Tăng vốn dự án Cát Linh - Hà Đông hơn hai lần không qua quốc hội : Xử lý Bộ Giao thông và vận tải ra sao ?
Vào kỳ họp quốc hội lần này, hẳn không thể ngẫu nhiên mà cùng lúc với hiện tượng hàng loạt đại biểu quốc hội bỗng oai dũng đăng đàn để đòi chính phủ để cho cơ quan này được duyệt dự án đầu tư công, một số tờ báo quốc doanh đã đột ngột vạch trần một sự thật mà lâu nay chính phủ giấu kín :
"Kiểm toán Nhà nước kết luận Bộ Giao thông Vận tải đã phê duyệt tăng tổng mức đầu tư dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông từ 8.770 tỷ đồng lên trên 18.000 tỷ đồng mà không qua cửa Quốc hội".
Dù chưa khánh thành nhưng nhiều hạng mục của đường sắt Cát Linh - Hà Nội đã cũ kỹ do thời gian xây dựng quá lâu. Ảnh : Phạm Thắng.
Ngạn ngữ ‘con voi chui lọt lỗ kim’ hoàn toàn có thể thích ứng với vụ việc khổng lồ trên. Không thể tưởng tượng rằng trong một chế độ chính trị có hẳn một cơ quan lập pháp nhưng một bộ chuyên môn như Bộ Giao thông Vận tải vẫn qua mặt một cách sỗ sàng, không coi giới ‘nghị gật’ ra gì, trong khi Luật đầu tư công đã quy định rõ những dự án có mức vốn đầu tư trên 10.000 tỷ đồng phải được Quốc hội thông qua.
Vì sao lại xảy ra nông nỗi ấy ?
Trong thực tế, Bộ Kế hoạch - đầu tư là một ‘cửa’ mà toàn bộ dự án đầu tư công của các chủ đầu tư phải ‘chạy’ qua, khiến phát sinh rất nhiều dư luận và phản ứng về tình trạng ‘ăn không chừa thứ gì’ của bộ này và những bộ ngành liên quan khác nằm trong bộ phận thẩm định và phê duyệt dự án (như Bộ Tài chính và những bộ chuyên môn).
Trước đây, một ít đại biểu quốc hội đã ‘cắc cớ’ về cơ chế duyệt dự án đầu tư công, đặt dấu hỏi về tình trạng quá chậm trễ của phía chính phủ và Bộ Kế hoạch - đầu tư, hàm ý các cơ quan này không chỉ yếu kém về năng lực phê duyệt dự án mà còn phát sinh nạn ăn hối lộ. Tuy nhiên, chính phủ từ thời Nguyễn Tấn Dũng đã át đi tất cả những ý kiến này và bắt giới dân biểu phải ‘câm họng’.
Hẳn đó là nguồn cơn khiến lần đầu tiên gần 500 mái đầu ‘nghị gật’ có vẻ bừng tỉnh và đang muốn ‘nổi loạn’ trước một chính phủ đã nặng thói quen hành xử ‘trình gì gật đó’.
Danh mục, mức vốn cho từng dự án sử dụng vốn ngân sách trung ương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn vẫn nên để cho Quốc hội quyết định thay vì Chính phủ - theo kiến nghị của đa số đại biểu Quốc hội và được báo nhà nước tường thuật, liên quan đến Luật đầu tư công (sửa đổi).
Nếu sắp tới Luật đầu tư công (sửa đổi) bổ sung quy định Quốc hội có thẩm quyền duyệt dự án đầu tư công với mức vốn dưới 10.000 tỷ đồng, chẳng hạn Quốc hội sẽ phê duyệt những dự án đầu tư công có mức vốn trên 1.000 tỷ đồng hoặc từ 3.000 - 5.000 tỷ đồng, đó sẽ là một thắng lợi đáng kể của ‘cơ quan giám sát’, bởi đó sẽ là lần đầu tiên Quốc hội thực hiện được nhiệm vụ giám sát lại những dự án đầu công mà rất nhiều khả năng trước đây đã được Bộ Kế hoạch - đầu tư và các ngành khác thẩm định, phê duyệt vô tội vạ, ‘vận dụng’ quá nhiều hình thức chỉ định thầu thay vì đấu thầu công khai, cùng quá nhiều cảnh ‘lót tay’.
Đây cũng là lần đầu tiên mà nguy cơ ‘mất nồi cơm’ diễn biến cận kề đến thế đối2019 với Bộ Kế hoạch - Đầu tư, khiến bộ trưởng bộ này - quan chức nung núc mỡ Nguyễn Chí Dũng - chỉ có thể gượng gạo đánh đố : "Quốc hội duyệt hết được 9.000 dự án đầu tư công không ?".
Vụ việc tự tung tự tác và vượt quyền của Bộ Giao thông Vận tải về tăng vốn dự án Cát Linh - Hà Đông hơn hai lần không qua quốc hội hoàn toàn xứng với một ‘mức án’ không nhẹ về hành vi hình sự, chẳng hạn như ‘lợi dụng chức vụ quyền hạn…’ và ‘cố ý làm trái…’.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 31/05/2019
Chưa có gì đáng gọi là ‘thắng lợi chính trị’ dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam khi quốc gia này chưa được Hoa Kỳ chính thức xếp vào nhóm quốc gia thao túng tiền tệ. Mà chính thể Việt Nam vẫn là ứng viên tiềm tàng của nhóm quốc gia thao túng tiền tệ đó.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã mua vào lượng khá lớn ngoại tệ, ước tính đã lên tới gần 9 tỷ USD trong 4 tháng đầu năm 2019 - Ảnh minh họa
Bởi vào ngày 29/5/2019, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã ban hành Báo cáo về "Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ", đưa ra Danh sách các quốc gia cần giám sát gồm 9 nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Ý, Ireland, Singapore, Malaysia và Việt Nam.
Theo đó, cánh cửa vào ‘kinh tế thị trường’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam, vốn đã chẳng rộng mở gì, nay càng thêm hẹp lại.
Cần nhắc lại, Mỹ sử dụng ba tiêu chí để đánh giá việc thao túng tiền tệ của một quốc gia: thặng dư tài khoản vãng lai lớn hơn 3% GDP, thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la, và can thiệp vào thị trường ngoại hối vượt quá ít nhất 2% GDP.
