Trong phần thuyết trình với Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Chiến lược Úc (Australian Strategic Policy Institute) tại thủ đô Canberra vào thứ Hai 7/05/2018 vừa qua, tướng Robert B. Brown thuộc Quân lực Hoa Kỳ nhận định rằng mặc dầu giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc vẫn còn tôn trọng chúng tôi (Hoa Kỳ), họ không còn sợ chúng tôi nữa [1].
Tập Cận Bình đang lãnh đạo nước Trung Hoa lục địa như một Hoàng đế của một thời xa xưa
Tướng Brown cho biết ông đã đi Trung Quốc nhiều lần năm ngoái, và trong một lần gặp các lãnh đạo quân sự hàng đầu của Quân đội Giải phóng Nhân dân, ông thấy cách cư xử của họ có gì khác mà phải một chặp lâu ông mới nhận ra. Đó là trước đây họ nể và sợ Hoa Kỳ, bây giờ họ chỉ còn nể chứ không sợ.
Tướng Brown cho rằng có một chút sợ là điều tốt. "Bạn cần có một chút sợ để biện pháp ngăn cản có thể hiệu quả".
Làm sao để Trung Quốc sợ Hoa Kỳ, hay có chút sợ nào đó đối với các quốc gia khác ?
Sự trổi dậy của Trung Quốc trong thời gian qua có lẽ là đề tài chính trị thế giới được bàn cãi và quan tâm nhiều nhất trên toàn cầu. Có người vẫn tin Trung Quốc sẽ trổi dậy trong hòa bình, sẽ chấp nhận trật tự thế giới tự do do Hoa Kỳ hình thành và lãnh đạo sau Thế Chiến Hai, và dù có lớn mạnh mấy đi nữa, họ sẽ không thể qua mặt Hoa Kỳ về kinh tế, quân sự và văn hóa (quyền lực mềm).
Có thật như vậy không ?
Về mặt văn hóa/văn minh thì Trung Quốc có lẽ sẽ không bao giờ qua mặt Hoa Kỳ bởi tiến trình lịch sử của họ, và các giá trị tự do và nhân phẩm, sẽ khó chinh phục được mấy ai trên thế giới hiện nay.
Về mặt kinh tế thì theo đà tăng trưởng hiện nay, Trung Quốc có thể qua mặt Hoa Kỳ trong vòng một thập niên rưỡi nữa, khoảng năm 2032 [2].
Về mặt quân sự thì sao ? Có lẽ còn lâu mới bắt kịp Hoa Kỳ. Nhưng khoảng cách đang rút ngắn dần. Khi tổng sản lượng của Trung Quốc càng tăng trưởng thì họ có nhiều khả năng hơn cho cuộc chạy đua siêu cường quốc. Chính sách quốc phòng Úc năm 2016 (The 2016 Australian Defence White Paper) nhận định rằng ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ ngang ngửa vào năm 2035 [3].
Hoa Kỳ nhận thức rất rõ khả năng và sức mạnh của mình, và biết rõ tư thế lãnh đạo của mình đang bị thách thức, do đó để tiếp tục lãnh đạo thế giới tự do thì chính Hoa Kỳ sẽ phải thay đổi. Tướng Brown cho biết các thế lực thù nghịch của Hoa Kỳ đã quan sát kỹ triết lý quân sự của Hoa Kỳ hơn 15 năm qua, nắm rõ quan niệm chiến đấu trên không gian và lãnh thổ một cách tuyến tính và dễ đoán (linear and predictable), cho nên họ có thể xây dựng khả năng để chuẩn bị phòng ngừa và ngăn cản sức mạnh Hoa Kỳ. Do đó mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ trong thời gian qua là chuyển đổi sang một hệ thống hoạt động đa miền (multi-domain), cho phép họ có thể vận dụng mọi lực lượng đang sẵn có cùng một lúc để đạt được ưu thế đa miền trên không, đất, biển, mạng và khoảng cách, trong đó yếu tố ảnh hưởng chiến lược là miền con người (human domain). Tướng Brown cho rằng đạt được mục tiêu hoạt động đa miền sẽ giúp cho Hoa Kỳ giữ thế lãnh đạo lâu dài, làm cho đối thủ của Hoa Kỳ phải sợ, vì chỉ khi biết sợ thì họ mới không ngu xuẩn để gây hấn, để dẫn đến chiến tranh. Điểm cốt lõi là làm cho đối thủ nhìn thấy nhiều rắc rối nan giải, và tính khó tiên đoán của Hoa Kỳ, để họ phải lo ngại.
Theo Trung tâm Nghiên cứu Lowy Institute, các chuyên gia phân tích nhận định rằng trong thế trận hiện nay Trung Quốc thật sự không có đồng minh quân sự, trong khi Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn, Nhật, Singapore, Tân Tây Lan và Mã Lai đều có đồng minh. Tiềm lực của Trung Quốc chỉ đứng thứ 8, sau các quốc gia này, trên Mạng Phòng Thủ (Defence Networks), được định nghĩa là "quan hệ đối tác đóng vai trò gia tăng tiềm lực về khả năng quân sự" [4].
Sức mạnh nguyên tử của Trung Quốc vẫn còn là một ẩn số khó tiên lường trong cuộc chạy đua ngôi vị lãnh đạo thế giới
Trong khi tướng Brown đến Úc để trình bày kế hoạch và chiến lược của Hoa Kỳ đối với các hiểm họa có thể có trong tương lai, thì cựu thủ tướng Úc, từng là ngoại trưởng, nói tiếng Hoa rành rõi, ông Kevin Rudd, được mời đến Hoa Kỳ vào tháng Ba vừa qua để trình bày nhận định của ông về Trung Quốc trước các lãnh đạo quân sự của Hoa Kỳ. Bài phát biểu của ông Rudd tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point tháng 3 năm 2018 được tóm tắc và phổ biến trên tạp chí Foreign Affairs vào ngày 10 tháng Năm. Trong bài "Tập Cận Bình nhìn thế giới như thế nào" (How Xi Jinping Views the World) ông Rudd đã phân tích quyền lợi/quan tâm cốt lõi nào đã hình thành cung cách hành xử của Trung Quốc trong thời gian qua và trong tương lai [5].
Ông Rudd cho rằng một phương cách mới để hiểu Tập Cận Bình và Trung Quốc hiện nay là một tập hợp bảy vòng tròn quan tâm/quyền lợi có cùng trung tâm điểm (concentric). Vòng một là trung tâm của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Vòng hai là sự thống nhất của đất nước/dân tộc. Vòng ba là tầm quan trọng của việc duy trì phát triển kinh tế vững ổn nhưng quân bình với vấn đề môi trường. Vòng bốn là kiểm soát tinh tế quan hệ với 14 quốc gia mà Trung Quốc có cùng biên giới. Vòng năm là phô trương sức mạnh hàng hãi khu vực (thủy lực). Vòng sáu là vận dụng sức mạnh kinh tế trên khắp các ngoại vi lục địa. Vòng bảy là từ từ cải tổ một phần, không phải tất cả, trật tự thế giới (dựa trên pháp luật) thời hậu chiến để qua thời gian phục vụ quyền lợi của mình tốt hơn.
Thành công hay không nằm trong các chiến lược cốt lõi ưu tiên này.
Lãnh đạo Trung Quốc, theo ông Rudd, đã quyết định vào thập niên 1990 và tái xác định trong thập niên đầu của thế kỷ 21 là không có sự thay đổi hệ thống nào cả, và Trung Quốc vẫn tiếp tục một nhà nước độc đảng. Lãnh đạo Trung Quốc cũng nhận định rằng Trung Quốc sẽ không thể trở thành một cường quốc toàn cầu nếu thiếu đi một đảng có khả năng tập trung quyền lực để lãnh đạo. Tuy ngày càng lớn mạnh trong vài thập niên qua, các lãnh đạo Trung Quốc vẫn một mực áp dụng chủ trương chính thống của Đặng Tiểu Bình "che giấu sức mạnh, chờ cơ hội tốt, không bao giờ dẫn đầu".
Tập trung quyền lực vào tay một người và sửa đổi lại Điều lệ Đảng để trở thành một cấp lãnh đạo suốt đời, theo Francis Fukuyama, Tập Cận Bình là một lãnh tụ đáng sợ
Nhưng ông Tập đã tách rời khỏi chủ trương đó. Từ khi nắm quyền, ông là người đẩy mạnh ý thức hệ chính trị trên các chính sách thực tiễn, mở rộng các chiến dịch tuyên truyền, đặc biệt làm lu mờ hình ảnh giữa Đảng và dân tộc. Theo ông Rudd, ông Tập nghĩ ông có thể đánh bại quan điểm lịch sử của Francis Fukuyama, trong đó biện luận rằng nền dân chủ cấp tiến kiểu Tây phương sẽ là hình thức chính phủ tồn tại sau cùng (tác phẩm nổi tiếng The End of History của Fukuyama). Với mục tiêu chính trị này, lại được tăng cường bởi khoa học kỹ thuật tiên tiến giúp cho nhà nước Trung Quốc có khả năng kiểm soát chặt chẽ (kể cả điểm tín dụng xã hội, kỹ thuật nhận diện mặt, lại được yểm trợ bởi nguyên cả bộ máy an ninh nội vụ lớn hơn cả Quân đội Nhân dân Trung Hoa), nhiều người Trung Quốc nghĩ là ông Tập có thể thành công.
Lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố trật tự thế giới hiện nay được hình thành bởi các thế lực Tây phương, mà chủ yếu là thực dân, sau Thế Chiến Hai, vì thế họ tất nhiên mong muốn một trật tự khác có lợi hơn cho họ. Ông Tập không có ý định giữ nguyên trạng nữa. Theo ông Rudd thì làm sao để tiếp cận với một Trung Hoa quả quyết là câu hỏi cho tất cả thế giới còn lại.
Từ khi lên thay thế Hồ Cẩm Đào trong vai trò Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cuối năm 2012 đến nay, Tập Cận Bình ngày càng thâu tóm quyền lực trong tay và loại trừ thành công hầu như tất cả đối thủ chính trị của mình. Được mệnh danh là "Chủ tịch của mọi thứ" (Đảng, Nhà nước và Quân đội), và nhiệm kỳ chủ tịch nước không còn bị giới hạn nữa vào ngày 17 tháng Ba năm 2018, ông Tập hiện nay không những là lãnh đạo quyền lực nhất sau thời Mao Trạch Đông mà còn có thể là chủ tịch muôn năm và muôn mặt.
Những nhận định của ông Rudd về Trung Quốc trên bình diện chính trị quốc tế, đặc biệt về vòng năm, sáu và bảy (sức mạnh hàng hãi, sức mạnh kinh tế và trật tự thế giới), có thể được kiểm chứng phần nào qua nhiều tài liệu và bằng chứng dồi dào hiện nay. Trường hợp cụ thể là nền chính trị và xã hội tại Úc, và Tân Tây Lan.
