Làm thế nào chúng ta biết được hiệu quả và hiệu năng của việc chúng ta làm, trên bình diện cá nhân cũng như tập thể, ngắn hạn cũng như dài hạn ?
Phần lớn các lãnh đạo quốc gia, nói riêng, giới trí thức văn nghệ sĩ cũng như nhiều người dân bình thường trong xã hội Tây phương, nói chung, có thói quen viết nhật ký.
Câu trả lời, theo tôi, là gồm nhiều yếu tố, trong đó thông tin/dữ liệu, lý luận/phân tích, và thời gian/bối cảnh mang tính quan yếu.
Khó có thể đo lường bất cứ thành quả nào một cách dài hạn nếu không có đủ thời gian và không nắm rõ bối cảnh vấn đề. Khó có thể đo lường giá trị thật sự của bất cứ một thành quả nào nếu không sử dụng đúng dụng cụ đo, phương pháp đo và không đối chiếu với các kinh nghiệm thành bại thực tiễn của quá khứ (tức không dựa trên phương pháp khoa học). Và khó, nếu không phải là bất khả, để đo lường bất cứ một thành quả lớn hay nhỏ nào nếu không có đủ thông tin và dữ liệu khả tín, xác thực.
Góc nhìn lịch sử
Lịch sử, hay cụ thể hơn, biến cố lịch sử nào cũng gây nhiều tranh cãi. Nó luôn có vô số góc cạnh để nhìn, nhất là khi vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi.
Biến cố lịch sử sau đây là một thí dụ.
Trật tự thế giới hiện nay đang bị thách thức, và tương lai của trật tự trông bất định. Cũng vì thế nên các học giả hàng đầu thế giới đã tranh luận sôi nổi về trật tự này trong thời gian qua, những người mà đại đa số vào thời điểm hình thành trật tự này chưa ra đời. Các học giả tin rằng không đánh giá đúng về nguồn gốc, chức năng và ảnh hưởng của trật tự này thì không thể nào cải tiến hay (tái) xây dựng một trật tự mới có giá trị như mong đợi.
Ngoài các khác biệt rõ ràng giữa xu hướng cấp tiến và hiện thực, ngay cả giữa trường phái cấp tiến với các nhà nghiên cứu sử học cũng có lắm bất đồng. Đó là cuộc tranh luận gây nhiều chú ý giữa học giả và người điều hợp chương trình trên kênh CNN Fareed Zakaria với nhà sử học nổi tiếng hiện nay Niall Ferguson trong loạt tranh luận có tên The Munk Debate Series : Is the Liberal International Order Over ?
Ferguson thì cho rằng cái gọi là trật tự quốc tế cấp tiến (liberal international order) thật ra không có trật tự, không phải quốc tế, và cũng chẳng cấp tiến chút nào.
Trong khi đó, theo Fareed Zakaria thì khoảng một năm sau biến cố Pearl Harbor, tổng thống Hoa Kỳ Franklin Delano Roosevelt gặp Thủ tướng Canada William Lyon Mackenzie King (người nắm giữ chức vụ này lâu đời nhất tại Canada, trên 21 năm) tại văn phòng bầu dục. Lần gặp mặt này, tuy Hoa Kỳ chỉ mới chính thức tham chiến và viễn ảnh chiến tranh chấm dứt vẫn còn khá xa vời, Roosevelt hoàn toàn tin tưởng vào thế tất thắng của phe đồng minh. Nhưng điều Roosevelt quan tâm hơn là viễn ảnh tương lai : làm thế nào để xây dựng một thế giới hợp tác và cạnh tranh chứ không phải đối đầu và chiến tranh nữa. Lịch sử thế giới cho đến thời điểm đó phần lớn mang đậm nét chiến tranh, xung đột, đế quốc thực dân, chủ nghĩa thương mại bảo hộ/quốc gia và chế độ bóc lột.
Tượng Franklin Delano Roosevelt và con chó Fala - Miller Center
Zakaria biện luận rằng Roosevelt không thể tiếp tục ủng hộ một trật tự thế giới như thế nữa. Viễn kiến của Roosevelt là :
1. phải làm cho Trục Quyền (Axis powers, gồm Đức Ý Nhật) đầu hàng hoàn toàn vô điều kiện ;
2. phải yêu cầu Anh quốc và Pháp quốc không tái xây dựng đế quốc của họ khắp nơi như trước đây. Theo Roosevelt thì cần phải xây dựng một thế giới mà tự do và quyền tự quyết có tác dụng bao quát hơn ;
3. Roosevelt mong muốn một thế giới có tự do mậu dịch, thương mại, nhưng cũng cần dựa trên luật lệ rõ ràng và cơ cấu hẳn hoi để qua đó các bất đồng hay tranh chấp chính trị có thể được giải quyết một cách ôn hòa (như Liên Hiệp Quốc).
Roosevelt không sống để nhìn thấy viễn kiến của ông được thực hiện ra sao sau Thế Chiến II, nhưng trong suốt thời gian tại vị, ông Roosevelt nỗ lực không ngừng để thực hiện viễn kiến đó.
Zakaria cho rằng viễn kiến của Roosevelt đã đưa đến sự hình thành trật tự quốc tế cấp tiến.
Bằng chứng ? Vô số. Nhưng đáng kể nhất là từ chính nhật ký của cố Thủ tướng Mackenzie King. Ông đã ghi lại chi tiết nội dung cuộc trao đổi lịch sử này. Điều đáng nói ở đây là thủ tướng Mackenzie King viết nhật ký tất cả những gì ông nghĩ hoặc làm gần sáu thập niên hoạt động chính trị của mình. Thư viện Quốc gia của Canada là nơi lưu trữ tất cả những nhật ký của ông "Diaries of William Lyon Mackenzie King", từ năm 1893 đến 1950, gồm khoảng 50 ngàn trang viết, khi đánh máy còn lại khoảng 30 ngàn trang, và nếu chồng chất các nhật ký của ông lên nhau thì nó sẽ cao hơn 7 mét.
Có lẽ ít có lãnh đạo chính trị viết nhật ký nhiều và chi tiết như Mackenzie King. Nhưng phần lớn các lãnh đạo quốc gia, nói riêng, giới trí thức văn nghệ sĩ cũng như nhiều người dân bình thường trong xã hội Tây phương, nói chung, có thói quen viết nhật ký.
Nó nằm trong văn hóa và giáo dục của họ. Những dữ liệu này góp phần quan trọng trong việc soi sáng những tư tưởng và hành động của những nhân vật công cộng. Các nhật ký cũng như các tài liệu liên quan đến các nhà lãnh đạo chính trị quốc gia được lưu trữ tại các thư viện quốc gia hay các đại học lớn để giới sinh viên và nghiên cứu sử dụng viết luận văn, viết báo hay viết luận án của mình, nếu thích hợp. Các thí dụ điển hình khác là cố Thủ tướng Úc Malcolm Fraser hay cố Thủ tướng Anh Winston Churchill.
Sự tỉ mỉ, chu đáo trong từng lời nói câu viết, và tinh thần lưu trữ tài liệu, tôn trọng sự thật của người ta, nhất là giới lãnh đạo quốc gia, là điều rất đáng khâm phục và học hỏi.
Tất nhiên các nhật ký này không phải là nguồn dữ liệu duy nhất. Người nghiên cứu phải luôn luôn đối chiếu với bao nguồn khác để xem mức độ khả tín của từng vấn đề cũng như bức tranh tổng thể. Người nghiên cứu sử thường muốn biết ngay vào lúc đó, trong cương vị là một lãnh đạo quốc gia, họ đang suy nghĩ gì trong đầu, đang dự tính các chiến lược ra sao, viễn kiến của họ là gì, và các động lực và mong đợi là gì vào lúc đó.
Việt Nam thì… khác
Có người, điển hình như nhà văn Nguyễn Hiến Lê, từng nói rằng viết về lịch sử hay các vấn đề quốc tế dễ hơn viết về Việt Nam bởi tìm dữ liệu, nhất là dữ liệu gốc, thì rất gian nan.
Tư duy tôn trọng dữ kiện, tài liệu, lưu trữ hồ sơ hay bằng chứng, hình như không nằm ở trong văn hóa hay giáo dục của người Việt Nam. Đối với thế hệ một rưỡi hay trước, qua nhiều năm làm việc và quan sát của tôi, phần lớn họ cũng không để ý hay quan tâm gì đến dữ liệu hay văn bản, trừ phi nó thuộc công việc chuyên môn của họ. Trong các sinh hoạt cộng đồng thì họ cũng không quan tâm bao nhiêu.
Có người từng biện luận rằng đó là vì "bút sa gà chết !", vì nền văn hóa chính trị của Việt Nam từ xưa đến nay đầy cạm bẫy, mà bằng chứng chỉ chút họa thêm vào thân ! Tâm lý này đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt từng sống hoặc lớn lên trong môi trường như thế ! "Ngàn năm bia miệng…" phản ảnh tâm trạng bất lực của bao điều bất công trong xã hội, ngay cả ngày hôm nay ! Trong bối cảnh như thế, hiển nhiên chúng ta không thể mong đợi các phong trào dân chủ và các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam lưu trữ các hồ sơ gì nhạy cảm để phải gặp bao phiền toái khó khăn ngoài bao áp lực chính trị và an ninh khác.
Có thể vì thế mà lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay, phần lớn, vẫn chủ yếu được viết theo một chiều. Chiều của bên thắng trận. Tư duy này rất có hại cho sự phát triển của dân tộc. Nó chỉ biện minh tuyên truyền cho bên thắng trận, nhưng trên đường dài, nó che lấp mọi sai lầm dối trá, gây chia rẽ sâu sắc và bịt mắt những thế hệ tương lai. Nó tiếp tục dẫn dắt các thế hệ tiếp theo vào con đường mòn của lịch sử.
Chúng ta cần thay đổi tư duy này nếu muốn các thế hệ hôm nay và mai sau tránh lập lại những vết xe lịch sử ; những bài học bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh linh của hàng ngàn năm qua. Muốn tránh thì phải biết sự thật, hay phải biết phần lớn những gì đã xảy ra trong một biến cố nào đó mà được công nhận là sự thật. Một sự thật tương đối thôi, chứ không hề có cái sự thật tuyệt đối ! Để biết sự thật thì ngoài tinh thần quyết tâm đi tìm hiểu cội nguồn vấn đề, điều quan trọng sau cùng là phải có dữ liệu có văn bản để đối chiếu. Có đầy đủ dữ liệu, cách diễn giải tất nhiên sẽ khác nhau nhưng người đọc có thể tự mình rút ra các nhận định hay bài học. Còn ký ức hay nhân chứng, dù quan trọng, nhưng không thể thay thế văn bản được.
Sự quan tâm và tôn trọng của một người đối với dữ liệu và văn bản, nhất là qua hành động lưu trữ và bảo vệ nó, nói lên được rất nhiều về lòng tự trọng cũng như sự tôn trọng của người đó đối với sự thật. Đó cũng là một thói quen và là một đức tính tốt cần nên tập. Những ai làm việc cho các cơ quan công quyền trong các nền dân chủ đều phải tập như thế. Không chỉ lưu trữ hồ sơ (record-keeping) thôi là đủ, mà còn phải lưu trữ đúng theo các bộ luật ban hành, các tiêu chuẩn, cung cách hành động và các quy tắc quy định khác nhau.
Chẳng hạn như tại Úc, lưu trữ hồ sơ phải tuân theo các Bộ luật như Privacy Act 1988, Public Servic Act 1999, Freedom of Information Act 1982, Evidence Act 1995, Electronic Transaction Act 1999, Crimes Act 1914, Copyright Act 1968, Archives Act 1983 vân vân… Tất cả nhân viên khi bắt đầu công việc của mình đều được đào tạo kỹ càng để hiểu về bổn phận và trách nhiệm của mình trong việc lưu trữ hồ sơ. Họ phải tôn trọng các chính sách, các hướng dẫn, các thủ tục và tiêu chuẩn khi lưu trữ hồ sơ. Họ phải bảo vệ nó, và không được quyền hủy hoại nó, nếu nó đã là bằng chứng của hoạt động nghề nghiệp. Hủy hoại hồ sơ là một hành vi không thể chấp nhận trước nền công lý và pháp luật.
Nói chung, hầu như, nếu không phải là tất cả, mọi việc công đều dựa trên bằng chứng hẳn hoi. Không có bằng chứng thì không bảo vệ được những quyết định của mình. Như thế thì khi bị thách thức, bị kháng cáo, tại các phiên tòa công lý tại Úc như Administrative Appeal Tribunal, hay các tòa án liên bang như Federal Circuit Court, Full Federal Court hoặc High Court (Tòa Tối Cao/Thượng Thẩm), thì rất khó, nếu không phải là bất khả, để bảo vệ lấy luận điểm của một người, dù người đó có đúng hoàn toàn trên mặt lý đi chăng nữa.
Mọi tổ chức lớn hay nhỏ, công hay tư, doanh nghiệp hay phi lợi nhuận v.v… càng thành công và vững mạnh càng phải có văn hóa lưu trữ hồ sơ chuyên nghiệp. Không thể phát triển và không thể chuyên nghiệp nếu vẫn có tư duy xử lý hồ sơ tùy tiện.
Thay đổi thói quen là một điều khó. Nhưng muốn xây dựng một quốc gia pháp quyền, chứ không phải một quốc gia mà lãnh đạo hay người trách nhiệm tùy tiện quyết định theo cảm nghĩ hay cảm hứng lúc đó, thì phải thay đổi thói quen. Đây là một vấn đề tinh thần : nhận thức bằng tri thức.
Luật An ninh mạng : Cơ hội hay đe dọa ?
Khủng bố tại một số nước Trung Đông xảy ra thường xuyên, có lúc hàng ngày, giữa các giáo phái hoặc phiến quân Shiite và Sunni, giữa các nhóm khủng bố Taliban hoặc ISIS với các chính quyền mới được thiết lập, đặc biệt là tại các vùng ngoại ô nơi an ninh chưa được kiểm soát hoàn toàn. Mỗi khi có biến sự như thế, điển hình như tại Pakistan hay Afghanistan v.v… thì các cơ quan nghiên cứu độc lập như Cổng Thông tin Khủng bố Nam Á (SATP ) hay Viện Pak cho Nghiên cứu Hòa bình (PIPS ), v.v… lưu trữ từng sự kiện với các thông tin cơ bản. Ngoài ra mỗi ba tháng hoặc sáu tháng, họ cho phổ biến các bản báo cáo đánh giá về an ninh, các nghiên cứu về nhiều lĩnh vực khác nhau, các tóm tắc chính sách (policy briefs) hay các báo cáo và các sách mang tính học thuật dựa trên những dữ liệu thu thập này. Các tổ chức nhân quyền, Liên Hiệp Quốc cũng như các trường đại học và cơ quan công quyền của các chính phủ trên toàn thế giới chịu ảnh hưởng bởi các dữ liệu và phân tích này khi tìm hiểu về tình hình chính trị và an ninh nơi đây.