Việt Nam bị Mỹ xem là một nước lũng đoạn tiền tệ vì đã cho hạ giá đồng tiền của mình một cách giả tạo.
Vào năm 2018, Việt Nam đã đạt thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ (còn gọi là giá trị xuất siêu) ở mức kỷ lục tới 35 tỷ USD, càng củng cố một cách chắc chắn vị trí thứ 6 của Việt Nam trong số 16 quốc gia bị Donald Trump liệt vào danh sách ‘gây hại’ cho nền kinh tế Mỹ.
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho tăng vọt tỷ giá trung tâm để kích thích gom USD trôi nổi, dù đã trám bớt lỗ hổng toang hoác của Quỹ dự trữ ngoại hối để có tiền trả nợ nước ngoài (trong 4 tháng đầu năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào lượng khá lớn ngoại tệ, ước tính đã lên tới gần 9 tỷ USD, trong bối cảnh thị trường và tỷ giá USD/VND ổn định, và đặc biệt là trong điều kiện cung ngoại tệ dồi dào và nhà điều hành mua vào lượng lớn), nhưng lại khiến cơ quan ‘siêu ngân hàng’ này phải trút vào thị trường tự do đến 200.000 tỷ đồng trong 4 tháng đầu năm 2019 - chiếm đến hơn 4% GDP, tức vượt xa giới hạn 2% GDP mà Mỹ quy định đối với quốc gia thao túng tiền tệ.
Sau danh sách quốc gia bị giám sát mà do đó Việt Nam sẽ tiếp tục được theo dõi trong hai kỳ Báo cáo tiếp theo, trong thời gian tới, Bộ Tài chính Hoa Kỳ sẽ theo dõi các thông tin, số liệu về thương mại, cán cân vãng lai, các chính sách kinh tế vĩ mô, tiền tệ của Việt Nam.
Phản ứng về danh sách giám sát, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã không hề ‘phản đối’ hay ‘lấy làm thất vọng sâu sắc’ theo cái cách chính thể này thường phản ứng trước các báo cáo của Hoa Kỳ về việc Hà Nội vi phạm nhân quyền trầm trọng. Mà Ngân hàng Nhà nước chỉ phản hồi một cách nhẹ nhàng như thể phải chấp nhận: “sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để trao đổi, làm việc về các vấn đề mà BTC Hoa Kỳ quan tâm trên tinh thần hợp tác, đồng thời tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý, điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế cũng như đặc thù của kinh tế Việt Nam, không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế không lành mạnh”.
Nếu sắp tới Việt Nam bị Mỹ xếp vào danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ, tương lai rất cận kề là theo lệnh của Tổng thống Trum, Đại diện Thương mại Mỹ sẽ nâng cao mức thuế suất đánh vào hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ - tương tự chiến dịch nâng thuế suất đến 25% của Mỹ đối với toàn bộ 500 tỷ USD giá trị hàng hóa của Trung Quốc vào thị trường Mỹ.
Và nếu bị Mỹ đánh thuế nặng hàng xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng Việt Nam sẽ lâm vào cảnh phá sản, còn nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không thể chịu nổi thuế suất cao mà sẽ phải rút khỏi Việt Nam, khiến nền kinh tế nước này lao nhanh vào suy thoái trầm kha và càng khiến tuổi thọ của chính thể độc đảng trở nên ngắn ngủi đến khó lường.
Thường Sơn
Đà Nẵng - một thành phần vùng quê hương của Thủ tướng Phúc, dường như đã được quan chức này chọn lựa đặc biệt để làm thí điểm cho cuộc cạnh tranh không thể tránh khỏi giữa chính thể và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam với loại hình công đoàn độc lập nằm ngoài nhà nước - theo quy định bắt buộc của Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã ký và Hiệp định Thương mại tự do châu Âu - Việt Nam (EVFTA) nhiều khả năng sắp ký.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - thủ phạm 'ăn cướp 3%' thu nhập của doanh nghiệp và hàng chục triệu người lao động trong rất nhiều năm qua. Ảnh 8 công đoàn ngành trong khối thi đua ký kết giao ước thi đua năm 2019 - Ban quản lý khu vực kinh tế Hải phòng
Ngày 25/5, Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng tổ chức hội nghị chuyên đề giới thiệu "Hiệp định CPTPP - Thời cơ và thách thức đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam" cho gần 1.000 cán bộ công đoàn. Tại hội nghị, quan chức Ngọ Duy Hiểu - Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - đã trình bày ba chuyên đề : Cơ hội và thách thức của Công đoàn Việt Nam trong hội nhập Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP. Một số vấn đề lớn đặt ra trong lĩnh vực quan hệ lao động và tổ chức Công đoàn Việt Nam hiện nay. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới công nhân và hoạt động Công đoàn.
Ngọ Duy Hiểu đặc biệt nhấn mạnh đến "cơ hội và thách thức của tổ chức Công đoàn khi có CPTPP", bởi với việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP, lần đầu tiên vấn đề "đa Công đoàn" được quy định và áp dụng tại Việt Nam.
Tuy nhiên cũng như nhiều quan chức khác, quan chức Ngọ Duy Hiểu đã không một lần đề cập đến thực chất của ‘đa công đoàn’ chính là công đoàn độc lập.
Chính thể đã quá quen với não trạng độc trị và vơ vét vẫn còn nằm nguyên trong tư duy bưng bít thông tin và giam cầm người lao động trong cái nhà tù tư tưởng khổng lồ.
Nhưng đến giờ này, có lẽ phần lớn trong số hàng chục triệu công nhân Việt Nam đã biết về sự thật mà chính thể độc đảng cố giấu diếm : trong CPTPP và EVFTA có một điều khoản đặc biệt quan trọng và thiết thân đến lợi ích công nhân là người lao động được quyền tự do thành lập công đoàn tự do (còn gọi là công đoàn độc lập) nằm ngoài tổ chức công đoàn quốc doanh mà không thể bị chính quyền công an trị quy chụp là ‘âm mưu lật đổ chế độ’.
