"Chủ nghĩa lý lịch" chưa bao giờ chấm dứt ở Việt Nam. Mặc dầu hiến pháp (điều 59 khoản 2) có đề cập đến việc "nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội". Tuy nhiên, thực chất của việc "bình đẳng về cơ hội" ở đây chỉ hạn chế trong một vài lãnh vực về an sinh xã hội. Dầu vậy nó cũng không được áp dụng phổ cập trên thực tế.
Một kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia tại trường Đại học Bách Khoa học và Công nghệ Hà Nội ngày 01 tháng 7 năm 2015. AFP photo
Sau 75, "lý lịch" cá nhân phải xét tới ba đời.
Những người trẻ sinh lầm ở miền Nam ít có "cơ hội" được "tiến thân" như người ở miền Bắc. Trong một bản "sơ yếu lý lịch" luôn có các câu hỏi "ông bà, cha, mẹ trước 75 ở đâu, làm gì ?". Chỉ cần một người dính líu đến "ngụy", đến "tư sản", "phản động"... thì mọi cánh cửa tương lai đều đóng.
Các bản thống kê sau 75 cho thấy dân miền nam ít có bằng cấp hơn dân miền bắc. Dĩ nhiên việc này không hề do dân miền nam dốt, biếng học… Mà nguyên nhân là "lý lịch ba đời" của các bạn trẻ này đã khiến các bạn đứng ngoài cửa trường đại học.
Đến bây giờ vùng Đồng bằng sông Cửu long vẫn còn là "vùng trũng của giáo dục".
Đến nay (42 năm) đã qua 4 thế hệ đào tạo. Hệ quả của "lý lịch ba đời" cũng bớt dần. Không phải do nhà nước cộng sản Việt Nam bỏ chủ trương "lý lịch". Mà vì đời cha sinh sau 75. Đời ông nội thì hầu hết ở lứa tuổi đứng ngoài cuộc chiến (54-75). "Chủ nghĩa lý lịch" đã không còn hiệu quả để "lọc" những thành phần thuộc đối tượng chống cộng sản tiềm tàng.
Vì vậy mới xảy ra vụ "điểm cộng" khi thi vào đại học.
Báo chí vừa đăng, kỳ thi tuyển vào trường Y dược Sài gòn, có tới 93,5% sinh viên được tuyển vô nhờ được "điểm cộng". Chi có 26 sinh viên (trên tổng số 404) đậu vào mà không nhờ đến "điểm cộng".
Tất cả các nơi khác cũng đều gặp tình trạng tương tự. Nhiều em học sinh xuất sắc, đạt điểm "tối đa", hay "vượt chuẩn" để vào các trường, nhưng vẫn bị loại vì các em thua điểm bởi các sinh viên thuộc diện được "điểm cộng".
Thành phần nào thuộc diện được "điểm cộng" ? Tiêu chuẩn nào cũng không qua được tiêu chuẩn "hậu duệ", "tiền quyền"...
Thử nhìn các gương mặt "lãnh đạo" trẻ hôm nay. Hầu hết là "cha truyền con nối". Đồng chí cha kê ghế cho đồng chí con. Nguyễn Văn Chi kê ghế cho con là Nguyễn Xuân Anh (bí thư Đà Nẵng), Trần Đức Lương gởi gấm Trần Tuấn Anh (bộ trưởng bộ Công thương), Võ Văn Kiệt với "hạt mầm" Võ Văn Thưởng, Vũ Huy Hoàng bổ nhiệm con Vũ Quang Hải… Ta cũng không lạ gì những trường hợp cả nhà 8 người cùng làm quan trong tỉnh...
Với một "cơ chế" như vậy thì người có tài năng thực sự dĩ nhiên là đứng ngoài xã hội.
Với chính sách "lý lịch" như vậy làm sao xây dựng "Nhà nước kiến tạo" ?
Nhớ lại một chuyện xưa. Trường hợp thầy Phạm Biểu Tâm, khoa trưởng Y khoa đại học đường trước 1975, với cô Ngô Đình Lệ Thủy, con gái của ông cố vấn Ngô Đình Nhu, thời tổng thống Ngô Đình Diệm.
Cô Ngô Đình Lê Thủy không đủ điểm để vào đại học Y khoa. Thầy Tâm cương quyết không nhận cô Thủy vào học, mặc dầu có sự can thiệp từ Bộ giáo dục. Rốt cục cô Thủy không được nhận vào Đại học Y khoa và thầy Phạm Biểu Tâm vẫn tiếp tục làm Khoa trưởng cho tới khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.
Dĩ nhiên Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ không vì tính thanh liêm trong giáo dục của thầy Phạm Biểu Tâm, hay vì chính sách "công bằng về cơ hội" của Việt Nam Cộng Hòa.
Chủ trương "công bằng về cơ hội" được áp dụng ở tất cả các nước văn minh trên thế giới.
Nói ra chuyện này, là ta không thể tiếp tục chấp nhận giao tương lai đất nước cho những con người kém khả năng.
Từ 75 đến nay, Việt Nam ngày càng đi xuống, đã đến hàng chót Đông nam Á. Đât nước không còn chỗ nào lành lặng, không chỗ nào không ô nhiễm. Con người thì kém cõi, ngoài bán sức lao động thì không còn có khả năng nào.
Đó là hệ quả của "chủ nghĩa lý lịch", của "qui trình", của đảng trị cha truyền con nối.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 08/08/2017
Năm ngoái, sau khi báo chí đăng tải Trịnh Xuân Thanh "đào tẩu" ra nước ngoài, nhà nước cộng sản Việt Nam ra lệnh "truy nã toàn quốc" đồng thời với lệnh "truy nã quốc tế" ngày 16 tháng chín năm 2016. Tôi có viết status ngắn, ngày 17 tháng 9, rằng việc này chưa chắc Interpol đã can thiệp.
Bộ Luật hình sự Việt Nam - Ảnh minh họa
Nội qui Interpol, điều 2 khoản a, qui định về việc trợ giúp hỗ tương giữa cảnh sát hình sự thuộc các nước thành viên của tổ chức, (với điều kiện hành vi này) phù hợp với luật pháp của các quốc gia cũng như tinh thần của "Tuyên ngôn phổ cập về nhân quyền". Điều 3, Interpol không can thiệp vào các việc (tội phạm) có liên quan đến chính trị, quân sự, tôn giáo và chủng tộc.
Theo thông tin của cơ quan điều tra bộ Công an (C46), Trịnh Xuân Thanh bị truy tố vì tội "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" như qui định ở điều 165 Bộ Luật hình sự.
Hành vi gọi là "làm trái các qui định của nhà nước", ngay cả khi hành vi này làm phá sản xí nghiệp nhà nước, không hề mang ý nghĩa "người làm trái qui định của nhà nước" đã phạm tội "tham nhũng".
Tội phạm gọi là "làm trái qui định của nhà nước về quản lý kinh tế" trong một xí nghiệp nhà nước, không hiện hữu ở các nước "tư bản đang giẫy chết".
Các "qui định của nhà nước về quản lý kinh tế" trong một nước có nền "kinh tế chỉ huy" như Việt Nam, nếu không hoàn toàn trái ngược, thì cũng không có điều gì "tương đồng" với pháp luật của các nhà nước tư bản thì trường.
Tập quán quốc tế xem hành vi "tham nhũng" là một tội phạm.
Interpol có thể can thiệp, giúp đỡ những nhân viên hữu trách bắt giữ tội phạm tham nhũng đào thoát.
Interpol không hề "truy nã" Trịnh Xuân Thanh như ý kiến của ông tướng công an Lê Quí Vương, Thứ trưởng bộ Công an, phát biểu trước Quốc hội ngày 7 tháng 11 năm ngoái.
Ngay cả nhà nước Đức, nơi ông Thanh trú ẩn, các cơ quan hữu trách, đến hôm nay vẫn không hề xem việc "làm trái các qui định của nhà nước" - nếu có - của Trịnh Xuân Thanh là một "hành vi phạm luật" để có thể trục xuất ông này theo yêu cầu của nhà nước cộng sản Việt Nam.
Ý kiến này của tôi năm ngoái, hôm nay kiểm chứng lại, thấy là đúng như vậy.
Hiện nay trong nước, nhiều bài báo, nhiều ý kiến cho rằng Trịnh Xuân Thanh phạm tội tham nhũng, phá hoại đất nước. Những ý kiến này - như là lời kết tội của quan tòa.
Việt Nam đã hành sử như một quốc gia côn đồ khi đưa mật vụ vào Đức để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Cái cách bào chữa của "học giả", "nhà báo" Việt Nam cho thấy tầm trí tuệ của những người ủng hộ phe chủ trương bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Tôi cũng viết (năm ngoái), 100% các doanh nghiệp lớn của nhà nước "phớt lờ" các qui định của chính phủ đồng thời gây "hậu quả nghiêm trọng" về kinh tế.
Vốn nhà nước đầu tư vào các tập đoàn nhà nước là 1,3 triệu tỉ đồng. Nếu tính lợi nhuận là bình quân 17% thì mỗi năm thì (đáng lẽ) nhà nước thu vô là 200.000 tỉ đồng.
(Số 17% cũng là "mức lời trung bình" cho vay theo qui định của các ngân hàng).
Kết quả là hầu hết các xí nghiệp đều lỗ lã mà vốn cũng "bốc hơi" lần hồi.
Nếu áp dụng điều luật 165 Bộ Luật hình sự (như trường hợp Trịnh Xuân Thanh) cho tất cả các tập đoàn nhà nước, thì lãnh đạo các tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba), Tổng công ty Giấy Việt Nam, Tổng công ty Cà phê Việt Nam (Vinacafe), Tổng công ty Lương thực Miền Bắc (Vinafood 1), Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Thiết bị y tế Việt Nam... đều có thể phải vào tù.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 09/08/2017
Thấy nhiều người "hí hửng" về tin "Mỹ-Việt tăng hợp tác quốc phòng" đăng trên BBC.
Ông Ngô Xuân Lịch vừa đi thăm "Ngũ giác đài", nơi đặt bản doanh Bộ quốc phòng siêu cường Hoa Kỳ. Nơi đây ông Lịch "bắt tay" với ông chủ "lầu năm góc" Jim Mattis.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Jim Mattis và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch chào cờ trước hàng quân danh dự tại Ngũ Giác Đài.
Không biết ý nghĩa của việc "tăng hợp tác quốc phòng" giữa hai quốc gia "cựu thù" là những gì.
"Chính thức hóa quan hệ" thì hai bên đã quan hệ ngoại giao "chính thức" từ lâu.
Về quan hệ quốc phòng hai bên cũng không có gì "cản trở" hay "dấu diếm". Lệnh "cấm vận vũ khí sát thương" đã được Obama gỡ từ năm ngoái.
Việt Nam vẫn không (hay chưa) mua được vũ khí tối tân của Mỹ (và các nước Tây phuong) không phải vì các nước này không bán.
Thương vụ được bày ra trước công luận vừa rồi, quí ông "tướng hạm" của Việt Nam đòi Mỹ "lại quả" 25% tiền mua sắm. Số tiền này được chia vào các tài khoản của các "hạm tướng phu nhơn" đóng ở Singapour.
Từ "hạm", lấy ở "hạm đội", được dùng để chỉ cho các viên chức "tham nhũng" bậc "gộc" thời Việt Nam Cộng Hòa. "Tướng hạm" để chỉ cho mấy ông tướng "ăn của dân không từ một thứ gì", nghĩ thấy cũng "hạp".
Theo tôi ông Lịch qua gặp Mattis kỳ này chắc là để thông báo rằng mấy ông "tướng hạm" đã đồng ý "hy sinh quyền lợi tập thể", cam kết "trả tiền đủ", không đòi lại hoa lại quả 25% nữa.
Thì ông Mattis cũng không có gì phiền lòng. Bán súng hay bán thịt bò đều nằm trong chủ trương tạo công ăn việc làm cho nước Mỹ của tổng thống Trump.
Dĩ nhiên tôi hết sức hoan nghênh việc mua bán này. Lại càng "bái phục" hàng tướng lãnh Hoa Kỳ đã cương quyết không chấp nhận vụ "tiền dưới bàn" trong các thương vụ mua bán vũ khí.
