"Chết dưới tay Trung Quốc"
Diễm Thi, VNTB, 14/04/2020
Trung Quốc càng cường thịnh, nhu cầu bá quyền càng cao, ý thức hệ không ngăn được dã tâm Trung Quốc trong các vấn đề mà Bắc Kinh coi là "cốt lõi quốc gia".
Chúng có virus Vũ Hán khiến hàng ngàn người chết, nhưng virus nguy hiểm nhất chính là virus đỏ bá quyền Bắc Kinh.
Người Mỹ và lục địa già Châu Âu bị lừa trong ít nhất ba thập niên trở lại đây, họ không tin rằng Trung Quốc lại có thể trở thành đối thủ khác trong một cuộc chiến tranh lạnh giống như Liên Xô, bắt đầu từ thời điểm Nixon kết bạn với Trung Quốc.
Năm 1999, ít người quan tâm rằng Trung Quốc Cộng sản đang trở thành cường quốc thế giới. Và giờ ít người biết rằng Đảng cộng sản Trung Quốc ngày nay lớn hơn cả Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc cộng lại trước thời điểm 1970.
Thế giới đang đối mặt với hệ thống chủ nghĩa tư bản kinh tế và chủ nghĩa độc đoán về chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình, Trung Quốc trở thành đế chế tà ác mới với mục tiêu bá chủ thế giới bằng cách gây ảnh hưởng đến từng quốc gia và tổ chức liên khu vực.
Trung Quốc có chân quan trọng trong Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Bắc Kinh cũng là ‘ông chủ’ của Tổ chức Y tế thế giới hiện thời.
Bắc Kinh đã lợi dụng niềm tin ngây thơ của thế giới phương Tây, khiến giới tinh hoa phương Tây tin rằng việc kết hợp kinh tế thị trường vào hệ thống chính trị của Trung Quốc sẽ dẫn đến một Trung Quốc tự do hơn, với mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với Mỹ, thân thiện với các nước phương Tây và các nước láng giềng Châu Á. Thực tế hoàn toàn khác, Trung Quốc là vùng đất dữ của nhân quyền, ăn cắp sở hữu trí tuệ, và dần trở thành một đế quốc trong mắt các nước láng giềng khu vực.
Đảng cộng sản đang cai trị Trung Quốc, một nhóm nhỏ những người nắm giữ quyền lực. Và bắt đầu nazichina được xướng danh như cảnh báo về tính phát xít ẩn chứa bên trong chính quyền Tập Cận Bình.
Trung Quốc phát triển thành một quốc gia phi tự do, là mối đe dọa với thế giới. Bằng cách tích luỹ nguồn của cải từ sự cưng chiều và ngây thơ của giới Âu Mỹ, Trung Quốc hình thành tự do kinh tế và cho phép những người cộng sản thực thi các chính sách dùng tiền bẻ cong các tiêu chuẩn luật pháp hiện đại, nền tảng đạo đức.
Trung Quốc giương cao ngọn cờ của Mao Trạch Đông ! Và Mao Trạch Đông là người khiến hàng triệu người trong nước lẫn bên ngoài Trung Quốc chết oan trong nạn đói, lao động cưỡng bức và chiến tranh.
Tập Cận Bình từng đe dọa những người tự do ở Hồng Kông với ngôn từ sắt máu, ông ta thề sẽ "giết, nghiền nát thi thể và xương" những ai có ý đồ tách vùng lãnh thổ này ra khỏi đại lục, ám chỉ các cuộc biểu tình diễn ra tại Hồng Kông. Lời đe dọa này không khác gì cách Trung Quốc từng thể hiện ở quảng trường Thiên An Môn. Và Trung Quốc sẽ sử dụng ý chí sắt máu này ngay tại Biển Đông bới tư duy cốt lõi như thế.
Nhân loại đang trở thành nạn nhân và chết dưới tay Trung Quốc nếu như không thức tỉnh kịp thời, kể cả Việt Nam.
Trước là Made in China với công xưởng giá rẻ khiến cả thế giới phụ thuộc, nay là Trung Hoa Mộng với lợi ích cốt lõi..
Diễm Thi
Nguồn : VNTB, 14/04/2020
******************
Cơn ác mộng khi mô hình Bắc Kinh sẽ thống trị thế giới
Minh Lê, VNTB, 12/04/2020
Khi các nước tư bản, đặc biệt là Tây Âu, "toang" vì dịch bệnh, Trung Quốc đã trở thành một quốc gia kiểm soát được dịch bệnh ở trung tâm Vũ Hán.
Bệnh dịch lần này được coi là bài thử nghiệm hệ thống và mô hình độc đoán của Tập Cận Bình.
Bắc Kinh đã dỡ bỏ lệnh phong tỏa đối với Vũ Hán sau khi virus này bùng phát, khiến hơn 81.000 người nhiễm bệnh và 3.000 người chết. Và so với các nước Tây Âu, số người nhiễm bệnh và tử vong ở nơi đầu tiên của dịch bệnh thấp hơn nhiều. Bỏ qua câu hỏi về dữ liệu của chính quyền Trung Quốc là thiếu chính xác, nhiều cuộc thảo luận sau đó đã đến xác nhận rằng mô hình quản trị độc đoán của Bắc Kinh đã "chiến thắng" mô hình tự do và dân chủ trong kiểm soát và dập tắt dịch bệnh. Một số trang web đặc trưng của Việt Nam đã nhanh chóng xướng tên Cuba, Hàn Quốc, Việt Nam và Trung Quốc trong vòng tròn "ưu việt của chế độ chính trị" trong việc ngăn chặn dịch Covid-19.
Bắc Kinh đi xa hơn, chứng kiến chiến thắng đầu tiên trước Covid-19 như một bàn đạp để thay thế Hoa Kỳ trở thành nhà lãnh đạo thế giới có trách nhiệm. Điều đó cũng có thể là tuyệt vời và Nhà nước Cộng sản Bắc Kinh là anh hùng của thế giới nếu những vấn đề sau không xảy ra.
Đầu tiên, căn nguyên của dịch bệnh xuất phát từ chế độ trong đó tính minh bạch đứng bét trên bản đồ thế giới. Nguồn gốc sâu xa đến từ một mô hình chính trị ưu tiên tăng cường kiểm soát và tập trung quyền lực mà hoàng tử đỏ Tập Cận Bình đã khôi phục vào năm 2016. Mô hình tăng cường an ninh, đảm bảo hình ảnh ưu việt của đảng, lãnh tụ, và siết cổ xã hội dân sự.
Thứ hai, thiết bị y tế của Trung Quốc đã gửi "viện trợ" cho các quốc gia hoặc chỉ là phương tiện để ngã giá, mở đường cho Huawei tham gia thị trường, hoặc là hàng hóa kém chất lượng, hoặc hàng hóa mà các quốc gia nhận được lại chính là hàng viện trợ trước đây và nay đính kèm giá bán, hoặc là sản phẩm có chứa virus covid-19. Những vụ bê bối này đã miêu tả Trung Quốc là một chính phủ con buôn trên xác người và không thực sự có trách nhiệm nhân đạo.
Thứ ba, ca nhiễm trùng mới quay trở lại Trung Quốc vào tháng Tư, tại khu vực dịch bệnh trước đây của tỉnh Hồ Bắc chiếm 1/2, 78/117 trường hợp không có triệu chứng như ho và sốt.
Bệnh dịch lần này được coi là bài thử nghiệm hệ thống và mô hình độc đoán của Trung Quốc. Nhưng mô hình giúp Bắc Kinh tăng trưởng và ổn định xã hội đó đang giúp người dân Trung Quốc và thế giới chết từng ngày, và thế giới có một tầm nhìn hiếm hoi về hệ thống quan liêu và không minh bạch, lòng trung thành chính trị lớn hơn khả năng kỹ trị dựa trên giá trị nhân quyền mà Bắc Kinh và các nước độc tài khác tìm cách tôn thờ.
Những ngợi khen dành cho Bắc Kinh và mô hình chính trị độc đoán có thể được cất lên, nhưng trong một lớp màn mờ ảo của thịnh vượng, giàu có và trong tiếng gào thét của những oan hồn chết bởi bản chất của chế độ Bắc Kinh.
Bắc Kinh có thể không hoảng loạn vì dịch bệnh, nhưng Bắc Kinh còn lâu mới đủ điều kiện để thống trị thế giới. Bắc Kinh có thể chưa "toang" như Liên Xô, nhưng nếu mô hình quản trị này tiếp tục duy trì qua bão dịch bệnh thì chính quyền Bắc Kinh sẽ sớm phải bị cách mạng xã hội xử tử, do người dân không còn sợ hãi. Và bởi Bắc Kinh là cơn ác mộng chính trị mà loài người bắt đầu tỉnh giấc.
Minh Lê
Nguồn : VNTB, 12/04/2020
Cán bộ hành xử ngang ngược
Chuyện ông Lưu Văn Thanh, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước có hành động chống đối nhân viên công vụ tại một chốt kiểm dịch Covid-19 được lan truyền mạnh trên mạng xã hội mấy ngày qua. Nhiều người dân bất bình về cách hành xử của vị quan chức vì hiện nay việc tôn trọng những qui định phòng, chống dịch là hết sức bức thiết.