Người Việt không phải là không có khả năng làm chuyện này. Cũng không phải là không có nguồn lực để thực hiện. Tôi không tin và không nghĩ vậy. Tôi nhận xét rằng chúng ta dường như không coi trọng và không quan tâm đủ mà thôi. Nếu chúng ta bắt đầu ngay bây giờ, trong một năm tới chúng ta sẽ xây dựng được cơ sở dữ liệu cho những gì xảy ra trong năm 2018 và 2019. Phải làm sao để mọi hành vi sai trái của chế độ phải chịu trách nhiệm giải trình, nếu không bây giờ thì sau này. Sau đó chúng ta từng bước xây dựng bằng cách thu thập dữ liệu của một thập niên qua, rồi dần dần các thập niên qua. Mỗi người có thể phụ một tay thì công việc sẽ sớm thành tựu. Khi có đủ dữ liệu tập trung vào một nơi được quản lý chuyên nghiệp, giới chuyên gia và nghiên cứu toàn cầu sẽ dựa vào đó để đưa ra những phân tích và nhận định có giá trị, kể cả việc xu hướng tương lai diễn biến ra sao. Chúng ta sẽ bớt đi thói quen nói càng nói đại mà chẳng dựa trên bằng chứng dữ kiện nào cả (thói quen này rất tai hại ở chỗ người ta dễ nghe theo tin vịt/fake news và sau đó đi phổ biến các tin vịt này vì họ vẫn không ý thức rằng nó không có thật). Nó cũng thay đổi cả nếp suy nghĩ và văn hóa Việt Nam. Các ảnh hưởng này sẽ tác động trên bình diện toàn cầu và lên cả sự cầm quyền của chế độ dù họ có ra sức bưng bít và tuyên truyền bao nhiêu đi nữa.
Ngoài ra thói quen tôn trọng lưu trữ hồ sơ dữ liệu và đánh giá lượng định mọi vấn đề dựa trên bằng chứng dữ liệu hẳn hoi sẽ giúp cho chúng ta vừa tránh được các lỗi lầm không cần thiết trong quá khứ, vừa giúp cho chúng ta từng bước cải tiến các chương trình làm việc của mình một cách hiệu quả hơn. Trong mọi vấn đề và lĩnh vực.
Luật An ninh mạng đã được Quốc hội Việt Nam thông qua tháng Sáu năm 2018 và bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2019. Hiển nhiên nhiều người quan ngại có nên tiếp tục nói lên quan điểm của mình, nếu đã làm từ trước đến nay, hay phải tự kiểm duyệt lấy lời nói hay hành động của mình. Bạn Vi Yên thuộc nhóm SAVENET đã trình bày một số suy nghĩ thiết thực và hữu lý về vấn đề này. Nhóm SAVENET cũng có chuẩn bị một cẩm nang biên soạn công phu để hướng dẫn những ai quan tâm đến vấn đề hiểu và biết cách đối phó tốt nhất, vì "có tri thức sẽ không sợ hãi" vô cớ.
Luật An ninh mạng đang là một thách thức cho phong trào dân chủ và xã hội dân sự tại Việt Nam. Nó là một công cụ nữa trong hộp đồ nghề trấn áp đồ sộ của chế độ hiện nay. Trong những ngày tháng tới, có nhiều khả năng chính quyền sẽ sẵn sàng sử dụng vật tế thần để răn đe những người khác, đặt người sử dụng vào thế thủ, thế bị động. Ngược lại, những người khác sẽ từng bước theo dõi mọi hành động và phản ứng của chế độ.
Nhưng theo dõi thôi không ăn nhằm gì cả. Gần chín thập niên hoạt động trên đất nước Việt Nam, trong đó hơn bảy thập niên cầm quyền tại miền Bắc và bốn thập niên trên toàn nước, chế độ đã gây bao nhiêu tang tóc và làm bao nhiêu lỗi lầm. Họ vẫn ngang nhiên phủ nhận hầu như tất cả các thảm họa mà chính họ gây ra. Họ vẫn độc quyền sự thật vì khả năng bưng bít và tuyên truyền của họ, nhưng phần khác vì vẫn chưa có một cơ quan chuyên môn và uy tín nào sưu tầm và lưu trữ tất cả các dữ liệu thô (raw data) về các tội ác và sai lầm của chế độ từ trước đến nay. Các dữ liệu thô là nền tảng thiết yếu của mọi cuộc nghiên cứu học thuật. Chết trong đồn công an, cướp đất và dân oan, tham nhũng trong mọi lĩnh vực, sách nhiễu tình dục, ấu dâm trong nhà trường v.v… xảy ra quá thường xuyên để rồi người ta cảm thấy nó bình thường. Khi người dân chấp nhận điều bất thường như là bình thường thì nó vô cùng nguy hiểm bởi mọi thang giá trị không còn ý nghĩa nào cả. Trong khi đó tất cả mọi sai trái cần phải bị lên án và cần phải được ghi chép lại đầy đủ và trung thực. Điều cần quan tâm là dù lý luận có hay ho đến mấy nhưng dữ liệu không đầy đủ, không xác thực hoặc thiếu kiểm chứng, thì mọi sự khả tín và mọi tính học thuật đều vô nghĩa.
Vài lời kết
Thay đổi xã hội, văn hóa và chính trị là việc làm vô cùng gian nan. Để thành công thì nó phải là sự liên kết và tổng hợp nguồn lực của phần lớn người dân trong và ngoài quốc gia đó, để cân bằng và tạo áp lực thay đổi. Muốn tránh lập lại các sai lầm của lịch sử thì cần phải ý thức, nhất là bằng cách tự đánh giá, về các hoạt động của chính mình hiện nay. Chẳng hạn, nếu mục tiêu là dân chủ hóa, thì những tư duy và hành động của mình hiện nay có nguy cơ nào góp phần vào việc tái lập một chế độ độc tài ở một hình thức khác chăng !
Thay đổi xã hội luôn bắt đầu từ mỗi cá nhân, và trong mỗi cá nhân phải bắt đầu bằng chính tư duy của người đó. Muốn làm được như thế thì những người quan tâm cần phải nhìn lại chính mình, rà xét lại các công việc mình đã làm trong thời gian qua, và đánh giá và rút rỉa kinh nghiệm trong thời gian tới. Ngoài ra chúng ta phải nhìn các thử thách như là cơ hội, rà xét lại cách làm việc để nâng cao hiệu quả hơn trong thời gian tới và đề ra những chiến lược và chính sách thích hợp để thuyết phục người khác cùng thực hiện. Còn nếu chỉ nhìn thử thách là đe dọa thôi thì chúng ta vẫn cứ trấn thủ, mà trấn thủ thì không thay đổi được chính mình, huống chi người khác.
Mọi chế độ độc tài đều tìm cách đặt người dân vào tư thế bị động, cô đơn/lập, bị đe dọa, và phản ứng thay vì chủ động. Mục tiêu sau cùng của Luật An ninh mạng là thế. Nhưng sử dụng tri thức thì chúng ta sẽ tránh rơi vào bẫy của chế độ. Chúng ta cần nhận thức rằng Luật An ninh mạng cũng như rừng luật khác của chế độ rốt cuộc họ cũng chỉ dùng luật rừng. Bởi phần lớn những gì họ đã và đang làm trong bao thập niên qua đều bất chính và vi hiến. Hiến pháp và pháp luật của nhà nước Việt Nam đi ngược lại bao nhiêu điều trong các công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, về tra tấn, quyền trẻ em v.v… mà Việt Nam đã ký kết và cam kết nhưng chẳng coi ra gì.
Do đó chiến lược thiết yếu vẫn là tấn công, đặt chế độ vào thế bị động, phản ứng. Họ có quá nhiều lỗi lầm và sai sót trong chính sách và hành động. Không cần làm lớn chuyện hay chính trị hóa vấn đề. Chỉ cần phân tích và lý luận vững vàng dựa trên các bằng chứng hẳn hoi là đủ thuyết phục và hiệu quả.
Chúng ta sẽ không thể làm được các việc này một cách hệ thống và khoa học nếu không dựa trên các dữ kiện khả tín và các phương pháp phân tích và lý luận khoa học khách quan. Tôn trọng hồ sơ, dữ kiện, bằng chứng và "nói có sách, mách có chứng" là các bước quan trọng hàng đầu không thể bỏ qua nếu muốn có kết quả sau cùng có giá trị lâu dài và vững ổn.
Úc Châu, 6 tháng Giêng năm 2019
Phạm Phú Khải
"Cuốn sách được viết một cách điêu luyện này sẽ giúp bạn hiểu rằng ngôn từ chứa đựng sức mạnh vốn có, có thể chiếu sáng con đường và chân trời hy vọng của một người. Dùng một cách chính xác và tích cực, ngôn từ là khối xây dựng đầu tiên cho thành công và bình an nội tâm, bởi nó cho tầm nhìn và trọng điểm để chỉ vẽ con đường đưa đến phát triển và đóng góp. Dùng không đúng đắn và tiêu cực, nó có khả năng phá hoại ngay cả khi bao hàm ý định tốt nhất. Điều này đúng trong quan hệ làm ăn, cá nhân và trong mọi mặt đời sống.
Có loại ngôn ngữ thành công và loại ngôn ngữ phiền muộn. Có loại ngôn ngữ tiến bộ và loại ngôn ngữ thoái bộ. Ngôn từ bán chạy và ngôn từ xua đuổi. Ngôn từ dẫn đường và ngôn từ cản trở. Ngôn từ hàn gắn và ngôn từ giết hại. Bằng cách thật sự hiểu được các ngôn từ có ý nghĩa gì trong sự tinh khiết nhất của nó, chúng ta có thể mở khóa các giá trị quan trọng và thiên liêng, và đặt chúng ta vào vị thế để phát triển khả năng lãnh đạo mới để mà nhìn lên, chứ không phải nhìn xuống, và khuyến khích, động viên, nâng cao, kích thích và vươn về phía trước. Khi dùng đúng mực, ngôn từ có thể hát cùng trái tim con người…
Sức mạnh của ngôn từ tạo ra giàu sang, sức khỏe, năng xuất, kỹ luật, tâm linh và bao đặt tính ưa chuộng khác của con người một cách không giới hạn".
Sách "Khao khát" (Aspire) của Kevin Hall, xuất bản năm 2009 - Hình minh họa.
Đây là lời giới thiệu của Stephen R. Covey, tác giả "Bảy thói quen của những người hiệu quả cao" [1], dành cho cuốn sách "Khao khát" (Aspire) của Kevin Hall, xuất bản năm 2009 [2].
Trước đây tôi có dịp đọc "Sống với chữ" của nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc năm 2004. Rất thích. Cho nên tôi cứ mong đợi hoài cuốn sách chỉ nói về một chữ thôi của ông [3].
Quả thật những nhà văn, nhà thơ, văn nghệ sĩ, phê bình văn học, v.v… là những người có tài năng điêu luyện biến chữ thành bất cứ điều gì mà đầu óc tưởng tượng của con người có thể. Ngôn từ là dụng cụ là vũ khí của họ. Người ta thường nói một bức tranh trị giá hàng ngàn chữ, nhưng theo Hall, cũng có những chữ trị giá hàng ngàn bức tranh.
Tôi đã đọc tác phẩm "Khao khát" của Hall nói trên. Thấy lời giới thiệu ý nghĩa nên cũng muốn ghi lại để chia sẻ với bạn đọc. Quả thật Hall viết rất hay. Không phải là một nhà văn thuần túy, Hall chủ yếu là nhà tư vấn kinh doanh, một nhà diễn thuyết và một huấn luyện viên. Hall quan tâm đến lãnh đạo, muốn truyền cảm hứng và đào tạo những thế hệ lãnh đạo tài giỏi đức độ, có thể vì ông đã thấm nhuần các sinh hoạt trong Hướng Đạo từ nhỏ và sau này tiếp tục huấn luyện cho các thế hệ kế thừa. Hall được biết đến nhiều nhất là qua cách tiếp cận khám phá ra các ý nghĩa thường được dấu kín hay bí mật trong ngôn từ. Vì đam mê này là Hall có cơ duyên gặp một người thầy chuyên về chữ nghĩa, một nhà ngôn từ học hiếm có. Hall tin là những người có cùng đam mê mạnh mẽ sẽ gặp nhau trên cùng con đường.
Khi khám phá ra ngôn từ mới với ý nghĩa sâu sắc, Hall vô cùng hạnh phúc dành thời gian đi tìm nguồn gốc của ngôn từ đó, bất kể nó xuất xứ từ ngôn ngữ nào. Có những ngôn từ trở thành châm ngôn, triết lý sống, của nhiều người, cho nên Hall làm quen, kết thân và nối kết các ý tưởng và con người lại với nhau, tạo nhịp cầu. Một người bạn khi biết Hall đam mê chữ nghĩa liền giới thiệu Hall với một người tên Arthur Watkins. Watkins lấy bằng tiến sĩ về ngôn ngữ học tại trường đại học Stanford, và đã dạy ngôn ngữ ở bậc đại học gần bốn chục năm. Ông thông thạo cả chục ngôn ngữ khác nhau. Trong Thế Chiến II, Watkins đã giúp giải mã các ghi chép của quân đội Đức trên mặt trận tại Ý. Có lẽ ít có ai mà yêu chữ nghĩa, "sống với chữ", như Watkins, cho nên mặc dầu lớn tuổi và trong viện dưỡng lão, đầu óc ông luôn minh mẫn và tinh thần luôn lạc quan ở tuổi 90. Watkins, một nhà ngôn từ, hay từ nguyên học, qua cơ duyên gặp Hall và ông đã giúp Hall tìm hiểu các ngôn từ đến ngọn ngành.