Chợt nhớ lại mấy chiếc tàu ngầm của Việt Nam mua của Nga. Sau khi "lại quả" (ít ra 25%) không biết chúng có khả năng "đánh đấm" gì nữa không ? hay chúng chỉ là những cục sắt biết lặn ?
25% đủ để trang bị "cục sắt biết lặn" trở thành một thứ vũ khí bảo vệ lãnh thổ.
Lấy ra 25%, vũ khí hữu hiệu bảo vệ lãnh thổ trở thành "cục sắt biết lặn".
Vấn đề là chuyến đi của ông Lịch có thể "vớt vát" điều chi ở Biển Đông ?
BBC đăng lại ý kiến của "nhà phân tích chính trị Hà Hoàng Hợp" rằng "thoả thuận hợp tác quốc phòng này phù hợp với chiến lược ngoại giao của Việt Nam, đó là mở cửa cho tất cả các nước".
Lại "thỏa thuận hợp tác quốc phòng".
Khi nói "mở của cho tất cả các nước" thì "thỏa thuận quốc phòng" chỉ là lời "bóng gió", không có ý nghĩa gì cả.
Theo tôi, việc ông Lịch đi gặp đồng nhiệm Jim Mattis trong thời điểm này, chắc chắc có liên hệ với hai vấn đề "Biển Đông" và Bắc Hàn.
Có hai giả thuyết.
Một, Việt Nam sẽ là "món hàng" trao đổi giữa Mỹ à Trung Quốc. Mỹ "thanh toán" kho vũ khí nguyên tử Bắc Hàn. Trung Quốc lo "hậu sự" Biển Đông.
Hai, Việt Nam đứng cùng với Mỹ, sẵn sàng chống Trung Quốc trong việc "giải quyết" vấn đề Bắc Hàn.
Thời gian qua, nghiệm đúng giả thuyết thứ nhứt. Việt Nam đã thực sự cảm nhận sự "cô đơn" trong vụ rút giàn khoan ở lô 136-03. "Biển Đông càng để lâu càng khó".
Quyết định "xoay trục" qua Mỹ là thái độ khôn ngoan, trở lại giả thuyết 2. Nhưng không biết có đủ thời giờ nữa hay không ?
Ý kiến của ông Hà Hoàng Hợp :
"Việt Nam sẽ không thỏa hiệp về vấn đề chủ quyền và cũng đã có sự chuẩn bị riêng mình".
Việt Nam chẳng có sự "chuẩn bị riêng" nào hết cả.
Vụ Trung Quốc hăm dọa "mầy không rút, tao đánh" ở lô 136-03 là bằng chứng.
Nếu "có chuẩn bị riêng" thì Việt Nam đã không "gài số de" bẽ bàng như vậy. Vụ lùm xùm "Vạn An Bắc" (bao gồm các bãi Tư Chính, vũng Mây, Nam Côn Sơn) đã bắt đầu từ năm 1992. Tức là 25 năm rồi.
25 năm mà không có chuẩn bị gì cả.
Vì nếu "có chuẩn bị" thì không thể "rút đơn thuần", vì sau đó còn phải bồi thường cho đối tác Repsol.
Thật là một tập đoàn lãnh đạo vô trách nhiệm.
Còn về vấn đề chủ quyền. Ý kiến của ông Hà Hoàng Hợp thấy cũng "tức cười".
Bởi vì nếu ông này thông hiểu hết các vấn đề biên giới trên đất liền, ranh giới trong vịnh Bắc Việt, các đảo nhân tạo của Trung Quốc xây trên lãnh thổ chiếm được của Việt Nam… thì ông sẽ không nói vậy.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 09/08/2017
Sự việc Trung Quốc hăm họa vũ lực ở lô dầu khí 136-03 hồi trung tuần tháng sáu 2017 đã khiến cho Việt Nam "xoay trục" về hướng Hoa Kỳ.
Vị trí lô dầu khí 136-03 nằm trong thềm lục địa Việt Nam
Chính quyền cộng sản Việt Nam đã bỏ phí một khoảng thời gian 8 năm quí giá, hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, để có thể "kết thân" với Hoa Kỳ với tư thế "khá hơn hiện nay" trong chính sách "chuyển trục" của đại cường. Thời gian 8 năm đã có thể gắn bó, Việt Nam đã có thể trở thành "cường quốc trung bình" trong khu vực, theo lời hứa của các lãnh đạo Hoa Kỳ.
Những "hứa hẹn" gọi là "cam kết bảo vệ Biển Đông" hôm kia giữa ông Bộ trưởng bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch và đồng nhiệm Hoa Kỳ Jim Mattis, cho ta một chút lạc quan. Nhưng trong bối cảnh căng thẳng địa chiến lược khu vực Đông bắc Á, Bắc Hàn lên tiếng đe dọa Mỹ bằng hỏa tiễn "liên lục địa" với đầu đạn hạt nhân. Việt Nam đi "cầu viện" Mỹ trong hoàn cảnh như thế chưa chắc là đem lại hữu ích thực sự cho quốc gia. Nhưng dầu thế nào, khi Việt Nam đứng dưới "cây dù" của Mỹ, vẫn "an toàn" hơn là "đứng một mình", nói là "mở cửa cho tất cả các nước", mà chịu sự đe dọa thường xuyên của Trung Quốc.
Việt Nam đã mua được của Mỹ một số vũ khí "hữu dụng", với giá bạn bè "bớt 50%". "Nghĩa cử" của Mỹ đã "vả" vào những cái miệng tham lam đòi lại quả 25% của đám "hạm tướng" ăn của dân không từ một thứ gì.
Những chiếc trục thăng đời mới Mỹ đặc biệt sản xuất cho "chiến tranh biển đảo", được bán cho Việt Nam. Với giàn "thủy quân lục chiến" tinh nhuệ (nghe nói Việt Nam nhờ Mỹ huấn luyện), ta có thể hy vọng sắp tới Việt Nam có thể "chơi tay ngang" với Trung Quốc trong cuộc chiến giành chủ quyền ở các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính sách "đi dây" của cộng sản Việt Nam hy vọng chấm dứt. Biết bao lần tôi đã cảnh báo, "Việt Nam không đi với nước này chống nước kia", nhưng không ai cấm Việt Nam đi tìm "đồng minh" để ký kết một "liên minh phòng thủ".
Nhưng nếu "tự vệ" thôi thì vẫn chưa đủ. Tự vệ là nhằm bảo vệ lãnh thổ không để bị "mất thêm". Chiến tranh là giải pháp "tệ hại" cuối cùng để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Trong khi giải pháp "tối ưu" vẫn là pháp lý.
Bài viết dưới đây tóm lược những ý kiến chủ đạo của cá nhân tôi trong "hồ sơ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa" viết từ nhiều năm trước, đăng hồi đầu năm 2017. Mục đích cảnh báo chính sách "quốc tế hóa Biển Đông" của nhà nước cộng sản Việt Nam đang thất bại.
Thử xét vấn đề "kế thừa" và sự "liên tục quốc gia" về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa Trên nền tảng các công ước Vienne 1969, 1978 và Hiệp định Paris 1973.
"Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở Hoàng Sa và Trường Sa" là câu nói mà ta thường nghe nơi cửa miệng của các phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Việt Nam. Mỗi khi phía Trung Quốc có một hành vi nào đó xâm phạm đến quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông, lập tức điệp khúc này lại thấy xuất hiện trên các phương tiện truyền thông của nhà nước.
Mặc dầu lời phát biểu trên là cần thiết để phản đối những hành vi của Trung Quốc (đồng thời khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở các vùng lãnh thổ này), nhưng ngày qua ngày nếu chỉ lặp đi lặp lại một lời nói, một luận điệu, thì ý nghĩa của câu nói tự nhiên sẽ giảm đi.
Trong khi trên thực tế, các hành vi mạnh mẽ thể hiện quyền chủ quyền (Droit de souvraineté - Right of sovereignty) của Trung Quốc tại biển Đông, toàn bộ khu vực biển chung quanh Hoàng Sa đã trở thành việc "nội bộ" của Trung Quốc. Còn thái độ của "quốc tế", nếu Việt Nam không có phản ứng gì khác, thì nó trở thành "việc đã rồi".
Cái gọi là "thành phố Tam Sa" được thành lập từ tháng 7 năm 2012, thủ phủ đặt ở đảo Phú Lâm (thuộc HS). Như cái tên gọi, Tam Sa được đặt ra để "quản lý" ba nhóm đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và Trung sa (gồm bãi chìm Macclesfield và Scarborough). Trong khoảng thời gian không dài lắm Trung Quốc đã hoàn tất việc "quân sự hóa" Hoàng Sa. Đảo Phú Lâm được mở rộng, trở thành một "pháo đài" với độ qui mô không kém các căn cứ của Mỹ ở Guam (Thái Bình dương) hay Diego Garcia (Ấn Độ dương). Đảo Quang Hòa, thuộc nhóm Nguyệt Thiềm, chiếm của Việt Nam bằng vũ lực ngày 19/1/1974, cũng được bồi đắp mở rộng. Một phi trường được xây dựng đồng thời các giàn cao xạ, hỏa tiễn phòng không cũng được bố trí trên đảo này.
Trung Quốc cũng cho phép tổ chức du lịch các đảo HS, cùng lúc đuổi, bắn các tàu đánh cá của Việt Nam không cho phép đến gần khu vực. Trung Quốc cũng ra lệnh "cấm đánh cá" trong một vùng biển rộng lớn, từ 12 vĩ độ về phía bắc, tức bao gồm các ngư trường truyền thống của Việt Nam, từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.
Vấn đề là Trung Quốc không ngừng ở Hoàng Sa. Họ tiếp tục chiến thuật "tằm ăn dâu" ở khu vực Trường Sa.
Trung Quốc đã xây dựng trong một thời gian nhanh kỷ lục một hoặc hai năm (2013-2015) các bãi san hô (trong đó 6 bãi chiếm của Việt Nam bằng vũ lực 14 tháng 3 năm 1988, gồm các bãi Chữ Thập, Gạc Ma, Huy Gơ, Ga Ven, Rubi và Châu Viên) thành những đảo nhân tạo có bề rộng vượt trội bất kỳ căn cứ quân sự của Mỹ ở ngoài nước Mỹ. Trung Quốc cũng hoàn tất việc "quân sự hóa" tại các đảo nhân tạo này với những phi trường, công sự cũng như hệ thống cao xạ, hỏa tiễn phòng không.
Những phản kháng "chiếu lệ" của Việt Nam trong suốt thời gian qua cho thấy hoàn toàn không hiệu quả. Điều này kéo dài, dư luận quốc tế nhìn nhận "sự việc đã rồi" của Trung Quốc. Tính hợp pháp các hành vi "effectivité" của Trung Quốc trên vùng biển này sẽ được khẳng định.
Việt Nam cần chấm dứt "điệp khúc" nhàm chán của phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao.
Mỗi ngày một ít, nếu tính từ năm 2012 đến nay, cái mà quốc tế gọi là "xắt lát xúc xích" (Việt Nam gọi là tằm ăn dâu), mỗi ngày Trung Quốc "cắn một chút", kết quả trở thành to lớn kinh khủng. Đe dọa Trung Quốc thành lập vùng Nhận dạng phòng không - ADIZ" bao gồm cả vùng biển Trường Sa là có thật.
1. Vấn đề "quốc tế hóa tranh chấp"
Để biện hộ cho sự bất lực của mình, bộ Ngoại giao Việt Nam thường vịn vào lý lẽ "quốc tế hóa việc tranh chấp" và "tranh đấu với Trung Quốc bằng biện pháp ngoại giao" .
Thế nào "quốc tế hóa" một "tranh chấp" về chủ quyền lãnh thổ giữa hai hay nhiều quốc gia ?
Ý nghĩa của việc "quốc tế hóa" một tranh chấp về lãnh thổ thường được hiểu như là việc "giới hạn chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia vì lợi ích của một số nước hay các tổ chức quốc tế".
Việc "giới hạn chủ quyền lãnh thổ" ở đây có thể hiểu là quyền tài phán của quốc gia ở vùng lãnh thổ liên hệ bị giới hạn, hay bị thay thể bằng quyền tài phán do quốc tế công pháp qui định.