Một chốt kiểm dịch Covid-19 ở Hà Nội. AFP
Người dân cho rằng cách hành xử này là hống hách, coi thường luật pháp khi ông Thanh đòi chụp hình nhân viên tại trạm và thách thức người quay clip.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng nêu nhận định :
"Cái đó không nên chỉ nhìn ở góc độ đạo đức đâu. Nếu nhìn góc độ đọa đức thôi là chúng ta sẽ lạc đề. Đạo đức là câu chuyện của từng cá nhân. Quan chức ở đâu cũng có người tốt người xấu, nhưng số người tốt và toàn tâm toàn ý với công việc, vì chuyện chung thì quá ít.
Ai mà có một chút quan tâm đến triết học sẽ phải đi tìm câu trả lời vì sao ít thì mới tìm được cách để giải quyết vấn đề.
Với cách tổ chức xã hội như ở Việt Nam hiện nay thì số phận của một quan chức trong rất nhiều trường hợp là do trên quyết định chứ không phải do quyết định. Người dân không có nghĩa lý gì dù họ luôn luôn nói "của dân, do dân, vì dân’".
Cách hành xử ngang ngược của vị cán bộ tỉnh Bình Phước khiến người dân nhớ tới những viên công an từng khiến cộng đồng mạng phẫn nộ qua những video clips được đăng tải cách đây không lâu.
Cuối năm 2019, báo chí chính thống cũng như mạng xã hội lan truyền video clip một người đàn ông ném đồ ăn và tát vào mặt một nhân viên tại quầy tính tiền. Nhân vật này sau đó bị truyền thông phanh phui nêu đích danh là Thượng úy công an Nguyễn Xô Việt, mới được điều chuyển công tác từ Phòng Cảnh sát cơ động, Công an tỉnh Thái Nguyên về Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Trước đó vài tháng, Đại úy công an Lê Thị Hiền đồng thời là cán bộ xử lý hành chính của Đội Cảnh sát giao thông - trật tự - phản ứng nhanh thuộc Công an quận Đống Đa, Hà Nội, đã la hét, xô đẩy lực lượng chức năng ở phi trường Tân Sơn Nhất.
Ngoài những hành vi được cho là khó coi, thậm chí vi phạm pháp luật, đây đó người dân vẫn đặt câu hỏi rằng, sao không thấy cán bộ lãnh đạo nào đứng ra làm từ thiện hay đóng góp tiền của theo kêu gọi của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong đợt dịch Covid-19 hiện nay ?
Ông Phúc kêu gọi mỗi người dân, đặc biệt là giới doanh nhân, các giới, các đơn vị… tùy theo khả năng của mình, người có tiền góp tiền, người góp hiện vật, người góp sức, người góp ý tưởng, không phân biệt tuổi tác, địa vị, giai tầng, kể cả bà con ở nước ngoài, nêu cao tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách của dân tộc bao đời, đem lại sức mạnh để Việt Nam vượt mọi khó khăn thử thách chống đại dịch.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống nêu quan điểm của ông :
"Để làm từ thiện thì phải có tấm lòng, làm từ lương tâm. Nhưng trong quá trình lựa chọn cán bộ của đảng nó có những chỗ đúng nhưng cũng có những chỗ sai. Có ba cái sai nhất : Phản dân chủ, phản khoa học, phản tiến bộ.
Vì những cái sai như thế thành ra phần lớn họ chọn ra những con người cơ hội, mưu mẹo. Phải như thế nào đấy mới được chọn làm cán bộ.
Trong quá trình làm cán bộ, vì công việc người ta phải đấu tranh, phải làm thế nào để được lên chức…cũng có những người phải bỏ ra số tiền lớn để chạy chức chạy quyền, chưa kể bỏ tiền cúng chùa này chùa kia cầu mong Thần Phật phù hộ. Đó là động lực của người ta. Người ta không có động lực để giúp đỡ đồng bào".
Một chốt kiểm dịch Covid-19 ở Hà Nội AFP
Vì sao ?
Tuy có rất nhiều quy định, nghị định được ban hành nêu rõ đảng viên, cán bộ phải gương mẫu. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, đi đầu trong việc nêu gương để cấp dưới học tập, noi theo; đảng viên phải gương mẫu trước quần chúng. Nhưng thực tế không hẳn như vậy. Vì sao các cán bộ được hưởng nhiều bổng lộc của nhà nước lại ngày càng vi phạm những quy tắc được đề ra ?
Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng giải thích :
"Vấn đề ở đây là do thể chế. Một cái thể chế xa rời người dân, một cái thể thực chất do trên quyết định chứ không do dân quyết định nhất định sẽ đẻ ra một tầng lớp quan chức không coi dân ra gì. Thế chế đó cũng đẻ ra chuyện sống hai mặt. Một mặt là nói những lời rất tốt đẹp; một mặt là tìm mọi cách vơ vét cho mình.
Cái chế độ đó càng ngày càng hư hỏng thôi. Nó từ nguyên lý tổ chức. Chừng nào mà chưa giải quyết được nguyên lý tổ chức thì chừng đó mọi chuyện nêu gương đều không có nghĩa gì hết. cành hô hào nêu gương thì càng dấn sâu vào chuyện giả dối".
Công bằng mà nói thì xã hội nào cũng có người tốt, người xấu. Dân cũng thế mà cán bộ cũng thế. Điều đáng nói là nếu dận vi phạm thì sẽ bị phạt theo quy định của pháp luật, còn cán bộ thì chỉ bị cảnh cáo, bị tạm ngưng công tác hoặc thuyên chuyển vị trí, có khi còn cao hơn vị trí cũ đã từng xảy ra.
Trong một lần trò chuyện với RFA về cách hành xử của công an với dân một cách côn đồ cũng như bắt tay với côn đồ để đàn áp dân, ông Đinh Quang Tuyến, một nhà đấu tranh trong nước nhận định tất cả là do thể chế. Theo ông Tuyến, cộng sản muốn cai trị đất nước và dân tộc Việt Nam với luật pháp và hiến pháp bất công do họ tạo ra. Cộng sản Việt Nam không biết điều hành dẫn đến một đất nước không phải pháp quyền cũng chẳng phải pháp trị mà là vô pháp.
Theo Giáo sư Nguyễn Đình Cống, cái chính là trong số cán bộ, trong số đảng viên có những ‘kẻ lưu manh’ lọt vào là do chọn lựa không đúng. Bản chất của những con người được lựa chọn không tử tế, nhưng lại làm cán bộ vì họ chạy chọt bằng nhiều cách. Ông nói thêm :
"Bản chất của những người đó là lưu manh. Nếu người ta tuyển chọn cán bộ đúng đắn, tử tế thì những người như vậy không lọt vào được đâu. Vì sai lầm đường lối cán bộ của đảng nên những cán bộ có cơ hội là bộc lộ bản chất lưu manh sẵn có ra thôi. Bản thân cán bộ như vậy không biết làm gương đâu. Họ không sợ ai vì họ nghĩ công an không dám đụng đến họ, không ai dám đụng đến họ".
Không rõ có phải do phản ứng quá mạnh của cộng đồng cư dân mạng hay không, vào ngày 13 tháng 4 Tỉnh ủy Bình Phước, cơ quan chủ quản của ông Lưu Văn Thanh, lên tiếng sẽ xử lý nghiêm đối với hành vi của ông Lưu Văn Thanh !
Khi nghĩ về những nhà báo công dân tại Việt Nam, tôi thường nghĩ về số phận của những nhà báo công dân tại Trung Quốc. Cùng sống trong ý thức hệ giống nhau và cùng chịu số phận không khác gì nhau.
Hai nhà báo độc lập, Lý Trạch Hoa (?) và Trần Thu Thực (Chen Qiushi) không có giấp phép chính thức để hành nghề tại Vũ Hán đã bị mất tích từ ngày 6/2/2020. Ảnh chụp màn hình
Có những nhà báo công dân Trung Quốc đã bị bắt vì báo cáo sự thật về Vũ Hán. Điều đó khiến chúng ta có chút buồn, nhưng tích cực một chút thì đó lại là những niềm hy vọng.
Trong bóng đêm dày đặc, mù mịt vì thể chế chính trị như Trung Quốc, rất cần những người trẻ tuổi như vậy.
Lý Trạch Hoa - người nghiệp Đại học Báo chí Quốc gia và từng dẫn các chương trình truyền hình cho đài truyền hình CCTV. Nhưng một ngày nọ, khi lách ra được bức tường kiểm duyệt internet, anh đã xem một bộ phim tài liệu về vụ thảm sát năm 1989. Và từ đó ông đã đặt camera quan sát và tiếp tục theo đuổi các dự án của riêng mình. Khi virus bùng phát ở Vũ Hán, ông đã tìm đến trung tâm dịch bệnh để phản ánh sự thật, Lý Trạch Hoa là nhà báo công dân thư ba sau Phương Bân và Trần Thu Thực, những người đã bị bắt ở Vũ Hán.
