Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh có mối quan hệ nhân quả như thế nào ? Để trả lời câu hỏi này, bài viết lần lượt trình bày :
- Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam.
- Hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh
Ông Hồ Chí Minh.
I. Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam
1. Bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc vào những thập niên đầu Thế kỷ 20 đã là bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Trước đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khởi sự và tiếp nối kể từ sau khi thực dân Pháp bắn phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng vào năm 1858 mở đầu cuộc xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam.
Như chúng tôi đã trình bày trong một bài viết trước đây trên diễn đàn này nhan đề "Bối cảnh lịch sử đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam". Theo đó, cho đến lúc Đảng cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3/2/1930, đã có các cuộc chống Pháp dưới sự lãnh đạo các sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ quốc gia chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng "Thần quyền Thiên Mệnh" Đông phương làm nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế, đã phát động và tiến hành qua các phong trào Cân Vương, Văn Thân, Đông Du… Tiếp đến là các cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các nhà ái quốc chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng dân chủ Phương Tây làm nến tảng cho mục tiêu giành độc lập để thiết lập chế độ dân chủ lập hiến, tiêu biểu là sự ra đời của một chính đảng quốc gia đầu tiên "Việt nam Quốc Dân Đảng" (1924) với lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Yên Báy do Viện Nam Quốc Dân Đảng thực hiện thất bại vào năm 1930, cùng năm với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thế là từ đó và sau đó, công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp ngoài các nhà ái quốc, các chính đảng quốc gia thành lập sau Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Nhân xã Đảng… lãnh đạo kháng chiến theo ý thức hệ quốc gia truyền thống trước đó, có thêm vai trò lãnh đạo kháng chiến chống Pháp của những người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, một người theo chủ nghĩa yêu nước trước khi trở thành người cộng sản Việt nam đầu tiên, đứng ra thành Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam, trước những thất bại của các cuộc kháng chiến chống Pháp trước đó do các nhà ái quốc lãnh đạo theo hệ tư tưởng quân chủ Phương Đông hay dân chủ tư sản Phương Tây (gọi chung là ý thức hệ quốc gia) đều thất bại ; năm 1911 Nguyễn Tất Thành, một người yêu nước, không học vị(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí minh là một) đã xuất dương ra đi tìm đường cứu nước. Sự ra đi này xuất phát từ nhận định cho rằng các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Vì vậy nhà ái quốc Nguyễn Tất Thành thấy cần ra đi tìm đường cứu nước.
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước thuộc địa cũng như đế quốc tư bản ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Nguyển Tất Thành đã phát hiện ra chân lý : Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới của ông Hồ là Nguyễn Ái Quốc, khi đứng tên gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" (trong Luận Cương chính trị Tháng 4) của Lênin và từ tư tưởng đó, đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Ông Hồ đã hét to một mình trong phòng trọ ở Paris Pháp Quốc, rằng "Đây rồi, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản…".
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) (*) và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.Ông nhấn mạnh : cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo ; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Trong thời gian này, ông Hồ cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Ông lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng minh hội (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.Đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt cộng sản quốc tế, chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930.
Vẫn theo tài liệu của Đảng cộng sản Việt Nam Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức đảng (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn) thành Đảng cộng sản Việt Nam (**). Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện : Chánh cương và Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết nghị lấy ngày 3/2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Hệ quả con đường cứu nước của lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh
Con đường cứu nước mà ông Hồ Chí Minh tìm được là "con đường cách mạng vô sản" mà Đảng cộng sản Việt Nam do ông thành lập đã là công cụ để thực hiên con đường này. Chính cương và sách lược tóm tắt được công bố trong Đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã xác nhận rõ hai giai đoạn cách mạng nhằm thành đạt hai mục tiêu :
1. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải quyết mâu thuẫn dân tộc với thực dân pháp, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, trên thực thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện bằng chiêu bài ngụy dân tộc để khai thác triệt để "Chủ nghĩa yêu nước" hầu khơi động tinh thần chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã thành công, trong vai trò chủ đạo kháng chiến, đã đánh đưổi được thực dân Pháp sau cuộc kháng chiến 9 năm sau cùng (1945-1954). Thế nhưng không phải giành độc lập cho dân tộc, mà chỉ cướp được chính quyền trên một nữa nước Miền Bắc để xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặt mình trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế (vì ông Hồ đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thề tách rời của cách mạng vô sản hay cộng sản quốc tế mà !). Đồng thời "Đảng ta" củng cố miền Bắc xã hội chủ nghĩa thành hậu phương lớn, vẫn dưới ngọn cờ "ngụy dân tộc" phát động cuộc chiến tranh cộng sản hóa nửa nước miền Nam thuộc chính quyền chính thống quốc gia của vua Bảo Đại, sau là Việt Nam Cộng Hòa, đưa đất nước vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hệ quả là đưa cả nước vào một cuộc "chiến tranh cốt nhục tương tàn", đất nước tan hoang, vì bom đạn ngoại bang thuộc cả hai phe cầy nát, giết hại hàng triệu dân Việt trên cả hai chiến tuyến đối đầu, nhân dân đói khổ lầm than vì chiến tranh, gây hận thù trong lòng dân tộc, di hại nghiêm trọng toàn diện, lâu dài cho đất nước và dân tộc… Vậy hệ quả con đường ông Hồ đã chọn và được Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện như thế là "con đường cứu nước" hay là "con đường phá nước" ?
2. Cách mạnh xã hội chủ nghĩa để giải phóng giai cấp thực hiện xã hội "xã hội chủ nghĩa" và xác định cuộc cách mạng này là một bộ phận của cách mạng vô sản tức cộng sản quốc tế đứng đầu là Liên Xô. Thực hiện thế nào, hệ quả ra sao ?
Chẳng cần viết ra thì những người Việt Nam từng sống và là nạn nhân trong cuộc chiến tranh "Nồi da sáo thịt" nay còn sống đều đã biết. Sau khi cướp được chính quyền quốc gia ở nửa nước miền Nam, thực hiện chủ nghĩa xã hội trên cả nước đã gây khốn khổ, kinh hoàng một thời cho nhân dân thế nào rồi (1975-1995)… Nhất là 10 năm đầu (1975-1986) thực hiện triệt để các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội, độc tài toàn trị về chính trị, quốc hữu hóa mọi phương tiện sản xuất, kinh doanh, tập thể hóa mọi lực lương lao động trên mọi lãnh vực công, nông, thương nghiệp, dịch vụ… Hậu quả là mọi quyền dân chủ dân sinh, nhân quyền bị bóp nghẹt, kinh tế bị đình đốn, dẫn đến thảm trạng nhân dân cả nước không đủ lương thực, thực phẩm với chế độ tem phiếu (trừ giai cấp cán bộ đảng viên có chức, có quyền có tiêu chuẩn riêng…). Tất cả đã phải sống trong cảnh thiếu thốn, đói khổ lầm than, ; cả nước phải ăn độn ngô, khoai, sắn và cả bobo, một thực phẩm vốn dành cho súc vật được Liên Xô viện trợ lúc đó để cứu nguy. Đảng cộng sản Việt Nam vội thi hành "Chính sách đổi mới" (1985-1995) theo gương Liên Xô. Thế nhưng "Đổi mới" cũng không cứu vãn được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn chế độ "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết" vào năm 1991 sau hơn 70 năm xây dựng ; còn "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" thì tồn tại thêm thời gian đến hôm nay nhờ kịp thời theo gương Trung Quốc "mèo trắng (tư bản) hay mèo đen (cộng sản) không quan trọng, miễn là mèo ấy bắt được chuột". Cộng đảng Việt Nam bắt đầu thực hiện "Chính sách mở cửa" làm ăn với các nước "tư bản không rãy chết" trong đó mở đầu với cựu thù "đế quốc Mỹ" bãi bỏ cấm vận, thiết hệ quan hệ ngoại giao và trở thành "đối tác" thay vì "đối phương" với Việt Nam.
Từ đó và nhờ đó Việt Nam đã phát triển toàn diện (1) về kinh tế nhờ"con đường kinh tế thị trường, định hướng tư bản chủ nghĩa" (chứ không phải định hướng xã hội chủ nghĩa như "Đảng ta" tuyên truyền lừa mị để che đậy sự thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội) mà trình đô phát triển ngày một nâng cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện để sau 25 năm (1995-2020) Việt Nam đã có bộ mặt phồn vinh như hôm nay. (2) về chính trị, Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam trong "Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường" (thuật ngữ người viết thường dùng) các diễn biến sau đây tịnh tiễn xẩy ra :
Một là, các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hóa từng bước để trở thành các nhà tư sản hay "tư bản đỏ" ;
Hai là, nhà nước Việt Nam đã và đang được tư bản hóa bằng chính sách "giải tư" từng bước làm tiêu vong cơ cấu kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa còn sót lại, tiến đến cơ cấu kính tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngày một hoàn chỉnh, với các quyền sở hữu tư nhân về vốn, công cụ, phương tiện sản xuất…
Ba là, dân chủ hóa từng bước, nhờ đó người dân ngày một được nhà cầm quyền trả lại các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tuy còn nhiều hạn chế…Cả ba tiến trình này ai cũng có thể kiểm chứng được qua thực tế diễn ra 25 năm qua (1995-2020).
III. Thay lời kết
Vậy thì, đến dây có thể khẳng đinh qua hệ quả thực tiễn, con đường mà lãnh tụ Cộng đảng Hồ Chí Minh chọn vào năm 1920, rồi đứng ra thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 như công cụ thực hiện 90 năm qua (1930-2020) có đúng như sự vui mừng sau khi đọc được "Luận cương chính trị Tháng 4" (****) của lãnh tụ Cộng đảng Bolsevik Nga Vladimir Lenin không, rằng "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản (hay cộng sản cũng thế)" ?
Hay thực tế phải nói là, vì ông Hồ đã chọn lầm "con đường cách mạng vô sản" nên đã là "con đường phá nước". Vì con đường ấy đã không giải phóng được dân tộc mà đã xích hóa dân tộc vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc đỏ Liên Xô" (với sự cạnh tranh của đế tân quốc đỏ Trung Quốc) và tư bản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc Trắng Hoa Kỳ". Vì nếu ông Hồ không chọn lựa con đường này và không thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, thì chắc chắng tình hình Việt Nam sẽ biến chuyển theo một chiều hướng khác tốt đẹp hơn cho đất nước.
Một cách cụ thể là Việt Nam đã có độc lập rất sớm (Khi Nhật trao trả độc lập cho vua Bảo Đại với chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 3/1945) và nhân dân Việt Nam đã không phải hy sinh quá nhiều xương máu trong 9 năm kháng chiến chống Pháp sau cùng (1945-1954).Vì nhiều nước thuộc địa trong vùng cũng như trên thế giới đều lần lượt được độc lập sau Thế Chiến II không cần kháng chiến (do chủ nghĩa thực dân cũ bước vào thời kỳ suy tàn). Sau đó, cũng đã không xẩy ra cuộc chiến tranh Quốc-Cộng "cốt nhục tương tàn" khốc liệt kéo dài 21 năm sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước (7/1954) do Đảng cộng sản Việt Nam phát động, tiến hành, đã làm tan hoang đất nước, giết hại nhiều sinh linh dân Việt.
Và, sau cùng, nhân dân Việt Nam đã không phải trải qua thời kỳ khổ nạn hơn 20 năm làm vật tế thần cho công cuộc thử nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng trên cả nước, vốn là "con đường cứu nước" mà lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh đã chọn. Thế nhưng thực tế đã trở thành "con đường phá nước" gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước và dân tộc thế nào, chẳng cần kể ra, thì chắc quốc dân Việt Nam ai cũng biết, nhất là những ai từng là nạn nhân của "con đường phá nước" này.
Houston, ngày 30/2/2020
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 03/02/2020
(*) Đệ Tam Quốc tế, còn gọi là Quốc tế cộng sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ởMoskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu tranh lật đổ chế độtư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Đệ Tứ Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tứ là liên minh quốc tế của những người theo chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.
Đệ Nhất Quốc tế tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế (tiếng Anh : The International Workingmen's Association - IWA, 1864–1876), là tổ chức tranh đấu đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ởLuân Đôn vào ngày 28/9/1864, mục đích là để đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Năm 1876, tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Đệ Nhất Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Marxism và chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ mà lãnh tụ là Bakunin.
Đệ Nhị Quốc Tế còn gọi là Quốc tế thứ hai là liên minh quốc tế, với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới - chủ yếu là tại Châu Âu, được thành lập ngày 14/7/1889 ởParis, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.. Năm 1895. Frederich Engels qua đời. Phong trào công nhân bị tổn thất nặng. Các phần tử cơ hội chủ nghĩa, đại diện là Eduard Bernstein, dần dần chiếm ưu thế trong Đệ Nhị Quốc tế. Tuy rằng vẫn có nhiều thành viên tiếp tục đi theo con đường của Engels, do không được tiến hành triệt để nên không thu được kết quả. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức, Đệ Nhị Quốc tế tan rã khi Chiến tranh thế giới I bùng nổ.
(**) Theo lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam thì lúc đầu lấy tên Đảng cộng sản Việt Nam một thời gian ngắn thì đổi tên là Đảng cộng sản Đông Dương để đóng vai trò lãnh đạo kháng chiến trên cả 3 nước Đông Dương thuộc Pháp là Việt-Miên-Lào. Sau lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam cho đến thời kỳ kháng chiến 9 năm thì muốn dấu mặt, đã tuyên bố giải tán Đảng cộng sản Việt Nam, lập Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, như mặt nạ của Đảng cộng sản Việt Nam để chủ đạo kháng chiến dưới ngọn cở "Giải phóng dân tộc". Sự giấu mặt này là do tình hình lúc đó thế giới coi cộng sản là một hiểm họa cần ngăn chặn tiêu diệt, hình thành cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa các nước tư bản đứng đầu là Hoa Kỳ và các nước cộng sản đứng đầu là Liên Xô, một chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (1939-1945).
Đối với nhân dân trong nước chủ nghĩa cộng sản còn xa lạ và là nỗi kinh hoàng vì được nghe nói cộng sản là "chủ nghĩa Tam vô" (vô tổ quốc, vô gia đình và vô tống giáo), rất tàn ác, nên sợ và tìm cách xa lánh cộng sản. Năm 1952 đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam và dùng tên này trong suốt thời kỳ chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) để tiếp tục "ngụy dân tộc" tiến hành "Chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước". Sau khi cưỡng chiếm được miền Nam (30/4/1975), mới lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam, đưa cả nước "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc… đến sự sụp đổ hoàn toàn" sau 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng thất bại hoàn toàn (1975- 1995).
(***) Luận cương chính trị tháng Tư tên nguyên thủy là "Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay’, là một văn kiện có tính cương lĩnh do V. I. Lenin soạn thảo và trình bày vào Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lenin đã đến Petrograd trình bày trước Trung ương Đảng Bolshevik một bản báo cáo. Bản luận cương được xuất bản trên báo Sự Thật (Pravda) số 26 ngày 7/4/1917.
Hàng năm vào ngày 25 tháng 12, các giáo hội và tín đồ có chung niềm tin vào Đấng Tạo hóa hay Thiên Chúa, đã mừng kính trọng thể lễ Giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần cứu chuộc nhân loại. Đồng thời lễ Giáng sinh cũng đã trở thành ngày sinh hoạt văn hóa tại nhiều quốc gia và là dịp cho mọi người không có chung niềm tin, có một ngày nghĩ ngơi, sum họp gia đình, bạn bè và vui chơi giải trí.
Giáng sinh là một mầu nhiệm thuộc phạm trù đức tin tôn giáo
Nhân dịp này, chúng tôi nghĩ về "Mầu nhiệm Giáng sinh" thuộc phạm trù đức tin tôn giáo vốn là một nhu cầu tâm linh của con người và là một dân quyền hiến định cần được luật pháp bảo vệ chống lại sự xâm hại bất cứ từ đâu tới. Bài viết lần lượt trình bày :
I. Giáng sinh là một mầu nhiệm thuộc phạm trù đức tin tôn giáo
Như chúng ta đều biết, từ khi con người xuất hiện trên trái đất, qua nhiều thời đại đến nay, vấn nạn muôn thuở của loài người vẫn chưa được giải đáp là vũ trụ vạn vật trong đó có con người từ đâu hiện hữu, sinh sống qua thời gian hữu hạn, rồi tiêu vong (chết) sẽ đi về đâu ?
Con người qua các thời đại, vẫn không ngừng nỗ lực kiếm tìm câu trả lời cho vấn nạn trên. Tầm tri thức hay mức độ hiểu biết hay ánh sáng khoa học về vũ trụ vạn vật trong đó có con người không ngừng mở rộng, nhưng đến nay thành quả chỉ có mức độ, phần còn lại tạm thời vẫn do các tôn giáo lý giải cách này cách khác bằng luận lý của niềm tin, dưới "cặp mắt đức tin".
1. Có sự khác biệt giữa hai phạm trù khoa học (đức lý) và phạm trù tôn giáo (đức tin)
Khoa học là "Tri thức" hay là tầm hiểu biết của con người(chúng tôi tạm gọi là "Đức lý"). Đó là những sự hiểu biết căn cơ, có thể chứng minh bằng luận lý và thực nghiệm. Đó là một chân lý tuyệt đối, vì được mọi người hữu thần cũng như vô thần công nhận như 2+2=4. Con người đã và đang nỗ lực mở rộng "tầm tri thức" để khám phá các quy luật vận hành của vũ trụ vạn vật, với ước mong tìm được chân lý tuyệt đối, để có được câu trả lời trọn vẹn được mọi người công nhận, cho các vấn nạn muôn thuở của lòai người : Vũ trụ, vạn vật trong đó có con người từ đâu tới và sẽ đi về đâu ?
Niềm tin tôn giáo là phạm trù "Đức tin" của mỗi con người, tiếp nối phạm trù "Đức lý" (hay khoa học), do mỗi con người tùy theo hòan cảnh sống, đã được chọn lựa cho ngay khi chào đời do gia đình và tiếp tục giữ Đức tin sau này khôn lớn ; hay khi có đủ ý thức tự nguyên, tự giác lựa chọn một niềm tin tôn giáo riêng… Tất cả đều để tự giải đáp cho những vấn nạn muôn thuở của lòai người và thể hiện Đức tin trong cuộc sống để đạt cùng đích của cuộc đời sau cái chết. Đức tin tôn giáo không thể chứng minh bằng luận lý và thực nghiệm, vì nó vượt khỏi"tầm tri thức" (phạm trù "Đức lý") của con người. Những gì mà ánh sáng khoa học (tầm tri thức) chưa soi rọi tới, thì ánh sáng tôn giáo (phạm trù Đức tin) sẽ soi rọi.
