theo ông, kế hoạch đến Đài Bắc của bà Pelosi gây "lo ngại" cho bên quân đội Hoa Kỳ.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin hôm 27/07/2022 cho biết ông đã trao đổi và cung cấp thông tin về chủ đề này với chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ.
Thông tin tàu sân bay USS Ronald Reagan trở lại Biển Đông từ đầu tuần được đưa ra vào lúc tổng thống Mỹ Joe Biden và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình điện đàm vào lúc 8 giờ 30 sáng, giờ Washington hôm nay (12 giờ 30 giờ quốc tế). Đài Loan là một trong những hồ sơ sẽ được lãnh đạo hai nước thảo luận.
Thanh Hà
**********************
Mỹ cáo buộc Trung Quốc gia tăng các hành động khiêu khích ở Biển Đông
Reuters, VOA, 26/07/2022
Hoa Kỳ hôm thứ Ba 26/7 cáo buộc Trung Quốc gia tăng "các hành động khiêu khích" đối với các bên có tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và các quốc gia khác hoạt động ở đó.
Bà Jung H. Pak (ảnh tư liệu)
"Các hành động khiêu khích của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thể hiện một xu hướng rõ ràng và ngày càng tăng lên đối với các bên có tranh chấp ở Biển Đông và các quốc gia khác hoạt động hợp pháp trong khu vực", bà Jung Pak, Phó Trợ lý Ngoại trưởng chuyên trách Đông Á tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, nói tại một cuộc thảo luận của một tổ chức nghiên cứu Mỹ.
Bà Jung Pak phát biểu với Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế rằng máy bay Trung Quốc ngày càng thực hiện nhiều cuộc nghênh chặn không an toàn đối với máy bay Australia trong không phận quốc tế phía trên Biển Đông, và trong 3 vụ việc riêng rẽ khác trong vài tháng qua, phía Trung Quốc đã cản trở các hoạt động nghiên cứu biển và thăm dò năng lượng trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
(Reuters)
‘Các hành động khiêu khích’ của Trung Quốc ở Biển Đông có nguy cơ xảy ra sự cố lớn
Reuters, VOA, 27/07/2022
Hôm 26/7, Hoa Kỳ cáo buộc Trung Quốc gia tăng "khiêu khích" chống lại các bên tranh chấp ở Biển Đông và nói rằng "hành vi gây hấn và vô trách nhiệm" của Bắc Kinh cho thấy sẽ đến lúc xảy ra một sự cố hoặc tai nạn lớn, theo Reuters.
Bà Jung Pak, Phó trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Đông Á thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Bà Jung Pak, Phó trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Đông Á tại Bộ Ngoại giao Mỹ, phát biểu tại một viện nghiên cứu của Hoa Kỳ rằng có "xu hướng rõ ràng và gia tăng trong các hành động khiêu khích của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chống lại các bên tranh chấp Biển Đông và các quốc gia khác hoạt động hợp pháp trong khu vực".
Bà nói tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) rằng các máy bay của Trung Quốc ngày càng tham gia nhiều hơn vào các vụ nghênh chặn không an toàn máy bay của Úc trong không phận quốc tế phía trên Biển Đông và trong ba sự cố riêng biệt trong vài tháng qua đã thách thức các hoạt động nghiên cứu biển và thăm dò năng lượng trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Ông Ely Ratner, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách các vấn đề An ninh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Phát biểu sau đó tại cùng sự kiện này, ông Ely Ratner, trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách các vấn đề An ninh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, cho biết đã có "mấy chục" vụ việc xảy ra trong nửa đầu năm qua liên quan đến quân đội Trung Quốc ở Biển Đông, tăng mạnh trong 5 năm qua.
Ông Ratner nói : "Bắc Kinh đang thử nghiệm một cách có hệ thống các giới hạn của quyết tâm tập thể của chúng ta".
"Theo quan điểm của tôi, hành vi hung hăng và vô trách nhiệm này thể hiện một trong những mối đe dọa đáng kể nhất đối với hòa bình và ổn định trong khu vực hiện nay, bao gồm cả ở Biển Đông. Và nếu Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) tiếp tục loại hành vi này, khả năng xảy ra một sự cố hoặc tai nạn lớn trong khu vực chỉ là vấn đề thời gian", ông nói.
Bà Pak nói rằng Washington có "mối quan hệ rất phức tạp với Bắc Kinh" và không cố gắng chống lại mọi thứ mà họ đang làm ở Đông Nam Á và phần còn lại của thế giới đang phát triển.
Bà nói : "Chúng tôi muốn đảm bảo rằng các quốc gia, khi họ có mối quan hệ với Bắc Kinh, sẽ có các công cụ và sức mạnh, và khả năng đứng lên giành quyền tự chủ và ra quyết định về chủ quyền của họ".
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên cho biết bình luận của bà Pak là sự "đảo ngược hoàn toàn, đổi trắng thay đen" vì Trung Quốc và các nước khác trong khối ASEAN cam kết duy trì hòa bình ở Biển Đông.
Ông Triệu nói tại một cuộc họp báo rằng "một số cường quốc riêng lẻ", nhưng không nêu cụ thể nước nào, là "mối đe dọa thực sự" đối với hòa bình khu vực bằng cách cố sức duy trì "quyền bá chủ" thông qua việc xây dựng lực lượng quân sự.
Theo Reuters
*************************
Quân đội Mỹ chuẩn bị phương án bảo vệ chuyến đi Đài Loan của chủ tịch Hạ Viện
Trọng Thành, RFI, 27/07/2022
Căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng với dự định của chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi đến thăm Đài Loan. Ngày 27/07/2022, Bộ Ngoại giao Trung Quốc một lần nữa tuyên bố "sẵn sàng đáp trả mạnh mẽ", nếu chuyến đi diễn ra. Theo nhiều nguồn tin, Lầu Năm Góc sẵn sàng các phương án để bảo vệ chuyến đi.
Chủ tịch Hạ Viện Mỹ, Nancy Pelosi, phát biểu hôm 21/07/2022 tại Washington, Hoa Kỳ. AP - J. Scott Applewhite
Hãng tin Mỹ AP dẫn lời một số quan chức Hoa Kỳ xin ẩn danh hôm 26/07/2022 cho biết, nếu bà Pelosi đi Đài Loan, chắc chắc quân đội Mỹ sẽ điều động lực lượng tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương để bảo vệ an ninh trong thời gian chuyến bay, cũng như những ngày bà Pelosi viếng thăm Đài Loan. Theo các quan chức nói trên, rất có thể quân đội sẽ thiết lập một vùng đệm xung quanh chuyến phi cơ của chủ tịch Hạ Viện Mỹ
Hôm nay, khi được hỏi về vấn đề này, tướng Mark Milley, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ cũng xác nhận, tuy hiện tại còn sớm để đưa ra thông tin cụ thể, nhưng nếu chuyến đi diễn ra, quân đội Mỹ sẽ "có biện pháp bảo vệ".
Cho đến nay, chưa có chuyến đi nào của giới chức cao cấp Hoa Kỳ lại cần đến các biện pháp an ninh bổ sung như trên. Tuy nhiên, bối cảnh hiện tại rất khác. Theo chuyên gia Mark Cozad, quyền phó giám đốc Trung tâm Chính sách Quốc phòng và An ninh Quốc tế của công ty tư vấn quân sự Mỹ Rand Corp, không loại trừ có thể xảy ra "một vụ va chạm trên không, có thể là một cuộc thử nghiệm tên lửa nào đó", và như vậy, "luôn có khả năng xảy ra sự cố".
Đầu tuần này, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ cũng cho biết quân đội Trung Quốc đã trở nên "hung hãn và nguy hiểm hơn nhiều", số lượng các vụ tiếp xúc không an toàn trên không và trên biển cũng gia tăng trong thời gian gần đây.
Hồi tuần trước, khi thông tin về chuyến đi dự kiến của bà Pelosi được tung ra, Nhà Trắng đã cho biết quân đội Hoa Kỳ lo ngại và không muốn một chuyến đi như vậy "diễn ra lúc này".
Chính bà Pelosi cũng nói đến việc quân đội sợ Trung Quốc liều lĩnh bắn hạ máy bay. Hiện tại, bà Pelosi chưa đưa ra thông báo chính thức về chuyến đi Đài Loan.
Biden-Tập có thể đối thoại ngày 28/07
Hãng tin Anh Reuters dẫn một nguồn tin gần gũi với hồ sơ này, cho biết tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có kế hoạch đối thoại trực tuyến vào ngày 28/07/2022. Đây sẽ là lần thứ 5 hai lãnh đạo Mỹ - Trung hội đàm kể từ đầu nhiệm kỳ của ông Biden và là lần đầu tiên kể từ bốn tháng nay, tức từ đầu cuộc xâm lăng của Nga tại Ukraine. Cuộc xâm lăng Ukraine sẽ là chủ đề chính của đối thoại.