Ngay sau khi đến Vũ Hán, Lý Trạch Hoa đã phát hiện ra một công việc kinh khủng : mang xác đi hỏa thiêu. Tin tuyển dụng cho thấy đang cần tìm người không kể giới tính, độ tuổi 16-50, không sợ ma, thời gian làm việc từ 12g đêm đến 4 giờ sáng. Địa điểm làm việc là nhà hỏa táng Thanh Sơn.
Lý Trạch Hoa đã đến Nhà hỏa táng vào tối hôm đó. Ở đó, nhân viên phụ trách nói với anh rằng, số tiền công sẽ tăng dần tương ứng với số người chết mà người làm công nhận di chuyển hỏa thiêu, lên đến 1.100 nhân dân tệ/4 người. Lý sau đó đã bí mật chụp ảnh một hàng dài các lò thiêu gầm rú đã hoạt động cả ngày lẫn đêm trong hơn một tháng tại thời điểm đó. Trong vòng 38 ngày, số bệnh nhân phổi đã chết chính thức ở Vũ Hán là trung bình 40 người/ngày. Tuy nhiên, có 74 lò hỏa táng đang hoạt động, con số này gấp 10 lần. Nhưng câu chuyện làm thêm ngoài giờ khiến con số tử vong còn cao hơn thế.
Vào ngày 26/02/2020, Lý Trạch Hoa đã đến Vũ Hán để xem xét một phòng thí nghiệm, dù anh ở trong xe, nhưng vẫn bị an ninh viên chú ý và bức hại. Cảnh quay rượt đuổi giữa Lý và nhóm an ninh kéo dài khoảng ba mươi giây trở thành một cảnh giống như phim hành động Hollywood. Khi anh về nhà, rào chắn cửa, mở máy tính kết nối, thì 4 giờ sau anh bị bắt.
Câu chuyện của Lý Trạch Hoa và câu nói cuối cùng của anh trước khi mở cửa cho thấy niềm khát vọng về nhân quyền của giới trẻ Trung Quốc. Đất nước hiện giờ là cộng hòa nhưng quyền lực thuộc về Đảng cộng sản Trung Quốc với cá nhân Tập Cận Bình.
Điều quan trọng, đứng trước hòn đá khổng lồ là nhà nước với bộ máy an ninh dày đặt, Lý Trạch Hoa vẫn dũng cảm ném mình vào đó, không tuyệt vọng, ở tuổi 25.
Nếu bác sĩ Lý, người mạnh dạn cảnh báo về chủng virus mới để rồi bị đe nẹt là một anh hùng, thì Lý Trạch Hoa cũng là một anh hùng như thế.
Đất nước Trung Quốc có tươi sáng không, phát triển bền vững và thịnh vượng không, có nhân bản hay không phụ thuộc vào chính những người dám lên tiếng cho sự thật như thế, chứ không phải là thái tử đỏ Tập Cận Bình và bộ máy kiểm duyệt, an ninh dày đặt.
Và Việt Nam ta cũng vậy, những nhà báo công dân như Lê Dũng Vova, Cát Linh, Hùng Gàn, Phạm Đoan Trang… đang trở thành những ngọn nến trong đêm, đáng trân trọng và đáng giữ gìn.
Diễm Thi
Nguồn : VNTB, 03/04/2020
Bộ Tài chính vừa ban hành Quyết định số 378/QĐ-BTC đưa ra mục tiêu, nội dung và tiêu chí để thực hiện Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2020 để thực hiện trong các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc.
Năm 2016 khoe khoang thành tích giảm 3.000 công chức trong tổng số 3.000.000 triệu công chức, nhưng thực tế lại tăng 123.000 viên chức, cũng là biên chế nhà nước Ảnh minh họa - AFP
Chương trình cũng đề ra mục tiêu tinh giản biên chế của cả giai đoạn 2015 - 2021 đạt tối thiểu là 10% so với số biên chế được cấp thẩm quyền giao trong năm 2015.
"Tinh giản biên chế" được hiểu là việc đánh giá, phân loại, đưa ra khỏi biên chế những người dôi dư, không đáp ứng yêu cầu công việc, không thể tiếp tục bố trí sắp xếp công tác khác và giải quyết chế độ, chính sách đối với những người thuộc diện tinh giản biên chế.
Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính - ngân sách (bao gồm : Ngân sách nhà nước ; thuế ; phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước ; dự trữ nhà nước ; các quỹ tài chính nhà nước ; đầu tư tài chính ; tài chính doanh nghiệp ; tài chính hợp tác xã và kinh tế tập thể ; tài sản công theo quy định của pháp luật) ; hải quan ; kế toán ; kiểm toán độc lập ; giá ; chứng khoán ; bảo hiểm ; hoạt động dịch vụ tài chính và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ ; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Với cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính hiện nay thì con số 10% biên chế không phải là nhỏ. Liệu việc tinh giản này có khả thi hay không ?
Chuyên gia Ngô Trí Long, Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu giá cả thuộc Bộ Tài chính nhận định :
"Họ tinh giản 10% là đúng do dựa theo chủ trương chung của Nhà nước. Điều đó không có gì sai. Họ đề nghị vậy vì cả cái hệ thống chính trị hiện nay rất cồng kềnh, bộ máy cồng kềnh. Đâu cũng thế thôi. Chính vì thế chủ trương chung của nhà nước là phải tinh giản. Không phải tất cả đều 10% mà có nơi nhiều hơn, nơi ít hơn.
Riêng Bộ Tài chính, vừa qua họ sát nhập các cục thuế lại, tinh giản thu gọn các cơ quan thuế lại với nhau, các cơ quan kho bạc lại với nhau. Nói chung là đã tinh giản được rất là nhiều.
Thực tế nó dôi ra rất nhiều. Nếu tinh giản hay sát nhập lại vẫn hoạt động tốt, không có gì cản trở, ví dụ như bên hải quan".
Những nghị định, thông tư về tinh giản biên chế được chính phủ bắt đầu đưa ra từ năm 2007, theo từng 5 năm.
Theo số liệu của Bộ Nội vụ, sau bốn năm thực hiện nghị định 132 về tinh giản biên chế (từ năm 2007-2011), tính đến năm 2012 tổng số biên chế cán bộ, công chức (không bao gồm viên chức và biên chế Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) từ trung ương đến cấp huyện tăng lên 388.480 người (tăng hơn 42.000 biên chế) ; cán bộ, công chức cấp xã tăng lên 257.675 người (tăng hơn 14.000 biên chế). Như vậy, 4 năm tăng thêm hơn 56.000 người.
Bộ Nội vụ đề xuất mục tiêu từ năm 2014-2020 tinh giản biên chế 100.000 người, trong đó khoảng 80% giải quyết nghỉ hưu trước tuổi và 20% giải quyết thôi việc.
Giáo sư Tương Lai, Cựu Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, từng là thành viên nhóm cố vấn cho các cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, nói về việc tinh giản biên chế :
"Vấn đề nó quá rõ rồi, bởi vì một cái ngân sách như thế và phải nuôi số lượng người trong biên chế gồm viên chức nhà nước, quân đội, công an và tất cả các đoàn thể… thì không có một ngân sách nào có thể chịu được".
Mục đích của việc tinh giản biên chế là nhằm tạo ra một bộ máy công quyền hoạt động hiệu quả và tiết kiệm ngân sách nhà nước. Muốn tiết kiệm thì phải thu gọn bộ máy nhân sự cồng kềnh hiện nay.
Ông Lê Văn Cuông, nguyên Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa cho rằng việc này không dễ dàng thực hiện vì sẽ thừa ra rất nhiều lãnh đạo. Thí dụ trước đây có ba, bốn cấp trưởng, năm, sáu cấp phó. Bây giờ chỉ còn một cấp trưởng, hai cấp phó thì số còn lại giải quyết ra sao ?
Ngược lại, Tiến sĩ Ngô Trí Long cho rằng nhà nước có nhiều cách để giải quyết số dôi dư, trong đó có việc cho tự nguyện nghỉ việc hưởng một số quyền lợi. Tuy vậy, ông thừa nhận việc này rất khó xảy ra trong lĩnh vực tài chính, được ông gọi là "màu mỡ". Ông giải thích thêm :
"Nó có chế độ cho những người trong diện bị tinh giản. họ thu gọn bằng cách các trưởng phòng thì xuống phó phòng ; các phó phòng thì xuống nhân viên. Có những vị trí thừa thì chuyển chỗ khác. Có những người gần đến tuổi nghỉ hưu thì họ sẵn sàng nghỉ trước.
Có những quyền lợi khi nghỉ việc sớm mà họ thấy phù hợp thì họ nghỉ.
Nhưng trong lĩnh vực tài chính thì ít người tự nguyện nghỉ lắm vì họ có làm ăn, có lợi ích màu mỡ trong đó".
Tại Hội nghị toàn quốc triển khai nhiệm vụ của ngành Nội vụ năm 2019 vào sáng 15/1/2019, Bộ Nội vụ dự kiến năm 2019 sẽ giảm 44.500 biên chế hưởng lương.