Vì thế các tôn giáo thường tin vào các hiện tượng siêu hình (metaphysics) gọi là sự mầu nhiệm (miracle) hay phép lạ. Các tín đồ Thiên Chúa Giáo thì tin vào Mầu nhiệm Giáng sinh cũng như nhiều màu nhiện khác, như màu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Màu nhiệm phục sinh, màu nhiệm Đức Mẹ đồng trinh.v.v…
2. Mầu nhiệm Giáng sinh
Đối với các tín đồ Thiên Chúa Giáo, tin vào vũ trụ vạn vật đều là do một "Đấng Toàn Năng" tác tạo, cho nó vận hành theo quy luật chung cũng như riêng cho mỗi loài. Vì vậy sự thể Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh xuống thế làm người để cứu chuộc tội tổ tông của loài người là Adam và Eva là mang một ý nghĩa mầu nhiệm (Miraculous, marvelous. supernatural), được thể hiện qua các hiện tượng lạ phát sinh từ và chung quanh con người siêu phàm mang tên Giêsu ấy. Là một mầu nhiệm vì vượt tầm tri thức hữu hạn của con người nên không thể hiểu được, nếu không được trang bị bằng cặp mắt đức tin tôn giáo.
Thật vậy, với tầm tri thức hữu hạn, con người làm sao có thể hiểu được và chấp nhận một hài nhi bé nhỏ, sinh ra trong cảnh nghèo hèn máng cỏ bò lừa, bởi một trinh nữ có tên là Maria, sống chung mà không phải vợ chồng, với một người bạn có chung niềm tin, làm nghề thợ mộc có tên là Giuse. Nghĩa là Hài Nhi Giêsu ấy, đã được thụ thai trong cung lòng Trinh Nữ Maria bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và Hài Nhi ấy sau này lại xưng mình là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc nhân loại, đã làm nhiều phép lạ cả thể, nhất là những phép lạ xẩy ra vào ba năm cuối đời đi rao giảng và mạc khải cho loài người về Thiên Chúa và Ơn Cứu Ðộ. Sau cùng đã hoàn tất chương trình cứu độ bằng một cái chết treo khổ nhục trên thập tự giá vào tuổi 33 ; để rồi sau ba ngày Ðức Giêsu đã sống lại và lên Trời trước mặt nhiều người đương thời.
Những người chứng kiến các phép lạ xẩy ra từ và chung quanh con người phi phàm Giêsu có thể tin vào mầu nhiệm Giáng sinh, song chỉ là số ít. Còn biết bao người đương thời, cũng như con người các thời đại sau này không được tận mắt chứng kiến các phép lạ thì sao ? Hiển nhiên khó mà có lòng tin vào Mầu Nhiệm Giáng sinh cũng như các mầu nhiệm khác thuộc quyền năng của Thượng Ðế, nếu không có "đức tin tôn giáo".
Tuy nhiên đây chỉ là nói theo luận lý thông thường của tầm tri thức hữu hạn của con người. Ngoài tầm tri thức hữu hạn này, con người còn tiềm ẩn một khả năng vượt trội, siêu hình, đó là Ðức Tin tôn giáo, một khi được khơi động sẽ có thể hiểu biết và cảm nghiệm được mọi mầu nhiệm trong thế giới siêu hình vô hạn. Các tín đồ có niềm tin nơi Thượng Ðế, chính là những con người được trang bị cặp mắt Ðức Tin, để có thể nhận thức được những gì vượt tầm tri thức hữu hạn của con người.
Hiện tại, sau 2019 năm Hài Nhi Giêsu ra đời, đã có hàng tỉ nhân loại tin vào ơn Cứu Ðộ qua mầu nhiệm Giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần cứu chuộc nhân loại. Bằng niềm tin này, người ta có thể lý giải dễ dàng những sự kiện siêu tự nhiên từ một căn bản : Nếu đã tin và chấp nhận một Thượng Ðế Toàn Năng đã tác tạo vũ trụ vạn vật và cho nó vận hành theo những quy luật riêng cho từng loài và quy luật chung cho mọi loài, thì không có gì Thượng Ðế không làm được.
Một điển hình, nếu ngày nay con người đã mở rộng tầm tri thức để có thể khám phá ra quy luật cấu tạo con người theo quy luật chuyền sinh của Thượng Ðế, là sự phối hợp giữ tinh trùng của người nam với noãn sào của người nữ, kết tụ thành bào thai, phát triển thời gian sớm muộn 9 tháng 10 ngày. Từ đó làm theo quy luật này để tạo ra con người bằng cách lấy chất liệu từ con người vốn là vật thụ tạo của Thượng Ðế, cho thụ thai trong ống nghiệm có điều kiện môi sinh như trong cung lòng người nữ, hay cho thụ thai trong chính cung lòng người nữ, thì đối với quyền năng Thượng Ðế, việc thụ thai của Hài Nhi Giêsu trong cung lòng trinh nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần vào hơn 2019 năm trước đây, là điều hiển nhiên có thể, không có gì phải tranh luận như nhiều thế kỷ trước đây. Trinh Nữ Maria sau khi sinh Hài Nhi Giêsu vẫn còn đồng trinh là hệ quả tất nhiên do cách thụ thai ngoài sự giao hợp lưỡng tính thông thường cũng là điều hiển nhiên không thể biện giải bằng luận lý thông thường (Đức lý) nên được coi là một màu nhiệm theo luận lý của niềm tin (Đức tin) .Như vậy là luận lý của niềm tin tôn giáo đã được luận lý của tầm tri thức (khoa học) mở rộng của con người chứng minh là sự thật.
Ðến đây vấn đề chỉ còn là con người có chấp nhận mầu nhiệm Giáng sinh cũng như các mầu nhiệm khác của Thượng Ðế hay không. Vì đó là quyền tự do lựa chọn của mỗi con người, mà chính Thượng Ðế là Ðấng sáng tạo ra con người, vạn vật, cũng phải tôn trọng tuyệt đối. Bởi vì chỉ với quyền tự do tuyệt đối, con người mới chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình và Thượng Ðế mới xét công, tội để thưởng phạt công bình mỗi con người sau cái chết, trở về với cát bụi theo niềm tin tôn giáo.
III. Kết luận
Đối với những người có niềm tin nơi Thượng Ðế, qua mầu nhiệm Giáng sinh, những tín đồ Thiên Chúa Giáo chỉ muốn xác tín rằng : Hơn 2019 năm trước đây, quả thật đã có một Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần, thực hiện sứ mạng cứu chuộc con người khỏi tội nguyên tổ, tạo điều kiện cho con người tái sinh trong nước hằng sống là Thiên đường cực lạc ; ở đó chỉ có hạnh phúc, yêu thương, an bình, không khổ đau, chiến tranh hận thù. Các tín đồ tin rằng, nếu như không có tiền đề là mầu nhiệm Giáng sinh này của Đấng Cứu Thế, số phận con người hẳn đã khác, chắc hẳn là bi thảm hơn nhiều…
Ðể cảm tạ Thượng Ðế, đêm nay cũng như đêm qua và đêm mai, nơi các giáo đường khắp nơi trên mặt địa cầu, những con người có chung niềm tin vào mầu nhiệm Giáng sinh đều cất cao lời ca chúc tụng của Thiên thần vào đêm Giáng sinh năm xưa nơi hang đá Bethlhem ở vùng Trung Đông, rằng"Vinh danh Thiên Chúa Trên Trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm" ;cất cao bằng mọi ngôn ngữ khác biệt của loài người. Chúc tụng và ngợi ca Ơn Con Người đã giáng trần cứu độ muôn dân, đem an bình, ơn phúc và yêu thương đến cho mọi người, mọi dân tộc qua các thời đại hôm qua, hôm nay và mãi mãi trên hành tinh này, cho đến tận thế.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 24/12/2019
Giải quyết vụ Vườn rau Lộc Hưng tưởng đã xong, nào ngờ chính quyền quận Tân Bình hôm 3/12 lại đưa hàng trăm người tới khu đất mà bà con ở đây nói là thuộc sở hữu của họ để ‘cắt cỏ' và thay đổi bảng dự án.
Một khế ước thuê ruộng trước năm 1975 của người dân canh tác ở vườn rau Lộc Hưng (FB Hai Van Nguyen)
Như vậy là gần một năm sau khi nhà cầm quyền thực hiện việc mà họ gọi là "giải tỏa các công trình trái phép" ở Vườn rau Lộc Hưng, chính quyền quận Tân Bình hôm 3/12 lại đưa hàng trăm người tới khu đất mà bà con ở đây nói là thuộc sở hữu của họ để ‘cắt cỏ' và thay đổi bảng dự án.
I. Diễn tiến sự việc
Một người dân của khu Vườn rau Lộc Hưng bị mất đất, anh Cao Hà Trực, nói với VOA hôm 4/12 rằng "Từ 6 giờ rưỡi, (nhà cầm quyền) đã huy động lực lượng và 7 giờ rưỡi họ thực hiện việc họ nói là cắt cỏ", anh Trực nói. "Họ nói họ cắt cỏ nhưng trên thực tế họ đưa một lực lượng gần 300 người tới để thay bảng quy hoạch – trước đây là ‘trường học đạt chuẩn quốc gia' thì nay là ‘trường học'. (Điều đó) có nghĩa là họ thay dự án của cụm trường học đó".
Đây là lần thứ 5 chính quyền địa phương thay đổi dự án mà người dân Vườn rau Lộc Hưng gọi là các dự án "ma". Khu đất đầy tranh chấp này ban đầu được quy hoạch cho ngành bưu điện vào năm 2001, theo anh Trực, nhưng sau đó đổi thành xây bệnh viện trước khi được dự kiến xây chung cư cao tầng rồi xây trường học trong những năm tiếp theo….
Như vậy là việc tranh chấp đất đai của bà con ở khu vực Vườn rau Lộc Hưng và chính quyền địa phương đã diễn ra nhiều năm qua và vụ việc lên đến đỉnh điểm khi chính quyền quận Tân Bình đưa khoảng một ngàn người tới "giải tỏa" khu vườn trong hai ngày 4 và 8 tháng 1 năm nay. Sự thể này đã làm tan cửa nát nhà, đưa hàng trăm gia đình vào cảnh khốn cùng, bị công luận trong và ngoài nước lên án như là việc làm bất nhân, vô đạo. Bởi vì nhà cầm quyền Tân Bình đã cưỡng chế vào những ngày giáp Tết Âm Lịch có tính thiệng liêng đối với dân Việt Nam. Nay cũng gần đến ngày gần Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam, ngày 3/12/2019 vừa qua lại huy động lực lượng gần 300 người đến khu Vườn rau Lộc Hưng bị giải tỏa gần một năm qua để "cắt cỏ" và thay đổi bảng hiệu "quy hoạch".Người ta tự hỏi nhà cầm quyền Tân Bình đang toán tính gì đây ? Trong khi các nạn nhân bị cướp đất phá nhà trái phép ở Vườn rau Lộc Hưng đã và đang chờ đợi chính quyền Trung ương cứu xét, giải quyết thỏa đáng.
II. Chờ đợi và hy vọng chính quyền trung ương giải quyết thỏa đáng
Thật vậy, nạn nhân đang kiên nhẫn chớ đợi và nuôi nhiều hy vọng "Đèn trời soi xét" khi thấy có những dấu hiệu đáng mừng cho người dân Vườn rau Lộc Hưng (Vườn rau Lộc Hưng) được tìm thấy trong bản tường trình của Luật sư Trần Hồng Phong Eco Law, do một luật sư hổ trợ pháp lý cho Vườn rau Lộc Hưng gửi cho chúng tôi, cũng đã được phổ biến rộng rãi trên FB. Nội dung bản tường trình ghi lại diễn tiến cuộc họp sáng ngày 27/6/2019 tại phòng họp Bộ Tài nguyên Môi trường (Tài nguyên và môi trường), Hà Nội ; để xem xét và giải quyết khiếu tố của người dân Vườn rau Lộc Hưng bị cưỡng chế trái pháp luật.
Đáng mừng vì theo lời một luật sư thiện nguyện hổ trợ pháp lý cho người dân Vườn rau Lộc Hưng cho biết, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã yêu yêu cầu Ủy Ban Nhân dân TP.HCM phải giải trình về Vườn rau Lộc Hưng và Bộ Tài nguyên và môi trường có trách nhiệm tham mưu cho Chính Phủ.....Vì vậy, cuộc họp giữa "Nhóm luật sư Vườn rau Lộc Hưng và bà con Vườn rau Lộc Hưng làm việc với Bộ Tài nguyên Môi trường" đã diễn ra dưới sự chủ trì của Thứ trưởng và sự hiện diện của Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và môi trường.
Nội dung bản tường trình thế nào và người dân Vườn rau Lộc Hưng đánh giá dấu hiệu đáng mừng ra sao ? Người dân Vườn rau Lộc Hưng thực sự muốn gì ?
1. Nội dưng bản tường trình thế nào ?
Để bạn đọc biết diễn tiến cuộc họp sáng ngày 27/6/2019 tại phòng họp Bộ Tài nguyên Môi trường (Tài nguyên và môi trường), Hà Nội…như thế nào, chúng tôi mạn phép tác giả đăng lai toàn văn bản tường trình như sau :
" Sáng nay 27/6/2019, đại diện bà con #Vườn rau Lộc Hưng gồm anh Cao Hà Chánh, anh Cao Hà Trực, chị Trần Minh Thi cùng Luật sư Trần Hồng Phong và Luật sư Đặng Dũng làm việc với Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và môi trường.
Phía lãnh đạo Bộ Tài nguyên và môi trường có Thứ trưởng Nguyễn Thị Phương Hoa, ông Lê Quốc Trung - Chánh thanh tra, cùng lãnh đạo Tổng cục địa chính và các ban, tổng cộng 7 người.
Ông Trung cho biết theo kế hoạch Bộ trưởng sẽ tiếp đoàn nhưng do bận tham dự G20 nên không có mặt. Tuy nhiên Bộ cử đầy đủ thành phần tham dự buổi làm việc tiếp đoàn bà con Vườn rau Lộc Hưng và nhóm luật sư.
Chúng tôi khá bất ngờ khi thấy thành phần dự họp của Bộ khá đông với sự tham gia của nhiều cục nghiệp vụ. Quá trình làm việc thể hiện sự trọng thị, lịch sự, lắng nghe ý kiến trình bày của đoàn.
Mục đích chính của buổi làm việc này, về phía người dân là yêu cầu Bộ Tài nguyên và môi trường làm rõ giá trị pháp lý của văn bản do Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường Đặng Hùng Võ ký năm 2006. Vì chính do văn bản này mà chính quyền địa phương đã không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân.
Mở đầu, Chánh thanh tra Lê Quốc Trung cho biết vụ việc Vườn rau Lộc Hưng đã được Thủ tướng quan tâm, trực tiếp chỉ đạo giải quyết. Vừa qua Thủ tướng tổ chức cuộc họp về vụ việc, Bộ Tài nguyên và môi trường có tham gia. UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã có báo cáo mới nhất, tuy nhiên là văn bản mật nên không thể công bố. Bộ Tài nguyên và môi trường trong chức năng của mình sẽ có ý kiến giúp Thủ tướng về mặt chuyên môn.
Bộ Tài nguyên và môi trường cho biết đã xem đơn và hồ sơ do bà con gửi, liên quan đến việc làm rõ giá trị pháp lý của văn bản số 5201 năm 2006 do Thứ trưởng Đặng Hùng Võ ký. Bộ đề nghị bà con cho biết có bổ sung thêm vấn đề nào không ?
Anh Chánh đại diện bà con trình bày về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, nỗi thống khổ, khó khăn của người dân do hậu quả của đợt cưỡng chế kinh hoàng ngày 4-8/1/2019, hủy hoại 503 căn nhà, người dân bị đuổi ra khỏi mảnh đất của mình. Anh cho biết chính quyền không cho đăng ký sử dụng đất, không giải quyết khiếu nại của người dân suốt hơn 20 năm qua.
Anh Trực trình bày thêm, tự tay đưa bản vẽ tờ bản đồ khổ lớn khu đất Vườn rau Lộc Hưng cho Bộ. Anh nêu rõ cùng nguồn gốc đất như nhau, năm 2002 những căn nhà khu rìa Vườn rau đã được cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà, khu vực do Bưu điện chiếm làm nhà cho cán bộ nhân viên cũng đã được rào riêng, cấp giấy - thì tại sao phần đất Vườn rau Lộc Hưng không được cấp ?!
Anh Trực còn cung cấp thông tin gây choáng là năm 2006, khi ông Phó chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh xuống làm việc có đưa ra quyết định thu hồi khu đất C30 không phải là Vườn rau Lộc Hưng nhưng lại nói là quyết định thu hồi Vườn rau Lộc Hưng. Việc này là do Thành phố Hồ Chí Minh nhầm lẫn, hay cố tình đánh lận để cướp đất của người dân ? Trong lúc trình bày anh Trực bật khóc vì uất ức, tủi phận cho người dân vườn rau.
Chị Thi tấm tức cho rằng việc Đoàn cưỡng chế chính quyền tàn phá nhà cửa của người dân ngay ngày tết là vô nhân đạo, tàn ác. Tại sao họ nói không cưỡng chế thu hồi đất, mà đến nay vẫn ngăn cản không cho người dân vào đất của mình ? Hãy để chúng tôi nói, chúng tôi có nhu cầu và nguyện vọng nói vì lâu nay không ai nghe người dân nói, chính quyền thì né tránh đối thoại...
Nghe các anh chị trình bày, có những lúc chúng tôi cảm thấy nhói lòng, xúc động.
Luật sư Đặng Dũng cho biết chiều hôm qua đã làm việc với Thanh tra Bộ giáo dục đào tạo, khiếu nại chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh vẽ ra dự án "cụm trường công lập đạt chuẩn quốc gia" trên khu đất Vườn rau Lộc Hưng, thực chất là việc lợi dụng nhóm từ tốt đẹp để lừa dối dư luận, vì dự án này là mơ hồ, trái quy định. Ngoài ra, trên cùng một khu đất thì lại cấp cho cán bộ bưu điện.
Luật sư Phong đề nghị Bộ lưu ý giải quyết đúng kiến nghị của người dân : giá trị pháp lý của văn bản ông Đặng Hùng Võ ký. Ngoài ra, hiện nay chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh nói rằng đất Vườn rau Lộc Hưng là "đất công" và Thành phố đã thu hồi theo Quyết định 111/CP ngày 14/4/1977. Vậy đất công là gì ? Điều khoản nào trong QĐ 111/CP được Thành phố áp dụng, trong khi đây là chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, đánh vào giới nhà giàu ?
Chánh thanh tra Bộ cho biết văn bản của Bộ năm 2006 chỉ là giải thích nghiệp vụ trên cơ sở thông tin và hỏi của địa phương, không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Việc hướng dẫn người dân đăng ký, xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của địa phương. Bộ không thể làm thay. Về khái niệm "đất công" luật không có quy định. Về QĐ 111/CP trong văn bản của Bộ năm 2006 không đề cập đến. Bộ khẳng định sẽ có văn bản trả lời bà con.
Kết thúc, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường cho biết đã lắng nghe, ghi nhận và sẽ có ý kiến về vụ việc theo chỉ đạo của Thủ tướng. Bà con hãy yên tâm.
Đoàn ra về, với niềm mong mỏi công lý và sự thật sẽ được sáng tỏ, quyền lợi hợp pháp của người dân sẽ được giải quyết. Cuộc họp dù sao cũng mở ra một tia hy vọng. Tuy nhiên, mọi người đều xác định con đường đấu tranh sẽ còn dài và khó khăn. Dù vậy, việc công bố Kết luận thanh tra vụ Thủ Thiêm trong cùng buổi sáng nay đã phần nào cho thấy sai phạm trong quản lý đất tại Thành phố Hồ Chí Minh trước sau gì cũng sẽ bị phơi bày".