Theo những quy định của CPTPP, chính quyền Việt Nam sẽ phải cho phép người lao động được tự do thành lập các tổ chức nghiệp đoàn tự do để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, tức về thực chất sẽ có một hình thái tổ chức nghiệp đoàn độc lập, hay còn gọi là công đoàn độc lập, tồn tại song song với hệ thống Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam từ trung ương xuống các địa phương. Không những thế, công nhân còn được thành lập nghiệp đoàn tự do không chỉ giới hạn ở từng khu vực mà còn trên cả nước, và các nghiệp đoàn độc lập này được kết nối với nhau…
CPTPP và EVFTA đang khiến đảo lộn phần lớn não trạng độc trị : Công đoàn độc lập - một thực thể mà trước đây chính quyền Việt Nam luôn xem là ‘thế lực phản động’ và quy cho nó âm mưu lật đổ chế độ, thì nay chính cái chính quyền đó phải âm thầm thừa nhận. Sự biến này đang và sẽ áp đặt một trong những "cánh tay nối dài của đảng" là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam vào cái thế lần đầu tiên trong lịch sử phải từ bỏ vai trò độc quyền "quản lý người lao động" để phải tìm cách cạnh tranh một cách minh bạch và sòng phẳng với các nghiệp đoàn lao động độc lập do công nhân lập ra.
Ngay phía trước của chính thể độc trị là một thách thức rất lớn mà nó chưa bao giờ phải đối mặt trong quá khứ không có hội nhập quốc tế : làm thế nào để vẫn tiếp tục duy trì được cái tỷ lệ ‘3% ăn cướp’ - tức mức thu mà Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tự đặt ra để thu từ 2% thu nhập hàng tháng của các doanh nghiệp và 1% thu nhập hàng tháng của hàng chục triệu người lao động - mà không bị mất mát vì người lao động có thể rời bỏ tổ chức công đoàn nhà nước để gia nhập vào các tổ chức công đoàn tự do được thành lập bởi chính bàn tay của họ ? Làm thế nào để duy trì ảnh hưởng và quyền lực của đảng, nếu không còn độc tôn như trước thì cũng sẽ là mang tính thao túng và lũng đoạn, đối với các tổ chức công đoàn cơ sở của người lao động ? Và quan trọng hơn cả đối với chế độ cầm quyền, làm thế nào để công nhân - cho dù có thành lập được một số tổ chức công đoàn độc lập, cũng không thể tạo thành một lực lượng đủ mạnh để tiến hành đình công và biểu tình khi cần thiết như một sự thách thức đủ lớn đối với ách cai trị nghiệt ngã của chế độ ?
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 29/05/2019
Đã khá rõ không phải Tô Lâm bộ trưởng công an, mà Phạm Bình Minh ngoại trưởng Việt Nam mới là nhân vật được Nguyễn Phú Trọng chọn là người đi tiền trạm chính thức ở Hoa Kỳ trước khi Trọng có chuyến công du sang Washington có thể trong vài tháng nữa.
Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo.
Sau chuyến đi Cuba như một hành động cố gắng không làm mích lòng người anh em chủ nghĩa xã hội mà đã cùng nguyện thề ‘cùng thức canh giữ hòa bình thế giới’, Phạm Bình Minh đã đến Mỹ và lần lượt có những cuộc gặp tương đối quan trọng với Bộ trưởng thương mại, Bộ trưởng tài chính, Quyền Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ ; trao đổi với Hạ nghị sĩ, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Eliot Engel.
Điểm nhấn rõ nhất có lẽ là cuộc gặp của Phạm Bình Minh với Quyền Bộ trưởng quốc phòng Patrick Shanahan, trong đó dự án tẩy độc sân bay Biên Hòa chỉ là cái cớ, còn ‘làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác toàn diện về quốc phòng’ mới là mục đích chính yếu.
Không hoài nghi rằng chuyến đi Mỹ sắp tới của Nguyễn Phú Trọng sẽ bàn sâu về một trong những nội dung trọng tâm là "làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc phòng" và làm thế nào để Mỹ-Việt cùng khai thác triệt để mỏ Cá Voi Xanh mà không để "kẻ cướp" Trung Quốc dây phần.
Tình hình trục Hà Nội - Washington cho tới nay là rất logic với bầu không khí từ "cầu viện" biến thành nồng ấm hơn trong quan hệ Việt-Mỹ kể từ tháng 7/2017, khi Bộ Trưởng Ngô Xuân Lịch vội vã sang Hoa Kỳ, ngay sau vụ Trung Quốc đe dọa tấn công mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ – liên doanh giữa Việt Nam với hãng dầu khí Tây Ban Nha là Repsol và khiến Repsol phải "bỏ của chạy lấy người". Sau đó Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis đã lần đầu tiên điều động hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson đến hiện diện tại cảng Đà Nẵng vào tháng 3/2018. Việc làm này phục vụ cho một nhu cầu cần thiết với Mỹ và tối cần thiết với Bộ Chính Trị Việt Nam : dự án khai thác mỏ dầu khí Cá Voi Xanh ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi, có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối, được liên doanh giữa Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ với Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam, sẽ không còn phải mắt trước mắt sau trước thói đe nẹt của "đồng chí bốn tốt".
Kết quả có thể thấy rõ là ngay sau chuyến thăm Việt Nam một cách bất thường của Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis vào tháng 11/2018, cùng tuyên bố đầy thách thức "Mỹ sẽ hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông dù có Trung Quốc hay không" của Cố vấn An ninh Mỹ John Bolton, ExxonMobil đã một lần nữa quay lại nhà máy lọc dầu Bình Sơn để tiến hành hợp đồng FEED (tư vấn lập thiết kế tổng thể) trong dự án Cá Voi Xanh.
Nếu sau cuộc cuộc gặp Trump - Trọng sắp tới tại Washington hiện ra một văn bản được ký giữa hai bên như kiểu’ Hiệp ước tương trợ quốc phòng’ mà Mỹ đã ký với Philippines, hoặc ít ra cũng là một bản ghi nhớ về việc sẽ tiến hành chuyện đó, và hơn nữa là sự chuẩn bị cho ‘quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Mỹ - Việt’ và cụ thể hóa hơn chương trình một hàng không mẫu hạm của hải quân Hoa Kỳ sẽ lồ lộ ở quân cảng Cam Ranh vào nửa cuối năm 2019, Bộ Chính trị ở Hà Nội sẽ có thể như ‘sống lại’ để nhảy vào khai thác mỏ Cá Voi Xanh mà không còn phải mắt trước mắt sau trước thói đe nẹt của ‘đồng chí bốn tốt’.