Lúc bấy giờ Tiến sĩ Phạm Chí Dũng tỏ ra không tin việc này sẽ thành hiện thực. Ông dẫn chứng con số tinh giản biên chế từ năm 2011 đến 2016 để chứng minh :
"Năm 2016 khoe khoang thành tích giảm 3.000 công chức trong tổng số 3.000.000 triệu công chức. Nhưng thực tế giảm được 3.000 công chức thì lại tăng 123.000 viên chức, cũng là biên chế nhà nước.
Công chức thì thuộc khối quản lý nhà nước và viên chức thì thuộc khối sự nghiệp có thu, tức là những đơn vị thuộc các bộ ngành trung ương mà có hoạt động công ích hoặc hoạt động kinh doanh nhưng không phải là đơn vị doanh nghiệp độc lập. Nhìn vào thành tích như vậy để thấy là không có gì cải thiện".
Tại buổi gặp mặt các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo các cơ quan trung ương tại miền Trung vào đầu năm 2020, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc nêu quan điểm : "Khát vọng dân tộc Việt Nam thịnh vượng, hùng cường là một yêu cầu, cần được quan tâm hơn, có ý chí mạnh mẽ hơn, chứ cứ bình bình, cứ sáng cắp ô đi tối cắp về, không làm gì, không hành động thì khó phát triển".
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 31/03/2020
Vụ thảm sát do lực lượng Trung Quốc nhắm vào các chiến sĩ công binh Hải quân Việt Nam tại Đá Gạc Ma 32 năm trước là một biến cố lớn trong lịch sử Việt Nam. Trong một thời gian dài sự thật lịch sử này không được đảng cộng sản và chính phủ Việt Nam công khai cho toàn dân. Mãi đến gần đây, thông tin về vụ thảm sát đẫm máu đó mới được truyền thông chính thống Nhà nước loan đi một cách dè dặt.
Hôm 14/3/2016, người dân Hà Nội tưởng niệm 64 tử sĩ Gạc Ma bị Trung Quốc giết hôm 14/3/1988. AFP
Báo chí đưa tin theo chỉ đạo
Những người có mặt trên chiếc HQ-604 thuật lại, vào ngày 14/3/1988, Trung Quốc đổ bộ lên bãi đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa thảm sát 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam và chiếm đảo. 56 người mãi mãi nằm lại biển khơi ; 8 người được đồng đội mang xác về ; 9 người sống sót.
Báo chí Trung Quốc hàng năm vẫn nhắc lại như một chiến thắng. Còn phía Việt Nam thì im lặng đến mấy chục năm sau mới dè dặt đề cập đến.
Tháng 7/2018, khi cuốn sách "Gạc Ma - vòng tròn bất tử" ra mắt, báo CAND có chụp tấm ảnh ông Võ Văn Thưởng đến thăm gian hàng Trí Việt và mua ủng hộ một cuốn. Cuốn sách này sau đó lại bị ngưng phát hành.
Ngày 12/3/2016, VnExpress đăng một video "Gạc Ma - Trận hải chiến bị lãng quên" với nội dung tóm tắt : "Trận hải chiến bảo vệ chủ quyền cụm đảo chìm Gạc Ma - Cô Lin - Len Đao, với 64 liệt sĩ ngã xuống giữa làn đạn của quân Trung Quốc xâm lược cách đây 28 năm, không được nhiều người biết đến".
Tháng 3/2013, chỉ duy nhất tờ Thanh Niên có bài viết "Ký ức về trận chiến Gạc Ma năm 1988", trong khi Việt Nam có hàng trăm tờ báo chính thống. Phải chăng chính quyền, ban tuyên giáo... đã quên mất sự kiện này ?
Trung tá quân đội Đinh Đức Long khẳng định họ không thể quên và nhấn mạnh đây là vụ quân đội Trung Quốc thảm sát lính hải quân Việt Nam. Ông nói :
"Tôi nhớ rõ tại thời điểm đấy phía Việt Nam có tổ chức một buổi lễ truy điệu rất lớn, và người đứng đầu tỉnh Khánh Hòa nói một câu là "chúng ta khắc cốt khi xương mối thù này". Nghĩa là họ không thể quên được. Đó là điều chắc chắn. Phải nói đây là vụ thảm sát của quân Trung Quốc đối với bộ đội Việt Nam, trên vùng đảo của Việt Nam. Sau đó phía Trung Quốc chiếm trọn đảo đá Gạc Ma. Đây là vụ xâm lược.
Sau Hội nghị Thành Đô thì mọi việc phụ thuộc vào tình hình và ‘thời tiết’ chính trị trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Có những lúc ai lên tiếng về vụ này thì bị cho là ‘phản động’. Công an băt, chặn đường. Có lúc thì họ thấy cần phải nhắc lại. Nó tùy thuộc vào nhu cầu chính trị của giới lãnh đạo Việt Nam".
Ông Đinh Đức Long kết luận, phía chính quyền thấy có lợi thì tổ chức tưởng niệm, báo chí nhắc nhớ. Còn họ thấy không có lợi thì họ im. Việt Nam là như thế. Chính trị đu dây.
Theo những người trong cuộc, chiều 13/3/1988, tàu HQ-604 vừa đến Gạc Ma và bị quân Trung Quốc dùng loa cảnh báo. Anh Dương Văn Dũng, người sống sót sau trận thảm sát, nói rõ lúc ấy Trung Quốc có 3 tàu chiến bao vây con tàu vận tải HQ-604 của hải quân Việt Nam. Anh kể lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, phía Việt Nam vẫn bám đảo và sáng mai thì phía Trung Quốc tấn công. Anh kể :
"Chúng tôi biết rằng đã bị thua thế và mắc mưu Trung Quốc, cho nên chỉ làm bia đỡ đạn cho địch thôi chứ không biết nói sao. Họ là phía hành động tất cả. Khi họ tràn qua đánh thì chúng tôi biết rằng chỉ có chết thôi chứ làm sao sống được ? Ở đó chỉ có nước và trời, không phải rừng núi, trốn vào đâu được ? Khi hành động là họ vây mình hết rồi, nên mình chỉ có chết thôi. Tất cả các anh em đều bị bắn xối xả hết. Tôi vẫn nhớ kỹ mà. Tôi nhìn rõ hết mà. Dễ sợ lắm".
Người dân tham dự buổi tưởng niệm 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam bị thảm sát hôm 14/3/1988. Ảnh chụp hôm 14/3/2013 tại Hà Nội. AFP
Anh Lê Minh Thoa, một người lính sống sót nhớ lại, lính Việt Nam chết gần hết, xác họ trôi lơ lửng, máu tràn lan trên biển, máu của lính từ mạn tàu chảy xuống. Sau này khi anh xem lại đoạn phim về trận hải chiến này do Trung Quốc làm, anh vẫn nhớ như in cảnh tượng kinh hoàng ấy.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, vào năm 2018 đã đánh giá quyết định không nổ súng của Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh trong trận Gạc Ma :
"Tôi cho rằng lúc bấy giờ ông Lê Đức Anh được đưa lên làm Bộ trưởng Quốc phòng mà làm cái việc như thế là một việc phản quốc. Ra lệnh không được bắn lại để cho Trung Quốc nó giết chiến sĩ của mình như là bia sống thì tôi cho đó là một hành động phản động, phản quốc".
Thiếu tướng Lê Mã Lương, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, từng giữ chức Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam chia sẻ với RFA 30 năm sau sự kiện này :
"Trong lịch sử của Hải quân Nhân dân Việt Nam chưa có trận nào mà hải quân ta chỉ có mấy phút thôi chúng ta chết đến hơn nửa đại đội. Không có chuyện lịch sử Hải quân, lịch sử của các đơn vị chiến đấu bộ binh chỉ trong mấy phút mà tiêu như thế, trừ bom, nó bỏ trúng đội hình đang hành quân hoặc là nó thả trúng đội hình đang đóng quân còn trong đánh nhau ta cũng trong thế chủ động thì không có chuyện đó. Cho nên đó là cái nỗi đau mà nỗi đau này nó âm ỉ và nó sẽ đi với người lính cho tới khi kết thúc sứ mệnh trên cái đất này".
Tuy nỗi đau là thế, nhưng báo chí trong nước chỉ lên tiếng trong hai năm rồi im bặt. Mãi đến những năm sau này mới nhắc lại cầm chừng.
Nhà báo Võ Văn Tạo, người từng viết những bản tin liên quan đến vụ Gạc Ma, kể rằng ngày 20 tháng 12 năm 2008, khi nghe thông tin ngư dân Lý Sơn tình cờ tìm thấy di cốt liệt sĩ trong chiếc tàu đắm ở Gạc Ma, ông đã xác minh qua Trưởng Ban Chính sách Vùng 4 Hải quân, Trưởng Phòng Chính sách Quân chủng Hải quân, thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, rồi viết thành bản tin, gửi Tòa soạn báo Tuổi Trẻ và chia cho phóng viên Nguyễn Đình Quân của Tiền Phong, thường trú Nha Trang. Sau đó, biên tập viên báo Tuổi Trẻ là ông Đặng Đại, cho biết bản tin này "nhạy cảm" nên không thể đăng. Đến ngày 21/12 thì báo Tiền Phong đăng. Sau khi Tiền Phong đăng thì hôm sau, báo Tuổi Trẻ cũng đăng. Nhưng khuya cùng ngày (22/12), thì các bản tin online trên Tuổi Trẻ và Tiền Phong đều bị gỡ.