Trả lời báo giới hôm qua, điều phối viên truyền thông chiến lược của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ John Kirby cho biết các cạnh tranh về kinh tế giữa hai quốc gia cũng sẽ là một nội dung chính của cuộc hội đàm.
Trọng Thành
***********************
Tổng thống Đài Loan thị sát cuộc tập trận đẩy lùi xâm lược Trung Quốc
Thu Hằng, RFI, 27/07/2022
Đài Loan tổ chức cuộc tập trận hàng năm quy mô lớn trong vòng năm ngày, từ ngày 25/07/2022. Đích thân tổng thống Thái Anh Văn thị sát một phần cuộc tập trận từ một tầu khu trục có tên lửa dẫn đường đóng vai trò soái hạm của hạm đội.
Ảnh do Văn phòng tổng thống Đài Loan cung cấp : Tổng thống Thái Anh Văn (giữa) chụp hình với lính hải quân Đài Loan khi thị sát cuộc tập trận Hán Quang ngày 26/07/2022. AP - Shioro Lee
Trong ngày tập trận thứ hai, không quân và hải quân Đài Loan bắn đạn thật ở Thái Bình Dương, ngoài khơi cảng quân sự ở huyện Nghi Lan (Yilan, đông bắc Đài Loan) với kịch bản chống các cuộc tấn công trên không và trên biển của Trung Quốc. Theo đài truyền hình Nhật NHK, lực lượng hải cảnh Đài Loan cũng tham gia tập trận và sẽ được đặt dưới sự chỉ huy của hải quân nếu xảy ra xung đột.
Trước đó, ngày đầu của đợt tập trận dành cho việc ngăn chặn kẻ thù tiến vào thủ đô Đài Bắc. Người dân được kêu gọi ở nhà trong nhiều giờ, quân dự bị được trang bị súng trường tập dượt trong các chiến hào theo kiểu "chiến tranh đô thị ở Ukraine". Thậm chí, nhiều tên lửa Stinger chống máy bay ở tầm thấp cũng được triển khai ở nhiều tòa nhà cao tầng trong vùng. Cùng lúc, nhiều khu phố tại các thành phố khác ở phía bắc cũng bị phong tỏa khoảng 30 phút trong khuôn khổ tập sơ tán vì không kích.
Theo bộ Quốc Phòng Đài Loan, được AFP trích dẫn, cuộc tập trận Hán Quang ( Han Kuang ) 2022 gồm cả những bài học từ chiến tranh Ukraine, mô phỏng "mọi hành động có thể" được Trung Quốc tiến hành để tấn công Đài Loan.
Phản ứng về đợt tập trận nói trên, Trung Quốc tái khẳng định không để Đài Loan độc lập. Họp báo ngày 26/07, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên đe dọa Đài Bắc đừng ảo tưởng có thể đối đầu quân sự với Trung Quốc và mọi ý đồ sẽ bị thất bại.
Quan hệ giữa Đài Bắc và Bắc Kinh trở nên căng thẳng hơn từ khi bà Thái Anh Văn được bầu làm tổng thống năm 2016. Bắc Kinh luôn coi Đài Loan là một tỉnh không thể tách rời. Lãnh thổ Trung Quốc. Theo giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) Bill Burns, dường như Trung Quốc kiên quyết dùng vũ lực đối với Đài Loan. Kinh nghiệm từ việc Nga tấn công Ukraine chỉ ảnh hưởng đến tính toán của Bắc Kinh về thời điểm và phương thức, chứ không phải về khả năng tấn công Đài Loan.
Trung Quốc đã gia tăng các vụ xâm phạm vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan. Chỉ từ đầu năm 2022 đến nay đã có hơn 600 vụ, trong khi cả năm 2021 có 969 vụ.
Thu Hằng
Biden tấn công Trung Quốc bằng Bản ghi nhớ chống đánh cá bất hợp pháp
Thụy My, RFI, 28/06/2022
Tổng thống Mỹ Joe Biden hôm 27/06/2022 đã ký Bản ghi nhớ an ninh quốc gia về chống đánh cá trái phép. Đây là một phần của nỗ lực đối phó với những vi phạm của các đoàn tàu đánh cá "phi pháp", đặc biệt của Trung Quốc.
Tàu Trung Quốc neo đậu tại Rạn san hô Whitsun, Biển Đông, ngày 7/3/2021. Ảnh của Cảnh sát biển Philippines. AP
Trong một thông cáo, Nhà Trắng cho biết sẽ lập một liên minh với Canada và Anh để "hành động khẩn cấp" nhằm cải thiện việc theo dõi, kiểm soát, giám sát, trong cuộc chiến chống lại "nạn đánh cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định" (IUU - cụm từ viết tắt của Illegal, Unreported và Unregulated fishing).
Các viên chức Mỹ muốn đưa vào những quy tắc để có thể đối phó tốt hơn trước nạn đánh cá lậu, nhất là tại Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong khuôn khổ cam kết chặt chẽ hơn ở khu vực để chống lại ảnh hưởng Trung Quốc. Một số quốc gia trong vùng phẫn nộ trước tình trạng những đội tàu cá hùng hậu của Trung Quốc thường xuyên xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ, càn quét hải sản, gây thiệt hại lớn cho môi trường và kinh tế.
Bản Ghi nhớ đòi hỏi có những hành động để "chấm dứt nạn buôn người, cưỡng bức lao động, xúc tiến việc khai thác đại dương một cách an toàn, bền vững".Bộ Lao Động, bộ Quốc Phòng, lực lượng tuần duyên và các cơ quan thực thi luật pháp có thể làm việc với các đối tác tư nhân và nước ngoài để "điều tra các tàu đánh cá và công ty bị nghi ngờ dùng lao động cưỡng bức để thu hoạch hải sản".
Tuy không nhắm vào một quốc gia cụ thể nào, nhưng phía Mỹ cho biết Trung Quốc là nước vi phạm hàng đầu. Trung Quốc luôn đứng đầu thế giới về các vụ đánh cá bất hợp pháp, và cản trở việc triển khai các biện pháp chống IUU và khai thác hải sản bừa bãi của các tổ chức quốc tế. Viên chức Mỹ nói rằng Bắc Kinh phải có trách nhiệm tôn trọng những cam kết, cần chỉnh đốn hoạt động của các tàu treo cờ Trung Quốc tại vùng biển những nước khác.
Ông Lưu Bằng Vũ (Liu Pengyu), phát ngôn viên đại sứ quán Trung Quốc tại Washington phản bác, cho rằng cáo buộc của Mỹ "hoàn toàn sai lạc".
Reuters nhắc lại, đầu tháng Sáu, Philippines tố cáo Trung Quốc đánh cá bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ tuyên bố nạn đánh cá lậu đã vượt qua nạn cướp biển, trở thành mối đe dọa lớn nhất cho an ninh hàng hải thế giới, có nguy cơ gây căng thẳng giữa các quốc gia. Điều phối viên về chính sách Ấn Độ-Thái Bình Dương Kurt Campbell hồi tháng Năm nói rằng các nước trong khu vực đang hợp tác để tăng cường tuần tra và huấn luyện, chia sẻ các công nghệ để truy vết các tàu đánh cá lậu đã tắt thiết bị định vị.
Thụy My
Thanh Hà, RFI, 27/06/2022
Với một chính quyền mới ở Manila, Trung Quốc và Philippines có sẽ nối lại đàm phán về dự án cùng khai thác dầu khí ở Biển Đông hay không ? Bắc Kinh muốn khởi động lại đối thoại với Manila về dự án, trong lúc hiệp hội ngư nghiệp quốc gia Philippines kêu gọi tổng thống tân cử Bongbong Marcos "vĩnh viễn đình chỉ" kế hoạch hợp tác với Trung Quốc.
Tổng thống tân cử Philippine Ferdinand "Bongbong" Marcos Jr. trong cuộc họp báo tại Mandaluyong, Philippines, ngày 20/06/2022. AP - Aaron Favila
Ba ngày trước khi ông Bongbong Marcos tuyên thệ nhậm chức tổng thống, ngày 27/06/2022, hiệp hội ngư nghiệp quốc gia Philipines, Pamalakaya, ra thông cáo kêu gọi "vĩnh viễn ngừng đàm phán với Trung Quốc" về các dự án khai thác dầu khí tại Biển Đông, mà Manila gọi là "Biển Tây Philippines". Thông cáo nói rõ : Philippines cần "tập trung bảo vệ chủ quyền lãnh hải" ở vùng biển này. Tổng thống Marcos "cần công khai đưa ra tuyên bố hoàn toàn gạt bỏ dự án này và Manila sẽ không trở lại với hồ sơ này nữa" theo lời của chủ tịch hiệp hội ngư nghiệp Philippines, Fernando Hicap, được báo Inquirer trích dẫn.
