Mỹ, Nhật, Úc kêu gọi COC có tính ràng buộc pháp lý (VOA, 07/08/2017)
Mỹ, Nhật và Úc hôm 7/8 thúc giục các nước Đông Nam Á và Trung Quốc bảo đảm rằng bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông mà họ cam kết soạn ra sẽ có tính ràng buộc pháp lý, theo tin của Reuters phát đi từ Manila.
Ngoại trưởng các nước chụp ảnh trước Hội nghị Ngoại trưởng Đông Á ở Philippines, 7/8/2017
Tin cho hay ba cường quốc cũng nói họ mạnh mẽ phản đối những hành động cưỡng ép đơn phương.
Mỹ, Nhật và Úc không phải là những bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, nơi có tranh chấp giữa 5 bên gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei.
Tuy nhiên, Mỹ, Nhật và Úc lâu nay vẫn có nhiều tuyên bố về vùng biển với lập luận rằng họ có lợi ích trong việc bảo đảm tự do hàng hải và hàng không ở đó.
Ngoại trưởng 3 nước kể trên đã ra tuyên bố sau một cuộc họp ở Manila nói rằng khối các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc cần thiết lập một bộ quy định "có tính ràng buộc pháp lý, có ý nghĩa, có hiệu lực, và nhất quán với luật quốc tế".
Hôm 6/8, các ngoại trưởng của ASEAN và Trung Quốc đã thông qua văn kiện khung liên quan đến việc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử (COC).
Văn kiện khung này nêu khái quát về cách thức Trung Quốc và ASEAN đàm phán về một thỏa thuận chính thức. Việc đàm phán có thể bắt đầu trong phần còn lại của năm nay.
Chuyên gia về Biển Đông Hoàng Việt nói với VOA từ thành phố Hồ Chí Minh về ý nghĩa của việc 3 cường quốc đề nghị COC phải có tính pháp lý :
"Ba quốc gia mà họ lên tiếng thể hiện cái điều là muốn hay không muốn các cường quốc vẫn phải quan tâm đến vấn đề Biển Đông. Việc phát biểu đó cho thấy, một là Hoa Kỳ cũng phải quan tâm bởi vì nó gắn liền lợi ích Hoa Kỳ ở đó. Thứ hai là kể cả Australia, mặc dù không phải là một bên tranh chấp Biển Đông, nhưng Australia cũng là một quốc gia quan tâm vì nó cũng ảnh hưởng rất nhiều lợi ích của Australia trong đó. Đối với Nhật Bản thì đương nhiên. Nhật Bản có những lo lắng đặc biệt, bởi vì căng thẳng trên Biển Đông sẽ tác động rất nhiều đến Biển Hoa Đông cũng như mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc".
Thạc sĩ Hoàng Việt nhận định khi các cường quốc lên tiếng và nếu đi kèm theo đó là những hành động gây sức ép, điều đó sẽ giúp thúc đẩy tiến trình đàm phán COC nhanh hơn.
Mặc dù vậy, ông cũng lưu ý rằng việc chính quyền của Tổng thống Trump đang có những xáo trộn nội bộ, và việc chính quyền Mỹ chưa đưa ra chính sách đối ngoại rõ ràng làm cho khó dự báo về tiến trình đàm phán COC.
Trong khối ASEAN, một số nước trong đó có Việt Nam cũng muốn COC có tính ràng buộc pháp lý, khả dĩ thực thi và có một cơ chế giải quyết tranh chấp.
Một số chuyên gia nước ngoài nói Trung Quốc có thể không chấp nhận điều đó. Họ cũng nhận xét rằng việc Trung Quốc đồng ý đàm phán về COC có thể là một chiến thuật câu giờ để họ tiếp tục xây đảo và quân sự hóa ở Biển Đông.
Tuy nhiên, chuyên gia Hoàng Việt đưa ra ý kiến ngược lại :
"Tôi nghĩ Trung Quốc không câu giờ. Bởi vì Trung Quốc trước đây ở thế yếu, nhưng bây giờ Trung Quốc đã chuyển sang thế mạnh. Nghiên cứu về hành vi của Trung Quốc cho chúng ta thấy là sau khi Trung Quốc có một thế tương đối vững thì Trung Quốc sẽ xuống nước để Trung Quốc sẽ ký kết. Để làm gì ? Một mặt, Trung Quốc tỏ ra rằng Trung Quốc luôn luôn có thiện chí. Thứ hai, Trung Quốc muốn dựa vào đấy để ngăn cản các quốc gia khác bồi lấp, xây đảo nhân tạo như của mình".
Bản tin Reuters ngày 7/8 tường thuật rằng Jay Batongbacal, một chuyên gia về Biển Đông tại Đại học Tổng hợp Philippines, nói với kênh tin ANC rằng việc các bên thông qua văn kiện khung đã trao cho Trung Quốc lợi thế chiến lược vô cùng to lớn, đó là họ sẽ có thể quyết định khi nào tiến trình đàm phán có thể bắt đầu.
Lúc này, cùng với lời kêu gọi COC phải có tính ràng buộc pháp lý, ba nước Mỹ, Nhật và Úc cung thúc giục các bên kiềm chế, không bồi lấp, xây dựng các tiền đồn và quân sự hóa các thực thế có tranh chấp, ý nói đến việc Trung Quốc đã mở rộng khả năng phòng thủ ở Đá Vành Khăn, Chữ Thập và Su Bi thuộc quần đảo Trường Sa.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị hôm 6/8 nói điều đó phụ thuộc vào tình hình có ổn định hay không có sự can thiệp lớn từ bên ngoài vào hay không.
*****************
ASEAN, Trung Quốc thông qua khung quy tắc ứng xử trên Biển Đông (VOA, 06/08/2017)
Các ngoại trưởng Đông Nam Á và Trung Quốc hôm 6/8 thông qua văn kiện khung về đàm phán một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Họ ca ngợi động thái này là một tiến bộ, nhưng những người chỉ trích cho rằng đây là một chiến thuật câu giờ của Trung Quốc để nước này củng cố sức mạnh trên biển của mình.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị gặp báo chí khi dự hội nghị với khối ASEAN, 6/8/2017
Văn kiện khung nhắm đến việc thúc đẩy Tuyên bố về quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông, gọi tắc là DOC, đã được đưa ra hồi năm 2002.
Hầu như các bên có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đều lờ đi DOC, nhất là Trung Quốc. Nước này đã xây 7 đảo nhân tạo ở vùng biển có tranh chấp.
Các bên nói văn kiện khung chỉ là một bản khái quát về cách thức bộ quy tắc ứng xử sẽ được thiết lập. Nhưng những người chỉ trích nói việc không nêu khái quát về mục tiêu ban đầu, sự cần thiết phải làm cho bộ quy tắc có tính ràng buộc pháp lý và có thể cưỡng hành, hay có một cơ chế giải quyết tranh chấp là những điều gây nghi ngờ về mức độ hiệu lực của bộ quy tắc.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị nói việc thông qua văn kiện khung tạo ra cơ sở vững chắc để đàm phán có thể bắt đầu trong năm nay.
Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei đều có tuyên bố chủ quyền về toàn bộ hoặc từng phần Biển Đông.
Một số nhà ngoại giao và những người chỉ trích tin rằng việc Trung Quốc đột nhiên quan tâm đến bộ quy tắc sau 15 năm trì hoãn là có mục đích kéo dài quá trình đàm phán để câu giờ cho việc hoàn thành những mục tiêu chiến lược của họ ở Biển Đông.
Một số người cho rằng bộ quy tắc được thúc đẩy vào lúc Mỹ, nước lâu nay được coi là có vai trò quan trọng trong việc ngăn cản những đòi hỏi hàng hải của Trung Quốc, đang bị phân tán vì các vấn đề khác và không đưa ra quan điểm rõ ràng về chiến lược an ninh của Mỹ ở Châu Á, vì vậy làm suy yếu vị thế đàm phán của ASEAN.
Văn kiện khung chưa được công bố, nhưng một văn bản dài 2 trang mà Reuters tiếp cận được cho thấy nó khá khái quát và có nhiều điểm dẫn đến bất đồng.
Ví dụ, nó kêu gọi các bên cam kết với "các mục đích và nguyên tắc" của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, nhưng không quy định việc tuân thủ.
Một số nước ASEAN, kể cả Việt Nam và Philippines, lâu nay nói họ vẫn muốn làm cho bộ quy tắc có tính ràng buộc pháp lý, điều mà theo các chuyên gia sẽ ít có cơ hội được Trung Quốc chấp nhận.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị nói ông không cố tiên liệu về nội dung bộ quy tắc, nhưng ông cũng nói bất cứ điều gì được ký kết cũng phải được tuân theo.
Người phát ngôn Bộ ngoại giao nước chủ nhà Philippines Robespierre Bolivar nói việc thông qua văn kiện khung là biểu tượng của cam kết tạo ra một bộ quy tắc "thực chất và có hiệu lực".
(theo Reuters)
Mỹ, Nhật, Úc lên tiếng chống Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông (RFI, 07/08/2017)
Trái với ngôn từ thận trọng của ASEAN, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc vào hôm 07/08/2017, đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông trong một thông điệp nhắm vào Trung Quốc. Thông cáo chung của ba nước đã phụ họa thêm cho lời kêu gọi của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á trong bản Thông Cáo Chung ASEAN công bố khuya hôm qua, yêu cầu các bên tranh chấp ở Biển Đông "tự kềm chế và không quân sự hóa" vùng biển này.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (trái) và ngoại trưởng Nhật Taro Kono (giữa) và tổng thứ ký ASEAN Lê Lương Minh tại diễn đàn ASEAN, Manila, Philippines ngày 7/8/2017. REUTERS/Mohd Rasfan/Pool
Sau cuộc họp bên lề các hội nghị của ASEAN tại Manila, ba ngoại trưởng Mỹ, Nhật và Úc đã không ngần ngại tố cáo các hành vi "bồi đắp đảo, xây dựng tiền đồn, quân sự hóa các thực thể đang bị tranh chấp" tại Biển Đông.
Ba nước cũng cho rằng mọi quy tắc ứng xử trên Biển Đông phải "mang tính chất ràng buộc về mặt pháp lý, có thực chất và hiệu quả".
Các ngoại trưởng Mỹ, Úc và Nhật còn kêu gọi Trung Quốc và Philippines tôn trọng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye vào năm ngoái 2016 phủ nhận đại bộ phận các yêu sách của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Theo hãng tin Pháp AFP, lời lẽ trong bản thông cáo chung Mỹ-Nhật-Úc cứng rắn hơn nhiều so với bản Thông Cáo Chung của Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN được công bố khuya hôm qua. Văn bản của ASEAN đã không dám chỉ trích Trung Quốc, không nói gì về sự cần thiết của một bộ quy tắc ứng xử mang tính chất ràng buộc về pháp lý, cũng như hầu như hoàn toàn im lặng về phán quyết của tòa La Haye về Biển Đông.
Tuy nhiên, bản Thông Cáo Chung của các ngoại trưởng ASEAN cũng được một số nhà quan sát đánh giá là cứng rắn hơn với Trung Quốc so với dự thảo đầu tiên mà Philippines nước chủ nhà đưa ra. Ngôn từ cứng rắn hơn là do Việt Nam kiên quyết muốn đưa vào văn kiện chung của toàn khối một số câu chữ gợi đến hành vi bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc, điều mà Bắc Kinh không hề muốn.
Tranh cãi đặc biệt gay gắt giữa Việt Nam và Cam Bốt, mà nhiều nguồn tin cho là kiên quyết bảo vệ lập trường Trung Quốc, đã ngăn chặn việc đúc kết bản Thông Cáo Chung ASEAN, và phải mất thêm 24 tiếng đồng hồ thì các nước mới tìm được đồng thuận.
Theo hãng tin Mỹ AP, Thông Cáo Chung Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN AMM-50 đã gián tiếp chỉ trích các hành động đắp đảo, xây đồn của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như gợi lên một cách mơ hồ phán quyết quốc tế về Biển Đông. Cả hai điểm này đều thiếu vắng trong dự thảo ban đầu của bản thông cáo chung.
Một cách cụ thể, phần nói về Biển Đông đã "ghi nhận những lo ngại của một số bộ trưởng ASEAN về vấn đề bồi đắp đảo và những hoạt động trong khu vực có thể làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và hủy hoại hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực".
Bản thông cáo cũng "nhấn mạnh tầm quan trọng của việc không quân sự hóa và tự kềm chế"không có các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình.
Văn kiện này có lời lẽ mạnh mẽ hơn so với bản thông cáo chung Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN hồi tháng Tư, bị cho là đã xóa bỏ toàn bộ những yếu tố có thể làm Trung Quốc phật ý.
Trọng Nghĩa
***************
Trung Quốc 'bực bội vì hành động của Việt Nam ở ASEAN' (BBC, 07/08/2017)
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị vào phút chót đã hủy một cuộc họp với Phó Thủ tướng, Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh cuối ngày thứ Hai 7/8 tại kỳ họp Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ở Manila.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tại cuộc họp ở Manila ngày 6/8
Cả Bloomberg và báo South China Morning Post đưa tin này.
Ông Vương Nghị lẽ ra sẽ gặp ông Phạm Bình Minh bên lề cuộc họp ngoại trưởng ASEAN, nhưng một nhà ngoại giao Trung Quốc nói cuộc gặp không diễn ra, theo báo South China Morning Post.
Trung Quốc được cho là phật lòng vì từ ngữ trong bản thông cáo chung của các bộ trưởng ngoại giao ASEAN. Thông cáo này bày tỏ quan ngại về bồi đắp lấn biển trên những hòn đảo có tranh chấp về chủ quyền, Bloomberg trích lời một số nguồn.
Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh ở Manila ngày 6/8
Trung Quốc cho rằng Việt Nam là nước đã vận động đưa từ ngữ này vào bản thông cáo.
Bản thông cáo nói một số ngoại trưởng trong nhóm ASEAN bày tỏ quan ngại về "bồi đắp lấn biển" và "các hoạt động ở khu vực, làm xói mòn lòng tin, làm gia tăng căng thẳng, và có thể đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định tại khu vực".