Trao đổi với RFA tối 13/3/2020, nhà báo Võ Văn Tạo phân tích :
"Nói cho đúng là sau trận đánh đó, báo chí cả nước ồn ào đưa tin suốt hai năm (1988 – 1989). Đến sau Hội Nghị Thành Đô năm 1990 thì câm lặng luôn cho đến sự kiện giàn khoan HD 981 tháng 5 năm 2014 thì mới bắt đầu nhắc lại sự kiện này nhưng cũng chỉ ở mức độ cầm chừng.
Trước vụ giàn khoan là không dám hó hé gì hết. Nói thẳng là như thế. Không báo nào dám đăng. Đăng là chết liền. Đến cột mốc giàn khoan 981 tháng 5 năm 2014, chính quyền Việt Nam mới thấy rõ bộ mặt của Trung Quốc nên thả cho báo chí tố cáo dần dần".
Hội nghị Thành Đô được tổ chức tại tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990. Lãnh đạo cao cấp phía Việt Nam có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng, cố vấn ban chấp hành Trung ương Đảng. Phía bên Trung Quốc là Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện.
Người dân Việt Nam cho đến nay vẫn không biết những nội dung gì được bàn thảo trong hội nghị dù ai cũng cũng biết nó liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 13/03/2020
Cựu trung tá công an Nguyễn Việt Cường vừa bị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao truy tố tội "Làm sai lệch hồ sơ vụ án", theo khoản 2 Điều 300 Bộ Luật Hình Sự năm 1999. Nếu bị kết tội, mức phạt tù sẽ từ ba năm đến mười năm.
Cảnh sát canh gác bên các xe chở phạm nhân đến tòa. AFP
Theo cáo trạng, năm 2012, ông Cường với vai trò là Đội trưởng Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm ma túy Công an thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên được giao điều tra vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy liên quan đến bà Nguyễn Hồng Ngọc Anh. Khi bị tòa phạt 7 năm tù, bà Anh kháng cáo cho rằng không liên quan đến việc mua bán ma túy. Tòa án Phú Yên tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Quá trình điều tra lại đã phát hiện Trung tá Nguyễn Việt Cường tự ý viết thêm vào các biên bản hỏi cung để buộc tội bị can.
Cựu Tù nhân Nhân quyền Nguyễn Ngọc Già nhận định về trường hợp này :
"Nếu tôi nhớ không lầm thì đây là trường hợp đầu tiên vụ án ‘làm sai lệch hồ sơ vụ án’ được nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam công khai đưa lên mặt báo. Việc đưa lên báo chí như vậy là để chứng minh với thế giới rằng họ cũng có pháp luật bởi họ đang bị lên án là một nhà nước vô pháp, chà đạp nhân quyền. Nhưng theo tôi nghĩ thì họ không che mắt được thế giới cũng như không che mắt được người dân trong nước đâu".
Ông Nguyễn Ngọc Già cũng cho hay, hồi ông bị giam ở trại giam Chí Hòa với đủ loại tội phạm thì chuyện làm sai lệch hồ sơ vụ án, chuyện ép cung, bức cung, dụ cung và chạy án xảy ra rất thường xuyên.
Nhà báo Võ Văn Tạo, người từng làm Hội thẩm Nhân dân nhiều năm trước đây cho rằng chuyện như vậy là có nhưng không nhiều. Ông nêu nguyên nhân :
"Vô tư mà nói thì chuyện đó có nhưng ít thôi. Không phổ biến. Nguyên nhân là khi khởi tố vụ án mà không khởi tố được bị can là coi như thất bại, mất điểm thi đua. Khởi tố bị can nhưng không buộc tội được, tức Viện kiểm sát không phê chuẩn để bắt và đưa ra tòa truy tố hoặc tòa phủ nhận hổ sơ truy tố thì công an cũng bị trừ điểm thi đua, bị chậm lên lương, bị đánh giá kém năng lực".
Trong khi đó, Luật sư Phạm Công Út lại cho rằng việc viết thêm vào biên bản hỏi cung xảy ra rất nhiều. Phần viết thêm đó gọi là phần bất lợi nhất trong toàn bộ bản cung khi tòa dựa vào phần cuối của bản cung để kết tội. Ông và các đồng sự từng chứng kiến một số vụ án mà khi ra tòa, bị cáo nói là phần này họ không khai nhưng chữ ký thì đúng là chữ ký của họ. Ông nói :
"Khi lấy lời khai của bị can, người bị tình nghi hay người bị tố giác thì phần cuối cùng của bản cung thường để trống. Cảnh sát điều tra kêu bị can, người bị tình nghi hay người bị tố giác ký tên vào. Những người bị điều tra thường lâm vào tình trạng mệt mỏi do làm việc mấy tiếng đồng hồ liên tục, mà đa số họ không để ý phần cuối cùng để trống còn lại là phải gạch chéo, phải khóa đuôi do đó sau khi ký tên rồi thì phía điều tra viên có thể thêm, bớt. Thậm chí có những bản cung không có chữ mà bị can vẫn phải ký tên vô vì người ta sợ hãi mà ký vào".
Luật sư Nguyễn Văn Đài, đồng thời là cựu tù nhân chính trị thì cho rằng chuyện điền thêm hay viết thêm vào biên bản hỏi cung là chuyện bình thường ở các trại tạm giam. Thậm chí phía công an viết sẵn biên bản rồi ép phạm nhân ký vào. Vì sợ hãi mà họ phải ký. Ông kể lại chuyện ông bị tạm giam với tất cả những thường phạm tại Trại giam số 1 Thành phố Hà Nội, từ ngày 6/3/2017 đến ngày 4 tháng 1 năm 2018 :
"Sau khi họ (những người bị giam chung) gặp công an để thẩm vấn về thì đa số họ cho hay công an, điều tra viên đã viết sẵn lời khai, viết sẵn câu trả lời. Khi ra thì họ đưa cho đọc hoặc họ đọc rồi ép ký tên.
Theo nguyên tắc của các nước dân chủ thì họ phải điều tra theo dõi thật kỹ. Có tang chứng vật chứng đầy đủ họ mới bắt. Nhưng ở Việt Nam thì họ bắt rất là nhanh. Bắt xong mới đi tìm chứng cứ buộc tội".
Cựu Tù nhân Nhân quyền Nguyễn Ngọc Già nói về trường hợp của ông :
"Đối với trường hợp riêng tôi thì nói một cách công bằng, họ không dám viết thêm bất cứ cái gì vào. Tôi nói sao thì viết y như vậy. Đó là sự thật. Nhưng kết tội tôi Điều 88 thì tôi đã có rất nhiều bài trên RFA rồi. Đó là một cách kết tội vớ vẩn. Không chứng minh được động cơ. Không chứng minh được mục đích. Không chứng minh được hậu quả thì làm sao mà ra tội hình sự được ?".
Ngoài việc làm sai lệch hồ sơ vụ án bằng cách viết thêm. Phía an ninh, cơ quan điều tra còn làm sai lệch hồ sơ các vụ án chính trị bằng cách ép theo hướng mà họ muốn. Ví dụ ép người dân vào tội chống nhà nước dù người dân chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận theo hiến pháp. Trong luật hình sự Việt Nam thì phải thỏa mãn 4 yếu tố chủ thể ; khách thể ; chủ quan và khách quan mới cấu thành tội phạm. Đối với tội chính trị thì nó chỉ thỏa mãn ba yếu tố là chủ thể ; khách thể và khách quan, tức là hành vi. Còn yếu tố chủ quan thì không bao giờ đáp ứng.
Điều này từng xảy ra với các nhà báo độc lập, các bloggers. Luật sư Đài phân tích :
"Một người có những bài viết bày tỏ nỗi bức xúc của họ về đất nước hay thời cuộc thì đó chỉ là bức xúc cá nhân. Về mặt nguyên tắc thì đó là quyền tự do ngôn luận của họ. Nhưng trong luật hình sự của cộng sản Việt Nam thì họ có hai Điều để trừng trị những người hực thi quyền tự do ngôn luận, là Điều 117 và Điều 331. Những người này họ hoàn toàn không có ý thức chống Nhà nước nhưng họ luôn bị làm sai lệch hồ sơ theo hướng bị ép buộc có ý thức chống Nhà nước".
Việc cơ quan cảnh sát điều tra làm sai lệch hồ sơ vụ án hay dùng nhục hình, bức cung để buộc nghi phạm nhận tội dẫn đến những vụ án oan. Vụ ông Nguyễn Thanh Chấn là một ví dụ. Ông Chấn đã bị kết án chung thân về tội giết người. Ông chỉ được trả tự do sau hơn 10 năm ngồi tù khi hung thủ thực sự của vụ án ra đầu thú.