"Quốc tế" ở đây có thể là Liên Hiệp Quốc, là các cơ quan trọng tài hay phán quyết của tòa án quốc tế…
"Lợi ích" này có thể là sự hòa bình, các quyền (của các quốc gia, tổ chức khác…) đã được qui định bởi luật pháp quốc tế v.v...
Nhưng nhân danh "bảo vệ lợi ích" các nước có thể can thiệp vào nội bộ một nước khác.
Mỹ và một số nước đồng minh, vì quyền lợi và an ninh quốc gia, nên đã can thiệp vào nội bộ các nước Afghanistan, Irak... Bây giờ, giả sử quyền lợi của Mỹ (và các nước khác) ở Biển Đông bị đe dọa (như bị giới hạn quyền tự do hàng hải và hàng không ở khu vực Biển Đông do vùng ADIZ của Trung Quốc), các nước này có thể sẽ "can thiệp" vào khu vực (để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ).
Theo thời gian Việt Nam cũng thay đổi lập trường yêu sách về biển đảo, để vừa phù hợp với luật quốc tế, vừa ép mình do hệ quả của việc "quốc tế hóa", điển hình qua hồ sơ "Thềm lục địa mở rộng" nộp LHQ hay các việc ủng hộ Tòa CPA trong vụ xử Phi-Trung Quốc cũng như hoan nghênh sự có mặt của hải quân Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhưng hiệu quả vẫn là "không có gì". Việc "quốc tế hóa" không hề ngăn chặn được bước tiến của Trung Quốc. Còn việc gọi là "đấu tranh với Trung Quốc", kết cuộc Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc.
Các bản "Tuyên bố chung" của hai bên luôn nhấn mạnh ở việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo "theo nhận thức chung đạt được của lãnh đạo cấp cao trong quá khứ". Bản "Tuyên bố chung" năm nay (2017) "lãnh đạo hai nước" khẳng định thêm một điều là Việt Nam và Trung Quốc "cùng chia sẻ một tương lai chung". Nếu suy diễn ra Biển Đông, những gì của Việt Nam cũng là của Trung Quốc.
Theo tôi, lãnh đạo Việt Nam phải thấy, và nhìn nhận, sự thất bại ngày càng sâu sắc trong các chính sách của mình. Nếu cứ tiếp tục như vậy, khu vực biển TS không bao lâu sẽ cùng số phận với vùng biển HS.
Việc Mỹ vừa thay đổi lãnh đạo. Nhận thức về quyền lợi và cách "tiếp cận" để bảo vệ quyền lợi của họ ở Biển Đông có thể sẽ thay đổi. Việc này sẽ tạo cho Việt Nam một "thời cơ" để phá vỡ cái "hiện trạng tù mù" hiện nay.
Kỹ niệm 44 năm ngày Hiệp định Paris 27 tháng giêng 1973 được ký kết cũng là cơ hội để nhắc lại một điều cơ bản của Hiệp định này về việc "bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam của các đại cường. Yếu tố này có thể đem lại cho các học giả trong nước một quan niệm khác về luật học, cũng như cho giàn lãnh đạo mới của Việt Nam một cái nhìn khác (hơn lãnh đạo cũ) và một phương cách mới nhằm giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.
2. Sự "liên tục" và "thừa kế" quốc gia về vấn đề lãnh thổ
"Kế thừa quốc gia" và "liên tục quốc gia" là những khái niệm thuộc Quốc tế công pháp, thể hiện qua các điều ước thuộc các công ước Vienne, điển hình là các công ước 1969 và 1978 về sự kế thừa lãnh thổ và hiệu lực các kết ước quốc tế.
Việc kế thừa quốc gia được (công ước Vienne 1978) đặt ra trong những tình huống : 1/ một vùng lãnh thổ của quốc gia này trở thành lãnh thổ của quốc gia khác. 2/ Quốc gia vừa dành được độc lập (Phần IV, điều 16 đến điều 30 Công ước Vienne) 3/ sự thống nhứt giữa hai quốc gia và 4/ một quốc gia bị phân rã thành nhiều quốc gia
"Kế thừa" quốc gia được định nghĩa là việc thay thế một quốc gia bởi một quốc gia khác ở các quan hệ quốc tế, về những vấn đề liên quan đến lãnh thổ.
Việc kế thừa quốc gia thể hiện qua các thủ tục pháp lý nhằm tái xác định (hay phủ định), trách nhiệm của quốc gia thừa kế đối với vùng lãnh thổ mới cũng như hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố của nhà nước tiền nhiệm đã thể hiện trước các định chế quốc tế, hay đối với các quốc gia khác.
Trường hợp hai miền Việt Nam sau 30-4-1975 :
Câu hỏi đặt ra là các sử gia và học giả Việt Nam sẽ phải dựa vào trường hợp nào (trong 4 trường hợp dẫn trên) để khẳng định danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa ?
Trường hợp nào sẽ chứng minh cho sự "liên tục" của "quốc gia" Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa ? tức chứng minh được tính pháp nhân của "quốc gia" Việt Nam luôn tồn tại, cũng như danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn "liên tục", từ thời xa xưa các vua chúa Việt Nam khám phá, khai thác và quản lý (không gián đoạn) đến nay, bất chấp những biến cố đã làm thay đổi về lãnh thổ, dân số, chính trị, hay tên nước… ?
Đồng thời trường hợp nào sẽ xóa bỏ hiệu lực các kết ước, như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, các tài liệu lịch sử... phát xuất từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mà phía Trung Quốc sử dụng lâu nay như là những bằng chứng pháp lý ?
3. Thế bí về các lập luận chủ quyền của các học giả Việt Nam
a) Về lập luận "có hai quốc gia Việt Nam"
Hầu hết các học giả Việt Nam đều quan niệm rằng có hai "quốc gia Việt Nam" độc lập, có chủ quyền trong khoảng thời gian từ 1954 đến 30-4-1975. Quan điểm này có (rất) nhiều điều không ổn, về pháp lý cũng như trên thực tế. Hệ quả là không thuyết phục được dư luận quốc tế.
Quan điểm này cho rằng chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa được thụ đắc từ sự "kế thừa" : Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa từ Việt Nam Cộng Hòa chuyển sang Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau đó thực thể này thống nhứt với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trở thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày hôm nay.
Về pháp lý, nếu Việt Nam Cộng Hòa là một "quốc gia độc lập, có chủ quyền", thì việc Trung Quốc chiếm HS là việc "nội bộ" giữa hai "quốc gia độc lập, có chủ quyền" là Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là "quốc gia" thứ ba, không có liên can.
Tức là, khi quan niệm có "hai quốc gia" Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì sẽ không còn tranh cãi nào về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chiếm HS là chiếm trên tay Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lấy tư cách gì để phản đối ?
Ngoài ra, Tuyên bố đơn phương của "quốc gia" Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn gọi là công hàm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, nội dung nhìn nhận yêu sách về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc. Mặc dầu một số học giả Việt Nam cho rằng đó là "vũ khí tuyên truyền của Trung Quốc", nhưng thực tế cho thấy đây là một bằng chứng quan trọng của Trung Quốc nhằm chứng minh chủ quyền của họ ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo tập quán quốc tế, việc im lặng trong trường hợp (bắt buộc một quốc gia phải lên tiếng) đã là sự "đồng thuận ám thị". Huống chi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn ra tuyên bố công khai "nhìn nhận" yêu sách của Trung Quốc.
Tức là, khi quan niệm "có hai quốc gia Việt Nam", thì mọi vận động, mọi chứng cứ về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ là điều vô ích.
Trong trường hợp này Việt Nam Cộng Hòa đơn giản là một "quốc gia" bị "giải thể", không có thừa kế. Lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa được "sáp nhập" đơn thuần vào lãnh thổ một nước khác. Mọi kết ước của Việt Nam Cộng Hòa ký kết với các tổ chức quốc tế hay các quốc gia khác, trở thành "vô hiệu lực - caduc".
b) Về lập luận "quốc gia vừa dành được độc lập"
Đây (có lẽ) là quan điểm chính thức của Việt Nam hiện nay, vì nó thể hiện đúng trên lý thuyết "trình tự lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa".
Nguyên tắc (pháp lý) áp dụng trong trường hợp này là "table rase". Có nghĩa là quốc gia (vừa mới độc lập) không bị chi phối bởi các kết ước do quốc gia tiền nhiệm ký kết.
Nhưng điều này không còn thuyết phục.
Trên thực tế, Mỹ không hề có tham vọng về lãnh thổ ở miền Nam. Sự có mặt của Mỹ ở miền Nam không khác với việc quân Mỹ có mặt ở Tây Đức (trước khi thống nhứt với Đông Đức đầu thâp niên 90), hay ở Nam Hàn, Nhật hoặc ở các nước đồng minh hiện nay.
Mặt trận giải phóng miền Nam "trương cờ giải phóng" dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm. Vấn đề là không ai trưng ra được bằng chứng cho thấy chính quyền ông Diệm bị chi phối, hay bị khuynh loát bởi bất kỳ thế lực ngoại bang nào, kể cả Mỹ. Ngược lại, ông Diệm bị chết vì lý do chống Mỹ đổ quân vào Việt Nam.
Ngay cả dưới thời chính phủ ông Kỳ, Thiệu… Không có chính phủ nào của Việt Nam Cộng Hòa bị lệ thuộc và Mỹ, theo kiểu thực dân hết cả.
Việt Nam Cộng Hòa không hề lệ thuộc vào Mỹ như một chính phủ "bù nhìn" với "đế quốc thực dân" là Mỹ. Mặt trận giải phóng miền Nam lấy lý do gì để trương cờ "giải phóng" ?
Đồng thời sự thật lịch sử cho thấy thực thể chính trị Mặt trận giải phóng miền Nam chỉ là "cánh tay nối dài" của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do đảng cộng sản Việt Nam lập nên, nhân Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba.
Vì vậy làm gì có thể vịn vào lý do "quốc gia vừa dành được độc lập" để "xù" tất cả những kết ước trong quá khứ ?
Ngay cả khi chấp nhận lập luận này, thì quốc gia gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm nay vịn vào cái gì để chối bỏ di sản của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ? Không có lý do nào thuyết phục cả. Đơn giản vì Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia "tiếp nối" quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lãnh đạo luôn Mặt trận giải phóng miền Nam (do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo).
Làm cách nào để hiện hữu hai lập trường đối nghịch, theo kiểu Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam (kế thừa Mặt trận giải phóng miền Nam) và Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc (tiếp nối Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với công hàm 1958) ?, Lịch sử đã bạch hóa, không lẽ cứ tiếp tục ngụy biện bằng "bịa sử" ?
Trước sự lấn lướt của Trung Quốc, trước đây ở HS, bây giờ áp lực mạnh mẽ ở TS, Việt Nam hoàn toàn không có phản ứng nào khác, ngoài luận điệu cũ mòn đã nói ở phần dẫn nhập. Các học giả Việt Nam đã tự "đào mồ" chôn mình, vì đã đưa trường hợp thống nhứt Việt Nam vào dưới ánh sáng của "luật quốc tế".
Các lập luận sai lầm của các học giả Việt Nam cần phải chấm dứt.
4. Hiệp định Paris 27/1/1973
Hiệp định Paris được ký kết ngày 27 tháng giêng năm 1973. Trên nhiều phương diện nó giống như một "bản sao" của Hiệp định Genève 27/3/1954. Bởi vì, thứ nhứt, cả hai hiệp định không nhằm giải quyết dứt khoát cuộc "chiến tranh" mà chỉ tạo một "khoảng trống cơ hội" gọi là "đình chiến". Cơ hội này giúp cho Hoa Kỳ "tháo chạy trong danh dự". Nhưng phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhân cơ hội (đồng minh đã tháo chạy) dồn quân đánh bại Việt Nam Cộng Hòa, thâu tóm lãnh thổ chỉ hai năm sau.
Thứ hai, Hiệp định Paris 1973 và Hiệp định Genève 1954 cùng khẳng định nguyên tắc "một quốc gia Việt Nam duy nhứt".
Điều 1, chương I Hiệp định Paris 1973 qui định "Hoa Kỳ và các nước tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, như hiệp định Genève 1954 đã xác nhận".
Cả hai Hiệp định đều được "quốc tế" bảo trợ, bao gồm Trung Quốc. Riêng hiệp định Paris 1973, đại diện phía Trung Quốc là Bộ trưởng bộ ngoại giao Cơ Bằng Phi (Chi Peng Fei).