Đọc sách này, tôi cũng cảm thấy yêu chữ nghĩa hơn. Và yêu cái đa nguyên và sâu sắc của vạn vật. Trước đây, tôi hiểu chữ "inspire" là truyền cảm hứng, và theo tự điển Oxford thì có nghĩa là làm cho một người nào đó có đầy sự thôi thúc hoặc khả năng để làm hoặc cảm nghĩ về một điều gì đó, nhất là để làm cái gì đó sáng tạo. Watkins giải thích chữ inspire xuất xứ từ chữ La Tinh "inspirare", trong đó "spirare" có nghĩa là thở, và "in" có nghĩa là vào. Cho nên "inspire" có nghĩa là thở vào, cho hơi thở vào. Watkins giải nghĩa khi chúng ta truyền hơi "thở", cho sự sống, vào một người khác, chúng ta động viên hy vọng, mục tiêu và ước mơ của họ. Còn khi chúng ta lấy hơi thở ra khỏi một người, tức chữ "expire", nghĩa là "breathe out", chúng ta làm tiêu tan hy vọng, mục tiêu và ước mơ của người đó. Chữ "expire" có nghĩa là chấm dứt, kết thúc, tiêu tan là vậy. Còn "aspire" có nghĩa là "to breathe", dồn hy vọng hay tham vọng của một người để đạt được điều gì đó, đồng nghĩa với khao khát, vươn lên cao, hướng thượng.
Watkins giải thích chữ "leader" đến từ hai chữ "lea" và "der". "Lea" có nghĩa là con đường (path), và "der" có nghĩa là người đi tìm (finder). Leader, người lãnh đạo, là người đi tìm con đường, người đọc được các dấu hiệu và các đầu mối, người nhìn thấy và chỉ dẫn cho người khác. Các khả năng này mang tính sống còn đối với người xưa. Watkins cho rằng, quan trọng không kém, người lãnh đạo trước khi có thể giúp chỉ đường cho người khác phải biết rõ con đường của mình.
Tác phẩm "Khao khát" này có mười một chương, mỗi chương nói về một chữ, và câu chuyện liên quan đến các chữ đó đều rất thú vị và duyên ngộ. Tôi thích tất cả các chữ này, nhưng có lẽ thích nhất là chữ "genshai". Hall kể câu chuyện tình cờ, duyên ngộ, gặp được người mang tên Pravin Cherkoori, một họa sĩ người Ấn Độ tại Vienna, Áo. Mới gặp nhau mà hai người Kevin và Pravin tưởng như anh em, quen nhau từ kiếp trước. Pravin kể cho Kevin nghe tóm tắc về cuộc đời của mình, từ một người sinh trưởng ở Calcutta, nghèo nhất của những nơi nghèo ở Ấn Độ, nhưng nhờ được ăn học và cố gắng nên thoát khỏi vòng xiềng xích của đói nghèo. Mẹ của Pravin dạy cho ông nhiều điều hay, nhưng quan trọng nhất trong đó là ý nghĩa của một từ cổ Hindu, tên "genshai".
"Genshai" có nghĩa là "Bạn không bao giờ nên đối xử với mình hay người khác bằng thái độ khiến người đó cảm thấy nhỏ bé" (You should NEVER treat yourself or another person in a manner that makes one feel small). Pravin giải thích rằng nếu trên đường đi gặp phải người ăn xin rồi ném cho người đó đồng tiền thì đó không phải là thực hành genshai ; nhưng nếu mình quỳ xuống bằng đầu gối, nhìn vào ánh mắt người đó, và đặt đồng tiền vào bàn tay của người đó, thì đồng tiền đó là tình thương, và mình mới thật sự thể hiện genshai [4].
Khó. Thực hiện tinh thần GENSHAI không hề dễ chút nào. Nhưng để vươn lên cao, để hướng thượng, với lòng khát khao, chúng ta càng phải luyện tập khả năng hạ mình xuống càng thấp, phải càng khiêm nhường. Cũng như để hiểu một vấn đề gì đó, tức understand, thì mình phải stand under, tức đứng dưới. Hall cho rằng theo ngôn từ học đúng nghĩa, để hiểu, understand, thì đúng ra không phải đứng bên dưới mà là đứng với người khác (stand with) hay đứng giữa (stand among) người khác.
Chữ nghĩa hay, kỳ diệu và thâm sâu thật.
Không biết tiếng Việt hay tiếng Hán có chữ nào có cùng ý nghĩa genshai không ?
Vào dịp Giáng Sinh và cuối năm 2018, xin chúc quý bạn đọc một năm mới 2019 tràn đầy niềm tin, lạc quan và thành đạt.
Úc Châu, 27/12/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 03/01/2019
Tài liệu tham khảo :
1. Stephen R. Covey, "The seven habits of highly effective people", RosettaBooks, 2009/2012. Covey nổi tiếng qua nhiều tác phẩm, nhưng cuốn này bán hơn mười triệu bản.
2. Kevin Hall, "Aspire : Discovering Your Purpose Through the Power of Words", HarperCollins e-Books, 2009.
3. "Sống với chữ : Tác phẩm mới nhất của Nguyễn Hưng Quốc ", Tiền Vệ, 2004.
4. Có thể xem video của Kevin Hall về cuốn sách này, "Genshai ", TEDx Talks on Youtube, Accessed on 08/09/2018.
Phần 1
Trong bài phát biểu tại hội nghị APEC, ông Tập Cận Bình nhấn mạnh nhu cầu hợp tác toàn cầu và thương mại quốc tế, xác định rằng không có vấn đề gì là không thể giải quyết bằng cách tham khảo nhau. Ông Tập nhận xét : "Lịch sử cho thấy sự đối đầu, qua hình thức chiến tranh lạnh, nóng hay chiến tranh thương mại, sẽ không tạo ra người thắng cuộc". Ông Tập dạy đời rằng thế giới cần "khai dụng sức mạnh của nhau và theo đuổi sự đồng tồn (pursue coexistence)", hơn là phê bình sự chọn lựa nội bộ của các quốc gia khác. Ông Tập lên lớp : "Chúng ta phải bác bỏ sự kiêu ngạo và thành kiến, tôn trọng và hòa nhập với nhau, và ôm ấp sự đa nguyên của thế giới chúng ta".
Tập Cận Bình tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc bắt đầu cải cách.
Nghe thì hay ! Ôn hòa và hữu lý ! Đạo đức nữa ! Nhưng chính những lời nói trên có vẻ đi ngược lại các chính sách đối nội lẫn đối ngoại của ông Tập.
Trước khi lên lớp khuyên nhủ thiên hạ, thiết tưởng ông Tập nên nhìn lại chính mình và cái đảng và nhà nước của ông.
Tham vọng tột cùng
Một quốc gia gần 1,4 tỷ người, nhưng hầu như mọi quyết định quan trọng về quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, công nghệ, văn hóa v.v… đều phải thông qua ông Tập. Ba thập niên trước, hệ thống chính trị Trung Quốc có tính cách lãnh đạo tập thể, Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng là cơ quan quyết định tối cao. Giờ đây không còn lãnh đạo tập thể, chỉ còn lãnh đạo tối cao với một cá nhân mạnh. Ông Tập có chân trong mọi ủy ban quan trọng nhất giám sát chính sách, từ các vấn đề mạng, cải tổ kinh tế, đến an ninh quốc gia. Sự sắp xếp như thế thể hiện một hệ thống và văn hóa chính trị có truyền thống tôn sùng chủ nghĩa cá nhân (quân chủ, như ngàn xưa), nhưng nó được núp dưới chiêu bài tập thể, dân tộc. Trong trường hợp của ông Tập tại Trung Quốc, chiêu bài đó có tên "Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc tính Trung Hoa trong thời đại mới".
Chỉ trong vòng chưa đầy 6 năm cầm quyền, ông Tập đã tập trung quyền lực vào tay mình trong một thời gian ngắn. Ông bây giờ trở thành Chủ tịch mọi thứ và vô hạn định, và tư tưởng còn được khắc ghi trong Đảng quy và Hiến pháp của Trung Quốc. Nhưng cái gọi là "tư tưởng Tập Cận Bình" thật ra không có gì mới hay có thể gọi là "tư tưởng" theo kiểu hiểu Tây phương hay học thuật. Nó chủ yếu là khung sườn để dung hợp các chính sách và chủ trương của Đảng Cộng sản Trung Quốc với ý thức hệ chính trị và cá nhân của ông Tập. Nó bao gồm 14 nguyên tắc, hay có thể gọi là 14 điểm chính sách căn bản, của họ Tập.
Trong 10 mệnh đề về chương trình điều hành quốc gia, gồm 131 chữ, thì có 5 điều về quân sự, bốn điều về xã hội và một về ngoại giao, trong đó nhấn mạnh vai trò của đảng là trên hết, sau đó đến vai trò của Quân đội (Giải phóng Nhân dân, PLA). Nhưng đảng có quyền lãnh đạo tuyệt đối trên PLA và các lực lượng vũ trang khác. Ngoài ra, "tư tưởng" của họ Tập là quên đi các tư duy đa nguyên, dân chủ hay vai trò tối cao của chính quyền, và phải nhớ rằng Đảng luôn nắm quyền tuyệt đối và toàn diện để kiểm soát được sự phát triển của xã hội trong trật tự.
Ngoài Vành đai Con đường, một dự án có nhiều tham vọng về đối nội lẫn đối ngoại, "tư tưởng" này nhấn mạnh đến cộng đồng dân tộc Trung Quốc. Nhưng dân tộc ở đây không còn như trước là gồm người Hán, Mãn Châu, Mông Cổ, Hồi và Tibet, mà chỉ còn Hán tộc dước triều đại của họ Tập. Các sắc tộc khác hầu như bị bỏ rơi. Thêm vào đó, họ Tập lại muốn tiếng Quan Thoại được tiêu chuẩn hóa bắt buộc cho tất cả 1,4 tỷ người, kể cả người Tàu ở Hồng Kông hay người Uighur tại Tân Cương. Tất cả đều phải học một cách đồng nhất. Nói cách khác, chủ trương của họ Tập là để đồng hóa văn hóa trước hết phải đồng hóa ngôn ngữ. Đa nguyên, dù trong ngôn ngữ hay văn hoá, đều là sự thách thức đối với sự kiểm soát của Trung Quốc.
Thêm vào đó, tuy đã bị Mao Trạch Đông chê trách cổ hủ ở thế kỷ trước, Khổng giáo được đề cao trở lại, và phiên bản Khổng giáo của thế kỷ 21 nay được ông Tập chính thức công nhận. Ít nhất cũng là phương tiện để mở rộng tầm ảnh hưởng. Ông Tập cho thành lập và phát triển các viện Khổng Tử khắp nơi như là trung tâm ngôn ngữ và văn hóa, hiện nay được 500 trường đại học trên toàn thế giới giảng dạy. Học tiếng Hán qua các Viện Khổng Tử này là theo đúng đường lối và chủ trương của ông Tập. Nó củng cố phiên bản tiếng Hán mà Bắc Kinh đưa ra, qua đó một phần phải học các chương trình mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã soạn sẵn, phần khác không được đụng đến các đề tài nhạy cảm mà Đảng đã xóa bỏ hay kiểm soát, như biến cố Thiên An Môn, Đức Đạt Lai Lạt Ma/Tibet, và bây giờ có thể là vấn đề đàn áp người Uighur tại Tân Cương. Tiếng Hán giảng dạy qua các Viện Khổng Tử, tuy tốn kém rất nhiều, nhưng Trung Quốc sẵn sàng chi tiền mua để đổi lấy quyền lực mềm mà Trung Quốc rất cần trong thời gian qua và sắp tới.
Với những dự án và tham vọng khổng lồ cho giấc mộng bá quyền, như Vành đai Con đường, hay "Made in China 2025", sự tiến bước của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của họ Tập tưởng như không có gì ngăn cản được. Nhưng 2018 chứng minh là năm mà những thách thức đối với Trung Quốc nói chung và chính Tập Cận Bình nói riêng bắt đầu lớn dần. Những thử thách này sẽ không đi đâu cả và sẽ tiếp tục ảnh hưởng lên Trung Quốc và lên tư thế cầm quyền của ông Tập vào năm 2019 và các năm sau đó.
Tôi xin tập trung nói về ba thử thách lâu dài : nhân quyền và áp lực quốc tế ; kinh tế và áp lực quốc nội ; tín nhiệm và áp lực ngoại giao. Các vấn đề địa chính trị, bao gồm các nỗ lực liên minh tại Á châu Thái Bình Dương như Nhật, Ấn, Úc, Mỹ v.v… để cân bằng hay kiềm chế quyền lực của Trung Quốc, hay chính trị nội địa, không nằm trong phạm vi của bài này.
Nhân quyền : vấn đề quốc tế
Về vấn đề nhân quyền, trước hết cần nói về sự đối xử của đảng và nhà nước của ông Tập đối với người Uighur tại Tân Cương.
Sau bao nhiêu tiếng kêu gào của cộng đồng người Uighur tại Tân Cương và lưu vong trên khắp thế giới trong hai năm qua, giờ đây các chính sách tập trung và đồng hóa của Trung Quốc tại Tân Cương đã bị phơi bày và phản đối khắp nơi. Khoảng một triệu người bị tập trung trong hàng trăm trại cải tạo trong vùng này bị ép buộc phải từ bỏ ngôn ngữ, niềm tin tôn giáo và các hoạt động văn hóa của họ. Họ phải học tập cái gọi là tư tưởng Tập Cận Bình, như đề cập trên. Bên ngoài các trại này thì hơn 10 triệu người sắc tộc thiểu số gốc Thổ (Turkic) bị theo dõi, kiểm soát và giới hạn mọi quyền tự do cá nhân. Tất nhiên Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của ông Tập sẽphủ nhận mọi vi phạm nhân quyền của họ. Chế độ đổ lỗi cho các thành phần Hồi giáo muốn ly khai và gán cho thành phần này cái mũ khủng bố. Tuy chế độ có thể bưng bít và tuyên truyền với người dân Trung Hoa các chính sách đối xử tồi tệ với người Uighur, họ không dễ gì lừa bịp được thế giới này. Thân nhân của người Uighur hiện đang sống khắp nơi trên thế giới, và là tai mắt và nhân chứng cho các chính sách đồng hóa khắc nghiệt này. Chẳng hạn như tại Úc, các cộng đồng Uighur tại các thành phố Adelaide, Melbourne và Sydney hầu như ai cũng có thể kể câu chuyện về sự mất liên lạc với thân nhân của mình tại Tân Cương trong thời gian qua.