Hay như vụ cả gia đình ở Tây Ninh bị bắt oan, bị tù oan rồi được thả đã không thể kêu oan suốt 40 năm qua vì luật lúc bấy giờ không quy định phải cấp giấy trả tự do cho người bị tạm giam.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 06/03/2020
Người đẹp Bình Dương đã làm dậy sóng mạng Facebook Việt Nam trong ngày 25/2/2020 sau khi livestream để đắc thắng khoe "chiến tích" vượt qua cửa ải cách ly ở sân bay sau khi trở về Việt Nam từ tâm dịch Hàn Quốc.
Cửa ải cách ly ở sân bay sau khi trở về Việt Nam từ tâm dịch Hàn Quốc.
Cô tự cho rằng mình là người có não để đủ khôn ngoan không khai báo từ tâm dịch Hàn Quốc trở về. Với một cái tôi quá lớn nhằm khoe thành quả đạt được mà quên đi những người có thể bị cô lây nhiễm bệnh nếu chẳng may cô có nhiễm bệnh từ Hàn Quốc.
Chính vì tự nghĩ mình sẽ nổi tiếng bằng "cái não phụ nữ" mà không khó gì để người ta có thể truy lùng ra cô là ai. Cô có lẽ có "bộ não" nhưng lại thiếu mất trái tim.
Hãy nhìn lại trường hợp ở Ý. Bệnh nhân số 1, được mệnh danh là "người siêu truyền bệnh".
Thứ Tư tuần rồi, bệnh nhân Mattia 38 tuổi đến bênh viện trong tình trạng có những biểu hiện của căn bệnh hiện đang lây lan rất nhanh và chưa có vaccine để phòng ngừa. Thế nhưng bệnh viện nơi ông Mattie đến khám đã không cách ly ông để rồi cả nước Ý giờ đây phải trả giá bằng 12 mạng người và 400 người nhiễm bệnh chỉ trong vòng một tuần lễ.
Họ là những bệnh nhân, y tá, bác sỹ trong bệnh viện mà ông Mattie đã đến khám, là đồng nghiệp, bạn bè, thậm chí chỉ là những người khách cùng ngồi quán cà phê với ông ta một buổi sáng dù họ không hề có tiếp xúc trực tiếp với Mattie.
Người ta ước tính chỉ riêng ông Mattie đã truyền nhiễm bệnh cho ít nhất 220 người ở vùng Bắc Ý.
Một người đàn ông 30 tuổi tự nhận biết mình đã bị cúm dù không tiếp xúc với ông Mattie nhưng có anh trai là đồng nghiệp của Mattie. Người này đã tự cách ly để tránh lây lan cho người khác chỉ bằng một suy nghĩ đơn giản : " Tốt hơn là ở lại trong vùng lây nhiễm, tránh xa những người khác".
Nước Ý vẫn chưa thể truy tìm ra bệnh nhân số 0 tức người gây bệnh đầu tiên. Dù Ý có hoãn các chuyến bay trực tiếp từ Trung Quốc, song người ta vẫn có thể đến Ý bằng các ngõ khác hay đường vòng và từ đó đã gây ra dịch bệnh.
Câu hỏi đặt ra là tại sao tại virus ở Ý lại có thể lây lan nhanh đến như vậy chỉ trong vài ngày ? Cho đến thời điểm này đã có 470 ở Ý nhiễm bệnh.
Cả những người du lịch đến Ý trong thời gian qua cũng đã trở thành những bệnh nhân Vũ Hán đầu tiên ở các quốc gia Châu Âu như Croatia, Bắc Marcedonia, Phần Lan, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Rumania, Đức, Thuỵ Điển và cả một bệnh nhân người Brazil vừa đi du lich ở Ý trở về.
Cũng tương tự như vậy với các trường hợp lây nhiễm ở Trung Đông khi họ trở về từ tâm dịch Iran (Bahrain, Kuwait, Iraq, Lebanon, Afganistan, Oman). Canada thậm chí cũng có bệnh nhân vừa trở về từ Iran.
Cho dù có (những) người phụ nữ biết dùng não như người đẹp Bình Dương, những người từ tâm dịch Vũ Hán trở về ăn tết, hay người Hàn, Trung Quốc qua Việt Nam du lịch lũ lượt từ đầu năm tới giờ mà số người bị lây nhiễm bệnh cúm Vũ Hán ở Việt Nam không tăng ?!
Có phải vì do điều kiện khí hậu, do khống chế dịch tốt mà con số người nhiễm bệnh ở Việt Nam chỉ dừng lại ở 16 dù nằm sát nách với Trung Quốc nơi hiện đã có 78.074 người nhiễm bệnh ?
Câu trả lời có lẽ cần phải có bộ não thật sự !
Diễm Thi
Nguồn : VNTB, 27/02/2020
Chú thích :
1. https://www.worldometers.info/coronavirus/#countries
Bộ Công an đề xuất sửa đổi Luật cư trú theo hướng bỏ sổ hộ khẩu giấy, sổ tạm trú để quản lý dân cư thông qua hình thức mã số định danh cá nhân qua Dự thảo lần 2 Luật Cư trú (sửa đổi). Dự thảo bắt đầu lấy ý kiến người dân từ ngày 19 tháng 2 đến ngày 19 tháng 4 năm 2020.
Năm 2020 tất cả trẻ sơ sinh sẽ được cấp mã số định danh - Mẫu giấy khai sinh có mã số định danh cá nhân. Ảnh : Bá Đô
Việc thay đổi này được Bộ Công an cho là sẽ giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân.
Quản lý người dân bằng hộ khẩu được Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa áp dụng ở miền Bắc từ thập niên 1950. Đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cách quản lý này được áp dụng trên toàn cõi Việt Nam. Cuốn sổ hộ khẩu do cơ quan công an cấp và liên quan đến hầu như mọi lĩnh vực cuộc sống của người dân. Mấy chục năm qua, hộ khẩu vẫn là cái "vòng kim cô" trên đầu người dân như nữ Luật sư Lê Thị Công Nhân từ Hà Nội từng nhận xét :
"Sổ hộ khẩu thì luôn như một cái vòng kim cô treo lên đầu mỗi người dân Việt Nam. Bản thân tôi là một người học về luật nhưng cũng không hiểu ý nghĩa tích cực của hộ khẩu nằm ở chỗ nào, ngoài việc ràng buộc con người trong việc di chuyển không gian hay lãnh thổ thì đều phải báo cáo. Người công an luôn tự cho mình cái quyền rất lớn trong việc xâm nhập vào tư gia của người dân cũng như các công ty, xí nghiệp để kiểm tra xem có ai ở đó".
Vị luật sư nói thêm rằng, về ý nghĩa nhân văn, khi con người bị ràng buộc vào những thủ tục vô giá trị như vậy thì sự tự do và nhân phẩm của con người bị hạ xuống rất nhiều.
Cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Tiến Trung coi chính sách quản lý công dân bằng hộ khẩu là vi phạm quyền an cư, hạn chế quyền đi lại tự do, quyền không bị phân biệt đối xử và quyền được hưởng an sinh xã hội của người dân. Anh nói thêm :
"Tôi thấy chế độ hộ khẩu tạo ra bất bình đẳng rất lớn về cơ hội đối với người dân. Hầu hết các quốc gia trên thế giới không ai quản lý bằng hộ khẩu cả, cần phải bãi bỏ !"
Đây không phải lần đầu cơ quan chức năng Việt Nam đề cập đến việc bãi bỏ cuốn sổ hộ khẩu.
Trong Nghị quyết 112/NĐ-CP về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công an, được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành ngày 30 tháng 10 năm 2017 có điều khoản bãi bỏ hình thức quản lý dân cư đăng ký thường trú bằng "Sổ hộ khẩu".
Một tuần sau đó, Trung tướng Trần Văn Vệ, quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phát biểu tại cuộc họp báo của Bộ Công An rằng không có chuyện bỏ sổ hộ khẩu. Theo ông Vệ, các cơ quan chức năng sẽ đề xuất bỏ sổ hộ khẩu giấy với Bộ Công An chỉ khi nào thu thập xong cơ sở dữ liệu dân cư. Ông khẳng định rằng chắc chắn đến năm 2020 sẽ làm xong cơ sở dữ liệu này. Lúc đó, Bộ Công an sẽ đề xuất bỏ sổ hộ khẩu. Cuối cùng việc đó cũng đến. Tiến sĩ Xã hội học Phạm Quỳnh Hương nói với RFA :
"Việc quản lý dân cư để điều tra, thống kê dân số, giữ an ninh trật tự xã hội thì chúng tôi ủng hộ, nhưng dùng hộ khẩu để làm khó dân, để kiểm soát mọi sinh hoạt, đời sống người dân thì cần bãi bỏ vì nó không thể hiện nếp sống văn minh, vi phạm quyền của người dân".
Muốn hội nhập thì phải thay đổi
Những đứa trẻ Việt Nam trở về nước từ Campuchia hôm 24/3/1993. AFP
Chuyện cái hộ khẩu không còn là ‘chuyện nội bộ’ khi Việt Nam muốn hội nhập.
