Hãng Repsol của Tây Ban Nha ngày 2 tháng 8 chính thức xác nhận việc ngưng khoan thăm dò dầu khí tại một lô ngoài khơi Việt Nam ở Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuy không xác nhận nhưng lên tiếng cho biết các hoạt động liên quan dầu khí tại vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo qui định của luật pháp quốc tế.
Ảnh giàn khoan của Repsol trên trang mạng Repsol Việt Nam (https://www.repsol.energy)
Vấn đề này được nhận xét thế nào qua khía cạnh luật pháp, chính trị, và kinh tế ?
Vào ngày 2 tháng 8, hãng tin Reuters dẫn lời viên chức phụ trách tài chính của Repsol, ông Miguel Martinez, xác nhận Repsol đang làm việc với PetroVietnam và cơ quan chức năng chính quyền Hà Nội về quyết định ngưng khoan thăm dò dầu khí ở lô 136/3, quanh khu vực bãi Tư Chính mà Trung Quốc nói nằm trong đường lưỡi bò 9 đoạn đánh dấu chủ quyền của Trung Quốc.
Theo một nguồn tin đáng tin cậy của Reuters có được trong lĩnh vực dầu khí, chính Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội cho ngưng hoạt động khoan thăm dò tại lô 136/03.
Bản đồ phân lô dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Bản đồ cho thấy các khu vực / lưu vực nơi Repsol có hoạt động thăm dò hoặc phát triển. www.repsol.energy
Nói về động thái của Trung Quốc, Tiến sĩ Tạ Văn Tài, nguyên giảng viên trường Luật thuộc Đại học Havard - Hoa Kỳ cho biết là "hoàn toàn trái luật".
"Vị trí của cái lô đó là ở trong thềm lục địa Việt Nam, vùng kinh tế độc quyền của Việt Nam. Nó chỉ có 1 phần nằm bên ngoài luồng đó. Thế thì, phần nào ở trong thềm lục địa hay đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Việt Nam có toàn quyền khai thác theo luật biển. Còn bên ngoài, trong trường hợp túi dầu khí đó tràn lan ra phía ngoài, thì người nước khác có quyền khai thác phía bên kia. Hai bên đều có quyền khai thác.
Trường hợp đó hay nhất là đề nghị một giải pháp là khác chung".
Nguồn tin do Reuters đưa ra cho biết Việt Nam không muốn gây hấn với Trung Quốc chỉ vì chuyện khoan thăm dò ở lô 136/03 khu vực bãi Tư Chính.
Bản đồ hoạt động và thăm dò khai thác dầu khí của các Công ty dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên Biển Đông
Tuy nhiên, Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Quang A, từ Hà Nội, cho rằng "đây là vấn đề rất nghiêm trọng".
"Bởi vì cái lô hãng Tây Ban Nha đó thăm dò là cái lô vẫn còn nằm ở trong cái khoảng cách 200 hải lý thềm lục địa của Việt Nam, nhưng đồng thời vẫn nằm trong đường lưỡi bò của Trung Quốc, do Trung Quốc tự vạch ra. Và tòa án PCA năm trước đã phán đường lưỡi bò là vô hiệu, không ý nghĩa gì cả, thì việc Việt Nam cho phép Repsol thăm dò ở đó là hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam".
Trong phán quyết đưa ra hôm 12 tháng 7 năm 2016 liên quan đến vụ Philippines kiện yêu sách chủ quyền của Biển Đông, Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế ở La Haye nói rằng Trung Quốc không có chủ quyền lịch sử ở Biển Đông, không có cơ sở pháp lý để đòi quyền lịch sử đối với những nguồn tài nguyên nằm trong khu vực thường được gọi là "đường lưỡi bỏ" mà Bắc Kinh tự ý vẽ ra để nhận chủ quyền thuộc về mình.
Tuy nhiên, Bắc Kinh đã lên tiếng không công nhận mọi phán quyết mà Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế đưa ra.
Do đó, theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, đó là lý do vì sao Trung Quốc vẫn gây sức ép và cũng là lý do ông cho rằng đấy là sự việc rất nghiêm trọng, và đặc biệt cần phải giải quyết "một cách êm thấm với sự tôn trọng pháp luật quốc tế", theo cách nói của ông.
Cũng trong tuần lễ đó, một hãng tin quốc tế khác, Tạp chí Foreign Policy cho biết Trung Quốc đã đe doạ sử dụng vũ lực đối với Việt Nam nếu như không cho ngừng khoan thăm dò.
Động thái này, qua nhận định của Tiến sĩ Tạ Văn Tài, là "càng trái luật quốc tế"
"Vì đó là tài nguyên trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì Việt Nam hoàn toàn có quyền khai thác, không phải hỏi ký kiến ai hết.
Doạ dẫm như thế là đi trái với Hiến chương Liên Hiệp Quốc là không dùng võ lực trong bang giao quốc tế".
Tuy nhiên ông cũng nói thêm rằng lời doạ đó được thể hiện qua hình thức bán chính thức, là ông Thượng tướng Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc đột ngột bỏ về, cắt ngắn chuyến thăm Việt Nam vừa qua.
Ngoài việc cho biết hoạt động khoan thăm dò đã ngưng, ông Miguel Martinez không thể đưa ra bình luận nào khác.
Về phía nhà nước Việt Nam, tuy không xác nhận tin cho ngưng khoan thăm dò dầu khí nhưng trong tuần vừa qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khi trả lời báo giới chỉ nói rằng các hoạt động liên quan dầu khí đó được thực hiện tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam theo qui định của luật pháp quốc tế.
Không như những gì thấy được trên truyền thông mạng xã hội, những người quan tâm vụ việc này đã bày tỏ bức xúc vì sự im lặng của nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng :
"Đó là một cách ứng xử khôn và khéo, bởi vì không nên nói lên những gì không cần phải nói và không muốn nói".
Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, ông tin rằng "vấn đề như thế có thể tìm ra rất nhiều giải pháp mà tất cả các bên liên quan đều hài lòng".
"Tôi không nghĩ rằng Việt Nam có thể phủ phục đầu hàng một cách dễ dàng như thế. Vì cái đấy sẽ rất nguy hiểm. Mà nguy hiểm nhất là cho bản thân những lãnh đạo bây giờ".
Còn đối với Tiến sĩ Tạ Văn Tài, ông cho rằng khi Việt Nam giữ im lặng là với mục đích giảm căng thẳng.
"Tạm ngừng thôi. Giải pháp gọi là lùi 1 bước nhưng có thể lấn tới 2 bước sau này".
Ông phân tích thêm đó là một hình thức, hoặc có thể gọi là một nghệ thuật trong lĩnh vực ngoại giao mà Việt Nam đang áp dụng, nhằm tránh những rắc rối khác sau này.
Một trong những vấn đề quan trọng được nhiều người quan tâm trong sự việc này là liệu Việt Nam có phải đền bù số tiền 27 triệu đô la Mỹ là kinh phí do hãng Repsol đã bỏ ra cho giếng khoan thăm dò tại lô 136/3 hay không ?
Câu trả lời của Tiến sĩ Tạ Văn Tài là "có" nếu hai bên hủy hợp đồng, ngưng khoan thăm dò vĩnh viễn.
Tuy nhiên, theo ông Greg Poling, Giám đốc Nhóm Sáng kiến Minh bạch Hàng hải, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc tế tại Washington D.C cho biết, việc ngưng khoan thăm dò không có nghĩa là hợp đồng bị huỷ.
Phân tích thêm tính khả thi của ý kiến trên, Tiến sĩ Tạ Văn Tài đưa ra dẫn chứng.
"Giống như ExxonMobil, vào năm 2012, ngay ở Washington, Trung Quốc đe doạ chính phủ Việt Nam không được khai thác ở khu vực tranh chấp trên biển Đông. Nhưng sau khi dừng 1 vài năm, ExonMobil vẫn khai thác trở lại".
Cũng cần nhắc lại, năm 2009, tập đoàn Exxon đã giành được quyền thăm dò trên một diện tích hơn 52.000 km2 ngoài khơi bờ biển Việt Nam, trong một khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo công ước Liên Hợp Quốc về luật biển, cho dù khu vực đó Trung Quốc cũng tuyên bố sở hữu một vài lô. Và "đại gia" dầu khí của Mỹ, ExxonMobil cùng với đối tác là tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam - Petro Việt Nam, đã khoan thành công hai giếng trong các năm 2011 và 2012.
Cát Linh, RFA
Nguồn : RFA, 11/08/2017
Một tàu sân bay Mỹ sẽ lần đầu tiên đến Việt Nam năm 2018 thể theo quyết định của hành pháp Hoa Kỳ ở Washington DC. Chuyên gia trong và ngoài nước nói gì về động thái này của Hoa Kỳ trong bối cảnh căng thẳng vì hành động quân sự hóa Biển Đông, nơi mà Bắc Kinh dành gần như hầu hết chủ quyền.
Chiến hạm USS John S. McCain của Mỹ tại Biển Đông. Ảnh chụp hôm 10/8/2017. AFP photo
Lời hứa từ Tổng thống Mỹ
Gởi một tàu sân bay Mỹ đến Việt Nam là lời hứa từ tổng thống Donald Trump với thủ tướng Việt Nam khi ông Nguyễn Xuân Phúc ghé Nhà Trắng ngày 31 tháng Năm 2017.
Nếu mọi chuyện diễn biến như dự định thì năm 2018 Việt Nam sẽ lần đầu tiên đón tiếp một tàu sân bay chứ không phải những chiến hạm thông thường từng cập cảng Việt Nam trước giờ.
Tin được loan báo vào lúc dư luận trong nước tập trung mọi chú ý vào chuyến thăm Hoa Kỳ của đại tướng Ngô Xuân Lịch lần này trong cương vị bộ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam.
Trên báo mạng National Business Times hôm 9 tháng Tám vừa qua, với câu hỏi "Tại sao Hoa Kỳ gởi tàu sân bay đến Việt Nam", ký giả Pritha Paul dẫn lời bộ trưởng Jim Mattis của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ nói với đối tác Việt Nam Ngô Xuân Lịch hôm thứ Ba rằng Wahington và Hà Nội có cùng lợi ích chung, đó là tuyến lưu thông tự do trên vùng biển Nam Trung Hoa không thể gặp trở ngại vì những hành động có tính cách liên tục và thách đố từ phía Trung Quốc.
Cùng ngày văn bản gởi ra từ Lầu Năm Góc cho thấy bộ trưởng Bộ quốc phòng Hoa Kỳ nói với bộ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam rằng Mỹ ca ngợi sự dấn thân cũng như phát triển vai trò lãnh đạo của Việt Nam trước những vấn đề thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Quyết định của Mỹ gởi tàu sân bay đến Việt Nam được tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hà Lan, hiện là viện phó Viện nghiên cứu các vấn đề phát triển của Việt Nam (Vietnam institute of development studies-VIDS), cho là một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ đối tác chiến lược giữa 2 quốc gia :
Bước ngoặt ở đây thể hiện qua 3 điểm, thứ nhất là tổng thống Trump nói ít làm nhiều. Thứ hai, Việt Nam cũng đến lúc không thể lần khân mãi được như qua vụ Giàn khoan 360 cuối tháng Bảy vừa qua. Thứ ba, quyết định này từ cả 2 phía nó càng nói lên "điểm tới hạn" của chính sách an ninh quốc phòng "ba không" của Việt Nam với Mỹ và thế giới.
Tôi không muốn dùng chữ "hai cựu thù" vì từ này đã lỗi thời từ lâu, cả Mỹ lẫn Việt Nam nên cảm ơn Trung Quốc đã thúc đẩy tiến trình này nhanh hơn so với các chuyển động nội tại bên trong nền chính trị vốn rất khó phân biệt và khó nhận dạng của Việt Nam.
Được hỏi tại sao một quyết định quan trọng như vậy, tức gởi tàu sân bay đến Việt Nam, không được tiến hành ngay mà phải chờ đến sang năm, ông Đinh Hoàng Thắng phân tích :
Nhà báo hẳn còn nhớ câu của người Châu Âu, là "thuốc súng luôn phải giữ khô", kéo dài việc thực thi một quyết định hệ trọng như vậy phải cần thời gian để tất cả các bên liên quan quen với trạng thái "thuốc súng đang được sấy".
Có thể sẽ có thay đổi từ giờ đến sang năm, thế nhưng quyết định này khó dẫn đến xung đột quân sự. Mỹ và Trung Quốc khó có thể đụng độ quân sự vì các bãi đảo đá ngầm mà nhiều nước cũng đang tranh giành chủ quyền. Mỹ và Trung Quốc đều có những lợi ích toàn cầu lớn hơn nhiều, nhưng vấn đề FONOPS và "đi qua vô hại" là lý do tồn tại qui chế siêu cường của Hoa Kỳ, nếu không thì đấy không còn là nước Mỹ nữa.
Trung Quốc khiến Việt Nam gần Mỹ hơn
Giáo sư Amitav Acharya, chuyên gia quan hệ quốc tế, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Châu Á thuộc American University ở Washington DC, nói rằng tình hình căng thẳng trên biển Nam Trung Hoa, mà Việt Nam gọi là Biển Đông, khiến Việt Nam phải lo củng cố mối quan hệ quân sự song phương với Hoa Kỳ bằng cách này cách khác, thế nhưng :
Tôi không nghĩ tàu sân bay Mỹ tới Việt Nam có nghĩa là Mỹ sẵn sàng cho chiến tranh, đó chỉ là biểu tượng hay giản dị đó là dấu hiệu cho thấy hai bên đang xích lại gần nhau hơn về mặt quân sự.