Úc và Tân Tây Lan là hai quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp từ Trung Quốc về mặt kinh tế và nhiều lãnh vực khác. Gần một năm trước, các phóng viên truyền hình của đài ABC cộng tác với một cơ quan truyền thông uy tín Fairfax tại Úc để thực hiện cuộc điều tra mang tên "Quyền lực và ảnh hưởng" của Trung Quốc [6]. Cuộc điều tra này làm chấn động dư luận Úc vì trước đó không mấy ai nắm rõ tầm ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Úc, đặc biệt về mặt chính trị và xã hội, như thế nào. Từ chuyện thượng nghị sĩ Sam Dastyari chỉ vì bị "mua chuộc" vài ngàn đô la mà đã phát biểu ngược lại quan điểm của Đảng Lao Động Úc, mà ông là đảng viên, về vấn đề Biển Đông. Cho đến những cánh tay nối dài của Đảng Cộng sản Trung Quốc, qua giới đại thương gia của họ ở Úc, đã tìm cách ủng hộ tài chánh các chính đảng để được gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp với các lãnh đạo chính trị hàng đầu, kể cả thủ tướng hay các bộ trưởng và cả phía đối lập. Các hoạt động này trãi dài trên nhiều lĩnh vực khác nhau, xâm nhập sâu vào cộng đồng người Hoa tự do ở đây, mua chuộc hâm dọa hay mua đứt các cơ quan truyền thông Hoa ngữ nào không chịu ủng hộ đường lối chính thống của Đảng và Nhà nước Trung Quốc v.v…
Vài tháng sau, giáo sư Clive Hamilton, một giáo sư chuyên về chính trị và chính sách trong lãnh vực Đạo đức công cộng (Public Ethics), dự tính cho ra mắt cuốn sách mới nhất của ông nghiên cứu chi tiết hơn về sự ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Úc. Trong cuốn sách "Xâm lược âm thầm : Sự ảnh hưởng của Trung Quốc lên nước Úc" (Silent invasion : China’s influence in Australia), ông cáo buộc rằng một chiến dịch có hệ thống về gián điệp và buôn bán ảnh hưởng của Trung Quốc đang dẫn đến "sự xói mòn chủ quyền của Úc" [7]. Tuy đã ký hợp đồng với nhà xuất bản Allen & Unwin để phát hành cuốn này, nhà xuất bản này, và sau đó hai nhà xuất bản khác, đã rút lại hợp đồng vì lo ngại sự trả đũa của Bắc Kinh và những người tại Úc đang ủng hộ cho chủ trương của Bắc Kinh. Dù gặp bao khó khăn, cuối cùng cuốn sách này cũng được phát hành vào tháng Hai năm nay bởi nhà xuất bản Hardie Grant. Cuốn sách này đã và đang gây rất nhiều tranh cãi vì đụng chạm đến bao nhiêu thế lực chính trị tại Úc, và đã gặp nhiều ủng hộ cũng như phê bình của giới nghiên cứu học thuật.
Giáo sư Hamilton đã công phu nghiên cứu và tập hợp rất nhiều dữ kiện khả tín để chứng minh các hoạt động tình báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Úc qua cơ cấu của các mạng lưới Hoa kiều của họ tại Úc và khắp nơi trên thế giới, phương thức và kỹ thuật họ áp dụng, cách họ vận động để mua ảnh hưởng lên chính trị gia Úc, cách họ giới hạn tự do học thuật, uy hiếp những ai phê bình họ, thâu thập thông tin tình báo cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, và ngay cả vận động sinh viên du học và người Trung Quốc đang sống tại Úc biểu tình chống lại chính quyền Úc về vấn đề Biển Đông. Hamilton đã trình bày chi tiết trong chương Hai bằng cách nào Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vực dậy được sau biến cố Thiên An Môn và sau khi gần như toàn bộ các nước cộng Sản và xã hội chủ nghĩa sụp đổ năm 1991. Họ đã tập trung xây dựng một thế hệ mới qua Chiến dịch Giáo dục Yêu nước, biện minh cho việc xây dựng xã hội chủ nghĩa với đặc tính Trung Hoa. Họ đã viết lại lịch sử, nhấn mạnh nỗi nhục của Trung Quốc trong thế kỷ qua bởi thực dân và thế lực ngoại bang, thể hiện khác vọng của người Trung Hoa để vượt lên nhưng không quên cay đắng và tủi nhục mà đất nước này đã từng trãi qua. Giờ đây họ không còn là nạn nhân nữa, họ là kẻ thắng cuộc. Chiến dịch giáo dục này chứng minh hiệu quả, vì trước đây nếu sinh viên học sinh tỏ vẻ chán nản học triết học Mác thì giờ đây dễ chấp nhận chính sách giáo dục yêu nước hơn.
Ông Hamilton phân tích rằng qua chương trình giáo dục và chính sách tuyên truyền tẫy não một cách hệ thống lên toàn xã hội, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được phần nào kết quả họ mong muốn vì họ biết rõ rằng kiểm soát được suy nghĩ của người dân là không cần đến nhu cầu kiểm soát hành động của người dân. Từ kết quả này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vạch ra những kế hoạch lớn cho người Trung Hoa ở nước ngoài. Họ tập trung tuyên truyền rằng tính cách riêng biệt của người Trung Hoa là một dân tộc đặc biệt, là biết yêu nước, không may trãi qua một thế kỷ đầy sỉ nhục, nhưng nhờ có Đảng nên mới có được quốc gia như vậy ngày nay, cho nên yêu Đảng là đồng nghĩa với yêu nước. Đảng chính là quốc gia. Tương tự kiểu tuyên truyền "Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa". Giang Trạch Dân cũng từng xem những ai không thể hiện tinh thần yêu nước là kẻ phản bội, là "cặn bã của thế gian". Tinh thần dân tộc Trung Hoa đã lên gần như tột đỉnh qua biến cố Thế Vận Hội năm 2008 khi họ biểu dương được sức mạnh Trung Hoa không chỉ nằm ở kinh tế thôi, họ có thể biểu diễn sức mạnh bằng huy chương vàng, bạc v.v…
Giáo sư Hamilton có lối hành văn mạch lạc, sử dụng từ ngữ dễ hiểu, bằng chứng dữ liệu dồi dào, và cách viết khá lôi cuốn làm cho người đọc dán mắt vào từng trang sách. Trong chương Ba, ông Hamilton nói về "Qiaowu and the Chinese diaspora". Theo giáo sư chính trị học James Jiann Hua To, người nghiên cứu chi tiết và có thẩm quyền về chủ đề này, thì mục tiêu của Qiaowu là "vận động sự ủng hộ dành cho Bắc Kinh với những người mang bản sắc Trung Hoa nhưng không còn ở trong nước, bằng nhiều kỹ thuật tuyên truyền và quản lý tư tưởng khác nhau" [8]. Một điều đáng kể trong chương này là về câu chuyện của một số thành viên của cộng đồng người Hoa yêu chuộng tự do tại Úc. Câu Lạc bộ Chuyên gia Trung Quốc do họ thành lập đã bị các thành viên có khuynh hướng ủng hộ Bắc Kinh gia nhập, xong rồi áp dụng số đông để bầu lên một ban điều hành có quan hệ với Toà Đại sứ Trung Quốc tại Bắc Kinh. Jingping Cheng kết luận : "Họ đã sử dụng dân chủ để giết chết dân chủ".
Cộng đồng người Hoa yêu chuộng tự do ngày càng cô đơn và bị cô lập bởi các chính sách xâm nhập hiểm độc của Đảng Cộng sản Trung Quốc, qua các văn phòng đại sứ khắp Úc và tay chân nối dài. Họ không hiểu nỗi tại sao những người Trung Quốc mà vẫn còn thờ Bắc Kinh, vẫn còn coi Trung Hoa là mẫu quốc, đến Úc làm gì, và vào quốc tịch Úc làm gì. Họ cho rằng những ai có quan niệm như thế nên về Trung Quốc mà sống với chế độ với nhà nước đó đi.
Tại Tân Tây Lan, giáo sư chính trị học chuyên về Trung Quốc bà Anne-Marie Brady đã cho phổ biến một nghiên cứu giá trị mang tên "Vũ khí ma thuật" (Magic Weapons) vào năm ngoái, trình bày chi tiết lịch sử các chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc cho đến những năm gần đây, những chủ trương và chính sách đối nội, đối ngoại và đối với người Hoa Kiều, và những ảnh hưởng có thể có lên nền chính trị Tân Tây Lan [9]. Vào ngày 14 tháng Hai năm nay, nhà của bà và cả văn phòng ở đại học Canterburry đã bị đột nhập. Ba máy tính, kể cả máy bà sử dụng để viết bài nghiên cứu này, hai điện thoại cầm tay và một bộ nhớ đã mã hóa có chứa đựng các dữ kiện của chuyến đi Trung Quốc lần trước của bà, đã bị ăn cắp. Không những thế, họ còn để lại một lá thư răn đe bà Brady có thể bị tấn công [10].
Nếu họ dám công khai tấn công một học giả như bà Brady, và uy hiếp bao nhiêu người khác tại Úc và Tân Tây Lan nếu dám lên tiếng phê bình chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngay tại hai quốc gia này, thì chúng ta có thể hình dung được những người như Lưu Hiển Ba (Liu Xiaobo) hay các nhà dân chủ, các luật sư nhân quyền v.v… bị đối xử tệ hại đến mức nào ngay trên quê hương của họ !
Những nghiên cứu và nhận định của ông Hamilton đã thu hút sự quan tâm của quốc hội Hoa Kỳ. Vào ngày 26 tháng Tư, ông Hamilton và hai diễn giả khác đã được mời để trình bày về âm mưu của Trung Quốc tấn công vào nền dân chủ, trước quốc hội Hoa Kỳ - Ủy ban Điều hợp Quốc hội về Trung Hoa. Chủ đề ông thuyết trình là Chủ nghĩa Độc tài Điện tử và Mối Đe dọa Toàn cầu Đối với Tự do Ngôn luận (Digital Authoritarianism & The Global Threat to Free Speech) [11]. Ủy ban này xác nhận rằng trong thời gian qua sự tấn công bằng vũ lực đối với các nhà tranh đấu cho nhân quyền tại Trung Quốc và sự tấn công trên mạng đối với các nhóm hoạt động nhân quyền ở hải ngoại ngày càng gia tăng. Trong phần tường trình của mình, ông Hamilton nói ông đã được giới phản tình báo cho biết ông bị theo dõi bởi một số người lạ mặt trong thời gian qua, mà máy tính của ông có đầy các phần mềm độc hại. Ông Hamilton kết luận : "Tôi không đi tìm sự cảm thông. Nhưng tôi là một công dân của một nước dân chủ đề cao quyền tự do ngôn luận. Vì thể hiện quyền tự do ngôn luận của tôi để viết cuốn sách này mà bây giờ tôi phải dùng các bước cần thiết để tự bảo vệ mình đối với một quyền lực độc tài ngoài nước, và điều có đã xúc phạm đến tôi."
Nếu chiến lược và hành động của Trung Quốc như thế đối với các quốc gia có nền tảng chính trị và văn hóa vững chắc như Úc và Tân Tây Lan, thì chắc chắn đối với Việt Nam, một quốc gia chiếm vị thế địa chính trị vô cùng quan trọng, tham vọng này chắc chắn sâu xa hơn, thâm độc hơn. Như họ đã có với dân tộc chúng ta hàng ngàn năm qua. Nhưng họ đã và đang làm gì với Việt Nam, làm tới đâu, kết quả ra sao v.v… thì vẫn chưa có một cuộc nghiên cứu chi tiết với bằng chứng dữ liệu cụ thể nào. Làm sao có thể đối phó với hiểm họa quá lớn lao này khi lãnh đạo quốc gia và người dân không cùng chung một mối !? Người dân có biết, có hiểu, có quan tâm đến những gì đang xảy ra mà ảnh hưởng của nó không chỉ là hiện nay mà còn kéo dài cho bao nhiêu thế hệ mai sau !!!
