Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc vào ngày 18 tháng Chín năm 2019, không những khẳng định vùng biển ở Bãi Tư Chính (nằm ở Đông Nam Việt Nam) là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, mà còn đòi “Việt Nam phải chấm dứt các hoạt động khoan tìm dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính,” là chưa từng có, rất có thể là bước dọn đường dư luận quốc tế và dư luận tại đại lục để nhảy sang hành động tiếp biến khó lường : Chiến tranh !

chaydua1

Hải quân Việt nam vẫn thường 'tự sướng' với 'tàu buồm Lê Quý Đôn hiện đại nhất thế giới' (!?)

Sau ba lần Trung Quốc gây hấn và lộ rõ ý đồ muốn nuốt gọn Bãi Tư Chính - khu vực màu mỡ nhất về trữ lượng dầu khí và đất hiếm của Việt Nam - vào các năm 2017, 2018 và 2019, giới quan sát chính trị đang đặt dấu hỏi lớn về việc liệu Bộ Quốc phòng Việt Nam có thể gia tăng ngân sách quân sự - khí tài và vũ khí sát thương - để đối phó với Trung Quốc hay không.  

Kịch bản ngày càng lộ rõ là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ chiến dịch, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong “đường lưỡi bò” mới được Trung Quốc vẽ bổ sung.

Bước đầu, Trung Quốc có thể tấn công các tàu hải cảnh của Việt Nam đang bảo vệ Bãi Tư Chính. Sau đó, cuộc chiến sẽ leo thang với sự đụng độ giữa các tàu chiến của hai bên.

Tuy nhiên xét về năng lực hải quân thì cho dù có điều động toàn bộ số tàu chiến và hải cảnh ra Biển Đông, phía Việt Nam cũng chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng lượng tàu chiến và hải cảnh của Trung Quốc, chưa kể hàng chục ngàn tàu “thương mại dân sự,” tức tàu cá được bọc sắt, mà Bắc Kinh tung ra như một đòn chiến thuật biển vào những lúc không cần có mặt tàu chiến.

Trên một phương diện tổng quan hơn, nếu so sánh lượng chi phí quốc phòng từ 4- 5 tỷ USD/năm của Việt Nam với con số 177 tỷ USD/năm của Trung Quốc thì càng quá khập khiễng.

Nếu chỉ căn cứ vào vài so sánh trên, hoàn toàn có thể nhận ra tình thế sẽ khó lòng cầm cự được lâu của Hải Quân Việt Nam nếu nổ ra chiến tranh ở Biển Đông.

Còn nếu xét về ý chí “hải quân bám bờ” trong suốt thời gian nhiều năm qua thì chẳng có hy vọng gì về việc Hải Quân Việt Nam dám can đảm chống cự tàu Trung Quốc khi bị tấn công, thậm chí cảnh “bỏ của chạy lấy người” còn có thể lan tỏa rộng – đúng theo phương cách “chống giặc bằng cờ” mà giới chóp bu Việt Nam đang đốc thúc phát 1 triệu lá cờ đỏ sao vàng cho ngư dân để “bám biển.”

Nhưng nguy cơ mất Bãi Tư Chính, và còn có thể dẫn tới mất cả quân đảo Trường Sa, lại là cơ hội để Bộ Quốc phòng ‘vòi’ thêm tiền từ ngân sách.

Cơ quan Bộ Quốc phòng và các lực lượng biên phòng, trong khi đã chưa làm được bất kỳ động tác điều tra ra hồn nào để chỉ đích danh thủ phạm là các tàu Trung Quốc và người Trung Quốc đã đâm va, bắn giết và gây ra nhiều cái chết không thể nhắm mắt của ngư dân Việt, lại thường tự hào có đến 6 tàu ngầm lớp kilo tân trang mua lại của người Nga mà phải bỏ đến hàng tỷ USD hoặc hơn, hoặc ‘tàu buồn Lê Quý Đôn hiện đại nhất thế giới’…

Thế nhưng càng về những năm sau này, kinh phí ngân sách rót cho ngành quốc phòng, dù vẫn tăng lên đều đặn, nhung càng bị chặn trên bởi nạn túi thủng ngân khố, đặc biệt là nạn túi thủng ngoại tệ.

Bất chấp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc luôn tự sướng với bài ca ‘dự trữ ngoại hối tăng cao chưa từng có’, con số từ 60 - 70 tỷ UDD dự trữ ngoại hối hiện thời mới chỉ đủ đáp ứng cho tiêu chí tối thiểu 3 tháng nhập khẩu, ngoài ra còn phải bảo đảm ổn định thị trường ngoại hối, chi dùng cho đội ngũ ‘còn đảng còn mình’, và đương nhiên phải tính đến việc trả số nợ nước ngoài - cả gốc lẫn lãi - lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm.

Vậy trong tình cảnh đó, làm thế nào Bộ Chính trị và Bộ Quốc phòng Việt Nam có gan chạy đua vũ trang với Trung Quốc ? Hoặc giả có dám gia tăng ngân sách quốc phòng, tất cả cũng chỉ là tiền thuế của dân và đổ núi nợ lên đầu các đời con cháu ‘tương lai của đất nước’.

Vả lại, khi tàu Trung Quốc đã sát gần Bãi Tư Chính và các bờ biển Phan Thiết, Phan Rang, Phú Yên…, không còn thời gian cho Bộ Quốc phòng chạy đua vũ trang nữa.

Lối thoát phòng vệ quân sự duy nhất hiện thời của giới chóp bu Việt Nam chỉ còn là phải tìm cách dựa dẫm ngay một lực lượng quân sự sẵn có và hùng hậu của nước ngoài.

Lực lượng đó chính là Hoa Kỳ - đối trọng quân sự duy nhất với Trng Quốc ở Biển Đông.

Nhưng ‘dựa’ như thế nào khi vẫn nhắm mắt đu dây chính trị cùng nguyên tắc ‘Ba không’ gậy ông đập lưng ông ?

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 13/10/2019

Published in Diễn đàn

Mark Esper sắp đến Việt Nam để bảo vệ cho ExxonMobil ?

Thường Sơn, VNTB, 14/10/2019

Sự tự tin của ExxonMobil khi lên tiếng về mỏ Cá Voi Xanh phát xuất tự sự hiện diện của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ cập cảng Đà Nẵng vào đầu tháng Ba năm 2018...

mark1

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper

Tân bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper sắp đến Việt Nam trong bối cảnh cuộc chiến giàn khoan của Trung Quốc còn lâu mới chịu kết thúc. Tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, và sau đó là hàng lô hàng lốc phương tiện khai thác dầu như tàu cẩu Lam Kình, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 kéo vào Biển Đông, giễu qua ngay trước mũi Bộ Chính trị Việt Nam, và có trời mới biết còn bao nhiêu hình ảnh ngáo ộp nữa sẽ được Bắc Kinh cho trình diễn trong tương lai gần…, đã làm tê tái những kẻ vẫn cắm mặt giương cao lá cờ mang tên "Mười sáu Chữ Vàng" ở Hà Nội.

Tiền trạm cho Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper là Randall Schriver - Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách an ninh khu vực Ấn Độ Thái Bình Dương. Randall Schriver đã có một cuộc gặp với Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam - Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.

Vào năm 2018, kết quả được xem là thành công nhất của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ khi đó là James Mattis với phía Việt Nam chỉ là một hàng không mẫu hạm của Mỹ là USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2018.

Người Mỹ có mối quan tâm đặc biệt ở Đà Nẵng, bởi nơi đây rất gần với mỏ khí đốt Cá Voi Xanh ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi, nằm cách đất liền khoảng 100km, được liên doanh khai thác giữa tập đoàn dầu khí khổng lồ của Mỹ là ExxonMobil với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Mỏ này có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối và hứa hẹn mang lại doanh thu lên đến 60 tỷ USD, trong đó 2/3 thuộc về ExxonMobil và 1/3 dành cho nền ngân sách đang lâm vào tình trạng hộc rỗng ngoại tệ của chính thể độc tài ở Việt Nam.