(Tường thuật của Luật sư Trần Hồng Phong Eco Law từ cuộc họp sáng ngày 27/6/2019 tại phòng họp Bộ Tài nguyên và môi trường, Hà Nội).
2. Người dân Vườn rau Lộc Hưng đánh giá dấu hiệu đáng mửng này ra sao ?
Câu trả lời tổng quát có thể trích ra từ phần cuối của bản tường thuật trên, rằng "Đoàn ra về, với niềm mong mỏi công lý và sự thật sẽ được sáng tỏ, quyền lợi hợp pháp của người dân sẽ được giải quyết. Cuộc họp dù sao cũng mở ra một tia hy vọng. Tuy nhiên, mọi người đều xác định con đường đấu tranh sẽ còn dài và khó khăn…".Điều này có nghĩa là dấu hiệu đáng vui mừng mới "mở ra một tia hy vọng"trong sự hoài nghi về kết quả sau cùng liệu có giải quyết được thỏa đáng những yêu cầu hợp pháp và chính đáng của người dân Vườn rau Lộc Hưng khiếu kiện hay không. Vì nghi ngờ nên "mọi người đều xác định con đường đấu tranh sẽ còn dài và khó khăn…". Vì sao ?
Có thể là vì kinh nghiệm thưc tế cho thấy đã có nhiều vụ khiếu kiện đất đai giải tỏa của người dân ở các địa phương kéo dài nhiều năm, đến các cơ quan chức năng trung ương từng được Thủ tướng Chính phủ hay các lãnh đạo cơ quan chức năng Trung ương chỉ đạo phải giải quyết đúng theo chủ trương, chính sách và pháp luật. Thế nhưng, kết quả sau cùng vẫn như điều mà người dân thường nói "huyện bênh huyện, phủ bênh phủ". Nghĩa là, các cơ quan điều tra trung ương thường đồng tình với những sai phạm của địa phương để bao che với động lực không trong sáng.
Tỷ như người dân xã Đồng Tâm gần Hà Nội, khiếu kiện nhiều năm về diện tích đất đai thuộc quyền sử dụng của người dân địa phương, không phải là đất sử dụng cho quốc phòng. Nhưng chính quyền địa phương đã cưỡng chế khiến người dân xã Đồng Tâm buộc phải có phản ứng quyết liệt vi phạm pháp luật, là bắt giam những nhân viên đến cưỡng chế làm con tin. Để giải thoát con tin, đích thân Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung đã phải ký giấy cam kết không truy tố trách nhiệm hình sự và giải quyết thỏa đáng nguyện vọng của người dân xã Đồng tâm theo đúng pháp luật. Thế nhưng sau đó một số người cầm đầu vẫn bị truy tố và cho đến nay kết quả điều tra của cơ quan Thanh tra Chính phủ trung ương vẫn kết luận diện tích đất mà người dân khiếu kiện bao lâu nay, không thuộc quyền sử dụng của họ, vì là "đất trưng dụng cho quốc phòng", trong khi thực tế được sử dụng vào một đề án kinh doanh của quân đội ; để chỉ "yểm trợ" những cư dân mất đất theo quy định đơn phương áp đặt, không chịu "bồi thường" theo thỏa thuận song phương. Vì giá đất "bồi thường" trên một mét vuông cao hơn nhiều so với tiền gọi là "hổ trợ". Vì vậy người dân xã Đồng Tâm như bị dồn vào chân tường đã thề quyết tâm liều mạng đấu tranh đến cùng… Hiện tại cả tháng nay, họ lại phải một lần nữa "nổi loạn" chống lại nhà cầm quyền, chưa biết hệ quả ra sao.
Tương tự như hoàn cảnh của người dân Vườn rau Lộc Hưng, bị chính quyền địa phương Phường 6 Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh giải tỏa và cưỡng chế trái pháp luật và cũng chỉ"hổ trợ" chứ không chịu "bồi thường" thỏa đáng cho dân theo đúng pháp luật. Đồng thời lý do giải tỏa Vườn rau Lộc Hưng dường như cũng mang tính giả tạo,vi luật. Tương tự như vụ xã Đồng Tâm nói là trưng dụng làm "đất quốc phòng" thực tế lại sử dụng cho một công ty làm kinh tế. Theo như bản tường thuật đã ghi lại, rằng :
"Luật sư Đặng Dũng cho biết chiều hôm qua đã làm việc với Thanh tra Bộ giáo dục đào tạo, khiếu nại chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh vẽ ra dự án "cụm trường công lập đạt chuẩn quốc gia" trên khu đất Vườn rau Lộc Hưng, thực chất là việc lợi dụng nhóm từ tốt đẹp để lừa dối dư luận, vì dự án này là mơ hồ, trái quy định. Ngoài ra, trên cùng một khu đất thì lại cấp cho cán bộ bưu điện…".
3. Người dân Vườn rau Lộc Hưng muốn gì ?
Vậy thì, để biến những dấu hiệm đáng mừng thành niềm vui mừng thực sự cho người dân Vườn rau Lộc Hưng, thiết tưởng cơ quan chức năng Trung ương theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ là Bộ Tài nguyên và môi trường, có trách nhiệm giải quyết dứt điểm vụ khiếu tố, kêu oan của người dân Vườn rau Lộc Hưng. Nghĩa là cần giải quyết thỏa đáng theo đúng pháp luật nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người dân, được thể hiện trong THƯ NGỎ đã gửi cho Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân, cũng là Ủy viên Bộ Chính Trị và là Trưởng đoàn Đại biểu quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung Thư Ngỏ đã cho thấy nguyện vọng của người dân vườn rau Lộc Hưng bị cưỡng chế là gì, cần được chính quyền giải quyết ra sao ?
1. Căn cứ trên Luật Đất Đai hiện hành và các văn bản pháp lý, hành chánh dưới luật có liên quan, xác nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho người dân Vườn rau Lộc Hưng, trên cơ sở nguồn gốc hợp pháp (do sở hữu chủ chân chính là Tòa Giám Mục Saigon cho phép), sử dụng ổn định lâu dài, có đóng thuế, không có tranh chấp. Việc không có giấy xác nhận quyền sử dụng đất là do lỗi của chính quyền địa phương (có ý đồ chiếm dụng), đã liên tục từ chối đơn xin của người dân, mà không đưa ra lý do chính đáng, hợp pháp.
2. Trên cơ sở hơp pháp hóa quyền sử dụng đất đai do thực tế hội đủ điều kiện luật định, buộc chính quyền các cấp có liên quan phải "bồi thường" thỏa đáng dựa trên đồng thuận chứ không phải "hổ trợ" đơn phương mang tích áp đặt của chính quyền, vi phạm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân Vườn rau Lộc Hưng.
3. Bồi thường thiệt hại tài sản (nhà cửa, đồ đạc..) bị phá hủy cho người dân Vườn rau Lộc Hưng do việc cưỡng chế trái pháp luật gây ra.
4. Ưu tiên cho các nạn nhân được mua nhà cửa và huấn nghệ để sớm an cư lạc nghiệp cho người dân Vườn rau Lộc Hưng bị cưỡng chế đang phải sống trong tình cảnh vô gia cư, vô nghề nghiệp.
5. Xem xét, xác định lý do giải tỏa đất Vườn rau Lộc Hưng có đúng là để thực hiện " dự án "cụm trường công lập đạt chuẩn quốc gia"hay không ? Nếu không đúng thì cần giải quyết thế nào cho thỏa đáng cho quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân Vườn rau Lộc Hưng
III. Kết luận
Tựu chung, nếu các cơ quan chức năng Trung ương giải quyết theo đúng nguyện vọng trên của người dân Vườn rau Lộc Hưng, sẽ là một điểm son cho chính quyền, được người dân Vườn rau Lộc Hưng biết ơn. Đồng thời tạo ra một tiền lệ cho việc giải quyết nghiêm túc, dứt điểm các vụ khiếu kiện đất đai bị giải tỏa kéo dài nhiều năm qua theo đúng pháp luật, bảo vệ cho các quyền lợi hợp pháp và chính đáng của người dân.Và như thế, chính quyền không còn phải lo đối phó với "các thế lực thù địch" lợi dụng chống phá "chế độ ta". Vì nguyên nhân chống phá của "Phản động" đều xuất phát từ những xâm hại các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền của nhà cầm quyền các cấp. Nếu "Đảng và Nhà nước ta" làm đúng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ cho các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền, thì làm gì có các vụ khiếu kiện kêu oan để cho "Các thế lực thù địch" lợi dụng, chống phá Nhà nước. Đúng không ạ, thưa Bí thư Thành Ủy Nguyễn Thiện Nhân ?
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 11/12/2019
Thông thường, "sách trắng" hay còn gọi theo từ ngữ Hán-Việt là "Bạch thư" (White Paper) là thuật ngữ chính trị đặt tên cho một tài liệu, một cuốn sách có nội dung bạch hóa hay công khai hóa một vấn đề, một sự kiện quan trọng về đối ngoại cũng như đối nội, cho mọi người biết rõ những sự thật nhất định, nhằm phục vụ cho một mục đích hay ý đồ nào đó có lợi cho chủ thể của sách trắng.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam được công bố hôm 25/11/2019.
Vậy Việt Nam công bố "Sách trắng Quốc phòng" với nội dung ra sao, có mục đích và ý nghĩa gì ? Đó là nội dung bài viết này.
I. Nội dung "Sách trắng Quốc phòng" nói gì ?
Cho đến lúc này, chúng tôi chưa có cơ hội được đọc toàn văn nội dung "Sách trắng Quốc phòng" được Thượng tướng, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vinh đưa ra trong buổi lễ công bố ngày 25/11/2019 tại Hà Nội. Vì thế chỉ biết những điểm chính yếu của nội dung "Sách trắng Quốc phòng" qua ghi nhận của các cơ quan truyền thông Việt Nam cũng như quốc tế.
Theo đó, nội dung "Sách trắng Quốc phòng" dường như có các phần chủ yếu sau đây :
1. Về nguyên tắc, "Sách trắng Quốc phòng" đưa ra chủ trương chính sách quốc phòng "4 không" :
"Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh đã nói như thế tại lễ công bố Sách trắng, theo trích dẫn trên Quân đội Nhân dân, VnExpress và một số cơ quan báo chí khác ở trong nước.
2. Về thực tế, nguyên tắc quốc phòng "4 không" được thể hiện và thực hiện qua một số trọng điểm sau :
- Khẳng định quyết tâm thực hiện chính sách quốc phòng của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng "bằng biện pháp hoà bình", trên cơ sở luật pháp quốc tế, thực hiện phương châm "bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược".
- Khẳng định thực hiện uyển chuyển, tùy cơ ứng biến : "Tùy diễn biến tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau".
- Xác định tiềm năng hay sức mạnh quốc phòng : Tin truyền thông cho hay, một phần khác của Sách trắng giới thiệu trang bị vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được Thứ trưởng quốc phòng Việt Nam nói với báo giới rằng vũ khí của Việt Nam có tính chung chung là "vừa đủ mạnh để bảo vệ tổ quốc và không phương hại đến quốc gia nào".
Ông Vịnh cũng được trích lời khẳng định rằng "tỷ lệ trang bị vũ khí do Việt Nam tự sản xuất hiện nay đã nhiều hơn trước, chứng tỏ sự tự lực của Việt Nam trong vũ khí những năm qua". Vị Thượng tướng thứ trưởng quốc phòng cho biết thêm, Sách trắng còn đưa ra thông tin cho thấy nền quốc phòng Việt Nam "được đầu tư phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, nhưng không chạy đua vũ trang".
Vẫn theo tin truyền thông, Sách trắng cho hay ngân sách quốc phòng Việt Nam năm 2010 chiếm 2,23% GDP, 2011 là 2,82%, 2012 là 2,88%... 2017 là 2,51% và 2018 là 2,36%.
Tất cả những khẳng định trên của Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, được báo chí trong nước dẫn lời nói tại lễ công bố Sách trắng hôm 25/11/2019 vừa qua, sẽ được thể hiện và thực hiện bằng hành động thực tế thế nào, mọi người hãy chờ xem.
3. Bối cảnh dẫn đến việc soạn thảo và công bố "Sách trắng Quốc Phòng" của Việt Nam
Theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu thuộc viện ISEAS Yusof Ishak có trụ sở đặt ở Singapore, nhận xét với VOA, rằng diều đáng chú ý của Sách trắng lần này so với bản công bố cách đây 10 năm là nó nói đến những diễn biến trên Biển Đông và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, hàm ý nói đến Mỹ và Trung Quốc. Tất nhiên, dù không nói ra, ai cũng hiểu đây cũng là bối cảnh đã dẫn đến việc công bố Sách trắng Quốc phòng của Việt Nam. Đó là tình hình tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc ở Biển Đông ngày một căng thẳng có thể dẫn đến nguy cơ xung đột quân sự.
II. Công bố với mục đích và ý nghĩa gì ?
1. Mục đích gì ?
Nếu căn cứ vào lời của Thư trưởng quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh được các bản tin trong nước ghi nhận thì Sách trắng Quốc phòng được công bố "nhằm minh bạch hóa" chính sách quốc phòng và "xây dựng lòng tin" với các quốc gia trên thế giới.
2. Ý nghĩa gì ?
Như vậy mục đích Việt Nam công bố "Sách trắng Quốc phòng" của Việt Nam có hai mục tiêu với hai ý nghĩa (1) Nhằm "minh bạch hóa chính sách quốc phòng" bằng chủ trương "4 không" (2) và "Xây dựng lòng tin" với các quốcgia trên thế giới.
III. Nhận định
Theo nhận định tổng quát của chúng tôi và có lẽ cũng của nhiều người thì mục đích và ý nghĩa trên đều có tính nguyên tắc phản ánh một phần sự thật (tất nhiên vì thuộc bí mật an ninh quốc gia), Ví vậy, khác với ý đồ và ý nghĩa thực sự của việc công bố "Sách trắng Quốc phòng" của Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông với Trung Quốc với mức độ, cường độ căng thẳng ngày một gia tăng có thể dẫn đến xung đột quân sự bất cứ lúc nào, trong tương quan lực lượng không cân sức giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Nếu so sánh với loại "Sách trắng tố cáo Trung Quốc xâm lăng Việt Nam năm 1979" thì loại này sẽ mang nhiều thực chất, có thể đạt mức độ sự thật tối đa 100%. Trong khi "Sách trắng Quốc phòng Việt Nam" được đánh giá như là "một nửa sự thật, chưa hẳn là tất cả sự thật". Vì không dại gì Việt Nam nói rõ mục đích, tiềm năng trang bị vũ khí, thực lực quốc phòng của mình. Và cũng vì mục đích của các loại "Sách Trắng" đều là nhằm lợi ích tối đa cho chủ thể công bố "Sách Trắng".
Vậy mục đích và ý nghĩa thực sự của việc công bố"Sách trắng Quốc phòng" của Việt Nam là gì ? Theo nhận định của chúng tôi :
1. Mục đích thứ nhất được công bố "nhằm minh bạch hóa" chính sách quốc phòng bằng chủ trương chính sách quốc phòng "4 không" như đã dẫn thượng.
Mục đích và ý nghĩa thực sự Việt Nam muốn nói lên một sự thật cho cộng đồng thế giới biết Việt Nam đã và đang thực hiện một chính sách quốc phòng tự vệ (như Thứ trưởng quốc phòng Việt Nam nói với báo giới rằng vũ khí của Việt Nam chỉ"vừa đủ mạnh để bảo vệ tổ quốc và không phương hại đến quốc gia nào"). Dù không nói ra, nhưng ai cũng hiểu, là để đương đầu với tham vọng và hành động của Trung Quốc xâm chiếm biển đảo của Việt Nam bằng sức mạnh quân sự gấp nhiều lần hơn Việt Nam. Vì vậy Việt Nam thêm vào chính sách quốc phòng một không thứ bốn "không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".Tất nhiên vì ở thế yếu không thể và không dại gì khởi động chiến tranh với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Do đó Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh trong Lễ công bố "Sách trắng Quốc phòng" đã khẳng định chính sách quốc phòng của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng "bằng biện pháp hòa bình", trên cơ sở luật pháp quốc tế, thực hiện phương châm "bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược".
2. Mục đích thứ hai được công bố là nhằm "xây dựng lòng tin" với các quốc gia trên thế giới nói chung (Tất nhiên trong đó có Trung Quốc đối tượng chính cũng là nguyên nhân chính đưa đến công bố "Sách trắng Quốc phòng" của Việt Nam để làm gì ?
- Để các quốc gia trên thế giới biết Việt Nam một nước nhỏ yếu đang đang bị một nước lớn có tham vọng bành trướng bá quyền là Trung Quốc xâm lấn biển đảo và tin rằng Việt Nam đã và đang là nạn nhân bị Trung Quốc ỷ thế mạnh "bắt nạt Việt Nam". Để trong tương lai, nếu Trung Quốc khởi động chiến tranh xâm lược biển đảo Việt Nam, cần được cộng đồng các quốc gia trên thế giới yểm trợ cách này cách khác và Việt Nam có quyền thay đổi chính sách quốc phòng "4 không" một cách phù hợp.
- Thế cho nên Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh được báo chí trong nước dẫn lời nói tại lễ công bố Sách trắng rằng "tùy diễn biến tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau".
3. Mục đích và ý nghĩa thứ ba được hiểu ngầm là Việt Nam đã và đang thực hiện "Đối sách hai mặt" để đương đầu với đối sách "Lá mặt lá trái" bấy lâu nay của Trung Quốc với Việt Nam
Như chúng tôi đã trình bày nhiều lần, chính sách "lá mặt lá trái" của Trung Quốc đối với Việt Nam, là ngoại mặt thì "hữu hảo" hành động thì "bất hảo". Trung quốc lúc nào cũng nêu cao khẩu hiệu "4 tốt" và "16 chữ vàng" được các lãnh tụ tối cao hai đảng hai nhà nước Việt Trung là Mao-Hồ thiết định từ thời chiến tranh, được coi là định thức như chiếc thòng lọng hay như "Vòng Kim-Cô Đỏ" cột chặt Việt Nam vào Trung Quốc. Chẳng thế mà lãnh tụ tối cao Trung Quốc đương thời họ Tập nhiều lần nhắc nhở đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam mỗi khi có dịp, rằng "Việt Nam và Trung Quốc ùng chung vận mệnh" từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai.
Thế nhưng hành động thực tế từ quá khứ đến hiện tại Trung Quốc luôn "bắt nạt Việt Nam" vì vận mệnh tương lai tươi sáng cho đại Hán Trung Quốc, khác vận mệnh tương lai đen tối cho Việt Nam. Điển hình cụ thể là hành động xâm lăng trắng trợn biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, bất chấp luật pháp quốc tế, luôn thực hiện quan hệ hữu nghị "lá mặt lá trái" đối với Việt Nam.