Giữa năm 2016, trong buổi hội thảo công bố Báo cáo nghiên cứu hệ thống đăng ký hộ khẩu ở Việt Nam do Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và Ngân hàng Thế giới tổ chức tại Hà Nội, ông Achim Fock, Quyền Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khẳng định hệ thống hộ khẩu tạo ra bất bình đẳng cho người dân.
Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương cũng có cùng nhận định.
"Việc bỏ hộ khẩu đã được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội kiến nghị nhiều lần và rất là lâu rồi. Hai mươi năm trở lại đây có nhiều nghiên cứu kiến nghị là bỏ hộ khẩu, thế nhưng vẫn chưa được.
Việc quản lý dân cư là cần thiết, nhưng với chính sách tất cả mọi thứ đều dựa vào hộ khẩu như thời bao cấp là một điều bất cập. Có một sự bất bình đẳng giữa người có hộ khẩu và người không có hộ khẩu. Người không có hộ khẩu rất khó khăn và thiệt thòi khi tiếp cận những dịch vụ công cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh trong đời sống".
Cựu Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang, người từng có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành công an và am hiểu về các thủ tục hành chính ngành này cho rằng việc bãi bỏ hộ khẩu là việc đáng lẽ phải làm từ lâu chứ không phải đến bây giờ mới chỉ đề xuất, bởi còn duy trì sổ hộ khẩu thì các cán bộ công quyền còn lợi dụng việc này để hành dân. Điều đó chỉ có hại cho xã hội và đất nước :
"Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay luôn quản lý xã hội theo mô hình quản lý hộ khẩu. Đây là cách thức quản lý mà có lẽ chỉ một vài nước lạc hậu trên thế giới đeo đuổi thôi. Nhiều nước không lạc hậu nhưng người ta theo thể chế toàn trị, quản lý từng con người đến tận thôn xóm. Họ muốn duy trì điều đó bất kể sự phiền hà hay khổ sở của người dân".
Cho đến bây giờ, chỉ còn ba nước trên thế giới duy trì chế độ hộ khẩu là Việt Nam, Bắc Hàn và Trung Quốc. Trong đó Trung Quốc cũng có nhiều lần cải cách với mục đích quản lý người dân thành phố chặt chẽ khi mật độ người dân từ thôn quê đổ về thành thị quá đông kể từ khi mở cửa kinh tế vào năm 1978, lộ rõ những bất cập.
Từ giữa năm 2001, Trung Quốc bắt đầu thực hiện vài cuộc cải cách hộ khẩu nhỏ. Đến năm 2005 cải cách được nhân rộng tại một số thành phố lớn, trong đó có Bắc Kinh, Trùng Khánh và Thượng Hải.
Cho đến năm 2014, chính phủ Trung Quốc lên kế hoạch đến năm 2020 sẽ cấp mới 100 triệu "hộ khẩu thành thị" cho người dân.
Việt Nam là một nước có cùng thể chế chính trị, nên nhiều người cho rằng, việc cải cách hộ khẩu ở Việt Nam cũng là học theo Trung Quốc. Nhà báo Võ Văn Tạo lập luận :
"Theo tôi biết thì Trung Quốc đã làm trước rồi, mà Việt Nam hay học Trung Quốc vì cùng một thể chế chính trị. Các thể chế nhà nước cộng sản độc tài lúc nào cũng muốn kiểm soát người dân thật lỹ lưỡng, quá mức cần thiết. Bây giờ muốn hòa hợp với quốc tế thì phải thay đổi sao cho văn minh hơn".
Theo những gì mà Bộ Công An nêu ra trong dự thảo đang lấy ý kiến người dân, thì sau khi chuyển sang quản lý hộ khẩu điện tử, công dân có quyền được bảo đảm bí mật thông tin.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 24/02/2020
Dự thảo Quy chế tổ chức và hoạt động của các cấp Hội đồng Giáo sư nhà nước yêu cầu công khai lý lịch khoa học của các ủy viên Hội đồng Giáo sư nhà nước, nhưng không công khai lý lịch khoa học của lãnh đạo hội đồng này. Dự thảo được công bố lần đầu vào ngày 14/1/2019 và hiện đang gửi Vụ Pháp chế của bộ xem xét, trước khi trình Bộ trưởng Giáo dục và đào tạo ký ban hành.
Ông Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, Chủ tịch Hội đồng Giáo sư nhà nước. Reuters
Nhà nghiên cứu văn hóa, Giáo sư Nguyễn Khắc Mai nói rằng, họ giấu thông tin vì họ muốn đưa những người trong phe nhóm vào làm bất chấp việc không công khai lý lịch là một chủ trương không đàng hoàng. Lý lịch khoa học không phải bí mật của ngành nghề hay bí mật quốc gia. Ông nhấn mạnh :
"Chuyện công khai lý lịch khoa học có việc gì mà phải che giấu ? Che giấu vì sợ lòi cái dốt ra người ta chê cười. Lãnh đạo thì phải chọn người có lý lịch khoa học tốt nhất, tử tế nhất để người ta đánh giá. Theo tôi nghĩ đây là vấn đề lẩn quẩn mà thật ra nó chỉ xuất hiện trong một chế độ độc tài mà thôi, che giấu và dối trá".
Còn với Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng thì đây là một minh chứng cho thấy rõ giới lãnh đạo không có trình độ học tập nghiêm túc nên họ phải giấu diếm, họ sợ lộ ra sẽ mất uy tín với người dân về vị trí lãnh đạo của họ. Và đây không chỉ là chuyện của Hội đồng Giáo sư nhà nước. Ông nêu nhận xét :
"Tôi thấy lãnh đạo Việt Nam, không chỉ Hội đồng Giáo sư mà tất cả mọi ngành, mọi cấp đều không công khai lý lịch khoa học của mình. Đối với một người làm khoa học mà không công khai lý lịch khoa học của mình thì đây là điều không có gì vinh hạnh cho nền học thuật Việt Nam.
Khoa học mà không trung thực, không sáng tỏ, không minh bạch thì không còn là khoa học đúng nghĩa được".
Giáo sư không có công trình nghiên cứu
Hội đồng Giáo sư nhà nước hay Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước Việt Nam là một hội đồng quan trọng của ngành giáo dục Việt Nam, có nhiệm vụ, vai trò như trọng tài đề cử, xem xét, và phong tặng chức danh giáo sư của Việt Nam.
Hội đồng hiện có 28 ủy viên và ba lãnh đạo do Thủ tướng bổ nhiệm, trong đó Giáo sư-tiến sĩ Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng.
Phó Giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng hiện giảng dạy tại Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng ông Nhạ giữ vị trí này là không hợp lý mà nên trả lại vị trí đó cho giới nghiên cứu, giới khoa học. Ông phân tích :
"Các thành viên mà không phải lãnh đạo thì có công trình nghiên cứu thật, do đó họ được đưa vào Hội đồng Giáo sư nhà nước. Còn Chủ tịch Hội đồng theo quy định ở Việt Nam là Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Mà đã là Bộ trưởng Bộ Giáo dục thì không có thời giờ đâu mà nghiên cứu".
Theo Phó Giáo sư Hoàng Dũng, việc công khai lý lịch khoa học của các vị lãnh đạo trong hội đồng, mà cụ thể là ông Phùng Xuân Nhạ, sẽ làm mất mặt ông Chủ tịch Hội đồng khi ông không có công trình nghiên cứu nào cả mà chỉ là con số trắng hoàn toàn. Ông nói tiếp :
"Ông Phùng Xuân Nhạ mà công bố lý lịch khoa học của ông thì may lắm ông chỉ có những bài nghiên cứu từ khi ông chưa phải là giáo sư, thậm chí chưa phải là hiệu trưởng trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi nghĩ chắc ông Nhạ ‘e thẹn’ nên không công khai luôn".
Tháng 2 năm 2018, Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng tại Đại học Toulouse, Pháp, gửi một báo cáo 10 trang đến Tổng thư ký của Hội đồng Chức danh Giáo sư nhà nước Việt Nam, Giáo sư Trần Văn Nhung, nêu bằng chứng Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ "tự đạo văn", "giả khoa học" cũng như "thiếu cả về đạo đức và trình độ" của vị bộ trưởng này.
Thật ra không chỉ ông Nhạ, trong số 1.226 giáo sư, phó giáo sư được xét duyệt năm 2017, số người có công trình nghiên cứu khoa học hàng năm được đăng trên các tạp chí quốc tế ISI/Scopus rất thấp so với các nước trong khu vực. Ví dụ, chỉ tính trong năm 2016, Việt Nam có hơn 3.800 bài báo khoa học quốc tế thì Thái Lan đã có hơn 8.800 bài và Malaysia có hơn 14.000 bài.
"Vừa hồng vừa chuyên"
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nhìn nhận đây là một cách thú nhận sự khuất tất của giới lãnh đạo nói về phương diện học thuật một cách rõ ràng nhất. Ông giải thích :
"Dễ hiểu thôi, đó là những lãnh đạo được chọn lựa không phải theo hướng có học thực sự nghiêm túc. Từ lâu Việt Nam vẫn đưa ra chủ trương ‘vừa hồng vừa chuyên’ mà theo tôi thấy thì ‘hồng nhiều hơn chuyên’ cho nên chuyên môn của họ không rộng, từ đó có những khuất tất. Có những bằng cấp, học vị có được không bằng con đường chính danh, nghiêm túc cho nên họ sợ mất uy tín thì họ phải khỏa lấp bằng cách giấu giếm".