Cũng bởi triển vọng siêu lợi nhuận trên, Cá Voi Xanh đã lọt vào lòng tham và tầm đe dọa của Trung Quốc. Động thái Trung Quốc điều giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm vùng lãnh hải Việt Nam vào năm 2014 là một thông điệp rất rõ ràng về việc Bắc Kinh muốn nuốt trọn mỏ Cá Voi Xanh nếu mỏ này không được hỗ trợ bởi hải quân Mỹ.

Kể từ khi Trung Quốc tuyên bố "đường Lưỡi Bò" 9 đoạn chiếm tới 90% diện tích Biển Đông, nhiều hãng dầu khí khác của Mỹ đã bỏ cuộc trước áp lực từ Trung Quốc. Nhưng ExxonMobil vẫn tiếp tục thăm dò và tập đoàn này đã phát hiện mỏ khí đốt lớn nhất của Việt Nam từ trước đến nay.

Nhưng vào ngày 7/11/2017 - trùng với thời gian Tổng thống Trump dự Hội nghị thượng đỉnh kinh tế APEC Đà Nẵng mà được báo chí đảng tung hô "thành công tốt đẹp" và "Việt Nam là nước hưởng lợi kinh tế lớn nhất trong APEC", ExxonMobil đã mang lại nỗi thất vọng lớn lao cho giới chóp bu Việt Nam : Chủ tịch Liam Mallon của Công ty Phát triển ExxonMobil đã tuyên bố sẽ hoãn dự án hợp tác với Việt Nam trên biển Đông tới năm 2019, với lời giải thích rất cô đọng : "chúng tôi cần phải đạt được một số thỏa thuận cụ thể" trước khi triển khai đầu tư chính thức.

Khi đó, một số đánh giá đã giả thiết về nguyên nhân chủ yếu và có thể là duy nhất của việc phải hoãn dự án có thể là Trung Quốc gây sức ép mà đã khiến Việt Nam có thể phải điều đình để ExxonMobil tạm ngừng khai thác mỏ Cá Voi Xanh.

Đến tháng Ba năm 2018 khi xảy ra vụ Repsol phải lần thứ hai liên tiếp rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, giả thiết đã biến thành thực tế được xác nghiệm một cách sống sượng : vẫn là "đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất của Việt Nam" là Trung Quốc đã nhảy bổ vào nhà của giới chóp bu Việt Nam để đòi không được hợp tác với Mỹ mà phải hợp tác với Trung Quốc để khai thác dầu khí.

Vào tháng Tư năm 2018, lần đầu tiên ExxonMobil đã lên tiếng liên quan đến mỏ Cá Voi Xanh. Tuy không xác nhận về một sức ép của Trung Quốc đối với mỏ dầu khí dồi dào trữ lượng này, ExxonMobil vẫn khẳng định kế hoạch và lộ trình sắp tới - một biểu hiện cho thấy tập đoàn này không mấy lo ngại cho dù Bắc Kinh sẽ làm những động tác nhằm bắt buộc ExxonMobil phải rút khỏi mỏ Cá Voi Xanh như đã khiến Repsol phải rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ.

Sự tự tin của ExxonMobil khi lên tiếng về mỏ Cá Voi Xanh phát xuất tự sự hiện diện của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ cập cảng Đà Nẵng vào đầu tháng Ba năm 2018, nằm trong chiến lược tăng cường sự hiện diện của Mỹ tại Biển Đông và sẵn sàng đối đầu với hải quân Trung Quốc.

Cho tới nay, dự án Cá Voi Xanh đã nhận được sự ủng hộ công khai và mạnh mẽ của Chính phủ Mỹ. Rất có thể chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper sẽ nhắm đến một trong những mục đích lớn là làm cách nào để bảo vệ mỏ Cá Voi Xanh và ExxonMobil trước sự đe dọa của Trung Quốc. 

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 14/10/2019

******************

Mark Esper đến Việt Nam : Nhìn lại hai chuyến công du của Jim Mattis

Thường Sơn, VNTB, 12/10/2019

Người vừa trở thành Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ - Mark Esper - sẽ có một chuyến công du Việt Nam, nhiều khả năng diễn ra tháng 10 năm 2019, với mục đích danh nghĩa là "thảo luận việc gia tăng hợp tác quốc phòng giữa hai nước".

esper0

Tổng thống Donald Trump ký sắc luật phong Mark Esper Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ - Ảnh minh họa 

Đó sẽ là chuyến công du Việt Nam lần thứ ba của hai đời Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ - một mật độ đặc biệt, cho thấy Hoa Kỳ vẫn giữ nguyên chiến lược xoay trục về Châu Á - Thái Bình Dương và mối quan tâm về vấn đề Biển Đông và Việt Nam.

Vào năm 2018, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ khi đó là Jim Mattis đã có đến hai lần công du Việt Nam - tháng Giêng và tháng Mười.

Chuyến công du Việt Nam tháng 3 năm 2018 của Jim Mattis diễn ra trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đang tiến vào giai đoạn căng thẳng của chiến dịch dựng đứng hàng rào thuế quan đầu tiên do Tổng thống Donald Trump là tổng đạo diễn, trong khi các hạm đội 7 và hạm đội 5 của hải quân Hoa Kỳ ngày càng áp sát Biển Đông, trong bối cảnh ngày 10/10/2018 Thượng Viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật cắt đứt đường lưỡi bò của Trung Quốc trên Biển Đông.

Còn tương lai về một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ tại khu vực này đang dâng lên như một cơn sóng thần cấp độ vừa phải.

Chuyến công du trên cũng là lần thứ hai liên tiếp trong vòng 10 tháng kể từ khi Jim Mattis nhận lãnh chức vụ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ - một mật độ ‘thăm viếng’ khá dày đặc đối với quốc gia cách Mỹ đến nửa vòng trái đất.

Lần đầu tiên Jim Mattis đặt chân đến Hà Nội là vào tháng Giêng năm 2018, tiếp liền sau chuyến đi Washington của Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch mà có thể hiểu như lời cầu cứu rõ như ban ngày : chính thể độc đảng ở Việt Nam liên tiếp bị ‘bạn vàng’ Trung Quốc gây sức ép cả về chiến thuật ‘ngoại giao tàu cá’ lẫn tàu hải giám và tàu quân sự vây bọc khu vực mỏ Cá Rồng Đỏ ở Bãi Tư Chính phía đông nam Việt Nam - một chiến dịch mà Bắc Kinh đã quá thành công trong việc ‘hù’ Việt Nam, khiến công ty dầu khí Repsol của Tây Ban Nha (liên doanh với Việt Nam) phải cuốn cờ tháo chạy khỏi mỏ dầu khí này.

Khi đó, tình cảnh của Bộ Chính trị Việt Nam thật chẳng khác gì ‘mỡ treo miệng mèo’ : ngay cả dầu khí trong vùng biển được xem là ‘chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’ cũng không làm cách nào ‘ăn’ được.

Trong khi đó, Mỹ lại đang cần đến cái gật đầu của Việt Nam để phát triển triết lý ‘tàu Mỹ đi qua vô hại’ ở Biển Đông - như một cách lý giải của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho báo giới quốc tế, bắt đầu từ năm 2016 và vẫn tồn tại cho đến giờ. Tuy vậy, các hạm đội Châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ không phải cần đến sự chuẩn thuận của giới chóp bu Việt Nam như một điều kiện cần, mà chỉ là điều kiện đủ trong bối cảnh dù Việt Nam có gật hay lắc thì các tàu chiến Mỹ cũng đã áp sát quần đảo Hoàng Sa - trên danh nghĩa là thuộc Việt Nam nhưng đã thuộc về sự chiếm cứ của ‘người đồng chí tốt’ từ hơn bốn chục năm qua.

Chỉ vài tháng sau chuyến đến Việt Nam lần đầu tiên của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Jim Mattis, đến tháng Ba năm 2018 đã hiện ra một hình ảnh chưa từng có tiền lệ kể từ thời điểm 1975 : một hàng không mẫu hạm của Mỹ là USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng - vùng biển mà 5 năm trước lần đầu tiên đã có 3 tàu chiến của Mỹ cập bến để ‘giao lưu hải quân’ với phía Việt Nam.