Có rất nhiều việc khác trong mối quan hệ quân sự đó, thí dụ những cuộc tập trận chung trong tương lai, những loại vũ khí nào Mỹ sẽ bán cho Việt Nam, những cái đó quan trọng hơn là điều động một tàu sân bay tới một nước.
Bãi Đá Vành Khăn, nơi Trung Quốc bồi đắp thành đảo nhân tạo. AFP
Không thể chối cãi là Hoa kỳ đang nỗ lực để chứng tỏ sự hiện diện của mình trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, giáo sư Acharya khẳng định tiếp, nhưng cũng đừng quên là chiến lược tái cân bằng lực lượng mà tổng thống tiền nhiệm Obama đề ra cho vùng Châu Á Thái Bình Dương đã chấm dứt từ lúc tổng thống Trump bước vào Nhà Trắng :
Ngoại trừ lập trường tự do lưu thông và tự do hàng hải ra thì không ai biết thực sự chính sách quân sự của hành pháp Trump đối với biển Nam Trung Hoa như thế nào. Theo tôi tốt nhất là nên chờ đợi và theo dõi, nhất là khi hành pháp Mỹ có vẻ như đang quá bận bịu với vấn đề Bắc Hàn. Ngay cả phản ứng của Trung Quốc sẽ như thế nào một khi khi tàu sân bay Mỹ tiến vào hải phận Việt Nam cũng là điều tôi không muốn phán đoán trước. Tôi nghĩ chúng ta nên chờ một thời gian để xem mối quan hệ quân sự Việt Nam Hoa Kỳ trong đó có yếu tố Trung Quốc nó sẽ chuyển biến như thế nào.
Tôi cũng không thấy có dấu hiệu nào là Hoa Kỳ với hành pháp Trump sẽ hết lòng bảo vệ cho Việt Nam, một điều chừng như vượt quá chính sách hiện hành vốn rất không rõ ràng của ông Trump. Hãy còn quá sớm để bình luận, đó là tất cả những gì tôi có thể nói về quan hệ quân sự Mỹ Việt tính đến lúc này.
Theo nhận định của ông Rodger Baker, nhà phân tích chiến lược và địa chính trị của công ty tham vấn Stratfor, được ký giả Prathi Paul trích dẫn trong bài của ông liên quan đến việc tàu sân bay Hoa Kỳ sẽ đến Việt Nam năm tới, thì cuộc gặp gỡ và lời hứa hẹn của tổng thống Donald Trump với thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hồi tháng Năm là sự kiện được hành pháp Trump tính toán kỹ lưỡng nhằm tạo một thế phòng vệ mới trước ý đồ quân sự hóa các bãi đá và các đảo trên biển Nam Trung Hoa.
Việt Nam chiếm một vị trí quan trọng trong vùng Đông Nam Á, ông Rodger Baker nhận định, đã có nhiều tàu tuần tra cỡ nhỏ đã được Mỹ chuyển giao cho lực lượng tuần duyên Việt Nam mấy tuần qua, những cuộc giao lưu trao đổi giữa hải quân 2 nước đã và đang diễn ra, trong lúc quyết định bán vũ khí cho Việt Nam đã được Hoa Kỳ dỡ bỏ một phần từ năm ngoái.
Tuy nhiên vẫn lời ông Baker thì sau chuyến viếng thăm của thủ tướng Việt Nam đến Nhà Trắng hồi tháng Năm thì quan hệ ngoại giao Việt Nam Trung Quốc càng ngày càng xấu đi.
Theo giới quan sát, trong bối cảnh Việt Nam trở nên thân thiện hơn với Hoa Kỳ về mặt quân sự thì Biển Đông sẽ trở thành tâm điểm biểu dương lực lượng của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, chuyên gia về quan hệ quốc tế đang làm việc tại Singapore :
Tôi cho rằng đây là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ muốn Việt Nam can dự nhiều hơn, muốn Việt Nam trở thành đối tác để xử lý vấn đề Biển Đông, ứng phó với tham vọng hàng hải của Trung Quốc ở Hoa Đông và Biển Đông.
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp kết luận là dù tàu chiến hay hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ có ghé Việt Nam hay không thì Trung Quốc cũng sẽ không ngưng hành động bành trướng thế lực trên biển. Ông nói tác động bên ngoài không làm Bắc Kinh nao núng, họ chỉ nhượng bộ khi gặp khó khăn trong nước hoặc khi nào đã hoàn tất kế hoạch quân sự hóa của mình.
Thanh Trúc, phóng viên RFA
Nguồn : RFA, 11/08/2017
Mỹ, Nhật, Úc kêu gọi COC có tính ràng buộc pháp lý (VOA, 07/08/2017)
Mỹ, Nhật và Úc hôm 7/8 thúc giục các nước Đông Nam Á và Trung Quốc bảo đảm rằng bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông mà họ cam kết soạn ra sẽ có tính ràng buộc pháp lý, theo tin của Reuters phát đi từ Manila.
Ngoại trưởng các nước chụp ảnh trước Hội nghị Ngoại trưởng Đông Á ở Philippines, 7/8/2017
Tin cho hay ba cường quốc cũng nói họ mạnh mẽ phản đối những hành động cưỡng ép đơn phương.
Mỹ, Nhật và Úc không phải là những bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, nơi có tranh chấp giữa 5 bên gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei.
Tuy nhiên, Mỹ, Nhật và Úc lâu nay vẫn có nhiều tuyên bố về vùng biển với lập luận rằng họ có lợi ích trong việc bảo đảm tự do hàng hải và hàng không ở đó.
Ngoại trưởng 3 nước kể trên đã ra tuyên bố sau một cuộc họp ở Manila nói rằng khối các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc cần thiết lập một bộ quy định "có tính ràng buộc pháp lý, có ý nghĩa, có hiệu lực, và nhất quán với luật quốc tế".
Hôm 6/8, các ngoại trưởng của ASEAN và Trung Quốc đã thông qua văn kiện khung liên quan đến việc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử (COC).
Văn kiện khung này nêu khái quát về cách thức Trung Quốc và ASEAN đàm phán về một thỏa thuận chính thức. Việc đàm phán có thể bắt đầu trong phần còn lại của năm nay.
Chuyên gia về Biển Đông Hoàng Việt nói với VOA từ thành phố Hồ Chí Minh về ý nghĩa của việc 3 cường quốc đề nghị COC phải có tính pháp lý :
"Ba quốc gia mà họ lên tiếng thể hiện cái điều là muốn hay không muốn các cường quốc vẫn phải quan tâm đến vấn đề Biển Đông. Việc phát biểu đó cho thấy, một là Hoa Kỳ cũng phải quan tâm bởi vì nó gắn liền lợi ích Hoa Kỳ ở đó. Thứ hai là kể cả Australia, mặc dù không phải là một bên tranh chấp Biển Đông, nhưng Australia cũng là một quốc gia quan tâm vì nó cũng ảnh hưởng rất nhiều lợi ích của Australia trong đó. Đối với Nhật Bản thì đương nhiên. Nhật Bản có những lo lắng đặc biệt, bởi vì căng thẳng trên Biển Đông sẽ tác động rất nhiều đến Biển Hoa Đông cũng như mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc".
Thạc sĩ Hoàng Việt nhận định khi các cường quốc lên tiếng và nếu đi kèm theo đó là những hành động gây sức ép, điều đó sẽ giúp thúc đẩy tiến trình đàm phán COC nhanh hơn.
Mặc dù vậy, ông cũng lưu ý rằng việc chính quyền của Tổng thống Trump đang có những xáo trộn nội bộ, và việc chính quyền Mỹ chưa đưa ra chính sách đối ngoại rõ ràng làm cho khó dự báo về tiến trình đàm phán COC.
Trong khối ASEAN, một số nước trong đó có Việt Nam cũng muốn COC có tính ràng buộc pháp lý, khả dĩ thực thi và có một cơ chế giải quyết tranh chấp.
Một số chuyên gia nước ngoài nói Trung Quốc có thể không chấp nhận điều đó. Họ cũng nhận xét rằng việc Trung Quốc đồng ý đàm phán về COC có thể là một chiến thuật câu giờ để họ tiếp tục xây đảo và quân sự hóa ở Biển Đông.
Tuy nhiên, chuyên gia Hoàng Việt đưa ra ý kiến ngược lại :
"Tôi nghĩ Trung Quốc không câu giờ. Bởi vì Trung Quốc trước đây ở thế yếu, nhưng bây giờ Trung Quốc đã chuyển sang thế mạnh. Nghiên cứu về hành vi của Trung Quốc cho chúng ta thấy là sau khi Trung Quốc có một thế tương đối vững thì Trung Quốc sẽ xuống nước để Trung Quốc sẽ ký kết. Để làm gì ? Một mặt, Trung Quốc tỏ ra rằng Trung Quốc luôn luôn có thiện chí. Thứ hai, Trung Quốc muốn dựa vào đấy để ngăn cản các quốc gia khác bồi lấp, xây đảo nhân tạo như của mình".
Bản tin Reuters ngày 7/8 tường thuật rằng Jay Batongbacal, một chuyên gia về Biển Đông tại Đại học Tổng hợp Philippines, nói với kênh tin ANC rằng việc các bên thông qua văn kiện khung đã trao cho Trung Quốc lợi thế chiến lược vô cùng to lớn, đó là họ sẽ có thể quyết định khi nào tiến trình đàm phán có thể bắt đầu.
Lúc này, cùng với lời kêu gọi COC phải có tính ràng buộc pháp lý, ba nước Mỹ, Nhật và Úc cung thúc giục các bên kiềm chế, không bồi lấp, xây dựng các tiền đồn và quân sự hóa các thực thế có tranh chấp, ý nói đến việc Trung Quốc đã mở rộng khả năng phòng thủ ở Đá Vành Khăn, Chữ Thập và Su Bi thuộc quần đảo Trường Sa.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị hôm 6/8 nói điều đó phụ thuộc vào tình hình có ổn định hay không có sự can thiệp lớn từ bên ngoài vào hay không.
*****************
ASEAN, Trung Quốc thông qua khung quy tắc ứng xử trên Biển Đông (VOA, 06/08/2017)
Các ngoại trưởng Đông Nam Á và Trung Quốc hôm 6/8 thông qua văn kiện khung về đàm phán một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Họ ca ngợi động thái này là một tiến bộ, nhưng những người chỉ trích cho rằng đây là một chiến thuật câu giờ của Trung Quốc để nước này củng cố sức mạnh trên biển của mình.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị gặp báo chí khi dự hội nghị với khối ASEAN, 6/8/2017
Văn kiện khung nhắm đến việc thúc đẩy Tuyên bố về quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông, gọi tắc là DOC, đã được đưa ra hồi năm 2002.
Hầu như các bên có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đều lờ đi DOC, nhất là Trung Quốc. Nước này đã xây 7 đảo nhân tạo ở vùng biển có tranh chấp.
Các bên nói văn kiện khung chỉ là một bản khái quát về cách thức bộ quy tắc ứng xử sẽ được thiết lập. Nhưng những người chỉ trích nói việc không nêu khái quát về mục tiêu ban đầu, sự cần thiết phải làm cho bộ quy tắc có tính ràng buộc pháp lý và có thể cưỡng hành, hay có một cơ chế giải quyết tranh chấp là những điều gây nghi ngờ về mức độ hiệu lực của bộ quy tắc.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị nói việc thông qua văn kiện khung tạo ra cơ sở vững chắc để đàm phán có thể bắt đầu trong năm nay.
Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei đều có tuyên bố chủ quyền về toàn bộ hoặc từng phần Biển Đông.
Một số nhà ngoại giao và những người chỉ trích tin rằng việc Trung Quốc đột nhiên quan tâm đến bộ quy tắc sau 15 năm trì hoãn là có mục đích kéo dài quá trình đàm phán để câu giờ cho việc hoàn thành những mục tiêu chiến lược của họ ở Biển Đông.
Một số người cho rằng bộ quy tắc được thúc đẩy vào lúc Mỹ, nước lâu nay được coi là có vai trò quan trọng trong việc ngăn cản những đòi hỏi hàng hải của Trung Quốc, đang bị phân tán vì các vấn đề khác và không đưa ra quan điểm rõ ràng về chiến lược an ninh của Mỹ ở Châu Á, vì vậy làm suy yếu vị thế đàm phán của ASEAN.
Văn kiện khung chưa được công bố, nhưng một văn bản dài 2 trang mà Reuters tiếp cận được cho thấy nó khá khái quát và có nhiều điểm dẫn đến bất đồng.
Ví dụ, nó kêu gọi các bên cam kết với "các mục đích và nguyên tắc" của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, nhưng không quy định việc tuân thủ.
Một số nước ASEAN, kể cả Việt Nam và Philippines, lâu nay nói họ vẫn muốn làm cho bộ quy tắc có tính ràng buộc pháp lý, điều mà theo các chuyên gia sẽ ít có cơ hội được Trung Quốc chấp nhận.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị nói ông không cố tiên liệu về nội dung bộ quy tắc, nhưng ông cũng nói bất cứ điều gì được ký kết cũng phải được tuân theo.