Tức là, trong khoản thời gian 1954 đến 1975, hai thực thể chính trị có tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, đều thuộc về một "quốc gia Việt Nam duy nhứt".
Từ điểm này ta thấy quan điểm "hai quốc gia Việt Nam" của các học giả Việt Nam đã sai. Tư cách pháp nhân của hai thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa trước quốc tế cần phải được xác định. Nhưng dứt khoát Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa không phải là "hai quốc gia độc lập, có chủ quyền".
Trên quan điểm công pháp quốc tế, "quốc gia", là thực thể pháp nhân duy nhứt, bất khả phân. Tư cách pháp nhân của hai thực thể chính trị Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là hai "quốc gia chưa hoàn tất" (Etat partiel). Cả hai miền đều thuộc về một quốc gia duy nhứt gọi là Việt Nam. Trường hợp tương tự Đông và Tây Đức, Nam và Bắc Hàn hay Trung Quốc lục địa và Đài Loan cho ta thấy điều này.
Và nếu hai thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa đều thuộc về một "quốc gia duy nhứt là Việt Nam", thì việc "thống nhứt" hai miền là việc "nội bộ" của quốc gia Việt Nam. Việc "thống nhứt đất nước" đã thể hiện theo "cái cách" của Việt Nam.
Vấn đề "liên tục quốc gia" hay "kế thừa quốc gia", như các công ước Vienne đòi hỏi, cũng không đặt ra. Đơn giản vì chỉ có một "quốc gia Việt Nam duy nhứt". Việt Nam trước sau vẫn là Việt Nam, luôn là Việt Nam, thì tự nó đã "liên tục", tự nó đã "truyền tục" trong nội bộ.
Trong khi, nếu quan niệm Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là hai "quốc gia", vấn đề "thừa kế quốc gia" phải xét theo các qui định của luật quốc tế. Các tuyên bố đơn phương, các tài liệu lịch sử… từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xuất phát cũng được xét dưới ánh sáng của luật quốc tế.
5. Trở lại Lá thư mở ngày 29/5/2014 gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Tháng 5 năm 2014 tôi có viết thư mở gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhằm thuyết phục ông này kiện Trung Quốc sau vụ giàn khoan HY 981. Nội dung phản đối quan điểm của quan chức cũng như học giả Việt Nam cho rằng "có hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước 1975".
Lá thư viết :
"Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam được xác định theo Hiệp định Paris năm 1973 : "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam đã công nhận".
Tinh thần hai hiệp định, cũng là một chân lý làm nên chất keo gắn bó nhân dân và đất nước Việt Nam : đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…
Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhứt. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhứt. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần tôn trọng "độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam" của các hiệp ước quốc tế này (mà các nước Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp… đồng bảo trợ chúng), bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Cộng Hòa hay Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết nhằm ủng hộ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc tháng 9 năm 1958, cho rằng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa (và Trường Sa).
Điều này hiển nhiên không đúng.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc".
6. Vấn đề hòa giải quốc gia
Như vậy lối thoát pháp lý của Việt Nam hiện nay để khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa là phải dựa vào nội dung các hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 đồng thời tiếp nhận di sản của Việt Nam Cộng Hòa.
Nước Việt Nam hôm nay không thể "ôm" mãi mối mâu thuẫn do lịch sử để lại là sự xung đột giữa hai miền. Phe chiến thắng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã áp đặt lý lẽ của mình trong toàn xã hội Việt Nam từ 1975 đến nay. Vì vậy làm sao thuyết phục được dư luận quốc tế, khi lập luận về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là lập luận của phe chiến bại Việt Nam Cộng Hòa ?
Sau một cuộc nội chiến, một nhà nước bình thường, mong muốn đất nước phát triển lành mạnh, luôn áp dụng một chính sách "hòa giải quốc gia" để hóa giải mọi oán thù gây ra do cuộc chiến. Các bài học như cuộc nội chiến nước Mỹ, hay các xung đột quốc tế như Thế chiến thứ II… cho thấy các nước giàu mạnh nhứt thế giới đều là các nước có chính sách "hòa giải" được áp dụng hữu hiệu.
Việt Nam hôm nay vẫn luôn đứng sau các nước phát triển Châu Á, mặc dầu Việt Nam có dư tiềm năng để qua mặt các nước Thái Lan, Đài Loan, Nam Hàn… Thậm chí Việt Nam đang bị Campuchia qua mặt trên một số lãnh vực. Trong khi trên phương diện chủ quyền lãnh thổ, Trung Quốc ngày càng lấn tới.
Nguyên nhân là mâu thuẫn nội bộ của Việt Nam quá lớn, trở thành một sức trì, Việt Nam không nỗ lực tiến tới là sẽ thụt lùi.
Hòa giải quốc gia không phải là vấn đề "sỉ diện" của đảng cộng sản Việt Nam mà là mệnh lệnh của tương lai dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 10/08/2017
Thấy ông Phùng Xuân Nhạ giải thích "linh tinh" trên báo chí về vụ nhiều học sinh đậu điểm tối đa (30/30) vẫn bị loại, thấy là công cuộc "đi trước đón đầu công nghiệp 4.0" của Việt Nam đã hoàn toàn thất bại.
Mà đó là chuyện tương lai xa.
Điểm chuẩn vào các trường công an, quân đội năm 2017 cao kỷ lục
Chuyện "gần" là ông Nhạ không thể trả lời các câu hỏi vì sao học sinh đạt điểm tối đa mà vẫn bị loại ? Vì sao ngành công an thì thu hút học sinh như ruồi bu dĩa mật ong. Còn ngành sư phạm thì chưa bao giờ mà "rẻ hơn bèo" như vậy ?
Ông Nhạ không trả lời, nhưng ai cũng biết đó là hệ quả của chế độ "điểm cộng".
Ông Nhạ giải thích "chế độ điểm cộng" như sau : "đó là chủ trương tốt và đầy nhân văn, không chỉ ở nước ta mà nước khác cũng áp dụng".
Ông Nhạ hoặc là nói dối, hoặc là bóp méo vấn đề.
Trên thế giới (văn minh) chẳng có nước nào áp dụng chế độ "điểm cộng" như Việt Nam hết cả.
Trong xã hội, đâu cũng vậy, luôn có một số (rất nhỏ) học sinh bị tàn phế, do bẩm sinh hay do tai nạn, khiến cho hệ thần kinh các em phát triển không như bình thường. Để thiết lập sự "công bằng về cơ hội", người ta nâng đỡ các em này, bằng cách cho đề thi dễ hơn, hay được "vớt điểm" trong các kỳ thi. Tức là, thí dụ được 10/20 điểm mới đủ tiêu chuẩn đậu. Thì các em này chỉ cần 8/20 điểm là đậu.
Một số trường đại học khác (như bên Mỹ) có "chế độ điểm cộng" cho các em có thành tích xuất sắc như về thể thao v.v...
Hôm trước tôi có viết bài ngắn nói là "chế độ lý lịch" của Việt Nam chưa bao giờ chấm dứt.
Tôi có giải thích rằng, vì thời gian 4 thế hệ (đào tạo) đã qua, phiếu "sơ yếu lý lịch" đã không còn hữu dụng để "loại bỏ" những thành phần "ngụy dân" cũ. Dựa vào "lý lịch" người ta không thể phân biệt được cha, mẹ, nội, ngoại… của học sinh có thuộc về thành phần "mầm mống chống đối" hay không. Tôi cũng nói đồng bằng sông Cửu long là "vùng trũng giáo dục" là do hệ quả của chế độ "lý lịch".
Vì vậy chế độ lý lịch được thay thế bằng chế độ "điểm cộng".
Thành phần được "điểm cộng" là thành phần ưu tiên, "những hạt giống đỏ" của chế độ.
Do chế độ "điểm cộng" mà các em học sinh được điểm tối đa (30/30) bị loại ra các trường đại học.
Số học sinh được "điểm cộng" trúng tuyển vào các trường đại học lên đến trên 90% số học sinh được tuyển.
Có người lên tiếng đề nghị các học sinh được điểm tối đa (mà bị loại) nên "đi kiện" để đòi việc "công bằng về cơ hội" được thiết lập.
Điều này khả thi. Vấn đề là kiện ai ?
Theo tôi, cốt lõi là cần tìm hiểu "chế độ điểm cộng" có là một nghị quyết của nhà nước, hay là một "chỉ thị miệng" ?
Nếu "chế độ điểm cộng" là một "chính sách của nhà nước", với những tiêu chí rõ rệt, thì không thể đi kiện "nhà nước" được.
Các em có thể làm đơn tập thể khiếu nại về "kết quả tuyển chọn". Muc đích đưa ra ánh sáng các học sinh được điểm cộng có đúng tiêu chuẩn mà nhà nước đã định hay không ?
Tôi dám chắc là 90% điểm cộng (của các em trúng tuyển) không đúng tiêu chuẩn của nhà nước.
Ông Trọng đang hô hào "lò đang nóng", thì rõ ràng đây là dịp để diệt trừ tham nhũng trong bộ phận giáo dục.
Về vụ "đi trước đón đầu", dầu là tương lai xa nhưng cũng nên nói một lời.
Ông Nhạ nói rằng "trong điều kiện thế giới thay đổi nhanh và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ thì xu hướng ngành học càng thay đổi nhanh chóng".
Điều này không ai phản bác. Các nước tiên tiến ở đâu cũng vậy. Người ta phỏng đoán có tới 7 (trên 10) các ngành nghề tương lai chưa xác định được.
Vấn đề là Việt Nam ngành công an "đắt khách" như chưa bao giờ.
Hỏi ông Nhạ : Không lẽ ngành công an là "đầu tàu" dẫn dắt Việt Nam "đi vào công nghiệp 4.0" ?
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 11/08/2017
Cần phân định rõ rệt "bí mật quốc gia" và "bí mật của đảng".
Báo chí trong nước đăng tin Quốc hội đang bàn về Luật bảo vệ bí mật nhà nước. Theo các bản tin thì từ năm 2001 đến nay đã có tới trên 800 tin tức thuộc loại "bí mật nhà nước" đã bị tiết lộ, trong đó có nhiều tin "tuyệt mật, tối mật liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ; chủ trương giải quyết các tranh chấp về biên giới, biển đảo".
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Thế nào là "bí mật nhà nước" ?
Cộng sản Việt Nam sử dụng từ "nhà nước" để chỉ cho "quốc gia". Vấn đề là từ "nhà nước" hay "nhặp nhằng" với "chính phủ". Trong khi "quốc gia", theo định nghĩa của quốc tế công pháp, "quốc gia" bao gồm ba thành tố "dân chúng, lãnh thổ và một chính phủ".
Vì vậy để phân biệt, tôi sử dụng từ "bí mật quốc gia" thế cho "bí mật nhà nước".
Những gì gọi là "bí mật quốc gia" là những tin tức khi bị tiết lộ, quyền lợi của quốc gia, dân tộc có thể bị thiệt hại.
Nhưng bộ luật đề cập đến "đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước". Rõ ràng có sự nhặp nhằng rất lớn giữa "bí mật quốc gia" và "bí mật của đảng".
Bí mật của "nhà nước" (quốc gia) liên quan đến quyền lợi của "quốc gia", bao gồm đất nước và dân tộc.
Những gì gọi là "bí mật của đảng" thì chỉ liên quan đến (quyền lợi) của đảng, của các lãnh tụ, đảng viên của đảng mà thôi.
Đã đành hiến pháp qui định "đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội". Nhưng không vì vậy bí mật của đảng lại tương đồng với bí mật quốc gia. Bởi vì lợi ích của đảng, của đảng viên… đôi khi đối nghịch với quyền lợi của đất nước, của dân tộc.
Một thí dụ. Trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng.
Ông Trọng là "tổng bí thư" của đảng cộng sản Việt Nam, tức là "người của đảng". HP qui định "đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội" hoàn toàn không có nghĩa là ông Trọng "lãnh đạo nhà nước và xã hội".