Nhưng ngay sau khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson rút về nước và công ty Repsol của Tây Ban Nha cùng đối tác của nó ở Việt Nam một lần nữa thử khai thác dầu khí ở mỏ Cá Rồng Đỏ, nỗi nhục Bãi Tư Chính lại nổ ra lần thứ hai và phủ đầy khắp bộ mặt chính thể Việt Nam : một lần nữa Repsol phải tháo chạy khỏi mỏ dầu khí này sau khi Trung Quốc lại ra tay dọa dẫm. Và đó là lần mà Repsol có vẻ ‘một đi không trở lại’. Còn ‘bản lĩnh Việt Nam’ đã chỉ hiển hiện đến mức cúi đầu chấp nhận bồi thường cho Repsol một số tiền lớn - có thể từ 400 triệu USD đến hàng tỷ USD, nhưng còn lâu mới dám hó hé trước sức ép ngày càng thô bạo của Trung Quốc.

Còn vào lần này, Tân bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper đến Việt Nam trong bối cảnh cuộc chiến giàn khoan của Trung Quốc còn lâu mới chịu kết thúc. Tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, và sau đó là hàng lô hàng lốc phương tiện khai thác dầu như tàu cẩu Lam Kình, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 kéo vào Biển Đông, giễu qua ngay trước mũi Bộ Chính trị Việt Nam, và có trời mới biết còn bao nhiêu hình ảnh ngáo ộp nữa sẽ được Bắc Kinh cho trình diễn trong tương lai gần…, đã làm tê tái những kẻ vẫn cắm mặt giương cao lá cờ mang tên Mười sáu Chữ Vàng’ ở Hà Nội.

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 12/10/2019

Published in Diễn đàn

Vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính, ngoài vai trò một phép thử đối với ‘bản lĩnh Đảng cộng sản Việt Nam’ cùng châm ngôn ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’, còn là một thước đo thú vị về quyền lực thực chất của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng trong các chính sách đối ngoại của đảng cầm quyền ở Việt Nam.

ngoaigiao1

Trọng lượng quyền lực của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng trong các chính sách đối ngoại của đảng cầm quyền ở Việt Nam nặng tới cỡ nào trong vụ Bãi Tư Chính ?

Đến đầu tháng 10 năm 2019, đã tròn ba tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.

Chỉ đến Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền, trong bài phát biểu khai mạc vào sáng ngày 7/10/2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng mới hé môi đề nghị Trung ương đảng "phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông ; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt".

Một hiện tượng đặc biệt là bài phát biểu trên của Trọng đã lập tức tạo ra hiệu ứng ‘mở miệng’ : chỉ ít tiếng đồng hồ sau lời huấn thị trên, một số tướng quân đội như Thượng tướng Võ Tiến Trung, nguyên là giám đốc Học viện Quốc phòng, Thiếu tướng Nguyễn Minh Hoàng, Đại biểu Quốc hội, Phó Chính ủy Quân khu 7 ‘bỗng dưng’ lên tiếng về vụ Bãi Tư Chính và về chính sách linh hoạt khôn khéo của ‘đảng và nhà nước ta’.

Còn trước đó, hầu hết các tương quân đội đều mất dạng.

Cơ quan duy nhất đóng góp tiếng nói về vụ Bãi Tư Chính trước đó là Bộ Ngoại giao. Tuy nhiên nhiên bất chấp thành tích của bộ này với vài lần gửi công hàm phản đối Trung Quốc, nhưng không có gì chứng minh đây là hành động được trao trực tiếp cho đại sứ Trung Quốc, cùng bốn chục lần ‘kịch liệt phản đối’ của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao, thất bại ngoại giao và quốc tế vận vẫn quá ê chề đối với giới chóp bu Việt Nam : cho tới nay chính thể độc tài ở Việt Nam hoàn toàn cô độc trong cuộc đối chọi với ‘đảng anh’ Trung Quốc trren Biển Đông.

Tín hiệu bật đèn xanh về ‘phân tích và dự báo tình hình Biển Đông’ của Nguyễn Phú Trọng để từ đó kéo theo làn sóng ‘mở miệng’ của một số tướng quân đội, và có thể sẽ là lục tục các cơ quan khác như tuyên giáo, chính phủ… cho thấy độ tập quyền về chủ trương đối ngoại của ‘đảng và nhà nước ta’ đã đổ dồn vào cá nhân ông Trọng.

Từ sau khi ‘tiếp quản’ cái ghế chủ tịch nước của kẻ quá cố là Trần Đại Quang vào tháng 9 năm 2018, có thể nói Nguyễn Phú Trọng đã vun đắp cho ông ta một độ tập trung quyền lực lớn đến mức hiếm có trong lịch sử triều đại cộng sản Việt Nam, thậm chí có thể so sánh với quyền lực thời Lê Duẩn.

Vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính cùng cái cách đối phó từ ‘ngậm miệng’ đến ‘mở miệng’ có thể phác ra một quy luật : Nguyễn Phú Trọng tập quyền trên ghế chủ tịch nước và tổng bí thư bao nhiêu thì ông ta cũng độc quyền trong chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam bấy nhiêu.

Cho tới nay, nhiều dư luận cho rằng Trọng nắm phần quyết định nhân sự cấp ủy viên bộ chính trị và ủy viên trung ương đến 90% trong Bộ Chính trị.

Trong bối cảnh tập quyền đó, khái niệm ‘tập thể Bộ Chính trị quyết định’ về thực chất chỉ mang tính hình thức. 

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 11/10/2019

Published in Diễn đàn

Việt Nam lại ve vãn ‘đối tác tin cậy hàng đầu’

Thường Sơn, VNTB, 05/10/2019

Gần về cuối năm 2019, chính thể độc tài ở Việt Nam lại liên tiếp cử các ‘đoàn đại biểu cấp cao’ đi một số nước Tây Âu nhằm vận động cho những ‘mặt hàng’ đang trở nên nhu cầu cấp bách ở dải đất quằn quại hình chữ S.

chau1

Một trong những ‘đoàn đại biểu cấp cao’ đó được dẫn đầu bởi quan chức Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, đi Cộng hòa liên bang Đức vào tuần cuối tháng 9.

Cần ghi nhận đây có thể là lần đầu tiên ông Đỗ Bá Tỵ được xuất đầu lộ diện trên trường quốc tế, sau một thời gian dài chìm lắng ở cái ghế Phó Chủ tịch Quốc hội, mà theo nhiều luồng dư luận thì tướng Tỵ bị xem là ‘người của Nguyễn Tấn Dũng’.

Chuyến đi Đức của Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ nhắm đến nhiều mục đích như vận động chính phủ Đức sớm phê chuẩn EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Châu Âu-Việt Nam) cũng như Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (IPA)", vận động Đức ủng hộ Việt Nam hơn nữa trước căng thẳng ở Biển Đông và bãi Tư Chính, và… xin viện trợ ODA.

Liên quan đến EVFTA, giới chóp bu Việt Nam cũng cử "một đoàn đại biểu cấp cao" đi Châu Âu tham gia Diễn đàn Kết nối Âu-Á do Ủy Ban Châu Âu (EC) tổ chức, dẫn đầu bởi quan chức Nguyễn Văn Bình, ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban kinh tế trung ương dẫn đầu, trong đó có nhiệm vụ thúc giục Châu Âu sớm phê chuẩn hiệp định thương mại này.

Sự thúc giục trên xuất hiện trong bối cảnh một bức thư ngỏ đề ngày 25 tháng 9 gửi cho Chủ tịch Nghị viện Châu Âu, Chủ tịch tiểu ban nhân quyền của Nghị viện Châu Âu cùng các nghị viên Châu Âu kêu gọi hoãn xem xét việc phê chuẩn hiệp đinh mậu dịch tự do với Việt Nam.