Người phát ngôn Bộ ngoại giao nước chủ nhà Philippines Robespierre Bolivar nói việc thông qua văn kiện khung là biểu tượng của cam kết tạo ra một bộ quy tắc "thực chất và có hiệu lực".
(theo Reuters)
Mỹ, Nhật, Úc lên tiếng chống Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông (RFI, 07/08/2017)
Trái với ngôn từ thận trọng của ASEAN, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc vào hôm 07/08/2017, đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông trong một thông điệp nhắm vào Trung Quốc. Thông cáo chung của ba nước đã phụ họa thêm cho lời kêu gọi của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á trong bản Thông Cáo Chung ASEAN công bố khuya hôm qua, yêu cầu các bên tranh chấp ở Biển Đông "tự kềm chế và không quân sự hóa" vùng biển này.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (trái) và ngoại trưởng Nhật Taro Kono (giữa) và tổng thứ ký ASEAN Lê Lương Minh tại diễn đàn ASEAN, Manila, Philippines ngày 7/8/2017. REUTERS/Mohd Rasfan/Pool
Sau cuộc họp bên lề các hội nghị của ASEAN tại Manila, ba ngoại trưởng Mỹ, Nhật và Úc đã không ngần ngại tố cáo các hành vi "bồi đắp đảo, xây dựng tiền đồn, quân sự hóa các thực thể đang bị tranh chấp" tại Biển Đông.
Ba nước cũng cho rằng mọi quy tắc ứng xử trên Biển Đông phải "mang tính chất ràng buộc về mặt pháp lý, có thực chất và hiệu quả".
Các ngoại trưởng Mỹ, Úc và Nhật còn kêu gọi Trung Quốc và Philippines tôn trọng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye vào năm ngoái 2016 phủ nhận đại bộ phận các yêu sách của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Theo hãng tin Pháp AFP, lời lẽ trong bản thông cáo chung Mỹ-Nhật-Úc cứng rắn hơn nhiều so với bản Thông Cáo Chung của Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN được công bố khuya hôm qua. Văn bản của ASEAN đã không dám chỉ trích Trung Quốc, không nói gì về sự cần thiết của một bộ quy tắc ứng xử mang tính chất ràng buộc về pháp lý, cũng như hầu như hoàn toàn im lặng về phán quyết của tòa La Haye về Biển Đông.
Tuy nhiên, bản Thông Cáo Chung của các ngoại trưởng ASEAN cũng được một số nhà quan sát đánh giá là cứng rắn hơn với Trung Quốc so với dự thảo đầu tiên mà Philippines nước chủ nhà đưa ra. Ngôn từ cứng rắn hơn là do Việt Nam kiên quyết muốn đưa vào văn kiện chung của toàn khối một số câu chữ gợi đến hành vi bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc, điều mà Bắc Kinh không hề muốn.
Tranh cãi đặc biệt gay gắt giữa Việt Nam và Cam Bốt, mà nhiều nguồn tin cho là kiên quyết bảo vệ lập trường Trung Quốc, đã ngăn chặn việc đúc kết bản Thông Cáo Chung ASEAN, và phải mất thêm 24 tiếng đồng hồ thì các nước mới tìm được đồng thuận.
Theo hãng tin Mỹ AP, Thông Cáo Chung Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN AMM-50 đã gián tiếp chỉ trích các hành động đắp đảo, xây đồn của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như gợi lên một cách mơ hồ phán quyết quốc tế về Biển Đông. Cả hai điểm này đều thiếu vắng trong dự thảo ban đầu của bản thông cáo chung.
Một cách cụ thể, phần nói về Biển Đông đã "ghi nhận những lo ngại của một số bộ trưởng ASEAN về vấn đề bồi đắp đảo và những hoạt động trong khu vực có thể làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và hủy hoại hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực".
Bản thông cáo cũng "nhấn mạnh tầm quan trọng của việc không quân sự hóa và tự kềm chế"không có các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình.
Văn kiện này có lời lẽ mạnh mẽ hơn so với bản thông cáo chung Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN hồi tháng Tư, bị cho là đã xóa bỏ toàn bộ những yếu tố có thể làm Trung Quốc phật ý.
Trọng Nghĩa
***************
Trung Quốc 'bực bội vì hành động của Việt Nam ở ASEAN' (BBC, 07/08/2017)
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị vào phút chót đã hủy một cuộc họp với Phó Thủ tướng, Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh cuối ngày thứ Hai 7/8 tại kỳ họp Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ở Manila.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tại cuộc họp ở Manila ngày 6/8
Cả Bloomberg và báo South China Morning Post đưa tin này.
Ông Vương Nghị lẽ ra sẽ gặp ông Phạm Bình Minh bên lề cuộc họp ngoại trưởng ASEAN, nhưng một nhà ngoại giao Trung Quốc nói cuộc gặp không diễn ra, theo báo South China Morning Post.
Trung Quốc được cho là phật lòng vì từ ngữ trong bản thông cáo chung của các bộ trưởng ngoại giao ASEAN. Thông cáo này bày tỏ quan ngại về bồi đắp lấn biển trên những hòn đảo có tranh chấp về chủ quyền, Bloomberg trích lời một số nguồn.
Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh ở Manila ngày 6/8
Trung Quốc cho rằng Việt Nam là nước đã vận động đưa từ ngữ này vào bản thông cáo.
Bản thông cáo nói một số ngoại trưởng trong nhóm ASEAN bày tỏ quan ngại về "bồi đắp lấn biển" và "các hoạt động ở khu vực, làm xói mòn lòng tin, làm gia tăng căng thẳng, và có thể đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định tại khu vực".
Theo Bloomberg, một người phát ngôn trong phái đoàn Trung Quốc nói cuộc họp riêng giữa hai ngoại trưởng Việt Nam và Trung Quốc không phải là cơ hội duy nhất cho hai bên thảo luận.
Cả hai ngoại trưởng đều tham gia vào các cuộc gặp đa phương khác tại Manila, trong đó có cuộc họp giữa Trung Quốc và 10 ngoại trưởng ASEAN, vẫn theo Bloomberg.
Xu Liping, nhà nghiên cứu từ Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc, nói Bắc Kinh phật lòng vì thái độ của Việt Nam.
"Việc hủy gặp có thể xem là cảnh báo cho Việt Nam", người này nói.
Tân Hoa Xã của Trung Quốc đăng bài nói nỗ lực của Việt Nam để có ngôn ngữ mạnh mẽ hơn của ASEAN là "đầu độc" tình hình trên Biển Đông.
********************
Ngoại trưởng Philippines Alan Peter Cayetano chào đón bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN lần thứ 50 Manila, Philippines, ngày 05/08/2017.Reuters
Cam Bốt quyết liệt bảo vệ lập trường của Trung Quốc tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN. Cho đến trưa chủ nhật 06/08/2017, các nước Đông Nam Á họp tại Manila vẫn không tìm được một thái độ chung trước chính sách bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Các nguồn tin ngoại giao xác nhận với AFP là 10 ngoại trưởng ASEAN không thể công bố một bản thông báo chung như dự kiến sau cuộc họp ngày thứ Bảy 05/08/2017. Cuộc đàm phán vào sáng Chủ nhật cũng không đả thông được tình trạng bế tắc và chia rẽ nội bộ.
Trong khi Bắc Kinh tranh đoạt hơn 80% diện tích Biển Đông lấn sâu đến tận duyên hải của bốn nước Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei, thì một lần nữa thành viên ASEAN Cam Bốt bênh vực Trung Quốc, cản trở các nước nạn nhân lên tiếng phản đối.
Theo các nguồn tin này, bản thân Việt Nam "không dám kích động", nước chủ nhà Philippines cố tìm "thỏa hiệp", còn Cam Bốt của thủ tướng Hun Sen thì tận lực "đạp thắng chân lẫn kéo thắng tay".
Cũng theo AFP, quan chức cao cấp của các phái đoàn ASEAN tiếp tục thảo luận về hồ sơ Biển Đông vào trưa hôm nay (06/08) trong khi các ngoại trưởng tham gia một loạt cuộc tiếp xúc với các đồng cấp Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương.
Tiếp theo sẽ là Diễn Đàn An Ninh Khu Vực ASEAN (ARF) với sự tham dự của nhiều nước trong đó đặc biệt có Mỹ, Trung Quốc, Nga và Bắc Triều Tiên. Nhiều vấn đề quốc tế và khu vực như căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, tình hình Biển Đông và cuộc chiến chống khủng bố sẽ được đưa ra bàn luận.
Còn theo Reuters, trong cuộc họp báo, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố tình hình "biển Nam Hải có tiến triển" và 10 nước ASEAN cùng Trung Quốc sẽ bắt đầu tiến trình "thương lượng một bản quy tắc giao thông hàng hải ngay
Tú Anh
********************
ASEAN không có thông cáo chung 'do Việt Nam' (BBC, 05/08/2017)
Ngoại trưởng các nước ASEAN không đưa ra được thông cáo chung thường lệ cuối ngày làm việc thứ Bảy 5/8 vì không đạt được sự đồng thuận về ngôn từ liên quan các tranh chấp ở Biển Đông, hãng tin Anh Reuters cho hay.
Phó thủ tướng Phạm Bình Minh (áo xanh) đã nỗ lực vận động các nước ASEAN thay đổi lập trường về Biển Đông và Trung Quốc
Các nhà ngoại giao từ ba nước ASEAN nói sự chậm trễ là do Việt Nam muốn thông cáo đề cập việc cần tránh các hoạt động 'bồi đắp lấn biển' và 'quân sự hóa'.
Nhiều năm nay, Biển Đông luôn là vấn đề gai góc nhất cho các nước ASEAN. Các nước có quan điểm khác nhau về cách lên tiếng về sự khẳng định chủ quyền, các tòa nhà và quân sự hóa các đảo nhân tạo của Trung Quốc trong các vùng biển có tranh chấp.
Người phát ngôn bộ ngoại giao Phillipines Robespierre Bolivar không nói rõ lý do vì sao thông cáo chung bị chậm trễ. Ông chỉ nói thông cáo sẽ được phát khi các cuộc hội đàm đã kết thúc trong vài ngày tới.
"Thông cáo chung sẽ được đưa ra cùng tất cả các tuyên bố của ngài chủ tịch vào cuối tất cả các cuộc hội đàm", ông nói.
Ngoại trưởng Philippines Alan Peter Cayetano và Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi thảo luận nội dung tài liệu dự thảo tại Kỳ họp thường niên các ngoại trưởng ASEAN tại Manila hôm 5/8/2017
Khó khăn của ASEAN trong việc nhất trí ngôn từ cho thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở thời điểm các nước trong khu vực chưa rõ liệu Mỹ có ưu tiên quan hệ với ASEAN, và nỗ lực kiểm soát những hoạt động hàng hải gây tranh cãi của Bắc Kinh.
Bản dự thảo thông cáo mà các nước thảo luận hôm thứ Năm 3/8 không có dẫn chiếu đến cả hai điều trên.
Trung Quốc hết sức nhạy cảm về chuyện các nước ASEAN nói tới việc nước này tăng cường khả năng quân sự ở các đảo ngoài Biển Đông. Một số nước thành viên ASEAN lo ngại phải chịu hệ lụy nếu họ làm phật lòng Trung Quốc.
"Chỉ còn Việt Nam là còn chưa đồng ý. Có thể, vào ngày mai, mọi chuyện sẽ được dàn xếp ổn thỏa", một nhà ngoại giao tham gia vào quá trình viết dự thảo thông cáo cho Reuters biết.
Trước khi kỳ họp chính thức bắt đầu, Việt Nam đã nỗ lực kêu gọi các quốc gia Đông Nam Á có một lập trường mạnh mẽ hơn về 'sự bành trướng' của Trung Quốc ở Biển Đông.
Việt Nam vào tối 4/8 đã cố gắng vận động để bổ sung ngôn ngữ cứng rắn hơn đối với Trung Quốc trong thông cáo chung của ASEAN, dự kiến sẽ đưa ra sau khi các ngoại trưởng Đông Nam Á kết thúc phiên hội đàm ngày 5/8.
Theo một bản dự thảo của AFP có được, Việt Nam vận động ASEAN thể hiện sự quan ngại sâu sắc về "việc xây dựng" trên biển, ám chỉ các hòn đảo nhân tạo của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp trong những năm gần đây.
Bản đồ Biển Đông với hình Đường Chín Đoạn do Trung Quốc nêu ra để đòi chủ quyền toàn bộ vùng này
Việt Nam cũng muốn ASEAN nhấn mạnh trong tuyên bố rằng Bộ Quy tắc Ứng xử với Trung Quốc sẽ là "ràng buộc pháp lý".
Nhưng các nhà phân tích an ninh chỉ ra rằng khuôn khổ Bộ quy tắc Ứng xử chỉ đi vào thực hành 15 năm sau cuộc hội đàm và Trung Quốc sẽ sử dụng thời gian đó để củng cố tuyên bố chủ quyền với các hòn đảo nhân tạo.
Cuộc vận động diễn ra khi các bộ trưởng ngoại giao ASEAN có các cuộc hội đàm không chính thức vào khuya đêm thứ Sáu, 4/8.
Nhiều nhà ngoại giao nói rằng Việt Nam chắc chắn sẽ thất bại trong việc sử dụng ngôn ngữ cứng rắn phản đối Trung Quốc. Với việc đăng cai tổ chức diễn đàn, Philippines có tầm ảnh hưởng lớn.