Theo Bloomberg, một người phát ngôn trong phái đoàn Trung Quốc nói cuộc họp riêng giữa hai ngoại trưởng Việt Nam và Trung Quốc không phải là cơ hội duy nhất cho hai bên thảo luận.
Cả hai ngoại trưởng đều tham gia vào các cuộc gặp đa phương khác tại Manila, trong đó có cuộc họp giữa Trung Quốc và 10 ngoại trưởng ASEAN, vẫn theo Bloomberg.
Xu Liping, nhà nghiên cứu từ Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc, nói Bắc Kinh phật lòng vì thái độ của Việt Nam.
"Việc hủy gặp có thể xem là cảnh báo cho Việt Nam", người này nói.
Tân Hoa Xã của Trung Quốc đăng bài nói nỗ lực của Việt Nam để có ngôn ngữ mạnh mẽ hơn của ASEAN là "đầu độc" tình hình trên Biển Đông.
********************
Ngoại trưởng Philippines Alan Peter Cayetano chào đón bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN lần thứ 50 Manila, Philippines, ngày 05/08/2017.Reuters
Cam Bốt quyết liệt bảo vệ lập trường của Trung Quốc tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN. Cho đến trưa chủ nhật 06/08/2017, các nước Đông Nam Á họp tại Manila vẫn không tìm được một thái độ chung trước chính sách bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Các nguồn tin ngoại giao xác nhận với AFP là 10 ngoại trưởng ASEAN không thể công bố một bản thông báo chung như dự kiến sau cuộc họp ngày thứ Bảy 05/08/2017. Cuộc đàm phán vào sáng Chủ nhật cũng không đả thông được tình trạng bế tắc và chia rẽ nội bộ.
Trong khi Bắc Kinh tranh đoạt hơn 80% diện tích Biển Đông lấn sâu đến tận duyên hải của bốn nước Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei, thì một lần nữa thành viên ASEAN Cam Bốt bênh vực Trung Quốc, cản trở các nước nạn nhân lên tiếng phản đối.
Theo các nguồn tin này, bản thân Việt Nam "không dám kích động", nước chủ nhà Philippines cố tìm "thỏa hiệp", còn Cam Bốt của thủ tướng Hun Sen thì tận lực "đạp thắng chân lẫn kéo thắng tay".
Cũng theo AFP, quan chức cao cấp của các phái đoàn ASEAN tiếp tục thảo luận về hồ sơ Biển Đông vào trưa hôm nay (06/08) trong khi các ngoại trưởng tham gia một loạt cuộc tiếp xúc với các đồng cấp Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương.
Tiếp theo sẽ là Diễn Đàn An Ninh Khu Vực ASEAN (ARF) với sự tham dự của nhiều nước trong đó đặc biệt có Mỹ, Trung Quốc, Nga và Bắc Triều Tiên. Nhiều vấn đề quốc tế và khu vực như căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, tình hình Biển Đông và cuộc chiến chống khủng bố sẽ được đưa ra bàn luận.
Còn theo Reuters, trong cuộc họp báo, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố tình hình "biển Nam Hải có tiến triển" và 10 nước ASEAN cùng Trung Quốc sẽ bắt đầu tiến trình "thương lượng một bản quy tắc giao thông hàng hải ngay
Tú Anh
********************
ASEAN không có thông cáo chung 'do Việt Nam' (BBC, 05/08/2017)
Ngoại trưởng các nước ASEAN không đưa ra được thông cáo chung thường lệ cuối ngày làm việc thứ Bảy 5/8 vì không đạt được sự đồng thuận về ngôn từ liên quan các tranh chấp ở Biển Đông, hãng tin Anh Reuters cho hay.
Phó thủ tướng Phạm Bình Minh (áo xanh) đã nỗ lực vận động các nước ASEAN thay đổi lập trường về Biển Đông và Trung Quốc
Các nhà ngoại giao từ ba nước ASEAN nói sự chậm trễ là do Việt Nam muốn thông cáo đề cập việc cần tránh các hoạt động 'bồi đắp lấn biển' và 'quân sự hóa'.
Nhiều năm nay, Biển Đông luôn là vấn đề gai góc nhất cho các nước ASEAN. Các nước có quan điểm khác nhau về cách lên tiếng về sự khẳng định chủ quyền, các tòa nhà và quân sự hóa các đảo nhân tạo của Trung Quốc trong các vùng biển có tranh chấp.
Người phát ngôn bộ ngoại giao Phillipines Robespierre Bolivar không nói rõ lý do vì sao thông cáo chung bị chậm trễ. Ông chỉ nói thông cáo sẽ được phát khi các cuộc hội đàm đã kết thúc trong vài ngày tới.
"Thông cáo chung sẽ được đưa ra cùng tất cả các tuyên bố của ngài chủ tịch vào cuối tất cả các cuộc hội đàm", ông nói.
Ngoại trưởng Philippines Alan Peter Cayetano và Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi thảo luận nội dung tài liệu dự thảo tại Kỳ họp thường niên các ngoại trưởng ASEAN tại Manila hôm 5/8/2017
Khó khăn của ASEAN trong việc nhất trí ngôn từ cho thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở thời điểm các nước trong khu vực chưa rõ liệu Mỹ có ưu tiên quan hệ với ASEAN, và nỗ lực kiểm soát những hoạt động hàng hải gây tranh cãi của Bắc Kinh.
Bản dự thảo thông cáo mà các nước thảo luận hôm thứ Năm 3/8 không có dẫn chiếu đến cả hai điều trên.
Trung Quốc hết sức nhạy cảm về chuyện các nước ASEAN nói tới việc nước này tăng cường khả năng quân sự ở các đảo ngoài Biển Đông. Một số nước thành viên ASEAN lo ngại phải chịu hệ lụy nếu họ làm phật lòng Trung Quốc.
"Chỉ còn Việt Nam là còn chưa đồng ý. Có thể, vào ngày mai, mọi chuyện sẽ được dàn xếp ổn thỏa", một nhà ngoại giao tham gia vào quá trình viết dự thảo thông cáo cho Reuters biết.
Trước khi kỳ họp chính thức bắt đầu, Việt Nam đã nỗ lực kêu gọi các quốc gia Đông Nam Á có một lập trường mạnh mẽ hơn về 'sự bành trướng' của Trung Quốc ở Biển Đông.
Việt Nam vào tối 4/8 đã cố gắng vận động để bổ sung ngôn ngữ cứng rắn hơn đối với Trung Quốc trong thông cáo chung của ASEAN, dự kiến sẽ đưa ra sau khi các ngoại trưởng Đông Nam Á kết thúc phiên hội đàm ngày 5/8.
Theo một bản dự thảo của AFP có được, Việt Nam vận động ASEAN thể hiện sự quan ngại sâu sắc về "việc xây dựng" trên biển, ám chỉ các hòn đảo nhân tạo của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp trong những năm gần đây.
Bản đồ Biển Đông với hình Đường Chín Đoạn do Trung Quốc nêu ra để đòi chủ quyền toàn bộ vùng này
Việt Nam cũng muốn ASEAN nhấn mạnh trong tuyên bố rằng Bộ Quy tắc Ứng xử với Trung Quốc sẽ là "ràng buộc pháp lý".
Nhưng các nhà phân tích an ninh chỉ ra rằng khuôn khổ Bộ quy tắc Ứng xử chỉ đi vào thực hành 15 năm sau cuộc hội đàm và Trung Quốc sẽ sử dụng thời gian đó để củng cố tuyên bố chủ quyền với các hòn đảo nhân tạo.
Cuộc vận động diễn ra khi các bộ trưởng ngoại giao ASEAN có các cuộc hội đàm không chính thức vào khuya đêm thứ Sáu, 4/8.
Nhiều nhà ngoại giao nói rằng Việt Nam chắc chắn sẽ thất bại trong việc sử dụng ngôn ngữ cứng rắn phản đối Trung Quốc. Với việc đăng cai tổ chức diễn đàn, Philippines có tầm ảnh hưởng lớn.
Điều này cho thấy căng thẳng ngoại giao sẽ sôi sục tại thủ đô Philipines, với các nhà ngoại giao hàng đầu từ Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga và Bắc Hàn và các đối tác Châu Á - Thái Bình Dương khác cũng tham gia vào các cuộc hội đàm về an ninh hôm 6/8.
Quan ngại về đe dọa tới an ninh vùng được cho là sẽ làm lu mờ tranh chấp tại Biển Đông
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ vùng biển quan trọng về chiến lược, bao gồm vùng biển sát bờ biển Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Trung Quốc trong những năm gần đây đã mở rộng sự hiện diện của mình trên biển bằng cách xây dựng các hòn đảo nhân tạo có khả năng giữ các căn cứ quân sự.
Cùng với Việt Nam, Philippines từng là nhà phê phán mạnh mẽ nhất về sự bành trướng của Bắc Kinh.
Nhưng dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte, Manila đã tìm cách làm dịu tranh chấp với Trung Quốc để đổi lấy hàng tỷ đôla đầu tư và viện trợ.
Cơ sở của Trung Quốc trên Đá Chữ Thập, theo ảnh chụp từ vệ tinh hôm 3/2017, cho thấy Bắc Kinh sẽ có khả năng triển khai máy bay chiến đấu và các thiết bị quân sự khác từ đảo nhân tạo này
Trung Quốc trong những năm gần đây cũng đã vận động thành công các quốc gia ASEAN khác, đặc biệt là Campuchia và Lào, để hỗ trợ vận động ngoại giao trong tranh chấp.
ASEAN được tổ chức vào cuối tuần này xác nhận khuôn khổ cho một bộ quy tắc ứng xử cho hành động cụ thể hơn với Trung Quốc.
Mỹ biến đảo Guam thành tiền đồn chống Trung Quốc ở Châu Á ?
Châu Á tuần này khá được các tạp chí Pháp chú ý. Nổi bật là tờ Le Point với hồ sơ chính cho Trung Quốc, với câu hỏi "Phải chăng ông Tập (Cận Bình) là bá chủ thế giới ?", bên trên ảnh lớn của chủ tịch Trung Quốc trong quân phục rằn ri dữ dằn.
Guam, căn cứ quân sự Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Ảnh militarybases.co
Ở trang trong, Le Point đã có một phóng sự dài thực hiện ngay tại đảo Guam, phân tích về mưu đồ bá chủ Biển Đông của Trung Quốc và cố gắng đối phó của Mỹ bằng cách củng cố tiền đồn của mình là đảo Guam.
Trong hồ sơ chính của mình, Le Point đã phân tích nhiều về chủ nhân ông của Trung Quốc hiện nay là Tập Cận Bình, và người đã truyền cảm hứng cho ông ta là đại tá về hưu Lưu Minh Phúc (Liu Mingfu), tác giả một quyển sách đang bán rất chạy ở Trung Quốc hiện nay : "Giấc mơ Trung Hoa", xác định rằng "Giấc mơ Trung Hoa là vượt qua Hoa Kỳ, chúng ta không thể hài lòng với vị trí thứ hai. Chúng ta sẽ đạt được điều đó trong 20-30 năm tới đây".
Theo Le Point, để đạt mục tiêu đó, Trung Quốc chẳng hạn, đang thực hiện một dự án khổng lồ ở tận nước Lào, san bằng bảy ngọn đồi để có được 10.000 ha đất. Boten - tên của dự án đó – "sẽ trở thành một trung tâm giao thương nhờ việc xây dựng hai con đường, một tuyến đường sắt nối liền Bắc Kinh-Bangkok và Singapore vào năm 2025, và một đường cao tốc băng qua khu Tam Giác Vàng trước khi chạy xuống vùng đồng bằng Thái Lan, đến tận Bangkok".
Le Point đặc biệt chú ý đến cục diện mới ở Biển Đông trong bài phóng sự của Sébastien Falletti thực hiện ngay tại đảo Guam, mà tạp chí mệnh danh là "tiền đồn của Mỹ tại vùng Thái Bình Dương". Le Point ghi nhận là hòn đảo này chính là nơi mà chiếc B29 Enola Gay đã cất cánh, mang theo quả bom nguyên tử thả xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản ngày 06/08/1945. Ngày nay, đối thủ của Washington không còn là Tokyo, mà là Bắc Kinh và Bình Nhưỡng.
Với Tập Cận Bình, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã gia tăng hành động tại Biển Đông, nơi họ đòi chủ quyền trên 90% diện tích thông qua một bản đồ hình lưỡi bò, không cần đếm xỉa đến những tuyên bố chủ quyền của các láng giềng Việt Nam, Philippines, Malaysia hay Brunei. Kể từ năm 2014, Quân Đội Trung Quốc đã biến 7 rạn san hộ tại đấy thành đảo nhân tạo dưới sự chứng kiến bất lực của chính quyền Barack Obama.
Chỉ trong vòng vài tháng, các rạn san hô như Đá Chữ Thập (Fiery Cross) hay Gạc Ma (South Johnson) đã biến thành tiền đồn trên đại dương với phi đạo, nhà kho, bến cảng, vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và chuẩn mực môi trường. Bắc Kinh lớn tiếng thề rằng đó là các cơ sở hạ tầng dân sự, và chủ tịch Trung Quốc hứa sẽ không quân sự hóa quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Các cam kết đó có vẻ hoàn toàn vô giá trị vào lúc hình ảnh vệ tinh cho thấy súng phòng không được lắp đặt trên bảy hòn đảo nhân tạo.
Khi bị chỉ trích, Bộ quốc phòng Trung Quốc đã đáp trả : "Nếu ai đó đến réo chuông trước cửa nhà bạn với thái độ ngạo mạn thì bạn không đề phòng sao ?". Bắc Kinh đã đòi Hoa Kỳ đình chỉ ngay lập tức các chiến dịch bảo vệ quyền tự do hàng hải và bản chất quốc tế của Biển Đông, mà Hải Quân Mỹ đã tiến hành trong vùng.
Theo Le Point, sự tăng vọt của các tiền đồn Trung Quốc ở vùng biển chiến lược này, cộng thêm với một chương trình phát triển tàu ngầm hạt nhân đang tăng tốc, đã nuôi dưỡng sự lo ngại của Mỹ về một khả năng tồi tệ nhất : đó là Biển Đông trở thành "ao nhà" của Trung Quốc, nơi Hải Quân Mỹ bị cấm vào.