Thư ngỏ trên được ký bởi các tổ chức dân sự xã hội và đảng phái độc lập cả trong và ngoài nước gồm những tổ chức như Phóng Viên Không Biên Giới, Hội Bầu Bí Tương Thân, Đảng Việt Tân…

Nội dung thư nêu rõ EVFTA là một thỏa ước thương mại tự do tham vọng nhất tính đến lúc này ; và điều thiết yếu là hiệp định phải cổ xúy cho các giá trị nhân quyền của EU thông qua mậu dịch.

Tuy nhiên cho đến nay, những hứa hẹn từ phía Việt Nam trong lĩnh vực này chỉ là lời hứa suông. Sau khi đàm phán dự thảo của hiệp định vào năm 2016, chính phủ Hà Nội tiến hành chiến dịch kiên trì đàn áp những người bảo vệ nhân quyền, các nhà báo công dân, và những nhà hoạt động vì môi trường.

Minh chứng rõ nhất cho lời hứa suông và thậm chí còn làm ngược lại là mới đây khi một phái đoàn của Bộ Tư pháp Đức đến Sài Gòn và mời một số luật sư gặp gỡ để nghe ý kiến về tình hình luật pháp ở Việt Nam, một trong số khách mời đó là luật sư Đặng Đình đã bị công an Việt Nam cấm cửa không cho đi gặp đoàn Đức.

Trong khi đó ở Châu Âu, đoàn của Phó chủ tịch quốc hội Đỗ Bá Tỵ vẫn "coi Đức là đối tác tin cậy, quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực" và "Hai bên nhất trí cho rằng, quan hệ Đối tác chiến lược giữa Việt Nam và CHLB Đức đang trên đà phát triển mạnh mẽ", mà không cần chút liêm sỉ nào, dù chỉ ở mức tối thiểu.

Vậy thực chất ‘quan hệ đối tác chiến lược Việt Đức ra sao ?

Sự thật trần trụi là cho tới nay, Nhà nước Đức vẫn giữ nguyên quyết định tạm đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Quyết định này được Đức tung ra vào tháng 9 năm 2017 sau khi mật vụ Việt Nam công khai và trắng trợn bắt cóc Trịnh Xân Thanh ngay tại Berlin.

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 05/10/2019

******************

Vì sao chóp bu Việt Nam phải thúc giục Châu Âu sớm thông qua EVFTA ?

Thường Sơn, VNTB, 04/10/2019

Chính thể độc tài ở Việt Nam sẵn sàng qua mặt EU thêm một lần nữa bằng những hứa hẹn ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ hoàn toàn đầu môi chót lưỡi. 



tháng 9 năm 2019, giới chóp bu Việt Nam cử "một đoàn đại biểu cấp cao" đi Châu Âu tham gia Diễn đàn Kết nối Âu-Á do Ủy Ban Châu Âu (EC) tổ chức.

chau2

Vụ công an Lâm Đồng vừa bắt facebooker Vượng Nguyễn là bằng chứng mới nhất về rất nhiều vi phạm nhân quyền của chính thể độc tài ở Việt Nam. 

Phái đoàn trên do quan chức Nguyễn Văn Bình, ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban kinh tế trung ương dẫn đầu. Đoàn này đã có những cuộc làm việc với Phó chủ tịch Nghị viện Châu Âu Dimitrios Papadimoulis ; Ủy viên Thương Mại của EU Cecilia Malmstrom ; Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế của Nghị viện Châu Âu Bernd Lange. Trong đó, Việt Nam "đề nghị hai phía thúc đẩy tiến trình Nghị Viện Châu Âu phê chuẩn EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Châu Âu-Việt Nam) cũng như Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (IPA)".

Vì sao chóp bu Việt Nam phải thúc giục Châu Âu sớm thông qua EVFTA ?

Sự thúc giục trên xuất hiện trong bối cảnh một bức thư ngỏ đề ngày 25 tháng 9 gửi cho Chủ tịch Nghị viện Châu Âu, Chủ tịch tiểu ban nhân quyền của Nghị viện Châu Âu cùng các nghị viên Châu Âu kêu gọi hoãn xem xét việc phê chuẩn hiệp đinh mậu dịch tự do với Việt Nam.

Thư ngỏ trên được ký bởi các tổ chức dân sự xã hội và đảng phái độc lập cả trong và ngoài nước gồm những tổ chức như Phóng Viên Không Biên Giới, Hội Bầu Bí Tương Thân, Đảng Việt Tân…

Nội dung thư nêu rõ EVFTA là một thỏa ước thương mại tự do tham vọng nhất tính đến lúc này ; và điều thiết yếu là hiệp định phải cổ xúy cho các giá trị nhân quyền của EU thông qua mậu dịch.

Tuy nhiên cho đến nay, những hứa hẹn từ phía Việt Nam trong lĩnh vực này chỉ là lời hứa suông. Sau khi đàm phán dự thảo của hiệp định vào năm 2016, chính phủ Hà Nội tiến hành chiến dịch kiên trì đàn áp những người bảo vệ nhân quyền, các nhà báo công dân, và những nhà hoạt động vì môi trường.

Hệ thống luật lệ, tòa án và pháp lý được sử dụng để hình sự hóa việc thực thi một cách ôn hòa các quyền được quốc tế bảo vệ ; cũng như khước từ quyền được xét xử công bằng và tiếp cận việc chữa trị bệnh hiệu quả.

Những quyền mà chính phủ Hà Nội hình sự hóa gồm quyền tự do biểu đạt, quyền tự do hội họp, lập hội, quyền tham gia vào hoạt động công và quyền tham gia các tổ chức cổ xúy cho quyền con người.

Nạn nhân trở thành đối tượng của tình trạng giam giữ tùy tiện và những sự tàn độc khác.

Chính phủ Việt Nam thay vì xây dựng niềm tin cho những cam kết nhân quyền, lại gia tăng đàn áp, và tiếp tục vi phạm các chuẩn mực cùng luật pháp quốc tế mà Hà Nội phê chuẩn.

Luật An Ninh Mạng đe dọa quyền tự do biểu đạt và quyền riêng tư của người sử dụng mạng toàn cầu. Luật này hình sự hóa việc chia sẻ thông tin về các vấn đề xã hội ; cho phép biện pháp kiểm duyệt Internet trái với yêu cầu minh bạch và quyền lợi của những nhà đầu tư Châu Âu vào Việt Nam.

Những tổ chức và đảng phái độc lập gửi thư ngỏ yêu cầu EU chỉ mở rộng quan hệ thương mại với Việt Nam khi chính phủ Hà Nội đáp ứng được những chuẩn mực nhân quyền đề ra trong thư của 32 nghị viên Châu Âu ngày 17 tháng 9 năm ngoái trong đó có việc loại bỏ những điều khoản trong luật hình sự trực tiếp vi phạm Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị. Tiếp đến là phải tuân thủ những nguyên tắc lao động mà Hà Nội đề nghị phê chuẩn, đặc biệt các công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế gồm công ước 87 về quyền tổ chức, công ước 98 về quyền thương lượng tập thể, và công ước 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức. Điểm thứ ba là phải thực thi những khuyến nghị do các cơ quan giám sát của Liên hiệp quốc đưa ra.

EVFTA được ký vào ngày 30 tháng 6 năm 2019 ; tuy nhiên hiệp định này cần phải được nghị viện Liên Minh Châu Âu và quốc hội Việt Nam phê chuẩn mới có hiệu lực thi hành.

Nhưng cho đến ngày 30 tháng Sáu, 2019 khi đặt bút ký kết hai hiệp định EVFTA và EVIPA tại Hà Nội, chỉ mới một phần rất nhỏ trong toàn bộ nội dung rất rộng và sâu của bản nghị quyết về nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2018/2925 (RSP) do nghị viện Châu Âu tung ra vào giữa tháng Mười Một, 2018 được phía Việt Nam đáp ứng.