Vì thế cho nên, "dĩ độc trị độc", dường như Việt Nam cũng đã và đang thực hiện "Đối sách hai mặt" để đương đầu với "Đối sách lá mặt lá trái" của Trung Quốc. Theo đó trên nguyên tắc Việt Nam vẫn giữ mối quan hệ hữu nghị, luôn nêu cao và thực hiện trong chừng mực nào đó phương châm "4 tốt" và "16 chữ vàng". Nhưng trên thực tế vừa thực hiện chính sách "4 không" một cách uyển chuyển. Đồng thời không ngừng củng cố mối quan hệ song phương có thực chất với một số nước theo kiểu "Đối tác toàn diện" trong đó đặc biệt củng cố quan hệ an ninh, quốc phòng với một số nước cần yếu cho an ninh quốc phòng Việt Nam. Trong số này đứng đầu là mối quan hệ song phương về an ninh quốc phòng với cường quốc Hoa Kỳ, một cường quốc duy nhất có thế lực đối trọng và khả năng ngăn chặn tham vọng xâm lấn và bá quyền của Trung Quốc. Nhất là Hoa Kỳ và Việt Nam đang có lợi ích hỗ tương : Hoa Kỳ cần Việt Nam để củng cố thế liên minh thực hiện chiến lược gián chỉ tham vọng bá quyền Trung Quốc. Việt Nam cũng cần Hoa Kỳ để cứu nguy khi bị Trung Quốc dùng bạo lực xâm lấn Việt Nam trong tương lai. Thực tế ai cũng thấy mối quan hệ song phương quốc phòng đặc biệt này giữa Hoa Kỳ và việt Nam gia tăng tịnh tiến, nửa kín nửa hở, theo thời gian. Dường như Hoa Kỳ cũng tỏ ra thông cảm với thế kẹt của Việt Nam nên đã chấp nhận để Việt Nam thực hiện chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trong "Đối sách hai mặt" được Việt Nam mới thể hiện gần nhất qua công bố "Sách trắng Quốc phòng" của Việt Nam hôm 25/11/2019 vừa qua. Hoa Kỳ cũng không giấu giếm quyết tâm bảo vệ Việt Nam và các quốc gia nhỏ yếu trong vùng, nếu bị Trung Quốc ỷ mạnh, hiếp yếu, bắt nạt…
IV. Kết luận
Thay vì ra "Sách Trắng tố cáo Trung Quốc vi phạm chủ quyền biển đảo" tuyên chiến với Trung Quốc, dựa hẳn vào Hoa Kỳ, Việt Nam đã công bố"Sách trắng Quốc phòng" là để thế giới biết và tin rằng Trung Quốc hành động từng bước xâm chiếm biển đảo của Việt Nam, nằm trong tham vọng bá quyền, muốn biến Biển Đông thành "ao nhà" của mình là sự thật.Một hiểm họa không riêng với Việt Nam,cho nhiều nước khác trong vùng, mà cho quyền tự do hàng hải của cả thế giới theo luật pháp quốc tế.
Qua công bố "Sách trắng Quốc phòng" Việt Nam bạch hóa có mức độ tiềm năng quốc phòng của một nước nhỏ yếu với một chính sách hiện tại mang tính tự vệ, không thể đương đầu và không có khả năng khởi động tấn công ngăn chặn đẩy lùi và tương lai nếu bị tấn công không thể một mình chống cự nổi với Trung Quốc. Vì thế trong hiện tại đã khẳng định chính sách quốc phòng hòa bình
"4 không" có tính nguyên tắc trong hiện trạng, mang tính uyển chuyển", tùy cơ ứng biến" trong tương lai, nếu thực tế bị Trung Quốc ỷ mạnh hiếp yếu tấn công. Khi đó, Việt Nam ở thế tự vệ không thể tự mình đương đầu phải cầu viện đến các quốc gia khác trên thế giới, đứng đầu là cường quốc Hoa Kỳ. Chính sách quốc phòng "4 không" của Việt Nam có thể chuyển đổi thích dụng. Do đó, việc công bố "Sách trắng Quốc phòng" trong hiện tại cũng đã thể hiện "Đối sách hai mặt" của Việt Nam để đương đầu với "Đối sách lá mặt lá trái" của Trung Quốc, như sự chuẩn bị "những điều kiện cần và đủ" cho tương lai phải thay đổi chính sách này một cách phù hợp, hiệu quả khi tình thế bắt buộc. Cung cách hành xử uyển chuyển, tùy cơ ứng biến này của Việt Nam được nhiều người đánh giá là khôn ngoan, có hiệu quả như tác dụng "nhu thắng cương, nhược thắng cường" của các thế đánh của phái võ "Nhu đạo" (Judo).
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 04/12/2019
- Những sự kiện lịch sử nhắc nhớ Đảng cộng sản Việt Nam.
- Đảng cộng sản Việt Nam phải làm gì và cần làm gì để đoái công chuộc tội với đất nước.
Cắm hoa vào kẻ hở trên Bức tường Berlin để tưởng niệm những người dân Đông Đức đã chết khi tìm cách vượt thoát qua bức tường này tìm tự do.
Đó là nội dung bài viết nhân tưởng niệm 30 năm sụp đổ của bức tường Berlin (1989-2019) hay còn gọi là "Bức tường ô nhục" chia cắt Đông Đức cộng sản toàn trị và Tây Đức dân chủ pháp trị. Từ sự sụp đổ này đã tiếp nối sự sụp đổ nhanh chóng của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và sau cùng là Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết, gọi tắt là Liên Xô, từng được xưng tụng là "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" của Đảng cộng sản Việt nam.
I. Những sự kiện lịch sử nhắc nhở Đảng cộng sản Việt Nam
1. Tưởng niệm 30 năm bức tường Berlin sụp đổ (1989-2019)
Theo tin truyền thông, nước Đức hôm thứ Bảy ngày 9-11-2019 trong một buổi lễ trang trọng tại Khu tưởng niệm Bức tường Berlin Bernauer Strasse kỉ niệm 30 năm ngày Bức tường chia cắt Đông và Tây Đức này sụp đổ. Bức tường được nhà cầm quyền Đông Đức cộng sản độc tài dựng lên gần 30 năm (1961-1989) để ngăn chặn làn sóng người dân Đông Đức cộng sản trốn chạy qua Tây Đức tự do dân chủ. Vào tháng 8 năm 1989, lính biên phòng Hungary lần đầu tiên cho phép người dân từ Đông Đức tự do băng qua biên giới vào Áo, mở đường cho sự sụp đổ của Bức tường Berlin ba tháng sau đó và đặt dấu chấm hết cho Bức màn Sắt. Một năm sau khi bức tường sụp đổ, chế độ Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Đức sụp đổ, nước Đức thống nhất vào năm 1990 dưới chế độ dân chủ Cộng hòa Liên Bang Đức đến nay.
Tham dự lễ tưởng niệm, ngoài Tổng Thống Frank-Walter Steinmeier và Thủ Tướng Đức Angela Merkel, các quan chức cấp cao và đông đảo quần chúng nhân dân Đức, còn có sư hiện diện của bốn nguyên thủ các quốc gia Đông Âu từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Đó là Tổng thống Janos Ader của Hungary, Andrzej Duda của Ba Lan, Zuzana Caputova của Slovakia và Milos Zeman của Cộng hòa Czech Republic. Tất cả cùng cắm hoa tưởng niệm vào kẻ hở trên Bức tường Berlin để tưởng niệm những người dân Đông Đức đã chết vì tìm cách vượt thoát qua bức tường này tìm tự do.
Tại buổi lễ, Tổng thống Đức Steinmeier nói ‘"Cùng với những người bạn của chúng tôi, chúng tôi nhớ về các sự kiện 30 năm trước với lòng biết ơn sâu sắc", ; và rằng "Nếu không có sự can đảm và ý chí tự do của người Ba Lan, người Hungary, người Czech và người Slovakia, các cuộc cách mạng hòa bình ở Đông Âu và việc thống nhất nước Đức sẽ không thể thực hiện được".
2. Đài Tưởng niệm Nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản (Victims of Communism Memorial)
Đài tường niệm nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản được xây dựng trong một khuôn viên tại Washington D.C., ở giao điểm của Đại lộ Massachusetts và Đại lộ New Jersey và Đường G, N.W, cách Union Station hai dãy phố và trong tầm nhìn của Tòa Nhà Quốc Hội Hoa Kỳ, về hướng tây.
Theo tài liệu lưu trữ của Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản thì mục đích của tượng đài là : "để lịch sử về sự tàn bạo của cộng sản sẽ được dạy cho các thế hệ tương lai", và được ghi nhận là "để tưởng nhớ hơn 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản"
Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản được Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush khánh thành vào ngày 12 tháng Sáu, 2007, kỷ niệm 20 năm ngày Tổng thống Ronald Reagan đọc bài diễn văn nổi tiếng trước Bức Tường Berlin, rằng "Hãy phá đổ bức tường này".
3. Ngày Tưởng niệm Nạn nhân cộng sản tại Hoa Kỳ (7/11/2017)
Một ngày trước chuyến thăm Trung Quốc, Tổng thống Donald Trump công bố ngày 7/11 là Ngày Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản.Thông cáo từ Tòa Bạch Ốc lúc đó`nói ngày 7/11 đánh dấu 100 năm (1917-2017) kể từ khi cuộc cách mạng do đảng cộng sản Bolshevik Nga do Vlamir Lenin lãmh đạo nổ ra tại Nga, dẫn tới việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô) và những thập niên đen tối của chủ nghĩa cộng sản đàn áp, một triết lý chính trị không thích hợp với tự do, thịnh vượng, và nhân phẩm của đời sống con người.
Thông báo của Tòa Bạch Ốc nhấn mạnh, rằng trong thế kỷ qua, các chế độ cộng sản độc tài trên khắp thế giới đã giết chết hơn 100 triệu người và biến vô số người khác thành nạn nhân của tình trạng bóc lột, bạo động, và những sự hủy diệt chưa kể hết. Rằng, qua các phong trào mạo danh sự giải phóng đã tước đoạt một cách có hệ thống các quyền của người dân vô tội được Thượng đế ban cho như quyền tự do thờ phượng, tự do lập hội, cùng nhiều quyền khác nữa. Và rằng dưới chế độ cộng sản, các công dân khao khát tự do bị nô dịch hóa bởi nhà nước qua việc sử dụng bạo động, gieo rắc sự sợ hãi, và hăm dọa.
Thông cáo Tòa Bạch Ốc cũng nói, ngày hôm nay, chúng ta tưởng nhớ những người đã thiệt mạng và tất cả những người tiếp tục phải chịu đựng dưới chế độ cộng sản. Trong sự tưởng nhớ và vinh danh tinh thần của những ai đã tranh đấu dũng cảm giúp làm lan tỏa tự do và cơ hội trên khắp thế giới, nước Mỹ tái khẳng định quyết tâm không lay chuyển mang ánh sáng tự do tới với tất cả những ai khao khát một tương lai tươi sáng, tự do hơn.
Giờ đây nhớ lại, hơn 100 năm trước, từ ngày 6 đến 9/11/1917, Hồng quân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin chiếm Cung điện Mùa đông ở Nga và thành lập chế độ cộng sản, khởi đầu một thế kỷ mà trong đó có hơn 100 triệu người bị sát hại bởi lý tưởng này. Ngày nay, nhiều người vẫn còn là nạn nhân của cộng sản trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam, Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc, Campuchea và Lào… Đàn áp xảy ra tại các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản dưới các hình thức từ diệt chủng như thời Khơ Me Đỏ ở Campuchea hay dưới thời cai trị của Joseph Stalin ở Liên Xô, tiêu diệt văn hóa-trí thức như dưới thời Mao Trạch Đông ở Trung Quốc và nhiều nơi khác nữa kể cả Việt Nam, cho tới bắt bớ tù đày những người bất đồng chính kiến như tại Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc hay Việt Nam.
Trong một sự kiện hôm 6/10/ 2017 tại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Donald Trump tuyên bố ‘Lý tưởng cộng sản thất bại đã mang lại sự đàn áp đối với người dân Cuba, chẳng mang lại gì ngoài sự thống khổ chịu đựng ở tất cả mọi nơi khác mà nó hiện diện, tất cả mọi nơi.’Tổng thống Mỹ nhấn mạnh ‘Chủ nghĩa cộng sản là quá khứ. Tự do là tương lai.’
3. Tác hại của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam
Mọi người Việt Nam không thể nào quên những tội ác chồng chất do chủ nghĩa cộng sản gây ra kể từ sau khi chủ nghĩa không tưởng này được ông Hồ Chí Minh và những đồng chí của ông du nhập tụ đảng tại Việt Nam (1930).
Tội ác xẩy ra cao độ là trong thời kỳ Đảng cộng sản Việt Nam đã "ngụy dân tộc" phát động, tiến hành cuộc "Chiến tranh giải phóng Miền Nam" để cộng sản hóa cả nước (1954-1975), với sự hậu thuẫn của các nước cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và các nước phe xã hội chủ nghĩa. Chính cuộc chiến tranh "nồi da sáo thịt này" đã sát hại hàng triệu sinh linh người dân Việt Nam trên cả hai miền Bắc-Nam của đất nước. Đất nước bị tàn phá tan hoang, dân tộc bị phân hóa, hận thù và đói nghèo tràn lan. Đỉnh cao tội ác của chủ nghĩa cộng sản trong chiến tranh là vụ sát hại, chôn sống trong các ngôi mộ tập thể lên đến khoảng bốn năm ngàn người. Sau chiến tranh, đỉnh cao tội ác của chủ nghĩa cộng sản là giam cầm, đầy ải, sỉ nhục hàng trăm ngàn quân dân,cán chính chế độ Việt Nam Cộng hòa ở Nam Việt Nam trong các trại tù gọi là "Tập trung cải tạo" ; Tội ác đàn áp, bắn giết, tù đầy, khủng bố hàng ngàn người chống đối chế độ đòi dân chủ, tự do, nhân quyền hơn 44 năm qua (1975-2019)… Tất cả tội ác này, từ quá khứ đến hiện tại ở Việt Nam đều là từ, do và vì chủ nghĩa cộng sản đã được các thế hệ đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng vào thực tiễn.
Vậy thì…
III. Đảng cộng sản Việt Nam phải và cần làm gì để đói công chuộc tội với đất nước ?
Thật đơn giản và trong tầm tay của đảng Cộng sản Việt Nam nay đã biến chất, biến thể không còn là cộng sản nữa.Vì là một đảng đã và đang độc quyền thống trị hơn 64 năm qua nắm quyền sinh sát trong tay (20 năm nửa nước Miền Bắc và 44 năm thống trị cả nước). Nay Đảng cộng sản chỉ cần thực tâm "sám hối" (chẳng cần thú nhận công khai) về quá khứ sai lầm đã chọn con đường cộng sản chủ nghĩa, gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước. Đồng thời, tự nguyện, tự giác, quyết tâm, chủ động thực hiện các bước sau đây :
1. Chấm dứt bắc bớ, đàn áp, khủng bố và thả hết những người bất đồng chính kiến đấu tranh ôn hòa cho mục tiêu dân chủ hóa đất nước đang bị cầm tù.
2. Đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa đất nước về mặt pháp lý (sửa đổi Hiến pháp và Luật pháp quốc gia theo hướng dân chủ…) và dân chủ hóa về mặt thực tiễn (điều chỉnh cơ chế tổ chức công quyền, đào tạo nhân sự quản lý, điều hành hệ thống công quyền quốc gia các cấp hành chánh quân sự để có được một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân…). Tất cả được tiến hành đồng bộ, theo một tốc độ phù hợp để giữ vững ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng, tránh xáo trộn bất lợi cho đất nước.
3. Chủ động kết thúc êm dịu tiến trình chuyển hóa từ chế độ độc tài toàn trị qua chế độ dân chủ pháp trị sau một thời gian thích hợp, mà vẫn giữ được ổn định và các cựu đảng viên cộng sản vẩn có cơ hội nắm quyền theo Hiến pháp và luật pháp dân chủ mới hình thành, nếu có tài đức, được nhân dân tuyển chọn qua lá phiếu bầu trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do thật sự.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 15/11/2019
Thực tế là Trung Quốc ngày càng có thêm những hành động xâm phạm thô bạo chủ quyền biển đảo của Việt Nam, mà gần nhất là vụ Bãi Tư Chính đã gây căng thẳng cao độ quan hệ ngoại giao song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc ; cũng như trong quan hệ quốc tế đã và đang đe dọa sự ổn định trong khu vực và hòa bình thế giới.
Không đồng minh vĩnh viễn, cũng chẳng kẻ thù vĩnh cửu
Đứng trước thực tế trên, cho đến lúc này, trong công luận có hai khuynh hướng trái ngược về đối đối sách của nhà đương quyền Việt Nam với Trung Quốc liên quan đến tranh chấp chủ quyền biển đảo tại Biển Đông :
- Cần thay đổi đối sách với Trung Quốc
- Cần tiếp tục đối sách bao lâu nay với Trung Quốc
I. Cần thay đổi đối sách với Trung Quốc
Những ngưởi theo khuynh hướng này, trong đó có chúng tôi đã thể hiện khuynh hướng của mình trên diễn đàn này qua bài viết "Đã đến lúc Việt Nam chấm dứt đối sách ‘đi dây’ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ" (1). Vì sao ?
Theo lập luận của chúng tôi được trình bày chi tiết trong bài viết nêu trên, thì có hai căn cứ để cần thay đổi đối sách "Đi dây" trong quan hệ song phương giữa Việt Nam với Trung Quốc và Việt Nam với Hoa Kỳ và từ bỏ chủ trương "Ba không" trong quan hệ đa phương với cộng đồng các quốc gia trên thế giới (Không tham gia liên minh quân sự với nước nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và không về phe nước nào chống lại một nước khác).
1. Vì chính sách đi dây này không có hiệu quả trên thực tế, đang tiến dần đến nhiều nguy cơ, dù Việt Nam đã có nhiều cố gắng theo đuổi hàng thập niên qua (1).
2. Vì đến lúc này, Việt Nam đã có đủ các yếu tố chủ quan cũng như khách quan thuận lợi để chấm dứt chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ (2).
II. Cần tiếp tục đối sách bao lâu nay với Trung Quốc
Theo khuynh hướng cần tiếp tục đối sách bao lâu nay của nhà đương quyền Việt Nam với Trung Quốc là "Đi dây" trong quan hệ song phương với Trung Quốc và với Hoa Kỳ, duy trì chủ trương "Ba không". Lập luận rằng, nếu thay đổi thì :
1. Trung Quốc sẽ có phản ứng điên cuồng, bất lợi và gây nhiều khó khăn nhiều mặt cho Việt Nam không thể vượt qua.
Khuynh hướng này cho rằng sự lựa chọn như thế sẽ rất nguy hiểm, đưa đến hậu quả nghiêm trọng, nhiều mặt khó lường do Trung Quốc gây ra. Trong khi quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ bấp bênh, không có gì bảo đảm đáng tin cậy, do thực tế Hoa Kỳ có thể bỏ rơi Việt Nam, nếu sau đó Hoa Kỳ và Trung Quốc thỏa thuận được với nhau về phân chia quyền lực trong vùng và quyền lợi tại Biển Đông.