Bằng vào chuyếntiền trạm Hoa Kỳ lần này và đặc biệt có được cuộc gặp trao đổi với Bộ Quốc phòng Mỹ, Phạm Bình Minh dường như đã lặp lại ‘thành tích’ của Trần Đại Quang vào năm 2015.
Vào năm 2015 còn là bộ trưởng công an, Trần Đại Quang cũng đã có một 3/2015, trong đó có những cuộc gặp không chỉ giới giới chức an ninh mà cả với Bộ Quốc Phòng Mỹ. Bốn tháng sau, Nguyễn Phú Trọng được Tổng thống Obama tiếp tại Washington và được báo đảng Việt Nam ca ngợi như "một thắng lợi ngoại giao chưa từng có".
Nhưng 3 năm sau, Quang đột ngột chết.
Sau lần phải đọc báo cáo về chuyên đề dân số tại hội nghị trung ương 6 vào tháng 10/2017 bất chấp thân là ngoại trưởng, Phạm Bình Minh đã ‘ngoan’ hơn với Nguyễn Phú Trọng. Sự biến đổi vừa kín đáo vừa lộ liễu như thế có lẽ đã mang lại kết quả ông ta được Trọng chọn làm người tiền trạm Hoa Kỳ, thay cho chuyến dọn đường ở Mỹ vào tháng 4/2019 của Bộ trưởng công an Tô Lâm mà có thể đã chẳng nên công cán gì.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 26/05/2019
"Tăng trưởng GDP của Việt Nam xếp tốp đầu thế giới" là khái niệm mới nhất được ‘kiến tạo’ bởi chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ - nhân vật còn hám danh hơn cả kẻ tiền nhiệm là ‘Anh Ba X’.
Thiên tài toán học Nguyễn Xuân Phúc phán "Tăng trưởng GDP của Việt Nam xếp tốp đầu thế giới" !
Khái niệm trên được phô trương bản báo cáo vào ngày khai mạc kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2019, trong đó nhắc lại thành tích GDP năm 2018 tăng đến 7,08%.
Vào cuối năm 2018, Tổng Cục Thống kê đã công bố Tổng sản phẩm trong nước-GDP năm 2018 của Việt Nam đạt 7,08%, vượt qua dự báo của Ngân hàng Thế giới-World Bank ở mức 6,8% và lập kỷ lục cao nhất kể từ năm 2008.
Nhưng còn thực tế GDP ra sao ?
Một sự thể trớ trêu và phản dội là trùng với thời điểm Thủ tướng Phúc say sưa nghiêng ngoẹo với những con số thành tích của mình trước gần 500 mái đầu ngoan ngoãn trong quốc hội, một bản báo cáo vào tháng Mười năm 2018 của cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được công bố đã phải thừa nhận rằng nguồn thu từ 3 khu vực kinh tế không đạt dự toán (thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 2,9%, đạt 4.908 tỷ đồng ; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 15,1%, đạt 33.646 tỷ đồng ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giảm 2,2% đạt 4.855 tỷ đồng).
Mà khi thu thuế từ 3 khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài quốc doanh bị giảm mạnh, lấy đâu ra ‘Kinh tế Việt Nam đạt thành tích tăng trưởng hơn 7% GDP’ - gấp gần 3 lần tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ và EU - như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên rao đầy tự hào vào cuối năm 2018 và được các bộ ngành, giới chuyên gia cận thần và báo đảng đồng ca đầy sống sượng lẫn trơ tráo ?
Cũng vào tháng Mười năm 2018, những số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố cho thấy số doanh nghiệp thành lập mới trong quý III/2018 là 96.611, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động lại nhiều bất thường, với 24.501 doanh nghiệp, tăng 76%. Tính chung 9 tháng kể từ đầu năm, có 73.103 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, so với cùng kỳ năm 2017 tăng 48,1%. Có nghĩa là tỷ lệ doanh nghiệp ‘chết’ cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp được thành lập mới.
Thật rõ ràng, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng liên tục và tăng trưởng mạnh đến gần 7%/năm của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ mà tỷ lệ doanh nghiệp ‘chết’ lại cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp mới ra đời !
Phương pháp thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam là ‘có vấn đề’ hay về thực chất là ‘thống kê chính trị’ theo chỉ đạo của chính Thủ tướng Phúc nhằm phục vụ cho những mục đích tô hồng cá nhân của ông ta ?
Trong khi đó, một chuyên gia phản biện ở Việt Nam là Tiến sĩ kinh tế Bùi Trinh, bằng một số tính toán vẫn dựa trên những con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam, đã tính ra GDP thực của Việt Nam chỉ vào khoảng 2,5%. Còn nếu dựa trên những dữ liệu thực hơn mà không phải số liệu thống kê khó mà tin cậy được thì GDP thực của Việt Nam còn thấp hơn 2,5%.
Ở Việt Nam, người ta có thể nhìn ra rõ ràng là không chỉ ‘tân chủ tịch nước’ Nguyễn Phú Trọng - với phát ngôn bất hủ ‘đất nước có bao giờ được như thế này !’ - là chóp bu tham vọng quyền lực duy nhất, mà bên cạnh đó và rất có thể đang mong ngóng được kế thừa cái ghế ‘hoàng đế’ là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Chỉ có điều, những cuộc vận động của Thủ tướng Phúc có thể chẳng nên cơm cháo gì. Cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13 đã được sáp nhập với cái ghế chủ tịch nước bởi một tác giả duy nhất : ‘Hoàng đế Nguyễn Phú Trọng’.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 22/05/2019
Tháng 5 năm 2018, ‘luật bán nước’ - một cái tên bi thảm mà người dân đã gọi để lên án Luật Đặc khu - thêm một lần nữa bị hoãn trình quốc hội, sau lần bị hoãn đầu tiên xảy ra vào tháng 6 năm 2018 do bị hàng trăm ngàn người dân Sài Gòn đổ xuống đường biểu tình phản đối và lần thứ hai bị hoãn vô thời hạn vào tháng 10 năm 2018.