Những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm nhân quyền, cộng với tình trạng đàn áp bất đồng chính kiến ngày càng "vươn lên một tầm cao mới" của chính thể độc tài ở Việt Nam chắc chắn sẽ là những gì mà nhiều nghị sĩ EU không thể bỏ qua khi cân nhắc bỏ phiếu có thông qua hay không Hiệp định EVFTA. Một cái gật đầu dễ dãi của nghị viện Châu Âu đối với EVFTA sẽ phủ nhận toàn bộ bản nghị quyết nhân quyền Việt Nam của chính cơ quan này yêu sách vào tháng Mười Một năm 2018, khiến uy tín lẫn hình ảnh của nghị viện Châu Âu bị giảm sút không ít trong đánh giá của cộng đồng quốc tế.

Vào tháng 2 năm 2019, Hội đồng Châu Âu đã từng hoãn việc ký kết EVFTA, mà nguồn cơn thực chất là do vô số vi phạm nhân quyền của chính thể độc tài ở Việt Nam.

Vào lúc này và khi thời điểm Nghị viện Châu Âu xem xét bỏ phiếu EVFTA ngày càng đến gần, chính thể độc tài đó đang tìm cách thúc giục EU sớm thông qua EVFTA, nhưng sẵn sàng qua mặt EU thêm một lần nữa bằng những hứa hẹn ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ hoàn toàn đầu môi chót lưỡi. 

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 04/10/2019

********************

Bộ Ngoại giao Đức xác nhận luật sư Đặng Đình Mạnh không thể đến gặp Quốc vụ khanh Bộ Tư pháp (RFA, 04/10/2019)

Một nguồn tin chính thức từ văn phòng đối ngoại thuộc Bộ Ngoại giao Đức hôm 4/10 xác nhận với Đài Á Châu Tự Do việc luật sư Đặng Đình Mạnh đã không thể đến gặp Quốc vụ khanh Bộ Tư pháp và Bảo vệ người tiêu dùng Đức, ông Christian Lange hôm 30/9 vừa qua.

chau3

Hình minh họa. Quốc vụ khanh Bộ Tư pháp và Bảo vệ người tiêu dùng CHLB Đức Christian Lange và ông Trần Công Phàn, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ở Hà Nội hôm 2/10/2019 - Courtesy of vksndtc.gov.vn

Hôm 1/10, luật sư Đặng Đình Mạnh xác nhận với Đài Á Châu Tự Do thông tin ông bị an ninh mặc thường phục ngăn cản không cho ra khỏi nhà vào sáng ngày 30/9 để gặp phái đoàn của Quốc vụ khanh Bộ tư Pháp Cộng hòa liên bang Đức đang làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh.

Theo luật sư Lê Công Định, người tham gia cuộc gặp, có 5 luật sư được mời gặp đoàn để cung cấp cái nhìn bao quát về hệ thống luật pháp của Việt Nam cho phái đoàn. Chỉ có một mình luật sư Mạnh bị cản trở.

Luật sư Đặng Đình Mạnh là người đã tham gia bào chữa cho nhiều nhà hoạt động và dân bị mất đất ở Việt Nam.

Luật sư Đặng Đình Mạnh cho rằng có ai đó không muốn ông dự họp để có thể cung cấp những thông tin, quan điểm, cách nhìn của ông và sẽ không tốt cho chính quyền.

Theo trang web của Bộ Tư pháp Việt Nam, vào sáng ngày 1/10 vừa qua, Thứ trưởng Bộ tư pháp Việt Nam Nguyễn Khánh Ngọc và Quốc vụ Khanh Bộ Tư pháp và Bảo vệ người tiêu dùng Đức Christian Lange đã ký kết Chương trình hợp tác 3 năm (2019 – 2020) khuôn khổ chương trình hợp tác Đối thoại Nhà nước pháp quyền.

Chương trình tập trung vào trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thực thi pháp luật trong các lĩnh vực bao gồm : pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, phát luật dân sự và tố tụng dân sự, kinh tế và lao động, tố tụng hành chính, tài phán hành chính, thực thi một số điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc là thành viên, tăng cường năng lực chuyên môn cho những người hành nghề trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.

 

Published in Diễn đàn

Tháng 9 năm 2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng bất ngờ ký ban hành Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Cái cách hạ bút này xảy ra chỉ ít ngày trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - dự kiến tổ chức vào tháng 10 năm 2019.

kiemsoat1

Dấu ấn nhân sự 2018 : Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng

Đây là lần đầu tiên trong đảng cầm quyền xuất hiện một đảng văn về kiểm soát quyền lực - điều chưa từng tồn tại ở các đời tổng bí thư trước đây.

Vì sao đảng cầm quyền phải kiểm soát quyền lực ? Phải chăng do nạn nạn cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương đang nổi lên ngày càng nhiều ở các bộ ngành và tỉnh thành ? Quy định này còn có ý đồ thâm sâu nào khác ?

Cho dù đang độc tôn về quyền lực với một cái ghế đúp chủ tịch nước lẫn tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng vẫn không thể tự tin khi đang bắt đầu hiện ra những ‘âm binh’ nổi lên ngay dưới chân ghế ông ta - một hiện tượng rất đặc biệt mà đã nổi bật hẳn lên từ khi Trọng bị cơn bạo bệnh ở xứ Kiên Giang ‘nhà ba Dũng’, dẫn đến niềm hy vọng khó nói và khó tả của không ít quan chức về tương lai ‘đẩy’ Trọng về vườn để ngồi luôn vào khoảng trống quyền lực để lại - quá lớn và quá hấp dẫn.

Khác với thời tiền đại hội 12 là lúc Nguyễn Phú Trọng phải đối chọi với kỳ phùng địch thủ chính trị là Nguyễn Tấn Dũng, vào lúc này Trọng hầu như không có đối thủ trực diện nào - điều có thể làm cho ông ta tạm thời yên tâm dưỡng bệnh mà không phải quá lo lắng về ‘âm mưu đảo chính’ nào.

Nhưng không có đối thủ trực diện không có nghĩa là không tồn tại những đối thủ chuyên đánh sau lưng. Sau khi Trần Đại Quang - quan chức được tạm xem là đối thủ của Nguyễn Phú Trọng - thình lình chết vào tháng 9 năm 2018, đã xuất hiện ngày càng nhiều dấu hiệu cho thấy không chỉ có những quan chức thuộc ‘cánh Quang’, mà cả những quan chức thuộc những cánh khác cũng tìm cách làm khó Nguyễn Phú Trọng. Hoặc những quan chức thuộc các cánh khác nhau nhưng có thể tạm thời liên minh với nhau để tìm cách loại Trọng khỏi cuộc chơi.

Ngay trước mắt là vấn đề tuổi tác và sức khỏe - cả hai đều là tử huyệt của Trọng.

Nếu Nguyễn Phú Trọng đã vượt qua đại hội 12 bằng cơ chế ‘trường hợp đặc biệt’, sẽ khó hơn hẳn cho ông ta sau 5 năm để một lần nữa tân trang lại quy định ‘đặc biệt’ về độ tuổi được ‘ngồi tiếp’, bởi nếu làm vậy sẽ thật quá bỉ bôi trong mắt thiên hạ.

Trong khi đó, vấn đề sức khỏe của Trọng còn khó coi hơn cả chuyện tuổi tác già nua.

Nhưng tham vọng của con người là vô cùng…

Nếu quy luật ‘văn là người’ là đúng trong tình cảnh oái oăm này, đảng văn về kiểm soát quyền lực đã lần đầu tiên, kể từ khi Nguyễn Phú Trọng bị bạo bệnh, hé lộ ý định ‘ngồi nữa’ của ông ta.

Nếu quy định về kiểm soát quyền lực phát huy tối đa tác dụng của nó mà nhờ đó sẽ không thể xuất hiện một đối thủ nào có thể cạnh tranh với Trọng, ông ta sẽ yên tâm ngồi tiếp tại đại hội 13, thậm chí còn có thể ‘ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi’ như ‘hoàng đế Tập Cận Bình’ ở Trung Quốc, với điều kiện không bị hành hạ bởi những cơn tai biến.