Lãnh đạo hiệp hội Pamalakaya giải thích : đồng khai thác với Trung Quốc sẽ là cơ hội lớn hơn để Bắc Kinh "vơ vét tài nguyên thiên nhiên trên biển" của Philippines, "vi phạm trắng trợn" luật lệ và chủ quyền của Manila trong vùng biển này, bất chấp phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực La Haye về chủ quyền của Philippines.
Hơn nữa theo Fernando Hicap, Philippines không cần dựa vào nước ngoài để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuần trước, ngoại trưởng Teodoro Locsin trước khi rời khỏi chức vụ đã tuyên bố "chấm dứt đàm phán với Trung Quốc về dự án cùng khai thác dầu khí" ở Biển Đông.
Một ngày sau đó, 24/06/2022, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Uông Văn Bân tuyên bố "Trung Quốc sẵn sàng cùng với chính quyền mới ở Manila thúc đẩy đảm phán để dự án được tiến triển. Bắc Kinh nỗ lực đưa ra những quyết định quan trọng cho thấy cùng khai thác tài nguyên có lợi cho cả hai quốc gia và hai dân tộc". Ông Uông Văn Bân nhắc lại, dưới thời tổng thống Rodrigo Duterte, Philippines và Trung Quốc đã đạt được một thỏa thuận khung về hợp tác khai dầu khí và văn bản đó đã được chủ tịch Tập Cận Bình ký hồi 2018 nhân một chuyến công du Philippines.
Đài truyền hình Úc ABC hôm 27/06/2022 đưa tin, Bắc Kinh mời ngoại trưởng 10 đảo quốc ở Thái Bình Dương họp trực tuyến với ngoại trưởng Vương Nghị vào ngày 14/07/2022, đúng vào lúc khu vực này tổ chức Diễn Đàn Pacific Islands Forum tại Suva, thủ đô Fiji. Theo giới quan sát, Trung Quốc tiếp tục duy trì áp lực, mở rộng ảnh hưởng tại khu vực sau khi vào hôm 30/05/2022, 10 đảo quốc trong khu vực đã từ chối ký kết "Kế hoạch hành động 5 năm Trung Quốc –Thái Bình Dương vì phát triển chung".
Vào lúc Trung Quốc cố gắng chiêu dụ các đảo quốc Nam Thái Bình Dương thì đã xảy ra sự cố ngoại giao bên lề hội nghị về đại dương của Liên Hiệp Quốc ở Lisboa, Bồ Đào Nha. Hãng tin Anh Reuters cho biết ngoại trưởng Tuvalu, Simon Kofe, đã tẩy chay lễ khai mạc sáng nay 27/06/2022 để phản đối Trung Quốc cấm ba đại biểu Đài Loan tham dự hội nghị trong khuôn khổ phái đoàn chính thức của Tuvalu. Tuvalu hiện là một trong số những quốc gia hiếm hoi trên thế giới còn duy trì quan hệ ngoại giao với Đài Bắc.
RFA, 24/06/2022
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng, trong buổi họp báo thường kỳ hôm 23/6, đã phát biểu phản đối Trung Quốc tập trận ở Biển Đông ngày 19/6 tại khu vực phía tây bắc quần đảo Hoàng Sa, đồng thời nêu quan điểm của Việt Nam về kế hoạch "lập vùng nội thủy" trên Biển Đông của nước láng giếng phía Bắc.
euters
Tờ Sankei của Nhật Bản ngày 18/6 có đưa tin về cuộc họp tại Ủy ban Giới hạn Thềm lục địa (CLCS) của Liên Hợp Quốc. Tại đó, đại diện chính phủ Nhật nói rằng "Trung Quốc đang tiến hành thiết lập vùng nội thủy" ở Biển Đông và cấm tàu thuyền nước ngoài qua lại ở khu vực này, nhưng không đưa thêm thông tin chi tiết.
Truyền thông Nhà nước Việt Nam dẫn lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam rằng lập trường của Việt Nam về Biển Đông đã được thể hiện rõ ràng và đầy đủ trong công hàm số 22/HC/2020 gửi tới Liên Hợp Quốc ngày 30/3/2020, và"Việt Nam cho rằng các nước đều chia sẻ nguyện vọng và mục tiêu chung là duy trì và thúc đẩy hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển tại Biển Đông, giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và UNCLOS".
Thăm dò thái độ các nước ASEAN ?
Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc cho rằng ý định Trung Quốc muốn biến Biển Đông thành khu vực nội thủy của mình là hành động thăm dò thái độ của các nước nằm trong vùng biển này. Theo ông, trong thời gian tới chắc chắn các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới sẽ lên án và từng nước sẽ có hành động để đối phó kế hoạch này của Trung Quốc :
"Nếu Trung Quốc tuyên bố Biển Đông là nội thủy của họ cũng như trước đây họ dự định lập vùng cấm bay cho khu vực Biển Đông nhưng đã không thực hiện được. Tôi cũng tin rằng họ chỉ nói để răng đe các nước ở khu vực Đông Nam Á mà thôi. Thế giới sẽ không bao giờ để cho Trung Quốc hành động như vậy. Nó trái với luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982.
Và tôi cũng tin rằng Trung Quốc muốn thăm dò thái độ từng nước ở Đông Nam Á đối với sự cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung hiện nay, và đối với Trung Quốc.
Tuy nhiên qua qua đó chúng ta cũng đã thấy rằng Trung Quốc không phải là một người bạn tốt, không phải là một người đồng chí tốt".
Cũng theo ông Đinh Kim Phúc, ý định muốn biến khu vực Biển Đông ở Đông Nam Á trở thành nội thủy của Trung Quốc là tham vọng từ lâu của nước này. Nó cũng cho thấy Trung Quốc là Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, lại là thành viên của Công ước Quốc tế về Luật biển năm 1982, nhưng mà họ hành xử và phát biểu kiểu vô pháp, không tuân theo bất cứ một cái gì mà họ đã cam kết :
"Giới cầm quyền Trung Quốc lúc nào cũng hai mặt. Một mặt là họ trấn an các nước Đông Nam Á, mặt khác họ luôn ấp ủ và thực hiện tham vọng bá quyền ở khu vực Đông Nam Á và trước nhất là trên biển Đông.
Mới đây tại hội nghị Shangri-La 2022, Bộ trưởng quốc phòng của Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa đã nói những lời hay ý đẹp về mối quan hệ của Trung Quốc đối với Việt Nam cũng như các nước ASEAN, và lời nói đó 10 ngày sau đã thành gió bay.
Nó bộc lộ rõ tham vọng của Trung Quốc sẽ không bao giờ buông tha khu vực Biển Đông, không bao giờ từ bỏ tham vọng bá quyền của họ ở khu vực này".
Trong bài phát biểu "Tầm nhìn của Trung Quốc đối với Trật tự khu vực" hôm 11/6 tại Đối thoại Sangri-La 2022, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa nói rằng mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc đang rất tốt đẹp, và bản thân ông cũng là một người anh tốt và một người bạn tốt với người đồng cấp của Việt Nam là Bộ trưởng của Việt Nam Phan Văn Giang.
Đường lưỡi bò do Trung Quốc tự vẽ ra trên Biển Đông. AFP
Khó khăn cho Trung Quốc
Trở lại với ý định "lập vùng nội thủy" của Trung Quốc, Thạc sỹ, nhà nghiên cứu Quốc tế Hoàng Việt nhận định thực ra kế hoạch này được phía Nhật đưa ra nhưng tới nay cũng chưa biết chính xác, cụ thể thông tin như thế nào.
Tuy nhiên, cái mà Trung Quốc gọi là "vùng nội thủy" ở khu vực Biển Đông này cũng không phải là điều mới mẻ. Bởi vì, từ trước đến nay, Trung Quốc đã tự vẽ nên đường Lưỡi Bò đi qua khoảng 90% Biển Đông.
Một trong những cách giải thích của Trung Quốc là Đường Lưỡi Bò là biên giới biển của Trung Quốc, như vậy thì mặc nhiên vùng biển, vùng nước ở trong đó chính là "vùng nội thủy" của Trung Quốc.
Như vậy là Trung Quốc đang muốn biến một vùng biển quốc tế theo Công ước Luật Biển trở thành lãnh hải của riêng Trung Quốc, và càng ngày, họ sẽ càng đẩy mạnh thực hiện điều đó hơn.