Khuynh hướng này đơn cử trường hợp mới đây Trung Quốc chỉ mới cố tình kéo dài thời gian kiểm soát thuế quan hàng thực phẩm tươi sống nhập từ Việt Nam qua biên giới, cũng đã làm nhiều mặt hàng hư thối. Trong khi kinh tế Việt Nam bao lâu nay lệ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Trung Quốc. Đó là chưa kể những đòn trừng phạt quân sự, liệu Hoa Kỳ có giám can thiệp bênh vực khi Việt Nam liên minh với Hoa Kỳ ; hay lại như trường hợp của Philippines, một nước có hiệp ước liên minh quân sự với Hoa Kỳ, khi bị Trung Quốc chiếm một đảo của mình yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp thì đã bị Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton thời Tổng thống Barack Obama thoái thác, rằng "Biển Đông đủ lớn cho Trung Quốc có phần" (?).
2. Về quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ bấp bênh, không có gì bảo đảm.
Khuynh hướng này cho rằng, kinh nghiệm thực tế cho thấy Hoa Kỳ từng là đồng minh không đáng tin cậy và từng được thực tế cho thấy, vì quyền lợi thiết thân của quốc gia, Hoa Kỳ có thể "phản bội, bán đứng đồng minh".
Dẫn chứng thực tế trong quá khứ xa gần như : Trong thời kỳ chiến tranh Quốc- Cộng ; Nam - Bắc (1954-1975) Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam đã bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội, bỏ rơi cho cộng sản Bắc Việt thôn tính, cộng sản hóa Miền Nam. Đó là hệ quả sau khi Hoa Kỳ đã bắt tay được với Trung Quốc qua Thông cáo chung Thượng Hải 1972 được ký kết giữa Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông ; hay như Mỹ bỏ rơi đồng minh Đài Loan để Trung Quốc chiếm chỗ trong Liên Hiệp Quốc năm 1995. Tất cả chỉ vì thị trường béo bở trên 1 tỷ dân Hoa lục hấp dẫn hơn nhiều so với thị trường tiêu thụ vũ khí ở Việt Nam qua cuộc chiến ; hay so với thị trường tiêu thụ hàng hóa không đáng kể, với vài chục triệu dân của đảo quốc Đài Loan.
Một vài trường hợp điển hình khác ở nơi này nơi khác trên thế giới, cũng được khuynh hướng này dẫn chứng như : Nicaragua một nước ở Trung Mỹ từng là đồng minh của Hoa Kỳ, rồi vì quyền lợi của Hoa Kỳ, tướng Daniel Ortega tổng thống xứ này đã bị Hoa Kỳ bắt đem về Hoa Kỳ xử tội "buôn bán ma túy" vào những năm đầu thập niên 2000. Và gần nhất vẫn đang là vấn đề thời sự là vụ Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh người Kurdistan ở vùng Trung Đông cho Thổ Nhĩ Kỳ triệt hạ, sau khi Tổng thống hai nước Mỹ-Thổ thỏa thuận ngầm được các quyền lợi song phương giữa hai quốc gia… Mặc dầu trước đó khối người Kurdistan từng là đồng minh giúp Hoa Kỳ tiêu diệt khủng bố ISIS.
III. Nhận định
Trên đây là những quan ngại làm căn cứ lập luận cho rằng Việt Nam không nên "từ bỏ chính sách ‘Ba Không’ để liên minh quân sự với Mỹ" . Nhưng với nhận định của chúng tôi và có lẽ cũng của nhiều người khác cùng nhận thức và quan điểm thì tất cả những quan ngại này, dù là thực tế, đều có thể hóa giải được, một khi Việt Nam dứt khoát "từ bỏ chính sách đi dây song phương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc" để"thoát Trung", liên kết với Hoa kỳ và các quốc gia đồng minh trong một liên minh chống để ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc, không để bị Trung Quốc tiếp tục dùng "Vòng kim cô đỏ" từ quá khứ đến hiện tại, xiết cổ, kìm kẹp, ỷ mạnh hiếp yếu "bắt nạt Việt Nam" mãi được.
Bởi vì "không có đồng minh vĩnh viễn, cũng chẳng có kẻ thù vĩnh cửu". Thực tế đã như một quy luật xã hội, quyền lợi của quốc gia nào cũng thế, luôn được coi là tối thượng. Một khi các quốc gia có quyền lợi tương đồng thì hình thành các liên minh, khi lợi ích dị biệt thì liên minh tan rã.
Lịch sử đã cho thấy nhiều bằng chứng. Đơn cử : Trong Thế chiến II (1939-1945), Mỹ-Anh-Nga-Pháp-Trung Hoa Dân Quốc… là đồng minh chống lại Phe Trục Đức-Ý-Nhật, vì có chung mục đích và quyền lợi. Sau Thế chiến II, trong cuộc chiến ý thức hệ toàn cầu, hình thành thế giới lưỡng cực, Liên Xô - Trung Quốc cầm đầu phe xã hội chủ nghĩa, Hoa Kỳ lãnh đạo phe tư bản chủ nghĩa với các đồng minh Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật… Chiến tranh ý thức hệ toàn cầu hay chiến tranh lạnh chấm dứt, thế giới đa cực, hình thành các liên minh mới cạnh tranh nhau trên thị trường…
Và chẳng ở đâu xa, trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam (1954-1975), một hình thái "Chiến tranh nóng" (Hot War nơi các nước nghèo) bên cạnh hình thái "Chiến tranh lạnh" (Cold War giữa các nước giàu) Hoa Kỳ và các cường quốc như Anh, Pháp, Đức, Nhật trong "Phe tư bản chủ nghĩa" đều là đồng minh của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam. Trong khi quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Miền Bắc (ngụy dân tộc, ngụy dân chủ, cộng hòa) nằm trong liên minh "Phe các nước xã hội chủ nghĩa" đứng đầu là Liên Xô và Trung Quốc. Thế nhưng, sau chiến tranh, từ năm 1995 Việt Nam dưới chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa, được Hoa Kỳ nối lại bang giao, từ đối thủ trên chiến trường trở thành đối tác trên thị trường. Từ đó, sau đó và nhờ đó Việt Nam đã có cơ hội từng bước phát triển nhiều mặt, nhất là mặt kinh tế, để có bộ mặt "phồn vinh" như hôm nay. Mặc dầu người dân ai cũng biết "bộ mặt phồn vinh" hôm nay là kết quả của con đường làm ăn "kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa" (trừ các dư luận viên của nhà đương quyền" ăn cơm Đảng múa tối ngày"). Nhưng vì sĩ diện, nhà đương quyền Việt Nam vẫn phải chơi trò gian thương "treo đầu dê bán thịt chó" (xanh vỏ đỏ lòng), rằng đó là nhờ con đường "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", như chúng tôi đã vạch trần trong nhiều bài viết trước đây trên diễn đàn này.
Nhưng nói gì thì nói, chính thực tế hôm nay, sau gần 25 năm thực hiện "Đối sách đi dây" (1995-2019) mềm dẻo, khôn khéo giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, Việt Nam đã hưởng lợi rất nhiều nhờ Hoa Kỳ. Theo nhận định của chúng tôi, đến lúc này, Việt Nam đã có đủ các yếu tố chủ quan cũng như khách quan thuận lợi để chấm dứt chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ (3).
Về mặt chủ quan Việt Nam ngày nay đã tạo được các điều kiện cần thiết để "thoát Trung", chỉ cần tạo thêm "điều kiện đủ" là từ bỏ "Đối sách đi dây" mạnh dạn tham gia liên minh với Hoa Kỳ và các đồng minh, không phải để chống Trung Quốc, mà để có thế lực tự vệ, giúp bảo vệ đất nước trước tham vọng bành trướng, bá quyền của Trung Quốc. Muốn làm được điều này, những người lãnh đạo đảng cầm quyền độc tôn và nhà nước độc tài toàn trị Việt Nam hôm nay, chỉ cần có dũng khí, vượt qua sự sợ hãi do ám ảnh "bóng ma" quá khứ do đã "ngả theo Liên Xô" (sau 1975 ít năm) nên bị Trung Quốc "dạy cho Việt Nam một bài học" (1979) gây khốn đốn nhiều năm cho Việt Nam đến độ phải cầu hòa xin bám trở lại trụ cột "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Trung Quốc" (đang dãy chết) qua mật ước Thành Đô (1990).
Thế nhưng, các ông bà lãnh đạo "Đảng và Nhà nước ta" nên nhớ rằng thế lực của Liên Xô vào thời điểm Việt Nam chọn làm "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa", chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô đang giãy chết, nên đành bỏ mặc Việt Nam tự giải quyết mọi khó khăn do Trung Quốc gây ra ; hoàn toàn khác với thế lực của Hoa Kỳ lúc này (siêu cường). Nếu chọn đứng vào hàng ngũ với Hoa Kỳ và các nước đồng minh khác trong một liên minh có mục tiêu chung gián chỉ tham vọng bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông, vì có chung lợi ích với Việt Nam. Nếu vì sự lựa chọn này Việt Nam gặp nhiều khó khăn do Trung Quốc gây ra, thì lãnh đạo Việt Nam hãy vững tin một cách có cơ sở rằng, Hoa Kỳ và đồng minh có thừa khả năng giúp Việt Nam vượt qua tất cả. Đó là sự thật. Đừng để vuột mất cơ hội thuận lợi để "thoát Trung" khi có quyết định quá trễ.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 02/11/2019
(1,2,3) Xin đọc thêm chi tiết nơi điểm trong bài viết "Đã đến lúc Việt Nam chấm dứt đối sách ‘đi dây’ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ" đã đăng tải và còn lưu trên diễn đàn này.
- Đối sách đi dây của Việt Nam giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ là gì ?
- Vì sao Việt Nam đã đến lúc cần chấm dứt đối sách đi dây ?
- Trong bối cảnh hiện nay, đối sách nào thích dụng cho Việt Nam ?
Đó là nội dung chúng tôi lần lượt trình bày trong bài viết này.
Việt Nam bị tác động từ hai cường quốc Trung Quốc và Hoa Kỳ Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Ảnh BBC tiếng Việt
I. Đối sách đi dây của Việt Nam giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ là gì ?
1. Đối sách đi dây
Theo sự hiểu biết của chúng tôi, "Đi dây" là hình ảnh một nghệ nhân đi dây trong một gánh xiệc, tay cẩm một xào ngang hay tay không dang ngang đi trên một dây căng thẳng, cố giữ thăng bằng không nghiêng về phía nào để khỏi té. Có lẽ hình ảnh này đã được người ta gọi có tính hình tượng của chính sách đối ngoại của một quốc gia cùng lúc có mối quan hệ song phương với hai quốc gia khác, cố gắng giữ thăng bằng trong cách ứng xử, để không bị coi là thiên lệch bên nay hay bên kia. Để thực hiện chính sách đối ngoại đi dây này với Trung Quốc và Hoa Kỳ, trên nguyên tắc Việt Nam đưa ra một chính sách đối ngoại đa phương trung lập, với chủ trương cụ thể "ba không" (Không tham gia liên minh quân sự với nước nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và không về phe nước nào chống lại một nước khác).
Thế nhưng thực tế trong quan hệ song phương, Việt Nam vẫn phải theo đuổi chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Nghĩa là trên nguyên tắc đều muốn thể hiện sự quân bình trong đối sách với Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ trên mọi lãnh vực. Nhưng thực tế trong cách ứng xử, đôi khi Việt Nam vẫn tỏ ra thiên lệch nhiều hơn về phía Trung Quốc. dè dặt hơn về phía Hoa Kỳ, như muốn chứng tỏ với "đồng chí xấu bụng và nhiều tham vọng Trung Quốc", rằng Việt Nam lúc nào cũng coi trọng mối quan hệ với Trung Quốc hơn Hoa Kỳ.Với chủ trương "3 không" về quân sự an ninh quốc phòng, như một lời cam kết làm an lòng Trung Quốc, rằng Việt Nam sẽ không liên minh với Hoa Kỳ và bất cứ nước nào để chống lại Trung Quốc.
2. Vì sao Việt Nam phải đi dây ?
Vì bắt nguồn từ sự ràng buộc của quá khứ chiến tranh xa gần đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ có khác biệt.
Đối với Trung Quốc từng là "đồng chí anh em", Việt-Trung có cùng quá khứ và vận mệnh tương lai, như lãnh tụ Đảng cộng sản đương thời Trung quốc Tập Cận Bình nhiều lần nhắc nhở với cộng đảng Việt Nam mỗi khi có dịp.
Do đó, trên thực tế, đối xử với cựu thù Hoa Kỳ trong chiến tranh phải có khác, để không phật ý và bị nghi ngờ về lòng trung thành cố hữu của Việt Nam với Trung Quốc. Chẳng thế mà, trước khi làm điều gì liên quan đến Hoa Kỳ, Hà Nội luôn tham khảo trước với Bắc kinh cách này cách khác. Tỷ dụ, trong các chuyến công du Hoa Kỳ của các lãnh đạo hàng đầu đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam trước đây, thường là họ phải ghé qua Bắc Kinh trước khi đến Washington.Không biết trong chuyến Mỹ du dự trù vào tháng 10/2019 tới đây của Tổng Tịch Nguyễn Phú Trọng có ghé Bắc Kinh trước khi đến Washington hay không là câu hỏi được nhiều người đặt ra ?
Vì thế, trong quan hệ song phương với Trung Quốc, Việt Nam vẫn nêu cao và cố gắng thực hiện khẩu hiệu "4 Tốt và 16 Chữ vàng" có từ thời chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam (1954-1975) do các lãnh tụ hàng đầu của hai đảng, hai nhà nước Việt (Hồ Chí Minh) và Trung (Mao Trạch Đông) xác lập như một định ước có giá trị cưỡng hành mặc nhiên không thể tranh cãi.
Vì trong bối cảnh quá khứ này, chế độ cộng sản Việt Nam đã lệ thuộc nặng nề vào hai đế quốc cộng sản Nga-Tàu đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa. Do phải thực hiện cuộc chiến tranh xâm chiếm cộng sản hóa Miền Nam của bên Việt quốc, để làm tròn "nghĩa vụ quốc tế cộng sản", chế độ cộng sản Việt Nam ở Miền Bắc đã nhận sự chi viện toàn diện "sức người sức của", như vũ khí, đạn dược, lương thực, tài lực, nhân lực của "phe xã hội chủ nghĩa" chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc. Trong đó nhiều nhất là Trung Quốc chiếm đến 3/4 chiến phí như tổng kết sau chiến tranh để làm căn cứ cho Bắc Kinh đòi nợ khẩn cấp, chỉ vài năm sau kết thúc chiến tranh Việt Nam. Là vì khi đó, đảng cộng sản Việt Nam thời cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã (dại dột ?) dứt khoát chọn Liên Xô là "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" của mình. Sự lựa chọn dứt khoát này đã khiến Bắc kinh nổi giận "kẻ bạc tình, tham phú phụ bần", nên không chỉ đòi nợ khẩn cấp (khiến cả nước không đủ lương thực phải ăn độn ngô khoai và bo- bo vốn là đồ ăn dành cho súc vật được Liên Xô viện trợ cứu đói…) ; mà còn dùng công cụ Khmer Đỏ Pon Pot, Ieng Sari quấy phá biên giới phía Tây Nam, gài thế cho cộng sản Việt Nam ngã sấp mặt và sa lầy hơn 10 năm vào chiến trường Kampuchia (1978-1989). Hệ quả là đã gây nhiều tổn thất nhân mạng, tài lực và tạo thêm nhiều khó khăn thời hậu chiến về đối nội (toàn diện về chính trị,quân sự, kinh tế, xã hội…) cũng như đối ngoại cho cộng sản Hà Nội ( Mỹ gia tăng và lôi kéo nhiều nước tham gia cấm vận, bị thế giới lên án chế độ cộng sản Việt Nam xâm lăng Kamphuchia…). Sự thể này đã làm Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam Lê Duẩn lúc đó uất ức phải thốt lên với các đống chí và nhân dân rằng "Chúng Ta đánh Mỹ đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung quốc…" ( nay sao lại đòi nợ là thế nào ?-Đây có lẽ cũng là bài học kinh nghiệm để cộng sản Việt Nam phải thực hiện chính sách đi dây sau này vì sợ Trung Quốc "dạy cho Việt Nam một bài học" kiểu năm 1979 chăng ?).
Nhớ lại, trong thời khoảng này, Liên Xô cũng đang gặp nhiều khó khăn nội bộ, nên không thể giúp Việt Nam vượt thoát những khó khăn toàn diện. Do đó, chế độ cộng sản Việt Nam đã phải một mình chịu đựng, loay hoay tự giải quyết mọi khó khăn cho đến khi nhìn thấy dấu hiệu tiền sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô (Cải tổ Glasnost và cởi mở Perestroika (1986-1989) để cứu nguy chế độ xã hội chủ nghĩa đều thất bại sau phải chuyển đổi qua dân chủ tư bản chủ nghĩa từ 1991 đến nay) ; trong khi công cuộc "Đổi mới" tại Việt Nam theo gương Liên Xô cũng không thành, chế độ cộng sản Việt Nam phải muối mặt vội tìm cách bám trở lại trụ cột Trung Quốc qua "Mật nghị Thành Đô" (1990), nghe đâu phải chấp nhận nhiều thua thiệt, để được Trung Quốc nối lại bang giao. Từ đó, đảng và chế độ cộng sản Việt Nam tiếp tục nêu cao và cố gắng thực hiện khẩu hiệu "4 Tốt và 16 Chữ vàng" như nền tảng quan hệ ngoại giao Việt –Trung. Đồng thời từng bước đi theo con đường "Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là mèo đó bắt được chuột" của Trung quốc.
Đối với Hoa Kỳ, quá khứ từng là là cựu thù trong chiến tranh, đối tác làm ăn trong hiện tại, Việt- Mỹ không có cùng quá khứ, nhưng vận mệnh tương lai có thể gắn bó đôi bên cùng có lợi.
Vận mệnh tương lai đó là , sau khi Trung Quốc "mở cửa" làm ăn với thế giới bên ngoài, "phe xã hội chủ nghĩa đã rãy chết", Việt Nam mới dám nối bước đàn anh tìm cơ hội "mở cửa" làm ăn với các nước "tư bản chủ nghĩa không rãy chết" như lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin. Cơ hội đó là vào năm 1995 khi được Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Từ đó, sau đó và nhờ đó Việt Nam đã từng bước phát triển nhiều mặt, nhất là mặt kinh tế, để có bộ mặt "Phồn vinh" như hôm nay. Mặc dầu người dân ai cũng biết "bộ mặt phồn vinh" hôm nay là kết quả của con đường làm ăn "kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa" (trừ các dư luận viên của nhà đương quyền" ăn cơm Đảng múa tối ngày"). Nhưng vì sĩ diện, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn phải chơi trò gian thương "treo đầu dê bán thịt chó", rằng đó là nhờ con đường "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", như chúng tôi đã vạch trần trong nhiều bài viết trước đây trên diễn đàn này.Đúng vậy không, thưa các "đồng chí dư luận viên" đang làm công tác "Đặt tình truyền thông" cho "Đảng và nhà nước" của mình ?