Càng đọc các nghiên cứu chuyên sâu của các học giả Tây phương, kể cả những chuyên gia về
Trung Quốc như Perry Link, Andrew J. Nathan, Elizabeth Economy vân vân, tôi càng cảm thấy lo lắng cho hiểm họa lớn lao mà dân tộc Việt Nam đang đối diện. Không phải người Trung Quốc nào cũng có mộng bành trướng bá quyền như Tập Cận Bình. Những thành phần chống lại chủ trương của họ Tập, nhất là xu hướng dân chủ, đã bị trù dập và kiểm soát ngoặt nghèo. Nhưng xu hướng coi Trung Hoa là trung tâm của vũ trụ, và tất cả dưới thế gian này, ít hay nhiều, đều thuộc Trung Hoa, đang thắng thế, và đang tìm cách điều khiển mọi suy nghĩ và hành động của một tỷ bốn trăm triệu dân hiện nay, và 50 triệu Hoa Kiều ở khắp nơi. Với quan niệm chủ trương như thế, với tài nguyên nhân lực ngày càng dồi dào, với kế hoạch xâm nhập lũng đoạn và ảnh hưởng tối đa lên nền chính trị trên khắp thế giới, đặc biệt các nền dân chủ vững ổn, vận dụng khối Hoa Kiều khổng lồ để làm tai mắt và tay nối dài của họ, rõ ràng cuộc chiến tranh phi quy ước đã và đang âm thầm diễn ra. Cuộc chiến âm thầm này sẽ diễn tiến, bùng nổ và kết thúc như thế nào thì không ai hiện nay tiên đoán được.
Họ bây giờ không còn biết sợ ai ngay cả đối với Hoa Kỳ. Họ sẽ bất chấp mọi thủ đoạn để đạt cho được mục tiêu bá chủ. Thế giới tự do, và giá trị độc lập và tự do, đang phải đối diện với một mối đe dọa khủng khiếp trong những thập niên tới.
Chỉ có sức mạnh của trí tuệ, tình thương và lòng dũng cảm cao độ của cả một dân tộc, và của nhiều dân tộc liên minh với nhau trên thế giới, và liên minh với người Hoa yêu chuộng tự do trong và ngoài Trung Quốc, thì mới có thể cứu nguy được tình thế này. Nhưng điều quan trọng trước tiên là phải nhận thức ra được mối đe dọa này càng sớm càng tốt, trước khi quá muộn.
Bao nhiêu người dân Việt Nam, trong và ngoài nước, đã nhận thức được rõ ràng mối hiểm họa vô cùng to lớn này ?
Úc Châu, 14/05/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 14/05/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Brendan Nicholson, "A little bit of fear is a strong deterrent ", The Strategist, 8 May 2018.
2. Xem Fergal O'Brien, "China to Overtake U.S. Economy by 2032 as Asian Might Builds ", Bloomberg, 26 December 2017.
3. Department of Defence, Australian Government, "2016 Australian Defence White Paper ", 2016, trang 49.
4. Sam Roggeveen, "China is catching up to the US, except on this key measure ", Lowy Institute, 9 May 2018.
5. Kevin Rudd, "How Xi Jinping Views the World ", The Core Interests That Shape China's Behavior, Foreign Affairs, 10 May 2018.
6. ABC, "Power and influence ", 5 June 2017.
7. Clive Hamilton, "Silent invasion : China’s influence in Australia ", Hardie Grant, February 2018.
8. China Real Time Report, "Writing China : James Jiann Hua To, ‘Qiaowu : Extra-Territorial Policies for the Overseas Chinese ", 16 August 2014.
9. Anne-Marie Brady, "Magic Weapons : China's political influence activities under Xi Jinping ", Kissinger Institute on China and the United States, 18 September 2017.
10. Oliver Lewis, "Christchurch academic links break-ins to work on China's influence campaigns ", Stuff, 16 February 2018.
11. Congressional-Executive Commission on China, "Digital Authoritarianism & The Global Threat to Free Speech ", 26 April 2018. Muốn đọc bài tường trình của ông Hamilton thì bấm vào Clive Hamilton .
Trong mọi tổ chức chính trị, lớn hay nhỏ, triết lý chính trị là nền tảng quan trọng hàng đầu [1].
Sinh viên Hong Kong biểu tình phản đối quyết định xiết chặt cải cách bầu cử do Bắc Kinh ấn định, tháng Chín, 2012.
Triết lý chính trị là những kiến thức nền tảng vững chắc, bao gồm cả nguồn gốc lịch sử hình thành tư tưởng chính trị của nhân loại. Nó giúp uốn nén hình thành nên những tư tưởng lớn. Nhưng có kiến thức sâu rộng cũng chưa đủ vì như thế chỉ dừng lại ở tầm học thuật. Người lãnh đạo tầm quốc gia hay quốc tế cần phải có những ước mơ cao xa và những quyết tâm phi thường. Có tư tưởng lớn sẽ giúp lãnh đạo quốc gia lèo lái con thuyền vững ổn khi gặp thử thách trong thời đại lắm rủi ro này.
Tư tưởng lớn là có tầm nhìn lớn. Đối với trường hợp Việt Nam, chúng ta thật sự cần những lãnh đạo và tổ chức có tầm nhìn xa. Nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng về mặt tư tưởng chính trị thì làm sao đối phó với bao nhiêu thử thách vô cùng lớn lao trên bình diện quốc gia, một khi chế độ độc tài sụp đổ ! Đâu là những chính sách phát triển thích hợp cho đất nước về kinh tế, thương mại, giáo dục, an ninh quốc phòng, môi trường, văn hóa v.v. ?
Làm sao giải quyết những vấn nạn lớn của xã hội do chế độ độc tài để lại trong bao thập niên qua, từ độc đoán, tham nhũng, tội ác, cho đến các cơ sở hạ tầng hay các định chế nhà nước yếu ớt, vô hiệu quả ? Chính sách ngoại giao khôn khéo nào để đối phó với các thế lực ngoại bang, trong đó có Trung Quốc, luôn tìm cách thao túng và lũng đoạn nền chính trị dân chủ non trẻ ? Làm sao để nâng cao tinh thần tự lập, tự cường, nhân bản và dân chủ cho các thế hệ hôm nay và mai sau ? v.v.
Toàn là những vấn đề lớn và nhứt nhối, đòi hỏi trí tuệ, kinh nghiệm và tiềm năng của toàn dân tộc. Nhưng đầu tiên hết là những lãnh đạo chính trị có tầm nhìn để vạch ra hướng đi và tìm ra những giải pháp tối ưu cho đất nước. Nếu lãnh đạo quốc gia mà không suy nghĩ về các vấn đề này, thì làm sao họ có giải pháp thích hợp ? Khi thử thách đến mới tìm cách giải quyết trong thời đại này thì quá trễ rồi. Thử nhìn xem, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chỉ nghĩ đến việc lật đổ Việt Nam Cộng Hòa bằng mọi giá, nhưng họ hoàn toàn không có ý niệm hay dự án nào để xây dựng lại Việt Nam sau khi thống nhất ! Chỉ toàn là những ước mơ viễn vông, ảo tưởng về thiên đường cộng sản, vậy thôi !!!
Còn phần lớn người Việt, trong lẫn ngoài nước, hình như vẫn chưa đọc tác phẩm nào hay phần trích đoạn nào của các triết gia chính trị của thời kỳ Phục Hưng cho đến nay [2]. Họ coi các giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền như là khẩu hiệu hơn triết lý, như là phương tiện hơn mục tiêu sau cùng.
Nhưng tư tưởng chính trị sâu sắc vẫn chưa đủ, bởi muốn thay đổi thì cái lý thuyết hay học thuật chỉ là khởi đầu. Thực tế luôn khác với lý thuyết. Phải có đủ tiềm lực, và lãnh đạo tài tình, mới tạo ra những thay đổi tích cực và hiệu quả. Về mặt chính trị, mọi chế độ cầm quyền không tự nhiên nhường ghế cai trị cho người khác, trừ khi bị áp lực hay bắt buộc phải thay đổi. Các chế độ độc tài toàn trị còn hơn thế vì họ chủ trương nắm quyền bằng mọi giá và tiếp tục duy trì quyền lực bằng mọi giá. Cho nên muốn thay đổi hay thương lượng với họ mà không có đủ lực trong tay thì đừng mong đạt được điều gì vững ổn. Do đó những người muốn thay đổi thực trạng Việt Nam hôm nay không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc xây dựng các tổ chức của mình cho thật vững mạnh. Đến một lúc nào đó các tổ chức phải nỗ lực kết hợp nhau, hoặc liên kết chặt chẽ nhau, để hội tụ thành một vài chính đảng có tiềm năng tổ chức và tầm nhìn hầu có đủ sức mạnh tạo áp lực, thách thức hay cân bằng quyền lực của chế độ.
Tuy nhiên bước đầu tiên quan trọng nhất vẫn là xây dựng văn hóa đấu tranh có tổ chức [3]. Còn đấu tranh lẻ tẻ, vô tổ chức, vô định hướng, kiểu chơi nổi, trình diễn v.v., thì chẳng khác gì lấy trứng chọi đá, chỉ mất mát nhưng không đi đến đâu cả, cho dù tinh thần quyết tâm và can đảm đó thật đáng khâm phục đi nữa !
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bao nhiêu tổ chức đấu tranh như Phong trào Cần Vương (kể cả cuộc khởi nghĩa Yên Thế của ông Hoàng Hoa Thám), Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, cho đến các tổ chức cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, v.v. tất cả đều thất bại. Sau 30 tháng Tư năm 1975, nhiều tổ chức kháng chiến đã được hình thành nhưng rồi cũng đi đến thất bại. Hai thời điểm khác nhau nhưng có cùng lý do : thiếu nền tảng tư tưởng, thiếu tổ chức và thiếu lãnh đạo. Nên nhớ tổ chức nào đến với nhau cũng đều có một số quy ước chung để hoạt động, nhưng ở bình diện quốc gia, tổ chức và lãnh đạo đó phải có tư tưởng lớn, tầm nhìn chiến lược dài hạn và khả năng tổ chức ở bình diện quy mô để có thể huy động một phần đáng kể của bộ phận dân tộc cho mục tiêu thay đổi ngắn hạn và dài hạn.
Chỉ có Đảng Cộng sản/Lao động Việt Nam, trong bao nhiêu tổ chức khác, thành công trong cuộc cách mạng của thế kỷ qua, nhờ ba yếu tố chính. Một, mặc dầu là một hệ tư tưởng phản khoa học, ít ra họ có triết lý chính trị nhờ vay mượn từ chủ nghĩa cộng sản. Hai, dù rất sắt thép và bạo ngược, họ đấu tranh có tổ chức và kỷ luật. Ba, tuy hoàn toàn bất lương và mị dân, họ có khả năng tuyên truyền để người dân trong nước tin theo mục tiêu ảo tưởng của họ, và có khả năng vận động cộng sản quốc tế cũng như người dân ở các quốc gia tự do ủng hộ mục đích trá hình của họ.
Cho đến ngày hôm nay, tuy bộ mặt thật của chế độ đã được phơi bày, tuy chính nghĩa không còn đứng về phía họ bấy lâu nay, chế độ cầm quyền hiện tại vẫn còn đủ mạnh để tiếp tục cai trị một cách hà khắc, và tiếp tục đàn áp một cách thô bạo. Ai muốn chửi chế độ thì cứ chửi, nhưng không phải vì bị chửi mà họ sẽ sụp đổ. Không nên coi thường mọi khả năng và thủ đoạn của họ. Các lực lượng dân chủ nếu không nhìn ra được sức mạnh của chế độ ở đâu, làm thế nào họ duy trì được nó cho đến hôm nay, và nếu không nhìn thấy khả năng và sức mạnh thực sự của mình, tìm ra những phương cách mới để huy động được người dân, để vận dụng mặt trận quốc tế vận, thì cuộc vận động dân chủ sẽ không đi về đâu cả. Rồi cũng chỉ loay hoay, một bước tới hai bước lùi, như đã thấy hơn bốn thập niên qua.
Ở chỗ tôi làm, khi áp dụng một chính sách, một phương pháp hay một ý tưởng nào đó thành công, những người đồng nghiệp ở mọi cấp đều muốn tìm hiểu và học hỏi. Ngược lại, khi áp dụng thất bại, mà thất bại đó có những ảnh hưởng tiêu cực lên một số cá nhân hay một số thành phần trong xã hội, hay chỉ với một người thôi, thì cũng đủ lý do để rà soát lại toàn bộ hệ thống, toàn bộ khung sườn suy nghĩ (framework), để những sai lầm hay thất bại đó không tái diễn nữa.