Tuy nhiên, Biển Đông là một khu vực cực kỳ quan trọng đối với thương mại, hàng hải và an ninh quốc phòng trên thế giới. Do đó, theo Thạc sỹ Hoàng Việt, các quốc gia khu vực Đông Nam Á và cả thế giới sẽ không bao giờ để Trung Quốc hiện thực hoá kế hoạch này :
"Bởi vì Biển Đông có rất nhiều con đường đường vận tải biển, thương mại hàng hóa quan trọng bậc nhất trên thế giới. Nếu mà Trung Quốc kiểm soát thì thì rõ ràng là toàn bộ thế giới sẽ bị ảnh hưởng.
Điều này rõ ràng là các quốc gia khác sẽ phải lên tiếng. Đầu tiên họ sẽ phải nói rằng tất cả các quốc gia ở khu vực Biển Đông và cả Trung Quốc đều là thành viên của Công ước Luật biển năm 1982, thì cứ phải đúng theo quy định đó mà làm, chứ không thể nào biến từ vùng biển Quốc tế trở thành vùng biển của Trung Quốc được.
Suốt những năm vừa qua, trong những cuộc chiến công hàm thì các quốc gia đã phản đối liên tiếp những lập luận này của Trung Quốc. Về mặt pháp lý là không ai chấp nhận điều này cả, còn về mặt thực tế thì các quốc gia sẽ phải xem xét như thế nào sau".
Trung Quốc có thể đạt được mục đích, nếu…
Trả lời Đài Á Châu Tự do hôm 23/6, Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia Úc về Việt Nam và vấn đề Biển Đông, cho biết kế hoạch biến Biển Đông thành nội thủy của Trung Quốc không phải là điều mới. Tuy nhiên, lời phát biểu từ phía Nhật Bản coi như là một bước để khiến các nước Malaysia, Philippines, Việt Nam, Indonesia... quan tâm đến về vấn đề này.
Theo vị Giáo sư người Úc, đúng là Trung Quốc sẽ không dễ dàng thực hiện được ý đồ của họ bởi vì trong bối cảnh hiện nay, tất cả các nước đều phản đối yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc.
Mỹ đưa các tàu chiến đi qua khu vực Biển Đông cho thấy nước này không công nhận đây là vùng nội thủy của Trung Quốc. Và Úc, dù không có hoạt động tự do hàng hải như Mỹ, nhưng họ cũng có một số chương trình tương tự. Và, theo giáo sư Carl, thật đáng quý khi không có một quốc gia nào chấp nhận các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng nếu các nước không tiếp tục lên tiếng phản đối, Trung Quốc sẽ dần hiện thực hoá ý đồ đó :
"Vấn đề là bạn sẽ làm gì nếu Trung Quốc cố gắng thực hiện các bước thiết thực để thực thi kế hoạch này.
Điều đó có thể xảy ra nếu Trung Quốc có những can thiệp phù hợp. Cho nên, như đã thấy, Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền trên gần như toàn bộ khu vực Biển Đông. Tuy nhiên, Mỹ, Úc hay các nước Đông Nam Á đều đáp trả rằng Trung Quốc không thể làm như vậy.
Nhưng nếu không có ai làm bất cứ điều gì thì Trung Quốc có thể đạt được mục đích. Bởi vì không ai phản đối có nghĩa là các nước đã chấp nhận tuyên bố của Trung Quốc".
Giáo sư Carl Thayer cho rằng Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch về vùng nội thủy ở Biển Đông cũng giống như cách mà họ đang làm đối với Eo biển Đài Loan.
Trong cuộc họp báo ngày 13/6, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Uông Văn Bân tuyên bố nước này có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với eo biển Đài Loan. Đây không phải là vùng biển quốc tế, mà là vùng nội thủy của Trung Quốc.
Một ngày sau, Đài Loan lên tiếng phủ nhận, nói rằng "eo biển thuộc về hải phận quốc tế, nằm ngoài lãnh hải của Đài Loan. Do vậy, eo biển Đài Loan phải tuân theo nguyên tắc tự do hàng hải.
************************
RFA, 24/06/2022
Ngoại trưởng sắp mãn nhiệm của Philippines hôm 23/6 cho biết đàm phán về khai thác chung giữa Manila và Bắc Kinh đã chấm dứt vì những khó khăn liên quan đến vấn đề hiến pháp và chủ quyền. Hãng tin Reuters loan tin này vào cùng ngày.
AFP
Đàm phán khai thác dầu khí chung giữa hai nước được bắt đầu vào năm 2018, hai năm sau khi Tổng thống Rodrigo Duterte lên nắm quyền tại Philippines. Ông Duterte là người có chủ trương mềm mỏng hơn với Bắc Kinh so với người tiền nhiệm.
Ngoại trưởng Teodoro Locsin nói : "Ba năm đã qua và chúng tôi vẫn không đạt được mục tiêu khai thác dầu khí rất quan trọng với Philippines mà không phải với cái giá là chủ quyền của mình, ngay cả chỉ là một phần nhỏ của nó".
Trung Quốc là nước đòi chủ quyền phần lớn diện tích Biển Đông, nơi các nước như Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng có những đòi hỏi về chủ quyền.
Việc khai thác dầu khí chung giữa các nước với Trung Quốc có thể dẫn đến việc nhượng bộ đối với Bắc Kinh và Trung Quốc có thể sử dụng điều này để đòi hỏi chủ quyền đối với vùng khai thác chung vốn thuộc chủ quyền của nước khác.
Ngoại trưởng Locsin cho biết việc khai thác chung giữa hai nước không thể đạt được mà không vi phạm hiến pháp của Philippines hoặc Trung Quốc sẽ tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển của Philippines. Ông Locsin cho biết, Tổng thống Duterte đã đích thân ra lệnh chấm dứt đàm phán này với Bắc Kinh.
- Reuters
Trong lúc cả thế giới vẫn đang tập trung vào tình hình chiến sự tại Donbass, Ukraine, thì Trung Quốc vẫn đang tiếp tục tăng cường sức mạnh và "khoe nanh múa vuốt" trên Biển Đông.
Truyền thông Trung Quốc mới đây vừa cho biết, các máy bay chiến đấu tàng hình của nước này đã bắt đầu hoạt động tuần tra trên các Biển Hoa Đông và Biển Đông trong khuôn khổ các sứ mệnh tập huấn thường kỳ. Tuyên bố này được đưa ra bởi Ren Yukun, trưởng đoàn kiểm tra, giám sát kỷ luật và là một ủy viên của đảng ủy Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc (AVIC) (1). Ông này cũng cho biết thêm là các hoạt động tuần tra này được thực hiện sau khi các máy bay J-20 chuyển sang sử dụng "các động cơ được phát triển ở trong nước". Ban đầu, loại máy bay chiến đấu này được trang bị động cơ dòng Saturn AL-31FN do Nga sản xuất.
Thông tin về cuộc tuần tra của máy bay J-20 được đưa ra vào thời điểm khi vừa tháng trước, một máy bay chiến đấu F-35 của Mỹ và một máy bay J-20 của Trung Quốc đã có cuộc chạm trán rất gần ở Biển Hoa Đông (2). Chỉ huy trưởng Lực lượng Không quân Thái Bình Dương của Mỹ Kenneth Wilsbuch cho biết các phi công Mỹ đã bị ấn tượng sâu sắc trước hệ thống chỉ huy và kiểm soát của máy bay chiến đấu J-20 của Trung Quốc. Ông cho biết vẫn còn quá sớm để nói về việc Trung Quốc sẽ triển khai J-20 như thế nào.
Các chuyên gia Trung Quốc cho biết J-20 là sự kết hợp giữa F-22 và F-35 của Mỹ. Loại máy bay này sẽ không bị các radar phát hiện. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa rõ trên thực tế, liệu loại máy bay chiến đấu này của Trung Quốc có sở hữu sức mạnh trên không cũng như hỏa lực mặt đất như F-35 của Mỹ hay không. Theo AVIC, chiến đấu cơ J-20 hiện đang sử dụng các động cơ được sản xuất trong nước, theo đó có sức mạnh lớn hơn. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc tin rằng với sự nâng cấp mới nhất này, các máy bay chiến đấu của Trung Quốc hiện sẽ sở hữu năng lực của máy bay siêu thanh và sẽ có khả năng thực hiện nhiều động tác nhào lộn ở trên không.
Trung Quốc từ lâu đã quảng bá về khả năng của máy bay chiến đấu tàng hình Thành Đô J-20 kể từ khi nó được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2011. Máy bay chiến đấu tối ưu thế hệ thứ năm, xuất thân từ chương trình J-XX những năm 1990, đã được đưa vào biên chế từ tháng 3/2017, còn đơn vị chiến đấu J-20 đầu tiên được thành lập chỉ một năm sau đó.