Tuyên bố chung hai nước Việt Nam-Trung Quốc năm 2017 do ông Trọng ký có đoạn ghi :
"Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,... có chế độ chính trị tương đồng, ... có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…. "
Ý nghĩa của các câu như "chia sẻ vận mệnh chung" chỉ dành cho nhân dân trong một nước. Chỉ có người dân trong một nước mới chia sẻ một vận mệnh, một tươ08/2017ng lai chung.
Thử xét các Tuyên bố chung các năm trước, dưới đời các TBT tiền nhiệm. Không có cái nào có nội dung tương tự.
Ta thấy rõ ở đây quyền lợi của đảng xung đột với lợi ích của dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam, qua ông Trọng, biểu lộ ý kiến muốn "sáp nhập" Việt Nam vào Trung Quốc. Nhưng dân tộc Việt Nam, chắc chắn không có người nào muốn như vậy.
Thí dụ khác. Tin tức "mật" của nhà báo Bill Hayton trên BBC mới đây cho biết ông Trọng (cùng với ông Ngô Xuân Lịch) là hai người chủ trương rút giàn khoan ở lô 136-03 trên thềm lục địa (pháp lý) của Việt Nam.
Đây là "bí mật của đảng" hay là "bí mật quốc gia" ?
Dĩ nhiên đây là bí mật của đảng.
Bí mật này, nếu giữ bí mật, sẽ làm tổn hại đến quyền lợi của quốc gia. Tiết lộ ra, quyền lợi quốc gia được dư luận quốc nội và quốc tế quan tâm bảo vệ. Nhưng rõ ràng uy tín ông Trọng xuống thấp.
Thí dụ khác, trường hợp điệp viên Việt Nam qua Đức bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Tôi có viết trên facebook ngày 3 tháng tám cho rằng ông Trọng là người đứng sau vụ bắt cóc này.
Tôi có đặt vấn đề là ai chịu trách nhiệm (về hành vi ngu xuẩn) bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ?
Ông Trọng vừa nắm đảng lãnh đạo, nắm quân đội, nắm cả công an. Tình báo sang "bắt cóc" Trịnh Xuân Thanh không biết thuộc về quân đội hay công an. Vấn đề là ông Trọng phải chịu trách nhiệm tất cả những đổ vỡ chính trị ngoại giao giữa Việt Nam và Đức. Trách nhiệm về tiếng tăm (vốn đã bất hảo) Việt Nam là một quốc gia côn đồ.
Nhưng lấy luật nào để "kỷ luật" ông Trọng ?
Không có luật nào hết cả.
Vụ Trịnh Xuân Thanh khởi xướng từ một người không có trách nhiệm với quốc gia, lại trở thành một "bí mật quốc gia".
Sự việc đổ bể ra, đất nước và dân tộc Việt Nam sẽ chịu thiệt thòi lớn, về vật chất, do sự trừng phạt về kinh tế của Đức (và Châu Âu). Về pháp lý, lớn lao hơn. Việt Nam đã vi phạm trắng trợn luật quốc tế, thì còn tư cách nào để sử dụng luật quốc tế để bảo vệ quyền lợi cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ, trước áp lực của Trung Quốc ?
Vì vậy cần phải phân định rạch ròi : đâu là bí mật quốc gia, đâu là bí mật của đảng.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 12/08/2017
Nhận thấy là ý kiến của ông Hà Hoàng Hợp hơi bị chủ quan về bản "thông cáo chung" của hai ông Bộ trưởng bộ quốc phòng Ngô Xuân Lịch và James Mattis hôm 8 tháng Tám. Bài tường thuật lại cuộc hội luận "bàn tròn thứ năm" trên BBC ngày 10/8 cho thấy như vậy.
Hải quân Việt Nam - Ảnh minh họa
Nội dung bản Thông cáo chung có đoạn (dẫn từ BBC) :
"Hai nhà lãnh đạo nhất trí rằng một mối quan hệ quốc phòng Mỹ - Việt thúc đẩy mạnh mẽ an ninh khu vực và toàn cầu. Mối quan hệ này dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và các lợi ích chung, bao gồm tự do hàng hải ở Biển Đông và toàn cầu, tôn trọng pháp luật quốc tế và công nhận chủ quyền quốc gia. Bộ trưởng hoan nghênh việc Việt Nam chủ động tham gia và ngày càng đóng vai trò tích cực tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương".
Bài tường thuật BBC có tiểu đoạn được đặt tên : "Lần đầu tiên về chủ quyền ở biển Đông".
Không biết BBC viết vậy là có chủ ý gì ?
Theo tôi biết thì Mỹ chưa bao giờ bày tỏ chính kiến về chủ quyền các đảo ở Biển Đông là thuộc về nước nào. Nhiều lần Mỹ cho biết nước này "không có ý kiến" về tranh chấp ở Biển Đông và không ủng hộ nước nào có chủ quyền ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Hà Hoàng Hợp cho rằng :
"từ trước đến nay, chưa bao giờ Hoa Kỳ tuyên bố rằng Hoa Kỳ đụng vào chuyện gọi là chủ quyền quốc gia của một nước cụ thể nào đó ở Biển Đông cả, nhưng mà lần này Hoa Kỳ có công bố này".
Điều này không đúng.
Nếu ta có theo dõi lịch sử quan hệ hai bên Việt-Mỹ, ta sẽ thấy rằng khúc quanh quan trọng trong quan hệ hai nước là thời điểm hai bên "xác lập đối tác quan hệ toàn diện", theo như nội dung Tuyên bố chung ngày 25 tháng bẩy năm 2013.
Bản Tuyên bố chung có đoạn viết :
"Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama quyết định xác lập quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh các nguyên tắc trong quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau".
Khúc quanh quan trọng là vì Mỹ không chỉ tôn trọng "độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam mà còn khẳng định việc "tôn trọng thể chế chính trị".
Việc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được Mỹ khẳng định từ Hiệp định Paris 1973 và Hiệp định Genève 1954.
Việc "tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau" là câu "đầu môi chót lưỡi" khi hai quốc gia thiết lập bang giao.
Điều này không hề hàm ý Mỹ "nhìn nhận chủ quyền" của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo tôi, điều cần quan tâm trong (bất kỳ bản) Tuyên bố chung là phía đối tác đã "hoan nghênh" Việt Nam về cái gì ?
"Hoan nghênh", một thuật từ ngoại giao, có ý nghĩa là "đằm thắm" là khuyến khích.
Ta thấy Mỹ đang khích lệ Việt Nam "dấn thân" nhiều hơn để có "vai trò tích cực" ở Châu Á và Thái Bình dương.
Điều này nói lên ẩn ý của Mỹ từ nhiều năm trước, là ủng hộ để Việt Nam trở thành một "cường quốc trung bình" trong khu vực.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 13/08/2017
"Lò đã nóng và quyết tâm của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng" là tựa đề bài viết trên Tuần Việt Nam của tác giả Nhị Lê, được giới thiệu là "Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản". Theo tôi, bài viết này nên đọc, cho những người muốn tìm hiểu những quyết tâm và ưu tiên chính trị của ông Trọng là gì.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng. Ảnh: Đại đoàn kết
Dẫn :
"Có một dịp, vinh dự được trao đổi với Tổng Bí thư. Ông nói, cần phải giữ vững sự ổn định. Tôi thưa rằng, ổn định lúc này là phát triển, phát triển là đẳng cấp của ổn định, ổn định lúc này là phải hành động. Ông hỏi : Cụ thể như thế nào ? Tôi thưa : Chúng ta cần lựa chọn một số việc mang tính chất đột phá, có khả năng làm rung động toàn bộ hệ thống : cải cách bộ máy và chống tham nhũng. Sao nữa ? Phương châm là, đề cao dân chủ, cổ vũ đức trị và tôn vinh pháp trị. Đấy là cả một nghệ thuật chính trị. Và, để thực hiện nó, phải với bản lĩnh chính trị rất cao, một quyết tâm đến cùng, một lộ trình phù hợp và cổ vũ một lực lượng chính trị nhân dân đông đảo. Không có những điều đó, rất khó thành !".
Hết dẫn.
Vậy là công cuộc "cải cách bộ máy" và "đốt nóng lò" để tiêu diệt tham nhũng của ông Trọng bắt nguồn từ những ý kiến của tác giả Nhị Lê.
Tôi nghĩ rằng những gì tác giả đã viết ở đây đều là sự thật. Nếu xét lại những diễn tiến đã xảy ra gần đây, ta thấy hai vấn đề chính trị nổi cộm mà ông Trọng nói đi nói tới nhiều lần, ngay tại Quốc hội, hay trên báo chí, là các việc việc "kiểm soát quyền lực" và "diệt tham nhũng".
Về ý kiến thứ nhứt của tác giả Nhị Lê : "ổn định là phải hành động".
Trong suốt nhiệm kỳ lần một, ông Trọng vì lo "ném chuột sợ bể bình" hay "đánh tham nhũng là ta đánh vào ta", nên đã không làm cái gì ra hồn.
Đất nước tuyệt đối "ổn định", yên tĩnh - static - như mặt nước trong hồ.
Nhưng trên trường quốc tế, "ta tuyệt đối ổn định" trở thành việc "ta dậm chân tại chỗ". Việt Nam đứng yên thì các nước tuần tự qua mặt thôi.
Chẳng có quốc gia nào phát triển bằng cái ổn định "static - tĩnh" hết cả. Vì vậy tác giả hô hào "hành động" là hợp lý. Vấn đề là "hành động" thế nào để phát triển ?
Ở bất kỳ quốc gia phát triển nào, sự "ổn định xã hội" luôn đến từ dao động tổng hợp "win-win" (dynamic) ở những thành tố trong xã hội.
Trong một xã hội tư bản phát triển, phe "chủ" luôn có khuynh hướng "bóc lột" lớp làm công. Phe này sử dụng tiền bạc để "bảo trợ" (lobbying) cho các vị dân cử để lớp người này ra những điều luật có lợi cho phía mình.
Để đối kháng, phe "thợ" thường xuyên chóng đối, "biểu tình", gây sức ép trong xã hội để lớp cầm quyền để ý tới mình.
Những đạo luật khác, ưu tiên bảo vệ quyền lợi cho phe lao động, như tăng lương bỗng, bảo hiểm an sinh xã hội… được ra đời.
Cái "ổn định" trong các xã hội phát triển tương tự như một người đi đường. Chân phải (tượng trưng cho giới làm chủ) tiến tới một bước thì chân trái (tượng trưng cho giới lao động) cũng tiến tới một bước.
Xã hội ngày càng tiến bộ, chân phải không tìm cách chặt bỏ chân trái. Chân trái cũng không làm "cách mạng vô sản" để tiêu diệt "chân phải". Không phe nào chủ trương "tiêu diệt" phe nào.
Bên Mỹ, phe Cộng hòa (chân phải) lên vài nhiệm kỳ thì cũng bị phe Dân chủ (chân trái) kéo xuống. Hai phe cạnh tranh với nhau. Chân trái bước một bước thì chân phải cũng bước một bước. Bên Châu Âu cũng vậy. Đất nước ngày càng tiến bộ.
Nhưng tôi e rằng cái "hành động" mà tác giả cổ súy cho ông Trọng ở trong bài, chỉ làm cho đất nước càng "tụt hậu" nhanh hơn.
Theo tác giả, dẫn ý từ bài viết, "hành động" gồm hai phần. Một là "chống tham nhũng" và hai là "kiểm soát quyền lực.
Về hành động "chống tham nhũng", thông điệp của ông Trọng đã thấy trên báo chí gần đây : "Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy… Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được…".
Theo tác giả Nhị Lê, thông điệp đó "là sự kết tinh, thể hiện tầm nhìn, sự kiên định và cả tâm huyết của ông (Trọng). Cái Ngọn lửa Dân chủ, Đức trị và Pháp trị phải cháy lên trong cái lò ấy !"
Thì ra "lò" nóng lên là nhờ các "ngọn lửa" "dân chủ, đức trị và pháp trị".
Điều ghi nhận đầu tiên trong những ý kiến của tác giả Nhị Lê, là các cụm từ "pháp quyền" hay "nhà nước pháp quyền" đã không còn sử dụng nữa. Điều này cũng đã thấy ở một số bài viết của học giả khác trong nước.
Đây là điều "mừng", "cái đúng" đã được vinh danh.