Mỹ củng cố đảo Guam thành căn cứ chính của thủy quân lục chiến
Chính trong bối cảnh đó mà theo Le Point, Mỹ đang có kế hoạch cho lực lượng thủy quân lục chiến tinh nhuệ của mình rầm rộ quay lại đảo Guam, một nơi được Lầu Năm Góc cho là có vị trí chiến lược thiết yếu trong thế kỷ 21 này, một căn cứ hậu cần thiết yếu để bảo đảm tuyến liên lạc giữa vùng California ở Mỹ cách đấy 9.000 km, với Châu Á đang trở thành buồng phổi của nền kinh tế thế giới.
Theo ghi nhận của Le Point, từ nay đến năm 2020, Guam sẽ trở thành căn cứ chính của thủy quân lục chiến Mỹ tại Châu Á, với hơn 5.000 quân, phối hợp với một lực lượng không nhỏ của Không Quân và Hải Quân Mỹ cũng được tăng cường, để đưa tổng cộng số linh Mỹ trên đảo lên thành 14.000 người.
Hiện nay, Guam đã trở thành nơi mà các hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử Mỹ có thể ghé để được tiếp tế, trên đảo có vô số ăng ten vệ tinh cực mạnh để truyền đi hàng tỷ dữ liệu giữa Châu Á và Washington.
Luật pháp hay sức mạnh sẽ thắng trên Biển Đông ?
Cục diện sắp tới sẽ ra sao ? Nhận định của Le Point khá bi quan. Theo tạp chí Pháp, nhiều chuyên gia cho rằng ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực đang suy giảm, cho dù tân tổng thống Mỹ đã tỏ một số thái độ cứng rắn, thách thức Bắc Kinh về thương mại và Biển Đông.
Đối với các chuyên gia này, cho dù có hàng không mẫu hạm Mỹ vẫn tuần tra khu vực, ảnh hưởng của Mỹ chủ yếu thể hiện qua "quyền lực mềm" về kinh tế và văn hóa cũng như về quyết tâm bảo vệ đồng minh. Cả hai cột trụ này đều đang bị Donald Trump làm lung lay.
Le Point kết luận : Cuộc đọ sức trên Biển Đông không đơn thuần là cuộc chiến giành lấy một vài hòn đảo nhỏ, mà là một bài trắc nghiệm về trật tự thế giới trong thế kỷ 21, sẽ do luật pháp hay sức mạnh chi phối ? Việc Trung Quốc ngang nhiên chận bắt một chiếc tàu lặn không người lái của Mỹ vào tháng Giêng vừa qua là một lời cảnh báo, nhất là khi lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình, người muốn hiện thực hóa "giấc mơ Trung Hoa" lại không có thể tự do hành động, không thể nào lùi bước trên biển trước một dư luận trong nước đang muốn tái khẳng định sức mạnh có hàng thế kỷ trước đây của Thiên Triều.
"Những bạo chúa đang thách thức chúng ta"
Tuần báo Pháp L’Express cũng đề cập đến Châu Á trong hồ sơ chung giới thiệu chân dung một số nhà độc tài đang tại vị trên thế giới, mà L’Express không ngần ngại gọi là "bạo chúa – tyrans". Tờ báo đã dành trang bìa đăng ảnh Kim Jong-un để minh họa cho hồ sơ lớn "Những bạo chúa đang thách thức chúng ta", bên trên một tiểu tựa : "Từ Bắc Triều Tiên đến Syria, từ Venezuela đến Philippines".
Đối với L’Express, "các chế độ độc tài không giống nhau nhưng sống dai dẳng với thời gian. Một số thì đàn áp chính người dân của họ, một số khác thì không ngần ngại đe dọa hòa bình thế giới".
Trước khi đi vào chi tiết, tuần báo Pháp đã có một nhận định chung : đó là các nhà độc tài thường có quan hệ mật thiết với nhau, chúc tụng nhau mỗi khi có dịp. Chẳng hạn như nhân dịp nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro qua đời, đã có nhiều lời chia buồn tha thiết đến từ các "cảm tình viên" của nhà độc tài. Nếu Kim Jong-un của Bắc Triều Tiên thương tiếc "người bạn thân và một đồng chí", thì tổng thống Iran Hassan Rohani đã nói đến "một chiến binh không mệt mỏi". Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho rằng "đồng chí Castro sẽ đời đời sống mãi", trong lúc tổng thống Belarus Alexander Loukachenko thì nhắc tới "một người thân thiết và một nhà tư tưởng độc đáo".
L’Express đã dành nhiều trang, bài để mô tả một số "bạo chúa" đang cầm quyền trên hành tinh, mà đứng đầu danh sách là Kim Jong-un tại Bắc Triều Tiên. Theo nhận xét của tạp chí Pháp, bạo chúa Châu Á này đang là người đe dọa hòa bình thế giới với tên lửa liên lục địa của mình, và đã thiết lập một triều đại khủng bố trong nước...
L’Express dẫn số liệu của Liên Hiệp Quốc theo đó có từ 80.000 đến 120.000 người Bắc Triều Tiên bị cho là đang bị giữ trong các trại lao cải, một con số chưa từng thấy tại bất kỳ nước nào khác trên thế giới...
Một bạo chúa khác mà L’Express cho là "không cần phải giới thiệu" là Bashar al-Assad, tổng thống Syria. Theo tạp chí Pháp, để không bị cuốn theo làn sóng các "cuộc cách mạng Ả Rập" - đã lật đổ các chế độ độc tài cầm quyền tại Tunisia, Ai Cập và Libya vào năm 2011, tổng thống Syria đã khởi động một cuộc nội chiến với hậu quả khủng khiếp : "Sáu năm xung đột đã khiến hàng trăm ngàn người chết".
Tại Châu Mỹ thì có trường hợp của Venezuela, với đương kim tổng thống Nicolas Maduro, người lên kế nhiệm Hugo Chavez. Đối với L’Express, đất nước này đang đứng bên bờ vực của nội chiến.
Một bạo chúa khác – ít thu hút sự chú ý – là lãnh đạo Issayas Afewerki của xứ Châu Phi Erythrea, được L’Express mệnh danh là "kẻ thủ tiêu người ở xứ Erythrea". Là một người được đào tạo tại Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, Issayas Afewerki đã gieo rắc kinh hoàng trên cả nước và xô đẩy hàng trăm ngàn người dân bỏ xứ chạy qua nước khác lánh nạn. Một ví dụ : Năm 2016, người Erythrea chiếm 11,7% tổng số người tị nạn trôi dạt vào nước Ý.
Danh sách bạo chúa thời nay của L’Express còn bao gồm Rodrigo Duterte, tổng thống Philippines, Alexander Loukachenko, tổng thống Belarus, Gourbangouly Berdymoukhammedov, xứ Turkmenistan, hay Daniel Ortega, tổng thống Nicaragua, được xem là một nhà độc tài "mềm", Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe. Ngay cả tân vương Thái Lan Rama X, tước hiệu của thái tử Maha Vajiralongkorn, cũng bị L’Express đưa vào danh sách này.
Tại Anh Quốc, tuần báo The Economist cũng nhìn về tình hình Bắc Triều Tiên : Trên một bức họa vẽ một cụm khói hình nấm của bom nguyên tử, với tai nấm có hình dáng của Kim Jong-un và Donald Trump đang lườm nhau, tờ báo lo ngại "Điều đó có thể xẩy ra", điều đó ở đây là cuộc xung đột giữa hai nước đều có vũ khí hạt nhân.
Jeanne Moreau và cơn lốc cuộc đời
Trong các tuần báo lớn tại Pháp, có lẽ L’Obs là tờ duy nhất khai thác thời sự Pháp, với hồ sơ lớn trang bìa nói về minh tinh Jeanne Moreau vừa qua đời ở tuổi 89, và đặc biệt ở trang trong là phóng sự về "Cuộc sống về sau của họ – Leur vie d’après".
Về Jeanne Moreau, tạp chí Pháp đã đã đăng một bức ảnh đen trắng của nghệ sĩ, và ở bên trong, đã điểm qua những nét chính trong cuộc đời của Jeanne Moreau được ví với một cơn lốc xoáy, lấy ý từ bài hát "Le Tourbillon de la vie– Cơn lốc cuộc đời" đã từng khẳng định tài năng của Jeanne Moreau như là một ca sĩ, chứ không chỉ là diễn viên kịch hay điện ảnh.
Các cựu dân biểu nạn nhân của làn sóng Macron đang sống ra sao ?
Một bài viết độc đáo của L’Obs nằm ở trang trong, mang tựa đề bí hiểm "Cuộc sống về sau của họ – Leur vie d’après". Đối với L’Obs, "họ" ở đây là những cựu dân biểu Pháp đã bị làn sóng dân biểu của đảng Cộng Hòa Tiến Bước của tổng thống Emmanuel Macron cho về vườn.
Tạp chí Pháp quan tâm tìm hiểu là sau nhiều năm trời, có những người là cả chục năm trời, làm dân biểu, những người này hiện sinh sống và suy nghĩ ra sao.
Theo L’Obs, có một số người may mắn là công chức cao cấp, đã trở lại với công việc của mình trước lúc làm dân biểu. Đó là trường hợp của ông Henri Guaino, công chức Viện Kiểm Toán Cour des Comptes, hay bà Marisol Touraine, trở lại với công việc của mình ở Tham Chính Viện (Conseil d’Etat).
Nhưng cũng có người bị hụt hẫng, trước thay đổi một sớm một chiều, từ một nhân vật được nể trọng, có kẻ đưa người đón, nay phải tự làm mọi thứ. L’Express nêu trường hợp của Yann Galut, cựu dân biểu đảng Xã Hội. Nhân vật này đã công nhận như sau :
"Tôi đã phải tái lập một đường điện thoại riêng, tự mình mua vé tàu, đi tàu thì đi hạng hai, di chuyển trong thành phố thì dùng métro, ở khách sạn cũng phải tự mình đặt chỗ. Và khi tôi đến một nơi nào đó, không phải là người khác chờ tôi, mà chính tôi phải kiên nhẫn chờ người khác"…
Về tâm lý thì sao ? Bà Marie Récalde, một cựu nữ dân biểu khác thuộc đảng Xã Hội đã công nhận là bà được sống yên ổn, được tự do hơn trước, thế nhưng nhiều khi cũng cảm thấy thiếu thốn một cái gì đó : "Cuộc sống trước đây của tôi diễn ra theo nhịp độ các chuyến bay phải đi, các buổi họp phải dự, các buổi mít tinh cuối tuần. Giờ thì tôi có cảm giác thật trống trải, một kiểu thiếu thốn nào đó. Trong thực tế, chúng ta như bị nghiện, công việc đó chẳng khác gì ma túy".
Trọng Nghĩa
Ngày 08/08/2017, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis tiếp đồng nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch tại Lầu Năm Góc, Virginia. Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng sức ép tại Biển Đông, Hoa Kỳ cam kết củng cố hợp tác quân sự với Việt Nam và sẽ gửi một hàng không mẫu hạm đến thăm vào năm tới.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis (T) tiếp đồng nhiệm Việt Nam tướng Ngô Xuân Lịch, tại Lầu Năm Góc, Arlington, Virginia, ngày 08/08/2017 REUTERS
Theo Reuters, trong cuộc gặp gỡ tại bộ Quốc Phòng Mỹ, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis và đồng nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch đồng ý là hai nước sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng trong bối cảnh Việt Nam ngày càng bị Trung Quốc lấn áp, quan hệ Hà Nội và Bắc Kinh có dấu hiệu xấu đi.
Tại Biển Đông, ngư dân Việt Nam liên tục bị tấn công và gần đây nhất, hồi tháng 7, Việt Nam phải hủy bỏ một số dự án thăm do dầu hỏa do áp lực của Bắc Kinh.
Tại hội nghị ASEAN, cuối tuần qua ở Manila, Philippines, Việt Nam đòi phải đưa lời lẽ cứng rắn chỉ trích Bắc Kinh «quân sự hóa Biển Đông» vào bản thông cáo chung. Trung Quốc biểu lộ giận dữ hủy bỏ cuộc gặp cấp ngoại trưởng hai nước.
Trong bối cảnh này, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ tuyên bố với đồng nhiệm Việt Nam là «mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ giữa Mỹ và Việt Nam đặt trên nền tảng (bảo vệ) quyền lợi chung kể của quyền tự do lưu thông tại Biển Đông ».
Bộ trưởng Jim Mattis hoan nghênh vai trò «lãnh đạo đang lên » của Việt Nam trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Một trong những cử chỉ tiêu biểu cho xu hướng quan hệ ngày càng được củng cố giữa Mỹ và Việt Nam là chủ nhân Lầu Năm Góc thông báo một hàng không mẫu hạm sẽ đến Việt Nam vào năm 2018.
Dự án này đã được thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thảo luận với tổng thống Donald Trump hồi tháng 5.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam 1975, một hàng không mẫu hạm Mỹ sẽ thăm Việt Nam.
Tú Anh
Nguồn : RFI, 09/08/2017
Tình hình Việt Nam ra lệnh cho Repsol phải rút giàn khoan ở lô 136-03 theo lời cảnh cáo của Trung Quốc cho thấy chính sách "quốc tế hóa Biển Đông" của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã phá sản. Điều này tôi đã dự liệu ít ra từ hơn 10 năm trước.
Repsol phải rút giàn khoan ở lô 136-03
Tôi luôn cho rằng để bảo vệ lãnh thổ ở Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam theo qui định của Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) về vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa, Việt Nam phải "khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa".
Nền tảng cốt lỏi của việc "khẳng định chủ quyền", một mặt để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mặt khác để Việt Nam hội nhập vào thế giới văn minh và phát triển một cách lành mạnh và hài hòa, là lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải từ bỏ nền "chuyên chính" đồng thời thực thi hai chính sách "hòa giải quốc gia" và dân chủ hóa đất nước.