Không phải chỉ chỗ làm của tôi thôi. Hầu như tinh thần chung ở mọi mặt xã hội tại Úc, và các quốc gia dân chủ cấp tiến và văn minh, đều như vậy cả. Đại đa số công dân ai cũng muốn thành công, không ai muốn thất bại, ngoại trừ những người lười biếng. Muốn thành công thì cần phải học cái hay cái đúng và tránh cái dở cái sai. Cái sai trong nền pháp trị thường phải trả giá rất đắc, về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Đó là tinh thần cầu tiến, khoa học, tự tin, liêm chính và trách nhiệm cần thiết để xây dựng đất nước và con người. Người Tây phương và quốc gia của họ, và một số quốc gia thuộc Á Châu sau này, trở nên hùng mạnh chủ yếu nhờ tinh thần cầu tiến không ngừng này để canh tân và hoàn thiện mọi mặt xã hội. Nhờ lối suy nghĩ phê phán, phân tích hệ thống và lý luận cao siêu, họ luôn nhận diện ra được những cái bất công bất toàn và bất lương trong xã hội và do đó họ luôn chấp nhận những ý kiến và sáng kiến mới để tìm cách cải thiện.
Thời gian đã quá đủ, nếu không phải là quá trễ, để nhìn lại và bình tâm phân tích nguyên do nào cuộc vận động dân chủ chưa thành công. Đâu là những bài học và kinh nghiệm cần thiết nhất để giúp nhau nhìn ra vấn đề, một cách khoa học và hệ thống, hầu có thể cùng nhau đi những bước tiến và vững trong thời gian tới ?
Trên tinh thần đó, tôi muốn trình bày ba đề nghị chính sau đây.
Một, nghiên cứu một cách hệ thống cuộc vận động dân chủ cho Việt Nam trong quá khứ và cho tương lai.
Muốn đẩy mạnh công cuộc dân chủ về phía trước thì người vận động phải là những tín đồ dân chủ thật sự. Nghĩa là phải có tư tưởng và hành động dân chủ. Không thể hô hào dân chủ mà hành xử độc đoán. Trong môi trường/văn hóa dân chủ, mọi người đều có quyền chia sẻ và bầy tỏ quan điểm của chính mình. Điều này đồng nghĩa với việc mình phải biết lắng nghe ý kiến người khác. Sự đóng góp ý kiến là một việc lành mạnh và luôn được khuyến khích. Nhưng thái độ đóng góp ý kiến, thái độ lắng nghe, thái độ tiếp cận ý kiến, mổ sẻ phân tích, vân vân, là điều mà tất cả chúng ta cần phải học hỏi. Người thiếu kiến thức, đuối lý, thiếu khả năng tranh luận nên cố gắng trau dồi kiến thức để có thể đóng góp tích cực hơn. Đừng quay ra sử dụng những ngôn ngữ thiếu đứng đắn, thiếu giáo dục. Cách lý luận gàn bướng trở thành hàm hồ, hay tệ hơn là đạp đổ. Những người có thái độ thiếu văn hóa trong việc góp ý đã tự công khai cho người khác khả năng yếu kém, thiếu kiến thức của mình.
Trên đây chỉ là một trong vô số các điều kiện cần thiết và căn bản cho cuộc vận động dân chủ. Nhưng để giúp mọi người nhìn ra được hướng đi và phương pháp rõ ràng, cụ thể thì phải cần nghiên cứu khoa học, khách quan. Cho nên cuộc điều nghiên này sẽ đưa ra những phân tích và kết luận cho những đề nghị cần thiết cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam trong một hoặc hai thập niên tới, dựa trên những thất bại đã qua và các thành công nhỏ, nếu có. Để có giá trị thì cuộc nghiên cứu này đòi hỏi tính chuyên môn cao và tính độc lập hoàn toàn.
Hai, phát huy khả năng suy nghĩ phê phán trong mọi tầng lớp người Việt trong và ngoài nước.
Cả một dân tộc từ ngàn năm qua bị đầu độc bởi những tư tưởng, chủ thuyết và các giá trị chính trị và văn hóa có mục tiêu phục vụ cho chế độ cầm quyền hơn cho người dân, trong đó có Khổng giáo và Cộng sản. Văn hóa chính trị là cản trở chính của người Việt trong nhiều thập niên qua. Tôn trọng bằng cấp, suy nghĩ cục bộ, chạy theo các sự kiện nhất thời, không có tính kỷ luật bảo mật, nặng hình thức nhẹ nội dung, thù dai v.v. là điều nên dứt đỏ càng sớm càng tốt. Mở mang trí tuệ để nghiên cứu học hỏi sự thành công lẫn thất bại của nền chính trị Tây phương là vô cùng cần thiết. Quan trọng nhất là lối suy nghĩ phê phán.
Tập trung đào tạo lối suy nghĩ phê phán cũng đồng nghĩa với việc giúp cho người ta có một cái nhìn mới, cái suy nghĩ mang tính đa chiều, chấp nhận khác biệt, bỏ bớt đi thói quen chụp mũ bừa bãi hay nghe răm rắp những lời ngon ngọt của các chính trị gia mị dân, chẳng hạn. Nó giúp cho người ta biết suy nghĩ chín chắn hơn, sử dụng lý luận để nhận định thay vì cảm xúc. Một khi thu nạp được khả năng này thì người ta sẽ khó bị tuyên truyền. Khả năng này man tính phổ quát, phi chính trị, hữu ích cho mọi người, nhất là cho sinh viên sau khi tốt nghiệp đi kiếm việc làm, viết đơn xin việc, chuẩn bị phỏng vấn, tiến thân trên đường sự nghiệp v.v. Tính áp dụng cho kỹ năng này là vô hạn trong mọi xã hội, giảm thiểu các nạn mê tín dị đoan, các đồ giả và các tiên tri giả đang lan tràn trên khắp mọi miền đất nước. Sẽ rất là khó, nếu không phải là bất khả, cấm đoán hay hạn chế nếu người ta muốn học hỏi về kỹ năng này.
Kỹ năng này đã được các nhà giáo dục tại Hoa Kỳ quan tâm hơn, nhất là cho học sinh từ cấp bậc trung học trở lên, sau kỳ bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016. Một nền dân chủ đích thực cần có những công dân hiểu biết (informed citizen), có lối suy nghĩ phê phán, nếu không thì nền dân chủ đó sớm muộn cũng bị suy thoái hay khủng hoảng.
Kỹ năng phi chính trị này có thể thay đổi toàn diện văn hóa chính trị.
Ba, phát huy truyền thông nhân ái (compassionate communication) hay còn gọi là truyền thông bất bạo động (non-violent communication).
Để cuộc vận động dân chủ thành công thì nên bắt đầu luyện tập truyền thông nhân ái/bất bạo động. Truyền thông ở đây có nghĩa rộng, bao hàm mọi cách thức truyền đạt thông tin từ một hay nhiều người sang một hay nhiều người khác. Trao đổi, thảo luận, tranh luận, phát biểu, cãi lộn v.v. đều là truyền thông giữa con người với nhau.
Một trong những vấn đề lớn nhất giữa người Việt với nhau, kể cả giữa những người đấu tranh cho dân chủ, là truyền thông. Vì không chịu đọc bản gốc hay không đọc kỹ, vì dễ dàng tin những lời đồn nhảm ác ý, vì không trao đổi thẳng thắn với nhau sợ mất lòng, vì không sử dụng ngôn ngữ chính xác để diễn đạt ý tưởng, vì sử dụng ngôn ngữ cảm xúc quá nhiều thay vì lý luận (chưa kể bị bẫy bởi những kẻ ác ý hay bàn tay của dư luận viên) v.v. cho nên người Việt dễ hiểu lầm nhau, dễ gây và xa nhau.
Không phải chỉ riêng người Việt, người Tây cũng gặp những vấn đề tương tự. Nhưng mức độ của vấn đề này thì chúng ta gấp nhiều lần người Tây phương. Chúng ta chưa kịp nghe là đã có đầy định kiến ; chưa kịp hiểu là đã đánh giá rồi, mà đa phần lại đánh giá trật nữa, nên làm hư mọi sự. Trong truyền thông của người Việt, thay vì tìm hiểu một người nói một điều gì đó, trong thâm tâm họ có ý gì, và họ thật sự muốn gì, thì lại tập trung kết luận họ là gì trước. Chúng ta quá dễ dàng chụp mũ mạ lỵ nhau, tự biến thành những quan toà mù để kết tội người khác một cách vô tội vạ.
Kết quả : không chỉ chúng ta làm rối và làm thối mọi sự. Trong quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, cộng đồng, xã hội v.v. cũng làm hư hỏng nốt. Có cộng đồng Việt Nam nào trên khắp thế giới mà không chia năm xẻ bảy, tuy có cùng chung mục đích ? Khi bất đồng ý kiến hay có vấn đề, chúng ta đã dùng những ngôn từ nặng nề nhất để dành cho nhau, ngay cả cho những người bạn cùng chung lý tưởng với mình suốt cuộc đời, để rồi bây giờ không còn nhìn mặt nhau nữa ?
Cái thói quen này xảy ra một cách vô ý thức tưởng chừng như không có lối thoát. Chúng ta biết mình bị tổn thương nhưng lại tiếp tục làm như thế với người khác. Chúng ta phát ngôn bừa bãi, vô ý thức và vô trách nhiệm. Hậu quả là sự bôi nhọ nhau, kéo nhau xuống vũng lầy, đưa đến sự leo thang của bạo lực và bạo động. Ai sung sướng hưởng kết quả này ? Chế độ cầm quyền chỉ muốn người dân tuân phục và khiếp nhược, cảm tính và bạo động, chứ không phải công dân có tư duy và lý luận.
Chế độ nào người dân đó, và người dân nào chế độ đó. Một vòng luẩn quẩn không lối thoát, rất nguy hiểm trừ phi chính mỗi chúng ta ý thức rõ ràng về trách nhiệm của mình cho cách hành xử, suy nghĩ và cảm xúc của mình.
Rất may trong vấn đề này có nhiều sách vở, tài liệu có thể giúp cho mỗi chúng ta nhìn ra được nguyên do nào chúng ta thường sử dụng loại truyền thông mang đầy chia rẽ, và làm sao mỗi chúng ta có thể luyện tập, một cách ý thức và tự chủ, sử dụng truyền thông nhân ái.
Tác phẩm "Truyền thông bất bạo động : Một ngôn ngữ của cuộc sống" của tiến sĩ Marshall B. Rosenberg, chẳng hạn, sẽ giúp chúng ta nhìn ra vấn đề [4]. Nó hoàn toàn hữu ích cho mỗi cá nhân, cho gia đình, và nhất là cho công cuộc vận động dân chủ hiện nay và mai sau. Ngôn ngữ, lồng trong tư tưởng và lý luận, sẽ mạnh hơn gươm, hơn thép. Cho nên biết sử dụng truyền thông nhân ái cho người thân thương và biết truyền đạt lý luận sắt bén với kẻ thù gian hiểm thì đó chính là sức mạnh vô biên vậy.
Yêu nước là quan niệm đã bị lợi dụng, lạm dụng và đánh tráo quá nhiều, cho nên thay vì kêu gọi yêu nước, tôi kêu gọi hãy yêu và hãy như nước.