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 03/10/2019

Published in Diễn đàn

Có thực sự là Bộ Giao thông và vận tải, và cao hơn cơ quan này là chính phủ và Bộ Chính trị đảng, hủy bỏ sơ tuyển đấu thầu quốc tế dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam và ưu tiên cho các nhà thầu trong nước là do đã tiếp thu và lắng nghe ý kiến phản biện của người dân - như một luồng dư luận đã khen ngợi Chính phủ và Bộ Giao thông và vận tải ‘đã sáng suốt’, ‘hành động dũng cảm’ và ‘tiến bộ’ ?

caotoc1

Bộ Chính trị đảng và Chính phủ hủy bỏ sơ tuyển đấu thầu quốc tế dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam và ưu tiên cho các nhà thầu trong nước là một hành động dũng cảm’ và ‘tiến bộ’ ?

Nếu quả thực đã có thái độ tự giác lắng nghe, hoặc không thể bỏ qua phản ứng của dư luận xã hội, tại sao Bộ Giao thông và vận tải và các cơ quan của ‘đảng và nhà nước ta’ lại chưa bao giờ hồi đáp một kiến nghị nào của các tổ chức xã hội dân sự về chuyện làm đường sá, cầu cống, sân bay ?

Và nếu Bộ Giao thông và vận tải đã biết tiếp thu phản biện xã hội của người dân về mối nguy nhà thầu Trung Quốc trong dự án hạ tầng cơ sở, thì tại sao bộ này vẫn triển khai dự án sân bay Long Thành có giá trị lên tới 18 tỷ USD, trong tình trạng ngân khố không đào đâu ra tiền để xây sân bay, trong khi dậy lên dư luận về việc dự án này phải vay mượn tiền của ngân hàng và các doanh nghiệp Trung Quốc, và việc xây sân bay Long Thành là nhằm ‘thoát hàng’ đất nền với giá cao của các quan chức và đại gia, cùng lúc ‘dìm hàng’ sân bay Tân Sơn Nhất ?

Hoặc nếu Bộ Giao thông và vận tải, cực chẳng đã, phải nhượng bộ trước phản ứng của người dân về dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam, thì tại sao bộ này lại không hề chịu nhượng bộ khi vẫn mưu toan lập dự án và triển khai dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam - có kinh phí tới gần 60 tỷ USD, tương đương hơn 1/3 GDP quốc gia, bất chấp phản ứng của dư luận xã hội đối với dự án này còn mạnh mẽ hơn so với dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam ?

Không thể phủ nhận nhiệt tình và công sức vận động của một số tổ chức xã hội dân sự trong yêu sách ‘thoát Trung’ ở dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam, nhưng thực trạng chính quyền vẫn rất trịch thượng và chưa có bất kỳ dấu hiệu nào muốn đối thoại với giới này đã đặt ra nghi vấn lớn về việc chính quyền đó có thực tâm ‘lắng nghe và tiếp thu phản biện của người dân’ về dự án này hay không, và nêu lên hoài nghi về lời khen ngợi vội vã về chính quyền đã ‘dũng cảm’ thật ra có xứng đáng hay không.

Ở một góc độ khác, cần xem xét vụ hủy bỏ sơ tuyển đấu tầu dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam trong một bối cảnh đặc biệt: xung đột Việt - Trung. Đó là vụ Trung Quốc điều động tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 cùng nhiều tàu hải cảnh hộ vệ cho tàu này xâm phạm khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam từ đầu tháng 7 năm 2019 đến tận bây giờ.

Vụ việc xâm phạm và gây hấn leo thang trên có lẽ đã khiến Nguyễn Phú Trọng và tất cả những quan chức nào còn mơ màng về ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’ vỡ mộng ‘nhịn thì nó tha cho’. Sau nhiều năm, lần đầu tiên ‘đảng em’ Việt Nam mới dám phát ra công hàm để phản đối ‘đảng anh’ Trung Quốc.

Cũng sau nhiều năm, lần đầu tiên yếu tố an ninh quốc phòng được nhấn mạnh trong dự án có vốn đầu tư nước ngoài bởi chính một nghị quyết của Bộ Chính trị đảng vào tháng 8 năm 2019.

Mặc dù chẳng có kênh báo đảng nào hé miệng, nhưng ai cũng hiểu rằng yếu tố nhạy cảm về an ninh quốc phòng trong dự án có yếu tố nước ngoài chính là Trung Quốc.

Đồng thời, tại một số tỉnh thành trọng yếu của Việt Nam đã diễn ra phong trào ‘bắt Trung Quốc’: đường dây đánh bạc do người Trung Quốc tổ chức, đường dây sex cũng do người Trung Quốc lập ra, hàng loạt người Trung Quốc ăn trộm ATM và dùng thẻ tín dụng giả… Những vụ tội phạm đó đã tồn tại từ rất lâu, nhưng cho tới nay mới được công an xử lý, cứ như thể mới lần đầu tiên được phát hiện.

Quá trình lập hồ sơ và xây dựng cơ chế sơ tuyển đấu thầu quốc tế dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam lại rơi trúng vào thời điểm gấu ó như thế giữa ‘hai đảng anh em’. 

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 01/10/2019

Published in Diễn đàn

Chóp bu Việt Nam đã thêm một lần nữa bị vuột cơ hội vận động quốc tế về vụ Bãi Tư Chính, nhưng bởi chính thói đớn hèn đã trở thành nan y của chế độ này.

lhq1

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao  Phạm Bình Minh 'đọc bài' nhưng không một lần dám nhắc cái tên Trung Quốc - Ảnh minh họa

Tại cuộc họp Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) vào ngày 28/09/2019, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã cắm đầu đọc một bài diễn văn dài tới 15 phút, với nội dung chủ yếu xoay quanh :

"Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông bao gồm những vụ xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển của Việt Nam đã được xác định bởi UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc 1982). Các nước liên quan nên kiềm chế, tránh các hành động đơn phương có thể làm phức tạp hoặc làm tăng thêm căng thẳng trên biển, và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật quốc tế, bao gồm UNCLOS".

Blogger Phạm Thành bình luận : "Phạm Bình Minh nhắc tới luật quốc tế 6 lần, biển Đông 3 lần, 1 lần Indo-Pacific, 1 lần vùng đặc quyền kinh tế. Không nhắc tới Tàu một lần nào. Ông có nói tới một incident (sự cố ?). Tui nghĩ đám ngồi dưới chả hiểu sự cố gì…"

Đã quá đủ để nhìn ra ‘bản lĩnh Việt Nam’ !

Cử chỉ bị coi là câm nín của giới lãnh đạo Việt Nam và việc chẳng một quan chức cao cấp nào trong ‘tam trụ’ - từ Nguyễn Phú Trọng đã từng cầu an ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ đến Nguyễn Xuân Phúc từng nghiêng ngoẹo cụng ly với Tập Cận Bình vào năm 2016, và cả Nguyễn Thị Kim Ngân uốn éo trước mặt họ Tập về ‘đại cục’ ở Bắc Kinh… đã dìm xác suất ‘kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế’ xuống đáy hy vọng, xứng đáng bổ sung thêm một ‘không’ nữa vào chính sách ‘ba không’ gậy ông đập lưng ông của Hà Nội : không kiện Trung Quốc !

222222222222222222

Nguyễn Phú Trọng đã từng cầu an ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam

Rốt cuộc, tất cả từ không dám nổ súng cảnh cáo, không dám nhắc tên Trung Quốc và không dám kiện Trung Quốc đã khiến Bắc Kinh không chỉ ngày càng coi thường ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, mà còn giành ưu thế vượt mặt giới chóp bu Việt Nam trong hoạt động vận động quốc tế.

Đó chính là nguồn cơn khiến Bắc Kinh tự tin và ngạo mạn khi đưa ra tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, và bây giờ còn muốn đuổi Việt Nam ra khỏi đó. Điều này rất có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong "đường lưỡi bò 9 đoạn," tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế "thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc" vào năm 2019.