Chính sách "quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông" được Việt Nam nỗ lực từ những năm 2009. Nền tảng của việc này đặt lên "quan hệ chính trị" và "chia sẻ lợi ích" với các quốc gia liên quan. Theo đó Việt Nam hy vọng "kéo" Hoa Kỳ về phía mình, cho rằng nước này có "lợi ích cần bảo vệ" ở Biển Đông. Sự có mặt của Hoa Kỳ có thể "đối trọng" với tham vọng của Trung Quốc.
Việc này tôi đã từng chứng minh là sẽ gặp thất bại. Bởi vì, khi Trung Quốc (không chỉ) thỏa mãn tất cả những lợi ích của Mỹ ở Biển Đông, (mà còn cho Mỹ những đặc quyền khác về kinh tế ở Trung Quốc), thì nước này sẽ bỏ rơi Việt Nam.
Tôi có nhắc lại trường hợp Trung Quốc chiếm Hoàng Sa trên tay Việt Nam Cộng Hòa, hay Trung Quốc chiếm Scarborough trên tay Phi, trong lúc hạm đội của Mỹ vẫn hiện diện ở Biển Đông. Nhiều lần tôi nhấn mạnh : ngay cả Hoàng Sa và Trường Sa và 80% Biển Đông thuộc về Trung Quốc, Hoa Kỳ cũng không quan tâm, nếu Trung Quốc cam kết tôn trọng lợi ích của Hoa Kỳ ở đây.
Bài này của tôi đăng trên BBC ngày 3 tháng tám năm ngoái (1). Ghi lại để thấy những sai lầm của nhà nước cộng sản Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trước Trung Quốc.
Hơn một tháng sau khi Tòa Trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration-PCA La Haye, Hà Lan) ra phán quyết ngày 12/7/2016, những tranh chấp về cách diễn giải và áp dụng Luật Biển (UNCLOS) giữa Philippines và Trung Quốc tưởng rằng đã được Tòa làm sáng tỏ.
Ngày 21/8 vừa qua, Tổng thống Duterte của Philippines ra tuyên bố : "Philippines có thể rút ra khỏi Liên Hiệp Quốc".
Tuyên bố như một gáo nước lạnh, không chỉ gieo sự bất an cho toàn khu vực, mà còn đặt ra nhiều nghi vấn về tương lai Biển Đông.
Ông Duterte còn cho biết Philippines có thể sẽ cùng Trung Quốc và các nước Châu Phi lập một tổ chức "liên hiệp quốc" khác.
Để sang một bên nguyên nhân vì đâu ông Duterte lại có tuyên bố như vậy.
Bộ Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) cùng với nhiều công ước khác, cũng như Hiến chương Liên Hiệp Quốc, là những công ước nền tảng làm nên "trật tự pháp lý thế giới", từ sau Thế chiến Thứ II đến nay.
Có thể Liên Hiệp Quốc vẫn chưa thực hiện hết những tiêu chí về "hòa bình" của mình. Nhưng thử tưởng tượng, nếu không có "trật tự pháp lý" mà tổ chức này là một hình thức đại diện, chắc chắn nhân loại vẫn còn sống trong cảnh chiến tranh triền miên, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Dĩ nhiên những quốc gia "nhỏ", nhiều tài nguyên với một vị trí chiến lược quan trọng, như Philippines, chắc chắn sẽ bị một đế quốc nào đó, có thể là Trung Quốc, Nhật hay Hoa Kỳ... chinh phục.
Nếu tuyên bố của Duterte được Quốc hội Philippines phê chuẩn, Philippines không còn là thành viên Liên Hiệp Quốc (và cùng Trung Quốc lập ra tổ chức đối lập khác). Mặc nhiên quốc gia Philippines không còn bị ràng buộc bởi các công ước nền tảng của tổ chức này. Các nguyên tắc hòa bình của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, cũng như UNCLOS, sẽ vô hiệu lực.
Điều sẽ đến là Phán quyết 12/7 của Tòa Trọng tài cũng không còn hiệu lực áp dụng (cho Trung Quốc và Philippines).
Ta có thể suy diễn rằng nguyên nhân tuyên bố của tổng thống Duterte là dựa trên các báo cáo của sứ giả mà ông đã phái đi Hong Kong để tìm cách nối lại đối thoại với Bắc Kinh. Quan hệ hai bên bị "đông lạnh" sau khi Tòa PCA ra phán quyết ngày 12/7.
Ta thấy hình dáng một "plan B" của Bắc Kinh nhằm đối phó với phán quyết của Tòa PCA, mà Trung Quốc gọi là một "âm mưu chính trị" của Hoa Kỳ. Tuyên bố của Duterte cho thấy hai bên, Philippines và Trung Quốc, trong chừng mực đồng thuận về "plan B" này.
Manila-Bắc Kinh "đi đêm" ?
Điều này có thể đã được khẳng định.
Mới hôm trước Tổng thống Duterte cho biết, trong kỳ họp thượng đỉnh ASEAN tổ chức ở Lào vào đầu tháng Chín tới, Philippines sẽ không đưa vấn đề liên quan Biển Đông vào hội nghị. Theo ông Duterte, nước này sẽ đối thoại song phương với Trung Quốc về những tranh chấp biển, đảo hiện đang tồn tại giữa hai bên.
Bàn cờ chiến lược ở Biển Đông có đặt lại hay không là do quyết định của Quốc hội Philippines về hiệu lực tuyên bố của ông Duterte.
Điều này chắc chắn làm cho sự suy nghĩ của lãnh đạo Việt Nam (và các học giả Việt Nam về Biển Đông) phải thay đổi để đối phó với tình thế.
Đối với Việt Nam, bên (tưởng là) hưởng lợi nhiều từ phán quyết của Tòa trọng tài ngày 12/7. Người ta nghĩ rằng phán quyết đã giúp cho Việt Nam giải quyết mọi chuyện.
Những thôi thúc của một bộ phận người dân yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam thực thi việc kế thừa danh nghĩa Việt Nam Cộng Hòa và các quốc gia tiền nhiệm như "Quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại nhằm khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, từ nay có thể bỏ ngoài tai.
Cũng vậy, các yêu sách về "hòa giải quốc gia" cũng bị dẹp sang một bên.
Nhà nước cộng sản Việt Nam cho rằng, khi mà các thực thể ở Trường Sa chỉ có hiệu lực của "đá", theo phán quyết Tòa Trọng tài 12/7, chỉ có lãnh hải tối đa 12 hải lý, thì Trung Quốc hay Việt Nam, bên nào có chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vấn đề không còn quan trọng.
Tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ cả trăm năm. Tranh chấp chỉ nổi sóng gió từ thập niên 70, sau khi các giàn khoan của Việt Nam Cộng Hòa cũng như của các nước trong khu vực, khám phá ra dầu hỏa dưới đáy Biển Đông.
Luật Biển 1982 càng làm cho tranh chấp này gay gắt thêm. Bởi vì, điều thứ 121 của bộ Luật qui định rằng một đảo cũng có hiệu lực 200 hải lý "vùng kinh tế độc quyền - EEZ". Tức là quốc gia có chủ quyền đảo được Luật này cho phép "độc quyền" khai thác tài nguyên trong cột nước, dưới mặt đáy biển và thềm lục địa của các đảo, trong khu vực 200 hải lý, tính từ đường cơ bản của đảo.
Trung Quốc, với căn bản pháp lý dựa trên những văn bản từ thế kỷ trước của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa, đưa ra yêu sách đường chữ U chín đoạn, chiếm gần hết Biển Đông.
Bắc Kinh dựa trên hai lý lẽ : 1/ quyền lịch sử và 2/ quyền thuộc chủ quyền (tức EEZ) sinh ra ở các đảo.
Phán quyết 12/7 thu hẹp đáng kể các yêu sách của Trung Quốc. Quyền lịch sử của Trung Quốc bị Tòa bác bỏ, trong khi các đảo Trường Sa thì không có cái nào thực sự là "đảo" để yêu sách vùng "kinh tế độc quyền".
Những tuyên bố vừa qua của Tổng thống Duterte, trong chừng mực, giới hạn hiệu lực của phán quyết 12/7 của Tòa PCA, đồng thời củng cố lại yêu sách đường chữ chín đoạn của Trung Quốc.
Những cuộc "đi đêm" với Bắc Kinh của sứ giả của ông Duterte, cho thấy Việt Nam không còn ở tư thế "ngư ông", hưởng lợi từ tranh chấp nghêu cò là Trung Quốc và Philippines. Hai nước này bắt tay, phía thiệt hại sẽ là Việt Nam.
Việt Nam phải làm lại từ đầu.
Để giữ chủ quyền cần hòa giải quốc gia.
Tức là, đối với Việt Nam, chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là vấn đề trọng tâm. Nếu không thuyết phục được dư luận quốc tế về danh nghĩa chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam sẽ ở vào một tư thế hết sức bất lợi. Hà Nội không thể vịn vào các điều ước của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, áp dụng cho Trường Sa, về "quyền tự vệ chính đáng".
Tuần trước, báo chí quốc tế đăng tin rằng Việt Nam đã đem một số giàn rốc kết EXTRA, mua của Do Thái, ra đặt ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Mặc dầu Bộ ngoại giao Việt Nam phủ nhận việc này, nhưng một số học giả Việt Nam cho rằng Việt Nam có thể giành quyền "tự vệ chính đáng" để làm việc này. Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa, sau đó biến chúng thành các căn cứ quân sự cho không quân và hải quân, là một hành vi đe dọa cho an ninh Việt Nam.
Phản ứng của Trung Quốc trước việc này phải nói là gay gắt. Nhiều bài báo đăng tải các ý kiến yêu cầu Tập cận Bình "đánh cho Việt Nam sặc máu mũi". Trong khi Hoa Kỳ thì không hoan nghênh.
Điều này cho thấy, trong chừng mực, Hoa Kỳ không nhìn nhận lý do "tự vệ chính đáng" ở các học giả Việt Nam. Và thái độ này có thể giải thích.
Ta phải nhìn nhận rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, cũng như một số tài liệu khác do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành, đã đưa Việt Nam vào tư thế kém về pháp lý so với Trung Quốc : Việt Nam nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Điều nguy hiểm là dựa vào nội dung các văn kiện này Trung Quốc có thể tấn công để chiếm lại các đảo mà Việt Nam chiếm đóng, bất kỳ khi nào họ thấy chắc thắng.
Trung Quốc và Philippines "đi đêm" với nhau, việc áp dụng phán quyết của Tòa PCA ngày 12/7 có thể sẽ không bao giờ được thực thi. Việt Nam sẽ bị cô lập. Mà khi toàn bộ các đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, vùng "kinh tế độc quyền EEZ" của Việt Nam, sinh ra từ bờ biển của quốc gia, sẽ bị mất rất nhiều do "chồng lấn" EEZ của các đảo Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Việt Nam không thể đi kiện Trung Quốc vì các vướng mắc pháp lý. Còn quyền "tự vệ chính đáng" thì bị nghi ngờ.
Như vậy, vấn đề khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, chưa bao giờ trở thành việc quan trọng và cấp bách cho Việt Nam như hôm nay.
Việt Nam bắt buộc phải hóa giải hiệu lực pháp lý công hàm 1958 cũng như các tài liệu ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành. Mà việc này chỉ có thể thực hiện bằng việc nhìn nhận và kế thừa di sản các thể chế tiền nhiệm như "Quốc Gia Việt Nam" của Bảo Đại (sinh ra từ Hiệp ước Elysée 1949), hai nền đệ nhứt và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa, là những nhà nước này kế thừa di sản nhà nước bảo hộ Pháp và các triều đại vương quyền Việt Nam.
Những nhà nước này đã khẳng định và sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ Việt Nam theo các trình tự pháp lý quốc tế.
Và khi đặt ra vấn đề kế thừa và muốn thể hiện nó, việc "hòa giải quốc gia" là bước đầu tiên.
Nhưng thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay, vẫn xem các chế độ Việt Nam Cộng Hòa là "ngụy", cho thấy họ từ chối kế thừa di sản của các nhà nước tiền nhiệm. Việc đặt vũ khí mới mua của Do Thái ở các đảo Trường Sa, cho thấy lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã lựa chọn sử dụng vũ lực để đối đầu với Trung Quốc.
Việt Nam có phương pháp khác, hòa bình, để giữ vững lãnh thổ. Bằng không thì cũng giành được tư thế "tự vệ chính đáng". Chỉ khi giành được tư thế này Việt Nam mới có hy vọng thắng trong chiến tranh, vì có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và dư luận thế giới.
Phương pháp đó là thực thi "hòa giải quốc gia".
Việc này có thể đem tai hại cho thanh danh đảng cộng sản Việt Nam.
Hành vi hòa giải là nhìn nhận những sự thật về lịch sử. Mà điều này đặt lại hoàn toàn các "công lao" mà đảng cộng sản Việt Nam cho rằng đã đóng góp cho đất nước.
Thanh danh của đảng cộng sản Việt Nam đối với chủ quyền của quốc gia, cái nào nặng hơn, là sự lựa chọn của thành phần trí thức, học giả Việt Nam... Chỉ có lực lượng trí thức Việt Nam, khi ý thức được đâu là quyền lợi của đất nước, đồng loạt lên tiếng làm áp lực yêu cầu nhà nước cộng sản Việt Nam thể hiện việc "hòa giải quốc gia", việc giữ toàn vẹn lãnh thổ mới hy vọng đạt được.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 07/08/2017
(1) http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/08/160823_philippines_un
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump không mấy quan tâm đến vấn đề Biển Đông là một lý do khiến Việt Nam nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc yêu cầu tàu thăm dò Deepsea Metro 1 ngừng khoan tìm khí đốt, nhà báo Bill Hayton của đài BBC viết trên tạp chí Foreign Policy.
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump không mấy quan tâm đến vấn đề Biển Đông là một lý do khiến Việt Nam nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc yêu cầu tàu thăm dò Deepsea Metro 1 ngừng khoan tìm khí đốt, nhà báo Bill Hayton của đài BBC viết trên tạp chí Foreign Policy.
Trong bài báo có tiêu đề : “Tuần lễ Donald Trump để mất Biển Đông” đăng trên tạp chí Foreign Policy, một tạp chí hàng đầu của Hoa Kỳ về các vấn đề đối ngoại, Bill Hayton nhận định :
“Trong lúc Washington đang đắm chìm trong các tranh cãi về gián điệp Nga và dự luật chăm sóc y tế thì một trong những khu vực quan trọng nhất trên thế giới đang dần rơi vào tay của Bắc Kinh.”