Điều này cho thấy căng thẳng ngoại giao sẽ sôi sục tại thủ đô Philipines, với các nhà ngoại giao hàng đầu từ Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga và Bắc Hàn và các đối tác Châu Á - Thái Bình Dương khác cũng tham gia vào các cuộc hội đàm về an ninh hôm 6/8.
Quan ngại về đe dọa tới an ninh vùng được cho là sẽ làm lu mờ tranh chấp tại Biển Đông
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ vùng biển quan trọng về chiến lược, bao gồm vùng biển sát bờ biển Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Trung Quốc trong những năm gần đây đã mở rộng sự hiện diện của mình trên biển bằng cách xây dựng các hòn đảo nhân tạo có khả năng giữ các căn cứ quân sự.
Cùng với Việt Nam, Philippines từng là nhà phê phán mạnh mẽ nhất về sự bành trướng của Bắc Kinh.
Nhưng dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte, Manila đã tìm cách làm dịu tranh chấp với Trung Quốc để đổi lấy hàng tỷ đôla đầu tư và viện trợ.
Cơ sở của Trung Quốc trên Đá Chữ Thập, theo ảnh chụp từ vệ tinh hôm 3/2017, cho thấy Bắc Kinh sẽ có khả năng triển khai máy bay chiến đấu và các thiết bị quân sự khác từ đảo nhân tạo này
Trung Quốc trong những năm gần đây cũng đã vận động thành công các quốc gia ASEAN khác, đặc biệt là Campuchia và Lào, để hỗ trợ vận động ngoại giao trong tranh chấp.
ASEAN được tổ chức vào cuối tuần này xác nhận khuôn khổ cho một bộ quy tắc ứng xử cho hành động cụ thể hơn với Trung Quốc.
Mỹ biến đảo Guam thành tiền đồn chống Trung Quốc ở Châu Á ?
Châu Á tuần này khá được các tạp chí Pháp chú ý. Nổi bật là tờ Le Point với hồ sơ chính cho Trung Quốc, với câu hỏi "Phải chăng ông Tập (Cận Bình) là bá chủ thế giới ?", bên trên ảnh lớn của chủ tịch Trung Quốc trong quân phục rằn ri dữ dằn.
Guam, căn cứ quân sự Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Ảnh militarybases.co
Ở trang trong, Le Point đã có một phóng sự dài thực hiện ngay tại đảo Guam, phân tích về mưu đồ bá chủ Biển Đông của Trung Quốc và cố gắng đối phó của Mỹ bằng cách củng cố tiền đồn của mình là đảo Guam.
Trong hồ sơ chính của mình, Le Point đã phân tích nhiều về chủ nhân ông của Trung Quốc hiện nay là Tập Cận Bình, và người đã truyền cảm hứng cho ông ta là đại tá về hưu Lưu Minh Phúc (Liu Mingfu), tác giả một quyển sách đang bán rất chạy ở Trung Quốc hiện nay : "Giấc mơ Trung Hoa", xác định rằng "Giấc mơ Trung Hoa là vượt qua Hoa Kỳ, chúng ta không thể hài lòng với vị trí thứ hai. Chúng ta sẽ đạt được điều đó trong 20-30 năm tới đây".
Theo Le Point, để đạt mục tiêu đó, Trung Quốc chẳng hạn, đang thực hiện một dự án khổng lồ ở tận nước Lào, san bằng bảy ngọn đồi để có được 10.000 ha đất. Boten - tên của dự án đó – "sẽ trở thành một trung tâm giao thương nhờ việc xây dựng hai con đường, một tuyến đường sắt nối liền Bắc Kinh-Bangkok và Singapore vào năm 2025, và một đường cao tốc băng qua khu Tam Giác Vàng trước khi chạy xuống vùng đồng bằng Thái Lan, đến tận Bangkok".
Le Point đặc biệt chú ý đến cục diện mới ở Biển Đông trong bài phóng sự của Sébastien Falletti thực hiện ngay tại đảo Guam, mà tạp chí mệnh danh là "tiền đồn của Mỹ tại vùng Thái Bình Dương". Le Point ghi nhận là hòn đảo này chính là nơi mà chiếc B29 Enola Gay đã cất cánh, mang theo quả bom nguyên tử thả xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản ngày 06/08/1945. Ngày nay, đối thủ của Washington không còn là Tokyo, mà là Bắc Kinh và Bình Nhưỡng.
Với Tập Cận Bình, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã gia tăng hành động tại Biển Đông, nơi họ đòi chủ quyền trên 90% diện tích thông qua một bản đồ hình lưỡi bò, không cần đếm xỉa đến những tuyên bố chủ quyền của các láng giềng Việt Nam, Philippines, Malaysia hay Brunei. Kể từ năm 2014, Quân Đội Trung Quốc đã biến 7 rạn san hộ tại đấy thành đảo nhân tạo dưới sự chứng kiến bất lực của chính quyền Barack Obama.
Chỉ trong vòng vài tháng, các rạn san hô như Đá Chữ Thập (Fiery Cross) hay Gạc Ma (South Johnson) đã biến thành tiền đồn trên đại dương với phi đạo, nhà kho, bến cảng, vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và chuẩn mực môi trường. Bắc Kinh lớn tiếng thề rằng đó là các cơ sở hạ tầng dân sự, và chủ tịch Trung Quốc hứa sẽ không quân sự hóa quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Các cam kết đó có vẻ hoàn toàn vô giá trị vào lúc hình ảnh vệ tinh cho thấy súng phòng không được lắp đặt trên bảy hòn đảo nhân tạo.
Khi bị chỉ trích, Bộ quốc phòng Trung Quốc đã đáp trả : "Nếu ai đó đến réo chuông trước cửa nhà bạn với thái độ ngạo mạn thì bạn không đề phòng sao ?". Bắc Kinh đã đòi Hoa Kỳ đình chỉ ngay lập tức các chiến dịch bảo vệ quyền tự do hàng hải và bản chất quốc tế của Biển Đông, mà Hải Quân Mỹ đã tiến hành trong vùng.
Theo Le Point, sự tăng vọt của các tiền đồn Trung Quốc ở vùng biển chiến lược này, cộng thêm với một chương trình phát triển tàu ngầm hạt nhân đang tăng tốc, đã nuôi dưỡng sự lo ngại của Mỹ về một khả năng tồi tệ nhất : đó là Biển Đông trở thành "ao nhà" của Trung Quốc, nơi Hải Quân Mỹ bị cấm vào.
Mỹ củng cố đảo Guam thành căn cứ chính của thủy quân lục chiến
Chính trong bối cảnh đó mà theo Le Point, Mỹ đang có kế hoạch cho lực lượng thủy quân lục chiến tinh nhuệ của mình rầm rộ quay lại đảo Guam, một nơi được Lầu Năm Góc cho là có vị trí chiến lược thiết yếu trong thế kỷ 21 này, một căn cứ hậu cần thiết yếu để bảo đảm tuyến liên lạc giữa vùng California ở Mỹ cách đấy 9.000 km, với Châu Á đang trở thành buồng phổi của nền kinh tế thế giới.
Theo ghi nhận của Le Point, từ nay đến năm 2020, Guam sẽ trở thành căn cứ chính của thủy quân lục chiến Mỹ tại Châu Á, với hơn 5.000 quân, phối hợp với một lực lượng không nhỏ của Không Quân và Hải Quân Mỹ cũng được tăng cường, để đưa tổng cộng số linh Mỹ trên đảo lên thành 14.000 người.
Hiện nay, Guam đã trở thành nơi mà các hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử Mỹ có thể ghé để được tiếp tế, trên đảo có vô số ăng ten vệ tinh cực mạnh để truyền đi hàng tỷ dữ liệu giữa Châu Á và Washington.
Luật pháp hay sức mạnh sẽ thắng trên Biển Đông ?
Cục diện sắp tới sẽ ra sao ? Nhận định của Le Point khá bi quan. Theo tạp chí Pháp, nhiều chuyên gia cho rằng ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực đang suy giảm, cho dù tân tổng thống Mỹ đã tỏ một số thái độ cứng rắn, thách thức Bắc Kinh về thương mại và Biển Đông.
Đối với các chuyên gia này, cho dù có hàng không mẫu hạm Mỹ vẫn tuần tra khu vực, ảnh hưởng của Mỹ chủ yếu thể hiện qua "quyền lực mềm" về kinh tế và văn hóa cũng như về quyết tâm bảo vệ đồng minh. Cả hai cột trụ này đều đang bị Donald Trump làm lung lay.
Le Point kết luận : Cuộc đọ sức trên Biển Đông không đơn thuần là cuộc chiến giành lấy một vài hòn đảo nhỏ, mà là một bài trắc nghiệm về trật tự thế giới trong thế kỷ 21, sẽ do luật pháp hay sức mạnh chi phối ? Việc Trung Quốc ngang nhiên chận bắt một chiếc tàu lặn không người lái của Mỹ vào tháng Giêng vừa qua là một lời cảnh báo, nhất là khi lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình, người muốn hiện thực hóa "giấc mơ Trung Hoa" lại không có thể tự do hành động, không thể nào lùi bước trên biển trước một dư luận trong nước đang muốn tái khẳng định sức mạnh có hàng thế kỷ trước đây của Thiên Triều.
"Những bạo chúa đang thách thức chúng ta"
Tuần báo Pháp L’Express cũng đề cập đến Châu Á trong hồ sơ chung giới thiệu chân dung một số nhà độc tài đang tại vị trên thế giới, mà L’Express không ngần ngại gọi là "bạo chúa – tyrans". Tờ báo đã dành trang bìa đăng ảnh Kim Jong-un để minh họa cho hồ sơ lớn "Những bạo chúa đang thách thức chúng ta", bên trên một tiểu tựa : "Từ Bắc Triều Tiên đến Syria, từ Venezuela đến Philippines".
Đối với L’Express, "các chế độ độc tài không giống nhau nhưng sống dai dẳng với thời gian. Một số thì đàn áp chính người dân của họ, một số khác thì không ngần ngại đe dọa hòa bình thế giới".
Trước khi đi vào chi tiết, tuần báo Pháp đã có một nhận định chung : đó là các nhà độc tài thường có quan hệ mật thiết với nhau, chúc tụng nhau mỗi khi có dịp. Chẳng hạn như nhân dịp nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro qua đời, đã có nhiều lời chia buồn tha thiết đến từ các "cảm tình viên" của nhà độc tài. Nếu Kim Jong-un của Bắc Triều Tiên thương tiếc "người bạn thân và một đồng chí", thì tổng thống Iran Hassan Rohani đã nói đến "một chiến binh không mệt mỏi". Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho rằng "đồng chí Castro sẽ đời đời sống mãi", trong lúc tổng thống Belarus Alexander Loukachenko thì nhắc tới "một người thân thiết và một nhà tư tưởng độc đáo".
L’Express đã dành nhiều trang, bài để mô tả một số "bạo chúa" đang cầm quyền trên hành tinh, mà đứng đầu danh sách là Kim Jong-un tại Bắc Triều Tiên. Theo nhận xét của tạp chí Pháp, bạo chúa Châu Á này đang là người đe dọa hòa bình thế giới với tên lửa liên lục địa của mình, và đã thiết lập một triều đại khủng bố trong nước...
L’Express dẫn số liệu của Liên Hiệp Quốc theo đó có từ 80.000 đến 120.000 người Bắc Triều Tiên bị cho là đang bị giữ trong các trại lao cải, một con số chưa từng thấy tại bất kỳ nước nào khác trên thế giới...
Một bạo chúa khác mà L’Express cho là "không cần phải giới thiệu" là Bashar al-Assad, tổng thống Syria. Theo tạp chí Pháp, để không bị cuốn theo làn sóng các "cuộc cách mạng Ả Rập" - đã lật đổ các chế độ độc tài cầm quyền tại Tunisia, Ai Cập và Libya vào năm 2011, tổng thống Syria đã khởi động một cuộc nội chiến với hậu quả khủng khiếp : "Sáu năm xung đột đã khiến hàng trăm ngàn người chết".
Tại Châu Mỹ thì có trường hợp của Venezuela, với đương kim tổng thống Nicolas Maduro, người lên kế nhiệm Hugo Chavez. Đối với L’Express, đất nước này đang đứng bên bờ vực của nội chiến.
Một bạo chúa khác – ít thu hút sự chú ý – là lãnh đạo Issayas Afewerki của xứ Châu Phi Erythrea, được L’Express mệnh danh là "kẻ thủ tiêu người ở xứ Erythrea". Là một người được đào tạo tại Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, Issayas Afewerki đã gieo rắc kinh hoàng trên cả nước và xô đẩy hàng trăm ngàn người dân bỏ xứ chạy qua nước khác lánh nạn. Một ví dụ : Năm 2016, người Erythrea chiếm 11,7% tổng số người tị nạn trôi dạt vào nước Ý.
Danh sách bạo chúa thời nay của L’Express còn bao gồm Rodrigo Duterte, tổng thống Philippines, Alexander Loukachenko, tổng thống Belarus, Gourbangouly Berdymoukhammedov, xứ Turkmenistan, hay Daniel Ortega, tổng thống Nicaragua, được xem là một nhà độc tài "mềm", Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe. Ngay cả tân vương Thái Lan Rama X, tước hiệu của thái tử Maha Vajiralongkorn, cũng bị L’Express đưa vào danh sách này.