Thế giới đã mạnh mẽ lên án hành động vi phạm nhân quyền ở tầm mức khổng lồ và trầm trọng này của Trung Quốc. Điển hình là quốc hội Hoa Kỳ, cả hai viện và lưỡng đảng, mà đứng đầu nỗ lực này là Thượng Nghị sĩ Marco Rubio ; 278 nhà khoa bảng trong mọi lĩnh vực trên toàn thế giới ; các chuyên gia nhân quyền Liên Hiệp Quốc ; 15 đại sứ của các quốc gia Tây phương đứng đầu là Canada ; và các cuộc biểu tình rầm rộ của người dân khắp nơi đồng hành với người Uighur. Ông Tập và giới lãnh đạo Bắc Kinh không muốn thế giới phê bình họ về chính sách đối xử với người Uighur, do đó trong mọi diễn đàn mà có thể, ông Tập đều kêu gọi các nước khác nên tôn trọng hơn là "phê bình sự chọn lựa nội bộ của các quốc gia khác". Ông Tập có vẻ tự hào vềhệ thống kiểm soát được được thiết kế và thử nghiệm tại Trung Quốc, kể cả Tân Cương, và còn cho rằng kiểu mẫu "ổn định xã hội" được áp dụng tại đây nên được xuất khẩu qua Trung Đông. Nhưng ông Tập quên rằng quốc gia mà ông đang lãnh đạo có thể đạt được các bước tiến công nghệ của thế kỷ 21 nhưng vẫn mang tư duy và văn hóa cổ hủ và độc đoán của hàng ngàn năm trước. Ông Tập không nhìn ra được rằng vẫn có nhiều cách điều hành quản lý quốc gia văn minh và hiệu quả hơn, không nhất thiết phải đối xử tàn tệ và áp bức để người dân và các sắc tộc thiểu số.
Ngoài sự đối xử với hàng triệu người Uighur hay người Thổ như thế, người ta sẽ không quên cái chết của Lưu Hiểu Ba vào ngày 13 tháng 7 năm ngoái, lúc mà ông Tập đang đứng trên đỉnh cao nhất của quyền lực. Với bao nhiêu quyền lực trong tay như thế, nắm trọn các chức vụ chủ tịch chính yếu, kể cả Ủy ban Quân sự Trung Ương hay Ủy ban An ninh Quốc gia, vậy mà ông Tập vẫn lo ngại một ông Lưu ốm yếu bệnh tật hiểm nghèo để không cho ông xuất ngoại chữa bệnh.
Từ khi ông Tập lên đỉnh cao quyền lực đầu năm 2013 đến nay, các giá trị phổ quát hay các nền dân chủ hiến định Tây phương được xem là động lực rình rập được thiết kế để làm suy yếu, gây bất ổn và phá nát Trung Quốc. Nội trong năm 2015, Trung Quốc đã giam cầm 300 luật sư, các nhà hoạt động và hỗ trợ pháp lý. Ngày hôm nay nó vẫn tiếp diễn, và các đối tượng của họ Tập là phóng viên, lãnh đạo tôn giáo, giới khoa bảng, các nhà hoạt động xã hội và các luật sư nhân quyền. Một trong các chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc, Orville Schell, nhận định rằng Trung Quốc đã thụt lùi một cách không thể tránh khỏi vào không khí chính trị có tính cách giống Mao Trạch Đông thời 1970 hơn là Đặng Tiểu Bình thời 1980.
Một vài phát họa nêu trên cho thấy được những lời hoa mỹ của ông Tập, chẳng hạn như nên tham khảo nhau, không nên đối đầu, nên theo đuổi đồng tồn, và nhất là "phải bác bỏ sự kiêu ngạo và thành kiến, tôn trọng và hòa nhập với nhau, và ôm ấp sự đa nguyên của thế giới chúng ta" v.v… cho thấy ông Tập đầy mâu thuẫn. Nói một đàng làm một nẻo. Đối ngoại thì ông Tập yêu cầu tham khảo nhau và ôm ấp sự đa dạng. Đối nội thì ông Tập và Bộ Chính trị hay Ủy ban Thường vụ của ông chẳng cần tham khảo ai và tiêu diệt sự đa dạng. Chế độ của ông tập có coi ý kiến của dân ra gì, có bao giờ tham khảo họ hay có ý định hỏi họ thật sự muốn gì. Còn mọi hình thức đa nguyên đều bị loại trừ hay triệu tiêu để trở thành nhất nguyên, trong đó Hán tộc, tiếng Quan Thoại được tiêu chuẩn hóa, hay các vùng tự trị trước đây, từ Tân Cương đến Tibet hay Hồng Kông v.v…, cũng sẽ nằm trong chủ trương hội nhập với Bắc Kinh để trở thành khối đồng nhất. Để Trung Quốc trở thành một quốc gia trung tâm của thiên hạ vào thế kỷ 21.
Thời đại của tư tưởng Tập Cận Bình là như thế đó !
Ông Tập quên rằng cho dầu Trung Quốc có quyền lực và giàu có bao nhiêu, có là bá chủ thiên hạ đi nữa, nhưng nếu nó vẫn vi phạm nhân quyền, vẫn tiếp tục đi đàn áp người dân của mình hay các sắc tộc thiểu số khác, thì sẽ không bao giờ được những người tự do và tự trọng trên thế giới tôn trọng mình cả.
*******************
Phần 2
Kinh tế Trung Quốc không ngừng phát triển trong bốn thập niên qua, giúp trở thành nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, thu hoạch số lượng người trở thành tỷ phú nhiều nhất thế giới trong một thời gian ngắn kỷ lục. 104 tỷ phú này đang nắm giữ các vai trò lãnh đạo hàng đầu tại Trung Quốc, trong đó 45 tỷ phú đang là thành viên quốc hội. Theo đà phát triển này thì kinh tế Trung Quốc có thể qua mặt Hoa Kỳ trở thành số một thế giới vào đầu thập niên 2030. Phát triển kinh tế là điều kiện sống còn của chế độ, biện minh cho chính nghĩa cầm quyền tuyệt đối và toàn diện. Mặc dầu Trung Quốc hiện vẫn đang là một nhà nước độc đảng, nó chỉ có thể tiếp tục như thế nếu kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng một cách ngoạn mục như trước. Nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy vấn đề không suôn sẻ như ông Tập Cận Bình mong đợi.
Ông Tập và phái đoàn Trung Quốc trong buổi gặp gỡ phái đoàn Mỹ tại Buenos Aires, Argentina, 1 tháng 12.
Kinh tế : vấn đề quốc nội
Nền kinh tế Trung Quốc đã chậm lại, GDP chỉ còn khoảng 6,5% của khóa ba năm 2018. Mặc dầu vẫn còn cao so với tiêu chuẩn quốc tế, theo the New York Times thì tốc độ này là chậm nhất kể từ đầu năm 2009 ngay trong thời điểm khủng hoảng tài chánh toàn cầu GFC. Charles Lyons Jones thuộc Viện Lowy cho rằng đối với đối tượng độc giả ngoại quốc, tờ China Daily trình bày con số GDP vào khoảng 6,58 đến 6,64%, tức vẫn cao hơn 6,5 một chút. Trong khi đó tờ People’s Daily nhắm vào độc giả trong nước nên nếu khi đưa tin tỷ lệ phát triển chậm thì sẽ gây vấn đề, do đó nó nêu con số GDP là 6,70%.
Theo chuyên gia Fraser Howie thì đối với Trung Quốc, con số GDP phải hiểu là mục tiêu chính trị chứ không phải là sự đo lường của thành quả kinh tế. Howie nhận định rằng những ai đã từng làm việc với nơi này đều biết Trung Quốc có vô số dữ liệu và con số (full of data and numbers), và trong khi có một số đúng, nó không có nghĩa các tập dữ liệu này hoàn chỉnh. Theo nhận định của Howie thì gần như mọi mục tiêu số liệu đưa ra bởi lãnh đạo chính trị Trung Quốc sẽ được đáp ứng, và nếu không được thì dữ liệu đó sẽ biến mất trong khoảng trống lịch sử Trung Quốc, không bao giờ được nhắc lại lần nữa.
Chủ trương của ông Tập là muốn người dân trong nước tiếp tục nghe và tin nền kinh tế Trung Quốc vẫn trên đà phát triển, dù giá phải trả là gì đi nữa. Vì thế nên nhà nước Trung Quốc vẫn tiếp tục muốn kích thích sự phát triển chứ không muốn nó chậm lại, nhất là khi đang phải đối phó với cuộc chiến thương mại do ông Trump phát động. Theo Bloomberg thì nợ vay Trung Quốc gia tăng 14% vào năm 2017, phồng lên đến 266% của GDP, trong khi vào năm 2008 chỉ có 162%.
Là người có tiếng nói sau cùng về chính sách kinh tế, ông Tập đối diện với hai lựa chọn : một, nếu ông Tập muốn kinh tế tiếp tục tăng trưởng thì phải tiếp tục mượn tiền để bơm nó vào kích thích tăng trưởng, trong khi đống nợ này như quả bom có thể làm tung cả hệ thống tài chánh ; hai, chấp nhận sự tăng trưởng chậm lại và giảm bớt nợ quốc gia. Cả hai đều không là giải pháp tối hảo cho ông Tập. Thêm vào đó, với nền kinh tế chậm lại, thị trường chứng khoán lao dốc năm nay (làm mất 1,1 ngàn tỷ đô la Mỹ), làm cho 32 công ty tư nhân phải quyết định bán lại cho nhà nước. Ông Tập từng hứa sẽ bảo vệ các công ty tư nhân gặp khó khăn nên không thể nào làm ngơ, mặc dầu làm như thế thì càng có nghĩa là càng kiểm soát thị trường thay vì kinh tế thị trường.
Cuộc chiến thương mại, bắt đầu với việc áp thuế của Tổng thống Donald Trump vào giữa năm nay, tuy chưa có ảnh hưởng đáng kể vào tài chánh năm nay nhưng sẽ có vào năm tới và sau đó. Ông Tập đang gặp bao nhiêu thử thách, nên việc đối phó thêm với áp lực của chính quyền Trump là điều muốn tránh. Do đó nên đã có nhượng bộ, ít nhất là về mặt thái độ, để làm vừa lòng chính phủ Trump. Sự kiện hai bên đồng ý đình chỉ áp đặt thêm thuế quan trong vòng 90 ngày kể từ ngày 1 tháng 12 để tìm cách giải quyết những tranh chấp thương mại thật ra sẽ không giải quyết được điều gì, bởi tự bản chất cuộc chiến này không thuần túy thương mại. Nó là về an ninh và chính trị quyền lực. Với quá khứ của Trung Quốc, lãnh đạo của Hoa Kỳ dù là Cộng hòa hay Dân chủ đều thấy có nhu cầu thay đổi lớn lao trong cách tiếp cận để kiềm chế. Ngay cả khi quan thuế bị hoãn lại, Hoa Kỳ sẽ cải cách quan hệ kinh tế Mỹ-Trung qua biện pháp giới hạn đầu tư, kiểm soát xuất cảng và các hành động thi hành pháp luật bền vững để chống lại gián điệp công nghiệp và mạng.
Ông Trump đang ở thế tay trên, trong khi ông Tập đang chịu nhiều áp lực mà lại cố gắng duy trì tỷ lệ phát triển kinh tế. Hiện nay chưa ai biết rõ mục tiêu sau cùng của ông Trump là gì trong cuộc chiến thương mại này, trong khi lập trường của ông Pence và đại đa số thành phần lãnh đạo trong nội các ông Trump rõ ràng muốn nhiều hơn thế. Họ sẽ không chấp nhận thỏa hiệp về thương mại, dù Trung Quốc có nhượng bộ đến mấy, là xong hết.
Những công ty hàng đầu của Trung Quốc như Huawei đóng góp đáng kể vào nền kinh tế và sức mạnh chính trị của Trung Quốc. Vì thế cho nên sự kiện bà Mạnh Vãn Châu (Meng Wanzhou), giám đốc tài chánh của công ty Huawei, bị bắt tại Canada và có thể bị dẫn độ qua Hoa Kỳ, đã làm cho ông Tập với tư thế chủ tịch mọi thứ và lãnh đạo toàn diện lung lây.
Tín nhiệm : vấn đề ngoại giao
Sau khi bà Mạnh Vãn Châu bị bắt, thế giới một lần nữa có cơ hội nhìn thấy rõ cung cách hành xử thiếu lễ độ và thiếu hiểu biết về mặt ngoại giao của Trung Quốc.
Cũng cần nhắc lại là rất nhiều lần trong quá khứ, các nhà ngoại giao Trung Quốc, kể cả các đại sứ của họ từng làm việc lâu năm ở nước ngoài, đã công khai lẫn ngấm ngầm yêu cầu lãnh đạo chính trị của các nước Tây phương can thiệp vào các quyết định của tư pháp hay các cơ quan truyền thông độc lập. Họ sống và làm việc tại đó mà cũng không nhìn nhận và chấp nhận được rằng không giống như tại Trung Quốc, các ngành tư pháp, lập pháp hay truyền thông đều độc lập với hành pháp. Ngay cả các cơ quan truyền thông được chính phủ tài trợ, như ABC và SBS tại Úc, hơn một tỷ đô la cho tài trợ nền chỉ riêng cho ABC một năm, mà chính phủ không có tiếng nói nào cả trong nội dung của các chương trình này. Đúng ra thì không có cơ quan truyền thông nào mà phê bình và vạch trần các sai trái của chính phủ Úc một cách sâu sắc và chuyên nghiệp như thế.
Nhưng giới ngoại giao nói riêng lãnh đạo Trung Quốc nói chung vẫn chưa hiểu hay chưa chấp nhận điều này, nên cứ nổi đùng lên khi có biến sự. Elliott Zaagman gọi cung cách hành xử này là ngoại giao giận dữ. Chữ (throw a) tantrum cũng thường được dùng cho con nít hai đến bốn tuổi hay nằm vạ, giận hờn. Zaagman kể lại vài sự kiện sau đây :
- Vào tháng 9 năm nay, một người quốc tịch Trung Quốc bị bắt và buộc tội hành hung tại Anh vì đã bạo động tấn công vào những người đang thảo luận về nhân quyền và pháp quyền tại Hồng Kông. Nhưng hành động này lại được ca ngợi trên mạng điện tử Trung Quốc, và được biện hộ bởi tòa Đại sứ Trung Quốc tại London. Chưa hết, tòa đại sứ còn yêu cầu phải xin lỗi.