Bài báo viết : “Hà Nội lâu nay vẫn trông chờ ở sự hậu thuẫn ngầm của Washington để chống lại những lời đe dọa từ Bắc Kinh. Trong khi đó, chính quyền ông Trump cho thấy hoặc là họ không hiểu hoặc là họ không quan tâm đúng mức đến những lợi ích của các nước bạn và các đối tác tiềm năng ở Đông nam Á để bảo vệ những nước đối tác trước sự hung hăng của Bắc Kinh,”
Sau hai năm rưỡi trì hoãn, hồi giữa tháng Sáu năm 2017, chính phủ Việt Nam cho phép công ty Talisman Việt Nam (một chi nhánh của tập đoàn năng lượng Repsol của Tây Ban Nha) khoan tìm khí đốt tại lô 136-03, mà Trung Quốc gọi là lô Vạn An Bắc ngay ngoài rìa vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam trên Biển Đông.
Chính sự bất đồng về vụ việc này đã khiến Tướng Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, cắt ngắn một sứ mạng giao lưu quốc phòng giữa hai nước ở Việt Nam để về nước sớm hơn hồi gần đây.
Một số nguồn tin từ Hà Nội bên cạnh các nguồn tin khác được Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales, viện dẫn, nói Đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh đã bị Bộ Ngoại giao Trung Quốc vời lên để nghe Bắc Kinh dọa, rằng nếu Việt Nam không chấm dứt khoan dầu khí và hứa sẽ không bao giờ thăm dò trên vùng biển đó, thì Trung Quốc sẽ ‘có hành động quân sự’ đối với Việt Nam.
Theo nhà báo Bill Hayton thì phần lớn trong số 28 thực thể mà Việt Nam đang chiếm giữ ở quần đảo Hoàng Sa chỉ nhằm đánh dấu chủ quyền, chứ không phải là cấu trúc quân sự, nên phía Việt Nam hoàn toàn không thể phòng vệ trước một cuộc tấn công từ phía Trung Quốc.
Trong lúc Bắc Kinh lớn tiếng đe dọa thì tàu Deepsea Metro 1 đã tìm thấy một trữ lượng tài nguyên đáng kể, đa phần là khí đốt, và dầu hỏa. Họ tiếp tục thăm dò và hy vọng sẽ khoan hết toàn bộ độ sâu của giếng này vào cuối tháng 7.
Theo nhà báo Bill Hayton, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Hà Nội để bàn cách đối phó. Theo nguồn tin mà tập đoàn Repsol có được thì Bộ Chính trị bị chia rẽ giữa một bên là đa số các ủy viên Bộ Chính trị đều muốn đợi Trung Quốc “giở bài ngửa” (tức là không tin vào lời đe dọa của Trung Quốc và vẫn tiếp tục khoan thăm dò). Chỉ có hai phiếu chống, của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.
Nguồn tin mà VOA không thể được kiểm chứng độc lập cho biết sau hai cuộc họp căng thẳng của Bộ Chính trị hồi giữa tháng Bảy, quyết định cuối cùng được đưa ra : Việt Nam chấp nhận lùi bước trước Trung Quốc và chấm dứt khoan thăm dò. Nguồn tin này lý giải rằng quyết định này dựa trên lập luận là Hà Nội “không thể dựa vào sự giúp đỡ của chính quyền ông Trump trong trường hợp hai nước xảy ra xung đột trên Biển Đông”.
Vẫn theo nguồn tin này, thì một lập luận khác đặt giả thuyết nếu như bà Hillary Clinton, chứ không phải ông Donald Trump, là chủ nhân Nhà Trắng, thì mọi thứ có lẽ “sẽ rất khác bởi vì bà Clinton hiểu rõ Hoa Kỳ phải đối mặt với mối nguy gì trên Biển Đông”.
Niềm tin đặt nơi bà Clinton có lẽ cũng dễ hiểu. Có lẽ chưa ai quên bài phát biểu mạnh mẽ của bà Clinton về các lợi ích của nước Mỹ và tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Diễn đàn Khu vực ARF ở Hà Nội năm 2010. Chính sách của Tổng thống lúc bấy giờ Barack Obama là duy trì trật tự khu vực dựa trên luật pháp quốc tế được các nước trong khu vực hoan nghênh.
Theo nhà báo Hayton thì bàn thắng của Trung Quốc trong vụ đối đầu mới nhất với Hà nội có những hậu quả rõ rệt : Trung Quốc sẽ thiết lập luật lệ ở Biển Đông. Họ sẽ áp đặt chủ quyền gọi là ‘lịch sử’ hay ‘sở hữu chung’ lên Biển Đông. Bắc Kinh sẽ quyết định nước nào có quyền khai thác tài nguyên gì. Nếu Bắc Kinh có thể đe dọa Việt Nam, thì họ có thể đe dọa tất cả các nước còn lại trong vụ tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Trước đó, Manila từng loan báo ý định sẽ khoan tìm một giếng được cho là có tiềm năng khí đốt lớn ở Bãi Cỏ Rong. Tuy nhiên, hồi tháng Năm, Tổng thống Philippines Duterte cho biết lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình cảnh cáo ông rằng sẽ có chiến tranh nếu Manila tiếp tục khai thác khí đốt ở đó. Đây là khu vực mà tòa trọng tài quốc tế ở The Hagues đã phán quyết là thuộc chủ quyền của Philippines. Mới đây, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đến Manila để bàn về “hợp tác cùng khai thác” trên Biển Đông.
Nhà báo Bill Hayton nhận định : “Một khi Duterte và giới lãnh đạo Việt Nam hành động, lãnh đạo các nước khác sẽ theo sau. Các chính phủ Đông Nam Á đã rút ra được một kết luận quan trọng sau sáu tháng cầm quyền của Tổng thống Donald Trump : đó là Washington không sẵn sàng đánh cược trên Biển Đông,”.
Những quan điểm trong bài báo đăng trên tạp chí Foreign Policy là của nhà báo, nhà nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông Bill Hayton, do đó không phản ánh quan điểm của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ.
*****************
Kể từ khi có tin Việt Nam phải ngừng khoan thăm dò dầu khí trên biển Đông do bị Trung Quốc đe dọa, truyền thông Việt Nam vẫn im lặng và Bộ Ngoại giao cũng “im lặng một cách khác thường.”
Cho tới hết ngày 26/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về vụ việc này và thông tin về việc Việt Nam yêu cầu một công ty con của tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol ngừng khoan thăm dò dầu khí ở lô 136-03 trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam không xuất hiện trên truyền thông chính thống.
Nguồn tin của các chuyên gia về biển Đông, giáo sư Carl Thayer của Học viện quốc phòng Úc và học giả Bill Hayton của viện nghiên cứu Chatham House, cho biết Trung Quốc đã đưa ra yêu cầu này thông qua đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh. “Sau khi Bộ Chính trị (của Đảng Cộng Sản Việt Nam) xem xét yêu cầu này đã quyết định ngừng khoan dầu,” học giả và nhà báo chuyên viết về Việt Nam Hayton cho biết.
Các chuyên gia về biển Đông cho rằng lối đe dọa này của Trung Quốc là chưa từng có tiền lệ khi Bắc Kinh dọa dùng vũ lực, và trong bối cảnh đó Việt Nam phải nhượng bộ để có thời gian thay đổi chiến lược đối phó với Trung Quốc.
Sự giằng co giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề khoan dầu trên biển Đông, theo giáo sư Alexander Vuving của Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương, bắt đầu từ khi tướng Phạm Trường Long cắt ngắn chuyến thăm tới Hà Nội và chương trình giao lưu quốc phòng giữa 2 nước bị hủy bỏ.
Kể từ đó, Trung Quốc và Việt Nam đều huy động 1 lượng lớn các tàu tuần duyên và tàu kiểm ngư tới khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank) nằm ở phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý về phía Đông Nam.
Hôm 23/7, một ngày trước khi bài báo của BCC và giáo sư Carl Thayer nói về quyết định của Việt Nam ngừng khoan dầu trên biển, giáo sư Vuving và Jonathan London đều đưa tin trên trang Twitter cá nhân về việc Trung Quốc đang triển khai dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu vực gần bãi Tư Chính, quanh lô 163-03, là nơi Việt Nam lúc đó đang triển khai dự án khai thác dầu Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Dù Việt Nam và Trung Quốc đều chưa lên tiếng xác nhận hay phủ nhận về thông tin Trung Quốc yêu cầu Việt Nam ngừng khoan dầu, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 26/7 được Reuters dẫn lời nói “Trung Quốc thúc giục bên liên quan dừng các hoạt động vi phạm đơn phương và có hành động thiết thực bảo vệ cho khu vực biển mà không dễ có được.”
Trung Quốc ngày càng hung hăng
“Sự đe dọa này của Trung Quốc đối với Việt Nam cho thấy sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc,” theo giáo sư Thayer.
Cùng chung nhận định này, giáo sư Vuving nói “hành động của Trung Quốc cho thấy họ tiếp tục quyết liệt với các tuyên bố chủ quyền quá đáng của mình trên biển Đông và tự tin về khả năng bắt nạn những nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền (trong vùng biển này).”
Kể từ cuối những năm 2000 và đặc biệt sau 1 năm tòa trọng tài quốc tế ra phán quyết bác bỏ đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nước này vẫn không thay đổi gì trong cách hành xử và thậm chí còn có thêm nhiều hành động hung hăng hơn.
Vào tháng 5 vừa qua, tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã nói trước công chúng rằng chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đe dọa “có chiến tranh” nếu Philippines trở lại khai thác dầu và khoan thăm dò ở bãi Recto. Vụ máy bay chiến đấu của Trung Quốc áp sát máy bay do thám của hải quân Mỹ trên biển Đông hôm 24/7 là ví dụ mới nhất cho thấy sự can thiệp của Trung Quốc vào các chuyến bay của Mỹ trên vùng trời phía đông và nam của biển Trung Hoa. Trung Quốc hiện cũng đang tiến hành các cuộc tập trận hải quân ở vùng biển Baltic với hải quân Nga, theo truyền thông quốc tế.
Việc tiếp tục quân sự hóa của Trung Quốc trên biển Đông cũng cho thấy nước này đang coi thường phản ứng của cộng đồng quốc tế.
Những hình ảnh vệ tinh mới nhất do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) của Mỹ ở Washington đưa ra hôm 19/6 cho thấy Trung Quốc xây thêm các cơ sở quân sự mới trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Washington luôn cáo buộc Bắc Kinh quân sự hóa tuyến hải lộ trọng yếu trong khu vực, nơi có lượng hàng hóa trị giá 5.000 tỷ USD được giao thương hàng năm.
"Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực lượng của họ quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm dò thêm lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung Quốc."
Alexander Vuving, Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương
Thượng nghị sỹ Mỹ Cory Gardner hôm 18/7 đã lên tiếng cáo buộc Trung Quốc gần đây có những hành động gây mất ổn định khu vực biển Đông và biển Hoa Đông, làm trái với luật lệ quốc tế và tạo ra hiểm họa xung đột trong tương lai.
Việt Nam phải làm gì ?
Nếu Trung Quốc thực sự đe dọa dùng vũ lực để tấn công các thực thể của Việt Nam trên biển Đông để buộc Việt Nam ngưng thăm dò dầu khí thì đây là một sự leo thang chưa từng có và đáng báo động, theo ông Thayer, cũng là giáo sư của Đại học New South Wales.
Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực lượng của họ quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm dò thêm lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung Quốc, theo nhận xét của giáo sư Vuving.
Các nguồn tin từ Việt Nam mà vị giáo sư của Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương có được cho biết có gần 200 tàu của Trung Quốc được điều tới khu vực bãi Tư Chính trong khi Việt Nam chỉ có hơn 50 tàu ở khu vực khoan dầu này. Tuy nhiên, cũng theo nguồn tin của giáo sư Vuving, việc khoan thăm dò này cũng đã gần hoàn tất nhiệm vụ và họ đã phát hiện ra một mỏ khí có trữ lượng lớn.
Mặc dù một số chuyên gia trong nước cho rằng việc Việt Nam hủy bỏ khoan thăm dò vì bị Trung Quốc đe dọa là “hành động bất lực, hèn nhát” nhưng các chuyên gia quốc tế lại cho rằng đây là một sự rút lui đúng lúc.
“Nếu Việt Nam tiếp tục khoan dầu với (đối tác) Repsol vào thời điểm này thì Trung Quốc sẽ đưa các tàu tới thách thức. Họ sẽ gửi tàu thăm dò và thậm chí tàu khoan tới khu vực mà Việt Nam đang khoan dầu. Những hàng động này sẽ làm mỏng lực lượng tuần duyên và tàu theo dõi các hoạt động đánh bắt cá của Việt Nam và lúc đó buộc Việt Nam phải dừng các hoạt động khoan dầu để tập trung vào việc ngăn cản các hoạt động thăm dò và khoan dầu của Trung Quốc,” theo tiến sỹ Vuving.
Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định rằng nếu Việt Nam tiếp tục khoan dầu thì “không nghi ngờ gì Trung Quốc sẽ can thiệp” hoặc bằng việc cắt cáp tàu khoan dầu, hoặc gửi tàu đánh cá tới hoặc có các hành động quân sự chống lại một trong các thực thể của Việt Nam trong khu vực này.
“Việt Nam luôn dùng cả ngoại giao và hành động để đáp trả các hành động của Trung Quốc. Việt Nam không muốn hành động vội vàng trong một thế mà họ không có lợi,” theo giáo sư Thayer và ông cho rằng Việt Nam cần có thời gian để huy động những ý kiến từ quốc tế để đưa ra một chiến lược thích hợp.
Tiến sỹ Vuving cũng cho rằng hành động ngừng khoan dầu của Việt Nam là “một sự rút lui chiến thuật chứ không phải là một sự đầu hàng” và Việt Nam “chắc chắn sẽ không từ bỏ các tuyên bố chủ quyền của mình trong khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.”