Hiện Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) chưa tiết lộ số lượng các máy bay J-20 khả dụng của họ, nhưng nhiều ý kiến cho rằng con số này vào khoảng 150.
Động thái này của Trung Quốc mang thông điệp gì ?
Các chuyên gia nhận định rằng việc Trung Quốc triển khai các máy bay J-20 cho thấy Trung Quốc muốn thể hiện một số thông điệp : Thứ nhất là sự tự tin lớn hơn của nước này với các năng lực quân sự của mình; Thứ hai là sự cảnh báo của Bắc Kinh với các quốc gia khác đang liên quan đến các tranh chấp với Trung Quốc tại hai vùng biển này.
Việc Trung Quốc điều loại máy bay mạnh nhất này thực hiện hoạt động tuần tra tại Biển Đông ở ngay sát Đài Loan ngay giữa lúc cuộc chiến tranh tại Ukraine đang diễn ra là một nỗ lực nhằm hăm dọa hòn đảo này. Động thái này cũng được cho là sẽ làm gia tăng căng thẳng tại một khu vực vốn đã đầy rẫy các vũ khí nguy hiểm. Không chỉ có vậy, Trung Quốc sẽ có khả năng tấn công căn cứ quân sự của các đồng minh của Đài Loan như là Mỹ và Nhật Bản.
Ngoài ra, sự xuất hiện của loại máy bay này ở Biển Đông có nguy cơ khiến những căng thẳng của Trung Quốc với Đài Loan, Singapore, Việt Nam, Philippines sẽ gia tăng. Đây là thế hệ máy bay chiến đấu thứ năm và ngoài Trung Quốc ra thì không quốc gia nào ở Biển Đông sử dụng loại máy bay tối tân như vậy.
Do đó, J-20 của Trung Quốc sẽ hoàn toàn áp đảo các lực lượng không quân yếu hơn của các nước Đông Nam Á liên quan đến tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, có thể Trung Quốc sẽ chỉ triển khai J-20 trong những trường hợp Bắc Kinh đánh giá là gây ra mối đe dọa lớn nhất đối với họ vì việc triển khai J-20 rất tốn kém và bản thân loại tiêm kích này có giá trị lớn đến mức Trung Quốc sẽ không muốn bị tổn thất.
Một số chuyên gia cho rằng (3), để tiêu diệt những lực lượng không quân tương đối yếu hơn trong khu vực, Trung Quốc có thể chọn sử dụng chiến tranh tiêu hao trên không thay vì mạo hiểm sử dụng phi đội tiêm kích tối tân nhất của mình. Ngay cả khi không có J-20, Trung Quốc vẫn có lợi thế hơn so với các lực lượng không quân của các nước tranh chấp khác khi xét về số lượng máy bay chiến đấu. Trung Quốc có thể lựa chọn tiến hành các cuộc tuần tra liên tục và tăng cường trên không phận của các khu vực tranh chấp ở Biển Đông, buộc lực lượng không quân của các quốc gia tranh chấp phải phản ứng ở quy mô và mức độ vượt quá khả năng của họ. Điều này khiến phi công của các nước tranh chấp phải chịu tình trạng căng thẳng và mệt mỏi, theo đó làm gia tăng khả năng tính toán sai lầm và làm gia tăng nguy cơ gây tổn thất về trang thiết bị do hao mòn khi hoạt động. Điều này Trung Quốc đã thực hiện đối với Đài Loan trong suốt năm 2021.
Đại sứ Mỹ Marc Knapper gặp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hôm 25/4/2022. Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam
Liệu Nga có tiếp sức cho Trung Quốc ?
Trung Quốc đã cố gắng mô phỏng, sao chép các công nghệ từ các quốc gia khác cho việc sản xuất vũ khí của mình. Một điểm yếu rất lớn của Trung Quốc trong hoạt động sản xuất vũ khí của họ, đó là khả năng sản xuất các động cơ.
Cách đây không lâu, Trung Quốc đã gặp rắc rối với Thái Lan khi nước này không thể giao đúng kỳ hạn hai tàu ngầm lớp Nguyên cho Thái Lan theo đúng hợp đồng (4). Lý do là vì một công ty của Đức đã không cung cấp động cơ tàu ngầm cho Trung Quốc do lo ngại vi phạm lệnh cấm xuất khẩu các sản phẩm vũ khí của Đức. Trong khi Trung Quốc chưa đủ sức để chế tạo động cơ tàu ngầm với thiết kế như mong muốn.
Đối với động cơ cho máy bay phản lực cũng tương tự. Lâu nay, Trung Quốc đã gặp không ít khó khăn trong kế hoạch sản xuất động cơ phản lực chất lượng cao cho lực lượng không quân của mình - một điểm nghẽn quan trọng trong chương trình hiện đại hóa lực lượng không quân của nước này. Trong những năm 1990 và 2000, Trung Quốc đã nỗ lực sao chép một số phiên bản động cơ nhất định của Nga nhưng lại sản xuất ra những phiên bản kém chất lượng hơn với độ bền của động cơ rất thấp.
Trong khi đó, Nga cũng biết Trung Quốc đã đánh cắp thiết kế động cơ Su-27 của họ và biến thành bản sao thiết kế không có giấy phép của riêng Bắc Kinh (5). Moscow không bán riêng rẽ các động cơ của máy bay chiến đấu, điều này khiến việc Trung Quốc muốn biến những mô hình động cơ của Nga thành của phiên bản của riêng mình trở nên vô cùng khó khăn.
Tuy nhiên, nhiều người tỏ ý lo ngại khi hiện nay, do Nga vướng vào vấn đề xâm lược Ukraine, cho nên gần như toàn bộ phương Tây đã cô lập và cấm vận, trừng phạt Nga. Trong bối cảnh đó, Nga chỉ có chỗ dựa tin cậy là Trung Quốc. Chính vì vậy, khả năng Nga phải đánh đổi bằng cách cung cấp các công nghệ sản xuất động cơ phản lực cho Trung Quốc. Điều này rất có thể sẽ xảy ra.
Nếu Nga chuyển giao công nghệ sản xuất động cơ phản lực cho Trung Quốc, điều này sẽ khiến Trung Quốc sẽ có thêm sức mạnh để lấn lướt trên Biển Đông.
Một chuyên gia về quân sự của Mỹ mới đây cho biết, nguy cơ Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam tại Trường Sa lớn hơn nhiều so với việc tấn công Đài Loan, như một hiệu ứng từ cuộc chiến Ukraine (6).
Trước tình hình như vậy, lẽ ra Việt Nam cần có một động thái hoặc một chính sách nhằm thích ứng trước những biến động của thời cuộc. Thế nhưng, lãnh đạo Việt Nam vẫn điềm nhiên "tự sướng" như lời của ông Nguyễn Phú Trọng trong cuộc gặp với Đại sứ Mỹ tại Hà Nội hôm qua "Việt Nam chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay, trước hết là nhờ vào đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn" (7).
Ngay cả việc Nga "bán đứng" Việt Nam khi tung ra thông tin tập trận chung Nga - Việt như một "ác ý" cũng khiến Việt Nam phải lúng túng giải thích như "gà mắc tóc". Trong khi cuộc chiến Ukraine đã cho thấy những hạn chế trong vũ khí và học thuyết quân sự của Nga, nhưng nhiều lãnh đạo Việt Nam vẫn "khư khư" ôm chân Nga, cho dù Nga đã tuyên bố luôn ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông (8).
Việt Nam cần phải thực hiện nhiều sự thay đổi cả về học thuyết đối ngoại và quốc phòng, mới có thể bảo vệ được lợi ích của mình trên Biển Đông.
Nguyễn Hải Thái
Nguồn : RFA, 27/04/2022
Tham khảo :
1. https://www.globaltimes.cn/page/202204/1259239.shtml
3. https://asiatimes.com/2022/04/chinas-j-20-fighters-begin-south-china-sea-patrols/
6. https://asia.nikkei.com/Opinion/Ukraine-conflict-echoes-loudest-in-Vietnam-not-Taiwan
8. https://thanhnien.vn/lap-truong-cua-tong-thong-putin-ve-bien-dong-post1391477.html
Thu Hằng, RFI, 03/12/2021
Trung Quốc có "những hành động đơn phương và gây vấn đề trên biển" ở Biển Đông, biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan, gây bất ổn cho hòa bình và an ninh trong vùng. Trong cuộc đối thoại cấp cao lần thứ hai về Trung Quốc tại Washington ngày 02/12/2021, Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu đều cho rằng những hành động hung hăng của Trung Quốc tác động trực tiếp đến an ninh và thịnh vượng của hai bên.
Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, bà Wendy Sherman trong cuộc đối thoại Mỹ- Liên Âu ngày 03/12/201. Ảnh minh họa. Andrew Harnik Pool/AFP/File
Trong thông cáo chung được công bố sau cuộc họp, thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Wendy Sherman và tổng thư ký Cơ quan Hoạt động Đối ngoại Châu Âu (SEAE) Stefano Sannino "tái khẳng định tầm quan trọng duy trì và khuyến khích tự do lưu thông hàng hải và hàng không phù hợp với luật pháp quốc tế chiểu theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982" (UNCLOS).
Cả hai quan chức ngoại giao tuyên bố cần phải "duy trì hợp tác chặt chẽ", phối hợp quản lý chính sách ngoại giao đối với Trung Quốc, được cả hai bên coi là "đối thủ cạnh tranh mang tính hệ thống", "trong đó có những điểm mà hai bên có cùng lợi ích và có khả năng hợp tác mang tính xây dựng".
Ngoài ra, bà Wendy Sherman và ông Stefano Sannino cũng đề cập đến tình trạng vi phạm nhân quyền ở Trung Quốc, trong đó có các vụ trấn áp cộng đồng thiểu số ở Tân Cương, đàn áp Tây Tạng và tình hình dân chủ xuống cấp ở Hồng Kông… Những chủ đề này nằm trong hồ sơ nghiên cứu của sáu nhóm làm việc được thành lập trong cuộc họp cấp cao đầu tiên vào tháng 05/2021 trong khuôn khổ Đối thoại Hoa Kỳ - Liên Hiệp Châu Âu về Trung Quốc.
Việc tổ chức Đối thoại này được ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo và người đứng đầu ngành ngoại giao Châu Âu Josep Borrell nhất trí trong cuộc điện đàm ngày 23/10/2020 khi thảo luận về những lợi ích chung của hai bên trong khuôn khổ đối tác xuyên Đại Tây Dương.
Ngày 03/12, bà Sherman và ông Sannino tiếp tục thảo luận về Trung Quốc cùng với các cuộc tham vấn cấp cao về chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Thu Hằng
**********************
Mỹ, EU lo ngại trước các hành động 'có vấn đề' của Trung Quốc ở vùng biển tranh chấp
RFA, 03/12/2021
Các nước đồng minh đã bày tỏ "quan ngại mạnh mẽ" về "các hành động đơn phương và có vấn đề" của Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp ở Châu Á Thái Bình Dương, đồng thời cho biết sẽ làm việc cùng nhau về vấn đề này. Aljazeera loan tin vừa nói hôm 3/12.
Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Wendy Sherman tại Bộ Ngoại giao ở Washington, DC, Hoa Kỳ trước đây. Reuters
Trong một tuyên bố chung sau cuộc họp cấp cao giữa Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ - Wendy Sherman và ông Stefano Sannino - Tổng thư ký Cơ quan Đối ngoại EU, hai bên đã cho biết các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, Biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan " phá hoại hòa bình và an ninh trong khu vực và có tác động trực tiếp đến an ninh và thịnh vượng của cả Hoa Kỳ và EU".
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông bất chấp phán quyết hồi năm 2016 của tòa án quốc tế bác bỏ yêu sách của họ. Nước này đã và đang phát triển các đảo nhân tạo và tiền đồn quân sự trong vùng biển được hỗ trợ bởi lực lượng Cảnh sát biển và lực lượng dân quân hàng hải của họ.
Hành động này đã dẫn đến các cuộc đối đầu với các nước khác có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, gần đây nhất là trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Bãi Cỏ Mây.
Việt Nam, Malaysia và Brunei cũng tuyên bố chủ quyền với một số khu vực ở Biển Đông. Các tàu của Hoa Kỳ cũng đã và đang thực hiện các cuộc tuần tra mang tên "tự do hàng hải" trong khu vực, vốn là một trong những tuyến đường thương mại quan trọng nhất của thế giới.
Trung Quốc lên án các cuộc tuần tra này của Mỹ và gọi đây là hành động gây mất ổn định trong khu vực.
Chi Phương, RFI, 03/12/2021
Theo báo cáo của tổ chức Sáng kiến theo dõi tình hình chiến lược Biển Đông (SCSPI), đăng trên Vi Bác (Weibo) của tổ chức này hôm 01/12/2021, quân đội Mỹ tiến hành các chuyến bay do thám nhiều ở mức kỷ lục trong tháng 11/2021. Thông báo được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa hai cường quốc về vấn đề Đài Loan.
Ảnh minh họa do Hải quân Mỹ cung cấp : Các chiến đấu cơ F/A-18E trên hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan ở Biển Đông ngày 06/07/2020. AP - Mass Communication Specialist 2nd Class Samantha Jetzer
Với khoảng 94 chuyến bay do thám trên Biển Đông, gần bờ biển Trung Quốc, quân đội Mỹ đã tăng gần 30 % số vụ do thám so với hồi tháng 2/2021. Hầu hết các chuyến bay do thám thực hiện trên vùng biển đang có tranh chấp và không quân Mỹ đã huy động nhiều loại máy bay, như máy bay tuần tra chống ngầm P-8A, máy bay do thám không người lái MQ-4C và máy bay giám sát không đối đất E-8C.
Theo Sáng kiến theo dõi tình hình chiến lược Biển Đông, một tổ chức tư vấn của Trung Quốc, có trụ sở tại Bắc Kinh, số vụ do thám có của Mỹ trong tháng 11/2021, có thể cao hơn vì một số máy bay dường như đã tắt tín hiệu phát đáp nhận diện.
Nhật báo The South China Morning Post giải thích rằng sự gia tăng các hoạt động của máy bay do thám Hoa Kỳ diễn ra trong bối cảnh quân đội trung quốc tăng cường uy hiếp quân sự chống lại Đài Loan. Trung Quốc đã điều một số lượng lớn máy bay chiến đấu vào vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan trong thời gian gần đây. Bộ Quốc Phòng Đài Loan cho biết quân đội Trung Quốc đã thực hiện 159 vụ xâm nhập vùng ADIZ, sau mức kỷ lục 196 lần vào tháng 10/2021.
Thêm vào đó, chuyến công tác của các nhà lập pháp Mỹ đến Đài gần đây đã làm gia tăng căng thẳng trên eo biển Đài Loan. Hai cường quốc đang thực hiện cuộc chạy đua vũ trang về các loại vũ khí siêu thanh. Theo đánh giá mới nhất của Lầu Năm Góc, Trung Quốc được cho là có khoảng 350 đầu đạn hạt nhân. Mỹ có 3.800 đầu đạn, nhưng dự báo rằng kho dự trữ của Trung Quốc có thể tăng gấp bốn lần vào năm 2030.
Theo nhật báo Hồng Kông, sau cuộc gọi trực tuyến giữa chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và tổng thống Mỹ Joe Biden diễn ra vào tháng 11, lãnh đạo quân đội hai bên sẽ có cuộc hội đàm trực tuyến, dự kiến diễn ra vào tháng 1/2022.
Chi Phương
********************
Thanh Hà, RFI, 02/12/2021
Tuyên bố của cựu thủ tướng Nhật rằng Tokyo và Washington không để yên cho Trung Quốc xâm lấn Đài Loan gây sóng gió trong quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Tối 01/12/2021 bộ Ngoại Giao Trung Quốc triệu đại sứ Nhật Bản tại Bắc Kinh lên để phản đối phát biểu của ông Shinzo Abe.
Ảnh trên màn hình : cựu thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe phát biểu nhân một cuộc họp tại Đài Bắc (Đài Loan), ngày 01/12/2021. © Kyodo News via AP
Hãng tin Pháp AFP cho biết : Theo thông cáo của bộ Ngoại Giao Trung Quốc, trong cuộc "họp khẩn" với đại sứ Nhật tại Bắc Kinh ông Hideo Tarumi, trợ lý ngoại trưởng Trung Quốc bà Hoa Xuân Oánh nhấn mạnh Bắc Kinh "cực lực phản đối" việc Nhật Bản "can thiệp trắng trợn" vào công việc nội bộ của Trung Quốc.
Căng thẳng giữa Tokyo và Bắc Kinh dấy lên sau khi cựu thủ tướng Shinzo Abe phát biểu qua cầu truyền hình việc Trung Quốc xâm lược Đài Loan đe dọa đến an ninh Nhật Bản. Do vậy, Tokyo cũng như Washington sẽ không khoanh tay đứng nhìn Đài Loan bị thôn tính. Cựu thủ tướng Shinzo Abe nói thêm Hoa lục và nhất là chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình "không nên quên điều đó".