Nếu ngày càng nhiều quốc gia thờ ơ với vụ Bãi Tư Chính, đó sẽ là cơ hội để Bắc Kinh khuếch tán chiến dịch vận động các nước trong Liên Hiệp Quốc ủng hộ ‘chủ quyền’ của Trung Quốc ở khu vực này. Và nếu Trung Quốc đạt được một sự ủng hộ của một số nước nào đó, dưới dạng tuyên bố hoặc nghị quyết quốc tế, đó sẽ là cơ sở và tiền đề cực kỳ quan trọng để ‘Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa’ tiến hành một chiến dịch quân sự tốc chiến xâm chiếm Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tốc chiến trước khi Việt Nam khai thác hết dầu để nuôi đảng !

Một sự ghẻ lạnh lạ lùng xâm phủ bộ mặt chính thể độc tài ở Việt Nam - luôn tự hào có rất nhiều quan hệ đối tác chiến lược. 

‘Kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 30/09/2019

Published in Diễn đàn

Đáng lo ngại hơn cho Trọng là tình trạng cấu kết giữa các nhóm chính trị - tài phiệt giữa các tỉnh thành, bộ ngành với nhau, tạo thành một mạng nhện ngày càng tán rộng và khó gỡ.

catcu1

Nhan nhản cảnh tượng cảnh sát cơ động được các nhóm lợi ích sử dụng như một lực lượng làm thuê để chống lại phong trào phản kháng BOT.

Tháng 9 năm 2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng bất ngờ ký ban hành Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Quy định này áp dụng với các tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác cán bộ. 

Đáng chú ý, quy định trên được ban hành chỉ ít ngày trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - dự kiến tổ chức vào tháng 10 năm 2019.

Hội nghị trung ương 11 có tầm quan trọng đặc biệt, bởi trong cuộc họp của Ban chấp hành trung ương tại hội nghị đó sẽ nhiều khả năng ‘chốt’ danh sách sơ bợ các ủy viên bội chính trị cho khóa 13.Nếu Hội nghị trung ương 10 chỉ là cuộc đấu giữa những ‘cá bé’, thì Hội nghị trung ương 11 mới thật sự là cuộc sát phạt của ‘cá mập’ với nhau.

Đặc thù của thời đại mới đã được tô thắm bới tính chất đa phe phái, đa trung tâm quyền lực hơn và do đó cũng kéo theo nhiều nhóm lợi ích hơn.

Nếu cuộc chiến trước đại hội 12 chủ yếu xoay quanh trục Trọng - Dũng, thì thế trận trước đại hội 13 phong phú hơn khá nhiều : các phe phái - chủ yếu là ‘phe chính phủ’ và ‘phe đảng’ tranh giành quyền lực, còn Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt với một nhóm đối thủ mà có thể bao gồm phe chính phủ lẫn bên đảng muốn triệt tiêu ‘sự nghiệp cách mạng’ của ông ta.

Tình trạng cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương cũng bởi thế đang diễn tiến mau lẹ, trở thành một nguy cơ mà thâm tâm đảng cầm quyền có thể còn lo sợ hơn quốc nạn tham nhũng.

Từ sau đại hội 12, bất chấp quyền uy gần như tuyệt đối của Tổng bí thư Trọng, tình trạng cát cứ quyền lực đã nổi lên tràn lan ở một số bộ ngành và địa phương. Tất cả đều lao vào hội chứng ‘hốt cú chót’.

Không phải vô cớ mà Trọng là chọn Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và sau đó đến Đồng Nai là những tỉnh thành cần phải ‘đốt lò’. Đã từ lâu, ở những tỉnh thành này đã xuất hiện nhiều biểu hiện về lãnh đạo gia đình trị và hoành hành như thể những ông vua con vào thời ‘Mười hai sứ quân’ trong lịch sử Việt Nam.

Cũng không phải vô cớ mà Nguyễn Phú Trọng lại ‘xẻ thịt’ Bộ Công an, xóa bỏ toàn bộ cấp tổng cục của bộ này vào đầu năm 2018, trong khi vẫn giữ nguyên 6 tổng cục ở Bộ Quốc phòng.

Tuy nhiên sau những hành động có vẻ khá kiên quyết trên, tình trạng cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương vẫn âm thầm diễn biến ở nhiều bộ ngành và địa phương. Và thật trớ trêu, một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này lại do chính chủ trương ‘nhất thể hóa’ của Nguyễn Phú Trọng đưa vào thực hiện từ năm 2017, như một cách ‘gậy ông đập lưng ông’.

Trước đây, các bí thư tỉnh/thành ủy và chủ tịch ‘tỉnh’thành ủy luôn là hai người. Nhưng sau khi thực hiện ‘nhất thể hóa’ bí thư và chủ tịch làm một, ở nhiều địa phương đã hiện hình những ông vua con, vừa nắm khối đảng vừa nắm khối chính quyền, và trong thực tế có bí thư - chủ tịch còn chi phối luôn cả bộ máy hoạt động của hội đồng nhân dân cùng cấp.

Nhưng ông vua con trên, ngoài mặt vẫn tuân thủ trung ương và lấy lòng Nguyễn Phú Trọng, nhưng bên trong đã xuất hiện ngày càng nhiều những tổ hợp tài phiệt. Nếu trước đây bí thư hoặc chủ tịch tỉnh/thành khi quyết một vấn đề gì quan trọng của địa bàn đều phải hỏi ý kiến người kia, thì nay những ông vua con hoàn toàn có thể tự quyết, cùng lắm thì hỏi ý kiến bên hội đồng nhân dân như một thủ tục cho có.

Đáng lo ngại hơn cho Trọng là tình trạng cấu kết giữa các nhóm chính trị - tài phiệt giữa các tỉnh thành, bộ ngành với nhau, tạo thành một mạng nhện ngày càng tán rộng và khó gỡ.

Đó chính là mối họa cho Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông ta trong một ngày không còn xa nữa, bất chấp Quy định về kiểm soát quyền lực vừa được ban hành. 

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 28/09/2019

Published in Diễn đàn

Facebooker Trần Hoàng Hận đã trở thành một trong những bằng chứng sống đầu tiên cho thấy Chương trình lắp 10.000 camera giám sát của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chỉ nhằm bưng bít thông tin và bịt miệng tiếng nói phản biện xã hội của người dân.

cam1

Chương trình lắp 10.000 camera giám sát của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chỉ nhằm bưng bít thông tin và bịt miệng tiếng nói phản biện xã hội của người dân.

Chưa có một báo cáo hoặc một thống kê nào nêu lên tính hiệu quả của việc lắp đặt camera ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong lúc tỷ lệ tội phạm trộm cướp vẫn không có dấu hiệu cải thiện.

Chỉ vì anh Hận đi dọc theo đường Nguyễn Huệ ở trung tâm Sài Gòn để quay vài đoạn phim để làm clip cảnh báo mọi người hạn chế ra đường trong thời điểm Sài Gòn có bụi mù mịt, anh đã bị một số nhân viên an ninh thường phục chạy đến tấp đầu xe đưa thẻ công an, đòi kiểm tra máy quay, máy điện thoại để xem "quay với mục đích gì" rồi buộc anh về công an phường Bến Nghé "làm việc".

"Về đến phường mấy anh bảo đem đồ ra hết để kiểm tra. Thấy mình quăng ra có thêm máy ghi âm mấy anh có vẻ chú tâm vào hỏi tại sao lại có máy ghi âm và dùng với mục đích gì… Cuối cùng mấy anh cũng tin vào sự thật nhưng vẫn sợ bỏ sót gì đó nên bắt mình xoá hết video và file ghi âm. Hoàn cảnh trớ trêu nên đành xoá cho nhanh để được về" - Trần Hoàng Hận thuật lại.

Đề án "Xây dựng hệ thống camera giám sát hình ảnh tập trung" đã được Sở Thông tin và truyền thông Thành phố Hồ Chí Minh trình cho Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 8 năm 2019. Theo đó, từ nay đến năm 2025 sẽ lắp đặt khoảng 10.000 camera giám sát trên toàn thành phố với kinh phí thực hiện khoảng hơn 1.600 tỉ đồng lấy từ ngân sách thành phố.