Để làm được việc này, bước tiếp theo, theo giáo sư Thayer, là “Việt Nam cần tìm kiếm sự ủng hộ của Nhật, Mỹ, Ấn Độ, Úc và Châu Âu đồng thời gặp gỡ các đại diện của các công ty dầu khí nước ngoài đang hoạt động trong EEZ của Việt Nam để tham khảo các đánh giá của họ.”
LTS : Thông Luận gửi đến bạn đọc bài viết “The Week Donald Trump Lost The South China Sea” của Bill Hayton, một chuyên gia nghiên cứu về vấn đề Việt Nam và Biển Đông. Những phân tích của Bill Hayton tiết lộ thông tin mật về sự chia rẽ sâu sắc trong Bộ chính trị, liên quan đến những tranh chấp căng thẳng với Trung Quốc tại Biển Đông. Thông qua bài viết của Bill Hayton, chúng tôi càng khẳng định thêm sự rạn nứt và phân hóa trong nội bộ ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến vận mệnh của đảng và chế độ.
“Đảng Cộng Sản đã phân hóa. Nó không còn một lý tưởng chung để gắn kết các đảng viên. Đã thế tham nhũng, bất tài và vô đạo đức còn gây sự ganh ghét và khinh thường lẫn nhau trong toàn bộ đảng, kể cả ở cấp cao nhất. Bộ chính trị không còn quyền lãnh đạo tối cao vì mâu thuẫn với ban chấp hành trung ương, một định chế không thường trực nhưng lại có thẩm quyền tối hậu trong việc chỉ định và kỷ luật các cấp lãnh đạo. Đảng Cộng Sản chỉ còn là một hư cấu. Chế độ như một con tầu không còn đoàn thủy thủ và đang chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân” (Khai Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai – Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên).
Bộ chính trị, là cơ quan quyền lực nhất của đảng cộng sản, đang chia rẻ và phân hóa trầm trọng. Vì thế, sự sụp đổ của chế độ độc tài chỉ là vấn đề thời gian. Thoát Đảng để “thoát Trung” là mệnh lệnh cấp bách của thời đại. Đã đến lúc đảng cộng sản cần “nhìn xa trông rộng” chọn một kết thúc ít đau thương tang tóc nhất, để trở về với Nhân dân, xây dựng lại ý niệm Quốc gia và niềm tự hào làm người Việt Nam. Kỉ nguyên của Dân Chủ - Đa Nguyên sẽ phải đến với Dân tộc Việt Nam.
Mai V. Phạm
Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
01/08/2017
----//----
Tuần lễ mà Donald Trump mất Biển Đông
Lịch sử Việt Nam đầy những câu chuyện của những vị anh hùng chống Trung Quốc. Nhưng trong tháng này, Hà Nội đã quì gối xuống trước Bắc Kinh và bị làm nhục trong cuộc tranh chấp quyền kiểm soát trên Biển Đông, con đường giao thông hàng hải gây nhiều tranh cãi nhất trên thế giới. Hà Nội đã và đang nhìn về hướng Washington để tìm kiếm sự ủng hộ ngầm, đối đầu với các mối đe dọa của Bắc Kinh. Đồng thời, chính quyền của Trump cũng đã chứng minh rằng họ không hiểu hoặc không quan tâm đầy đủ về lợi ích của đồng minh và các đối tác tiềm năng ở Đông Nam Á, bảo vệ họ chống lại sự bành trướng của Trung Quốc. Các chính phủ Đông Nam Á sẽ đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ không đứng cùng họ. Trong khi Washington đang tự giết chính mình trong các bê bối liên quan đến tình báo Nga và các cuộc tranh luận về bảo hiểm sức khỏe, thì một trong những khu vực quan trọng nhất của thế giới đang rơi vào tay của Bắc Kinh.
Không có vùng biển nào trên thế giới có nhiều tranh chấp căng thẳng so với Biển Đông. Trong vài năm gần đây, Trung Quốc và các nước láng giềng đã phỉ báng, đe doạ, dụ dỗ, và thưa kiện để dành quyền kiểm soát các tài nguyên trên Biển Đông. Tháng 6/2017, Việt Nam đã có một động thái quyết đoán. Sau hai năm rưỡi trì hoãn, Việt Nam cuối cùng đã cho phép Talisman Việt Nam (một công ty con của tập đoàn Tây Ban Nha Repsol) cho phép khoan khí đốt, ngay tại ranh giới của Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) ở Biển Đông.
Theo diễn giải của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam hoàn toàn có quyền để làm như thế. Tuy nhiên, theo lời giải thích riêng của Trung Quốc, thì không phải như vậy. Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra tuyên bố rõ ràng về khu vực đó. Vào ngày 25 tháng 7, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng (Lu Kang) chỉ đề nghị “Trung Quốc kêu gọi các bên liên quan chấm dứt các hoạt động xâm phạm đơn phương và hành động thực tế để bảo vệ tình hình không dễ có được ở Biển Đông hiện nay” – nhưng đã không nói những hoạt động đó thực sự là gì. Trong trường hợp không có sự rõ ràng chính thức, luật sư Trung Quốc và các chuyên gia đã đưa ra hai lời diễn giải.
Trung Quốc có thể tuyên bố "quyền lịch sử" (historic rights) đối với phần biển này với lý do nó luôn là một phần của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa - quần thể bao gồm các hòn đảo, rạn san hô và đá ở ngoài khơi Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines - được coi như một phần của Vùng đặc quyền kinh tế EEZ của họ. Tuy nhiên, tòa án trọng tài quốc tế đã bác bỏ “quyền lịch sử” ở Biển Đông, trái ngược với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS, cách đây một năm. Trung Quốc đã phớt lờ tòa án và không công nhận phán quyết của tòa án.
Vào giữa tháng Sáu, Talisman Việt Nam lên kế hoạch khoan một khu vực nước sâu được “đánh giá rất tốt” tại Lô 136-03, dựa vào những gì người trong cuộc tin là một khu vực khí đốt trị giá hàng tỷ đô la, cách khoảng 50 dặm từ khu vực Tập đoàn Repsol đang hoạt động. Chính phủ Việt Nam biết rằng sẽ có nguy cơ Trung Quốc can thiệp, nên đã gửi các tàu hải quân và các tàu thuyền dân dụng khác để bảo vệ hoạt động khoan dầu.
Thoạt đầu, sự can thiệp của Trung Quốc tương đối có tính chất ngoại giao. Phó chủ nhiệm quân ủy Trung ương Trung Quốc, Đại tướng Phạm Trường Long (Fan Changlong), viếng thăm Hà Nội vào ngày 18 tháng 6 và yêu cầu chấm dứt công việc thăm dò dầu khí. Khi Việt Nam từ chối, ông Long đã hủy bỏ một cuộc họp chung về an ninh biên giới (Khuôn khổ Giao lưu Quốc phòng lần thứ 4) để về lại Trung Quốc.
Các báo cáo từ Hà Nội (đã được xác nhận bởi các báo cáo tương tự, từ các nguồn khác nhau, cho Giáo sư Carl Thayer của Úc) cho biết, ngay sau đó, Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh đã được triệu tập tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc và thẳng thừng ra lệnh rằng, trừ khi Việt Nam dừng khoan và phải hứa rằng sẽ không bao giờ khoan trong vùng biển đó thêm một lần nào nữa ; nếu không Trung Quốc sẽ có hành động quân sự, chống lại các căn cứ của Việt Nam ở Biển Đông.
Đây là một mối đe dọa kịch tính, nhưng không phải là chưa từng có. Trong khi nghiên cứu cuốn sách của tôi về Biển Đông, tôi đã được một quan chức của BP nói rằng Trung Quốc đã gây ra những mối đe dọa tương tự cho BP khi hoạt động ngoài bờ biển Việt Nam vào đầu năm 2007. Fu Ying, sau đó là Đại sứ Trung Quốc tại London, nói với giám đốc điều hành của BP lúc đó, là Tony Hayward, rằng cô không thể đảm bảo sự an toàn của nhân viên BP nếu BP không từ bỏ các hoạt động ở Biển Đông. BP ngay lập tức đồng ý và trong những tháng sau đó đã rút khỏi các hoạt động ngoài khơi của Việt Nam. Tôi đã hỏi Fu về điều này trong một bữa ăn tối ở Bắc Kinh vào năm 2014, và cô trả lời, "Tôi làm những gì tôi nên làm vì tôi rất tôn trọng BP và không muốn BP gặp rắc rối".
Việt Nam chiếm giữ khoảng 28 tiền đồn trong quần đảo Trường Sa. Một số được thành lập trên các hòn đảo tự nhiên, nhưng nhiều trong số đó là những lô cốt cô lập trên các rạn san hô. Theo Giáo sư Carl Thayer, 15 nhà giàn mà Hà Nội gọi là “các cấu trúc dịch vụ kĩ thuật” giống như đánh dấu địa điểm, hơn là các cơ sở quân sự.
Đó là tất cả về khả năng quân sự, và vì thế không thể nào có thể phòng chống được một cuộc tấn công quân sự nghiêm trọng. Trung Quốc đã chứng minh điều này bằng các cuộc tấn công vào quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và trong trận hải chiến đảo Gạc Ma ở Trường Sa năm 1988. Cả hai cuộc chiến đều kết thúc bằng nhiều thương vong về phía Việt Nam và gia tăng lợi ích lãnh thổ về phía Trung Quốc. Có những tin đồn, hoàn toàn chưa được xác nhận, rằng có một sự cố nổ súng gần một trong những tiền đồn này vào tháng Sáu. Nếu đúng, đây có thể là một lời cảnh báo nghiêm trọng hơn gửi đến Hà Nội từ Bắc Kinh.
Trong khi đó, đoàn tàu thăm dò dầu khí Deepsea Metro I đã phát hiện chính xác những gì Tập đoàn dầu khí Repsol đang muốn tìm kiếm : một phát hiện tuyệt đẹp - chủ yếu là khí, nhưng với một ít dầu. Tập đoàn Repsol tiếp tục thăm dò và hy vọng sẽ khoan hết toàn bộ độ sâu của giếng này vào cuối tháng 7.
Bộ Chính trị Việt Nam đã họp bàn để thảo luận về những việc cần làm. Giá dầu thấp và sản lượng giảm từ các mỏ ngoài khơi đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngân sách của chính phủ. Việt Nam cần năng lượng giá rẻ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì quyền lực và vai trò của Đảng Cộng sản.
Không ai có thể biết được những quyết định lớn lao được tiến hành ra sao ở Việt Nam, nhưng từ chuyện ngừng khoan dầu của Repsol, có thể thấy rõ ràng rằng Bộ Chính trị đang bị chia rẽ hết sức nghiêm trọng. Trong số 19 ủy viên, thì 17 người đồng ý chỉ trích Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc chỉ giả vờ đe dọa. Chỉ có 2 người không đồng ý phản đối Trung Quốc, nhưng 2 người này lại có ảnh hưởng lớn nhất trong Bộ chính trị, đó là : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.
Sau hai cuộc họp căng thẳng vào giữa tháng 7, quyết định được đưa ra : Việt Nam chấp nhận rút lui trước Trung Quốc và chấm dứt khoan thăm dò. Cũng theo các nguồn tin trên, quyết định dựa trên lập luận là Hà Nội không thể dựa vào sự giúp đỡ của chính quyền Trump trong trường hợp hai nước xảy ra xung đột trên Biển Đông.
Ý nghĩa chiến thắng của Trung Quốc trong tranh chấp với Việt Nam là hiển nhiên. Bất kể luật pháp quốc tế, Trung Quốc sẽ tự ý thiết lập các quy tắc ở Biển Đông. Trung Quốc sẽ áp đặt chủ quyền gọi là “lịch sử” hay “sở hữu chung” lên Biển Đông. Bắc Kinh sẽ quyết định nước nào có quyền khai thác tài nguyên gì. Nếu Bắc Kinh có thể đe dọa Việt Nam, thì họ có thể đe dọa tất cả các nước còn lại trong vụ tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Repsol hiện đang chuẩn bị giăng buồm rời bỏ tổng vốn đầu tư hơn 300 triệu USD. Các báo cáo từ khu vực cho biết chiếc tàu khảo sát địa chấn của Trung Quốc, HYSY760, được bảo vệ bởi một đội tàu nhỏ, đang trên đường đến cùng một khu vực để kiểm tra triển vọng dầu khí. Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS đã bị đảo ngược, và những phán quyết của tòa án cũng bị che giấu. Hà Nội nghĩ có được sự bảo hộ của Washington, sẽ khiến Trung Quốc phải chùn bước. Nhưng thay vào đó, Trump đã rời khỏi Biển Đông, trôi dạt theo hướng của Bắc Kinh.
Bill Hayton
Mai V. Phạm chuyển dịch
Nguồn : http://foreignpolicy.com, “The Week Donald Trump Lost The South China Sea”
BBC Tiếng Việt phỏng vấn phóng viên Bill Hayton, tác giả bài viết VN ngừng khoan dầu khí ở Biển Đông về một số vấn đề liên quan tới sự kiện này :
BBC tiếng Việt : Theo nghiên cứu của ông thì vị trí chính xác của dự án Repsol nằm ở đâu, cách bao xa tính từ đảo chính là đảo Trường Sa ?
Bill Hayton : Repsol hiện đang có một số dự án dầu khí khác nhau tại Việt Nam. Dự án vừa phải ngưng là nằm trong Lô 136-03, ở rìa đông nam của vùng Việt Nam tuyên bố là Đặc quyền Kinh tế. Các bạn xem bản đồ dưới đây để biết vị trí chính xác.
Bản quyền hình ảnh OTHER
Một nguồn tin nói với tôi rằng tại khu vực lô 136-03, người ta đã tìm được khí tự nhiên và một ít dầu, nhưng công tác khoan vẫn chưa đạt tổng độ sâu (Total Depth). Nguồn tin này cho biết chính phủ Việt Nam đã gây áp lực, muốn Talisman-Vietnam phải tìm lí do kỹ thuật nào đó để có cớ ngưng sớm việc khoan tìm dầu.