- Trước đó vài tuần tại Thụy Điển, một nhóm người du lịch gốc Trung Quốc bị cảnh sát giải tán khỏi hành lang một khách sạn vì họ từ chối rời nơi đó, mặc dầu cảnh sát thực hiện rất chuyên môn. Trung Quốc phản ứng bằng cách yêu cầu chính phủ Thụy Điển phải xin lỗi.
- Vào tháng Sáu năm nay, một đài truyền hình Úc số 9 có đi một bài tường trình phê phán chính sách ngoại giao của Trung Quốc tại Thái Bình Dương. Ông Saixian Cao, người đứng đầu truyền thông vụ của tòa đại sứ tại thủ đô Canberra, đã gọi cho đài này và lớn tiếng quát mắng bà Kristy Thompson, nhà điều hành sản xuất : "Lấy nó xuống và đưa nó cho lãnh đạo bà… Bà không được dùng phim ảnh đó… Bà lắng nghe nè… Sẽ không còn những hành vi tệ hại như thế trong tương lai".
Trong trường hợp bà Mạnh Vãn Châu cũng vậy. Bộ ngoại giao Trung Quốc và các cơ quan truyền thông của nhà nước lên tiếng phê phán Canada và phản ứng bằng cách đòi hỏi quá đáng. Nó cho thấy sự thiếu hiểu biết của họ đối với chức năng tư pháp độc lập của một nền dân chủ. Cũng nên nhớ rằng trong một nền dân chủ pháp trị như Canada, việc chính quyền Trump yêu cầu dẫn độ bà Mạnh Vãn Châu về Hoa Kỳ là một chuyện, chuyện còn lại là hoàn toàn do tòa án Canada xét thấy có hợp pháp hay không trong vấn đề này. Thủ tướng, tổng thống, chính phủ hay quốc hội v.v… đều phụ thuộc vào các diễn giải và quyết định quan trọng, nhất là tối cao pháp viện. Trung Quốc sẽ không bao giờ hiểu được điều này, nhất là những người lãnh đạo của họ đang ở Bắc Kinh, khi họ nắm mọi quyền trong tay.
Những người như ông Cao chẳng lẽ không hiểu được những điều căn bản về dân chủ như thế ? Hay vì ông Cao không có sự chọn lựa mà phải nghe theo lệnh của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, hay chính từ lãnh đạo tối cao, ở Bắc Kinh ?
Dù là ai đi nữa, cách hành xử như thế chỉ làm tồi tệ vấn đề và làm xấu đi bộ mặt ngoại giao của các tập đoàn và nhà nước Trung Quốc.
Nhà lý thuyết vật lý đoạt giải Nobel năm 1965 Richard Feynman từng nói : "Nguyên tắc đầu tiên là bạn không thể lừa gạt chính mình – và bạn là người dễ lừa gạt nhất".
Trung Quốc luôn đưa ra bao nhiêu dự án lớn và con số lớn làm hoang mang những người đầu tư, thương gia cũng như người dân của họ. Nhưng các con số họ đưa ra thường là không khả tín vì không đầy đủ. Bí mật quốc gia mà!
Ông Tập là người đứng đầu của tất cả các quyết định này. Cần nhắc lại là vào năm 2015, ngay tại Vườn hoa Hồng ở Nhà Trắng ông Tập đã nổi tiếng nói dối rằng Trung Quốc "không có ý định quân sự hóa" Biển Đông, nhưng trong thực tế ông Tập đang lên kế hoạch xây dựng các đảo nhân tạo với căn cứ quân sự có bề lớn như Pearl Harbour.
Lãnh đạo Trung Quốc, đứng đầu là ông Tập, đã đang và vẫn tiếp tục lừa gạt người khác và lừa gạt chính mình. Họ xóa bỏ nhiều sự thật lịch sử và soạn các chương trình giáo dục yêu nước với mục tiêu thế hệ hôm nay và mai sau chỉ biết phiên bản lịch sử duy nhất và phải chấp nhận nó. Họ tuyên truyền riết rồi trở thành nạn nhân của chính những lời tuyên truyền của mình.
Tất cả những ai trong hoặc ngoài Trung Quốc có dính líu đến nước này đều cảm thấy ngờ ngợ và bất an bởi họ không thể tin được những con số thống kê, những dữ kiện nhà nước cung cấp, hay luật pháp ban hành tại đây. Khi không có một nền truyền thông tự do và không có một nền tư pháp độc lập, thì mọi quyết định lớn nhỏ dễ trở thành tùy tiện. Những kẻ nắm quyền trong tay sẽ có tiếng nói sau cùng, bất chấp đúng sai, bất chấp pháp luật và sự thật ra sao. Cơ chế và thể chế đó chỉ tạo bất an và ngờ vực hơn là lòng tin và tín nhiệm.
Do đó tin tưởng và tín nhiệm vẫn là con số thâm hụt lớn nhất tại Trung Quốc hiện nay.
Vài lời kết
Theo giáo sư David Shambaugh, một chuyên gia về Trung Quốc, mỗi năm ngân sách cho mục tiêu tuyên truyền của chế độ là khoảng 10 tỷ đô la.
Khi lãnh đạo của một quốc gia mà đối nội thì triệt tiêu mọi tiếng nói đối lập, còn đối ngoại thì các thuộc hạ của ông Tập cũng tiếp tục thể hiện cung cách hành xử quen thuộc của họ trong nước, vừa thô lổ cộc cằn vừa hiếu chiến, thì 10 tỷ đô la để tuyên truyền hay bao nhiêu nỗ lực xây dựng quyền lực mềm của họ cũng trở thành lãng phí.
Ông Tập và lãnh đạo Trung Quốc sẽ tiếp tục bưng bít, tuyên truyền và sử dụng bạo lực để trấn áp mọi tiếng nói khác biệt. Tuy có hiệu quả thật đối với bên trong lãnh thổ Trung Quốc, với thế giới bên ngoài thì mọi nỗ lực của họ không thể lừa gạt giới tình báo chuyên nghiệp, giới truyền thông tự do cũng như những người quan tâm và yêu chuộng tự do.
Chẳng hạn như tại Úc, các phóng viên chuyên về Trung Quốc, có người làm việc tại Trung Quốc và cũng có người tại Úc, đã góp phần đáng kể trong việc tường trình sự xâm nhập và lũng đoạn của Bắc Kinh tại các đại học, các cộng đồng người Hoa khắp Úc, cũng như với các đảng chính trị và chính giới của Úc. Tính cách chuyên nghiệp của các tường trình này đã giúp cho dân Úc hiểu rõ hơn vấn đề, qua đó cũng giúp cho thế giới hiểu rõ các âm mưu đằng sau các Viện Khổng Tử hay hành động đội lốt "quyền lực mềm" khác của Đảng cộng sản Trung Quốc. Tóm lại, truyền thông là một vũ khí lợi hại để đối đầu với độc tài.
Lúc viết xong bài này thì nhận được thêm các tin về các cơ quan tình báo của Trung Quốc tiếp tục chiến dịch đánh cấp tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ, Úc, Anh, Tân Tây Lan và chắc chắn nhiều quốc gia có nền kinh tế hay kỹ nghệ cao. FBI và Bộ Công lý của Hoa Kỳ qua ông Christopher Wray và ông Rod Rosenstein đã chỉ mặt thủ phạm Trung Quốc.
Ông Rosenstein đã phê phán Trung Quốc vi phạm cam kết 2015 là không được đánh cắp các bí mật về thương mại hay các thông tin mật khác. Chính phủ Úc cũng đã công khai yêu cầu Trung Quốc ngưng các hành động ăn cắp tài sản trí tuệ, bí mật thương mại và thông tin doanh nghiệp mật khác để sử dụng nó cho ưu thế cạnh tranh của mình. Ông Tập là người có tiếng nói sau cùng về các vấn đề mạng và an ninh quốc gia, trong khi đó ông Chu Hoa và ông Trương Kiến Quốc bị giới chức Hoa Kỳ buộc tội tấn công mạng nói trên. Như thường lệ, Trung Quốc vẫn một mực chối bỏ các cáo buộc này. Nhưng ai sẽ tin họ khi chữ tín đối với Trung Quốc khó thể nào xuống thấp hơn được.
Quyền lực bất chính là nguyên nhân, và cũng là hậu quả, tất yếu. Muốn được sự tin tưởng và tín nhiệm thì lãnh đạo Trung Quốc, nhất là ông Tập Cận Bình, cần phải chứng minh sự liêm chính, minh bạch và tính nhất quán trong hành động của mình. Đây là các giá trị mà họ thiếu vắng hoàn toàn mặc dầu họ đã có được 500 Viện Khổng Tử trên khắp thế giới.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 22/12/2018
Tài liệu tham khảo :
Ben Westcott, "Xi Jinping says no one wins in 'cold war', but Pence won't back down ", CNN, November 17, 2018.
Elizabeth C. Economy, "China's Imperial President ", Foreign Affairs, November/December 2014 Issue.
Elizabeth C. Economy, "China's New Revolution ", Foreign Affairs, May/June 2018 Issue.
BBC Monitoring, "His own words : The 14 principles of 'Xi Jinping Thought' ", BBC, October 24, 2017.
Salvatore Babones, "The Meaning of Xi Jinping Thought ", Foreign Affairs, November 2, 2017.
R.K.G., "China’s tyranny of characters ", The Economist, July 5, 2016.
Vivienne Chow, "How China changed its language on speech ", The Interpreter, Lowy Institute, November 5, 2018.
Geoff Wade, "Confucius Institutes and Chinese soft power in Australia ", Parliamentary Library, Flagpost, November 24, 2014.
Chengxin Pan, "Made in China 2025 and US–China power competition ", The Interpreter, Lowy Institute, August 10, 2018.
Tin của VOA, "Trung Quốc bác cáo buộc giam 1 triệu người Uighur ở Tân Cương ", VOA, August 13, 2018.
Nury Turkel and Michael Clarke, "Uighur : Australia needs to end "business as usual" with China ", The Interpreter, Lowy Institute, December 20, 2018.
VOA, "Lưỡng đảng Mỹ đòi Trump trừng phạt Trung Quốc vì đàn áp người Hồi giáo ở Tân Cương ", VOA, August 31, 2018.
Marco Rubio, "Rubio, Menendez, Colleagues Introduce Legislation In Response To China's Human Rights Abuses Of Uyghurs ", Press Release, November 14, 2018.
Michael Martina, "Scholars condemn China for mass detention of Muslim Uighurs ", Reuters, November 27, 2018.
VOA, "Liên Hiệp Quốc kêu gọi Trung Quốc thả người Uighur khỏi những nơi bị cho là trại cải huấn ", VOA, September 1, 2018.
Philip Wen, Michael Martina, Ben Blanchard, "Exclusive : In rare coordinated move, Western envoys seek meeting on Xinjiang concerns ", Reuters, November 15, 2018.
Charles Rollet, "Ecuador’s All-Seeing Eye Is Made in China ", Foreign Policy, August 9, 2018.
Kurt M. Campbell and Ely Ratner, "The China Reckoning ", Foreign Affairs, March/April 2018 Issue.
Kelly Hammond, Rian Thum, and Jeffrey Wasserstrom, "China’s Bad Old Days Are Back ", Foreign Affairs, October 30, 2018.
Tara Francis Chan, "Communist China has 104 billionaires leading the country while Xi Jinping promises to lift millions out of poverty", Business Insider Australia, March 4, 2018.
Alexandra Stevenson, "China’s Growth Hits Slowest Pace in a Decade", The New York Times, October 18, 2018.
Charlie Lyons Jones, "Deng’s ghost haunts Xi, as Maoism makes a return", The Interpreter, Lowy Institute, November 2, 2018.
Fraser Howie, "Lies, damn lies, and Chinese statistics", The Interpreter, Lowy Institute, September 5, 2018.
Enda Curran, "China’s Debt Bomb", Bloomberg, September 17, 2018.
Laura He and Zhang Shidong, "Is Chinese capitalism in crisis, as stock market rout drives private companies into the state’s arms ?", South China Morning Post, October 20, 2018.
Stephen Letts, "China's economy slows to levels not seen since the GFC", ABC News, October 19, 2018.
VOA, "Trump để ngỏ khả năng triển hạn hưu chiến thương mại", VOA, December 5, 2018.
Ely Ratner, "There Is No Grand Bargain With China", Foreign Affairs, November 27, 2018.
Sam Roggeveen, "What I missed this year: America pushes back", The Interpreter, Lowy Institute, December 19, 2018.
Elliott Zaagman, "Meng Wanzhou: China’s "tantrum diplomacy" and Huawei", The Interpreter, Lowy Institute, December 12, 2018.
Tara Francis Chan, "How China tried to shut down Australian media coverage of its debt-trap diplomacy in the Pacific", Business Inside Australia, June 21, 2018.
Wikipedia, "Richard Feynman", Accessed on December 20, 2018.
Beijing, "China is spending billions to make the world love it", The Economist, March 23, 2017.
Kelsey Munro, "A free press is a magic weapon against China's influence peddling", The Interpreter, Lowy Institute, December 18, 2017.
Reuters, "US charges Chinese citizens for espionage in major hacking campaign targeting navy, NASA, others", ABC News, December 21, 2018.
Media Release, "Joint media release with Senator the Hon Marise Payne - Attribution of Chinese cyber-enabled commercial intellectual property theft", Peter Dutton, December 21, 2018.
VOA, "Mỹ và đồng minh tố cáo Trung Quốc dọ thám bí mật kinh tế", VOA, December 21, 2018.
Reporting team from Reuters, "China denies 'slanderous' economic espionage charges from U.S., allies", Reuters, December 21, 2018.
A person is a person no matter how small.
Dr Seuss
70 năm về trước, khi Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được đa số thành viên Liên Hiệp Quốc thông qua, tinh thần của tuyên ngôn là mọi người được sinh ra tự do và bình đẳng về nhân phẩm, quyền hạn và tự do. Mọi người ở đây là không phân biệt dù bất cứ lý do gì, kể cả tuổi tác. Ngay cả trẻ con mới sinh hay còn trong bụng mẹ cũng được các quyền đó.
Một Xuân bao dung ai cũng là người (*) - Hình minh họa.
Nhưng mãi đến gần 42 năm sau thì Quy ước về Quyền Trẻ em (Convention on the Rights of the Child/CRC) mới chính thức được Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua. Tuy hơi muộn màn, CRC cũng đã được ra đời và từ đó có những tác động đáng kể lên sự nhận thức của nhân loại về tầm quan trọng của việc bảo vệ trẻ em. Ở những quốc gia dân chủ cấp tiến mà đã phê chuẩn và đưa nó vào thành luật hiện hành, quyền trẻ em ở những nơi đó được tôn trọng đáng kể trong gia đình, nhà trường và toàn xã hội.