Tình yêu giúp cho chúng ta hướng đến chân thiện mỹ. Yêu người, yêu thiên nhiên, yêu động vật, yêu công bằng lẽ phải và sự thật. Yêu minh bạch, yêu công lý, yêu bình đẳng, yêu hòa bình, yêu tinh thần trách nhiệm, yêu thử thách, yêu trí tuệ, yêu kiến thức, yêu nỗ lực, yêu dấn thân, yêu sự kính trọng nhau, yêu giá trị đạo đức. Yêu cái gì cũng tốt cả, ngoại trừ cái tham sân si, cái lười, cái ác, cái độc, nhất là độc tài và độc đoán. Nhưng trên hết xin hãy yêu người, yêu mạng sống của mình và những người chung quanh. Mạng sống con người là quan trọng nhất. Hy sinh là hành động cao cả, nhưng phải đúng lúc đúng chỗ. Đừng hy sinh một cách vô ích và vô lý khi chưa cần thiết. Đấu tranh là quyết tâm phải sống để thấy thành quả mình góp phần xây dựng nên, và để tiếp tục đóng góp cho tiến trình dân chủ đầy cam go trong thời gian tới.
Tại sao phải như nước ? Vì nước là hơi thở, là sự sống. Trong các bí quyết truyền lại, Lý Tiểu Long nhấn mạnh một triết lý hay : hãy như nước, bạn ơi (be like water, my friend) [5]. Nước chảy đá mòn. Không có gì linh động, uyển chuyển, biến hóa, vô dạng, vô hình, đa nguyên, như nước cả. Không có gì mạnh mẽ và có sức tàn phá cao độ trên trái đất này như nước. Sức dân được ví như sức nước.
Để bắt đầu tiến trình này, trong bối cảnh đất nước ngày hôm nay, tôi cho rằng chúng ta cần bình tĩnh sáng suốt để nhìn rõ mọi hiểm nguy, thử thách, cơ hội, tiềm năng và điểm yếu của mình và của chế độ cầm quyền. Không nên lấy trứng chọi đá để mất đi tiềm lực cần thiết. Hãy hoạt động có tổ chức để nương tựa vào nhau, xây dựng sức mạnh. Hãy tìm cách phát huy suy nghĩ phê phán. Hãy cố gắng đối xử nhau một cách văn minh và nhân bản bằng truyền thông nhân ái để xây dựng lại một văn hóa đã bị độc hóa quá lâu mà rồi không ai còn có thể đối thoại một cách nghiêm túc với nhau.
Không đối thoại được thì xây dựng được cái gì chung chứ !
Những điều căn bản đó, tuy nói dễ nhưng làm vô cùng khó. Nó đòi hỏi thay đổi thói quen suy nghĩ. Nó bắt đầu bằng cái tư duy, tư tưởng. Phải có ý thức và quyết tâm thì mới thực hiện được. Nhưng muốn làm người tử tế văn minh, muốn dân tộc thoát khỏi gọng kìm của độc tài áp bức, muốn đất nước sánh vai với các con rồng con hổ, thì phải bắt đầu bằng cái đầu thôi.
Úc Châu, 04/05/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 04/05/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Triết lý được định nghĩa là "lẽ tinh vi quyền diệu trong triết học", mà triết học là "môn học nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ/vạn vật", theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức. Theo tự điển tiếng Anh như Oxford Dictionary of English thì triết học là sự nghiên cứu về bản chất căn bản của kiến thức, thực tế và hiện hữu, đặc biệt khi được xem như là một lĩnh vực học thuật. Do đó triết học chính trị có thể được định nghĩa là sự nghiên cứu các vấn đề nền tảng về nhà nước, chính quyền, chính trị, bang giao quốc tế, tự do, công lý, hòa bình v.v…
2. Ngày nay những ai muốn tìm hiểu triết học chính trị chỉ cần dùng Google thì sẽ tìm kiếm bao nhiêu tài liệu gốc hay được soạn thảo lại một cách hệ thống. Nếu không đọc được tiếng Anh thì nhóm Tinh Thần Khai Minh, thành lập năm 2014, có đăng tải vô số tài liệu được dịch sang tiếng Việt về tự do, dân chủ và pháp quyền.
3. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã nói nhiều về đề tài này. Mời đọc "Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai" của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.
4. Marshall B. Rosenberg, "Nonviolent Communication", A Language of Life, PuddleDancer Press, 2015.
5. Có thể xem phát biểu này của Bruce Lee qua các phim ảnh hay phỏng vấn trên Youtube (dùng google để truy tìm).
Vào dịp 30 tháng Tư, tôi muốn hỏi tại sao Việt Nam vẫn chưa có dân chủ ? Tại sao tiến trình dân chủ hóa vẫn dậm chân tại chỗ, nếu không phải thụt lùi, trong những năm vừa qua ?
Vào dịp 30 tháng Tư, tôi muốn hỏi tại sao Việt Nam vẫn chưa có dân chủ ?
Tiến trình dân chủ hóa của bất cứ một quốc gia nào, kể cả Việt Nam, nhất là trong thời đại toàn cầu hiện nay, đều chịu ảnh hưởng chung của nền chính trị quốc tế, quốc nội và các phong trào vận động dân chủ trong và ngoài quốc gia đó.
Trên bình diện quốc tế, trào lưu dân chủ khắp nơi đều gặp khó khăn, và suy thoái. Tạp chí Foreign Affairs số mới nhất tháng Năm/Sáu "Dân chủ đang dẫy chết ? - Bản tổng kết toàn cầu", có những nhận định sâu sắc về chủ đề này [1]. Tập trung quyền lực vào chính quyền (ngành hành pháp), chính trị hóa ngành tư pháp hay các định chế vốn hoạt động độc lập, tấn công vào sự độc lập của truyền thông, lợi dụng công quyền để gia tăng tư quyền/lợi v.v… là những dấu hiệu thoái trào của dân chủ.
Từ Hungary, Ba Lan thuộc Đông Âu cho đến Ý, Anh thuộc Tây Âu, và cả Hoa Kỳ, chủ nghĩa dân tuý và các xu hướng chuyên quyền đang vươn mình trổi dậy giành ảnh hưởng khắp nơi. Ngay cả Đan Mạch, Hòa Lan và Thuỵ Sĩ… cũng không nằm ngoài ảnh hưởng chung trên. Trong khi đó, các chế độ chuyên quyền như Nga, Trung Quốc không những ngày càng hung bạo đối với người dân của mình mà còn trở nên hung hãn, gây hấn qua sự can thiệp vào nội tình chính trị của Hoa Kỳ hay các quốc gia khác, hoặc qua các biện pháp có vẻ như mềm mỏng hơn, như văn hóa, chẳng hạn, điển hình là Viện Khổng Tử của Trung Quốc.
Học giả Ronald Inglehart, trong bài "Thời đại bất an" (The Age of Insecurity) trong tạp chí trên, có đưa ra một nhận định đáng suy ngẫm. Inglehart cho rằng những người nghiên cứu dân chủ thường bất đồng nhau, nhưng điều họ gần như hoàn toàn đồng ý với nhau, là rằng "sự bất bình đẳng cực độ không thích ứng với dân chủ" (extreme inequality is incompatible with democracy). Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ hiện nay, thiểu số mười phần trăm dân số lại có thu nhập gần nửa tổng thu nhập của toàn quốc gia. Còn đối với tất cả ngoại trừ một nước thuộc Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD), sự bất bình đẳng về thu nhập đã gia tăng từ năm 1980 đến năm 2009. Do đó mà xu hướng chuyên quyền đã tranh giành được nhiều ảnh hưởng tại các quốc gia này trong thời gian qua.
Ngoài ra, suy thoái dân chủ cũng do một số nguyên nhân khác. Một, suy thoái kinh tế hay tăng trưởng chậm chạp trong các nền dân chủ dễ làm cho người ta cảm tưởng và kết luận rằng dân chủ chưa chắc đã là giải đáp tốt hơn độc tài. Hai, khoa học kỹ thuật tiên tiến như tự động và trí tuệ nhân tạo dẫn đến mất việc làm của công nhân, cái mà một thời cuộc cách mạng kỹ nghệ đã mang lại, và tiến trình này ngày càng gia tăng chứ không gia giảm. Ba, mạng truyền thông xã hội, như facebook, chẳng hạn, bị các thế lực chuyên quyền và các công ty vì quyền lợi đã khai thác để tuyên tuyền và thổi phồng các tin giả/nhảm (fake news), gia tăng sự tràn lan thông tin nhiễu. Bốn, những người sống và hít thở dân chủ từ lúc lọt lòng chưa chắc đã hiểu được cái giá phải trả để có được dân chủ nếu không chịu tìm hiểu tiến trình lịch sử của nó, mà chỉ coi như được cấp sẵn (take it for granted) ; trong khi những người chưa hề sống trong dân chủ sẽ không nhận ra được các giá trị đích thực nó mang lại ; cho nên dân chủ chưa chắc đã là giá trị hàng đầu để người ta bảo toàn hay đấu tranh để có.
Trên hết, theo tôi, là vì tính cả tin của con người nói chung. Vì dễ tin quá vào một cái gì đó, có thể do văn hóa, tôn giáo, gia đình hay ảnh hưởng của môi trường chung quanh, lại không có thói quen kiểm chứng, không có thời gian hay kiến thức để đối chiếu, không sở hữu suy nghĩ phê phán để truy tìm căn cốt của vấn đề, nên không quen tự suy nghĩ cho mình và không phân biệt được hư thực ra sao. Đây là điểm chung của đa số người dân thuộc mọi quốc gia. Họ đều có điểm yếu, đều dễ bị tổn thương, và các chế độ chuyên quyền đều biết khai thác điểm yếu này cho mục tiêu chính trị của họ. Tất nhiên tỷ lệ của mỗi quốc gia mỗi khác. Ở các nước có nền dân chủ lâu đời, có truyền thông độc lập và đa dạng, có nền tư pháp hoàn toàn độc lập và chuyên nghiệp, thì chất lượng của nền dân chủ cao vì người dân nói chung có sự hiểu biết và suy nghĩ thấu đáo. Tính cách suy nghĩ phê phán/triệt để (critical thinking) chính là nền tảng của các xã hội văn minh.
Tóm lại, yếu tố khác biệt lớn nhất giữa một thể chế dân chủ và độc tài ngày nay không còn là kinh tế/phát triển như suy nghĩ trước đây mà có lẽ nằm ngay ở chất lượng suy nghĩ phê phán của tỷ lệ công dân trong xã hội đó. Trong khi suy nghĩ phê phán được phát huy tối đa, bằng các phương thức chính thức của chính quyền/nhà nước qua giáo dục, chẳng hạn, hay qua không gian của thương mại và của xã hội dân sự trong thể chế dân chủ, thì ngược lại, trong chế độ độc tài, suy nghĩ phê phán bị hạn chế tối đa hoặc không hề hiện hữu trong diễn ngôn/truyền thông chính mạch của xã hội, nhất là chính trị.
Ngoài các yếu tố nói trên, dân chủ bị suy thoái khắp nơi vì nó có lắm kẻ thù, ở trong và ngoài quốc gia đó. Kẻ thù hàng đầu của dân chủ là tư duy chuyên quyền, độc đoán (lại có đủ khả năng, phương tiện và lý do để tấn công, gây hấn cho nền dân chủ) ; là văn hóa chính trị chuyên sử dụng bạo lực như là cứu cánh ; là làm luật và dùng luật để kìm hãm và chế tài phía đối lập và người dân chứ không phải để pháp trị ; là sự bất tài và bất lực để kinh tế và chính trị suy thoái làm mất niềm tin của dân chúng, vân vân…
Trên đây là một số yếu tố quốc tế ảnh hưởng đến trào lưu dân chủ toàn cầu hiện nay, kể cả các nền dân chủ lâu đời và ổn vững như Hoa Kỳ, Anh, Pháp và nhiều quốc gia Tây Âu và Đông Âu. Xu hướng dân chủ tại Việt Nam, do đó, cũng chịu ảnh hưởng nặng nề và tiêu cực của tốc độ và mức độ suy thoái này.
Tuy nhiên ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất đối với xu hướng dân chủ tại Việt Nam vẫn do nền chính trị quốc nội. Nhà nước độc Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam, vẫn chủ trương cai trị một cách toàn diện và tuyệt đối, và không hề có ý định chia sẻ quyền lực với bất cứ xu hướng chính trị nào khác.