Theo Sở Thông tin và truyền thông Thành phố Hồ Chí Minh, mạng lưới camera có mục đích giám sát, nhận diện biển số phương tiện giao thông, nhận diện khuôn mặt, theo dõi triều cường, tình trạng ngập úng… Bên cạnh đó, hệ thống camera này còn có khả năng phân tích hình ảnh, nhận diện và tìm kiếm đối tượng theo yêu cầu. Vì vậy, nó sẽ hỗ trợ tốt cho việc chỉ đạo, điều hành và xử lí các tình huống như chống bạo động và các hành vi gây rối trật tự công cộng.

Nhưng một số nhà quan sát độc lập cho rằng đề án này nhằm mục đích chính là không muốn cho người dân thể hiện quyền cá nhân, không muốn người dân ra đường nói lên tiếng nói của mình, mà vụ công an bắt giữ vô pháp Facebooker Trần Hoàng Hận là một trường hợp điển hình.

Cũng theo nhận định của những nhà quan sát độc lập này, Sở Thông tin và truyền thông đề xuất dự án camera giám sát rồi trình lên cho chủ tịch thành phố, Chủ tịch thành phố chỉ việc ký vào đề án đó mà không thông qua bất kỳ một cơ quan tư pháp nào để xem xét về tính hợp hiến. Trong khi đó, một số quốc gia như Hàn Quốc cấm các cơ quan hành pháp theo dõi công dân. Nếu muốn theo dõi một công dân thì cần phải có các thủ tục tư pháp.

Trong thực tế, rất nhiều quốc gia cấm chính quyền lắp đặt camera nhận diện khuôn mặt một cách tự động ở những nơi công cộng bởi xâm phạm trực tiếp đến quyền riêng tư của người dân, mà được phép lắp đặt các hệ thống camera bình thường.

Trong thực tế, chưa có một báo cáo hoặc một thống kê nào nêu lên tính hiệu quả của việc lắp đặt camera, trong lúc tỷ lệ tội phạm trộm cướp vẫn không có dấu hiệu cải thiện.

Tình hình trên cho thấy chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chỉ viện dẫn lý do là quản lý xã hội nhằm phòng chống tội phạm để phía hành pháp tự tiến hành lắp đặt hệ thống camera này - như một cách ‘móc túi’ tiển đóng thuế của người dân nhưng lại dùng chính camera giám sát để bịt miệng người dân.

Cũng rất đáng lo ngại là dự án lắp đặt hệ thống camera để nhận diện khuôn mặt được chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện là ‘sao y bản chánh’ mô hình giám sát công dân của Trung Quốc.

Báo South China Morning Post cho biết Trung Quốc đang là nước có số lượng camera có khả năng nhận diện khuôn mặt cũng như hành vi người dân được lắp đặt ở nơi công cộng nhiều nhất trên thế giới với gần 200 triệu camera giám sát. Đặc biệt nhiều tại các thành phố lớn như Bắc Kinh hay Thượng Hải. Mỗi người dân Trung Quốc khi ra đường sẽ bị giám sát bởi 2 camera an ninh.

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 27/09/2019

Published in Diễn đàn

Nếu ngày càng nhiều quốc gia thờ ơ với vụ Bãi Tư Chính, đó sẽ là cơ hội để Bắc Kinh khuếch tán chiến dịch vận động các nước trong Liên Hiệp Quốc ủng hộ ‘chủ quyền’ của Trung Quốc ở khu vực này. 

songphuong1

Từ nhiều năm nay, đặc biệt từ 1990, các đời Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, với các ký kết của họ với Trung Quốc, dần dần đưa Việt Nam vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Ảnh minh họa cuộc họp song phương Việt Nam Trung Quốc

Vào ngày 18/09/2019, lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tung ra tối hậu thư lên án Việt Nam đã xâm phạm quyền lợi của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính.

Rất đáng chú ý, tuyên bố trên có nội dung : "Kể từ tháng Năm năm nay, phía Việt Nam đã tiến hành khoan dầu khí đơn phương tại Bãi Tư Chính (Wan'an Tan) của Trung Quốc, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của Trung Quốc. Đây cũng là hành vi vi phạm các thỏa thuận song phương, bao gồm Hiệp định về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề liên quan đến biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, Điều thứ năm của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những điều khoản của UNCLOS".

Tuy Cảnh Sảng - người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc - không nói rõ về thỏa thuận song phương nào, nhưng chừng đó là quá đủ để dư luận hình dung và liên tưởng đến hàng loạt ‘thỏa thuận song phương’ mà giới chóp bu Việt Nam đã lén lút ký với Trung Quốc nhưng không công khai cho người dân biết, dẫn tới hậu quả mất thác Bản Giốc trước đây, liên quan đến vô số đồn đoán về ‘Mật ước Thành Đô’ 1990 - hay còn gọi là ‘thỏa thuận bán nước’, những thỏa thuận song phương nào đó về xử lý tranh chấp ở Biển Đông liên quan đến ‘đường lưỡi bò 9 đoạn’ của Trung Quốc, và quá nhiều thiệt hại trong quan hệ kinh tế Việt - Trung sau này.

Điều mà người ta tự hỏi và cho tới giờ vẫn còn kinh ngạc về cái dấu hỏi to tướng ấy là vì sao cho tới nay, sau gần 3 tháng tàu Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm vào ‘vùng biển chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, nhưng vẫn không một quan chức nào trong Bộ Chính trị Việt Nam dám nhắc tới cái tên Trung Quốc, không có một phát đạn nào từ tàu Việt Nam dù chỉ bắn lên trời để cảnh cáo, cũng không có bất kỳ một động thái nào về ‘kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế’ ?

Phải chăng cái gọi là ‘thỏa thuận song phương’ mà những qua chức chóp bu như Nguyễn Phú Trọng đã ký kết với Bắc Kinh đã quá bất lợi cho phía Việt Nam để đẩy tới tình thế ‘há miệng mắc quai’ - cả Bộ Chính trị Việt Nam phải câm như hến khi bị phía Trung Quốc bắt bẻ ? Nếu đúng thế, những điều khoản nào bị sơ hở và bất lợi ? Trách nhiệm soạn thảo, thông qua và ký kết những điều khoản bất lợi đó thuộc về những quan chức nào ? Bộ Chính trị và Quốc hội Việt Nam có dám đòi hỏi Nguyễn Phú Trọng và những quan chức cận thần của ông ta phải công khai các thỏa thuận song phương đã ký với Trung Quốc cùng những điều khoản bất lợi đang khiến Trọng ‘ngậm hột thị’ ?

Rốt cuộc, tất cả từ không dám nổ súng cảnh cáo, không dám nhắc tên Trung Quốc và không dám kiện Trung Quốc đã khiến Bắc Kinh không chỉ ngày càng coi thường ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, mà còn giành ưu thế vượt mặt giới chóp bu Việt Nam trong hoạt động vận động quốc tế.

Cách tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, và bây giờ còn muốn đuổi Việt Nam ra khỏi đó, rất có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong "đường lưỡi bò 9 đoạn", tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế "thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc" vào năm 2019.

Nếu ngày càng nhiều quốc gia thờ ơ với vụ Bãi Tư Chính, đó sẽ là cơ hội để Bắc Kinh khuếch tán chiến dịch vận động các nước trong Liên Hiệp Quốc ủng hộ ‘chủ quyền’ của Trung Quốc ở khu vực này. Và nếu Trung Quốc đạt được một sự ủng hộ của một số nước nào đó, dưới dạng tuyên bố hoặc nghị quyết quốc tế, đó sẽ là cơ sở và tiền đề cực kỳ quan trọng để ‘Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa’ tiến hành một chiến dịch quân sự tốc chiến xâm chiếm Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tốc chiến trước khi Việt Nam khai thác hết dầu để nuôi đảng !

Thường Sơn

Nguồn : VNTB, 26/09/2019

Published in Diễn đàn