Từ lâu tôi đã chỉ ra rằng các cụm từ "pháp quyền" và "nhà nước pháp quyền", mà các học giả trong nước đã sử dụng để chuyển ngữ và nghĩa cho "the Rule of Law" và "l’Etat de Droit", là hoàn toàn sai. Về cả hai mặt "ngữ" và nghĩa".
Các nước có ngôn ngữ bắt nguồn từ nền tảng Hoa văn, như Trung Quốc, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật và Việt Nam Cộng Hòa (trước 75)... đều sử dụng "pháp trị" và "nhà nước pháp trị" để chuyển nghĩa "the Rule Of Law" và "l’Etat de Droit".
Việt Nam trở lại "cái đúng", từ nay không còn ai dị nghị.
Nhưng những cái sai, mâu thuẩn của tác giả Nhị Lê, trong bài viết, sẽ trình bày tuần tự dưới đây, sẽ làm cho "cái lò" không bao giờ "nóng" lên như mong đợi.
Thứ nhứt, "dân chủ" không thể, và không bao giờ, đi đôi với "đức trị".
Cũng vậy, "pháp trị" không bao giờ dung thứ "đức trị".
Như "nước với lửa", như "dầu với nước", những thứ từ bản chất đã đối kháng với nhau. Làm sao sử dụng chúng để "đốt lò" ?
Dân chủ là gì ?
Từ trong bài viết tác giả đã có nhận thức đúng về dân chủ :
"Quyền lực không phải của riêng ai, của nhân dân, nhân dân trao cho những người làm công bộc của dân."
Đúng vậy. Quyền lực của quốc gia, Hiến pháp đã qui định "thuộc về nhân dân".
"Dân chủ" là thể thức để nhân dân "trao quyền lực quốc gia" cho những người "làm công bộc của dân".
Ở các nước "bình thường", dân chủ được thể hiện qua hình thức "tuyển cử". Người dân nào thấy mình "có khả năng kinh bang tế thế" thì làm thủ tục "ra ứng cử". Nhân dân lựa chọn người nào "có tài" thì bỏ phiếu bầu người đó. Mỗi lá phiếu tượng trưng cho "quyền lực" của mỗi người dân. Người "đắc cử" là người được người dân trao phó "quyền lực" để "lãnh đạo" (hay "đại diện") quốc gia, hay vùng, miền, tỉnh, huyện…
Tính chính đáng của "quyền lực", ở các nước bình thường, đến từ nền tảng "dân chủ".
"Đạo đức" không phải là một tiêu chuẩn có qui ước, hay hiến định.
Các tiêu chuẩn về đạo đức thay đổi tùy xã hội, do khác biệt về văn hóa, tôn giáo.
Vì vậy "đạo đức" không là một yếu tố "không thể thiếu", để khẳng định tính chính đáng của người nắm quyền lực.
Thứ hai, "pháp trị" không bao giờ đi chung với "đức trị".
Nếu ta đọc lịch sử về sự chuyển biến các chế độ chính trị theo thời gian, ta thấy rằng chế độ "pháp trị" sinh ra từ sự đối kháng chế độ "đức trị".
Pháp trị xuất hiện ở phương Tây như là một học thuyết trị quốc, do Platon khởi xướng (thế kỷ thứ tư trước CN). Phương Đông do Hàn phi tử khởi xướng (thế kỷ thứ ba trước Công nguyên). Ý nghĩa của "pháp trị" vào thời kỳ này là vua, hoàng đế, người chủ thượng… "dựa vào pháp luật mà trị nước".
Lý thuyết này được khai sinh nhằm chống lại sự tự tiện của chủ trương "đức trị". Theo đó ông vua là "luật".
Ngày xưa, ông vua Louis XIV xứ Tây có câu nổi tiếng "l’Etat, c’est moi - Quốc gia là tao !". Việt Nam thời cận đại có (ông vua) Lê Duẩn có câu (nổi tiếng không kém) "luật pháp là tao - La loi c’est moi".
Gặp vua hiền thì không nói làm chi. Gặp hôn quan bạo ngược (kiểu Lê Duẩn) thì dân tình khốn đốn. Hết đánh Pháp thì sang đánh Mỹ. Đánh Mỹ vừa xong thì đánh liền một lúc Trung cộng ở phương bắc và Campuchia ở phương tây. Có nước nào đánh liên tục 4 cuộc chiến, trong đó có 3 đại cường trên thế giới hay không ? Vinh quang đâu không thấy, chỉ thấy đất nước nát bét không còn chi lành lặn.
"Pháp trị" hiện đại không còn mang ý nghĩa cũ từ hơn hai ngàn năm trước nữa. Nó được bổ túc bởi hai nền tảng (tương đồng) về xây dựng quốc gia : "the Rule of Law" và "l’Etat de Droit". Theo đó, "pháp luật là tối thượng". Từ người dân đến người lãnh đạo : "Làm cái gì cũng theo luật mà làm". Bất kỳ ai, tư cách pháp nhân nào, đều "bình đẳng trước pháp luật". Không một ai, kể cả người lãnh đạo tối cao của quốc gia, có thể đứng ngoài, hay đứng trên pháp luật.
Pháp trị luôn đi đôi với "dân chủ". Không bao giờ "pháp trị" lại đi chung với "đức trị".
Ông Lê Duẩn "luật pháp là tao". Tất cả mọi quyền hành được thu về một mối. Điển hình cho chế độ quân quyền "đức trị".
Trở lại việc "đốt nóng lò" của ông Trọng bằng các "cây củi" dân chủ, pháp trị và đức trị.
"Dân chủ" và "đức trị" như dầu với nước. "Đức trị" với "pháp trị" như nước với lửa. Làm sao chúng có thể "hòa lẫn" vào nhau ? Làm sao có thể đốt nóng lò, khi lửa vừa cháy lên thì tạt nước vô lò ? !
Thứ ba, tác giả Nhị Lê viết : "Suy cho cùng là, quyền lực phải gắn với trách nhiệm một cách dân chủ và kỷ luật, theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước" (hết dẫn).
Ý kiến của tác giả ở đoạn này thật là "hỗn mang", không biết dựa vào đâu, nền tảng nào để mà đưa kỷ luật đảng vào đứng chung với "dân chủ" ; đưa "kỷ luật đảng" lên trên "pháp luật của nhà nước" ?
Khi nói đến "pháp trị", tức là "pháp luật là tối thượng", thì làm sao "kỷ luật đảng" lại đứng chung, hay đứng trên "pháp luật quốc gia" ?
Tác giả tự mâu thuẩn, dẫn từ bài viết :
"càng hội nhập quốc tế, càng phải kiểm soát quyền lực, càng phải đề cao thượng tôn pháp luật. Không thể làm khác, nếu không muốn thất bại. Từ cơ chế kiểm soát thì sẽ có cơ chế phát hiện, cơ chế khắc trị… và trị thật nghiêm, không có ngoại lệ, không có vùng cấm. Nghĩa là dân chủ và pháp trị phải được thượng tôn !" (Hết dẫn).
Khi nói tới "pháp trị" thì đảng và đảng viên phải tuân thủ luật lệ nhà nước. Ngay trong Hiến pháp cũng đã qui định qui định như vậy.
"Pháp luật" phải được "thượng tôn", thì làm gì có chỗ cho "kỷ luật đảng" ?
Thứ tư, tác giả đưa trường họp Trịnh Xuân Thanh.
Rõ ràng chuyện lùm xùm ngoại giao giữa Việt Nam và Đức về vấn đề bắt cóc Trịnh Xuân Thanh nguyên nhân đến từ ông Nguyễn Phú Trọng.
Trịnh Xuân Thanh bỏ trốn ra nước ngoài, làm đơn xin tị nạn ở Đức. Trong khoảng thời gian này Trịnh Xuân Thanh có công bố một số tài liệu, về chính kiến cá nhân như tuyên bố bỏ đảng. Về chính trị, ông Thanh bạch hóa những tài liệu về cá nhân ông Trọng, ảnh hưởng tới uy tín chính trị của ông này.
Ông Trọng từ lâu có nói "Trịnh Xuân Thanh không trốn được đâu".
Ông Trọng vào đảng ủy trung ương của bộ công an, là điều chưa có tiền lệ trong lịch sử đảng cộng sản. Nhưng chuyện gì cũng có "nguyên nhân" của nó.
Báo chí (VOA) vừa đưa tin, Interpol cho biết họ không hề can dự vào việc truy lùng Trịnh Xuân Thanh, như cơ quan công an trong nước đã tuyên bố.
Nếu Trịnh Xuân Thanh bị truy nã vì "tham nhũng", chắc chắn Interpol sẽ vào cuộc. Vì đây là chính sách chung của các nước trên thế giới.
Tức là việc tố cáo Trịnh Xuân Thanh về tội tham nhũng là không có căn cứ pháp lý.
Ông Trọng mọi cách phải bắt Trịnh Xuân Thanh. Ông đã đặt "thù oán cá nhân" lên trên quyền lợi quốc gia. Cái gọi là "diệt trừ tham nhũng" chỉ là cái cớ.
Ông Trọng đã vận dụng "quyền lực của nhà nước", "pháp luật của nhà nước" để phục vụ cho ý đồ cá nhân. Trong khi ông này không nắm "quyền lực nhà nước" theo hiến định.
Do nắm cả công an và quân đội, ông Trọng mới có "thẩm quyền" chỉ đạo những "mật thám" Việt Nam qua Đức "bắt cóc" Trịnh Xuân Thanh.
Vấn đề "trả thù cá nhân" được ông Trọng nâng tầm trở thành "bí mật quốc gia".
Như tất cả các điệp vụ bắt cóc, phá hoại... đã từng xảy ra trên thế giới, điệp vụ Trịnh Xuân Thanh thuộc về phạm vi "bí mật quốc gia".
Ngay cả Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Nga, Đức, Do Thái…. tất cả đều có lần dính vào các vụ "bắt cóc", hay các "điệp vụ tồi tệ" như "nghe lén" đối phương, hay bạn bè, đặt bom mìn, gài bẫy… trong lãnh thổ quốc gia bạn (hay đối phương). Các cơ quan "mật thám" của các nước bày ra không phải để "ngồi chơi". Mục đích của chúng là để "bảo vệ quyền lợi quốc gia" trong vòng "bí mật".
Điệp vụ Trịnh Xuân Thanh thành công. Mật thám Việt Nam đã bắt được ông Thanh và giải về nước. Nếu tất cả "thủ khẩu như bình", "bí mật quốc gia" kiểu Trung Quốc, thì vụ bắt cóc không thể bị "quốc tế hóa" tồi tệ như vậy.
Chính quyền Đức không thể "tố cáo" Việt Nam "bắt cóc người trên nước Đức", vì không có bằng chứng. Việt Nam có thể thủ tiêu ông Thanh để triệt đường điều tra, nếu phía Đức muốn làm lớn chuyện.
Ông Trọng muốn "bạch hóa" vụ Trịnh Xuân Thanh trước công chúng để lấy lại uy tín qua câu nói : "Trịnh Xuân Thanh không trốn được đâu".
Dĩ nhiên, ông Tô Lâm, bộ trưởng bộ công an, vốn là người được Mỹ đánh giá là "có trí óc", đã biết rằng đây là vấn đề "bí mật quốc gia", không thể tiết lộ.
Nhưng ông Trọng đã "bật đèn xanh" để nhà báo Huy Đức bắn phát "súng lịnh".
Nhà báo Huy Đức viết trên facebook cá nhân đại khái rằng Trịnh Xuân Thanh đã bị bắt, sao báo chí không đăng tải tin tức.
Trả lời phỏng vấn báo chí, ông Tô Lâm cho biết là "không biết gì về vụ này".
Ngày hôm sau bộ công an ra thông cáo cho biết Trịnh Xuân Thanh đã về đầu thú.
Rõ ràng sau "phát súng lịnh" của Huy Đức, báo chí, bộ công an đã biết "ý" của ông Trọng.
Việc "bắt cóc" Trịnh Xuân Thanh trở thành "xì căng đan" tầm mức "quốc tế". Việt Nam đã vi phạm công pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền nước Đức.
Trịnh Xuân Thanh, chuyện "cá nhân" của ông Trọng, trở thành chuyện "nội bộ" của quốc gia. Bây giờ trở thành "khủng hoảng quốc tế", giữa Châu Âu và Việt Nam.