Từ khi Nguyễn Phú Trọng lên nắm vai trò Tổng bí thư, các biện pháp thẳng tay đàn áp các nhà dân chủ hay thanh trừng các xu hướng khác biệt trong Đảng đã gia tăng đáng kể. Sử dụng chiêu bài Điều 79 hay 88 của Bộ Luật Hình Sự, hay luật về an ninh quốc gia như âm mưu lật đổ chế độ, vân vân…, để bỏ tù 21 người trong năm 2017, theo tổ chức Human Rights Watch [2]. Theo tổ chức Amnesty International thì Việt Nam hiện có khoảng 97 tù nhân lương tâm (được định nghĩa như là những người không sử dụng hay cổ võ bạo động nhưng bị tù đầy vì họ là ai và họ tin tưởng gì, chẳng hạn như tôn giáo, chính trị hay các vấn đề lương tri khác).
Nguyễn Phú Trọng cũng sử dụng chiêu bài chống tham nhũng để loại trừ các phe cánh khác, răn đe các mầm móng chống đối khác trong Đảng. Những chiêu bài của Đảng cộng sản Việt Nam gần như lập khuôn chiêu bài của Tập Cận Bình của Trung Quốc từ năm 2012 đến nay. Thật ra nếu quan sát kỹ thì chúng ta có thể thấy rằng từ thời Mao Trạch Đông đến nay, các chính sách lớn, có sức tàn phá khủng khiếp (như Cải Cách Ruộng Đất, Bước Đại Nhảy Vọt, Cách Mạng Văn Hóa), cho đến chính sách sửa chữa như kinh tế thị trường (theo định hướng xã hội chủ nghĩa với đặc tính Trung Hoa) của Đặng Tiểu Bình và các chính sách kinh tế, chính trị và văn hóa về sau, Đảng cộng sản Việt Nam nghiên cứu học hỏi và áp dụng một cách tận tình nhưng thận trọng cho Việt Nam. Cho nên tìm hiểu kỹ lưỡng các chính sách của Trung Quốc hiện nay cũng là cách nghiên cứu các nước cờ và bước đi có thể có của Đảng cộng sản Việt Nam vậy.
Còn các phong trào vận động dân chủ trong và ngoài Việt Nam thì sao ?
Ba năm về trước, trong bài "Dân chủ ? Vẫn là mơ thôi" [3], giáo sư Cao Huy Thuần đã công nhận rằng xu hướng dân chủ trên toàn cầu đã trì trệ, khủng hoảng, và ông không khỏi bi quan cho triển vọng dân chủ trong tương lai. Bàn về Việt Nam, ông nhận định 40 năm rồi mà vẫn chưa đi được bước nào trên con đường dân chủ. Suy nghĩ về một giải pháp cho Việt Nam, ông đắc ý với quan niệm "bình thường" và "đồng thuận" của một trí thức uy tín của Singapore, ông Kishore Mahbubani, mà ông cho rằng có khả năng khai sáng con đường dân chủ hóa Việt Nam. Ông biện luận rằng xây dựng một văn hóa chính trị mới, lấy dung hòa làm căn bản thay cho mệnh lệnh, trong đó phát huy quyền tự do ngôn luận, là bước đầu tiên để làm nền tảng.
Ba năm sau bài viết của giáo sư Cao Huy Thuần, tưởng phong trào dân chủ Việt Nam tiến một chút, dù chưa là một bước, về phía trước, thế nhưng tình trạng không mấy sáng sủa chút nào qua bao cuộc bắt bớ tù đầy trong hai năm qua, mà đã nói trên. Trong bài "Cứu nguy phong trào dân chủ Việt Nam" vào tháng hai năm nay, ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng ông và các bạn trong và ngoài nước nhận định phong trào dân chủ "đang ở trong tình trạng rất bi đát và cần được cứu nguy" vì một phần bị đàn áp một cách hung bạo, một phần vì "chia rẽ nội bộ ngay cả khi chưa bị đe dọa" [4]. Ông Kiểng trình bày một số trường hợp tiêu biểu qua đó cho thấy suy nghĩ chung của một số người, cho dù đầy thiện chí và lý tưởng cho mục tiêu chung, nhưng dễ dàng trở thành hằn học với người bất đồng quan điểm với mình ; hoặc có những nhận định ngây thơ, thiếu hiểu biết căn bản về chính trị. Ông biện luận những thí dụ trên góp phần giải thích vì sao phong trào dân chủ bế tắc ngay cả nếu không bị đàn áp. Ba tuần sau đó, ông Việt Hoàng, qua bài "Tập Hợp đang làm gì và ở đâu trong phong trào dân chủ Việt Nam", đã chia sẻ những khó khăn chung trong bước đường đấu tranh trong thời gian qua, và những nguyên do chưa xây dựng được một chính đảng dân chủ có tầm vóc [5].
Tóm lại ông Kiểng, ông Hoàng hay Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nói chung quan niệm rằng không có nền tảng tư tưởng/triết lý lớn để vạch ra nguyên một lộ trình xây dựng dân chủ thành một dự án chính trị, không kết hợp được những người yêu chuộng dân chủ trong và ngoài Việt Nam thành một mối có tổ chức hẳn hoi, và không có lãnh đạo, thì mọi cuộc xuống đường rầm rộ bao nhiêu đi nữa, và các thách thức lẻ tẻ đối với chế độ hiện nay, sẽ không đi đến đâu cả.
Ngay cả khi chế độ độc tài, vì lý do nào đó mà sụp đổ, thì nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng thì tất nhiên sẽ không có gì bảo đảm là dân chủ sẽ đến.
Nhưng vấn đề chính hiện nay, theo tôi, là sự nhập nhằng hay, nói đúng hơn, là không ý thức phân biệt rõ ràng giữa mục tiêu chống cộng và mục tiêu xây dựng/vận động dân chủ.
Thoạt nhìn tưởng hai là một, nhưng không phải, nên mới có vấn đề lớn.
Rõ ràng chống cộng và vận động dân chủ đều có mục tiêu giống nhau : chống độc đoán chuyên quyền cộng sản. Nhưng có lắm điều khác nhau.
Phe chống cộng chống mọi thứ thuộc về chế độ hiện nay, từ lá cờ, chủ nghĩa, cho đến tất cả những gì trực tiếp thuộc về nó. Như các nhân vật lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, hay các ban, ngành, cơ quan chính phủ, nhà nước v.v… Đảng cộng sản Việt Nam, như đã nói trên, lãnh đạo trực tiếp và toàn diện, cho nên hầu như không có cái gì mà không thuộc về nó trong xã hội Việt Nam, kể cả các tổ chức xã hội, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Không những thế, một cách rất thâm độc, Đảng cộng sản Việt Nam ban hành nghị quyết 36, và sử dụng dư luận viên phản công lại những ảnh hưởng có thể có của Internet và truyền thông xã hội. Xu hướng chống cộng, vì thế, nhìn đâu cũng thấy bóng dáng cộng sản, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, thấy nghị quyết 36 đàng sau, kể cả sinh viên du học tự túc qua đây. Xu hướng chống cộng cũng chống nhau tơi tả, và chống luôn cả xu hướng dân chủ. Tóm lại, cái gì cũng chống, nhưng không có đủ lực. Và chống, theo các hình thức trước đây, chỉ có thể xảy ra ở hải ngoại, chứ không thể trong nước được. Cách chống như thế trong mấy chục năm qua ngày càng thưa thớt và mất hiệu quả.
Phe vận động dân chủ thì cũng tứ bề thọ địch. Lực của họ quá mỏng và họ quá cô đơn. Chung quanh họ là tư duy và cung cách hành xử, nếu không là kẻ thù, thì cũng là sự cản trở lớn cho tiến trình dân chủ : lười biếng và vô kỹ luật. Đấu tranh vô tổ chức và chỉ muốn thấy kết quả liền là các thái độ này.
Lười biếng suy nghĩ, nên không chịu tìm hiểu vấn đề rốt ráo, cộng với bao nhiêu thành kiến hay định kiến sẵn có, lại thiếu tinh thần bao dung khách quan và khoa học, trong khi đó không chịu mở lòng lắng nghe quan điểm khác biệt để tìm hiểu xem người khác nói có gì đúng và đáng để học hỏi không, cho nên lắm khi đi cãi nhau những chuyện nhỏ nhặt, lặt vặt chứ không hề biết văn hóa tranh luận là gì, do đó gây thù oán vì những lý do con kiến biến thành con voi. Nói chung, có tư duy "làm lớn chuyện", không phải "làm chuyện lớn".
Nên nhớ, dân chủ phải đi đôi với pháp trị. Không có nền dân chủ đích thực nào mà không phải là pháp trị cả, để kiểm soát và cân bằng quyền lực. Các chế độ độc tài cũng có hiến pháp và pháp luật, nhưng họ ngồi chễm chệ trên nó, coi nó thêm một phương tiện để áp chế. Trong nền dân chủ, ngay cả tổng thống hay thủ tướng nếu có vi phạm luật thì cũng bị phạt như thường, và không ai đứng trên hay ngoài pháp luật. Trong nền pháp trị, những người làm trong chính quyền phải đầu tiên và trên hết phải thể hiện sự hiểu biết, sự tôn trọng và sự làm gương cho các công dân khác. Luật pháp tự bản chất rất phức tạp do đó đòi hỏi tính chuyên môn rất cao. Một xã hội có nền văn hóa dân chủ cao, nền kinh tế tri thức tiên tiến, thì càng đòi hỏi tính chuyên môn trong mọi địa hạt. Hiến pháp và pháp luật chi phối mọi hoạt động của xã hội đó, nên nó phải cập nhật thường xuyên để đáp ứng nhu cầu của xã hội tiên tiến đó. Cho nên không chịu tìm hiểu căn nguyên vấn đề vốn vô cùng phức tạp và đa chiều, không chịu động não suy nghĩ, mà lại suy nghĩ hời hợt hay cực đoan, thì sẽ không giúp ích gì cho sự phát huy của văn hóa dân chủ.
Người yêu chuộng dân chủ là người có khả năng thể hiện tinh thần kỹ luật cao. Họ biết nguyên tắc hành xử dân chủ và áp dụng nghiêm khắc với chính mình. Họ tôn trọng tối đa giá trị tự do, bình đẳng và công lý. Thay vì loại trừ, họ tìm cách dung hợp. Thay vì chụp mũ, vu khống, mạ lỵ, họ dùng lý luận và tinh thần khách quan khoa học để thuyết phục. Thay vì phản ứng, một cách thiếu tự tin, khi gặp phải chỉ trích hay phê bình, họ ôn tồn lý giải để trình bày quan điểm của mình, dùng nó như cơ hội để "cưỡi sóng", để thuyết phục đối thủ và những người chung quanh. Tóm lại, dân chủ là đa nguyên, lắm khi trái chiều, cho nên người có tinh thần dân chủ thật sự là người phải biết sử dụng trí tuệ và lý luận để thuyết phục người khác quan điểm, chứ không phải đổ thừa hay gán nhãn hiệu cho nó là tin tặc, là phản động, hay tội đồ dân tộc v.v…
Dân chủ, vì thế, nên xây khó mà phá dễ. Một nền dân chủ vững ổn như Hoa Kỳ thì khó thể nào phá đổ bằng một, hay nhiều, cá nhân đặc biệt như Donald Trump, chẳng hạn. Nhưng một nền dân chủ non nớt, nền móng chưa vững, thì rất dễ đổ vỡ. Dân chủ không hoàn hảo, nên nó cần luôn được cải thiện. Thể hiện tính dân chủ không hề dễ, hay tự nhiên, mà là một ý thức tự giác cao độ. Ai cũng muốn quyết định nhanh chóng, hiệu quả để công việc được chạy cho tốt, trong khi đó dân chủ có nghĩa là tham khảo ý kiến, thảo luận rốt ráo và tôn trọng khác biệt và các quyết định chung. Tuy chậm nhưng chắc. Trong chính trị, mọi chính sách hay quyết định lớn đòi hỏi sự suy nghĩ và kế hoạch rốt ráo, sự thách thức thường xuyên giữa những người cùng chung trách nhiệm, giữa các đảng phái, công chúng và truyền thông và, quan trọng không kém, là sự phê bình hay chỉ trích nặng nề của công chúng, truyền thông hay đối lập. Không có một chính sách hay một kế sách nào hoàn hảo cả, dù được thiết kế bởi những đầu óc ưu tú nhất. Không có chính sách nào thoả mãn mọi ước vọng hay nhu cầu của xã hội đa nguyên cả. Nó chỉ mang tính tương đối và lắm khi đầy rủi ro. Phê bình là sự bình thường của xã hội, và chính là sức mạnh của xã hội đó.