Tuy nhiên, phía Talisman nói với giới chức Việt Nam rằng giếng khoan hoàn toàn tốt, không có lí do kỹ thuật nào cản trở công việc hết. Cuối cùng, chính phủ đã ra lệnh cho nhà thầu này phải chấm dứt hoạt động chừng một tuần trước khi mũi khoan theo kế hoạch sẽ đạt tổng độ sâu.
BBC tiếng Việt : Nếu như nó nằm quanh khu vực Bãi Tư chính, thì liệu điều đó có đồng nghĩa với việc chúng ta đang chứng kiến tình trạng căng thẳng hồi 2014, khi mà có một số nguồn tin nói rằng các tàu thuyền Trung Quốc cũng đã tiếp cận các cụm khu vực nhà giàn do Việt Nam xây dựng ở cùng khu vực không ?
Bill Hayton : Tôi không rõ chuyện này.
BBC tiếng Việt : Trong bài viết, khi dùng cụm từ "các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa" trong câu "giới lãnh đạo Repsol được chính phủ tại Hà Nội thông báo vào tuần trước rằng Trung Quốc đã đe dọa sẽ tấn công các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu không dừng việc khoan thăm dò", ông muốn nói cụ thể tới các căn cứ nào ?
Bill Hayton : Nguồn tin của tôi không nêu chi tiết.
BBC tiếng Việt : Vị trí của lô khai thác khí đốt này nằm hoàn toàn trong vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam ? Và theo Công ước Liên Hiệp quốc thì Việt Nam có quyền khai thác tài nguyên tại đó ?
Bill Hayton : Nếu diễn giải theo Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp quốc UNCLOS thì đúng vậy. Những logic mà phán quyết của Tòa trọng tài Thường trực đưa ra hồi năm ngoái cũng xác nhận điều này, tuy nói một cách chặt chẽ thì phán quyết này chỉ có giá trị ràng buộc đối với Trung Quốc và Philippines. Trung Quốc chưa bao giờ nêu rõ cơ sở để họ đưa ra các đòi hỏi đó. Một số người nói rằng Bắc Kinh đòi hỏi dựa trên các quyền lịch sử ở khu vực, một số người khác nói họ tuyên bố vùng Đặc quyền Kinh tế dựa vào quần đảo Trường Sa như một cụm khu vực. Cả hai lập luận này đều không phù hợp với UNCLOS và cả hai đều bị Tòa Trọng tài bác bỏ.
BBC tiếng Việt : Một số chuyên gia đã nêu câu hỏi về khả năng Việt Nam phải bồi thường cho đối tác dầu khí Tây Ban Nha. Theo những gì ông biết thì liệu đây có phải là điều sẽ xảy ra đối với trường hợp Repsol không ?
Bill Hayton : Khó để nói nếu ta không nắm được nội dung hợp đồng kí kết giữa hai bên. Tuy nhiên, Repsol đã chi một khoản tiền lớn cho Talisman và đã chi thêm nhiều triệu đô la vào việc thăm dò ở Lô 136-03. Có con số ước tính đưa ra rằng Repsol và các hãng hoạt động trước đó đã đầu tư khoảng 300 triệu đô la vào khu vực này.
BBC tiếng Việt : Có ý kiến cho rằng lịch họp của Đại hội Đảng Trung Quốc có thể là một yếu tố khiến Hải quân Trung Quốc hạn chế các hoạt động tại Biển Đông nhằm tránh đối đầu với các nước như Việt Nam. Ông có nghĩ là cái nhìn này vẫn đúng ở thời điểm hiện tại ?
Bill Hayton : Nếu là tuần trước thì tôi cũng nghĩ vậy. Vào thời điểm này thì tôi không còn chắc nữa.
Bill Hayton
Nguồn : BBC, 26/07/2017
Bill Hayton ngoài công việc tại BBC News còn là nhà nghiên cứu tại Viện Chatham House, một thinktank hàng đầu về chính trị quốc tế tại London. Ông đã xuất bản hai cuốn sách 'The South China Sea : the struggle for power in Asia' (2014) và 'Vietnam : rising dragon' (2010).
Hôm 24 tháng 7, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte tuyên bố chính phủ Philippines đang thảo luận với Trung Quốc về việc hợp tác khoan tìm dầu khí ở Biển Đông là khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước trong khu vực. Tuyên bố này ngay lập tức đặt ra một loạt các câu hỏi về tính khả thi của dự án, và nếu trở thành sự thực thì liên doanh này sẽ ảnh hưởng thế nào tới những nước khác trong tranh chấp Biển Đông, nhất là Việt Nam, nước cũng đang có các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ngoài Biển Đông.
Ngư dân Philippines và các nhà hoạt động mang thuyền gỗ diễu hành đến lãnh sự quán Trung Quốc ở Manila hôm 12/7/2016 để biểu tình - AFP
Tính hợp hiến
Hồi đầu năm nay, ông Duterte cũng đã lên tiếng nói về khả năng hợp tác phát triển với Trung Quốc ngoài Biển Đông khi ông nói rằng quân đội Philippines không có khả năng đối đầu với Trung Quốc ngoài Biển Đông. Tuy nhiên theo Giáo sư Renato Cruz de Castro thuộc trường đại học De la Salle, Philippines, tuyên bố mới của Tổng thống Philippines là không chắc chắn
Ông ấy không nói một cách chắc chắn điều này sẽ xảy ra. Việc hợp tác với Trung Quốc như vậy đồng nghĩa với việc bạn chấp nhận đòi hỏi chủ quyền không tranh cãi của Trung Quốc ở Biển Đông. Thêm vào đó là hoạt động này không được phép căn cứ theo hiến pháp của chúng tôi.
Trung Quốc hiện là nước đòi chủ quyền khoảng 90% diện tích Biển Đông chủ yếu qua đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này tự vẽ ra. Trung Quốc coi khu vực này là phần chủ quyền không tranh cãi của mình bất chấp phản đối từ những nước trong tranh chấp. Các nước tham gia tranh chấp trong khu vực bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Đài Loan cũng đòi chủ quyền với khu vực nước trong đường đứt khúc 9 đoạn. Phán quyết của tòa Trọng tài Quốc tế (PCA) hôm 12 tháng 7 năm ngoái xác định đường đứt khúc này là không hợp pháp. Tuy nhiên Trung Quốc đã lên tiếng phủ nhận phán quyết của tòa.
Mặt khác, cản trở lớn nhất trong hợp tác chung giữa Philippines và Trung Quốc chính là tính hợp hiến của hoạt động này vì hiến pháp Philippines không cho phép các hoạt động khai thác chung với nước khác tại vùng nước mà nước này đòi chủ quyền. Giáo sư Renato de Castro giải thích :
Tổng thống Philippines sẽ phải vượt qua chướng ngại về hiến pháp. Sẽ có người nói rằng điều ông ấy làm là vi hiến bởi vì điều này đã xảy ra trước kia trong dự án nghiên cứu địa chấn giữa hai nước. Cho nên câu hỏi về tính hợp hiến của dự án này sẽ được đưa ra trước tòa tối cao Philippines.
Hồi năm 2004, một thỏa thuận về hợp tác nghiên cứu chung trên biển tại khu vực Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc đã được ký kết dưới thời của Tổng thống Gloria Arroyo. Vào năm 2005, Việt Nam cũng tham gia vào dự án này. 3 nước ký thỏa thuận khảo sát địa chấn tại một số khu vực nhất định ở Biển Đông (gọi tắt là JMSU). Tuy nhiên hợp tác đã bị chấm dứt sau 3 năm vì nhiều tiếng nói ở Philippines lúc đó đã chỉ trích chính phủ của bà Arroyo vi phạm hiến pháp khi cho phép Trung Quốc vào nghiên cứu tại khu vực thuộc chủ quyền của Philippines.
Cây gậy và củ cà rốt của Trung Quốc
Ngay sau tuyên bố của Tổng thống Duterte, hôm 25 tháng 7, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Vương Nghị đang ở thăm Philippines cũng lên tiếng ủng hộ ý tưởng này. Ông Vương Nghị còn cảnh báo rằng bất cứ hành động đơn phương nào cũng sẽ chỉ gây ra các vấn đề và làm phương hại đến mối quan hệ hai nước.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 25 tháng 7 cũng nói với báo chí tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi tại quần đảo Trường Sa và thúc giục bên thứ ba ngừng các hoạt động vi phạm đơn phương tại khu vực này. Phát biểu này được đưa ra cho câu hỏi của phóng viên liên quan đến thông tin hồi đầu tuần này cho biết Trung Quốc đã gây sức ép khiến Việt Nam phải ngưng hoạt động tìm kiếm dầu khí ngoài khơi Việt Nam nơi đường đứt khúc 9 đoạn đi qua.
Tổng thống Duterte hồi tháng 5 vừa qua cũng cho biết Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố chiến tranh sẽ xảy ra nếu Philippines xúc tiến việc khai thác dầu đơn phương ở Biển Đông.
Giáo sư Castro cho rằng Tổng thống Duterte hiểu được tình hình hiện tại và cũng biết được những cản trở mà ông ta sẽ gặp phải khi đưa ra đề nghị hợp tác với Trung Quốc nhưng ông Duterte vẫn tuyên bố như vậy vì những hứa hẹn về đầu tư từ Trung Quốc.
Đó là vì tiền của Trung Quốc. 24 tỷ đô la tiên đầu tư vào các dự án hạ tầng cơ sở đã khiến chính phủ hiện thời của Philippines tìm kiếm cách làm hài long Trung Quốc. Trung Quốc đang đưa ra cái củ cà rốt trị giá 24 tỷ đô la cho Philippines.
Trong chuyến thăm Trung Quốc hồi tháng 10 năm ngoái của Tổng thống Philippines Duterte, hai nước đã ký một bản ghi nhớ về cam kết đầu tư của Trung Quốc vào Philippines lên đến 24 tỷ đô la. Đây là một khoản đầu tư lớn mà Philippines cần, theo lời của giáo sư Castro, nhưng cho đến giờ vẫn chưa có một đồng đô la nào theo bản ghi nhớ này được thực hiện.
Thách thức đối với ASEAN và Việt Nam
Tuyên bố về hợp tác dò tìm dầu khí giữa Philippines và Trung Quốc mặt khác cũng gây quan ngại đối với ASEAN, nhóm 10 nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Vì vậy, hôm 26 tháng 7, Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Alan Peter Cayetano cho biết nước này sẽ hỏi ý kiến ASEAN về việc hợp tác tìm kiếm dầu ở Biển Đông. Ông Cayetano nói sẽ không có hành động đơn phương và bất cứ hành động đơn phương của bất cứ ai cũng sẽ dẫn đến gây mất ổn định. Tuy nhiên ông Cayetano từ chối không chỉ ra cụ thể vùng thăm dò chung với Trung Quốc sẽ nằm ở đâu trên Biển Đông.
Hồi tháng 5 vừa qua ASEAN và Trung Quốc đã đồng ý bộ khung bản thảo về một Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên trên Biển Đông (gọi tắt là COC). Cả Trung Quốc và Philippines đều đã lên tiếng bày tỏ mong muốn COC sẽ được hoàn tất trong năm nay khi Philippines là nước Chủ tịch luân phiên của ASEAN.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Castro có nhiều khả năng ASEAN sẽ không trả lời dứt khoát có hay không đối với thông báo của Philippines về vấn đề hợp tác chung với Trung Quốc vì không muốn gây bất đồng trong khối hay làm Trung Quốc tức giận.
Trong các tuyên bố chung của ASEAN, khối này thường không bao giờ chỉ đích danh Trung Quốc hay lên án nước này về các hoạt động quân sự hóa khu vực Biển Đông. Nhiều khả năng điều này cũng sẽ xảy ra trong tuyên bố chung sau thượng đỉnh ASEAN diễn ra vào tuần tới ở Philippines.
Trước thượng đỉnh, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị cũng đến thăm Thái Lan và Philippines, hai nước thành viên ASEAN. Trong các chuyến thăm này, ông Vương Nghị luôn đánh giá cao quan hệ giữa Trung Quốc và các nước liên quan, đồng thời kêu gọi ASEAN đoàn kết chống lại các lực lượng bên ngoài, ý nói đến Hoa Kỳ.
Giáo sư Castro nhận định hợp tác chung giữa Philippines và Trung quốc nếu có thành hình thì có nhiều khả năng chỉ là một dạng hợp tác tương tự như thỏa thuận JMSU như hồi năm 2004 mà thôi. Tuy nhiên, nếu hợp tác này thành hình thì điều này cũng là một thách thức lớn với cả ASEAN và Việt Nam. Giáo sư Castro nói "Việt Nam sẽ bị đơn độc và ASEAN sẽ tiếp tục bị chia rẽ".
Theo nguồn tin báo chí, dường như Việt Nam đã dừng các hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng có tranh chấp ở Biển Đông, do bị Trung Quốc đe dọa.
Một trạm xăng của Repsol ở Madrid. Ảnh chụp ngy 13/07/2012. AFP PHOTO/ DOMINIQUE FAGET
Một nguồn tin từ ngành công nghiệp dầu khí ở Đông Nam Á nói với BBC là công ty Repsol của Tây Ban Nha, đang thực hiện dự án này, đã được lệnh rời khỏi khu vực.
BBC, hãng thông tấn duy nhất đưa ra thông tin này, cho biết là các động thái nói trên trùng hợp với nguồn tin ngoại giao Việt Nam.
Theo tin từ ngành dầu, vào tuần trước, chính phủ Việt Nam nói với Repsol rằng Trung Quốc đe dọa tấn công các cơ sở của Việt Nam tại vùng quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam không cho ngừng các hoạt động thăm dò.
Vào tháng trước, công ty Talisman-Vietnam, một chi nhánh của Repsol, bắt đầu các hoạt động thăm dò tại lô 136-03, cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 hải lý. Trung Quốc gọi vùng này là Vạn An Bắc 21 (Wan-an Bei) và cũng cho phép một công ty thăm dò. Có thông tin nói là đó công ty Brightoil, nhưng doanh nghiệp này đã cải chính.
Hồi đầu tháng Bẩy, theo nhiều nguồn tin, việc Hà Nội cho phép thăm dò tại lô 136-03 ở Biển Đông dường như đã làm cho quan hệ Việt-Trung căng thẳng và có thể đây lý do tướng Trung Quốc Phạm Trường Long (Fan Chang Long), đã rút ngắn chuyến công du Việt Nam hồi cuối tháng Sáu và hai nước đã hủy bỏ chương trình giao lưu quốc phòng biên giới.