Tại Anh Quốc, tuần báo The Economist cũng nhìn về tình hình Bắc Triều Tiên : Trên một bức họa vẽ một cụm khói hình nấm của bom nguyên tử, với tai nấm có hình dáng của Kim Jong-un và Donald Trump đang lườm nhau, tờ báo lo ngại "Điều đó có thể xẩy ra", điều đó ở đây là cuộc xung đột giữa hai nước đều có vũ khí hạt nhân.
Jeanne Moreau và cơn lốc cuộc đời
Trong các tuần báo lớn tại Pháp, có lẽ L’Obs là tờ duy nhất khai thác thời sự Pháp, với hồ sơ lớn trang bìa nói về minh tinh Jeanne Moreau vừa qua đời ở tuổi 89, và đặc biệt ở trang trong là phóng sự về "Cuộc sống về sau của họ – Leur vie d’après".
Về Jeanne Moreau, tạp chí Pháp đã đã đăng một bức ảnh đen trắng của nghệ sĩ, và ở bên trong, đã điểm qua những nét chính trong cuộc đời của Jeanne Moreau được ví với một cơn lốc xoáy, lấy ý từ bài hát "Le Tourbillon de la vie– Cơn lốc cuộc đời" đã từng khẳng định tài năng của Jeanne Moreau như là một ca sĩ, chứ không chỉ là diễn viên kịch hay điện ảnh.
Các cựu dân biểu nạn nhân của làn sóng Macron đang sống ra sao ?
Một bài viết độc đáo của L’Obs nằm ở trang trong, mang tựa đề bí hiểm "Cuộc sống về sau của họ – Leur vie d’après". Đối với L’Obs, "họ" ở đây là những cựu dân biểu Pháp đã bị làn sóng dân biểu của đảng Cộng Hòa Tiến Bước của tổng thống Emmanuel Macron cho về vườn.
Tạp chí Pháp quan tâm tìm hiểu là sau nhiều năm trời, có những người là cả chục năm trời, làm dân biểu, những người này hiện sinh sống và suy nghĩ ra sao.
Theo L’Obs, có một số người may mắn là công chức cao cấp, đã trở lại với công việc của mình trước lúc làm dân biểu. Đó là trường hợp của ông Henri Guaino, công chức Viện Kiểm Toán Cour des Comptes, hay bà Marisol Touraine, trở lại với công việc của mình ở Tham Chính Viện (Conseil d’Etat).
Nhưng cũng có người bị hụt hẫng, trước thay đổi một sớm một chiều, từ một nhân vật được nể trọng, có kẻ đưa người đón, nay phải tự làm mọi thứ. L’Express nêu trường hợp của Yann Galut, cựu dân biểu đảng Xã Hội. Nhân vật này đã công nhận như sau :
"Tôi đã phải tái lập một đường điện thoại riêng, tự mình mua vé tàu, đi tàu thì đi hạng hai, di chuyển trong thành phố thì dùng métro, ở khách sạn cũng phải tự mình đặt chỗ. Và khi tôi đến một nơi nào đó, không phải là người khác chờ tôi, mà chính tôi phải kiên nhẫn chờ người khác"…
Về tâm lý thì sao ? Bà Marie Récalde, một cựu nữ dân biểu khác thuộc đảng Xã Hội đã công nhận là bà được sống yên ổn, được tự do hơn trước, thế nhưng nhiều khi cũng cảm thấy thiếu thốn một cái gì đó : "Cuộc sống trước đây của tôi diễn ra theo nhịp độ các chuyến bay phải đi, các buổi họp phải dự, các buổi mít tinh cuối tuần. Giờ thì tôi có cảm giác thật trống trải, một kiểu thiếu thốn nào đó. Trong thực tế, chúng ta như bị nghiện, công việc đó chẳng khác gì ma túy".
Trọng Nghĩa
Ngày 08/08/2017, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis tiếp đồng nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch tại Lầu Năm Góc, Virginia. Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng sức ép tại Biển Đông, Hoa Kỳ cam kết củng cố hợp tác quân sự với Việt Nam và sẽ gửi một hàng không mẫu hạm đến thăm vào năm tới.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis (T) tiếp đồng nhiệm Việt Nam tướng Ngô Xuân Lịch, tại Lầu Năm Góc, Arlington, Virginia, ngày 08/08/2017 REUTERS
Theo Reuters, trong cuộc gặp gỡ tại bộ Quốc Phòng Mỹ, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis và đồng nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch đồng ý là hai nước sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng trong bối cảnh Việt Nam ngày càng bị Trung Quốc lấn áp, quan hệ Hà Nội và Bắc Kinh có dấu hiệu xấu đi.
Tại Biển Đông, ngư dân Việt Nam liên tục bị tấn công và gần đây nhất, hồi tháng 7, Việt Nam phải hủy bỏ một số dự án thăm do dầu hỏa do áp lực của Bắc Kinh.
Tại hội nghị ASEAN, cuối tuần qua ở Manila, Philippines, Việt Nam đòi phải đưa lời lẽ cứng rắn chỉ trích Bắc Kinh «quân sự hóa Biển Đông» vào bản thông cáo chung. Trung Quốc biểu lộ giận dữ hủy bỏ cuộc gặp cấp ngoại trưởng hai nước.
Trong bối cảnh này, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ tuyên bố với đồng nhiệm Việt Nam là «mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ giữa Mỹ và Việt Nam đặt trên nền tảng (bảo vệ) quyền lợi chung kể của quyền tự do lưu thông tại Biển Đông ».
Bộ trưởng Jim Mattis hoan nghênh vai trò «lãnh đạo đang lên » của Việt Nam trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Một trong những cử chỉ tiêu biểu cho xu hướng quan hệ ngày càng được củng cố giữa Mỹ và Việt Nam là chủ nhân Lầu Năm Góc thông báo một hàng không mẫu hạm sẽ đến Việt Nam vào năm 2018.
Dự án này đã được thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thảo luận với tổng thống Donald Trump hồi tháng 5.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam 1975, một hàng không mẫu hạm Mỹ sẽ thăm Việt Nam.
Tú Anh
Nguồn : RFI, 09/08/2017
Tình hình Việt Nam ra lệnh cho Repsol phải rút giàn khoan ở lô 136-03 theo lời cảnh cáo của Trung Quốc cho thấy chính sách "quốc tế hóa Biển Đông" của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã phá sản. Điều này tôi đã dự liệu ít ra từ hơn 10 năm trước.
Repsol phải rút giàn khoan ở lô 136-03
Tôi luôn cho rằng để bảo vệ lãnh thổ ở Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam theo qui định của Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) về vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa, Việt Nam phải "khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa".
Nền tảng cốt lỏi của việc "khẳng định chủ quyền", một mặt để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mặt khác để Việt Nam hội nhập vào thế giới văn minh và phát triển một cách lành mạnh và hài hòa, là lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải từ bỏ nền "chuyên chính" đồng thời thực thi hai chính sách "hòa giải quốc gia" và dân chủ hóa đất nước.
Chính sách "quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông" được Việt Nam nỗ lực từ những năm 2009. Nền tảng của việc này đặt lên "quan hệ chính trị" và "chia sẻ lợi ích" với các quốc gia liên quan. Theo đó Việt Nam hy vọng "kéo" Hoa Kỳ về phía mình, cho rằng nước này có "lợi ích cần bảo vệ" ở Biển Đông. Sự có mặt của Hoa Kỳ có thể "đối trọng" với tham vọng của Trung Quốc.
Việc này tôi đã từng chứng minh là sẽ gặp thất bại. Bởi vì, khi Trung Quốc (không chỉ) thỏa mãn tất cả những lợi ích của Mỹ ở Biển Đông, (mà còn cho Mỹ những đặc quyền khác về kinh tế ở Trung Quốc), thì nước này sẽ bỏ rơi Việt Nam.
Tôi có nhắc lại trường hợp Trung Quốc chiếm Hoàng Sa trên tay Việt Nam Cộng Hòa, hay Trung Quốc chiếm Scarborough trên tay Phi, trong lúc hạm đội của Mỹ vẫn hiện diện ở Biển Đông. Nhiều lần tôi nhấn mạnh : ngay cả Hoàng Sa và Trường Sa và 80% Biển Đông thuộc về Trung Quốc, Hoa Kỳ cũng không quan tâm, nếu Trung Quốc cam kết tôn trọng lợi ích của Hoa Kỳ ở đây.
Bài này của tôi đăng trên BBC ngày 3 tháng tám năm ngoái (1). Ghi lại để thấy những sai lầm của nhà nước cộng sản Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trước Trung Quốc.
Hơn một tháng sau khi Tòa Trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration-PCA La Haye, Hà Lan) ra phán quyết ngày 12/7/2016, những tranh chấp về cách diễn giải và áp dụng Luật Biển (UNCLOS) giữa Philippines và Trung Quốc tưởng rằng đã được Tòa làm sáng tỏ.
Ngày 21/8 vừa qua, Tổng thống Duterte của Philippines ra tuyên bố : "Philippines có thể rút ra khỏi Liên Hiệp Quốc".
Tuyên bố như một gáo nước lạnh, không chỉ gieo sự bất an cho toàn khu vực, mà còn đặt ra nhiều nghi vấn về tương lai Biển Đông.
Ông Duterte còn cho biết Philippines có thể sẽ cùng Trung Quốc và các nước Châu Phi lập một tổ chức "liên hiệp quốc" khác.
Để sang một bên nguyên nhân vì đâu ông Duterte lại có tuyên bố như vậy.
Bộ Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) cùng với nhiều công ước khác, cũng như Hiến chương Liên Hiệp Quốc, là những công ước nền tảng làm nên "trật tự pháp lý thế giới", từ sau Thế chiến Thứ II đến nay.
Có thể Liên Hiệp Quốc vẫn chưa thực hiện hết những tiêu chí về "hòa bình" của mình. Nhưng thử tưởng tượng, nếu không có "trật tự pháp lý" mà tổ chức này là một hình thức đại diện, chắc chắn nhân loại vẫn còn sống trong cảnh chiến tranh triền miên, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Dĩ nhiên những quốc gia "nhỏ", nhiều tài nguyên với một vị trí chiến lược quan trọng, như Philippines, chắc chắn sẽ bị một đế quốc nào đó, có thể là Trung Quốc, Nhật hay Hoa Kỳ... chinh phục.
Nếu tuyên bố của Duterte được Quốc hội Philippines phê chuẩn, Philippines không còn là thành viên Liên Hiệp Quốc (và cùng Trung Quốc lập ra tổ chức đối lập khác). Mặc nhiên quốc gia Philippines không còn bị ràng buộc bởi các công ước nền tảng của tổ chức này. Các nguyên tắc hòa bình của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, cũng như UNCLOS, sẽ vô hiệu lực.
Điều sẽ đến là Phán quyết 12/7 của Tòa Trọng tài cũng không còn hiệu lực áp dụng (cho Trung Quốc và Philippines).
Ta có thể suy diễn rằng nguyên nhân tuyên bố của tổng thống Duterte là dựa trên các báo cáo của sứ giả mà ông đã phái đi Hong Kong để tìm cách nối lại đối thoại với Bắc Kinh. Quan hệ hai bên bị "đông lạnh" sau khi Tòa PCA ra phán quyết ngày 12/7.
Ta thấy hình dáng một "plan B" của Bắc Kinh nhằm đối phó với phán quyết của Tòa PCA, mà Trung Quốc gọi là một "âm mưu chính trị" của Hoa Kỳ. Tuyên bố của Duterte cho thấy hai bên, Philippines và Trung Quốc, trong chừng mực đồng thuận về "plan B" này.
Manila-Bắc Kinh "đi đêm" ?
Điều này có thể đã được khẳng định.
Mới hôm trước Tổng thống Duterte cho biết, trong kỳ họp thượng đỉnh ASEAN tổ chức ở Lào vào đầu tháng Chín tới, Philippines sẽ không đưa vấn đề liên quan Biển Đông vào hội nghị. Theo ông Duterte, nước này sẽ đối thoại song phương với Trung Quốc về những tranh chấp biển, đảo hiện đang tồn tại giữa hai bên.
Bàn cờ chiến lược ở Biển Đông có đặt lại hay không là do quyết định của Quốc hội Philippines về hiệu lực tuyên bố của ông Duterte.
Điều này chắc chắn làm cho sự suy nghĩ của lãnh đạo Việt Nam (và các học giả Việt Nam về Biển Đông) phải thay đổi để đối phó với tình thế.
Đối với Việt Nam, bên (tưởng là) hưởng lợi nhiều từ phán quyết của Tòa trọng tài ngày 12/7. Người ta nghĩ rằng phán quyết đã giúp cho Việt Nam giải quyết mọi chuyện.
Những thôi thúc của một bộ phận người dân yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam thực thi việc kế thừa danh nghĩa Việt Nam Cộng Hòa và các quốc gia tiền nhiệm như "Quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại nhằm khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, từ nay có thể bỏ ngoài tai.
Cũng vậy, các yêu sách về "hòa giải quốc gia" cũng bị dẹp sang một bên.
Nhà nước cộng sản Việt Nam cho rằng, khi mà các thực thể ở Trường Sa chỉ có hiệu lực của "đá", theo phán quyết Tòa Trọng tài 12/7, chỉ có lãnh hải tối đa 12 hải lý, thì Trung Quốc hay Việt Nam, bên nào có chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vấn đề không còn quan trọng.
Tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ cả trăm năm. Tranh chấp chỉ nổi sóng gió từ thập niên 70, sau khi các giàn khoan của Việt Nam Cộng Hòa cũng như của các nước trong khu vực, khám phá ra dầu hỏa dưới đáy Biển Đông.
Luật Biển 1982 càng làm cho tranh chấp này gay gắt thêm. Bởi vì, điều thứ 121 của bộ Luật qui định rằng một đảo cũng có hiệu lực 200 hải lý "vùng kinh tế độc quyền - EEZ". Tức là quốc gia có chủ quyền đảo được Luật này cho phép "độc quyền" khai thác tài nguyên trong cột nước, dưới mặt đáy biển và thềm lục địa của các đảo, trong khu vực 200 hải lý, tính từ đường cơ bản của đảo.
Trung Quốc, với căn bản pháp lý dựa trên những văn bản từ thế kỷ trước của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa, đưa ra yêu sách đường chữ U chín đoạn, chiếm gần hết Biển Đông.
Bắc Kinh dựa trên hai lý lẽ : 1/ quyền lịch sử và 2/ quyền thuộc chủ quyền (tức EEZ) sinh ra ở các đảo.
Phán quyết 12/7 thu hẹp đáng kể các yêu sách của Trung Quốc. Quyền lịch sử của Trung Quốc bị Tòa bác bỏ, trong khi các đảo Trường Sa thì không có cái nào thực sự là "đảo" để yêu sách vùng "kinh tế độc quyền".
Những tuyên bố vừa qua của Tổng thống Duterte, trong chừng mực, giới hạn hiệu lực của phán quyết 12/7 của Tòa PCA, đồng thời củng cố lại yêu sách đường chữ chín đoạn của Trung Quốc.
Những cuộc "đi đêm" với Bắc Kinh của sứ giả của ông Duterte, cho thấy Việt Nam không còn ở tư thế "ngư ông", hưởng lợi từ tranh chấp nghêu cò là Trung Quốc và Philippines. Hai nước này bắt tay, phía thiệt hại sẽ là Việt Nam.
Việt Nam phải làm lại từ đầu.
Để giữ chủ quyền cần hòa giải quốc gia.
Tức là, đối với Việt Nam, chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là vấn đề trọng tâm. Nếu không thuyết phục được dư luận quốc tế về danh nghĩa chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam sẽ ở vào một tư thế hết sức bất lợi. Hà Nội không thể vịn vào các điều ước của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, áp dụng cho Trường Sa, về "quyền tự vệ chính đáng".
Tuần trước, báo chí quốc tế đăng tin rằng Việt Nam đã đem một số giàn rốc kết EXTRA, mua của Do Thái, ra đặt ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Mặc dầu Bộ ngoại giao Việt Nam phủ nhận việc này, nhưng một số học giả Việt Nam cho rằng Việt Nam có thể giành quyền "tự vệ chính đáng" để làm việc này. Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa, sau đó biến chúng thành các căn cứ quân sự cho không quân và hải quân, là một hành vi đe dọa cho an ninh Việt Nam.
Phản ứng của Trung Quốc trước việc này phải nói là gay gắt. Nhiều bài báo đăng tải các ý kiến yêu cầu Tập cận Bình "đánh cho Việt Nam sặc máu mũi". Trong khi Hoa Kỳ thì không hoan nghênh.
Điều này cho thấy, trong chừng mực, Hoa Kỳ không nhìn nhận lý do "tự vệ chính đáng" ở các học giả Việt Nam. Và thái độ này có thể giải thích.
Ta phải nhìn nhận rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, cũng như một số tài liệu khác do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành, đã đưa Việt Nam vào tư thế kém về pháp lý so với Trung Quốc : Việt Nam nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Điều nguy hiểm là dựa vào nội dung các văn kiện này Trung Quốc có thể tấn công để chiếm lại các đảo mà Việt Nam chiếm đóng, bất kỳ khi nào họ thấy chắc thắng.
Trung Quốc và Philippines "đi đêm" với nhau, việc áp dụng phán quyết của Tòa PCA ngày 12/7 có thể sẽ không bao giờ được thực thi. Việt Nam sẽ bị cô lập. Mà khi toàn bộ các đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, vùng "kinh tế độc quyền EEZ" của Việt Nam, sinh ra từ bờ biển của quốc gia, sẽ bị mất rất nhiều do "chồng lấn" EEZ của các đảo Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Việt Nam không thể đi kiện Trung Quốc vì các vướng mắc pháp lý. Còn quyền "tự vệ chính đáng" thì bị nghi ngờ.
Như vậy, vấn đề khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, chưa bao giờ trở thành việc quan trọng và cấp bách cho Việt Nam như hôm nay.
Việt Nam bắt buộc phải hóa giải hiệu lực pháp lý công hàm 1958 cũng như các tài liệu ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành. Mà việc này chỉ có thể thực hiện bằng việc nhìn nhận và kế thừa di sản các thể chế tiền nhiệm như "Quốc Gia Việt Nam" của Bảo Đại (sinh ra từ Hiệp ước Elysée 1949), hai nền đệ nhứt và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa, là những nhà nước này kế thừa di sản nhà nước bảo hộ Pháp và các triều đại vương quyền Việt Nam.
Những nhà nước này đã khẳng định và sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ Việt Nam theo các trình tự pháp lý quốc tế.
Và khi đặt ra vấn đề kế thừa và muốn thể hiện nó, việc "hòa giải quốc gia" là bước đầu tiên.
Nhưng thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay, vẫn xem các chế độ Việt Nam Cộng Hòa là "ngụy", cho thấy họ từ chối kế thừa di sản của các nhà nước tiền nhiệm. Việc đặt vũ khí mới mua của Do Thái ở các đảo Trường Sa, cho thấy lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã lựa chọn sử dụng vũ lực để đối đầu với Trung Quốc.
Việt Nam có phương pháp khác, hòa bình, để giữ vững lãnh thổ. Bằng không thì cũng giành được tư thế "tự vệ chính đáng". Chỉ khi giành được tư thế này Việt Nam mới có hy vọng thắng trong chiến tranh, vì có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và dư luận thế giới.
Phương pháp đó là thực thi "hòa giải quốc gia".
Việc này có thể đem tai hại cho thanh danh đảng cộng sản Việt Nam.
Hành vi hòa giải là nhìn nhận những sự thật về lịch sử. Mà điều này đặt lại hoàn toàn các "công lao" mà đảng cộng sản Việt Nam cho rằng đã đóng góp cho đất nước.
Thanh danh của đảng cộng sản Việt Nam đối với chủ quyền của quốc gia, cái nào nặng hơn, là sự lựa chọn của thành phần trí thức, học giả Việt Nam... Chỉ có lực lượng trí thức Việt Nam, khi ý thức được đâu là quyền lợi của đất nước, đồng loạt lên tiếng làm áp lực yêu cầu nhà nước cộng sản Việt Nam thể hiện việc "hòa giải quốc gia", việc giữ toàn vẹn lãnh thổ mới hy vọng đạt được.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 07/08/2017
(1) http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/08/160823_philippines_un
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump không mấy quan tâm đến vấn đề Biển Đông là một lý do khiến Việt Nam nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc yêu cầu tàu thăm dò Deepsea Metro 1 ngừng khoan tìm khí đốt, nhà báo Bill Hayton của đài BBC viết trên tạp chí Foreign Policy.
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump không mấy quan tâm đến vấn đề Biển Đông là một lý do khiến Việt Nam nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc yêu cầu tàu thăm dò Deepsea Metro 1 ngừng khoan tìm khí đốt, nhà báo Bill Hayton của đài BBC viết trên tạp chí Foreign Policy.
Trong bài báo có tiêu đề : “Tuần lễ Donald Trump để mất Biển Đông” đăng trên tạp chí Foreign Policy, một tạp chí hàng đầu của Hoa Kỳ về các vấn đề đối ngoại, Bill Hayton nhận định :
“Trong lúc Washington đang đắm chìm trong các tranh cãi về gián điệp Nga và dự luật chăm sóc y tế thì một trong những khu vực quan trọng nhất trên thế giới đang dần rơi vào tay của Bắc Kinh.”
Bài báo viết : “Hà Nội lâu nay vẫn trông chờ ở sự hậu thuẫn ngầm của Washington để chống lại những lời đe dọa từ Bắc Kinh. Trong khi đó, chính quyền ông Trump cho thấy hoặc là họ không hiểu hoặc là họ không quan tâm đúng mức đến những lợi ích của các nước bạn và các đối tác tiềm năng ở Đông nam Á để bảo vệ những nước đối tác trước sự hung hăng của Bắc Kinh,”
Sau hai năm rưỡi trì hoãn, hồi giữa tháng Sáu năm 2017, chính phủ Việt Nam cho phép công ty Talisman Việt Nam (một chi nhánh của tập đoàn năng lượng Repsol của Tây Ban Nha) khoan tìm khí đốt tại lô 136-03, mà Trung Quốc gọi là lô Vạn An Bắc ngay ngoài rìa vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam trên Biển Đông.
Chính sự bất đồng về vụ việc này đã khiến Tướng Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, cắt ngắn một sứ mạng giao lưu quốc phòng giữa hai nước ở Việt Nam để về nước sớm hơn hồi gần đây.
Một số nguồn tin từ Hà Nội bên cạnh các nguồn tin khác được Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales, viện dẫn, nói Đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh đã bị Bộ Ngoại giao Trung Quốc vời lên để nghe Bắc Kinh dọa, rằng nếu Việt Nam không chấm dứt khoan dầu khí và hứa sẽ không bao giờ thăm dò trên vùng biển đó, thì Trung Quốc sẽ ‘có hành động quân sự’ đối với Việt Nam.
Theo nhà báo Bill Hayton thì phần lớn trong số 28 thực thể mà Việt Nam đang chiếm giữ ở quần đảo Hoàng Sa chỉ nhằm đánh dấu chủ quyền, chứ không phải là cấu trúc quân sự, nên phía Việt Nam hoàn toàn không thể phòng vệ trước một cuộc tấn công từ phía Trung Quốc.
Trong lúc Bắc Kinh lớn tiếng đe dọa thì tàu Deepsea Metro 1 đã tìm thấy một trữ lượng tài nguyên đáng kể, đa phần là khí đốt, và dầu hỏa. Họ tiếp tục thăm dò và hy vọng sẽ khoan hết toàn bộ độ sâu của giếng này vào cuối tháng 7.
Theo nhà báo Bill Hayton, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Hà Nội để bàn cách đối phó. Theo nguồn tin mà tập đoàn Repsol có được thì Bộ Chính trị bị chia rẽ giữa một bên là đa số các ủy viên Bộ Chính trị đều muốn đợi Trung Quốc “giở bài ngửa” (tức là không tin vào lời đe dọa của Trung Quốc và vẫn tiếp tục khoan thăm dò). Chỉ có hai phiếu chống, của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.
Nguồn tin mà VOA không thể được kiểm chứng độc lập cho biết sau hai cuộc họp căng thẳng của Bộ Chính trị hồi giữa tháng Bảy, quyết định cuối cùng được đưa ra : Việt Nam chấp nhận lùi bước trước Trung Quốc và chấm dứt khoan thăm dò. Nguồn tin này lý giải rằng quyết định này dựa trên lập luận là Hà Nội “không thể dựa vào sự giúp đỡ của chính quyền ông Trump trong trường hợp hai nước xảy ra xung đột trên Biển Đông”.
Vẫn theo nguồn tin này, thì một lập luận khác đặt giả thuyết nếu như bà Hillary Clinton, chứ không phải ông Donald Trump, là chủ nhân Nhà Trắng, thì mọi thứ có lẽ “sẽ rất khác bởi vì bà Clinton hiểu rõ Hoa Kỳ phải đối mặt với mối nguy gì trên Biển Đông”.
Niềm tin đặt nơi bà Clinton có lẽ cũng dễ hiểu. Có lẽ chưa ai quên bài phát biểu mạnh mẽ của bà Clinton về các lợi ích của nước Mỹ và tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Diễn đàn Khu vực ARF ở Hà Nội năm 2010. Chính sách của Tổng thống lúc bấy giờ Barack Obama là duy trì trật tự khu vực dựa trên luật pháp quốc tế được các nước trong khu vực hoan nghênh.
Theo nhà báo Hayton thì bàn thắng của Trung Quốc trong vụ đối đầu mới nhất với Hà nội có những hậu quả rõ rệt : Trung Quốc sẽ thiết lập luật lệ ở Biển Đông. Họ sẽ áp đặt chủ quyền gọi là ‘lịch sử’ hay ‘sở hữu chung’ lên Biển Đông. Bắc Kinh sẽ quyết định nước nào có quyền khai thác tài nguyên gì. Nếu Bắc Kinh có thể đe dọa Việt Nam, thì họ có thể đe dọa tất cả các nước còn lại trong vụ tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Trước đó, Manila từng loan báo ý định sẽ khoan tìm một giếng được cho là có tiềm năng khí đốt lớn ở Bãi Cỏ Rong. Tuy nhiên, hồi tháng Năm, Tổng thống Philippines Duterte cho biết lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình cảnh cáo ông rằng sẽ có chiến tranh nếu Manila tiếp tục khai thác khí đốt ở đó. Đây là khu vực mà tòa trọng tài quốc tế ở The Hagues đã phán quyết là thuộc chủ quyền của Philippines. Mới đây, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đến Manila để bàn về “hợp tác cùng khai thác” trên Biển Đông.