'Nó lừa mình !' - Phạm Minh Chính (trái) và Nguyễn Phú Trọng.
Vào sát thời điểm bắt đầu kỳ họp quốc hội tháng 5 năm 2019, dự Luật Đặc khu bất chợt bị phía chính phủ của của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ đề nghị hoãn trình Quốc hội, với lý do là luật này chưa ‘chín’.
Còn hiện thời Chính phủ "đang tiếp tục hoàn chỉnh để báo cáo và đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh".
Hiện tượng lạ lùng là hiện chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của cả năm 2019 và 2020 đều không có dự án ‘luật bán nước’, dù mới vào đầu tháng 4 năm 2019 Thủ tướng Phúc còn chỉ đạo cho các bộ ngành liên quan "Hoàn thiện dự án Luật Đặc khu theo hướng xây dựng một luật chung (thay vì dành cho riêng 3 đặc khu)" tại một phiên họp của Ủy ban Thường vụ quốc hội. Tinh thần chỉ đạo sắt son như thế đã khiến dư luận một lần nữa dậy sóng phản ứng về ý chí cố đấm ăn xôi của Nguyễn Xuân Phúc cùng các nhóm tài phiệt có lợi ích khổng lồ nếu ‘luật bán nước’ được thông qua.
Dư luận cũng bật lên một nghi ngờ rất lớn : sau ‘luật riêng’ của Phạm Minh Chính và Nguyễn Thị Kim Ngân, vai trò ‘luật chung’ của Nguyễn Xuân Phúc có thể được hiểu ra sao ? Liệu ông Phúc có lợi ích gì trong các phi vụ đầu cơ tài chính và chính trị của ‘luật bán nước’ ?
Còn nhớ khi đến sát kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2018, ‘luật bán nước’ mới được công bố một cách chính thức như sự đã rồi. Trước đó, đã không có bất kỳ một động tác nào, dù là nhỏ nhất hoặc chỉ mang tính mị dân, nhắm đến việc thông báo cho dân hoặc lấy ý kiến của dân về dự luật đặc khu.
Nhưng ngay sau khi dự luật Đặc khu được công bố, rất nhiều người dân và trí thức đã dậy lên một làn sóng phản kháng phẫn nộ, so sánh Dự luật về đặc khu kinh tế với hình thức nhượng địa mà chỉ đất nước nào nghèo đói lạc hậu mới cần đến, mặt khác họ cảnh báo nó có thể bị nước láng giềng Trung Quốc lợi dụng để di dân.
Chỉ đến khi không khí và tâm trạng bức xúc của dân chúng lên cao độ, Thủ tướng Phúc mới lộ hình để thanh minh : ‘Giao đất 99 năm không phải mấu chốt của luật đặc khu".
Nhưng khi không khí bức xúc của dân chúng và trí thức không còn là mỉa mai hay chỉ trích đối với dự luật đặc khu mà đã bùng nổ thành rất nhiều văn thư, bài viết phản bác và phản kháng, đồng thời manh nha một làn sóng biểu tình phản đối dự luật này, ông Phúc lại ‘tự diễn biến’ khi tự thay đổi quan điểm trước đó của mình sang ‘Sẽ điều chỉnh cho thuê đất đặc khu xuống dưới 99 năm’.
Không biết ngẫu nhiên hay chủ ý, dự án ‘luật riêng’ theo chỉ đạo biến tướng của Nguyễn Xuân Phúc thình lình bị xem là ‘chưa đủ chín’ chỉ vài ngày sau ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng tạm hồi phục, sau khi ông ta nhiều khả năng đã phải chịu một cơn tai biến mạch máu não không hề nhẹ nhàng.
Vào lúc này khi ‘luật bán nước’ một lần nữa bị hoãn trình ra quốc hội, phải chăng động thái đó có liên quan trực tiếp đến sự ‘tái xuất’ của Nguyễn Phú Trọng và lời cảm thán ‘Nó lừa mình !’ trước đó của ông ta, để thêm một lần Trọng buộc phải chỉ đạo ‘trảm’ dự luật phản dân hại nước này ?
Vào tháng 6 năm 2018, một tin tức đã lan tràn trong giới cách mạng lão thành ở Hà Nội : Nguyễn Phú Trọng đã có một cuộc gặp riêng kéo dài đến hai giờ đồng hồ với vài cựu quan chức thân tín để nghe báo cáo về thực chất mất chủ quyền an ninh và bị các nhóm lợi ích lợi dụng đẩy giá bất động sản trong dự luật Đặc khu, và cuối cùng ông Trọng phải thốt lên ‘Nó lừa mình !’.
‘Nó’ là ai ?
Khi đó, mối nghi ngờ rất lớn của dư luận tập trung vào ‘tứ trụ’ Huynh - Chính - Ngân - Phúc.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 19/05/2019
Với Tô Lâm, nếu chuyến đi Mỹ của ông ta vào tháng 4 năm 2019 chỉ để ‘hợp tác phòng chống khủng bố’ thì đó là nội dung quá nghèo nàn và phản ánh vị thế kém cỏi của Lâm trên trường quốc tế.
Vào ngày 15/5, Phạm Bình Minh đã có cuộc gặp với Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là Daniel Kritenbrink.
Phạm Bình Minh - Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam - đi Cuba và Hoa Kỳ từ ngày 19 đến 23 tháng 5 năm 2019, tức ngay sau khi kết thúc Hội nghị trung ương 10.
Trước đó vào ngày 15/5, Phạm Bình Minh đã có cuộc gặp với Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là Daniel Kritenbrink. "Hôm qua, tôi rất vui khi có dịp gặp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh để thảo luận về các cách thức giúp tăng cường hơn nữa Quan hệ đối tác toàn diện Hoa Kỳ - Việt Nam" - ông Kritenbrink loan báo theo cách mà dễ dàng hiểu là cuộc gặp Trump - Trọng chắc chắn sẽ diễn ra, nếu không muốn nói là diễn ra với những nội dung mang tính thực chất hơn hẳn lần hiện diện của Nguyễn Phú Trọng ở Washington vào năm 2015.