Thế nhưng cũng từ đó và sau đó cho đến gần lúc này, trong chính sách đối ngoại của chế độ cộng sản Việt Nam, tổng quát trên nguyên tắc là đa phương, nhưng thực tế trong quan hệ song phương Việt Nam, bên ngoài vẫn chẳng đặng đừng phải thực hiện "chính sách đi dây giữa Trung quốc và Hoa Kỳ". Nhưng bên trong đã không ngừng củng cố mối quan hệ song phương với Hoa Kỳ,nỗ lực từng bước theo hướng "thoát Trung xoay trục về phía Mỹ". Vì nói gì thì nói, cả nhà cầm quyền cũng như nhân dân Việt Nam trong thâm tâm đều hiểu ngầm rằng thành quả phát triển nhiều mặt, nhất là mặt kinh tế hôm nay, Hoa Kỳ đã đóng vai trò chủ yếu và tương lai đối tác Hoa Kỳ tốt hơn nhiều "đồng chí Trung Quốc", sẽ là chỗ dựa đối trọng vững chắc cho Việt Nam, vừa phát triển đến tự cường, vừa ngăn chặn được tham vọng lấn chiếm đất liền,biển đảo và áp chế nô dịch Việt Nam của Trung Quốc.
II. Vì sao đã đến lúc Việt Nam cần chấm dứt chính sách đi dây ?
Theo nhận định của chúng tôi, đã đến lúc Việt Nam cần chấm dứt chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ là vì :
1. Vì chính sách đi dây này không có hiệu quả trên thực tế, đang tiến dần đến nhiều nguy cơ, dù Việt Nam đã có nhiều cố gắng theo đuổi hàng thập niên qua.
Không hiệu quả, vì mục tiêu và lợi ích của chính sách đối ngoại "đi dây" này không đạt được trên thực tế. Vì trong quan hệ song phương với Trung Quốc,Việt Nam đã luôn tỏ ra cố gắng duy trì tình hữu hảo, muốn được đối xử bình đẳng trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, vì lợi ích của hai nước Việt-Trung. Nhất là chính sách đi dây này là để tránh không bị nước láng giềng Trung Quốc có lý do thực hiện tham vọng bá quyền và lấn chiếm đất đai biển đảo của Việt Nam, cũng như gây khó khăn nhiều mặt cho Việt Nam.
Thế nhưng trên thực tế, Trung Quốc đã luôn thực hiện chính sách ngoại giao "lá mặt lá trái" với Việt Nam. Miệng thì nói "hữu hảo", hành động thì "bất hảo", luôn ỷ thế mạnh lấn áp Việt Nam đủ điều. Nghiêm trọng nhất là Trung Quốc trong nhiều năm qua đã ngang nhiên lấn chiếm lãnh thổ trên đất liền và các hải đảo của Việt Nam. Cụ thể gần nhất, nhưng vẫn chưa phải là hành động cuối cùng, là vụ Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu khảo sát và các tàu hộ tống vào khu vực Bãi Chính thuộc thềm lục địa và khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, để tiến hành thăm dò dầu khí bất hợp pháp trong vùng biển tranh chấp. Đây là một vi phạm trắng trợn quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về Luật Biển.Có phải như "Một giọt nước làm tràn ly" chăng ?
2. Vì đến lúc này, Việt Nam đã có đủ các yếu tố chủ quan cũng như khách quan thuận lợi để chấm dứt chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Về chủ quan, Việt Nam đã chứng tỏ làm hết sức mình, đi từ tránh né,nhún nhường, nhượng bộ đến thái độ và hành động kiên quyết đối với Trung Quốc trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển đảo của Tổ Quốc hiện nay. Tự thân, Việt Nam đã và đang tiếp tục thực hiện các bước cần thiết cải tiến, tăng cường trang bị vũ khí, sức mạnh an ninh quốc phòng tự chủ, không phải để tự mình đương đầu để chiến thắng trong một cuộc xung đột quân sự không cân sức với Trung Quốc ; song chỉ muốn nói lên ý chí và quyết tâm của Việt Nam sẵn sáng đương đầu với tham vọng xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc.Đồng thời có thêm yếu tố để được sự quan tâm, hổ trợ tích cực, toàn diện của quốc tế để ngăn chặn kịp thời bất cứ hành động "ỷ mạnh hiếp yếu" và chặn đứng tham vọng xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc.(theo ý nghĩa một châm ngôn Phương Tây "hãy tự giúp ta, rồi trời sẽ giúp" ?)
Mặt khác, về phía nhân dân, chính thái độ và hành động cương quyết, dứt khoát này của nhà cầm quyền Việt Nam dường như đã được sự tán dồng và hậu thuẫn âm thầm và mạnh mẽ của hầu hết nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại.Đồng thời người dân Việt Nam hầu như đang hướng lòng về phía Hoa Kỳ và quốc tế như những cứu tinh. Thể hiện điển hình cụ thể mới nhất, khi hay tin Hoa Kỳ điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan tới Biển Đông, đã và đang được công luận Việt Nam hưởng ứng và chào đón nhiệt tình giữa bối cảnh căng thẳng trong vùng biển tranh chấp vẫn chưa có dấu hiệu "giảm nhiệt". Nhiều ý kiến bày tỏ hy vọng Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam và các nước trong khu vực kiềm chế những hành động hung hăng của Bắc Kinh và "sớm lập lại trật tự ở Biển Đông".
Về mặt khách quan, sau khi Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam ở bãi Tư Chính, Hoa Kỳ là nước đầu tiên đã mau mắn lên tiếng phản đối mạnh mẽ hành động ỷ thế mạnh bắt nạt Việt Nam của Trung Quốc ; tiếp theo sau là sự lên tiếng của các cường quốc như Anh, Pháp, Đức, Liên Hiệp Châu Âu, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản… Tất cả đều kết án và bày tỏ sẵn sàng tham gia một liên minh dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông, không chỉ để bảo vệ các quốc gia yếu thế trong khu vực, mà còn là vì quyền lợi quốc gia của họ, cần bảo vệ quyền tự do hàng hải trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế, ngăn chặn tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Riêng Hoa Kỳ, trong vai trò một cường quốc đứng đầu một liên minh đang hình thành nhằm chống tham vọng bá quyền Trung Quốc, người ta ghi nhận nhiều dấu hiệu tịch cực có lợi cho Việt Nam. Khác với chủ trương đứng ngoài các tranh chấp Biển Đông từng được đưa ra,từ Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đến Cố vấn An ninh quốc gia của Nhà Trắng, ông John Bolton, đều đã nhanh chóng lên tiếng chỉ trích việc Trung Quốc "bắt nạt" các nước khác trên Biển Đông, trong bối cảnh căng thẳng leo thang vì vụ Bãi Tư Chính.
Thông báo của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22/8 nêu rõ việc Trung Quốc tái triển khai tàu thăm dò của chính phủ cùng với các tàu hộ tống vũ trang tới vùng biển ngoài khơi Việt Nam gần Bãi Tư Chính hôm 13/8 là một sự leo thang của Bắc Kinh trong nỗ lực uy hiếp không cho các nước cùng có tuyên bố chủ quyền phát triển các nguồn tài nguyên tại Biển Đông.Trong trường hợp Bãi Tư Chính, thông cáo nhấn mạnh, Trung Quốc đang áp lực Việt Nam về sự hợp tác giữa Hà Nội với một công ty năng lượng Nga và những đối tác quốc tế khác.
Thông cáo nói các công ty Mỹ đứng đầu trên thế giới trong việc thăm dò và khai thác các nguồn hydrocarbon, kể cả ở ngoài khơi và tại Biển Đông. Do đó Hoa Kỳ mạnh mẽ chống lại bất cứ nỗ lực nào của Trung Quốc đe dọa hay cưỡng bách các quốc gia đối tác rút lại sự hợp tác với các công ty không phải của Trung Quốc hay quấy nhiễu những hoạt động hợp tác của họ.
Bộ Ngoại giao cho biết Hoa Kỳ cam kết đẩy mạnh an ninh năng lượng của các đối tác và đồng minh tại vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và đảm bảo việc sản xuất dầu khí cho thị trường toàn cầu không bị gián đoạn.
Thông cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ ngày 26/8 nêu rõ hết sức quan ngại trước các nỗ lực tiếp diễn của Trung Quốc vi phạm trật tự quốc tế dựa trên luật lệ trên khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Đồng thời Bộ Quốc phòng Mỹ tố cáo hành động của Bắc Kinh hoàn toàn trái ngược với tầm nhìn của Mỹ về một vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng mở và tự do, mà qua đó, các nước lớn nhỏ được đảm bảo an toàn chủ quyền, không bị uy hiếp, và có thể theo đuổi tăng trưởng kinh tế phù hợp với các luật lệ cũng như chuẩn mực được quốc tế công nhận.
Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cho biết Mỹ sẽ tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của đồng minh và đối tác để đảm bảo quyền tự do hàng hải và cơ hội kinh tế xuyên suốt cả khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Đồng thời Cố vấn An ninh quốc gia John Bolton viết trên Twitter hôm 20/8 ám chỉ rằng Washington ủng hộ Việt Nam đứng lên "chống lại hành vi cưỡng ép" của Bắc Kinh. Ông viết "Việc Trung Quốc gần đây leo thang nỗ lực đe dọa để các nước khác không khai thác các tài nguyên ở Biển Đông thật đáng ngại".Và tằng. "Hoa Kỳ đồng lòng với những ai chống lại các chiến thuật bắt nạt và hành vi cưỡng ép, đe dọa tới an ninh và hòa bình khu vực đó".
Ngoài những lên tiếng mạnh mẽ của các viên chức lãnh đạo An ninh, Ngoại giao, Quốc phòng ngành hành pháp, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Hoa Kỳ Dân biểu Eliot L. Engel, hôm 26/7 ra tuyên bố về việc Trung Quốc "can thiệp vào vùng biển do Việt Nam kiểm soát", trong đó ông "lên án Trung Quốc" và bày tỏ ủng hộ Việt Nam.
Vị Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ khẳng định là chiếu theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các hành động của Trung Quốc "cấu thành sự vi phạm chủ quyền của Việt Nam và các quyền hợp pháp của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)".
Bên cạnh đó, ông Engel cũng lưu ý rằng điều quan trọng không kém là hành vi của Trung Quốc "đe dọa lợi ích của các công ty Hoa Kỳ hoạt động trong khu vực".
"Tôi đứng về phía Việt Nam và các đối tác trong khu vực của chúng ta để lên án sự hung hăng này ... Tôi kêu gọi Trung Quốc rút ngay lập tức tất cả các tàu khỏi lãnh hải của các nước láng giềng và chấm dứt các chiến thuật bắt nạt bất hợp pháp này…".
Mặt khác, đi kèm với những lời lên lên án tố cáo Trung Quốc, lên tiếng ủy hô mạnh mẽ Việt Nam của hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ, là những hành động cụ thể trên thực tế trong tương quan giữa Hoa Kỳ và Việt Nam để hổ trợ, tăng cường an ninh quốc phòng cho Việt Nam. Cụ thể như :
(1) Hoa Kỳ muốn thắt chặt quan hệ quốc phòng mạnh hơn với Việt Nam, theo tin VOA ngày 4/4/2019, thì Lý do để tăng cường mối quan hệ quốc phòng, Trợ lý Bộ trưởng quốc phòng Schriver cho biết Hoa Kỳ và Việt Nam có cùng lợi ích chung "trong việc thúc đẩy trật tự dựa trên các quy tắc quốc tế, bảo vệ chủ quyền, quyền hợp pháp riêng của các quốc gia, bất kể quy mô hay có lo ngại về một sự xói mòn tiềm ẩn trong trật tự dựa trên quy tắc mà từ trước đến nay đã cho phép tất cả các quốc gia ở Ấn Độ-Thái Bình Dương trỗi vậy và thịnh vượng".
(2) Quyền Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Patrick Shanahan hôm 1/6 đã gặp người đồng nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch bên lề Đối thoại Shangri-La ở Singapore, "nêu bật tiến bộ lịch sử trong mối quan hệ quốc phòng song phương".
Phát ngôn viên của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ cho biết rằng "hai nhà lãnh đạo đã tái khẳng định mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam".
(3) Mỹ đào tạo phi công quân sự Việt Nam đầu tiên sau chiến tranh theo tin VOA hôm 3/6/2019. Theo tìm hiểu của VOA qua phái bộ ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, phi công quân sự của Việt Nam bắt đầu tham gia chương trình huấn luyện của Không lực Hoa Kỳ từ năm 2016…
(4) Mỹ ‘phối hợp đa phương’ ở Biển Đông , rằng "Chúng tôi phối hợp với các đối tác và đồng minh nhằm bảo đảm quyền tự do hàng hải và quyền tự do đi lại ở khu vực đó [Biển Đông]. [Chúng tôi] phối hợp song phương cũng như đa phương nhằm quy trách nhiệm cho Trung Quốc", bà Andrea L. Thompson, Thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ chuyên trách về Kiểm soát Vũ khí và An ninh Quốc tế, bà nói hôm 13/8 trong một cuộc họp báo.
(5) Tư lệnh Không quân Mỹ đầu tiên thăm Việt Nam kể từ sau chiến tranh 20/08/2019 Theo VOA Đại tướng David L. Goldfein đã trở thành Tư lệnh Không quân Mỹ đầu tiên thăm Việt Nam kể từ sau khi kết thúc chiến tranh. Trong chuyến thăm 2 ngày đến Hà Nội, ông đã giúp thúc đẩy hợp tác quốc phòng giữa hai nước cũng như ủng hộ quyền tự vệ chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông.
(6) Việt Nam tuyên bố tham gia cuộc diễn tập hàng hải đầu tiên giữa Mỹ và ASEAN 22/08/2019, theo VOA sự khẳng định của Việt Nam được đưa ra thông qua người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng vào ngày 22/8, giữa lúc tình hình ở Biển Đông tiếp tục gia tăng căng thẳng sau khi Trung Quốc đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 quay trở lại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
"Theo thông tin chúng tôi được biết, cuộc diễn tập hàng hải ASEAN và Mỹ sẽ diễn ra từ ngày 2 tới ngày 6/9/2019. Đây là hoạt động được tiến hành theo thỏa thuận giữa bộ trưởng quốc phòng ASEAN và Mỹ năm 2018. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam sẽ tham gia cuộc diễn tập này", Tuổi Trẻ dẫn lời bà Lê Thị Thu Hằng nói trong cuộc họp báo thường kỳ hôm 22/8.
III. Trong bối cảnh hiện nay, đâu là đối sách thích dụng cho Việt Nam ?
Như lời kết, chúng tôi nghĩ rằng, vào thờI điểm hiện nay, qua vụ Bãi Tư Chính, Trung Quốc một lần nữa đã ngang nhiên xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Sự thể này đã buộc Việt Nam không còn tránh né như bao lâu nay mà đã lên tiếng tố cáo mạnh mẽ đích danh Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Cách hành xử này đã được sự tán đồng của quốc dân Việt Nam trong và ngoài nước, sức hậu thuẫn mạnh mẽ của nhiều quốc gia trên thế giới, đứng đầu là cường quốc Hoa Kỳ ; không chỉ bằng lời nói mà đi kèm với những hành động song phương cũng như đa phương ủng hộ Việt Nam, mà còn có nhiều hành động thể hiện quyết tâm chung là chặn đứng tham vọng của Trung Quốc tại Biển Đông, vì quyền lợi chung.
Vì vậy đã đến lúc Việt Nam cần chấm dứt chính sách ngoại giao "đi dây" giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, dứt khoát xoay trục về phía Hoa Kỳ. Vì Việt Nam đã hội đủ các yếu tố thuận lợi chủ quan cũng như khách quan để "thoát Trung", đừng đánh mất cơ hội này.
Về khách quan, ai cũng thấy, chỉ có Hoa Kỳ một cường quốc có đủ thế lực đối trọng với Trung Quốc và có tư thế lãnh đạo một liên minh chống và đập tan được tham vọng bá quyền, ỷ mạnh lấn yếu, bắt nạt các quốc gia nhỏ bé trong vùng, trong đó Việt Nam là một nạn nhân bị đe dọa nhiều nhất do có biên giới cận kề trên đất liền cũng như tại Biển Đông.
Chúng tôi đề nghị nhà đương quyền Việt Nam cần dứt khoát, mạnh dạn, dựa vào dân, chấm dứt mối quan hệ "hữu hảo hão huyền" với Trung Quốc. Đồng thời, thiết lập quan hệ có thực chất với Hoa Kỳ dựa trên lợi ích chung của hai nước và quốc tế. Một cách cụ thể, tổng quát Việt Nam cần từ giai đoạn "Đối tác toàn diện" có tính chung chung, bước qua giai đoạn "Đối tác chiến lược toàn diện" với Hoa Kỳ, từ bỏ chủ trương "Ba Không", tiến tới ký kết một "Hiệp ước hổ tương an ninh quốc phòng" với Hoa Kỳ là thượng sách. Đừng lo Trung Quốc gây nhiều khó khăn, vì một khi xoay trục đối ngoại về phía Hoa kỳ và đồng minh, mọi khó khăn cách mấy cũng sẽ được giải quyết.
Liệu ông Tổng - Tịch Nguyễn Phú Trọng có dám thể hiện đối sách xoay trục này trong chuyến đi Hoa Kỳ dự trù vào Tháng 10 tới đây không, để không bị mang tiếng là người thân Trung Quốc hay là người được Trung Quốc tấn phong, theo sự đồn đoán bao lâu nay ?
Houston, ngày 1/9/2019
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 09/09/2019
Chúng tôi lần lượt trình bày tóm lược diễn biến vụ việc Bãi Tư Chính và đưa ra nhận định về đối sách của nhà đương quyền Việt Nam, sẽ là nội dung bài viết này.
Tàu hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc "vờn nhau" ở Biển Đông năm 2014.
I. Diễn biến vụ việc Bãi Tư Chính
Vụ việc khởi sự khi vào ngày 3/7/2019 và trước đó, tàu thăm dò "Hải Dương Địa Chất 8" và các tàu hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc đã xuất hiện gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Sự thể này đã dẫn đến một cuộc đối đầu căng thẳng giữa các tàu của lực lượng hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc trong mấy tuần qua vẫn đang tiếp diễn, ở nơi mà một công ty của Nga đang thực hiện hoạt động thăm dò dầu khí tại Lô 06.1 của Việt Nam ở Biển Đông theo hợp đồng ký với Việt Nam. Đó là công ty Rosneft của Nga thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC). Điều này làm người ta nhớ lại một vụ đối đầu căng thẳng khác vào năm 2014 liên quan đến một giàn khoan của Trung Quốc (Hải Dương 981) xâm phạm chủ quyền lãnh hải phía tây bắc Hoàng Sa của Viêt Nam, gây nên biểu tình bạo động của dân chúng lan rộng khắp Việt Nam.
Thông tin về vụ "đối đầu" căng thẳng giữa các lực lượng hải cảnh của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trên truyền thông quốc tế và mạng xã hội từ ngày 12/7, sau khi tờ the South China Morning Post dẫn nguồn tin từ nhà nghiên cứu về hải quân Trung Quốc của Mỹ, Ryan Martinson, dựa trên các dữ liệu theo dõi hàng hải. Theo nguồn tin này, 6 tàu hải cảnh, gồm 2 tàu của Trung Quốc và 4 tàu của Việt Nam, được trang bị kỹ càng đã "vờn nhau" trong suốt một tuần qua khi Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương Địa Chất 8 vào khảo sát địa chất gần Bãi Tư Chính, thuộc đặc quyền kinh tế và do Việt Nam kiểm soát ở Biển Đông.