Quyền lợi của quốc gia Việt Nam trong vụ này chắc chắn sẽ bị thiệt hại nặng nề.
Trong một quốc gia "pháp trị", pháp luật được tôn trọng, thì lý ra ông Trọng làm gì cũng phải theo luật mà làm. Ông Trọng làm "lộ bí mật quốc gia", làm tổn hại đến uy tín quốc gia, thiệt hại quyền lợi của nhân dân, nhưng tình hình là ông này không chịu trách nhiệm trước pháp luật. Dầu vậy ông Trọng cũng muốn dùng Huy Đức như là "cái cầu chì" để bảo vệ bản thân, trước "kỷ luật" của đảng.
Lò nóng hay lò ướt, ta còn chờ tiến trình Việt Nam "xét xử" Trịnh Xuân Thanh. Trước mắt là "trăm dâu dổ đầu tằm". Chuyện bê bối của ông Trọng bây giờ đá sang bộ ngoại giao để gỡ rối.
Dầu thế nào thì người dân Việt Nam cũng phải trả nợ cho những hành vi ngu xuẩn của lãnh đạo.
Tình hình Việt Nam ra lệnh cho Repsol phải rút giàn khoan ở lô 136-03 theo lời cảnh cáo của Trung Quốc cho thấy chính sách "quốc tế hóa Biển Đông" của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã phá sản. Điều này tôi đã dự liệu ít ra từ hơn 10 năm trước.
Repsol phải rút giàn khoan ở lô 136-03
Tôi luôn cho rằng để bảo vệ lãnh thổ ở Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam theo qui định của Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) về vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa, Việt Nam phải "khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa".
Nền tảng cốt lỏi của việc "khẳng định chủ quyền", một mặt để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mặt khác để Việt Nam hội nhập vào thế giới văn minh và phát triển một cách lành mạnh và hài hòa, là lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải từ bỏ nền "chuyên chính" đồng thời thực thi hai chính sách "hòa giải quốc gia" và dân chủ hóa đất nước.
Chính sách "quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông" được Việt Nam nỗ lực từ những năm 2009. Nền tảng của việc này đặt lên "quan hệ chính trị" và "chia sẻ lợi ích" với các quốc gia liên quan. Theo đó Việt Nam hy vọng "kéo" Hoa Kỳ về phía mình, cho rằng nước này có "lợi ích cần bảo vệ" ở Biển Đông. Sự có mặt của Hoa Kỳ có thể "đối trọng" với tham vọng của Trung Quốc.
Việc này tôi đã từng chứng minh là sẽ gặp thất bại. Bởi vì, khi Trung Quốc (không chỉ) thỏa mãn tất cả những lợi ích của Mỹ ở Biển Đông, (mà còn cho Mỹ những đặc quyền khác về kinh tế ở Trung Quốc), thì nước này sẽ bỏ rơi Việt Nam.
Tôi có nhắc lại trường hợp Trung Quốc chiếm Hoàng Sa trên tay Việt Nam Cộng Hòa, hay Trung Quốc chiếm Scarborough trên tay Phi, trong lúc hạm đội của Mỹ vẫn hiện diện ở Biển Đông. Nhiều lần tôi nhấn mạnh : ngay cả Hoàng Sa và Trường Sa và 80% Biển Đông thuộc về Trung Quốc, Hoa Kỳ cũng không quan tâm, nếu Trung Quốc cam kết tôn trọng lợi ích của Hoa Kỳ ở đây.
Bài này của tôi đăng trên BBC ngày 3 tháng tám năm ngoái (1). Ghi lại để thấy những sai lầm của nhà nước cộng sản Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trước Trung Quốc.
Hơn một tháng sau khi Tòa Trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration-PCA La Haye, Hà Lan) ra phán quyết ngày 12/7/2016, những tranh chấp về cách diễn giải và áp dụng Luật Biển (UNCLOS) giữa Philippines và Trung Quốc tưởng rằng đã được Tòa làm sáng tỏ.
Ngày 21/8 vừa qua, Tổng thống Duterte của Philippines ra tuyên bố : "Philippines có thể rút ra khỏi Liên Hiệp Quốc".
Tuyên bố như một gáo nước lạnh, không chỉ gieo sự bất an cho toàn khu vực, mà còn đặt ra nhiều nghi vấn về tương lai Biển Đông.
Ông Duterte còn cho biết Philippines có thể sẽ cùng Trung Quốc và các nước Châu Phi lập một tổ chức "liên hiệp quốc" khác.
Để sang một bên nguyên nhân vì đâu ông Duterte lại có tuyên bố như vậy.
Bộ Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) cùng với nhiều công ước khác, cũng như Hiến chương Liên Hiệp Quốc, là những công ước nền tảng làm nên "trật tự pháp lý thế giới", từ sau Thế chiến Thứ II đến nay.
Có thể Liên Hiệp Quốc vẫn chưa thực hiện hết những tiêu chí về "hòa bình" của mình. Nhưng thử tưởng tượng, nếu không có "trật tự pháp lý" mà tổ chức này là một hình thức đại diện, chắc chắn nhân loại vẫn còn sống trong cảnh chiến tranh triền miên, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Dĩ nhiên những quốc gia "nhỏ", nhiều tài nguyên với một vị trí chiến lược quan trọng, như Philippines, chắc chắn sẽ bị một đế quốc nào đó, có thể là Trung Quốc, Nhật hay Hoa Kỳ... chinh phục.
Nếu tuyên bố của Duterte được Quốc hội Philippines phê chuẩn, Philippines không còn là thành viên Liên Hiệp Quốc (và cùng Trung Quốc lập ra tổ chức đối lập khác). Mặc nhiên quốc gia Philippines không còn bị ràng buộc bởi các công ước nền tảng của tổ chức này. Các nguyên tắc hòa bình của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, cũng như UNCLOS, sẽ vô hiệu lực.
Điều sẽ đến là Phán quyết 12/7 của Tòa Trọng tài cũng không còn hiệu lực áp dụng (cho Trung Quốc và Philippines).
Ta có thể suy diễn rằng nguyên nhân tuyên bố của tổng thống Duterte là dựa trên các báo cáo của sứ giả mà ông đã phái đi Hong Kong để tìm cách nối lại đối thoại với Bắc Kinh. Quan hệ hai bên bị "đông lạnh" sau khi Tòa PCA ra phán quyết ngày 12/7.
Ta thấy hình dáng một "plan B" của Bắc Kinh nhằm đối phó với phán quyết của Tòa PCA, mà Trung Quốc gọi là một "âm mưu chính trị" của Hoa Kỳ. Tuyên bố của Duterte cho thấy hai bên, Philippines và Trung Quốc, trong chừng mực đồng thuận về "plan B" này.
Manila-Bắc Kinh "đi đêm" ?
Điều này có thể đã được khẳng định.
Mới hôm trước Tổng thống Duterte cho biết, trong kỳ họp thượng đỉnh ASEAN tổ chức ở Lào vào đầu tháng Chín tới, Philippines sẽ không đưa vấn đề liên quan Biển Đông vào hội nghị. Theo ông Duterte, nước này sẽ đối thoại song phương với Trung Quốc về những tranh chấp biển, đảo hiện đang tồn tại giữa hai bên.
Bàn cờ chiến lược ở Biển Đông có đặt lại hay không là do quyết định của Quốc hội Philippines về hiệu lực tuyên bố của ông Duterte.
Điều này chắc chắn làm cho sự suy nghĩ của lãnh đạo Việt Nam (và các học giả Việt Nam về Biển Đông) phải thay đổi để đối phó với tình thế.
Đối với Việt Nam, bên (tưởng là) hưởng lợi nhiều từ phán quyết của Tòa trọng tài ngày 12/7. Người ta nghĩ rằng phán quyết đã giúp cho Việt Nam giải quyết mọi chuyện.
Những thôi thúc của một bộ phận người dân yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam thực thi việc kế thừa danh nghĩa Việt Nam Cộng Hòa và các quốc gia tiền nhiệm như "Quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại nhằm khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, từ nay có thể bỏ ngoài tai.
Cũng vậy, các yêu sách về "hòa giải quốc gia" cũng bị dẹp sang một bên.
Nhà nước cộng sản Việt Nam cho rằng, khi mà các thực thể ở Trường Sa chỉ có hiệu lực của "đá", theo phán quyết Tòa Trọng tài 12/7, chỉ có lãnh hải tối đa 12 hải lý, thì Trung Quốc hay Việt Nam, bên nào có chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vấn đề không còn quan trọng.
Tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ cả trăm năm. Tranh chấp chỉ nổi sóng gió từ thập niên 70, sau khi các giàn khoan của Việt Nam Cộng Hòa cũng như của các nước trong khu vực, khám phá ra dầu hỏa dưới đáy Biển Đông.
Luật Biển 1982 càng làm cho tranh chấp này gay gắt thêm. Bởi vì, điều thứ 121 của bộ Luật qui định rằng một đảo cũng có hiệu lực 200 hải lý "vùng kinh tế độc quyền - EEZ". Tức là quốc gia có chủ quyền đảo được Luật này cho phép "độc quyền" khai thác tài nguyên trong cột nước, dưới mặt đáy biển và thềm lục địa của các đảo, trong khu vực 200 hải lý, tính từ đường cơ bản của đảo.
Trung Quốc, với căn bản pháp lý dựa trên những văn bản từ thế kỷ trước của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa, đưa ra yêu sách đường chữ U chín đoạn, chiếm gần hết Biển Đông.
Bắc Kinh dựa trên hai lý lẽ : 1/ quyền lịch sử và 2/ quyền thuộc chủ quyền (tức EEZ) sinh ra ở các đảo.
Phán quyết 12/7 thu hẹp đáng kể các yêu sách của Trung Quốc. Quyền lịch sử của Trung Quốc bị Tòa bác bỏ, trong khi các đảo Trường Sa thì không có cái nào thực sự là "đảo" để yêu sách vùng "kinh tế độc quyền".
Những tuyên bố vừa qua của Tổng thống Duterte, trong chừng mực, giới hạn hiệu lực của phán quyết 12/7 của Tòa PCA, đồng thời củng cố lại yêu sách đường chữ chín đoạn của Trung Quốc.
Những cuộc "đi đêm" với Bắc Kinh của sứ giả của ông Duterte, cho thấy Việt Nam không còn ở tư thế "ngư ông", hưởng lợi từ tranh chấp nghêu cò là Trung Quốc và Philippines. Hai nước này bắt tay, phía thiệt hại sẽ là Việt Nam.
Việt Nam phải làm lại từ đầu.
Để giữ chủ quyền cần hòa giải quốc gia.
Tức là, đối với Việt Nam, chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là vấn đề trọng tâm. Nếu không thuyết phục được dư luận quốc tế về danh nghĩa chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam sẽ ở vào một tư thế hết sức bất lợi. Hà Nội không thể vịn vào các điều ước của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, áp dụng cho Trường Sa, về "quyền tự vệ chính đáng".
Tuần trước, báo chí quốc tế đăng tin rằng Việt Nam đã đem một số giàn rốc kết EXTRA, mua của Do Thái, ra đặt ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Mặc dầu Bộ ngoại giao Việt Nam phủ nhận việc này, nhưng một số học giả Việt Nam cho rằng Việt Nam có thể giành quyền "tự vệ chính đáng" để làm việc này. Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa, sau đó biến chúng thành các căn cứ quân sự cho không quân và hải quân, là một hành vi đe dọa cho an ninh Việt Nam.
Phản ứng của Trung Quốc trước việc này phải nói là gay gắt. Nhiều bài báo đăng tải các ý kiến yêu cầu Tập cận Bình "đánh cho Việt Nam sặc máu mũi". Trong khi Hoa Kỳ thì không hoan nghênh.
Điều này cho thấy, trong chừng mực, Hoa Kỳ không nhìn nhận lý do "tự vệ chính đáng" ở các học giả Việt Nam. Và thái độ này có thể giải thích.
Ta phải nhìn nhận rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, cũng như một số tài liệu khác do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành, đã đưa Việt Nam vào tư thế kém về pháp lý so với Trung Quốc : Việt Nam nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Điều nguy hiểm là dựa vào nội dung các văn kiện này Trung Quốc có thể tấn công để chiếm lại các đảo mà Việt Nam chiếm đóng, bất kỳ khi nào họ thấy chắc thắng.