Hầu như không hoài nghi là Phạm Bình Minh đi Mỹ nhằm thu xếp những công tác ngoại giao cần thiết với ‘nước bạn’ khi Phòng Bầu Dục được mở cửa để tiếp đón nguyên thủ quốc gia Nguyễn Phú Trọng. Còn chuyến đi Cuba của Minh hẳn chỉ là phụ đề, nhằm cân đối hình ảnh Việt Nam đu dây ở phía Tây bán cầu và không làm cho dư luận nghĩ rằng Việt Nam cộng sản ngả ngớn với Mỹ mà quên mất người anh em ‘cùng thức canh giữ hòa bình thế giới’.
Trước chuyến đi Mỹ của Phạm Bình Minh, đã có một chuyến đi khác của Tô Lâm - bộ trưởng công an - cũng đi Mỹ mà có thể tiền trạm cho Nguyễn Phú Trọng. Chuyến đi này trùng với khoảng thời gian ‘Tổng tịch’ ‘mất tích lâu dài’ mà được đồn đoán là đang phải nằm điều trị tại Bệnh viện trung ương quân đội 108 do bị xuất huyết não, với nội dung làm việc khá nhỏ nhặt, thậm chí khiến giới quan sát quốc tế có cảm giác không biết Tô Lâm đến Mỹ để làm gì.
Tô Lâm đã "thăm trụ sở Đại hội đồng Liên hợp quốc và có cuộc hội đàm với Ngài Vladimir Voronkov, Phó Tổng Thư ký Liên Hợp quốc phụ trách phòng, chống khủng bố".
Ngoài ra, Tô Lâm còn gặp giới chức Mỹ bên Bộ Nội vụ và Bộ Ngoại giao, với những nội dung chung chung không kém.
Sau đó là "Bộ trưởng Tô Lâm và đoàn đại biểu cấp cao Bộ Công an đã tới thăm và làm việc với Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên Hợp quốc".
Và sau đó là… hết.
Lẽ nào một bộ trưởng công an bỏ thời gian bay nửa vòng trái đất đến Hoa Kỳ chỉ để nói những chuyện chung chung, thậm chí còn không hiện ra bất kỳ văn bản nào được hai bên ký kết về phòng chống khủng bố ?
Nội dung quá nghèo nàn trên đã khiến người ta phải nghi ngờ về mục đích thực chất của chuyến đi Mỹ của Tô Lâm, và liên tưởng lại việc trước đó vào cuối năm 2018, một nguồn tin ngoại giao cho biết Tô Lâm đã "vận động đi Mỹ," tuy nhiên khi đó phía Mỹ chưa thể sắp xếp được cho chuyến đi này, cũng như chưa rõ mục đích chuyến đi của Tô Lâm nhằm vào điều gì.
Với Tô Lâm, nếu chuyến đi Mỹ của ông ta vào tháng 4 năm 2019 chỉ để ‘hợp tác phòng chống khủng bố’ thì đó là nội dung quá nghèo nàn và phản ánh vị thế kém cỏi của Lâm trên trường quốc tế.
Còn nếu quả thực chuyến đi này nhằm tiền trạm cho Nguyễn Phú Trọng thì lại không có dấu hiệu nào cho thấy Mỹ - Việt đã thỏa thuận một điều gì đó liên quan đến chuyến đi Mỹ của Trọng.
Một nguyên do có thể lý giải tình trạng quá nghèo nàn về nội dung trong chuyến đi Mỹ của Tô Lâm là ông ta đến Mỹ đúng vào lúc ‘Tổng tịch’ có thể còn.. chưa tỉnh.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 18/05/2019
Tròn một tháng sau biến cố bạo bệnh ở Kiên Giang, quê hương ‘anh Ba X’, rốt cuộc ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng đã tái xuất hiện vào ngày 14/5/2019.
Một số phân tích vi ảnh đã cho thấy lồ lộ một sợi dây lớn ràng từ ghế vào phần bụng của Trọng mà được suy đoán loại đai định thân, giữ cho thân hình của Nguyễn Phú Trọng không bị di chuyển hoặc lật nghiêng trong khi ông ta chỉ đạo các quan chức khác.
Bối cảnh tái hiện trên là ‘họp lãnh đạo chủ chốt’ do Trọng chủ trì, được Đài Truyền hình Việt Nam ghi hình và trích xuất đưa lên bản tin tối hôm đó, động tác mà được hiểu như chủ ý của ‘Tổng tịch’ muốn đánh dấu sự trở lại ghế ngồi của ông ta một cách chính thức và hoành tráng, dù đó chỉ là một cuộc họp hẹp trong nội bộ cao cấp chứ không phải là một sự kiện chính trị lớn. Việc Đài Truyền hình Việt Nam được tham gia ghi hình và thu tiếng như thế có thể là một bằng chứng rất rõ : Sự xuất hiện của Nguyễn Phú Trọng chỉ là một show diễn nhằm trấn an dư luận đang đòi hỏi phải minh bạch hóa về tình trạng sức khỏe của ông ta.
Tình trạng phục hồi, hoặc tạm phục hồi khá nhanh về sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng như người ta được chứng kiến ông ta trên truyền hình là khá logic với những tin tức ngoài lề gần nhất : Trọng đã vượt qua cơn nguy kịch và đang dần phục hồi, với chế độ chăm sóc đặc biệt của đội ngũ bác sĩ hàng đầu và Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương.
Giọng nói và khẩu hình phát ngôn vẫn như trước khi Nguyễn Phú Trọng bị ‘đột quỵ’, nghĩa là vẫn ổn, và nếu ông ta có bị méo miệng như đồn đoán của dư luận thì cũng đã phục hồi hầu như hoàn toàn. Nhưng dấu hỏi còn lại vẫn là buổi ghi hình đó đã không lần nào cho thấy Trọng di chuyển khỏi cái ghế mà có vẻ như ông ta đã bị bắt cứng vào đó. Điều này thêm một lần nữa làm dấy lên mối nghi ngờ của dư luận về khả năng ‘tập đi’ của Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa thể hoàn thiện, và có lẽ còn xa mới đạt đến trình độ nói năng không mấy bị vấp váp của ông ta.