Xu hướng vận động dân chủ của Việt Nam, vì các lý do trình bày trên, cũng chỉ là thiểu số so với xu hướng chống cộng trong và ngoài nước. Đồng minh của họ thì ngày càng ít và yếu trong khi đối thủ của họ ngày càng nhiều và mạnh. Nhưng không có gì là bất khả cả. Một khi đã nghĩ bất khả thì chỉ có thất bại, chưa đánh mà đã thất bại, nói chi đến thành công !
Tại sao phải là dân chủ ? Bởi vì thể thế chính trị dân chủ tuy bất toàn nhưng nó đỡ tệ hại nhất trong tất cả các thể chế chính trị đã được thử nghiệm. Trong nền dân chủ, mạng sống con người được coi trọng tối đa, nhân phẩm được tôn trọng tối đa, và mọi người trong xã hội được tự do để phát triển tối đa tiềm năng của mình.
Hơn tám mươi triệu người Việt trong nước nghĩ gì, muốn gì, có ai biết không ? Sức dân là sức nước mà. Họ đưa thuyền và cũng lật thuyền.
Chỉ lo người dân Việt Nam không chịu mơ những giấc mơ lớn thôi. Nếu biết mơ, nếu có niềm tin, thì sẽ có hy vọng. Bởi không có thành công (lớn) nào mà không khởi đầu bằng giấc mơ (lớn).
Úc Châu, 30/04/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 02/05/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Foreign Affairs, "Is democracy dying", a global report, May/June 2018, Volumn 97, Number 3.
2. Hunter Marston, "Vietnam’s crackdown on dissent could undermine its stability and growth ", Lowy Institute, 12/04/2018.
3. Cao Huy Thuần, "Dân chủ ? Vẫn là mơ thôi ? ", Thời Đại Mới, số 33, tháng 7 năm 2015.
4. Nguyễn Gia Kiểng, "Cứu nguy phong trào dân chủ ?", đăng trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, 04/02/2018.
5. Việt Hoàng, "Tập Hợp đang làm gì và ở đâu trong phong trào dân chủ Việt Nam ?", đăng trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, 24/02/2018.
54 năm về trước, vào những giờ phút này tính mạng của hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đang bị "ngàn cân treo sợi chỉ".
Cố tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Ngô Đình Diệm.
Những tính toán và quyết định sai lầm của lãnh đạo Hoa Kỳ, cùng với sự tiếp tay của thành phần chống đối ông Diệm ông Nhu tại miền Nam, đã đưa đến cái chết bi thương của hai ông và nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Biến cố 1 tháng 11 năm 1963 là điểm ngoặc đưa đến bao nhiêu bất ổn chính trị, để rồi chiến tranh Việt Nam leo thang và, 12 năm sau, kết thúc như một định mệnh không thể đảo ngược.
42 năm, gần hai thế hệ sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến. Nhưng những hậu quả mà chiến tranh để lại cho đến nay vẫn còn quá to tát. Một phần vì những vết thương quá sâu, về mặt tinh thần, nên vẫn chưa lành, đối với mọi bên. Phần khác vì bởi các lý do chính trị, nhất là khi không bên nào muốn thừa nhận vai trò và trách nhiệm của mình về hậu quả của cuộc chiến này.
Trong khi đó nhà cầm quyền hiện tại vẫn chủ trương kiểm soát toàn bộ "sự thật lịch sử" đối với những gì xảy ra trước, trong và sau cuộc chiến này.
Đâu là sự thật lịch sử ? Trên thực tế, không có một sự thật lịch sử, dù là lịch sử về chiến tranh Việt Nam hay, nói chung, bất cứ một cuộc chiến hay biến cố chính trị lớn nào. Tính đa diện, phức tạp và vô cùng chia rẽ của cuộc chiến Việt Nam cho thấy tất cả mọi nhận xét, dù khách quan và thành tâm cách mấy, cũng chỉ là cách nhìn nhận vấn đề ở các góc cạnh khác nhau, ngay cả từ phía cùng chiến tuyến.
Điển hình là phim tài liệu mới nhất về cuộc chiến Việt Nam được đạo diễn tiếng tăm Ken Burns (và Lynn Novick) thực hiện, mất hơn 10 năm, gồm 10 tập kéo dài 18 tiếng đồng hồ. Tập phim tài liệu này được giới truyền thông chính mạch tại Hoa Kỳ và ngoài Mỹ phê bình một cách tích cực. Các báo, tạp chí, truyền hình lớn và nhiều ảnh hưởng như The New York Times, Washing Post, Guardian, Economist, Newsweek, Vanity Fair, PBS, CNN v.v..., tuy có phê bình một số thiếu sót hay sai sót, nhưng phần lớn khen ngợi công trình đồ sộ của Ken Burns : chi tiết, kỹ lưỡng, chuyên nghiệp, độc đáo, với bao nhiêu phỏng vấn nguyên thủy của các nhân vật trực tiếp tham gia cuộc chiến từ mọi phía cũng như bao nhiêu hình ảnh, phim ảnh và âm nhạc được sáng tác liên quan đến cuộc chiến này.
Về phía Việt Nam, thì có lẽ nhiều người sinh ra hoặc lớn lên sau khi cuộc chiến chấm dứt mong muốn được tìm hiểu một cách đầy đủ, nhất là trong bộ phim tài liệu này Novick đã nỗ lực về Việt Nam phỏng vấn những người trong cuộc. Thế hệ trẻ hình như chưa đánh giá mà chỉ muốn được xem rồi nhận xét sau.
Tuy nhiên nhận xét sơ khởi của thế hệ đi trước thì không tích cực chút nào. Một số người cho rằng bộ phim tài liệu này không phản ảnh trung thực lịch sử cuộc chiến và bối cảnh đưa đến chiến tranh Việt Nam.
Trong số những người lên tiếng cho Việt Nam Cộng Hòa, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, tác giả của Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, Khi Đồng Minh Tháo Chạy và Khi Đồng Minh Nhảy Vào, đã phân tích chi tiết về những khuyết điểm, thành kiến, thiếu sót và sai sót của bộ phim tài liệu này trong bài "Viết về bộ phim The Vietnam War" [1]. Nhưng tiến sĩ Hưng cũng chỉ mới xem có năm tập đầu, chưa xem hết, cho nên những thắc mắc ông nêu ra như tại sao có chiến tranh Việt Nam, trách nhiệm của người Mỹ trong cuộc đảo chánh và hạ sát ông Ngô Đình Diệm v.v... có được trình bày đầy đủ và nghiêm chỉnh chứ không thiên vị và thành kiến không thì chính ông cũng chưa rõ !
Trong khi đó thì có nguồn tin bán chính thức cho rằng lãnh đạo hàng đầu tại Hà Nội rất không hài lòng về bộ phim này [2]. Họ cách chức vài viên chức trong Bộ ngoại giao đã phụ giúp dàn dựng các cuộc phỏng vấn cho bộ phim. Họ tức tối vì bộ phim phơi bày cuộc thảm sát Mậu Thân năm 1968, những tranh chấp trong hàng ngũ lãnh đạo chóp bu tại Hà Nội trong thời chiến, hay sự đối xử tồi tệ của bên thắng cuộc đối với người dân miền Nam khi chiến tranh chấm dứt v.v...
Tựu chung chiến tranh nào cũng chết chóc, thảm khốc, mất mát và tan thương. Chiến tranh Việt Nam thì khốc liệt bội phần. Trong vòng hơn 10 năm, khoảng một triệu người chết trong cả hai miền Nam Bắc, trong đó 58 ngàn lính Mỹ, và hàng triệu người khác bị thương tích. Tất cả các diễn biến này, qua hình ảnh chết chóc hay hàng triệu tấn bom rơi, được trình chiếu hàng ngày trên truyền hình Mỹ và khắp thế giới, điều mà không xảy ra trong Thế Chiến Hai hay trước đó. Chính những hình ảnh đó là một trong những nguyên nhân mà chiến tranh buột phải kết thúc bằng mọi giá.
Tuy cuộc chiến Việt Nam vô cùng phức tạp và gây nhiều tranh cãi, mục tiêu chiến lược của các bên tham gia tương đối đơn giản dễ hiểu.
Mục tiêu của Hoa Kỳ, và đồng minh, khuynh hướng đại diện cho thế giới tự do/tư bản, trong cuộc chiến này là để ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á (mặc dầu ngay cả lý thuyết gia hàng đầu của thuyết ngăn chặn George Kennan không đánh giá cao vai trò chiến lược của Việt Nam trong chủ trương ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản toàn cầu).
Mục tiêu của miền Nam, trong nền Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị Cộng Hòa, là phải ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản để toàn đất nước không bị nhuộm đỏ. Những người quốc gia từng hiểu biết và kinh nghiệm xương máu với cộng sản, nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, không tin rằng chủ nghĩa này mang lại sự phát triển cần thiết cho đất nước và dân tộc, nếu không phải là thảm hoạ.
Mục tiêu của miền Bắc, về mặt tuyên truyền, là để "chống Mỹ cứu nước", độc lập và thống nhất dân tộc, nhưng thực tế họ đã chứng minh là đệ tử trung thành của cộng sản quốc tế, thi hành nghiêm chỉnh các chỉ thị từ đàn anh như Liên Sô và Trung Quốc trong việc đối đầu với khối tự do, bằng chính xương máu của đồng bào họ. Độc lập và thống nhất dân tộc, theo tư duy của lãnh đạo miền Bắc, cũng chỉ là mục tiêu hay phương tiện phụ. Mục tiêu chính, quan trọng hơn, là phải tiến nhanh tiến mạnh trên con đường xã hội chủ nghĩa và sau đó là cộng sản chủ nghĩa. Những gì xảy ra sau 30 tháng Tư năm 1975 cho đến khi Đổi Mới chứng minh điều này.
Chỉ có mỗi ông Ngô Đình Diệm là người có tầm lãnh đạo quốc gia lớn, có tư duy độc lập thật sự, và có tầm nhìn chiến lược và mục tiêu vì đất nước dân tộc Việt Nam. Dù có những lỗi lầm chiến lược và chiến thuật - điều mà không một vị lãnh tụ nào tránh khỏi dù tài giỏi và kiên cường đến mấy khi đối diện với bao thử thách khắc nghiệt của thời cuộc - cuộc đời dấn thân xuyên suốt của ông Diệm đã chứng minh điều này. Ông Diệm không hề muốn Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam. Lãnh đạo Hoa Kỳ tuy có lúc không tin tưởng khả năng ông Diệm có thể vượt qua bao thử thách cam go, và tuy có lúc bất bình với ông, nhưng họ không hề coi thường ông. Ông luôn có suy nghĩ độc lập, đặt mình ngang hàng với Hoa Kỳ, và không bao giờ nghe theo lời khuyên của Hoa Kỳ nếu nó đi ngược lại quyền lợi của dân tộc Việt Nam. Hoa Kỳ đứng đằng sau cuộc đảo chánh ông Diệm vì họ không thuyết phục được ông trong các vấn đề chiến lược mà lại quá chủ quan về sức mạnh quân sự của mình [3].