Nhà báo Bill Hayton nhận định : “Một khi Duterte và giới lãnh đạo Việt Nam hành động, lãnh đạo các nước khác sẽ theo sau. Các chính phủ Đông Nam Á đã rút ra được một kết luận quan trọng sau sáu tháng cầm quyền của Tổng thống Donald Trump : đó là Washington không sẵn sàng đánh cược trên Biển Đông,”.
Những quan điểm trong bài báo đăng trên tạp chí Foreign Policy là của nhà báo, nhà nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông Bill Hayton, do đó không phản ánh quan điểm của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ.
*****************
Kể từ khi có tin Việt Nam phải ngừng khoan thăm dò dầu khí trên biển Đông do bị Trung Quốc đe dọa, truyền thông Việt Nam vẫn im lặng và Bộ Ngoại giao cũng “im lặng một cách khác thường.”
Cho tới hết ngày 26/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về vụ việc này và thông tin về việc Việt Nam yêu cầu một công ty con của tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol ngừng khoan thăm dò dầu khí ở lô 136-03 trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam không xuất hiện trên truyền thông chính thống.
Nguồn tin của các chuyên gia về biển Đông, giáo sư Carl Thayer của Học viện quốc phòng Úc và học giả Bill Hayton của viện nghiên cứu Chatham House, cho biết Trung Quốc đã đưa ra yêu cầu này thông qua đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh. “Sau khi Bộ Chính trị (của Đảng Cộng Sản Việt Nam) xem xét yêu cầu này đã quyết định ngừng khoan dầu,” học giả và nhà báo chuyên viết về Việt Nam Hayton cho biết.
Các chuyên gia về biển Đông cho rằng lối đe dọa này của Trung Quốc là chưa từng có tiền lệ khi Bắc Kinh dọa dùng vũ lực, và trong bối cảnh đó Việt Nam phải nhượng bộ để có thời gian thay đổi chiến lược đối phó với Trung Quốc.
Sự giằng co giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề khoan dầu trên biển Đông, theo giáo sư Alexander Vuving của Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương, bắt đầu từ khi tướng Phạm Trường Long cắt ngắn chuyến thăm tới Hà Nội và chương trình giao lưu quốc phòng giữa 2 nước bị hủy bỏ.
Kể từ đó, Trung Quốc và Việt Nam đều huy động 1 lượng lớn các tàu tuần duyên và tàu kiểm ngư tới khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank) nằm ở phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý về phía Đông Nam.
Hôm 23/7, một ngày trước khi bài báo của BCC và giáo sư Carl Thayer nói về quyết định của Việt Nam ngừng khoan dầu trên biển, giáo sư Vuving và Jonathan London đều đưa tin trên trang Twitter cá nhân về việc Trung Quốc đang triển khai dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu vực gần bãi Tư Chính, quanh lô 163-03, là nơi Việt Nam lúc đó đang triển khai dự án khai thác dầu Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Dù Việt Nam và Trung Quốc đều chưa lên tiếng xác nhận hay phủ nhận về thông tin Trung Quốc yêu cầu Việt Nam ngừng khoan dầu, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 26/7 được Reuters dẫn lời nói “Trung Quốc thúc giục bên liên quan dừng các hoạt động vi phạm đơn phương và có hành động thiết thực bảo vệ cho khu vực biển mà không dễ có được.”
Trung Quốc ngày càng hung hăng
“Sự đe dọa này của Trung Quốc đối với Việt Nam cho thấy sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc,” theo giáo sư Thayer.
Cùng chung nhận định này, giáo sư Vuving nói “hành động của Trung Quốc cho thấy họ tiếp tục quyết liệt với các tuyên bố chủ quyền quá đáng của mình trên biển Đông và tự tin về khả năng bắt nạn những nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền (trong vùng biển này).”
Kể từ cuối những năm 2000 và đặc biệt sau 1 năm tòa trọng tài quốc tế ra phán quyết bác bỏ đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nước này vẫn không thay đổi gì trong cách hành xử và thậm chí còn có thêm nhiều hành động hung hăng hơn.
Vào tháng 5 vừa qua, tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã nói trước công chúng rằng chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đe dọa “có chiến tranh” nếu Philippines trở lại khai thác dầu và khoan thăm dò ở bãi Recto. Vụ máy bay chiến đấu của Trung Quốc áp sát máy bay do thám của hải quân Mỹ trên biển Đông hôm 24/7 là ví dụ mới nhất cho thấy sự can thiệp của Trung Quốc vào các chuyến bay của Mỹ trên vùng trời phía đông và nam của biển Trung Hoa. Trung Quốc hiện cũng đang tiến hành các cuộc tập trận hải quân ở vùng biển Baltic với hải quân Nga, theo truyền thông quốc tế.
Việc tiếp tục quân sự hóa của Trung Quốc trên biển Đông cũng cho thấy nước này đang coi thường phản ứng của cộng đồng quốc tế.
Những hình ảnh vệ tinh mới nhất do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) của Mỹ ở Washington đưa ra hôm 19/6 cho thấy Trung Quốc xây thêm các cơ sở quân sự mới trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Washington luôn cáo buộc Bắc Kinh quân sự hóa tuyến hải lộ trọng yếu trong khu vực, nơi có lượng hàng hóa trị giá 5.000 tỷ USD được giao thương hàng năm.
"Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực lượng của họ quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm dò thêm lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung Quốc."
Alexander Vuving, Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương
Thượng nghị sỹ Mỹ Cory Gardner hôm 18/7 đã lên tiếng cáo buộc Trung Quốc gần đây có những hành động gây mất ổn định khu vực biển Đông và biển Hoa Đông, làm trái với luật lệ quốc tế và tạo ra hiểm họa xung đột trong tương lai.
Việt Nam phải làm gì ?
Nếu Trung Quốc thực sự đe dọa dùng vũ lực để tấn công các thực thể của Việt Nam trên biển Đông để buộc Việt Nam ngưng thăm dò dầu khí thì đây là một sự leo thang chưa từng có và đáng báo động, theo ông Thayer, cũng là giáo sư của Đại học New South Wales.
Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực lượng của họ quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm dò thêm lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung Quốc, theo nhận xét của giáo sư Vuving.
Các nguồn tin từ Việt Nam mà vị giáo sư của Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương có được cho biết có gần 200 tàu của Trung Quốc được điều tới khu vực bãi Tư Chính trong khi Việt Nam chỉ có hơn 50 tàu ở khu vực khoan dầu này. Tuy nhiên, cũng theo nguồn tin của giáo sư Vuving, việc khoan thăm dò này cũng đã gần hoàn tất nhiệm vụ và họ đã phát hiện ra một mỏ khí có trữ lượng lớn.
Mặc dù một số chuyên gia trong nước cho rằng việc Việt Nam hủy bỏ khoan thăm dò vì bị Trung Quốc đe dọa là “hành động bất lực, hèn nhát” nhưng các chuyên gia quốc tế lại cho rằng đây là một sự rút lui đúng lúc.
“Nếu Việt Nam tiếp tục khoan dầu với (đối tác) Repsol vào thời điểm này thì Trung Quốc sẽ đưa các tàu tới thách thức. Họ sẽ gửi tàu thăm dò và thậm chí tàu khoan tới khu vực mà Việt Nam đang khoan dầu. Những hàng động này sẽ làm mỏng lực lượng tuần duyên và tàu theo dõi các hoạt động đánh bắt cá của Việt Nam và lúc đó buộc Việt Nam phải dừng các hoạt động khoan dầu để tập trung vào việc ngăn cản các hoạt động thăm dò và khoan dầu của Trung Quốc,” theo tiến sỹ Vuving.
Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định rằng nếu Việt Nam tiếp tục khoan dầu thì “không nghi ngờ gì Trung Quốc sẽ can thiệp” hoặc bằng việc cắt cáp tàu khoan dầu, hoặc gửi tàu đánh cá tới hoặc có các hành động quân sự chống lại một trong các thực thể của Việt Nam trong khu vực này.
“Việt Nam luôn dùng cả ngoại giao và hành động để đáp trả các hành động của Trung Quốc. Việt Nam không muốn hành động vội vàng trong một thế mà họ không có lợi,” theo giáo sư Thayer và ông cho rằng Việt Nam cần có thời gian để huy động những ý kiến từ quốc tế để đưa ra một chiến lược thích hợp.
Tiến sỹ Vuving cũng cho rằng hành động ngừng khoan dầu của Việt Nam là “một sự rút lui chiến thuật chứ không phải là một sự đầu hàng” và Việt Nam “chắc chắn sẽ không từ bỏ các tuyên bố chủ quyền của mình trong khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.”
Để làm được việc này, bước tiếp theo, theo giáo sư Thayer, là “Việt Nam cần tìm kiếm sự ủng hộ của Nhật, Mỹ, Ấn Độ, Úc và Châu Âu đồng thời gặp gỡ các đại diện của các công ty dầu khí nước ngoài đang hoạt động trong EEZ của Việt Nam để tham khảo các đánh giá của họ.”
LTS : Thông Luận gửi đến bạn đọc bài viết “The Week Donald Trump Lost The South China Sea” của Bill Hayton, một chuyên gia nghiên cứu về vấn đề Việt Nam và Biển Đông. Những phân tích của Bill Hayton tiết lộ thông tin mật về sự chia rẽ sâu sắc trong Bộ chính trị, liên quan đến những tranh chấp căng thẳng với Trung Quốc tại Biển Đông. Thông qua bài viết của Bill Hayton, chúng tôi càng khẳng định thêm sự rạn nứt và phân hóa trong nội bộ ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến vận mệnh của đảng và chế độ.
“Đảng Cộng Sản đã phân hóa. Nó không còn một lý tưởng chung để gắn kết các đảng viên. Đã thế tham nhũng, bất tài và vô đạo đức còn gây sự ganh ghét và khinh thường lẫn nhau trong toàn bộ đảng, kể cả ở cấp cao nhất. Bộ chính trị không còn quyền lãnh đạo tối cao vì mâu thuẫn với ban chấp hành trung ương, một định chế không thường trực nhưng lại có thẩm quyền tối hậu trong việc chỉ định và kỷ luật các cấp lãnh đạo. Đảng Cộng Sản chỉ còn là một hư cấu. Chế độ như một con tầu không còn đoàn thủy thủ và đang chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân” (Khai Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai – Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên).
Bộ chính trị, là cơ quan quyền lực nhất của đảng cộng sản, đang chia rẻ và phân hóa trầm trọng. Vì thế, sự sụp đổ của chế độ độc tài chỉ là vấn đề thời gian. Thoát Đảng để “thoát Trung” là mệnh lệnh cấp bách của thời đại. Đã đến lúc đảng cộng sản cần “nhìn xa trông rộng” chọn một kết thúc ít đau thương tang tóc nhất, để trở về với Nhân dân, xây dựng lại ý niệm Quốc gia và niềm tự hào làm người Việt Nam. Kỉ nguyên của Dân Chủ - Đa Nguyên sẽ phải đến với Dân tộc Việt Nam.
Mai V. Phạm
Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
01/08/2017
----//----
Tuần lễ mà Donald Trump mất Biển Đông
Lịch sử Việt Nam đầy những câu chuyện của những vị anh hùng chống Trung Quốc. Nhưng trong tháng này, Hà Nội đã quì gối xuống trước Bắc Kinh và bị làm nhục trong cuộc tranh chấp quyền kiểm soát trên Biển Đông, con đường giao thông hàng hải gây nhiều tranh cãi nhất trên thế giới. Hà Nội đã và đang nhìn về hướng Washington để tìm kiếm sự ủng hộ ngầm, đối đầu với các mối đe dọa của Bắc Kinh. Đồng thời, chính quyền của Trump cũng đã chứng minh rằng họ không hiểu hoặc không quan tâm đầy đủ về lợi ích của đồng minh và các đối tác tiềm năng ở Đông Nam Á, bảo vệ họ chống lại sự bành trướng của Trung Quốc. Các chính phủ Đông Nam Á sẽ đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ không đứng cùng họ. Trong khi Washington đang tự giết chính mình trong các bê bối liên quan đến tình báo Nga và các cuộc tranh luận về bảo hiểm sức khỏe, thì một trong những khu vực quan trọng nhất của thế giới đang rơi vào tay của Bắc Kinh.
Không có vùng biển nào trên thế giới có nhiều tranh chấp căng thẳng so với Biển Đông. Trong vài năm gần đây, Trung Quốc và các nước láng giềng đã phỉ báng, đe doạ, dụ dỗ, và thưa kiện để dành quyền kiểm soát các tài nguyên trên Biển Đông. Tháng 6/2017, Việt Nam đã có một động thái quyết đoán. Sau hai năm rưỡi trì hoãn, Việt Nam cuối cùng đã cho phép Talisman Việt Nam (một công ty con của tập đoàn Tây Ban Nha Repsol) cho phép khoan khí đốt, ngay tại ranh giới của Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) ở Biển Đông.