Một số phân tích vi ảnh đã cho thấy lồ lộ một sợi dây lớn ràng từ ghế vào phần bụng của Trọng mà được suy đoán loại đai định thân, giữ cho thân hình của Nguyễn Phú Trọng không bị di chuyển hoặc lật nghiêng trong khi ông ta chỉ đạo các quan chức khác.
‘Không để chống tham nhũng bị chùng xuống…’ và ‘có khi phải làm mạnh hơn’ - bệnh nhân Nguyễn Phú Trọng nhấn nhá và nhắc đi nhắc lại khi chủ trì cuộc họp với một số chóp bu chủ chốt như Thủ tướng Phúc, Chủ tịch quốc hội Ngân và Thường trực ban bí thư Vượng.
Chỉ đạo trên lại trùng với động thái Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Bộ Công an bắt giam và khởi tố bị can đối với hai quan chức tổng giám đốc là Tề Trí Dũng ở Sài Gòn và Bùi Quang Huy ở Hà Nội.
Cải hai quan chức kinh tế vừa bị bắt trên đều được dư luận ồn ào cho là sân sau của những quan chức chính trị cao cấp : Tề Trí Dũng móc xích với cựu ủy viên trung ương, cựu phó bí thư thường trực thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Tất Thành Cang. Còn Bùi Quang Huy được cho là sân sau của đương kim chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung, tức Chung ‘Con’.
Mới đây, vụ cựu phó thủ tướng Vũ Văn Ninh bị lôi ra kỷ luật khiến người ta nhớ lại trường hợp cựu bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Đinh La Thăng và Bí thư thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh. Theo logic đó, trong thời gian tới ‘lò’ có thể áp sát và đốt một số quan chức - cựu chức và cả đương chức - của khối chính phủ, nơi mà mật độ tham nhũng diễn ra dày đặc nhất từ trước tới nay.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 15/05/2019
Sau gần một tháng ‘Tổng tịch’ vẫn kiên định ‘mất tích’ kể từ biến cố có thể là khá ghê gớm về tai biến mạch máu não tại ‘nhà Ba Dũng’ ở Kiên Giang, báo đảng bất chợt ồn ào đưa tin về ‘Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ trình Quốc hội phê chuẩn Công ước 98 vào 29/5’.
Cuộc điều trần về chủ đề EVFTA - nhân quyền do Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu tổ chức vào ngày 10 tháng Mười năm 2018 tại Brussels, Bỉ.
Vì sao Công ước 98 lại quan trọng đến mức được Nguyễn Phú Trọng chọn như một sự kiện vào ngày ‘ra mắt’ của ông ta ?
Công ước 98 có 3 nội dung cơ bản : bảo vệ người lao động và công đoàn trước các hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn của người sử dụng lao động; bảo vệ tổ chức của người lao động không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động; những biện pháp thúc đẩy thương lượng tập thể, tự nguyện, thiện chí.
Công ước 98 là một trong 3 công ước quốc tế còn lại về lao động, liên quan mật thiết đến Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và công đoàn độc lập mà nhà nước Việt Nam chây ì từ quá lâu mà chưa chịu ký kết.
Tại cuộc điều trần về chủ đề EVFTA - nhân quyền do Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu tổ chức vào ngày 10 tháng Mười năm 2018 tại Brussels, Bỉ, các nghị sỹ đã đòi hỏi 3 công ước còn lại của ILO cần phải được Việt Nam ký chính thức trước khi EU bỏ phiếu chấp thuận EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Châu Âu-Việt Nam).
Chỉ sau khi EVFTA bị Hội đồng Châu Âu hoãn vô thời hạn vào tháng 2 năm 2019 mà nguồn cơn thực chất là vô số vi phạm nhân quyền chưa từng được cải thiện của Hà Nội, mãi đến tháng 4 năm 2019 chính thể Việt Nam mới buộc phải nhượng bộ trước Liên Minh Châu Âu (EU) về ký và phê chuẩn ít nhất Công ước 98 trong số 3 công ước chưa ký.
Với Nguyễn Phú Trọng, EVFTA có tầm quan trọng rất lớn, nếu không muốn nói là mang tính sống còn đối với nền kinh tế đang bế tắc và nền ngân sách đang lao nhanh vào hội chứng hộc rỗng ở Việt Nam. Nếu không có được EVFTA, đảng của Nguyễn Phú Trọng sẽ rơi vào tình cảnh ‘hết tiền hết bạc hết ông tôi’ sớm hơn.
Nhưng vì sao chỉ có thông tin về chính thể Việt Nam sẽ ký và phê chuẩn Công ước 98 mà không nói gì đến hai công ước quốc tế còn lại về lao động? Phải chăng chính thể này đang tìm cách qua mặt Liên Hiệp Châu Âu, ký cho có để đạt được mục tiêu có được EVFTA?
Khỏi phải nói là 3 công ước lao động còn lại thể hiện mối ‘an nguy’ đến thế nào đối với chế độ cầm quyền ở Việt Nam, vì những công ước này, đặc biệt là công ước về quyền tự do lập hội, liên quan mật thiết đến công đoàn độc lập - một định chế mà từ lâu chính quyền Việt Nam đã luôn gán ghép nó với tổ chức Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan vào những năm 80 của thế kỷ XX, để từ đó quy kết cho công đoàn độc lập là nhằm thu hút, tập hợp số đông công nhân để lật đổ chính quyền.
Chiến thuật ‘câu giờ’ của chính quyền Việt Nam liên quan đến việc ký 3 công ước quốc tế về lao động là rất rõ. Hứa hẹn ‘sẽ ký’ từ trước cuộc điều trần ở Bỉ cho tới nay vẫn chỉ là một lời hứa chẳng có giá trị gì. Trong khi đó, Việt Nam vừa âm thầm vừa công khai vận động một số nước Châu Âu nhằm tác động đến Nghị viện Châu Âu để sớm thông qua EVFTA, với toan tính rằng nếu việc thông qua này diễn ra sớm trong nửa đầu năm 2019 thì Việt Nam sẽ có luôn EVFTA trong tay mà chẳng phải ký thêm bất kỳ một công ước quốc tế lao động nào.