Trong 54 điều của CRC thì điều 43 đến 54 chủ yếu là về cách thức làm sao chính quyền và người lớn làm việc với nhau để bảo đảm rằng tất cả trẻ em được có mọi quyền của mình. 42 điều còn lại thì có thể tóm tắt trong các điểm chính sau đây : được đối xử công bằng vô điều kiện ; có tiếng nói về các quyết định ảnh hưởng đến mình ; sống và phát triển khỏe mạnh ; có người làm những gì tốt nhất cho các em ; biết mình là ai và từ đâu đến ; tin vào những gì mình muốn ; quyền riêng tư ; tìm hiểu thông tin và tự diễn đạt ; được an toàn ở bất cứ nơi nào ; được chăm sóc và có chỗ ở ; được giáo dục, vui chơi và các hoạt động văn hóa ; được sự giúp đỡ và bảo vệ khi cần đến. Tựu chung, nguyên tắc chỉ đạo của CRC cho tất cả những ai, từ cơ quan công quyền đến tổ chức phi chính phủ hay người lớn/cha mẹ, là trong mọi hoàn cảnh mọi quyết định liên quan đến trẻ em phải dựa trên lợi ích tốt nhất của mỗi em (the best interests of the child). Nói chung trẻ em được hưởng hầu hết các quyền của người lớn và còn có nhiều đặc quyền khác vì các em cần sự an toàn, bảo bọc và nuôi dưỡng. Người nhỏ nhưng quyền lớn là vậy.
*****
Trước khi ký kết và phê chuẩn mọi công ước thì các quốc gia thành viên phải cân nhắc xem nó có thích hợp với luật pháp của quốc gia mình không. Họ không nhất thiết tuân thủ toàn bộ nếu có những quan ngại nào đó. Họ có quyền công bố ý định của mình là sẽ tôn trọng và thực hiện toàn bộ quy ước, hay có quan ngại điều nào trong này không. Họ cũng có quyền cho biết các ý định của mình trong việc diễn giải định nghĩa hay bày tỏ các quan ngại, dè dặt và dành quyền riêng (reservation) cho điều khoản đặc biệt nào đó. Đó là tinh thần trách nhiệm của một thành viên khi ký kết các quy ước như thế. Chẳng hạn, khi phê chuẩn Quy ước này, nước Anh quan ngại điều 22 và 37c, và tương tự nước Úc quan ngại không thể tuân theo bổn phận áp đặt trong điều 37c. Còn Hoa Kỳ thì đã ký kết ngày 16 tháng Hai năm 1995 nhưng cho đến nay vẫn chưa phê chuẩn (một trong ba quốc gia còn lại trên thế giới, hai nước kia là Somalia và South Sudan). Hoạt động của Liên Hiệp Quốc là tiếp tục nguyên tắc Hòa bình Westphalia dựa trên chủ quyền quốc gia. Liên Hiệp Quốc không có quyền gì để bắt buộc các nước phải ký kết và phê chuẩn các quy ước vì chủ quyền vẫn thuộc về quốc gia đó.
Việt Nam cũng ký kết và là quốc gia thứ nhì phê chuẩn CRC vào ngày 28 tháng 2 năm 1990, chỉ sau Ghana. Việt Nam hoàn toàn chấp nhận tinh thần và nội dung CRC và không nêu bất cứ quan ngại nào. Điều đó có nghĩa họ đã tôn trọng nó hoàn toàn và nỗ lực thực hiện CRC trên đất nước này. Nhưng trên thực tế trẻ em Việt Nam chẳng có quyền hạn gì cả. Trong khi đó trẻ em Hoa Kỳ thì có đầy đủ mọi quyền căn bản.
Đâu ai bắt Việt Nam phải phê chuẩn ! Nhưng Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn vào bao nhiêu quy ước và công ước như thế, kể cả Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị. Mà còn ký rất sớm các công ước này, hơn cả các nước có truyền thống dân chủ lâu đời và có nền pháp luật vững chắc. Ký xong, mực chưa ráo, thì đã vi phạm nó. Nói chung bao nhiêu công ước lẽ ra phải tôn trọng nhưng nhà nước này chẳng tuân thủ công ước nào cả.
Điều này nói lên được rất nhiều về tư duy của giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam bấy lâu nay. Họ có thói quen đánh lừa gạt gẫm người khác. Họ không bao giờ thành thật và không có một chút lòng tự trọng nào. Hiệp định Paris 1972 và bao nhiêu hiệp ước hiệp định khác đều chẳng có ý nghĩa gì với họ cả. Ngay cả sự kiện ngưng bắn để hai bên hưởng xuân vào Tết Mậu Thân 1968 cũng thế.
Nếu chúng ta nghĩ rằng lãnh đạo của Trung Quốc bấy lâu nay là bậc thầy của sự trí trá, bởi nó đã ăn sâu vào văn hóa của họ hàng ngàn năm qua, thì thật ra lãnh đạo Việt Nam cũng không kém các thủ đoạn trí trá của Trung Quốc. Họ học rất nhiều và lắm khi sao chép nguyên con từ bao nhiêu chính sách và kỹ thuật trị dân từ nhà nước Trung Cộng, từ thời của Mao cho đến nay. Có lẽ họ chỉ không bằng ở cấp độ và nồng độ thôi.
Nhưng lãnh đạo một quốc gia, dù bất cứ quốc gia nào, mà trí trá như thế, thì làm sao đất nước có thể phát triển bền vững ? Những công dân lương thiện của quốc gia đó làm sao có thể tự hào phục vụ cho kẻ cầm quyền bất xứng như thế ? Lãnh đạo như thế chỉ có thể sử dụng bạo lực để cai trị chứ không có khả năng động viên hay khuyến khích tinh thần ai cả !
Không bằng sự chăm chỉ, quyết tâm, lương thiện, chính trực, trí tuệ và chiến lược mà bằng thủ đoạn, ti tiện, gian xảo và thiển cận thì chẳng có gì có thể tồn tại với thời gian.
Vì lãnh đạo Việt Nam tiếp tục hành xử như thế qua bao thập niên qua nên hậu quả để lại trên đất nước chúng ta là sự băng hoại sâu sắc về mọi mặt.
*****
Nhân kỷ niệm 70 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, tôi muốn nói đến quyền trẻ em vì nhiều nguyên do. Trước hết các em là những người dễ bị tổn thương nhất. Quyền của trẻ em Việt Nam hiện nay chắc là con số không hoặc rất thấp nếu đem ra so với 42 điều khoản trong CRC. Các em đã và đang là nạn nhân của một văn hóa bạo lực, từ trong gia đình ra đến nhà trường và trong toàn xã hội. Sự kiện cái tát tai số 231 của một cô giáo dành cho học sinh mình vừa qua là một điển hình. Các vụ đánh đấm đầy bạo lực của trẻ em với nhau không còn một chút tình người nào cũng đầy trên các mạng. Văn hóa bạo lực này lại được củng cố bởi một thể chế không ngần ngại sử dụng mọi thủ đoạn và mọi bạo lực, từ công an chìm nổi đến côn đồ, để áp đặt trật tự xã hội. Chế độ cũng áp đặt một thứ diễn ngôn chính trị sai lệch lên toàn xã hội để độc quyền về sự thật, để đè bẹp mọi tiếng nói khác.
Theo một nghiên cứu vào năm 2016 của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) thì "Mặc dù được pháp luật bảo vệ, trẻ em Việt Nam tiếp tục phải chịu bạo lực tại gia đình, hiện tượng phổ biến có tác hại lâu dài về thể chất, tâm lý, tình cảm và kết quả học tập." Cuộc nghiên cứu này kết luận rằng trong bối cảnh gia đình, trẻ em Việt Nam trải nghiệm nhiều hình thức bạo lực khác nhau, từ thể xác đến tâm lý và cảm xúc. Các em vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng. Luật pháp có đó nhưng chẳng bảo vệ được các em.
Tôi cho rằng hậu quả của nạn bạo hành trong gia đình và ngoài xã hội Việt Nam là cực kỳ tiêu cực và lâu dài. Các em sẽ mang vết thương tâm lý này đến cuối cuộc đời mà có khi còn tiếp tục cái vòng luẩn quẩn của bạo lực với các thế hệ kế tiếp nếu không ý thức hành động của mình, không tìm cách chữa trị, và không quyết tâm dứt bỏ cái vòng này. Không một trẻ em nào trong môi trường này không bị chấn thương tâm lý khi trực tiếp là nạn nhân hay gián tiếp là nhân chứng.
Để gia giảm hay chấm dứt vòng luẩn quẩn của bạo lực trong gia đình và xã hội, nó cần phải bắt đầu từ mỗi một người, bởi một người là đã có khả năng gây nên bạo lực và lan tràn đến nhiều thành viên khác.
Không sát sinh và không ác với các loài thú khác… là một trong các triết lý nền tảng của Phật giáo, tôn giáo của phần lớn người Việt Nam. Tại sao Việt Nam ngày nay như thế này ?
Điều 19 của CRC nói rõ rằng chính quyền cần bảo đảm rằng trẻ em được chăm sóc đàng hoàng và bảo vệ các em từ bạo lực, lạm dụng và bỏ bê bởi cha mẹ hoặc những ai đang chăm nôm các em.
Chính quyền Việt Nam đã làm được gì để giảm thiểu bạo lực và để bảo vệ trẻ em ?
Việt Nam đã phê chuẩn CRC gần 28 năm qua, vậy chính quyền đã làm được gì trong khi UNICEF báo cáo như thế và Liên Hiệp Quốc cũng như bao nhiêu quốc gia khác tài trợ cho Việt Nam để giảm thiểu bạo lực và để bảo vệ trẻ em ?
Ở những nơi mà không tôn trọng trẻ em thì làm sao có tương lai ? Khi phần lớn giới trẻ Việt Nam được thừa hưởng bạo lực từ nhỏ thì làm sao họ có thể dứt bỏ được nó về sau, nếu không được giúp đỡ hay không có chính sách can thiệp cụ thể nào ?
An toàn tâm lý, tức an toàn từ mọi sự đe dọa, được xem là yếu tố quan trọng nhất để con người phát triển và thành đạt trong mọi địa hạt. Ở các quốc gia văn minh, con người không những ít bạo động với nhau, mà họ cũng ít bạo động với cả động vật. Đánh đập động vật, dù là bất cứ con gì, còn không chấp nhận được, huống chi là con người. Bạo lực chỉ phát huy cái ác và xấu trong người nhưng kiềm hãm cái thiện và tốt trong mỗi chúng ta. Bạo lực làm gia tăng khả năng cảm xúc nhưng kiềm hãm sự phát triển của lý trí. Tóm lại, không có an toàn tâm lý thì mọi sự phát triển của trẻ em Việt Nam vẫn què quặt.
"Một người là một người, dù nhỏ nhoi đến mấy", như tác giả Dr Seuss từng ví trong tác phẩm thành phim "Horton hears a who ". Một xã hội văn minh tiến bộ là một xã hội biết tôn trọng những người bé nhỏ, yếu ớt. Trẻ em. Các em có quyền bày tỏ quan điểm của mình, nhất là những quyết định liên quan trực tiếp đến các em. Khi các em được tôn trọng, nâng đỡ và bảo bọc, các em sẽ tự tin, sẽ quan tâm đến những vấn đề chung, sẽ có tinh thần cộng đồng. Các em ý thức được quyền của mình và hiểu rằng đi kèm với các quyền đó là bổn phận và trách nhiệm. Các em sẽ trở thành những công dân tốt của xã hội, và sẽ dứt bỏ được cái vòng luẩn quẩn của bạo lực. Nó phải bắt đầu bằng giáo dục. Giáo dục căn bản nhất là giáo dục mầm non, từ không đến năm tuổi. Một trong các điều kiện cần nhất cho Việt Nam là một chính sách giáo dục nhân bản, khoa học và khai phóng. Nhưng làm sao có chính sách như thế dưới chế độ này ?
Người Việt chắc chắn có thể làm tốt hơn thế. Người dân không thể mong đợi chế độ này thay đổi, hay trông chờ nó bị thay đổi, rồi mới làm gì đó. Chúng ta phải tự giải quyết lấy những vấn đề nằm trong tầm tay của mình thì một ngày nào đó có thể cùng nhau giải quyết những gì nằm ngoài tầm tay.
Để xây dựng tương lai, chúng ta phải bắt đầu bằng sự đầu tư vào thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, càng sớm càng tốt, mà quên đi chính mình vậy !
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 14/12/2018
(*) Một câu trong ca khúc "Một Bàn Tay" của nhạc sĩ Phạm Duy.
Tự do là các quyền cơ bản của mỗi công dân được quy định rõ ràng trong hiến pháp và pháp luật của một quốc gia, được tôn trọng và thực thi một cách công minh và bình đẳng, không phân biệt đối xử hay tùy tiện diễn giải bởi phía hành pháp.
111111111111111111
Bầu cử ở Mỹ. Hình minh họa.
Dân chủ là nhiều thứ. Nó là tam quyền phân lập, là các định chế bảo đảm hiến pháp và pháp luật áp dụng cho mọi công dân, mà mục tiêu là để tản quyền sâu rộng và để bảo đảm được các quyền tự do nền tảng. Dân chủ cũng là giá trị, là văn hóa, là cách sống, là suy nghĩ, là hành xử, là cách lấy quyết định v.v…
Bầu cử là bầu và cử : bầu chọn và ứng cử, kể cả tự ứng cử. Bầu cử phải thật sự tự do thì người dân mới bầu chọn người đại diện xứng đáng nhất. Ứng cử phải tự do để mọi người, không nhất thiết phải thuộc bất cứ đảng phái hay khuynh hướng chính trị nào, có thể tham gia việc điều hành quốc gia. Mục tiêu của bầu cử là để chọn ra những người xứng đáng nhất về khả năng và tầm nhìn vào quốc hội và chính quyền, để làm ra các luật pháp thiết thực đối với hoàn cảnh quốc gia lúc đó, và để điều hành quốc gia một cách hiệu quả và thực thi pháp luật một cách công minh và bình đẳng.