Trung Quốc và Philippines "đi đêm" với nhau, việc áp dụng phán quyết của Tòa PCA ngày 12/7 có thể sẽ không bao giờ được thực thi. Việt Nam sẽ bị cô lập. Mà khi toàn bộ các đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, vùng "kinh tế độc quyền EEZ" của Việt Nam, sinh ra từ bờ biển của quốc gia, sẽ bị mất rất nhiều do "chồng lấn" EEZ của các đảo Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Việt Nam không thể đi kiện Trung Quốc vì các vướng mắc pháp lý. Còn quyền "tự vệ chính đáng" thì bị nghi ngờ.
Như vậy, vấn đề khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, chưa bao giờ trở thành việc quan trọng và cấp bách cho Việt Nam như hôm nay.
Việt Nam bắt buộc phải hóa giải hiệu lực pháp lý công hàm 1958 cũng như các tài liệu ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành. Mà việc này chỉ có thể thực hiện bằng việc nhìn nhận và kế thừa di sản các thể chế tiền nhiệm như "Quốc Gia Việt Nam" của Bảo Đại (sinh ra từ Hiệp ước Elysée 1949), hai nền đệ nhứt và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa, là những nhà nước này kế thừa di sản nhà nước bảo hộ Pháp và các triều đại vương quyền Việt Nam.
Những nhà nước này đã khẳng định và sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ Việt Nam theo các trình tự pháp lý quốc tế.
Và khi đặt ra vấn đề kế thừa và muốn thể hiện nó, việc "hòa giải quốc gia" là bước đầu tiên.
Nhưng thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay, vẫn xem các chế độ Việt Nam Cộng Hòa là "ngụy", cho thấy họ từ chối kế thừa di sản của các nhà nước tiền nhiệm. Việc đặt vũ khí mới mua của Do Thái ở các đảo Trường Sa, cho thấy lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã lựa chọn sử dụng vũ lực để đối đầu với Trung Quốc.
Việt Nam có phương pháp khác, hòa bình, để giữ vững lãnh thổ. Bằng không thì cũng giành được tư thế "tự vệ chính đáng". Chỉ khi giành được tư thế này Việt Nam mới có hy vọng thắng trong chiến tranh, vì có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và dư luận thế giới.
Phương pháp đó là thực thi "hòa giải quốc gia".
Việc này có thể đem tai hại cho thanh danh đảng cộng sản Việt Nam.
Hành vi hòa giải là nhìn nhận những sự thật về lịch sử. Mà điều này đặt lại hoàn toàn các "công lao" mà đảng cộng sản Việt Nam cho rằng đã đóng góp cho đất nước.
Thanh danh của đảng cộng sản Việt Nam đối với chủ quyền của quốc gia, cái nào nặng hơn, là sự lựa chọn của thành phần trí thức, học giả Việt Nam... Chỉ có lực lượng trí thức Việt Nam, khi ý thức được đâu là quyền lợi của đất nước, đồng loạt lên tiếng làm áp lực yêu cầu nhà nước cộng sản Việt Nam thể hiện việc "hòa giải quốc gia", việc giữ toàn vẹn lãnh thổ mới hy vọng đạt được.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 07/08/2017
(1) http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/08/160823_philippines_un
Vài ngày qua cánh "học giả" trong nước bàn luận sôi nổi (và thú vị) chung quanh cách sử dụng và ý nghĩa của từ (ghép) "thấu cảm". Từ này xuất hiện trong đề thi "ngữ văn" của kỳ thi Trung học phổ thông 2017.
Theo tôi, đề thi nhằm mục đích kiểm soát khả năng "đọc và hiểu" của thí sinh. Ý nghĩa của từ "thấu cảm" thế nào thì tác giả đã giải thích khá tường tận (qua đoạn văn trích dẫn), dĩ nhiên theo "cách" của tác giả.
Nếu giới hạn ở việc "đọc và hiểu", đoạn văn khá hữu ích để khảo sát khả năng của thí sinh.
Nhưng nếu soi rọi sâu xa, như khi hiểu ý nghĩa từ nguyên của "thấu-透" và "cảm-感", vốn từ Hán-Việt, ta thấy ngay rằng cách giải thích từ "thấu cảm" của tác giả (qua đoạn văn) là "có vấn đề".
Nhưng đây không phải là chủ đề tôi muốn nói trong status ngắn hôm nay. Tôi chỉ nhân việc này đặt giả sử rằng, nếu "học giả" Việt Nam chí tình bàn luận về ngôn từ của Việt Nam, mới hay cũ, như đã bàn luận về đề thi "thấu cảm", thì tiếng Việt phong phú và chính xác biết bao nhiêu.
Một vài thí dụ.
Một số từ ngữ, mỗi miền Nam, Trung, Bắc có cách viết và phát âm khác nhau.
Về tiếng Hán-Việt, như các từ nhứt-nhất, trường-tràng, bản-bổn, vũ-võ... trước 75, Việt Nam Cộng Hòa nhìn nhận tất cả các cách viết.
Dân miền Nam đặt tên, thí dụ Trần Văn Nhựt, Nguyễn Đình Bổn, Tân Sơn Nhứt…
Đã là cái tên thì làm sao có thể thay đổi ?
Vậy mà cái tên Tân Sơn Nhứt lần hồi biến mất trong kho tàng ngôn ngữ Việt.
Về từ mới.
Gần đây các nhà khoa học khám phá ra cái gọi là "onde gravitationnelle - gravitational wave". Từ này được dịch ra tiếng Việt là "sóng hấp dẫn".
Theo tôi, dịch vậy là sai.
Sóng trọng : quy luật chủ yếu của Einstein
Người dịch không hiểu được nguồn gốc của từ "gravitation" là gì, cũng (chưa chắc) nắm vững được ý nghĩa vật lý của hiện tượng "gravitational wave".
Từ "hấp dẫn" được các nhà "khoa học Việt Nam" sử dụng hôm nay, vốn nguyên thủy là "luật vạn vật hấp dẫn" (loi attraction universelle - universal attraction law).
Không biết từ khi nào "attraction" được "đồng hóa" với "gravitation" ?
"Luật vạn vật hấp dẫn" chỉ ứng dụng khi hiện hữu ít nhứt hai "vật thể". Hai vật thể (có trọng lượng) "hút-attire-attract" lẫn nhau, gọi là "hấp dẫn-attraction".
Trong khi "onde gravitationnelle - gravitation wave" thể hiện lên mọi thứ. Sóng này làm cho không gian "méo mó" và thời gian "thun giãn" (vì vậy Việt Nam mới có giờ giây thun. Tức là dân Việt Nam đã khám phá ra loại sóng này từ rất lâu rồi !).
Làm thế nào không gian, hay thời gian, một thứ "vô hình tướng", "hút" lẫn nhau, theo quan điểm thuyết vạn vật hấp dẫn ? Không thể ! Nhưng không gian - thời gian bị "co giãn, méo mó" vì "sự nặng", tức trọng lượng của một vật có khối lượng cực lớn.
Từ nguyên của "gravitational" là "gravis", tiếng La tinh, có nghĩa là "nặng".
Hợp lý thì "gravitational wave" phải dịch là "sóng trọng".
Thí dụ khác, về việc sử dụng từ "đặc quyền-exclusive", trong thuật từ "vùng đặc quyền kinh tế - zone economique exclusive - exclusive economic zone", viết tắt là EEZ.
Cách dịch này hoàn toàn sai. "Exclusive" là "độc quyền" chớ không phải "đặc quyền". Đặc quyền là "droit spécial - special right".
Nếu ta hiểu ý nghĩa luật học của hai thuật từ, ta thấy cách dịch của Việt Nam có thể gây ngộ nhận "chết người".
Đại khái, thuật từ EEZ trong bộ Luật Quốc tế về Biển thoát thai từ "quyền lịch sử - droit historique", nhưng nó hạn chế quyền lịch sử trên nguyên tắc "bình đẳng về chủ quyền".
Mọi quốc gia ven biển có bề rộng vùng EEZ là 200 hải lý. Quốc gia ven biển có quyền "độc quyền" khai thác kinh tế tài nguyên ở mặt nước, trong cột nước, trên mặt thềm lục địa cũng như dưới thềm lục địa. Những quốc gia khác chỉ có thể khai thác vùng EEZ của quốc gia kia với điều kiện được sự "nhượng quyền" khai thác của quốc gia kia. Ta gọi đó là "đặc quyền khai thác".
Lý do nào Việt Nam gọi vùng EEZ của mình là "vùng đặc quyền kinh tế" ? Không lẽ vùng EEZ của Việt Nam đã thuộc về Trung Quốc. Trung Quốc "nhượng quyền" cho Việt Nam để Việt Nam có "đặc quyền" khai thác trên vùng EEZ của Trung Quốc ?
Thí dụ khác. Về ý nghĩa và cách sử dụng từ "pháp quyền".
Chưa có học giả Việt Nam nào giải thích ổn thỏa "pháp" là gì ? và "quyền" là gì ?
Đến nay chưa có học giả Việt Nam nào giải thích ổn thỏa "pháp" là gì ? và "quyền" là gì ?
Có người thì xem "pháp quyền" như là "rule of law", người thì xem là "état de droit". Nhưng hầu hết các học giả Việt Nam đều sử dụng "pháp quyền" trong bài viết của mình với ý nghĩa của "pháp luật". Một số thì sử dụng như là "pháp chế".
Trong một bài thuyết trình về "pháp quyền hay pháp trị" của Luật sư Trần Thanh Hiệp tại Viện Việt Học năm 2011, ông có dẫn lại ý kiến của một học giả Trung Hoa, ông Tsien Tche Hao, tiến sĩ luật khoa.
Theo đó Trung Quốc dùng chữ "faquan" (pháp quyền) với nghĩa của chữ "droit", như khi họ dịch chữ "droit bourgeois" là "zichan faquan, tư sản pháp quyền". Theo ông Tsien, "pháp quyền" hiểu theo ngữ nghĩa là quyền do luật định (pouvoir légal).
Nếu hiểu theo ý nghĩa của Tiến sĩ Tsien (mà lss Hiệp đã dẫn lại), "pháp quyền" như vậy có nghĩa là "pháp chế - législation". Tức là nói về luật lệ của một quốc gia nào đó, hay luật lệ của quốc gia về một "giai cấp" hay một lãnh vực xã hội, về y tế, giáo dục, nghiệp đoàn, nghề nghiệp… nào đó.
Nhiều người cũng sử dụng "pháp quyền" như là "pháp luật - droit-law".
Điều này kiểm chứng dễ dàng nếu ta chịu khó thay thế chữ "pháp quyền" trong bài viết bằng chưc "pháp luật", nếu không sai nghĩa, thì tác giả đã hiểu sai "rule of law" hay "état de droit".
"Pháp quyền" là gì ? Ngày xưa Việt Nam (và các nước có nền tảng Hán ngữ) đều sử dụng từ này để chuyển ngữ từ "juridiction - jurisdiction" của Âu Mỹ. Ý nghĩa của nó là "quyền được xét xử". Các tự điển Việt Nam trước 1945, hay của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, đều dịch như vậy.
"Rule of law" hay "état de droit" là những "mô hình xây dựng nhà nước bằng pháp luật". Các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Hàn… đều sử dụng "nhà nước pháp trị" khi nói tới các thuật ngữ "rule of law" và "état de droit".
Tư tưởng về "nhà nước pháp quyền" là do ông Đỗ Mười đề xuất ra, năm 1992. Làm sao ông Đổ Mười, xuất thân thiến heo, có khả năng để hiểu "Rule of Law" và "Etat de Droit", các khái niệm luật học trừu tượng của Tây phương ? Ở các xứ dân chủ tự do, người ta có cả một ngành học đào tạo chuyên gia chuyên về nó.
Đến nay nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được xây dựng ra sao ? Rõ ràng là một chế độ chuyên chính phong kiến, độc tài toàn trị. Ông "vua" tập thể là đảng cộng sản Việt Nam, cha truyền con nối, cai trị đất nước bằng hệ thống công an và phương pháp "đấu tranh giai cấp".
Vậy mà gọi là "pháp quyền" với ý nghĩa của "rule of law - état de droit" hay sao ?
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 02/07/2017