Hãy nhớ lại cuộc điều trần về chủ đề EVFTA - nhân quyền do Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu tổ chức vào ngày 10 tháng Mười năm 2018 tại Brussels, Bỉ. Khi đó, bà Granwander Hainz đã chỉ thẳng ra rằng những lời hứa về ILO của Việt Nam chỉ là lời hứa suông từ trước giờ vì chưa có gì được thực hiện, cũng như các cam kết về nhân quyền chỉ toàn có tiêu đề mà không có nội dung cụ thể.
Còn John Sifton, Giám đốc Vận động, Ban Á Châu của Human Rights Watch, đã hoàn toàn đúng khi nhận định: "Vội vàng thông qua hiệp định thương mại với Việt Nam sẽ là một sai lầm lớn. Làm như vậy là tưởng thưởng cho Việt Nam trong khi nước này chẳng làm gì cả, thông qua EVFTA là đánh đi một thông điệp tệ hại cho thấy những cam kết mà Liên Hiệp Châu Âu đã đưa ra trước đây là dùng thương mại như một công cụ để quảng bá nhân quyền trên toàn cầu không còn đáng tin".
"Hội đồng Châu Âu và Nghị viện Châu Âu cần gửi đi một thông điệp rõ ràng rằng không thể phê chuẩn hiệp định EVFTA cho tới khi nào nhà nước Việt Nam có thái độ nghiêm túc muốn giải quyết những lo ngại về nhân quyền", ông Sifton nói. "Việt Nam nên hiểu rằng nếu Châu Âu trì hoãn hiệp định này thì đó là do lỗi của Hà Nội, chứ không phải của Brussels".
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 14/05/2019
Ngày 9/5/2019, chính thể nổi tiếng đu dây quốc tế là Việt Nam đã thêm một lần nữa bảo vệ quan điểm ‘can đảm bám Mỹ để khai thác dầu khí’.
Tôn trọng tự do hàng hải’ : tàu Việt Nam giữa gọng kềm Hoa Kỳ và Trung Quốc
Tại cuộc họp báo thường kỳ, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng ‘đọc bài’ : "Là một quốc gia ven Biển Đông và là thành viên của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, Việt Nam cho rằng tất cả các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982".
Phát ngôn trên xuất hiện trong bối cảnh hai tàu chiến Mỹ áp sát khu vực thuộc kiểm soát của Trung Quốc ở Trường Sa khiến Bắc Kinh giận dữ phản đối.
Vào tháng 2 năm 2019, thậm chí còn hiện ra một khái niệm mới trong cách phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam : "Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông của các quốc gia". Đó là lần đầu tiên chính quyền Việt Nam không chỉ ‘tôn trọng tự do hàng hải’ mà còn ‘tôn trọng tự do hàng không’. Hiện tượng phát ngôn đặc biệt này xuất hiện trong bối cảnh Hải quân Mỹ thông báo hai khu trục hạm mang tên lửa dẫn đường USS Spruance và USS Preble của nước này đã áp sát Đá Vành Khăn của quần đảo Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đá Vành Khăn nằm trong số 7 bãi đá ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp và ngang nhiên bồi đắp thành đảo nhân tạo trong vài năm gần đây.
Tính liên hệ cao của ‘tôn trọng tự do hàng không’ có thể là quân sự, với sự kiện ‘Trung Đoàn không quân Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc’ vào cuối tháng Mười Một năm 2018.
Rất có thể, Bộ Quốc Phòng Việt Nam cùng quân ủy trung ương của ông Nguyễn Phú Trọng - bằng chỉ đạo cho công khai cuộc chuyển quân của đoàn không quân Sao Đỏ lên vùng Tây Bắc - đang muốn lặp lại chiến thuật "răn đe Trung Quốc" khi Việt Nam mời cả một hàng không mẫu hạm của quân đội Hoa Kỳ - USS Carl Vinson - đến "giao lưu quân sự" tại cảng Đà Nẵng vào tháng Ba năm 2018.
USS Carl Vinson lại là một tàu sân bay hùng hậu của Mỹ đang chờ sẵn ngoài Thái Bình Dương.
Mạch logic quan hệ phòng vệ quốc phòng song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đã hình thành kể từ tháng Bảy năm 2017 khi Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch phải đi Mỹ cầu viện - thời điểm mà Việt Nam ‘mất ăn’ ở mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ ở đông nam Biển Đông. Từ đó đến nay, ngày càng nhiều tàu khu trục Mỹ xuất hiện ở Biển Đông và thách thức Trung Quốc bằng động tác áp sát một số đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng không chỉ có thế, cái cách phát ngôn ‘tôn trọng tự do hàng không’ của Bộ Ngoại giao Việt Nam rất có thể đang mở đường cho máy bay chiến đấu của Mỹ hoạt động trên không phận Biển Đông như một hàm ý ‘máy bay Mỹ bay qua vô hại ở Biển Đông’, tiếp nối khẩu ngữ ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ bật ra lần đầu tiên vào đầu năm 2016.
Vào tháng Mười năm 2018, hai máy bay B-52 của Mỹ đã áp sát các đảo đang tranh chấp ở Biển Đông.
Như vậy đã có đến ba lần trong 5 tháng đầu năm 2019 và hầu như đã mang tính hệ thống và logic, Bộ Ngoại giao và đứng phía sau là Bộ Chính trị Việt Nam đã không phản đối, nếu không muốn nói là có thể hiện thái độ cổ vũ, trước hoạt động áp sát quần đảo Hoàng Sa của các tàu chiến Mỹ. Lần đầu tiên là ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ vào đầu năm 2016.
Giờ đây, hy vọng mỏng manh còn lại cho nhu cầu ăn dầu và trám rỗng ngân sách của Việt Nam chỉ còn là Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông.
Không thể khác hơn, đó là nguồn cơn khiến Bộ Ngoại Giao Việt Nam tỏ ra "can đảm" từ bất ngờ đến dần có hệ thống khi đưa ra tuyên bố hoặc "tàu Mỹ đi qua vô hại", "tàu Mỹ tự do giao thông ở Biển Đông" và ‘tôn trọng tự do hàng hải’.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 12/05/2019