Cả ba điều này đều liên hệ mật thiết với nhau trong mọi chế độ chính trị dân chủ cấp tiến. Còn các thể chế dân chủ nửa vời hay độc tài thì họ cũng cóp nhặt các mô thức của nền dân chủ cấp tiến, tuy nhiên nó chỉ có bề ngoài chứ ruột thì trống rỗng. Tất cả đều rất vẻ vời, hình thức và nguỵ trá.
Tự do là một trong những giá trị cao quý nhất của con người. Khi chúng ta có tất cả vật chất trong tay nhưng không được tự do đi lại, chẳng hạn, hoặc không được quyền tìm hiểu các vấn đề triết học, tôn giáo hay lịch sử một cách tường tận, hoặc không được nói lên những gì mình suy nghĩ hay tin tưởng là đúng, thì có lẽ đến lúc đó sẵn sàng đánh đổi những gì mình có để được tự do. Khi đánh mất tự do thì mới cảm nhận được giá trị đích thực của nó.
Nhưng không phải có bầu cử, kể cả bầu cử tự do, là có (nghĩa là đã có) dân chủ.
Có những thể chế được xem là dân chủ bầu cử (electoral democracy), còn các thể chế khác là độc quyền bầu cử (electoral authoritarianism). Độc quyền bầu cử chắc chắn là độc tài. Còn dân chủ bầu cử không nhất thiết là dân chủ.
Một chế độ mà (những) người đứng đầu ngành hành pháp lại sử dụng quyền lực tùy tiện, kể cả chà đạp nó, tước quyền sống và quyền tự do của người khác, thì không thể nào gọi là dân chủ cấp tiến được. Dân chủ đích thực phải bảo đảm được quyền và tự do của mọi công dân. Trường hợp điển hình là Phi Luật Tân.
Theo giáo sư chính trị học Dan Slater, nhiều nước Đông Nam Á, như Phi Luật Tân, chẳng hạn, là một quốc gia dân chủ phi cấp tiến (illiberal democracy). Người Phi đi bầu một cách tự do, các cuộc bầu cử không hay chưa có vẻ gì là gian lận. Nhưng người đứng đầu guồng máy điều hành quốc gia, như tổng thống Rodrigo Dutert hiện nay, coi thường pháp luật và lạm dụng quyền lực.
Còn Singapore thì thuộc một thể loại cường quyền kiểu khác, độc quyền bầu cử. Các thế lực nắm quyền Singapore đề cao pháp luật và muốn mọi người khác phải tuân thủ pháp luật. Đảng Nhân dân Hành động vận dụng và thay đổi hệ thống bầu cử để phía đối lập không có cơ hội chính đáng nào để thắng nó. Và tại đây không có ủy hội bầu cử độc lập. Nếu cử tri bầu cho đối lập thì sẽ có những hậu quả bất lợi cho họ khi bị phát hiện.
Trong khi đó, tại Miến Điện thì cuộc bầu cử năm 2015 tuy được xem là tự do và công bình, nhưng người thiểu số theo đạo Hồi Rohinga thì bị đàn áp thậm tệ. Những người hay cơ quan truyền thông nào đưa tin về vi phạm nhân quyền hay cái gọi là bí mật quốc gia thì bị đàn áp bỏ tù. Còn tại Nam Dương thì chính quyền có thể bỏ tù những ai bị cho là xúc phạm đạo Hồi. Campuchia thì loại trừ gần như hoàn toàn phía đối lập và giới truyền thông, cho phép nó được gần như độc quyền bầu cử. Nó không giống Singapore hoàn toàn nhưng lại giống Trung Quốc và Việt Nam. Còn tại Mã Lai thì đảng Tổ chức Thống nhất Quốc gia Mã Lai trong 50 năm qua là một chế độ thể hiện hoàn toàn tính độc quyền bầu cử và sử dụng bao nhiêu thủ thuật khác nhau, kể cả vẽ lại vùng cử tri, để bảo đảm bên đối lập không có cơ hội nào thắng cử.
Con người có xu hướng học hỏi lẫn nhau, cái tốt lẫn xấu, tích cực lẫn tiêu cực, ôn hòa cũng như bạo lực v.v... Trong khi nhiều người trên thế giới học hỏi những điều tích cực và văn minh của nhân loại để tiến bộ thì cùng lúc đó các thế lực khác lại đi học những cái tiêu cực và độc hại, và tìm cách cản trở mọi nỗ lực tiến bộ. Do đó mà ngày nay có nơi có nền dân chủ cấp tiến (tự do được tôn trọng) và nơi khác cũng mang tên dân chủ nhưng dân chủ phi cấp tiến (tự do không hề hiện hữu). Và chúng ta cũng có nền độc tài khắp nơi. Nền dân chủ cấp tiến thì rất đa dạng và nền độc tài cũng vô cùng đa dạng. Hiếm có cơ chế nào, độc tài hay dân chủ, giống nhau hoàn toàn. Nguyên do là vì trong nền văn hóa mà mỗi chúng ta thừa hưởng, từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, và rộng hơn trên toàn nước và toàn thế giới, chúng ta hấp thụ một số luồng tư tưởng nhất định nào đó mà định hình cách suy nghĩ của chúng ta. Và khi tiếp thu học hỏi các ý tưởng mới, chúng ta đem áp dụng nó vào trong bối cảnh xã hội, chính trị và văn hóa của mình, trong đó truyền thống đóng vai trò quan trọng. Các yếu tố địa phương, môi trường sống và văn hóa hành xử cũng góp phần vào việc định hình sản phẩm chính trị mà con người khắp nơi tạo ra.
Có thể ví dân chủ như một loại cây. Cây dân chủ. Từ hạt mầm dân chủ, tức chủ yếu là ý tưởng và tư tưởng, người ta yêu thích nó và tìm cách đem trồng nó trong vườn của họ. Họ chăm sóc, vun bồi hàng ngày để bảo đảm nó phát triển và không bị hư hại hay bị phá hoại. Họ thể hiện tinh thần dân chủ ngay trong ngôi nhà họ. Họ tôn trọng các giá trị và thành quả nó mang đến, áp dụng tinh thần đó đối với người vợ hay chồng của mình, với các con của mình, và giữa các con mình. Họ bảo bọc hạt mầm dân chủ từng ly từng tí (như bảo vệ quyền tự do ngôn luận và diễn đạt của mọi thành viên, dầu cho thành viên đó có không xứng đáng đi nữa). Các hạt mầm như thế sẽ có cơ hội sinh sôi, nẩy nở. Họ cũng cố gắng tìm cách chia sẻ cách thức ươm mầm và vun trồng cây dân chủ với hàng xóm, người thân, bạn bè v.v… để học cách làm cho cây đơm hoa kết quả. Họ tìm cách khuyến khích con cái mình khi đi học hay đi làm cũng thực hành và phát huy tinh thần và giá trị dân chủ như vậy. Khi cây lớn lên cho ra hoa quả, họ tìm quả tốt nhất để làm hạt giống tốt và lại tiếp tục một chu kỳ trồng cây dân chủ khác.
Nền dân chủ Hoa Kỳ được khai sinh, phát triển và, một phần nào đó, được toàn cầu hóa, trong một tiến trình hơi giống như vậy.
Trong bài "Người Mỹ không còn thực hành dân chủ nữa", Yoni Appelbaum đã trình bày các biện luận rất hay. Appelbuam cho rằng dân chủ là một hành động bất tự nhiên nhất. Nó không phải là một bản năng tự nhiên của con người, mà là một thói quen cần phải trau dồi và thâu thập. Trong các thế kỷ trước, người Mỹ bị lôi cuốn bởi hội đoàn. Gần như đối với mọi cách thức của cuộc sống, họ áp dụng một giải pháp chung. Họ tình nguyện đến với nhau bằng các ràng buộc chung, chấp nhận các luật lệ chung, bầu chọn người đại diện, lấy quyết định bằng số phiếu đa số. Vào cuối thế kỷ 19, càng ngày càng có nhiều hội đoàn bắt chước hình thức hoạt động của chính quyền liên bang Hoa Kỳ. Qua thời gian, sự tham gia mang tính cách công dân (civic participation) vào các vấn đề xã hội trở thành bình thường chứ không phải là điều ngoại lệ. Năm 1892, một nghiên cứu đối với một thành phố nhỏ cho thấy mọi đàn ông, đàn bà và trẻ em (trên 10 tuổi), ngoại trừ những cá tính đặc biệt, đều tham dự vào một tổ chức nào đó mà tất cả đều có văn phòng hoạt động. Hoa Kỳ trở thành một quốc gia của chủ tịch (a nation of presidents). Những người tham gia bị mê hoặc bởi nguyên tắc và thủ tục. Năm 1876, một kỷ sư tên Henry Robert xuất bản cuốn sách có tên "Hướng dẫn Bỏ túi về Quy tắc Trật tự của Hội nghị Thảo luận", trở thành sách bán chạy nhất, và trong vòng bốn thập niên bán được 500 ngàn bản in. Nhưng Hoa Kỳ đã không còn như thế trong những thập niên qua. Vốn liếng xã hội và đời sống công dân bị xuống dốc thậm tệ, trong khi những người trẻ tham gia ngày càng ít vào các tổ chức xã hội hoạt động một cách dân chủ. Appelbuam kết luận rằng văn hóa mà cam kết bảo vệ dân chủ (hay văn hóa dân chủ) sẽ duy trì hiến pháp, không phải ngược lại.
Đúng vậy. Có bao nhiêu quốc gia có hiến pháp hẳn hoi, không chừng còn hay hơn cả hiến pháp Hoa Kỳ, nhưng nó có làm cho quốc gia đó dân chủ đâu. Dân chủ là tư duy, là nếp sống, là cung cách hành xử, coi trọng tiếng nói của mỗi thành viên trong tổ chức, cộng đồng hay toàn xã hội, tôn trọng sự khác biệt cũng như quy tắc và tiến trình hiện hữu. Nó là văn hoá.
Trong khi các nền dân chủ khắp nơi đang bị soi mòn và xu hướng dân túy đang trổi lên, nền dân chủ Úc vẫn vững ổn vì nhiều nguyên do.
Trước hết, là một nền văn hóa dân chủ vững chắc và mạnh mẽ. Kế đến, nền kinh tế phát triển bền vững hơn 27 năm qua cũng đóng vai trò quan yếu. Bắt buộc đi đầu cũng là yếu tố quan trọng đối với nền dân chủ vững ổn của Úc. Phần lớn công dân trong một quốc gia họ là trung hòa, không cực đoan và không ủng hộ các xu hướng quá cực đoan. Nếu không bắt buộc đi bầu thì các đảng chính trị dễ dàng thỏa hiệp với các khuynh hướng cực đoan, cuối cùng đưa đến tình trạng cực tả và cực hữu chống nhau kịch liệt, trong khi đại đa số người dân không thuộc cả hai. Vì thế mà một quốc gia có đa đảng chính trị thay vì lưỡng đảng vẫn là điều kiện tốt hơn cho nền dân chủ. Úc có đầy đủ các điều kiện này.
Ngoài ra, mặc dầu bầu cử là bắt buộc bởi pháp luật, các cơ quan trách nhiệm bầu cử tầm tiểu bang nhưVEC hoặc liên bang AEC luôn tìm mọi cách khuyến khích mọi công dân đi bầu [1]. Họ tiếp xúc, giải thích và tạo đủ mọi điều kiện để mọi người, kể cả những người tàn tật, thiếu lý trí hay thiếu khả năng lấy quyết định, vẫn có thể sử dụng lá phiếu của mình một cách tốt nhất. Các ứng cử viên đều được quyền ra tranh cử một cách tự do và độc lập hoàn toàn, nếu muốn, và còn được Ủy hội Bầu cử Victoria hoặc Australia tài trợ nếu đạt được từ 4 phần trăm phiếu cơ bản trở lên (mỗi phiếu hiện nay được tài trợ1,75 đô la cho bầu cử tiểu bang Victoria và 2,73454 đô la cho bầu cử liên bang).
Thêm vào đó, để chuẩn bị các thế hệ tương lai, tòa án Tối cao của Úc đã phối hợp cùng Quỹ Giáo dục Hiến pháp thành lập một cơ quan có tên Trung tâm Hiến pháp Úc vào ngày 9 tháng Tư năm nay 2018. Ý tưởng thành lập này được hình thành sau khi giới tinh hoa chính trị Úc quan ngại về xu hướng dân túy khắp nơi có nguy cơ tác động đến phẩm chất và giá trị dân chủ tại Úc, nhất là sau cuộc bầu cử Hoa Kỳ 2016. Chương trình giáo dục này bao gồm các câu chuyện thật và các hoạt động của Hiến pháp Úc dựa trên sáu nguyên tắc căn bản : dân chủ ; pháp trị ; phân chia quyền lực ; liên bang ; quốc gia ; và quyền được cân bằng với trách nhiệm. Nếu các thế hệ mai sau không hiểu, không quan tâm hoặc coi dân chủ như điều có sẵn, không phải hy sinh để có được, và không phải đấu tranh liên tục để bảo tồn, thì đó là điểm khởi đầu của sự suy thoái dân chủ. Các chương trình và nguồn tài liệu dạy này được các chuyên gia soạn thảo và đưa vào các trường học để chuẩn bị kiến thức và tinh thần cho các em, chuẩn bị các thế hệ lãnh đạo quốc gia tương lai có khả năng và tầm nhìn quốc gia.
Trong buổi ra mắt sách "Dân chủ : Những câu chuyện về con đường dài đến tự do" của cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice tại Viện Hoover, đại học Stanford, vào năm ngoái, bà Rice có chia sẻ câu chuyện của mình. Sinh trưởng tại Birmingham, Alabama ngay vào thời điểm mà người Mỹ da đen bắt đầu có cơ hội sử dụng lá phiếu của mình. Bà khoảng sáu tuổi gì đó khi cậu/chú bà đến đón bà tại trường học. Chứng kiến người dân da đen xếp hàng dài để bầu, lúc đó vẫn còn phân tách đen trắng (segregation), bà nói với cậu/chú mình là nếu người dân da đen đi bầu đông như thế thì làm sao Thống đốc George Wallace có thể thắng ? Ông trả lời rằng người da đen tuy chiếm số phiếu lớn, nhưng vẫn là thiểu số. Bà Rice hỏi vậy thì họ bầu để làm gì (có thắng đâu !) thì người cậu/chú trả lời rằng họ biết họ không thắng, nhưng một ngày nào đó, họ tin rằng lá phiếu của họ sẽ mang tính quyết định.