Bộ Ngoại Giao Trung Quốc xem lời lẽ của ông Abe là hoàn toàn "sai lệch" và "vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc then chốt trong quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản". Vẫn theo bà Hoa Xuân Oánh, lập trường của cựu thủ tướng Abe "công khai gây tổn hại cho chủ quyền của Trung Quốc và hưởng ứng một cách bỉ ổi phe đòi độc lập cho Đài Loan".
Hãng tin Anh Reuters cho biết Bắc Kinh nói rõ với đại sứ Nhật Bản rằng "không có quyền và không tư cách nào để đưa ra những lập luận vô trách nhiệm như trên về Đài Loan".
Về phản ứng của Tokyo, Reuters cho biết chánh văn phòng của phủ thủ tướng Nhật, ông Hirokazu Matsuno không tán đồng phản ứng của Bắc Kinh bởi vì cựu thủ tướng Abe không còn là thành viên chính phủ.
Tuy nhiên đại sứ Nhật tại Trung Quốc giải thích, Hoa lục cần biết rằng tại Nhật Bản, "mọi người được quyền có những ý kiến khác nhau và Nhật Bản không thể chấp nhận quan điểm một chiều của Trung Quốc".
Theo giới quan sát, Trung Quốc càng lúc càng khó chịu về quan điểm của Nhật ủng hộ Đài Loan. Hơn thế nữa trong tuần, Lầu Năm Góc tiết lộ kế hoạch nâng cấp và mở rộng một số căn cứ quân sự trên đảo Guam và tại Úc.
Thanh Hà
Hải quân phương Tây tham gia nhiều cuộc tập trận với đối tác Đông Nam Á
Trọng Nghĩa, RFI, 06/10/2021
Quân đội năm nước trong nhóm Hiệp Ước Phòng Thủ Ngũ Cường (FPDA) bao gồm Singapore, Malaysia, Úc, New Zealand và Anh đã bắt đầu tiến hành hai tuần lễ tập trận thường kỳ, trên bộ, trên biển và trên không kể từ ngày 04/10/2021 vừa qua. Vế hải quân của cuộc tập trận dự kiến được tổ chức ở phía nam Biển Đông, đặc biệt có sự tham gia của nhóm tác chiến tàu sân bay Anh Queen Elizabeth hiện đang có mặt trong vùng.
Hải quân của Anh với nhóm tàu tác chiến sân bay Anh Queen Elisabeth và các tàu của Canada, Nhật trong một hoạt động diễn tập trong vùng Biển Đông hồi tháng 9/2021. AP - Jay Allen
Trong một thông cáo công bố hôm 05/10, bộ quốc phòng Singapore cho biết là cuộc tập trận thường niên Bersama Lima - năm nay được cải tên thành Bersama Gold 2021 để đánh dấu 50 năm ngày thành lập Nhóm Ngũ Cường – tập hợp 2.600 quân đến từ 5 nước thành viên.
Đặc biệt quan trọng là vế hải quân, sẽ diễn ra ở khu vực phía nam Biển Đông trong vùng biển quốc tế, huy động 10 chiến hạm và tàu quân sự, một tàu ngầm, 6 trực thăng hàng hải, 3 máy bay tuần tra hàng hải và 25 chiến đấu cơ.
Lực lượng không quân của nhóm Ngũ Cường sẽ tham gia các cuộc tập trận phòng không và hỗ trợ lực lượng hải quân trong các cuộc tập trận chống tàu ngầm.
Là một sự kiện thường niên, cuộc tập trận Bersama Gold 2021 năm nay rất được chú ý do sự tham gia của nhóm tác chiến tàu sân bay Anh HMS Queen Elizabeth đang triển khai hoạt động tại Châu Á.
Theo trang thông tin Đài Loan Taiwan News ngày 04/10, nhóm tác chiến do hàng không mẫu hạm Queen Elizabeth dẫn đầu đã vượt qua eo biển Luzon từ Biển Philippines trên đường tới Singapore tham gia cuộc tập trận Bersama Gold.
Theo ghi nhận của báo Mỹ Newsweek, vào hôm qua, 05/10, nhóm tác chiến tàu sân bay Anh đã có mặt ở ngoài khơi phía tây Philippines ở khu vực gần eo biển Luzon phân cách Đài Loan và Philippines, cùng lúc với nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson, hoạt động ở vùng phía bắc bãi cạn Scaborough mà Trung Quốc đã chiếm của Philippines.
Hôm qua, bộ quốc phòng Anh xác nhận là hàng không mẫu hạm HMS Queen Elizabeth đã lên kế hoạch tập huấn cùng với chiến hạm và phi cơ của các nước bạn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Canada và New Zealand.
Theo Newsweek, hình ảnh vệ tinh cho thấy là Trung Quốc đã triển khai các tàu quân sự của họ để theo dõi từ xa hành tung của các nhóm tác chiến tàu sân bay Anh và Mỹ. Chiến hạm Trung Quốc được cho là thuộc Hạm Đội Nam Hải, phụ trách vùng Biển Đông.
Trọng Nghĩa
***********************
Năm nước tập trận ở Biển Đông
RFA, 06/10/2021
Chiến hạm của năm nước thuộc Nhóm Hiệp ước Phòng thủ Ngũ Cường (FPDA) gồm Singapore, Malaysia, Australia, New Zealand và Anh Quốc, từ ngày 4/10 tiến hành đợt tập trận ở khu vực quốc tế trên Biển Đông.
Đại diện các nước tham gia cuộc tập trận chung Bersama Gold 2021 - FB MyJointForce
Tin từ Bộ quốc phòng Singapore cho biết, đợt tập trận kéo dài đến ngày 18/10 có tên Bersama Gold 2021. Năm nay đợt tập trận quy tụ chừng 2.600 binh sĩ, 10 chiến hạm, một tàu ngầm, sáu trực thăng hàng hải, ba máy bay tuần tra và 25 chiến đấu cơ.
Chỉ huy phó đợt tập trận Bersama Gold 2021, Đại tá Ng Xun Xi thuộc Lực Lượng Vũ Trang Singapore, được dẫn lời rằng đợt tập trận năm nay là cơ hội để chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, cũng như tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa thành viên năm nước FPDA.
Năm 2021 đánh dấu 50 năm thành lập FPDA từ năm 1971 và 40 năm khởi sự các cuộc diễn tập chung Bersama. Đợt tập trận gần nhất của các nước thành viên FPDA diễn ra vào tháng 10/2019. Lúc đó có chừng 3.000 binh sĩ tham dự, và mục đích chống khủng bố hàng hải và hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa.
*************************
Khinh hạm Anh diễn tập chung với tàu chiến Việt Nam trước khi rời Cam Ranh
RFA, 05/10/2021
Khinh hạm HMS Richmond của Hải quân hoàng gia Anh hôm 4/10-2021 rời quân cảng Cam Ranh kết thúc chuyến thăm bốn ngày tại Việt Nam.
Khinh hạm HMS Richmond của Hải quân Hoàng gia Anh tại cảng Cam Ranh - UK in Vietnam
Đại sứ quán Anh tại Việt Nam cho biết, trước khi rời đi tàu chiến của Anh đã tiến hành diễn tập trao đổi liên lạc và phối hợp chung (PASSEX) với tàu hộ vệ tên lửa Đinh Tiên Hoàng số hiệu HQ-011, đồng thời cho biết "hy vọng sẽ thấy thêm nhiều chiến hạm của Hải quân Hoàng gia Anh hiện diện trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương".
Đây là cuộc diễn tập trao đổi liên lạc và phối hợp chung trên biển đầu tiên giữa Hải quân hoàng gia Anh và Hải quân nhân dân Việt Nam và cũng là hoạt động cuối cùng của khinh hạm HMS Richmond trong chuyến thăm lần này.
Trong đoạn video ngắn do tài khoản Twitter UK in Vietnam đăng tải, Hạm trưởng HMS Richmond bày tỏ lòng biết ơn với tàu hộ vệ tên lửa HQ-011 của Hải quân Việt Nam, đồng thời nhấn ba hồi còi chào tạm biệt trước khi được đáp lễ từ phía đối diện.
Trong bốn ngày ở Việt Nam, tàu chiến trong đội hộ tống tàu sân bay HMS Queen Elizabeth của Hải quân Hoàng gia Anh không có nhiều hoạt động chung với phía Việt Nam ngoài cuộc nói chuyện trực tuyến với Hải quân vùng bốn để lên kế hoạch cho một cuộc diễn tập PASSEX.
Trung Quốc gia tăng đe dọa trên biển Đông
Trong lúc Việt Nam đang căng mình chống dịch, quân đội đã được triển khai tại khi vực phía nam, đặc biệt là Sài Gòn, thì Trung Quốc lại gây biến ở Biển Đông.