Theo diễn giải của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam hoàn toàn có quyền để làm như thế. Tuy nhiên, theo lời giải thích riêng của Trung Quốc, thì không phải như vậy. Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra tuyên bố rõ ràng về khu vực đó. Vào ngày 25 tháng 7, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng (Lu Kang) chỉ đề nghị “Trung Quốc kêu gọi các bên liên quan chấm dứt các hoạt động xâm phạm đơn phương và hành động thực tế để bảo vệ tình hình không dễ có được ở Biển Đông hiện nay” – nhưng đã không nói những hoạt động đó thực sự là gì. Trong trường hợp không có sự rõ ràng chính thức, luật sư Trung Quốc và các chuyên gia đã đưa ra hai lời diễn giải.
Trung Quốc có thể tuyên bố "quyền lịch sử" (historic rights) đối với phần biển này với lý do nó luôn là một phần của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa - quần thể bao gồm các hòn đảo, rạn san hô và đá ở ngoài khơi Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines - được coi như một phần của Vùng đặc quyền kinh tế EEZ của họ. Tuy nhiên, tòa án trọng tài quốc tế đã bác bỏ “quyền lịch sử” ở Biển Đông, trái ngược với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS, cách đây một năm. Trung Quốc đã phớt lờ tòa án và không công nhận phán quyết của tòa án.
Vào giữa tháng Sáu, Talisman Việt Nam lên kế hoạch khoan một khu vực nước sâu được “đánh giá rất tốt” tại Lô 136-03, dựa vào những gì người trong cuộc tin là một khu vực khí đốt trị giá hàng tỷ đô la, cách khoảng 50 dặm từ khu vực Tập đoàn Repsol đang hoạt động. Chính phủ Việt Nam biết rằng sẽ có nguy cơ Trung Quốc can thiệp, nên đã gửi các tàu hải quân và các tàu thuyền dân dụng khác để bảo vệ hoạt động khoan dầu.
Thoạt đầu, sự can thiệp của Trung Quốc tương đối có tính chất ngoại giao. Phó chủ nhiệm quân ủy Trung ương Trung Quốc, Đại tướng Phạm Trường Long (Fan Changlong), viếng thăm Hà Nội vào ngày 18 tháng 6 và yêu cầu chấm dứt công việc thăm dò dầu khí. Khi Việt Nam từ chối, ông Long đã hủy bỏ một cuộc họp chung về an ninh biên giới (Khuôn khổ Giao lưu Quốc phòng lần thứ 4) để về lại Trung Quốc.
Các báo cáo từ Hà Nội (đã được xác nhận bởi các báo cáo tương tự, từ các nguồn khác nhau, cho Giáo sư Carl Thayer của Úc) cho biết, ngay sau đó, Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh đã được triệu tập tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc và thẳng thừng ra lệnh rằng, trừ khi Việt Nam dừng khoan và phải hứa rằng sẽ không bao giờ khoan trong vùng biển đó thêm một lần nào nữa ; nếu không Trung Quốc sẽ có hành động quân sự, chống lại các căn cứ của Việt Nam ở Biển Đông.
Đây là một mối đe dọa kịch tính, nhưng không phải là chưa từng có. Trong khi nghiên cứu cuốn sách của tôi về Biển Đông, tôi đã được một quan chức của BP nói rằng Trung Quốc đã gây ra những mối đe dọa tương tự cho BP khi hoạt động ngoài bờ biển Việt Nam vào đầu năm 2007. Fu Ying, sau đó là Đại sứ Trung Quốc tại London, nói với giám đốc điều hành của BP lúc đó, là Tony Hayward, rằng cô không thể đảm bảo sự an toàn của nhân viên BP nếu BP không từ bỏ các hoạt động ở Biển Đông. BP ngay lập tức đồng ý và trong những tháng sau đó đã rút khỏi các hoạt động ngoài khơi của Việt Nam. Tôi đã hỏi Fu về điều này trong một bữa ăn tối ở Bắc Kinh vào năm 2014, và cô trả lời, "Tôi làm những gì tôi nên làm vì tôi rất tôn trọng BP và không muốn BP gặp rắc rối".
Việt Nam chiếm giữ khoảng 28 tiền đồn trong quần đảo Trường Sa. Một số được thành lập trên các hòn đảo tự nhiên, nhưng nhiều trong số đó là những lô cốt cô lập trên các rạn san hô. Theo Giáo sư Carl Thayer, 15 nhà giàn mà Hà Nội gọi là “các cấu trúc dịch vụ kĩ thuật” giống như đánh dấu địa điểm, hơn là các cơ sở quân sự.
Đó là tất cả về khả năng quân sự, và vì thế không thể nào có thể phòng chống được một cuộc tấn công quân sự nghiêm trọng. Trung Quốc đã chứng minh điều này bằng các cuộc tấn công vào quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và trong trận hải chiến đảo Gạc Ma ở Trường Sa năm 1988. Cả hai cuộc chiến đều kết thúc bằng nhiều thương vong về phía Việt Nam và gia tăng lợi ích lãnh thổ về phía Trung Quốc. Có những tin đồn, hoàn toàn chưa được xác nhận, rằng có một sự cố nổ súng gần một trong những tiền đồn này vào tháng Sáu. Nếu đúng, đây có thể là một lời cảnh báo nghiêm trọng hơn gửi đến Hà Nội từ Bắc Kinh.
Trong khi đó, đoàn tàu thăm dò dầu khí Deepsea Metro I đã phát hiện chính xác những gì Tập đoàn dầu khí Repsol đang muốn tìm kiếm : một phát hiện tuyệt đẹp - chủ yếu là khí, nhưng với một ít dầu. Tập đoàn Repsol tiếp tục thăm dò và hy vọng sẽ khoan hết toàn bộ độ sâu của giếng này vào cuối tháng 7.
Bộ Chính trị Việt Nam đã họp bàn để thảo luận về những việc cần làm. Giá dầu thấp và sản lượng giảm từ các mỏ ngoài khơi đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngân sách của chính phủ. Việt Nam cần năng lượng giá rẻ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì quyền lực và vai trò của Đảng Cộng sản.
Không ai có thể biết được những quyết định lớn lao được tiến hành ra sao ở Việt Nam, nhưng từ chuyện ngừng khoan dầu của Repsol, có thể thấy rõ ràng rằng Bộ Chính trị đang bị chia rẽ hết sức nghiêm trọng. Trong số 19 ủy viên, thì 17 người đồng ý chỉ trích Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc chỉ giả vờ đe dọa. Chỉ có 2 người không đồng ý phản đối Trung Quốc, nhưng 2 người này lại có ảnh hưởng lớn nhất trong Bộ chính trị, đó là : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.
Sau hai cuộc họp căng thẳng vào giữa tháng 7, quyết định được đưa ra : Việt Nam chấp nhận rút lui trước Trung Quốc và chấm dứt khoan thăm dò. Cũng theo các nguồn tin trên, quyết định dựa trên lập luận là Hà Nội không thể dựa vào sự giúp đỡ của chính quyền Trump trong trường hợp hai nước xảy ra xung đột trên Biển Đông.
Ý nghĩa chiến thắng của Trung Quốc trong tranh chấp với Việt Nam là hiển nhiên. Bất kể luật pháp quốc tế, Trung Quốc sẽ tự ý thiết lập các quy tắc ở Biển Đông. Trung Quốc sẽ áp đặt chủ quyền gọi là “lịch sử” hay “sở hữu chung” lên Biển Đông. Bắc Kinh sẽ quyết định nước nào có quyền khai thác tài nguyên gì. Nếu Bắc Kinh có thể đe dọa Việt Nam, thì họ có thể đe dọa tất cả các nước còn lại trong vụ tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Repsol hiện đang chuẩn bị giăng buồm rời bỏ tổng vốn đầu tư hơn 300 triệu USD. Các báo cáo từ khu vực cho biết chiếc tàu khảo sát địa chấn của Trung Quốc, HYSY760, được bảo vệ bởi một đội tàu nhỏ, đang trên đường đến cùng một khu vực để kiểm tra triển vọng dầu khí. Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS đã bị đảo ngược, và những phán quyết của tòa án cũng bị che giấu. Hà Nội nghĩ có được sự bảo hộ của Washington, sẽ khiến Trung Quốc phải chùn bước. Nhưng thay vào đó, Trump đã rời khỏi Biển Đông, trôi dạt theo hướng của Bắc Kinh.
Bill Hayton
Mai V. Phạm chuyển dịch
Nguồn : http://foreignpolicy.com, “The Week Donald Trump Lost The South China Sea”
BBC Tiếng Việt phỏng vấn phóng viên Bill Hayton, tác giả bài viết VN ngừng khoan dầu khí ở Biển Đông về một số vấn đề liên quan tới sự kiện này :
BBC tiếng Việt : Theo nghiên cứu của ông thì vị trí chính xác của dự án Repsol nằm ở đâu, cách bao xa tính từ đảo chính là đảo Trường Sa ?
Bill Hayton : Repsol hiện đang có một số dự án dầu khí khác nhau tại Việt Nam. Dự án vừa phải ngưng là nằm trong Lô 136-03, ở rìa đông nam của vùng Việt Nam tuyên bố là Đặc quyền Kinh tế. Các bạn xem bản đồ dưới đây để biết vị trí chính xác.
Bản quyền hình ảnh OTHER
Một nguồn tin nói với tôi rằng tại khu vực lô 136-03, người ta đã tìm được khí tự nhiên và một ít dầu, nhưng công tác khoan vẫn chưa đạt tổng độ sâu (Total Depth). Nguồn tin này cho biết chính phủ Việt Nam đã gây áp lực, muốn Talisman-Vietnam phải tìm lí do kỹ thuật nào đó để có cớ ngưng sớm việc khoan tìm dầu.
Tuy nhiên, phía Talisman nói với giới chức Việt Nam rằng giếng khoan hoàn toàn tốt, không có lí do kỹ thuật nào cản trở công việc hết. Cuối cùng, chính phủ đã ra lệnh cho nhà thầu này phải chấm dứt hoạt động chừng một tuần trước khi mũi khoan theo kế hoạch sẽ đạt tổng độ sâu.
BBC tiếng Việt : Nếu như nó nằm quanh khu vực Bãi Tư chính, thì liệu điều đó có đồng nghĩa với việc chúng ta đang chứng kiến tình trạng căng thẳng hồi 2014, khi mà có một số nguồn tin nói rằng các tàu thuyền Trung Quốc cũng đã tiếp cận các cụm khu vực nhà giàn do Việt Nam xây dựng ở cùng khu vực không ?
Bill Hayton : Tôi không rõ chuyện này.
BBC tiếng Việt : Trong bài viết, khi dùng cụm từ "các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa" trong câu "giới lãnh đạo Repsol được chính phủ tại Hà Nội thông báo vào tuần trước rằng Trung Quốc đã đe dọa sẽ tấn công các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu không dừng việc khoan thăm dò", ông muốn nói cụ thể tới các căn cứ nào ?
Bill Hayton : Nguồn tin của tôi không nêu chi tiết.
BBC tiếng Việt : Vị trí của lô khai thác khí đốt này nằm hoàn toàn trong vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam ? Và theo Công ước Liên Hiệp quốc thì Việt Nam có quyền khai thác tài nguyên tại đó ?
Bill Hayton : Nếu diễn giải theo Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp quốc UNCLOS thì đúng vậy. Những logic mà phán quyết của Tòa trọng tài Thường trực đưa ra hồi năm ngoái cũng xác nhận điều này, tuy nói một cách chặt chẽ thì phán quyết này chỉ có giá trị ràng buộc đối với Trung Quốc và Philippines. Trung Quốc chưa bao giờ nêu rõ cơ sở để họ đưa ra các đòi hỏi đó. Một số người nói rằng Bắc Kinh đòi hỏi dựa trên các quyền lịch sử ở khu vực, một số người khác nói họ tuyên bố vùng Đặc quyền Kinh tế dựa vào quần đảo Trường Sa như một cụm khu vực. Cả hai lập luận này đều không phù hợp với UNCLOS và cả hai đều bị Tòa Trọng tài bác bỏ.
BBC tiếng Việt : Một số chuyên gia đã nêu câu hỏi về khả năng Việt Nam phải bồi thường cho đối tác dầu khí Tây Ban Nha. Theo những gì ông biết thì liệu đây có phải là điều sẽ xảy ra đối với trường hợp Repsol không ?
Bill Hayton : Khó để nói nếu ta không nắm được nội dung hợp đồng kí kết giữa hai bên. Tuy nhiên, Repsol đã chi một khoản tiền lớn cho Talisman và đã chi thêm nhiều triệu đô la vào việc thăm dò ở Lô 136-03. Có con số ước tính đưa ra rằng Repsol và các hãng hoạt động trước đó đã đầu tư khoảng 300 triệu đô la vào khu vực này.
BBC tiếng Việt : Có ý kiến cho rằng lịch họp của Đại hội Đảng Trung Quốc có thể là một yếu tố khiến Hải quân Trung Quốc hạn chế các hoạt động tại Biển Đông nhằm tránh đối đầu với các nước như Việt Nam. Ông có nghĩ là cái nhìn này vẫn đúng ở thời điểm hiện tại ?
Bill Hayton : Nếu là tuần trước thì tôi cũng nghĩ vậy. Vào thời điểm này thì tôi không còn chắc nữa.
Bill Hayton
Nguồn : BBC, 26/07/2017
Bill Hayton ngoài công việc tại BBC News còn là nhà nghiên cứu tại Viện Chatham House, một thinktank hàng đầu về chính trị quốc tế tại London. Ông đã xuất bản hai cuốn sách 'The South China Sea : the struggle for power in Asia' (2014) và 'Vietnam : rising dragon' (2010).