Theo ông Ryan Martinson, chuyên gia về hải quân Trung Quốc của Trường Hải Chiến Hoa Kỳ cho biết, rằng tính tới ngày 23/7, các tàu hải cảnh của Trung Quốc "vẫn hoạt động gần giàn khoan dầu của Nhật ở phía tây Bãi Tư Chính", trong khi tàu Haiyang Dizhi 8 "tiếp tục tiến hành khảo sát địa chấn tại Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa".
Tình trạng tiếp tục căng thẳng hiện nay, là vì Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền nơi đang có tranh chấp, căn cứ trên "bản đồ 9 đoạn" tự vẽ, dù đã bị Tòa án quốc tế phủ nhận giá trị pháp lý cũng như thực tế trong bản án Philippines kiện Trung Quốc mấy năm trước đây (2013-2016). Vì thế, theo cách "vừa ăn cướp vừa la làng", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng, tại cuộc họp báo hôm 17/7, yêu cầu Việt Nam "nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình".
Trong khi Việt Nam vẫn luôn xác nhận có đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý và thực tiễn về chủ quyền của Việt Nam tại Bãi Tư Chính cũng như trên các vùng biển đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Vì thế, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã mạnh mẽ cáo buộc nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Hà Nội cũng nói đã trao công hàm phản đối cho Bắc Kinh và khẳng định lực lượng chấp pháp sẽ tiếp tục "triển khai nhiều biện pháp phù hợp" nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo ngày 19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói : "Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên".
II. Đối sách của Việt Nam ?
Theo nhận định của chúng tôi, đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu, đến thái độ và lời nói mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối ứng thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sự không cân sức, bất lợi cho Việt Nam.
1. Vì dè dặt lúc đầu, vốn là cách ứng xử bao lâu nay của nhà cầm quyền Việt Nam, nên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khi lên tiếng tố cáo hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam gần Bãi Tư Chính, đã không dám chỉ đích danh Trung Quốc, (như trước đây từng tránh né không giám tố cáo đích danh tàu Trung quốc đâm chìm tàu đánh cá và sát hại ngư dân Việt Nam, mà chỉ gọi là "tàu lạ"). Trả lời câu hỏi của truyền thông hôm 16/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ nói chung chung có tính nguyên tắc, rằng :
"Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của UNCLOS, pháp luật Việt Nam".
2. Thế nhưng chỉ ba ngày sau, Việt Nam đã có thái độ và lời nói mạnh bạo và cứng rắn.
Qua cuộc họp báo ngày 19/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đưa ra chỉ trích sắc bén hơn bằng cách nêu đích danh Trung Quốc "đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam" trong khu vực Biển Đông. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng nói :
"Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên…".
Những động thái trên được đánh giá là hiếm hoi trong những phản ứng chính thức của Việt Nam đối với những hành động được cho là "khiêu khích" của Trung Quốc trong những năm gần đây. Theo nhận định của chúng tôi, động thái hiếm hoi này có lẽ là do Việt Nam đã đo lường trước được một sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ, do chính sách "xoay trục đối ngoại" tịnh tiến về phía Hoa Kỳ mà thực tế đã có những dấu hiệu trao đổi song phương về ngoại giao và quân sự khả tín, nhất là các hoạt động cụ thể trong những tháng gần đây trong nỗ lực đi từ hợp tác toàn diện đến hợp tác chiến lược toàn diện (như chúng tôi đã trình bày chi tiết trong bài viết mới đây trên diễn đàn này).
Chẳng thế mà, chỉ một ngày sau tuyên bố cứng rắn của Việt Nam, Hoa Kỳ đã mau chóng lên tiếng bảo vệ Việt Nam. Ngày 20/7/2019 Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra một Thông báo khá dài cho thấy một sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với Việt Nam trong một tranh cãi gay gắt với nước láng giềng và thể hiện lập trường mạnh mẽ của Mỹvề vụ việc được nói là tàu Trung Quốc cản trở hoạt động dầu khí của các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Nội dung Thông báo này, đã lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép, cáo buộc nước này có "hành vi bắt nạt" và "làm suy yếu hòa bình và an ninh khu vực" giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông.
Thông báo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có đoạn viết :
"Việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn đang tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa, cùng với những nỗ lực khác để khẳng định các yêu sách hàng hải bất hợp pháp ở Biển Nam Trung Hoa, bao gồm việc sử dụng dân quân hàng hải để hăm dọa, cưỡng ép và đe dọa các quốc gia khác, làm suy yếu hòa bình và an ninh của khu vực…".
Và rằng :
"Mỹ kiên quyết phản đối sự cưỡng ép và đe dọa của bất kì nước tuyên bố chủ quyền nào nhằm khẳng định các yêu sách lãnh thổ hoặc hàng hải của mình.
Trung Quốc nên chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế thực hiện loại hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này…".
Cố vấn an ninh quốc gia Nhà Trắng John Bosten hôm thứ Sáu 18/7 cũng viết trên Twitter với ý tương tự nhắm vào Trung Quốc dù không nhắc cụ thể tới vụ tranh chấp với Việt Nam, rằng :
"Hành vi cưỡng ép của Trung Quốc đối với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa hòa bình & ổn định trong khu vực…".
Đồng thời trên thực tế, Tư lệnh Tuần duyên Mỹ Karl L. Schultz cũng nhấn mạnh với báo chí hôm 23/7 rằng Tuần duyên Mỹ (USCG) tiếp tục quan hệ hợp tác với Cảnh sát biển Việt Nam và tái khẳng định cam kết lâu dài đối với an ninh khu vực trong bối cảnh tình hình Biển Đông tiếp tục phức tạp. Ông nói :
"Chúng tôi đang hợp tác rất chặt chẽ với Việt Nam và Hà Nội đã tăng cường sức mạnh của lực lượng cảnh sát biển lên rất nhiều".
Mặt khác, phản ứng mạnh bạo bất thường của Việt Nam còn là do đánh giá được phản ứng của Trung Quốc bị hạn chế bởi vùng tranh chấp lần này ở một vị trí đang có một công ty khai thác dầu khí của Nga với kỹ thuật khai thác dầu khí của một công ty Nhật. Vì thế, Trung Quốc không dám hung hăng ra tối hậu thư như vài năm trước đây, đã ép buộc Việt Nam không được để cho công ty Repsol của Tây Ban Nha tiếp tục hợp đồng khai thác dầu khí ở một lô nằm trong thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Mặc dầu cho đến lúc này, chính phủ Nga vẫn giữ im lặng. Nhưng theo nhận định của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, Nga không lên tiếng, nhưng sẽ không bao giờ rút giàn khoan như công ty khai tháp dầu khí của Tây ban Nha, mà sẽ khai thác cho đến khi hết cạn túi dầu. Ông nói với VOA, rằng :
"Có thể khẳng định rằng người Nga có nói gì hay không nói gì thì doanh nghiệp Nga đó chỉ rút về khi hết dầu, hết khí thôi. Tức là họ sẽ không rút. Người Nga khai thác ở vùng biển Việt Nam từ năm 1978. Người Nga rất hiểu luật. Họ có tuyên bố, có nói gì hay không, cũng không thay đổi hiện trạng là công ty Rosneft và công ty khác của Nga, không bao giờ người ta rút cả".
Chính vì những yếu tố có được trong quan hệ với Hoa Kỳ và sự có mặt của hai công ty Nga, Nhật nơi vùng đang tranh chấp, cũng như biết được hành động ngang ngược của Trung Quốc mang tính thăm dò phản ứng các bên có liên quan, Việt Nam đã quốc tế hóa được việc giải quyết tranh chấp đa phương, đo lường được mức độ phản ứng của Trung Quốc nên mới dám tỏ thái độ cương quyết, mạnh bạo như thế. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong cuộc họp báo ngày 19/7 nói :
"Duy trì trật tự, hòa bình, an ninh ở khu vực Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực cũng như cộng đồng quốc tế".
Và,
"Do đó, Việt Nam mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này".
3. Tuy nhiên Việt Nam vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối ứng thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sự không cân sức với Trung Quốc, bất lợi cho Việt Nam.
Cung cách đối ứng mềm dẻo này, đã được người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam lặp lại chủ trương của Việt Nam từ trước tới giờ là giải quyết tranh chấp, bất đồng, bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS). Trong vụ giai quyết tranh chấp hiện hiện nay trên thực tế, người phát ngôn nói là Việt Nam đang theo đuổi các kênh ngoại giao, vận động quốc tế. Nhưng không rõ có nối tiếp hành đồng pháp lý là kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) như Philippines đã khởi kiện năm 2013 và thắng kiện Trung Quốc năm 2016. Mặc dầu phán quyết này không buộc được Trung Quốc thi hành và cơ quan tài phán này cũng không thể có biện pháp cưỡng hành. Thế nhưng ít ra cũng có thêm bằng chứng pháp lý trong hồ sơ bảo vệ chủ quyền biển đảo thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam để trong tương lai, khi có thời cơ thuận lợi, sẽ đòi lại các đảo bị Trung Quốc cưỡng đoạt bằng giải pháp pháp lý.
Bên lề Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở Washington D.C. hôm 24/7, bà Bonnie Glaser, Giám đốc Chương trình Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, đã trả lời VOA về làm sao Việt Nam có thể ngăn ngừa những vụ xâm phạm tương tự như thế trong tương lai, bà nói ‘khởi sự kiện Trung Quốc sẽ là một bước đi rất hay’. Và rằng "Đó sẽ là một bước đi rất quan trọng và tôi sẽ không đánh giá thấp tác động của nó (đối với Trung Quốc) ".
III. Kết luận
Trước hành động ngang nhiên đưa tàu thăm dò "Hải Dương Địa Chất 8" và các tàu hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc vào gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu, đến thái độ và lời nói mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối phó thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sư không cân sức, bất lợi cho Việt Nam.
Nhưng hiệu quả của đối sách này thế nào : liệu Trung Quốc có rút êm các tàu của họ vô điều kiện hay có điều kiện gì ? Hay trong tình thế căng thẳng hiện nay liệu có dẫn đến nguy cơ nổ súng như Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp lo ngại". Sẽ đến lúc mà không kiềm chế được là sẽ có bắn nhau. Nó sẽ xảy ra như thế nếu như người Trung Quốc trong thời gian tới không rút…". Tất cả đều ở phía trước, chúng ta hãy chờ xem, hiệu quả thực tế không lâu lắm đâu.
Thiện Ý
Houston, ngày 25/7/2019
Tin truyền thông cho hay, sáng ngày 2/7/2019, Công an tỉnh Khánh Hòa đã khởi tố, tiến hành khám xét chỗ ở và nơi làm việc của Luật sư nhân quyền Trần Vũ Hải tại Hà Nội, với cáo buộc "trốn thuế". Nhưng cơ quan điều tra lại thu giữ hồ sơ liên quan đến Blogger Trương Duy Nhất.
Trang Tuổi Trẻ Online hôm 2/7 loan tin rằng Cơ quan điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa ra quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với vợ chồng luật sư Trần Vũ Hải về hành vi được coi là "giúp sức cho người bán đất trốn thuế".
Luật sư Trần Vũ Hải. Photo Facebook Vu Hai Tran
Sau khi đọc bản tin trên, chúng tôi liên tưởng đến thân phận của các luật sư trong các chế độ xã hội chủ nghĩa thiết lập trên nền tảng chủ nghĩa cộng sản nói chung, chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Từ sự liên tưởng này, chúng tôi so sánh thân phận của giới luật sư với thân phận người dân thường trong chế độ hiện nay tại Việt Nam, để thấy rằng quyền an toàn cá nhân về mặt pháp lý cũng như thực tế đều không được bảo đảm, chỉ khác nhau đôi chút. Đồng thời, thân phận của luật sư cũng như người dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa (duy vật) có khi còn tệ hại hơn nhiều so với các chế độ độc tài các kiểu từng có trong lịch sử hình thành các chế độ chính trị của loài người trên nền tảng duy thần,duy tâm, như giáo chủ chuyên chế, quân chủ chuyên chế, độc tài phát-xít, độc tài quân phiệt…Thật vậy,
1. Thân phận luật sư và người dân thường trong chế độ độc tài toàn trị xã hội chủ nghĩa, quyền an toàn cá nhân về pháp lý cũng như thực tế đều không được bảo đảm, chỉ khác nhau đôi chút.
Chẳng hạn với giới luật sư, nhà cầm quyền Việt Nam thận trọng hơn, chuẩn bị cẩn thận hơn dân thường về mặt pháp lý, cũng như thực tế, mỗi khi muốn trấn áp một luật sư có các hoạt động bất lợi, không phù hợp với chế độ.
Thật vậy, đối với dân thường, nhà cầm quyền có thể bắt bớ, giam cầm, bạo hành dễ dàng, vì nghĩ rằng người dân ít am tường luật pháp hay liệt ý chí phản kháng, luôn lo sợ không giám khiếu nại kêu oan do lâu ngày sống bị áp chế dưới chế độ "công an trị", nên thường câm lăng chịu đựng, với tâm trạng an phận, "tránh voi chẳng xấu mặt nào". Nhưng với luật sư thì không dễ dàng, nên cần thận trọng chuẩn bị kỹ càng về mặt pháp lý cũng như bạo hành trấn áp trên thực tế.
Về mặt pháp lý, như muốn khởi tố một luật sư nhân quyền được công luận biết đến, như luật sư Trần Vũ Hải (do có nhiều thành tích bào chữa, hỗ trợ pháp lý cho dân oan, thấp cổ bé miệng… để bảo vệ cho các quyền lợi hợp pháp, chính đáng bị nhà cầm quyền xâm hại…) thì nhà cầm quyền phải dàn dựng cẩn thận, có bài bản như là do vi phạm pháp luật là "giúp sức cho người bán đất trốn thuế".. Thế nhưng khi khám xét chỗ ở và nơi làm việc của Luật sư nhân quyền Trần Vũ Hải tại Hà Nội, cơ quan điều tra lại thu giữ hồ sơ liên quan đến Blogger Trương Duy Nhất, một nhà bất đồng chính kiến đang được luật sư Trần Vũ Hải nhận bảo vệ pháp lý. Sự thể này đã khiến công luật nghi ngờ việc nhà cầm quyền Việt Nam khởi tố Luật sự Trần Vũ Hải về tội trốn thuế một cách gượng ép, thiếu cơ sở pháp lý, chỉ là sự dàn dựng để có cớ thực hiện ý đồ đàn áp chính trị. Sự nghi ngờ này đã trở thành sự thật, khi mới đây, ngày 11/7 cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an chính thức thông báo từ chối cho phép Luật sư Trần Vũ Hải làm luật sư bào chữa cho nhà báo-blogger Trương Duy Nhất với lý do đang bị khởi tố tội trốn thuế, dù luật sư Hải đã nộp đơn xin biện hộ từ 3 tháng trước không được trả lời.
Như vậy là nhà cầm quyền Việt Nam đã cố tình và có dự mưu thực hiện ý đồ khủng bố, trấn áp một luật sư nhân quyền Trần Vũ Hải là người từng tham gia bào chữa trong rất nhiều vụ án được xem là "nhạy cảm" ở Việt Nam, như vụ dân oan mất đất ở Văn Giang, vụ Đồng Tâm, Thủ Thiêm, vụ Cù Huy Hà Vũ… và gần đây là vụ cưỡng chế Vườn rau Lộc Hưng. Việc nhà cầm quyền Việt Nam không cho ls. Trần Vũ Hải bào chữa cho nhà bất đồng chính kiến Trương Duy Nhất, một người đã đào thoát qua Thái Lan xin tỵ nạn chính trị thì bị mật vụ Việt Nam bắt cóc đem về nước xét tội, là hành động bắt cóc một người trên đất nước một quốc gia khác, đã bị công luận lên án là đã vi phạm trắng trợn tư pháp và công pháp quốc tế. Đồng thời, việc tịch thu tài liệu hồ sơ nhiệm cách của luật sư không liên quan đến tối danh bị truy tố, là xâm phạm thô bạo quyền hành nghề của luật sư(bí mật nghề nghiệp) trong tương quan với thân chủ. Công luận bất bình và coi hành động này của nhà cầm quyền Việt Nam có chủ đích khủng bố, đe dọa, ngăn chặn, loại trừ một luật sư có nhiều thành tích bảo vệ pháp lý và nhân quyền cho nhiều người dân oan và các nhà bất đồng chính kiến bị bắt cầm tù bao lâu nay.
Về mặt trấn áp, bạo hành thực tế, như các vụ công an bạo hành người dân thường công khai ngoài đường phố gây thương tích hay đánh đập, tra tấn đến vong mạng trong nhà giam, xảy ra nhiều hơn các vụ việc xẩy ra cho các luật sư. Thực tế, chưa thấy có luật sư nào bị bắt cầm tù, tra tấn đến vong mạng như các thường dân. Nếu có hành hung gây thương tích nặng nhẹ cho một luật sư trên đường phố (như luật sư Võ An Đông và một số luật sư khác trong quá khứ xa gần…) thì công an thường giả dạng thường dân hay dùng côn đồ tấn công bất ngờ gây thương tích cho nạn nhân để nhà cầm quyền dễ phủi tay không chịu trách nhiệm.
2. Thân phận của luật sư cũng như người dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa (duy vật) có khi còn tệ hại hơn nhiều so với các chế độ độc tài các kiểu có trong lịch sử hình thành các chế độ chính trị của loài người. Vì sao ?
Vì chế độ xã hội chủ nghĩa là thể chế chính trị ra đời sau các chế độ độc tài hay hay chuyên chính như : giáo chủ chuyên chính, quân chủ chuyên chính, độc tài phát-xít, độc tài quân phiệt…nên đã tổng hợp được tất cả những tệ hại của các chế độ độc tài này để thành một chế độ "Độc tài toàn trị xã hội chủ nghĩa" (hay cộng sản chủ nghĩa).
Vì là chế độ độc tài toàn trị nên chế độ xã hội chủ nghĩa thể hiện sự cai trị độc đoán, độc tôn, độc quyền trên mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa, giáo dục …Và do đó dẫn đến các hệ quả tệ hại hơn nhiều so với các chế độ độc tài các kiểu hình thành trước nó.
Riêng với giới luật sư, một nghề nghiệp hình thành từ Phương Tây sau cuộc cách mạnh nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789.lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, thiết lập nền cộng hòa Pháp quốc. Theo tiến trình thời gian nghề luật sư hình thành ở nhiều nước có chế độ dân chủ pháp trị, với nguyên tắc tam quyền phận lập (lập pháp, hành pháp và tư pháp) độc lập nhưng không biệt lập mà tác động qua lại để quân bình quyền lực cai trị, thực thi và bảo vệ các quyền dân chủ, dân sinh, dân quyền. Luật sư trở thành một định chế pháp lý. Theo đó, luật sư đóng vai trò phụ tá công lý làm nhiệm vụ bảo vệ cho các quyền lợi hợp pháp chính đáng cho những công dân nhờ cậy (thân chủ) hay tự nguyện, trước các cơ quan có thẩm quyền (như Tòa án,cơ quan chính quyền, các diễn đàn pháp lý…). Khi thực thi năng quyền này, luật sư chỉ căn cứ và tuân thủ pháp luật, độc lập, không chịu sự chỉ đạo và áp lực của bất cứ thế lực nào. Có lẽ chính vai trò này mà luật sư thường trở thành kẻ thù của các chế độ độc tài, nên không được các nhà cầm quyền trong các chế độ độc tài các kiểu ưa thích.