Vẫn liên quan đến Biển Đông, Trung Quốc vừa khai trương một rạp chiếu phim trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, nơi đang có tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc.
Theo báo South China Morning Post, truyền thông Trung Quốc hôm qua, đưa tin là rạp chiếu phim « Ẩn Long Tàng Tam Sa «, của tập đoàn truyền thông Hải Nam, đã khai trương hôm thứ Bẩy, 22/07 để phục vụ cho khoảng 200 người dân và binh sĩ sống trên đảo này.
Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa hồi tháng Giêng 1974, lúc đó do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản lý.
Trung Quốc đẩy mạnh việc xây dựng các cơ sở hạ tầng trên các đảo để khuyến khích người dân ra sinh sống tại các vùng có tranh chấp ở Biển Đông, đồng thời, Bắc Kinh cũng tiến hành bồi đắp các đảo nhân tạo để xây dựng các cơ sở quân sự, hậu cần, nhằm tăng cường kiểm soát có khu vực các tranh chấp với các nước khác.
RFI tiếng Việt
**************************
Các nhà bình luận và phân tích nhận định rằng nếu thực sự Việt Nam đã yêu cầu công ty Talisman-Vietnam ngừng thăm dò dầu khí ở vùng biển tranh chấp trên Biển Đông sau khi nhận lời đe dọa từ Bắc Kinh, thì điều này vô cùng bất lợi đối với Việt Nam, cho thấy Việt Nam đã ‘lùi bước’ và tỏ thái độ ‘hèn nhát’ trong vụ tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc.
Bản đồ Biển Đông
Từ Melbourne, Australia, bà Ann Đỗ, một người theo dõi sát vấn đề Biển Đông từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, nói với VOA-Việt ngữ :
“Nếu Việt Nam lùi hay rút lui dự án này do sợ sự đe dọa vũ lực của Trung Quốc thì có nghĩa là Việt Nam đã thua hoàn toàn về mặt xác lập chủ quyền của mình”.
Talisman-Vietnam là công ty con thuộc tập đoàn năng lượng Repsol của Tây Ban Nha. Trước đây trong tháng này, công ty đã bắt đầu khoan thăm dò ở một vị trí cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 kilomet.
Hôm 24/7 BBC dẫn một nguồn giấu tên nói rằng Hà Nội mới đây đã ‘ra lệnh’ cho công ty rời khỏi lô Lô 136-03, theo cách đặt tên của Việt Nam, phía Trung Quốc gọi lô này Vạn An Bắc 21 (Wan-an Bei 21). Đây là khu vực nằm trong đường “chín đoạn” do Trung Quốc vạch ra và tuyên bố chủ quyền.
Giàn khoan HD 981 của Trung Quốc
Theo nguồn tin của BBC, hồi tuần trước Bắc Kinh đã cảnh báo Hà Nội rằng họ sẽ tấn công các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu hoạt động khoan vẫn tiếp tục tại địa điểm này.
Bà Ann cho biết dự án khai thác tại lô 136-03 đã trì hoãn trong ba năm qua và vừa rồi được Repsol tái khởi động, thuê tàu khoan nước ngoài và triển khai dự án vào tháng trước.
“Dự trù Repsol đã bỏ ra 300 triệu đôla cho mỏ này. Nếu khai thác không thành công thì buộc phía Việt Nam đền bù hợp đồng và uy tín hợp tác sẽ suy giảm. Phía Việt Nam cũng muốn đẩy tốc độ khai thác dầu khí để tăng nguồn thu ngân sách. Thu thì chưa thấy, bây giờ thấy thiệt hại trước mắt - vì khả năng đền hợp đồng rất là cao”.
Cho đến nay, Hà Nội vẫn chưa lên tiếng xác nhận hay phủ nhận tin của BBC.
Hôm 25/7 giáo sư Carl Thayer nói với VOA rằng vào ngày 15/7 ông được một nguồn tin đáng tin cậy từ Hà Nội cho biết Việt Nam đã chỉ đạo một công ty con của Repsol ngừng khoan dầu tại lô 136-03 trên Biển Đông.
Hôm 23/7, nhà báo độc lập Trương Huy San ở thành phố Hồ Chí Minh đã dự báo “có thể Repsol sẽ phải ngưng mọi hoạt động ở đây vì các sức ép đến từ Trung Quốc”, và ông nhận định rằng “nhưng lần này thì có vẻ như Hà Nội đang đơn độc”. Tuy nhiên, ông không cho biết nguồn đưa tin dự báo này.
Nhà báo độc lập có bút danh Huy Đức viết : “việc Hà Nội cho Repsol khoan thăm dò ở lô 136-03 không chỉ như một dự án khai thác dầu-khí đơn thuần mà còn để khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở vùng biển này”.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A từ Hà Nội cho rằng nên chờ một thời gian nữa để đánh giá xác thực thông tin do tác giả BBC Bill Hayton đưa. Tuy nhiên, ông nói nếu đúng như thế thì việc này cho thấy sự hèn nhát của Việt Nam :
“Nếu đúng như thế thì đây là một hành động hèn nhát. Nhưng vì thiếu thông tin, nên chúng ta không nên đánh giá một cách vội vã như vậy. Cũng có những tin nói rằng việc thăm dò đã kết thúc, đã thu thập được đầy đủ dữ liệu, xong việc rồi thì rút. Nếu đúng như vậy thì chúng ta lại đánh giá khác đi”.
Trao đổi với VOA, Facebooker Quốc Võ nói : “không phải do việc Việt Nam cho dự án của Repsol rút lui, mà là bị áp lực từ phía nào đó, có thể từ phía Tây Ban Nha và Repsol, dù rằng trên danh nghĩa là Việt Nam bỏ theo như báo chí loan”.
Ông cho biết thêm rằng Tướng Phạm Trường Long, Phó chủ tịch Quân ủy Trung Ương Trung Quốc, vào tháng trước đã đột ngột cắt ngắn chuyến thăm Hà Nội sau khi thăm Madrid, nơi đặt trụ sở của tập đoàn Repsol Exploitation. Tướng Long là người đã nói với phía Việt Nam rằng “các đảo trên biển Nam Hải là của Trung Quốc từ ngàn xưa”.
Ông Quốc Võ nói : “Ai là người chủ động đã gây ra vụ này, trong khi báo chí nước ngoài loan tin này trước, chứ không phải báo chí lề phải trong nước ?”.
Nhà quan sát Ann Đỗ, người thường xuyên trao đổi thông tin với nhà báo Bill Hayton của hãng tin BBC, nhận định rằng việc Việt Nam rút dự án này cho thấy sự bất lực của chính quyền do Đảng lãnh đạo trước sự hung hăng bá quyền của Trung Quốc :
“Dân chúng sẽ thấy Đảng và Chính phủ không còn khả năng bảo vệ quốc gia và lãnh thổ được nữa. Chính họ cũng cảm thấy bất lực trước sự hung hăng của Trung Quốc”.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A nói các nhà bình luận cũng nên thận trọng trong việc đánh giá hành động của Việt Nam khi thông tin chưa thật sự rõ ràng, đặc biệt trong tình cảnh khó lường ở Biển Đông :
“Trong tình hình thông tin chưa thật rõ ràng và đầy nhạy cảm, khó lường giữa các cường quốc trên Biển Đông, nhất là với sự hung hăng của Trung Quốc và khả năng có thể xảy ra các cuộc đụng độ, thì chúng ta nên thận trọng trong việc đánh giá”.
Luật sư Lê Công Định viết trên Facebook : “Việc khẳng định chủ quyền vùng thềm lục địa cho đến nay được Việt Nam thực hiện khéo léo qua ký kết và thực hiện các hợp đồng khai thác dầu khí với các công ty khai thác dầu phương Tây”.
Nay trước áp lực và đe dọa tấn công từ Bắc Kinh, nhà nước Việt Nam đành yêu cầu tập đoàn Repsol dừng khai thác mỏ dầu nhiều tiềm năng mà có người cho là nằm trên thềm lục địa của Việt Nam. Do đó, khả năng bảo vệ chủ quyền trong chính sách Biển Đông hiện tại có vẻ như khó có thể thực hiện, theo kết luận của luật sư Lê Công Định.
**************************
Việt Nam đề nghị công ty Talisman-Vietnam ngừng thăm dò dầu khí ở vùng tranh chấp trên Biển Đông sau khi nhận những lời đe dọa từ Bắc Kinh, theo một bài viết do BBC đăng tải vào sáng 24/7.
Một dàn khoan của tập đoàn Repsol Tây Ban Nha
Talisman-Vietnam là công ty con trong tập đoàn năng lượng Repsol của Tây Ban Nha. Trước đây trong tháng này, công ty đã bắt đầu khoan thăm dò ở một vị trí cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 kilomet. Nhưng BBC dẫn một nguồn giấu tên nói rằng Hà Nội mới đây đã ‘ra lệnh’ cho công ty rời khỏi khu vực đó.
Vẫn theo bài viết của BBC, hồi tuần trước Bắc Kinh đã cảnh báo Hà Nội rằng họ sẽ tấn công các căn cứ của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa nếu hoạt động khoan vẫn tiếp tục.
Đến hết buổi chiều ngày 24/7, giờ Việt Nam, không có thông tin chính thức nào từ Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng như trên báo chí chính thống trong nước xác nhận hay phủ nhận tin tức kể trên của BBC.
VOA cố gắng liên lạc với một đại diện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam để tìm hiểu, nhưng vị này không trả lời, kể cả với điều kiện không nêu tên.
Nơi công ty con của Repsol hoạt động được cho là Lô 136-03, theo cách đặt tên của Việt Nam. Trung Quốc gọi đó là Vạn An Bắc 21 (Wan-an Bei 21). Có tin Trung Quốc đã cho một công ty nước ngoài thuê chính lô này, nhưng không rõ đó là công ty nào.
Một nhà phân tích đề nghị không nêu tên ước tính rằng Repsol đã chi khoảng 300 triệu đôla cho dự án của họ ở lô này.
Thông tin về việc Việt Nam đề nghị Repsol ngừng khoan đã được một số người có tầm ảnh hưởng lớn chia sẻ trên mạng xã hội, thu hút hàng nghìn lời bình luận. Chiếm đa số là những người bày tỏ ý kiến rằng đây là “một bước lùi” hay “một thất bại của Việt Nam”.
Luật sư Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu Biển Đông ở thành phố Hồ Chí Minh, cũng chung suy nghĩ với luồng ý kiến đó. Nhưng ông cho rằng do thông tin còn chưa đầy đủ, nên chưa thể nói đây là một bước lùi về mặt chiến thuật hay về chiến lược của Việt Nam.
Mặc dù vậy, quyết định của Việt Nam sẽ có những hệ lụy tồi ngay lập tức, theo lời ông Việt :
“Việt Nam mà hủy hợp đồng với Repsol, Việt Nam chắc là phải bồi thường số tiền rất là lớn, bởi vì hợp đồng dầu khí thường là vài trăm triệu đô. Thứ hai, ảnh hưởng đến các quốc gia, các công ty khác như thế nào, thì đây cũng là tác động lớn về tâm lý. Họ phải xem xét vấn đề rủi ro rất là cao. Ngoài cái việc có dầu hay không, sức ép chính trị sẽ ảnh hưởng đến tương lai của hợp đồng đó. Cái độ rủi ro này nó cao. Họ sẽ ngại ngần khi tham gia”.
Nhiều ý kiến trên mạng xã hội cho rằng sự ngại ngần của các công ty và các nước khác sau động thái của Việt Nam sẽ càng làm Việt Nam đơn độc trong tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc.
Đất nước có dân số lớn nhất thế giới và đứng thứ hai về sức mạnh kinh tế đòi chủ quyền về hầu hết Biển Đông. Nơi xa nhất trong “đường lưỡi bò” mà Bắc Kinh vẽ ra trên bản đồ để đòi chủ quyền nằm cách bờ biển miền nam Trung Quốc tới hơn 1.600 kilomet.
Vùng biển là nơi có trữ lượng dầu khí dồi dào, đồng thời có nhiều tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới đi qua.
Việt Nam phản đối tuyên bố của Trung Quốc. Hà Nội cũng đòi chủ quyền về nhiều phần chồng lấn với Trung Quốc ở Biển Đông.
Ngoài ra, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền về một số phần trong vùng biển.
Động thái được cho là nhượng bộ nhanh chóng mới đây của Việt Nam - dù còn cần thêm thông tin xác thực - đã làm ngạc nhiên nhiều nhà quan sát.
Dàn khoan HD 981 của Trung Quốc
Ông Hoàng Việt nhận định về những khó khăn ở phía Việt Nam :
“Tôi nghĩ là Việt Nam cũng đã tính đến cái bước này, tính đến cái nước Trung Quốc sẽ phản ứng. Chỉ có điều là cách thức của Trung Quốc phản ứng như thế nào thì nó là một vấn đề. Trung Quốc họ có rất nhiều chiêu trên Biển Đông. Chỉ có điều họ ra chiêu gì, vào lúc nào thì rất khó để mà đoán biết trước. Trung Quốc kiên quyết không xuống thang, và cái tham vọng của họ rất lớn ở Biển Đông. Trong trật tự quốc tế mới này, Trung Quốc vẫn đang có lợi, cho nên Trung Quốc không dại gì mà xuống thang”.
Việc Việt Nam lùi bước trước các đe dọa của Trung Quốc, một khi được xác thực, sẽ là tin xấu cho Philippines và Indonesia, hai nước mới đây có những động thái mạnh bạo ở vùng biển có nhiều căng thẳng.
Trong tháng 7, Manila tỏ ý có thể nối lại việc khoan dầu khí ở Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) sau 3 năm đình chỉ.
Còn Jakarta trong cùng tháng đã đặt lại tên một phần trong vùng đặc quyền kinh tế của họ ở Biển Đông là Biển Bắc Natuna. Indonesia cũng tuyên bố có thể sử dụng hải quân bảo vệ việc thăm dò tài nguyên.