Trong cuốn "Nền tảng Chung" (Common Ground), cố Thủ tướng Úc Malcolm Fraser cũng xác định là ông đã rút ra được một số bài học quan trọng về cuộc chiến Việt Nam. Đọc hồi ký của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara xuất bản năm 1996, với tựa đề "Nhìn lại : Bi kịch và Bài học của Việt Nam" (In Retrospect : The Tragedy and Lessons of Vietnam), ông Fraser đặc biệt chú tâm đến cung cách đối xử của Hoa Kỳ đối với nguyên thủ quốc gia miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm [4].
Ông McNamara kể chi tiết về cuộc đảo chánh và ám sát ông Ngô Đình Diệm mà vào thời điểm đó chỉ là tin đồn là có bàn tay của Hoa Kỳ hoặc CIA nhúng vào. Ám sát là ý kiến của nhân viên Nhà Trắng. Khi quyết định xảy ra, cả ông McNamara và Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rusk không có mặt ở Nhà Trắng. Có gợi ý cho rằng Tổng thống John F Kennedy đưa ra quyết định này ở sân chơi golf. Quyết định này của Tổng thống Kennedy không tham khảo ý kiến của Rusk hay McNamara. Mật tin được truyền đi qua Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam và mật vụ CIA tại Sài Gòn. Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge sau khi nhận mật tin, đi tìm một số tướng Việt Nam được ủy quyền lật đổ ông Diệm. Ông Diệm và ông Nhu bị ám sát. Ông Đại sứ ngạc nhiên vì Hoa Kỳ chỉ muốn ông Diệm bị lật đổ, không phải bị giết như thế ! Ông Đại sứ được phe đảo chánh cho hay rằng ông Diệm phải bị giết đi vì ông là người duy nhất có được sự ủng hộ đáng kể tại Việt Nam. Sau cuộc đảo chánh, ông McNamara đặt câu hỏi "Có ai đủ khả năng/tốt hơn để thay thế ông Diệm ?"
Những ai đã đọc hồi ký của McNamara, kể cả những người từng là tướng lãnh và lãnh đạo chính trị Việt Nam Cộng Hòa thời đó, có thấy điều gì bất ổn với sự kiện kể trên ? Riêng ông Fraser cảm thấy cung cách hành xử của Hoa Kỳ hoàn toàn sai trái. Thứ nhất, McNamara qua cuốn hồi ký không hề phê bình tính cách Hoa Kỳ loại bỏ ông Diệm. Theo ông Fraser thì ông Diệm là người đứng đầu chính phủ và là nguyên thủ của một quốc gia mà Hoa Kỳ đang là đồng minh. Quyết định loại bỏ một đồng minh trong hoàn cảnh như thế là cực kỳ bất thường. Nó chỉ chứng tỏ tính độc đoán loại bỏ tất cả các quyền lợi khác ngoài mình. Thứ hai, một nước mà có thể thực hiện những hành động như thế, qua sự nhận thức về các sự kiện mang tính hệ trọng và bao quát như thế, là điều làm cho ông Fraser ngờ vực về khả năng và quyền lực của Hoa Kỳ.
Nhìn lại lịch sử cận đại và hiện đại Việt Nam, Nguyễn Ánh đánh bại nhà Nguyễn Tây Sơn để thống nhất đất nước để rồi sáu thập niên sau lại mất độc lập. Nhưng lần này thì không phải Bắc thuộc mà là Tây thuộc, gần một trăm năm. Nguyên do chính yếu là vì giới lãnh đạo Việt Nam cực kỳ bảo thủ, giáo điều, tư tưởng lệ thuộc phương Bắc một cách vô thức, nên không hề đặt nặng cải cách, canh tân. Không cách tân thì tụt hậu, nghèo túng, thua kém, rồi không có sức mạnh để đối phó với nạn ngoại xâm luôn chờ chực nước nhà. Và một khi đã mất độc lập thì làm sao canh tân !?
Quan sát tình hình Việt Nam hơn 200 năm qua, đặc biệt là ngày hôm nay, tất cả những vấn đề nhức nhối, những thử thách lớn lao vẫn còn đó. Nó còn có dấu hiệu trầm trọng hơn, nhất là thảm hoạ của môi trường sống. Không có môi trường sống lành mạnh ổn vững thì mọi kế hoạch cho tương lai sẽ bất định.
Ngay vào thời điểm lãnh đạo miền Bắc âm mưu xâm chiếm miền Nam, lãnh đạo miền Nam đã có tầm nhìn và kế hoạch dài hạn vì quyền lợi của đất nước.
Trên 200 trang trong "Chính Đề Việt Nam", Tùng Phong Ngô Đình Nhu đã biện luận sâu sắc về những vấn đề quan yếu đối diện với Việt Nam trong thời đại của mình. Một, canh tân đất nước để phát triển, nhưng phải biết "trụ mà không trụ", để bảo đảm sự phát triển không ngừng. Hai, để có được sự phát triển đó, vị trí trụ vào phải là vị trí dân tộc, chứ không phải vào lý thuyết Cộng Sản, và không phải dựa vào vị trí của Trung Quốc hay các thế lực ngoại bang nào. Ba, mối đe dọa triền miên của dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, là Trung Quốc/Cộng [5].
Mối quốc nguy mà thế hệ ông Nhu đã quan tâm thời đó cũng là điều mà lãnh đạo quốc gia trước thời bà Trưng bà Triệu mãi cho đến hôm nay đều quan tâm.
Nên nhớ thời ông Ngô Đình Diệm, dân số Trung Quốc chỉ là 800 triệu. Sự bành trướng của Trung Quốc, cho dầu ở mức ôn hoà nhất, như nhu cầu dân sinh thôi, đã là khủng khiếp rồi. Sau gần 60 năm, dân số đã tăng lên gần 600 triệu dân nữa. Giới lãnh đạo Trung Quốc ngày nay có những toan tính thâm độc hơn, với tham vọng xâm chiếm toàn Biển Đông và trở thành cường quốc số một với quân đội hùng mạnh hơn cả Hoa Kỳ, thì Trung Quốc lại càng là mối đe doạ tối nguy và thường trực của Việt Nam hơn nữa. Các viện Khổng Tử mà Trung Quốc đã ra công xây dựng trong nhiều năm qua trên khắp thế giới và bàn tay nối dài của Trung Quốc để gây ảnh hưởng lên cộng đồng người Hoa ở khắp nơi, hay các nỗ lực xâm nhập tạo ảnh hưởng lên các sinh hoạt chính trị dòng chính, hay các chính sách ngoại giao của các nước sở tại, như Úc, chẳng hạn, cho thấy giấc mộng Trung Hoa quả là ác mộng Việt Nam.
Ông Ngô Đình Nhu đã nhận định rất rõ bài toán và giải pháp của Việt Nam thời đó, và đã kêu gọi lãnh đạo miền Bắc hãy kịp thời nhìn ra được nhu cầu tiến hoá của dân tộc để không trụ đóng vào phương tiện cộng sản nữa, nhất là vào phía Trung Quốc.
Lãnh đạo miền Bắc, tất nhiên, hoàn toàn không chia sẻ quan điểm của ông Nhu.
Lãnh đạo Hoa Kỳ, và phần lớn tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hoà, cũng không chia sẻ các quan điểm này.
Tất cả đều muốn biểu dương sức mạnh bắp thịt, xem ai mạnh hơn, to gan hơn.
Kết quả là hai ông Diệm và ông Nhu bị sát hại.
Vài lời kết
Lãnh đạo cộng sản tự bản chất không hề đề cao vai trò trí tuệ trong việc trị nước hay giữ nước. Họ đã từng đề cao "hồng hơn chuyên", "yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa" v.v... Qua các hành động của họ từ xưa đến nay, họ muốn người dân và đảng viên trung thành với đảng hơn với nước. Họ tiếp tục dùng thành quả chiến tranh để đề cao hoặc bảo vệ tính chính nghĩa của họ bấy lâu nay. Họ không chỉ say sưa trong chiến thắng mà còn sử dụng nó để biện minh cho tất cả tội ác của họ trong chiến tranh và về sau, từ Mậu Thân cho đến Đại Lộ Kinh Hoàng cho đến tù cải tạo khắp nước khi chiến tranh chấm dứt. Kết quả của những chính sách vô cùng sai lầm này đã làm kiệt quệ sức sống của dân tộc, làm thui chột các thế hệ trẻ lẽ ra là rường cột nước nhà, và làm mất đi bao nhiêu cơ hội để xây dựng lại con người và đất nước.
Trong khi đó, vấn đề cấp bách ngày hôm nay, cũng như của hai thế kỷ qua, là sự phát triển bền vững của Việt Nam trước hiểm họa ngày càng to lớn của Trung Quốc. Không phải phát triển kinh tế bằng mọi giá, mà là phát triển bền vững, trong đó môi trường xã hội và con người là yếu tố then chốt. Một khi người dân Việt Nam có được tư duy đúng đắn và tích cực thì cái gì cũng làm được cả, và đó mới là sức mạnh thật sự. Sự thành công của người Việt trên khắp thế giới về mặt trí tuệ và chuyên môn cho thấy khả năng và sức mạnh thật sự của dân tộc mình. Nếu có những lãnh đạo quốc gia tài giỏi và đức độ để huy động và khai dụng tiềm năng dân tộc cho quyền lợi quốc gia và quốc dân thì con đường phát triển đất nước sẽ thênh thang.
Để xây dựng cái mới, chúng ta phải can đảm dứt khoát đoạn tuyệt cái cũ. Phải can đảm nhìn ra cái dở cái sai cái hư cái thối của mình. Đừng tự mê và tự sướng với những cái quá lỗi thời, hủ lậu, thuộc viện bảo tàng, nhất là mặt tư tưởng. Nỗ lực nghiên cứu những giá trị văn minh nhân bản của các quốc gia tiên tiến hàng đầu có thể là bước đầu cho một sự thay đổi bền vững và cần thiết cho đất nước và dân tộc Việt Nam hôm nay.
Nhưng điều căn bản và quan trọng trước tiên là phải tìm hiểu lịch sử để học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm. Muốn học hỏi rốt ráo thì phải từ bỏ lối suy nghĩ một chiều, độc tôn độc đoán, và biết tôn trọng sự thật, không bóp méo nó. Tôn thờ sự thật và nỗ lực đi tìm nó sẽ giúp con người tránh lập lại những đau thương mất mát từ sự thiển cận, thù hận, tham lam, dối trá và hèn hạ mà quyền lực tạo ra.
Qua bao nhiêu bài học lịch sử như thế, điều đáng nói là nhóm lãnh đạo Việt Nam hôm nay vẫn trụ đóng vào Trung Quốc. Tổ quốc dân tộc chẳng là gì cả đối với họ. Quyền lực và quyền lợi là tất cả ngày hôm nay, trên mọi thứ.
(Úc Châu, 01/11/2017)
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 01/11/2017
Tài liệu tham khảo :
1. Nguyễn Tiến Hưng, "Viết về bộ phim The Vietnam War", Người Việt, 27/09/2017.
2. Jeff Stein, "Vietnam War : New Ken Burns Documentary Dismisses The Origins Of The Futile, Disastrous Conflict", tạp chí Newsweek, 9/17/2017.
3. Phạm Văn Lưu, "Lịch Sử Chính Trị Cận Đại Việt Nam - Quyển I : Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt Mỹ 1954-1963", Centre For Vietnamese Studies, 2016.
4. Malcolm Fraser, "Common Ground", Viking, 2002, trang 95 đến 97.
5. Tùng Phong – Ngô Đình Nhu, "Chính Đề Việt Nam", Sài Gòn, Nhà Xuất Bản Đồng Nai, 1964.