Giàn khoan JDC Hakuryu - 5 ngoài khơi Vũng Tàu hôm 29/4/2018. Reuters
Ngày 22/8 một học giả Việt Nam đã đưa thông tin là có ít nhất bốn tàu thăm dò Trung Quốc đang hoạt động trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của ba quốc gia là Việt Nam, Malaysia và Philippines (1).
Còn theo thông tin từ Energyvoice (2) mới đây, một tàu Hải cảnh Trung Quốc đã xâm nhập và đe dọa hoạt động khoan thăm dò của công ty dầu khí Harbour Energy tại Lô Tuna nằm ở Biển Natuna (tên được Indonesia đặt cho một phần Biển Đông) của Indonesia. Đáng chú ý, hoạt động khoan thẩm định này do tập đoàn nhà nước Zarubezhneft của Nga hậu thuẫn và vụ việc nhấn mạnh một thực tế rằng lợi ích năng lượng của Moscow tại Biển Đông ngày càng bị Trung Quốc đe dọa.
Theo đó, trong báo cáo mới nhất, Tập đoàn tư vấn năng lượng Westwood Global Energy cho hay một thời gian ngắn sau khi hoạt động khoan nói trên bắt đầu, tàu Hải Dương 5202 của Hải cảnh Trung Quốc đã xuất hiện trong vùng biển lân cận địa điểm khoan của Harbour Energy thuộc hợp đồng chia sẻ sản lượng (PSC) Lô Tuna ở Biển Natuna. Cũng theo Westwood, "Hải Dương 5202 được cho là cách vị trí khoan khoảng ba dặm. Giới chức Indonesia đã phản ứng bằng cách triển khai tàu hộ tống hải quân KRI John Lie (385) đến nơi diễn ra hành động khiêu khích".
Các hành động này của Trung Quốc diễn ra ngay trong giai đoạn các giới chức Mỹ đang tích cực thực hiện các cuộc viếng thăm Đông Nam Á, trong đó, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ mới có chuyến thăm ba quốc gia Đông Nam Á tháng trước, và nay, Phó Tổng thống Mỹ đang thực hiện chuyến thăm Singapore và Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam, Philippines và Malaysia đều chịu áp lực phải dừng các dự án phát triển chung với các công ty năng lượng nước ngoài hoạt động trong các khu vực thuộc Biển Đông mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền. Trong suốt các năm 2019, 2020, các tàu của Trung Quốc luôn bám sát khu vực Lô 06.1 của Việt Nam. Từ năm 2019 cho đến đầu năm nay, các tàu chiến và máy bay của Trung Quốc cũng liên tục uy hiếp các tàu thăm dò của Malaysia tại khu vực bãi Luconia. Đầu năm 2020, Indonesia đã phải huy động sức mạnh của Hải quân để đối phó với các tàu cá Trung Quốc xâm phạm vùng biển Bắc Natuna. Phát biểu với Energyvoice, Ian Storey – nghiên cứu viên cao cấp và là chuyên gia an ninh Châu Á thuộc Viện ISEAS Yusof Ishak tại Singapore – nói : "Bắc Kinh ngày càng sử dụng các tàu Hải cảnh để quấy rối các tàu khảo sát và các giàn khoan dầu hoạt động trong các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia ven biển nhằm gây áp lực buộc các chính phủ Đông Nam Á đàm phán các thỏa thuận gác tranh chấp cùng khai thác với các công ty năng lượng Trung Quốc".
Chiến thuật "Vùng xám" được tái diễn
Thời gian gần đây, Trung Quốc đã liên tục gia tăng các hoạt động đe dọa "dưới ngưỡng chiến tranh" của họ mà các nhà nghiên cứu đường Tây gọi là "chiến thuật vùng xám".
Biển Đông là nơi điển hình diễn ra các hoạt động "vùng xám" của Trung Quốc. Năm 2013, Chuẩn Đô đốc Trung Quốc Zhang Zhaozhong đã giải thích cách của Trung Quốc, theo một trình tự thời gian tỉ mỉ, đầu tiên đưa tàu cá vào lãnh thổ tranh chấp, sau đó là tàu tuần tra ngư nghiệp, tiếp theo là tàu hải cảnh và cuối cùng là tàu chiến của Hải quân Trung Quốc. Trung Quốc gọi đây là "chiến lược bắp cải", trong đó các đảo bị bao vây bởi nhiều lớp nhằm ngăn cản tàu của các quốc gia khác tiếp cận. Ngày nay, chiến lược này được bổ sung thêm lực lượng dân quân biển có vũ trang, máy bay quân sự, tàu khảo sát của chính phủ và cả các dàn khoan dầu, tất cả đều hoạt động có sự phối hợp với các chiến dịch truyền thông xã hội, chiến tranh mạng và hành động can thiệp vào hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Chiến lược này cũng có thể được mở rộng để phù hợp với hoàn cảnh, ví dụ như trong vụ việc xảy ra ở Đá Ba Đầu (Whitsun Reef) hồi tháng 3/2021, hơn 200 tàu cá của Trung Quốc đã được huy động.
Trên thực tế, Trung Quốc đã áp dụng các chiến thuật "vùng xám" một cách đa dạng, với mục đích nhằm tìm kiếm một lợi thế chiến lược lâu dài so với các nước khác tại khu vực biển Đông này.
Các hành động "vùng xám" không phải diễn ra một cách lộn xộn. Trung Quốc đã thực hiện một chiến dịch được dàn dựng hoàn hảo do chính các cấp cao nhất của Đảng cộng sản Trung Quốc và Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) phê duyệt và kiểm soát. Các hành động "vùng xám" không phải là hành động tự do của các chỉ huy chiến thuật. Chúng được lên kế hoạch một cách có chủ đích để phòng ngừa leo thang quân sự và là chiến thuật "bên miệng hố chiến tranh" được lên kịch bản cẩn thận.
Đây là cách mà Bắc Kinh cố tình thực hiện sự hiện diện như vậy của các tàu Hải cảnh Trung Quốc, điều này sẽ gây thêm áp lực buộc chính phủ các nước ASEAN ở biển Đông phải dừng các dự án đó, bằng cách ngầm đe dọa sẽ tiến hành cản trở các hoạt động đó khi cần thiết. Ngay cả khi không nhằm vào các chính phủ, Bắc Kinh mong muốn rằng sự hiện diện liên tục như vậy sẽ khiến các công ty dầu khí liên quan lo lắng, buộc họ phải rút lui khỏi các dự án.
Tổng thống Indonesia Joko Widodo thăm căn cứ hải quân ở quần đảo Natuna hôm 8/1/2020. AFP
Indonesia phản ứng cứng rắn
Năm 2020, trong "cuộc chiến công hàm", Jakarta đã khẳng định không có tranh chấp biển nào với Bắc Kinh ở Biển Đông hết. Phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế La Hay hồi năm 2016 cũng khẳng định rằng phần lớn các yêu sách biển của Trung Quốc ở Biển Đông không có cơ sở hoặc giá trị pháp lý, từ đó củng cố thêm cho lập trường của Indonesia.
Trả lời Energyvoice, ông Storey – một chuyên gia an ninh của Singapore cho hay : "Trong nhiều năm qua, Indonesia đã đẩy lui các hoạt động đánh bắt cá trái phép của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình bằng cách công khai bác bỏ các yêu sách của Bắc Kinh trong ‘đường 9 đoạn’ và tăng cường hiện diện quân sự xung quanh quần đảo Natuna. Nếu lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc bắt đầu can thiệp vào hoạt động khoan ở Lô Tuna, Jakarta sẽ có nhiều lựa chọn, từ phản đối ngoại giao đến triển khai các tàu thực thi pháp luật trên biển và tàu chiến để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình. Tôi nghĩ rằng chúng ta có khả năng sẽ chứng kiến Indonesia phản ứng cứng rắn hơn Malaysia trong các tranh chấp hàng hải với Trung Quốc".
Cách phản ứng của Indonesia sẽ là một bài học kinh nghiệm đáng kể để các quốc gia khác như Việt Nam, Malaysia và Philippines cần học tập.
Sự hăm dọa của Trung Quốc mạnh đến mức không một quốc gia nhỏ nào ở Châu Á có khả năng thách thức sức mạnh của nước này. Tuy nhiên, càng áp dụng các hành động hung hăng trên biển Đông, Bắc Kinh càng khiến các quốc gia cũng có tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển này và các quốc gia khác xa lánh. Điều đó mở đường cho Mỹ tăng cường sự hiện diện trong khu vực. Đây chính là điều mà Bắc Kinh cần phải suy nghĩ lại.
Đông Hải
Nguồn : RFA, 23/08/2021