"Vừa hồng vừa chuyên" mà Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng vừa nói đến là dựa theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ khởi thảo vào năm 1965 và qua một số lần sửa chữa, được hoàn chỉnh vào tháng 5 năm 1969, trong đó có đoạn : "Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa ‘hồng’ vừa ‘chuyên’.
Quyết định 37/2018/QĐ-TTg yêu cầu các ứng viên giáo sư, phó giáo sư phải công khai lý lịch khoa học, từ cơ sở đến cấp ngành và trên cả trang web chính thống của Hội đồng Giáo sư nhà nước để các đồng nghiệp và xã hội phản biện. Vậy việc không công khai lý lịch khoa học của các vị lãnh đạo có điều gì khuất tất hay không ?
Truyền thông trong nước dẫn lời Phó Giáo sư Trần Minh Tiến, Viện Vật lý - Viện hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam rằng, bản dự thảo Thông tư sửa đổi này là một bước thụt lùi, bãi bỏ tính minh bạch và công khai mà Chính phủ đang theo đuổi và thực thi. Phó Giáo sư Tiến lập luận rằng, trong khi lý lịch khoa học của các ứng viên giáo sư/phó giáo sư phải công khai trên trang thông tin điện tử của Hội đồng Giáo sư nhà nước, mà bản tóm tắt lý lịch khoa học của những người xét duyệt lại giấu đi, không công khai thì thật là một điều khó hiểu!
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 21/02/2020
Bài học cho Việt Nam
Ngày 17/02/1979, Trung Quốc đem quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 16/03/1979.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. AFP
Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình, sau đó tuyên bố Trung Quốc đã đạt được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc, đồng thời khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn".
Phía Việt Nam cũng khẳng định đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Phải mất hơn 10 năm sau, năm 1991, quan hệ ngoại giao hai nước Việt-Trung mới chính thức được bình thường hóa.
Ông Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử hơn 30 năm tại Việt Nam, nhận định rằng học thuyết đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Marx-Lenin hoàn toàn phá sản sau cuộc chiến này, bởi chủ nghĩa Marx-Lenin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp giữa hai hệ thống đối lập là tư bản và cộng sản. Cuộc chiến tranh biên giới lại là cuộc chiến giữa đồng chí với đồng chí. Ông nói thêm về mối quan hệ hai nước sau chiến tranh :
"Từ khi Việt Nam và Trung Quốc trở lại quan hệ bình thường do những cam kết của lãnh đạo cao cấp hai bên thì chính phủ Việt Nam dường như muốn quên đi quá khứ đau buồn đó để hướng tới tương lai. Nhưng Trung Quốc thì họ không quên, hàng năm họ vẫn tưởng niệm cuộc chiến tranh mà họ gọi là ‘dạy cho Việt Nam một bài học’. Chúng ta muốn quên đi cũng không được vì cuộc chiến này để lại cho hai nước quá nhiều hệ quả cho đến hôm nay mặc dù đã bình thường hóa quan hệ.
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc để lại cho Việt Nam một bài học rất lớn mà Nhà nước cần phải thấm nhuần. Tức là "không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi của quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn mà thôi". Đó là điều Việt Nam phải nhớ nằm lòng".
Dù cuộc chiến qua đi đã 41 năm, hai nước đã bình thường hóa quan hệ với phương châm 4 tốt : Láng giềng tốt - bạn bè tốt - đồng chí tốt - đối tác tốt và 16 chữ vàng : Láng giềng hữu nghị - Hợp tác toàn diện - Ổn định lâu dài - Hướng tới tương lai, nhưng mối quan hệ giữa hai nước vẫn bất bình đẳng. Việt Nam vẫn thua thiệt rất nhiều so với Trung Quốc do lệ thuộc về kinh tế, mắc mứu về chính trị, nhất là tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông. Dường như Trung Quốc không thực sự coi Việt Nam là bạn, mà luôn khống chế Việt Nam, coi Việt Nam là một nước chư hầu của mình.
Thạc sĩ Hoàng Việt, một thành viên của Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông nhận định :
"Vấn đề gai góc nhất trong mối quan hệ Việt Trung bây giờ là Biển Đông. Trung Quốc đã có rất nhiều hành động như năm 2011 thì cắt cáp, năm 2014 thì đặt giàn khoan, năm 2019 thì cho tàu thăm dò dầu khí vào quấy nhiễu 113 ngày. Hành động của phía Việt Nam thì khác nhau tùy từng giai đoạn. Nếu năm 2014 rất mạnh mẽ, quyết liệt thì năm 2019 lại nhẹ nhàng, hòa hoãn. Năm 2017, trước sức ép của Trung Quốc, Việt nam yêu cầu Repsol phải rút khỏi khu vực Cá rồng đỏ.
Như vậy nếu nói về kinh tế thì rõ ràng Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc là khá nhiều".
Theo ông Đinh Kim Phúc, mối quan hệ bất bình đẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn xảy ra vì Việt Nam vẫn còn ảo tưởng rằng hai nước có chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh, Trung Quốc không phải là xã hội chủ nghĩa, và trên thế giới hiện nay cũng không có một quốc gia nào là xã hội chủ nghĩa (kể cả Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Cuba) mà họ xây dựng cái màu sắc xã hội chủ nghĩa đó theo hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia theo quyền lợi chiến lược của họ mà thôi, chứ không theo nguyên tắc của chủ nghĩa Marx-Lenin đã đề ra.
Mãi là quan hệ bất bình đẳng
Những nhà hoạt động mang tấm biểu ngữ phản đối Trung Quốc nhân lễ kỷ niệm 37 năm cuộc chiến Biên giới 17/2/1979, ở Hà Nội hôm 17/2/2016 - AFP
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trải qua rất nhiều thăng trầm từ hàng ngàn năm qua do Trung Quốc luôn muốn xâm chiếm Việt Nam. Nhiều chuyên gia nhận định mối quan hệ hai nước đi từ chiến tranh đến hữu hảo - nhún nhường - nhẫn nhục. Thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng đây là điều bình thường của tất cả các quốc gia trong khu vực chứ không chỉ riêng Việt Nam. Ông phân tích :
"Vì trải qua thời gian chiến tranh, nên dù mang tiếng là bình thường hóa nhưng phải mất một thời gian dài quan hệ hai nước mới được cải thiện.
Đến bây giờ thì quan hệ hai nước đã có những mặt được cải thiện rất nhiều nhưng có sự nhún nhường, nhẫn nhục.
Nhún nhường thì đương nhiên, cũng dễ hiểu vì Việt Nam nằm cạnh Trung Quốc, là láng giềng của Trung Quốc mà lại nhỏ hơn, yếu hơn Trung Quốc rất nhiều. Nói cho cùng thì không chỉ Việt Nam mà những quốc gia khác trong khu vực Đông nam Á cũng đều cần lợi ích từ Trung Quốc và đương nhiên cũng phải có sự nhún nhường nhất định".
Năm 1979, Trung Quốc tuyên bố muốn ‘dạy cho Việt Nam một bài học’ nên đem quân đánh Việt Nam. Bây giờ Trung Quốc lại muốn xâm chiến Biển Đông. Vậy liệu Trung Quốc cho dạy cho Việt Nam bài học nào nữa hay không ?
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt thì những khúc mắc, xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục xảy ra bởi mặc dù phía Việt Nam luôn khẳng định quan điểm bất biến là chủ quyền không thay đổi, bằng mọi cách phải bảo vệ chủ quyền cũng như muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không muốn phá vỡ tình hữu hảo với Trung Quốc.
Nhưng phía Trung Quốc lại luôn khẳng định Biển Đông là lợi ích cốt lõi và luôn muốn thực hiện trong thực tế đường lưỡi bò họ tự vẽ ra.
Ông Đinh Kim Phúc khẳng định bất cứ một chế độ nào khác xuất hiện ở Trung Quốc, kể cả nền cộng hòa, thì âm mưu bá quyền nước lớn cũng không bao giờ thay đổi. Tham vọng này không chỉ của Đảng cộng sản Trung Quốc mà đã có từ thời Nhà Thanh. Tham vọng tiến về phía Nam là bản chất của Nhà nước Đại Hán từ ngàn xưa. Ông kết luận :
"Trung Quốc chỉ thừa hưởng những gì mà chế độ phong kiến để lại mà chưa thực hiện được. Chiến lược bá quyền của nhà nước phương Bắc là thâm căn cố đế".
Hành xử của Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ Hà Nội trong mối quan hệ với Trung Quốc khiến nhiều người cho rằng những bài học lịch sử nhãn tiền vẫn chưa khiến giới lãnh đạo Việt Nam thức tỉnh trước ‘chiến lược bá quyền’ của Trung Quốc như lời nhà nghiên cứu lịch sử và Biển Đông Đinh Kim Phúc vừa nhận định.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 10/02/2020