Chẳng thế mà Đại đếNapoléon Bonaparte của Pháp (1769 - 1821) đã từng tuyên bố(nhưng không dám làm, vì biết không thể làm được), rằng "nếu ta có thể cắt được hết lưỡi của các tên luật sư (vì dám chống lại ông ta) thì ta cũng sẽ làm ngay". Vì Năm 1799, Napoléon đã tổ chức một cuộc đảo chính và tự đưa mình trở thành vị Tổng tài thứ nhất ; 5 năm sau đó ép Thượng viện Pháp tấn phong ông là Hoàng đế Pháp quốc. Giới luật sư là thành phần chống đối hàng đầu vì Napoléon đã tái lập đế chế quân chủ đã bị cuộc cách mạng 1789 tiêu hủy, trở thành nhà độc tài với câu tuyến bố bất hủ, rằng "Luật là ta, Ta là luật" (Loi, c'est moi. Moi, c'est la loi") với ý nghĩa tương tự "Đảng ta là luật, luật là Đảng ta" trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên có khác, nếu Napoléon là một nhà độc tài, nhưng trong thời gian là Hoàng đế của người Pháp (1804-1815) Ông đã thực hiện được cuộc cải cách pháp luật theo hướng dân chủ. Bộ luật Napoléon, đã có những ảnh hưởng lớn lên nhiều bộ luật dân sự trên toàn thế giới. Trong khi "Đảng ta" trong chế độ độc tài đảng trị, cai trị toàn cõi đất nước gần nửa Thế Kỷ qua, trước đòi hỏi của nhân dân và xu thế thời đại, vẫn chỉ thực hiện "cải cách luật pháp" một cách chậm chạp, theo hướng cố bảo vệ chế độ độc tài để kéo dài quyền thống trị độc tôn. Tất nhiên, "Đảng ta" cũng không ưa thích gì giới luật sư và nếu có thể bịt miệng, bỏ tù được tất cả những tên luật sư nào dám "thề bảo vệ công lý" cũng là ước muốn khó đạt của "Đảng ta". Một điều "Đảng ta" hơn hẳn đại đế Napoléon và giống chế độ quân chủ chuyên chế thời vua Louis 16 Pháp quốc bị cuộc cách mạng dân quyền 1789 giật sập. Nghĩa là công an Việt Nam bí mật bắt cóc người chống đối chế độ(như nhà báo Trương Duy Nhất và nhiều nạn nhân khác…), không thông báo cho thân nhân, giống như là "chế độ mật chỉ" của nhà vua Pháp quốc bắt những người chống đối giam vào ngục Bastile, một biểu tưởng của chế độ vương quyền chuyên chế Pháp. Đến khi nhà ngục này bị cách mạng phá bỏ mới hay nhiều người đột nhiên mất tích nhiều năm, nay mới biết bị nhà vua ra "mật chỉ" bắt nhốt vào đây và nhiều người đã chết…
Tựu chung, thân phận của các luật sư cũng như nhân dân trong các chế độ độc tài toàn trị xã hội chủ nghĩa như Việt Nam nhìn chung đều giống nhau về an toàn pháp lý cũng như thực tế, đều mang thân phận như "cá nằm trên thớt". Có khác chăng, như về pháp lý, muốn khởi tố một luật sư nhân quyền được công luận biết đến, như luật sư Trần Vũ Hải, thì nhà cầm quyền phải dàn dựng cẩn thận, có bài bản như là do vi phạm pháp luật là "giúp sức cho người bán đất trốn thuế".để che đây ý đồ đàn áp chính trị. Về mặt trấn áp thực tế, như các vụ công an bạo hành người dân thường công khai ngoài đường phố gây thương tích hay đánh đập, tra tấn đến vong mạng trong nhà giam, thì thường xảy ra nhiều hơn cho người dân và chưa có trường hợp nào xẩy ra cho các luật sư.
Houston, ngày 12/07/2019
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 12/07/2019
Theo tin tổng hợp truyền thông quốc tế và Việt Nam, thì sau nhiều tuần lễ vắng mặt, Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ngày 6/6 tái xuất hiện qua một văn bản chỉ đạo công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp hướng tới Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào năm tới 2020. Trong văn bản này, đã "kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội" và "tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng"là 2 trong số các "quan điểm định hướng" mà ông Trọng nhấn mạnh cần phải "quán triệt".
Tại sao ông Trọng vẫn ‘kiên định chủ nghĩa xã hội’ ?
I - Câu hỏi được nhiều người đặt ra
Là vì sao đến giờ này mà người đứng đầu đảng và nhà nước Việt Nam vẫn"kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội" là thế nào ? Bởi vì, ai cũng thấy là chủ nghĩa xã hội đã ở vào giờ Thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để(1975-1985) dù cố gắng "Đổi mới" 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương "Cải tổ" của Liên Xô vẫn không cứu vãn được ; phải "mở cửa"cho các nước tư bản tràn vào để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Từ đó, Việt Nam, đã từng bước vượt qua khó khăn, khắc phục những hậu quả nghiêm trọng, toàn diện do xây dựng chủ nghĩa xã hội thất bại thảm hại gây ra. Đồng thời nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và nâng cao và nhà cầm quyền đã phải từng bước trao trả cho người dân các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền từng bị tước đoạt nhiều năm trước đó. Mặc dù đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có ngụy biện cách nào, thì người dân ai cũng biết tất cả thực tế này không phải do "chủ nghĩa xã hội" mà có được. Thực tế là nhờ con đường làm ăn "Kinh tế thị trường, theo định hướng tư bản chủ nghĩa" (là thật) dù "đảng ta" có ngụy biện là "Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (là giả) thì cũng chẳng ai tin. Ngay chính Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam cũng còn hoài nghi đến cuối Thế kỷ này không biết đã có xã hội chủ nghĩa hay chưa mà.
Sau đây chúng tôi thử đưa ra câu trả lời tổng quát cho câu hỏi vừa nêu. Theo đó, chúng tôi cho rằng trong tình cảnh lỡ chọn lầm đường (xã hội chủ nghĩa) dẫn đến hậu quả nghiêm trọng toàn diện cho dất nước về đối ngoại cũng như đối nội bao lâu nay.Nhưng vì thể diện và uy tín của tập đoàn muốn tiếp tục nắm giữ độc quyền thống trị trong một chế độ độc tài toàn trị,Ông Trọng và Đảng cộng sản Việt Nam, cần phải tiếp tục chủ trương, chính sách lừa dối nhân dân bằng ngụy biện thêm một thời gian nữa, cho đến khi hoàn tất tiến trình "xoay trục" về đối ngoại cũng như đối nội, mà họ cho rằng theo hướng có lợi cho đảng và đất nước. Do đó, tiến trình xoay trục này cần do họ chủ động, diễn ra tịnh tiến sẽ giúp giai cấp cầm quyền "hạ cánh an toàn", không kết thúc bi thảm như số phận các chế độ độc tài các kiểu trước đây trên thế giới, với hy vọng còn có cơ hội giữ được phần nào tài sản, quyền lợi kế thừa cho con cháu mà các cán bộ đảng viên đã tạo dựng được trong những năm cầm quyền. Nghĩa là, cho đến khi kết thúc quá trình "xoay trục" này, đảng cầm quyền vẫn phải tiếp tục giả danh "Đảng cộng sản Việt Nam", vẫn độc quyền thống trị trong chế độ giả hiệu "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (dù thực tế cũng như thực chất đảng và chế độ này đã chết lâm sàng từ lâu về bản thể…). Đồng thời, dù thực tế đã và đang theo con đường "kinh thế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa" song "Đảng ta" vẫn phải chơi trò gian thương "treo đầu dê, bàn thịt chó", ngụy biện rằng "Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa".Và vì vậy, để bảo đảm cho tiến trình "Xoay trục"này theo đúng hướng, Ông Trọng mới chỉ đạo cho Đại Hội 13 của Đảng cộng sản Việt Nam, phải "kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội" và "tăng cường vai trò lãnh đạo củ a Đảng" để chủ động thực hiện kịch bản "lộng giả thành chân" này.
II - Tiến trình xoay trục đối ngoại cũng như đối nội
1. Xoay trục đối ngoại thế nào ?
Ai cũng thấy là vì những vướng mắc nặng nề của quá khứ trong cuộc chiến cộng sản hóa Miền Nam (1954-1975), cùng với sự thất bại hoàn toàn tham vọng đưa cả nước "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" sau cuộc chiến, đã đưa Việt Nam đến sự lệ thuộc Trung Quốc nhiều mặt và bị chèn ép đủ điều. Hệ quả này đã khiến các thế hệ lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không thể thực hiện một chính sách đối ngoại độc lập tự chủ được.
Vì vậy, Việt Nam trên nguyên tắc, từ sau thời kỳ "Mở cửa" dường như đã có nỗ lực thoát dần "vòng Kim cô đỏ" của Trung Quốc bằng cách "đa phương hóa" về đối ngoại. Theo đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao song phương cũng như đa phương với mọi quốc gia và làm ăn với các tổ chức kinh tế quốc tế, trên cơ sở tôn trọng độc lâp chủ quyền của nhau và đôi bên cùng có lợi. Đồng thời, Việt Nam cũng thực hiện chủ trương không liên minh quân sự với nước nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam…
Đặc biệt, trong quan hệ với hai cường quốc hàng đầu là Hòa Kỳ và Trung quốc, nhà cầm quyền Việt Nam đã thực hiện "chính sách đối ngoại đi dây", cố gắng giữ thế quân bình để không làm phật ý Bắc Kinh. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dầu cộng sản Hà Nội đã hết sức nhún nhường, tỏ ra thân Trung Quốc hơn Hoa Kỳ, tỏ rõ sự thần phục, nhưng Bắc kinh vẫn ỷ thế mạnh ngày một lấn lướt, ức hiếp Việt Nam, nhất là trên vấn đề tranh chấp chủ quyển hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như khai thác tài nguyên ở Biển Đông. Chính vì vậy mà dường như đảng và nhà đương quyền Việt Nam đã và đang thực hiện một chính sách "xoay trục đối ngoại" trong quan hệ với Trung quốc và với Hoa Kỳ ?
Đó là chính sách đối ngoại hai mặt : bên ngoài Việt Nam vẫn tỏ ra kiên định trong "chính sách đối ngoại đi dây" giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Nhưng bên trong, Việt Nam đã và đang kín đáo, thận trọng, ngày càng nghiêng dần về phía Hoa Kỳ qua các hình thức trao đổi quân sự song phương có vẻ bình thường, gia tăng theo một tốc độ vừa phải để không đưa Việt Nam vào thế đối đầu với Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng tỏ ra cảm thông và tìm cách tránh cho Việt Nam rơi vào tình trạng khiêu khích Trung Cộng, dù Hoa Kỳ thực sự cũng cần và cũng muốn Việt Nam nghiêng hẳn về mình, tạo thuận lợi cho chính sách bao vây gián chỉ tham vọng bá quyền và xâm lấn biển đảo các quốc gia trong vùng của Trung quốc, trong đó có Việt Nam. Một số hoạt động trao đổi quân sự, quốc phòng song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong thời gian gần đây mà ai cũng thấy, phải chăng là những dấu hiệu đã thể hiện cụ thể cho chính sách ngọai giao xoay trục này của Việt Nam ?
Tất nhiên, Trung Quốc chắc cũng đoán biết được ý đồ"xoay trục đối ngoại" này của Việt Nam. Nhưng chúng tôi nghĩ, vấn đề là lãnh đạo Việt Nam có đủ khôn ngoan, tránh né được những đòn cản hay trừng phạt của Trung Quốc, để hoàn tất ở cuối quá trình xoay trục một thế dựa vững chắc để "thoát Trung", trong thế chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình dương mà Hoa Kỳ và các cường quốc đồng minh đã và đang thực hiện nhằm bảo vệ cho các quốc gia nhỏ yếu trong vùng, trong đó có Việt Nam, trước tham vọng của bá quyền Trung quốc.
Một số sự kiện mới đây theo chiều hướng này có lợi cho chính sách "xoay trục đối ngoại" của Việt Nam được truyền thông loan tải :
Tại hội thảo nhan đề ‘Diễn đàn Ngoại giao Meridian : Các nước sông Mê Kông’ do Trung tâm Quốc tế Meridian tổ chức hôm 6/6 tại thủ đô Washington D.C.
Ông Mark Clark, quyền phó trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ, Văn phòng Đông Á và Thái Bình Dương sự vụ, phát biểu tại buổi hội thảo, rằng mặc dù 5 nước trong khu vực này chỉ có Thái Lan là nước có quan hệ đồng minh theo hiệp ước với Mỹ, nhưng Việt Nam lại được đánh giá là ‘đối tác ngày càng quan trọng’,
Ông Randall Schriver, trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách An ninh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cũng có nhận định như thế về tầm quan trọng của Việt Nam đối với Mỹ trong chiến lược an ninh mới của Washington trong khu vực.Ông chỉ ra liên tục các chính quyền Mỹ khác nhau đều đã tích cực xây dựng mối quan hệ với Việt Nam và cho rằng chính quyền của Tổng thống Donald Trump ‘đưa quan hệ này lên một mức độ cao hơn nữa’
Ông Jim Webb, cựu thượng nghị sĩ liên bang Hoa Kỳ, Trả lời câu hỏi của VOA rằng Mỹ có sẵn sàng nâng cấp quan hệ‘đối tác toàn diện’ Việt-Mỹ thành ‘đối tác chiến lược’ hay không, nói rằng ‘bất cứ khi nào chúng tôi có thể cải thiện quan hệ với Việt Nam thì chúng tôi nên làm’.
Trả lời câu hỏi cũng của VOA về làm sao Mỹ-Việt có thể mở rộng quan hệ chiến lược mà không chọc giận Trung Quốc, ông Webb lưu ý rằng Việt Nam‘luôn muốn đảm bảo rằng họ nằm ở giữa các cường quốc (tức không ngả về một bên nào)’.
2. Xoay trục đối nội thì sao ?
Để phù hợp với "xoay trục về đối ngoại" đảng và nhà cấm quyền cộng sản Việt Nam cũng đã và đang tìm cách "xoay trục về đối nội" trên hai trục chủ yếu là chính trị và kinh tế theo một tốc độ vừa phải, chủ động và có thể điều tiết được.
Bề ngoài bao lâu nay đảng và nhà cầm quyền Việt Nam vẫn khẳng định "đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị" nhưng thực tế ai cũng thấy "đổi mới kinh tế đã và đang đổi mới chính trị". Vì như chúng tôi đã lập luận trong các bài viết trước đây, rằng trong môi trường mật ngọt kinh tế thị trường "vi trùng độc tài" tiêu vong dần (mật ngọt chết ruồi mà) song song với "sinh trùng dân chủ" lớn dần. Sau một quá trình thời gian phù hợp, chế độ độc tài toàn trị sẽ chuyển đổi tịnh tiến qua chế độ dân chủ pháp trị theo quy luật duy vật biện chứng "lượng đổi, chất đổi" như con ngài sau một thời gian biến hóa thành con bướm, hay nước đun sôi đến 100 độ C thì bốc hơi. Chính vì vậy mà ông Tổng Trọng đã nhiều lần cảnh giác cán bộ đảng viên cộng sản về "âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch" và lưu ý hiện tượng "tự diễn biến, tự chuyển hóa" đang diễn ra trong nội bộ đảng ngày một nghiêm trọng. Chúng tôi đánh giá sự cảnh giác này của ông Trọng có tính chiếu lệ, vì hơn ai hết ông phải biết rõ đó là "chiều hướng tất yếu không thể đảo ngược". Kính tế thị trường tất yếu đi đến chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên, đa đảng, để rồi coi có đúng vậy không nào ?
Do đó nói gì thì nói, ông Trọng và đảng cầm quyền của ông vẫn đã và đang cố gắng chuyển đổi lý luận từ "lập trường giai cấp với chủ nghĩa xã hội" qua "lập trường dân tộc với chủ nghĩa yêu nước" để tìm sự hậu thuẫn của người dân. Đồng thời chuyển đổi thực tế từ độc tài toàn trị qua hướng dân chủ pháp trị để từng bước đáp ứng đòi hỏi chính đáng của nhân dân và xu thế thời đại. Mặc dầu bề ngoài đảng và nhà cầm quyền Việt Nam vẫn tỏ ra cứng rắn trong các biện pháp trấn áp các tiếng nói đối lập đấu tranh cho dân chủ, có thể chỉ là để chủ động được tiến trình xoay trục, tránh bất ổn chính trị xáo trộn xã hội thế thôi…
Phải chăng vì thế mà trong bài viết dài gần 7 trang gửi cho các cấp ủy đảng về công tác chuẩn bị đại hội, mà báo chí Việt Nam đồng loạt đăng tin vào ngày 6/6, người đứng đầu nhà nước và Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra 6 "quan điểm định hướng".
Ngoài hai quan điểm đầu tiên là "kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc (đang củng cố là thật) gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin (đã tiêu vong là động thái giả để che đậy), tư tưởng Hồ Chí Minh (là trờ về với chủ nghĩa yêu nước trước khi Ông Hồ đến với chủ nghĩa xã hội)" và "tăng cường vai trò của Đảng" (để chủ động được tiến trình xoay trục), ông Nguyễn Phú Trọng nhắc đến việc "phát huy dân chủ rộng rãi, tập hợp cao độ trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân", "chỉnh đốn Đảng", "nâng cao niềm tin" đối với Đảng, "đổi mới công tác nhân sự", tiếp tục phòng chống tham nhũng…
III - Kết luận
Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói thế nhưng không phải thế đâu. Ông chỉ đạo bằng văn bản cho các mục tiêu của Đại hội 13 cùa Đảng cộng sản Việt Nam, trong đó có "kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội" chỉ là mục tiêu giả vì "Thời thế thế thời phải thế" thôi. Sự kiên định mục tiêu này ông Tổng cũng chỉ nhắc lại định thức chung "Kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa" (đã là mục tiêu giả). Vì "kinh tế thị trường,(tất yếu) định hướng tư bản chủ nghĩa" (mới là mục tiêu thật mà Đảng đang hướng tới để có cái giai đoạn kinh tế tư bản phát triển trước đã,theo đúng lý luận của Marx, xã hội chủ nghĩa tính sau…).
Tuy nhiên ông Tổng và "Đảng ta" chắc thâm tâm cũng mong người dân thông cảm cho hoàn cảnh chẳng đặng đừng buộc phải "nói lái" không thể"nói thật" được. Vậy chúng ta chỉ còn cách "chờ xem" thực tế sự thật sẽ là thế nào ? Sự thật có phải ông Tổng và các lãnh đạo hàng đầu "Đảng và Nhà nước ta" đã và đang "xoay trục đối ngoại" cũng như"Xoay trục đối nội" theo chiếu hướng có lợi cho đất nước, phù hợp với ý nguyên của quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước hay không ?
Houston, ngày 12-6-2019
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 26/06/2019