Thứ Bảy tuần trước tôi đã quan sát cuộc bầu cửtiểu bang Victoria, Úc châu. Tôi chứng kiến các vị cao niên đi đứng vô cùng khó khăn mà vẫn cố gắng đến để thực hiện quyền hạn và trách nhiệm công dân bằng lá phiếu của mình. Rồi tôi nghĩ đến Việt Nam. Mặc dầu người dân Việt Nam vẫn phải đi bầu, nhưng vẫn là đảng cử dân bầu. Hiện nay lá phiếu của họ chẳng có giá trị nào. Nhưng đến một ngày nào đó họ sẽ sử dụng lá phiếu của mình một cách thích đáng và sẽ bầu chọn người xứng đáng. Trong hiện tại, người dân Việt Nam có thể sử dụng lá phiếu của mình để bày tỏ quan điểm trong các kỳ bầu cử. Một, là để phiếu trắng. Hai, là gạch tất cả những người đảng cử ra và để chữ BX, tức bất xứng, chẳng hạn. Ba, là vẻ ô vuông, viết tên người mình muốn đề cử, như Trần Huỳnh Duy Thức hay một người nào đó, và đánh dấu ủng hộ. Bốn, hãy xử dụng trí tưởng tượng của mình.
Dân chủ là cùng nhau thảo luận, tranh luận và cuối cùng lấy quyết định chung để làm việc. Văn hóa dân chủ mang người ta lại gần đến nhau, thay vì đẩy họ xa cách, trở thành thù nghịch. Nó không phải là cách làm việc hay điều hành hữu hiệu nhất, nhưng nó là cách ít gây đổ vỡ nhất và ít đưa đến những rạn nứt không thể hàn gắn. Dân chủ đích thực đặt nặng tinh thần trách nhiệm của mọi công dân, coi trọng tiếng nói của họ, và coi mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Do đó dân chủ là thể chế bảo đảm quyền tự do tối thiểu của mọi công dân tốt hơn mọi chế độ đã thử nghiệm xưa nay. Còn một chế độ mà không bảo đảm quyền tối thiểu, như ngôn luận và truyền thông, hoặc tự do để và tự do miễn (freedom to and freedom from) thì đó chỉ là độc tài hoặc dân chủ trá hình.
Nếu người dân Việt Nam khao khát tự do đủ thì một ngày nào đó họ sẽ đứng lên làm cách mạng để xây dựng nền dân chủ đích thực cho chính họ và các thế hệ Việt Nam mai sau. Tôi nghĩ rằng không ai có thể ban phát các giá trị hay văn hóa dân chủ này được. Nó phải được xây dựng và bồi đắp liên tục, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bắt đầu bằng ý thức, tư duy. Người ngoài và nước ngoài có thể hỗ trợ bằng nhiều cách, nhưng họ phải tự làm lấy. Nếu dân chủ có thể ban phát được thì cũng có thể bí lấy đi được. Một nền dân chủ không có nền móng thì có thể sập bất cứ lúc nào. Nhưng hạt mầm dân chủ có thể được gieo, được vun bồi, được bảo bọc và phát triển ở mọi nơi. Chỉ cần tư duy, ý chí và quyết tâm của các công dân quan tâm thì sẽ trồng được.
Úc Châu, 30/11/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 04/12/2018
Ghi chú : Đi bầu là luật bắt buộc của Úc, do đó tỷ lệ tham gia bầu cử thường rất cao. Theo thông tin của Ủy hội Bầu cử Victoria (VCE), trong năm kỳ bầu cử trước đây, tỷ số người bầu cho hạ viện và thượng viện hợp lệ là ít nhất 92 phần trăm tổng số cử tri của tiểu bang, trong khi số phiếu bất hợp lệ (như điền không theo quy định thì từ 3 đến 5.22 phần trăm). Vậy có khoảng 2 đến 4.4 phần trăm cử tri trong các kỳ bầu cử này không bầu, và sẽ bị phạt, trừ phi họ có lý do chính đáng nào đó, như vì lý do sức khỏe, chẳng hạn.
So với bầu cử liên bang thì cũng có tỷ lệ bầu cử hợp pháp khoảng 92 đến 95 phần trăm.
Tài liệu tham khảo :
1. Dan Slater, "After Democracy", Foreign Affairs, November 6, 2018.
2. Yoni Appelbuam, "Americans Aren’t Practicing Democracy Anymore", The Atlantic, October 2018 Issue.
3. Hoover Institute, "A conversation with Condoleezza Rice on ‘Democracy : Stories from the Long Road to Freedom’", May 3, 2017.
Bài phát biểu của Phó Tổng thống Hoa Kỳ Mike Pence tại Viện Hudson vào đầu tháng Mười đã được đón nhận khác nhau, tùy theo quan điểm của người nghe/đọc.
Phó Tổng thống Mike Pence tại ASEAN-US Summit, 15 tháng 11, Singapore.
Theo Dingding Chen thuộc tạp chí the Diplomat thì tại Trung Quốc có ba loại phản ứng. Loại bi quan thì cho rằng Hoa Kỳ (không chỉ riêng đảng Cộng hòa mà là lưỡng đảng) không còn dấu ý đồ kiềm chế sự trổi dậy của Trung Quốc. Loại quan tâm thì nhìn thấy và chia sẻ quan điểm của loại bi quan nhưng không tin là tình huống sẽ không trở nên tồi tệ. Loại bình tĩnh hơn thì nhận xét bài phát biểu của ông Pence thật ra để đối nội hơn đối ngoại, nhất là trước kỳ bầu cử Hoa Kỳ giữa kỳ chỉ hơn một tháng.
Ngoài Trung Quốc cũng có bao phản ứng và nhận xét khác nhau. Cựu Phó Thủ tướng Úc John Anderson, chẳng hạn, thì cho rằng ông Pence chẳng khác gì tuyên bố một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Sau bài phát biểu này, ít ai nghĩ rằng ông Pence sẽ vận dụng mọi cơ hội, nhất là các diễn đàn quốc tế, để tiếp tục trình bày quan điểm cứng rắn của Hoa Kỳ đối với một Trung Quốc mà ông cho là có quá nhiều vấn đề. Cho đến những ngày trung và cuối tuần qua.
Vào thứ Năm ngày 15 tháng 11, trong bài phát biểu tại hội nghịthượng đỉnh ASEAN tại Singapore, ông Pence tuyên bố Hoa Kỳ muốn nhìn thấy một "Ấn Độ - Thái Bình Dương mà trong đó mọi quốc gia, lớn hay nhỏ, trở nên thịnh vượng và phát triển - an ninh đối với chủ quyền, tự tin về các giá trị của mình, và cùng nhau phát triển mạnh hơn". Ông Pence khẳng định rằng (ý đồ) đế quốc và sự hung hãn không có chỗ đứng trong vùng này, và cam kết của Hoa Kỳ đối với vùng này "chưa bao giờ mạnh hơn" (như bây giờ).
Hai ngày sau đó, tại hội nghị APEC được tổ chức tại Papua New Guinea (PNG) năm nay, ngay sau bài phát biểu của ông Tập Cận Bình (thoạt nghe đầy vẻ hoa mỹ và hòa giải), ông Pence tiếp tục minh định rằng Hoa Kỳ sẽ không thoái lui đối với cuộc chiến thương mại với Bắc Kinh cho đến khi nào họ thay đổi cách thức của họ. Trước mặt Tập Cận Bình, ông nói : "Trung Quốc đã lợi dụng Hoa Kỳ bao nhiêu năm qua và những ngày đó đã qua rồi". Ông Pence cũng lên án Bắc Kinh về chiến lược ngoại giao bẫy nợ (debt-trap diplomacy) của họ. Ông Pence cảnh cáo : "Các dự án mà họ (Trung Quốc) ủng hộ là thường không bền vững và phẩm chất tệ. Không nên chấp nhận các khoảng nợ nước ngoài mà có thể làm nguy hại đến chủ quyền quốc gia… (Phải) bảo vệ quyền lợi của đất nước bạn, duy trì độc lập và, giống như Hoa Kỳ, luôn luôn đặt đất nước của quý vị trên hết."
Cũng trong bài phát biểu này ông Pence công bố Hoa Kỳ sẽ cùng với Úc hợp tác xây dựng căn cứ hải quân tại PNG. Mục tiêu là củng cố thêm sự hiện diện quân sự của Washington tại Châu Á và Thái Bình Dương. Ông nói : "Chúng tôi sẽ làm việc với hai quốc gia này để bảo vệ chủ quyền và hải quyền (maritime rights) tại các đảo Thái Bình Dương". Ông Pence chưa công bố Hoa Kỳ sẽ cam kết và hỗ trợdự án này cụ thể như thế nào về mặt tài chánh, và các tàu thủy Hoa Kỳ có đóng quân lâu dài tại Lombrum, Manus Island không. Tuy nhiên, theo chuyên gia Jonathan Pryke thuộc Viện Lowy thì quyết định này sẽ mang Hoa Kỳ đến gần Biển Đông hơn, và ông nghĩ rằng nó cũng là sự đẩy ngược đáng kể đối với tham vọng chiến lược của Trung Quốc trong vùng Thái Bình Dương.
Qua các diễn biến chính trị xảy ra vào trung tuần và cuối tuần qua, chúng ta có thể nhìn nhận vài điều.
Một, Trung Quốc đã phải nhượng bộ. Họ sẽ không quyết định như thế nếu có sự chọn lựa ! Nhưng họ đã, một phần nào đó, nhượng bộ với Hoa Kỳ về mặt thương mại. Trung Quốc muốn đạt một thỏa thuận với Hoa Kỳ bằng cách cung cấp một danh sách dài những gì họ sẵn lòng thực hiện để giải quyết căng thẳng hiện nay. Một nhượng bộ khác là qua thái độ hòa giải và mỹ từ của Tập Cận Bình khi ông nhấn mạnh nhu cầu hợp tác toàn cầu và thương mại quốc tế. Nghe thì hay nhưng toàn sáo rỗng (tôi sẽ có một bài về đề tài này). Các nhượng bộ thương mại này, mặc dầu chưa được công bố chính thức, nhưng chúng ta có thể suy luận rằng nó khó thể nào đáp ứng được các mục tiêu chiến lược sâu xa của Hoa Kỳ. Như ông Pence từng khẳng định, Hoa Kỳ muốn một quan hệ kinh tế được tự do, công bằng và hỗ tương với Trung Quốc, và muốn Bắc Kinh chấm dứt vĩnh viễn hành động ăn cắp sở hữu trí tuệ, chấm dứt các hành động bắt buộc chuyển giao công nghệ v.v...
Hai, ông Pence đi dự hội nghị ASEAN và APEC thay thế ông Trump không phải vì ông Trump bận chuyện gì chính đáng hơn, và cũng không phải ông Trump không quan tâm đến các hội nghị này. Ông Pence đi thay mặt ông Trump vì ông Pence đã mạnh miệng, thẳng thắn, quyết đoán và không khoan nhượng, như đã thấy qua bài phát biểu tại Viện Hudson, và trong các hội nghị vừa qua. Ông Pence không những tiếp tục chỉ điểm và ghim chặt Trung Quốc vào các sai trái của họ mà còn đưa ra hành động cụ thể, chẳng hạn như việc đầu tư xây dựng căn cứ quân sự tại Manus Island cùng với Úc. Nhật, Hoa Kỳ và Úc (cũng như Tân Tây Lan) đang liên minh để kiểm soát và kiềm chế sự ảnh hưởng của Trung Quốc, và sẽđầu tư nhiều vốn để phát triển các quốc gia trong vùng Thái Bình Dương. Nếu các nước này ngã theo Trung Quốc, vì bẫy nợ chẳng hạn, thì sẽ có những ảnh hưởng sâu xa lên Biển Đông, vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, và cục diện địa chính trị tại đây trong thời gian tới.
Ba, quan sát các diễn biến trong thời gian qua, chiến thuật ông Pence và ông Trump có vẻ như đang chơi trò "good cop, bad cop". Cho đến nay, đối với Trung Quốc, ông Trump tuy lên án họ nhưng làm một cách chừng mực. Ông vẫn tiếp tục tuyên bố Tập Cận Bình là bạn ông. Ông phê phán Trung Quốc ở các khía cạnh mất cân bằng thương mại với Hoa Kỳ và sở hữu trí tuệ v.v… nhưng có những lĩnh vực phần lớn ông chưa đụng tới, như nhân quyền, chẳng hạn. Ông Trump đóng vai "good cop". Trong khi đó ông Pence phê phán Trung Quốc không chừa chỗ nào, kể cả sự đối xử tàn tệ qua trại cải tạo tập trung với một triệu người Uyghur. Bài phát biểu của Pence tại Viện Hudson đã gây nhiều quan ngại và lo lắng đối với Bắc Kinh về một chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với mục tiêu bao vây Trung Quốc. Ông Pence đóng vai "bad cop".
Ngoài ra, sự phản ảnh khác nhau trong nội các của Trump về chính sách đối với Trung Quốc, tưởng chừng như thiếu nhất quán, nhưng nó lại càng làm cho Trung Quốc hoang mang. Họ không rõ đâu là chiến lược đích thực của chính phủ này, và đâu là những lời nói hoa mỹ, đe dọa, hay chỉ nhắm đến vấn đề đối nội v.v…
Nhìn như thế, đây có thể là chiến thuật nằm trong chiến lược chung của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Ông Pence đóng vai trò "bad cop", và ông Trump đóng vai "good cop". Khi ông Pence càng liên tục lên án Trung Quốc về các vi phạm và ý đồ thiếu minh bạch của họ một cách thẳng thắn và không khoan nhượng thì ông Trump lại im lặng, cốt yếu để xem phản ứng và nhượng bộ sau cùng của Bắc Kinh ra sao, trước khi quyết định thế cờ tiếp. Thế liên hoàn này, nhất là khi được tính toán kỹ lưỡng và phối hợp nhẹ nhàng, và bất ngờ, sẽ làm cho Trung Quốc lúng túng. Nó sẽ tạo nhiều áp lực lên Bắc Kinh để phản ứng, thay vì chủ động. Nếu được thi hành với kế hoạch đường dài hẳn hoi, nó sẽ làm cho lãnh đạo Bắc Kinh tiếp tục bất an. Sau cùng Bắc Kinh sẽ thấy nhu cầu cấp bách phải đối thoại trực tiếp với ông Trump để biết Hoa Kỳ thật sự muốn gì.
Nói cách khác ông Pence làm lên án và áp lực còn ông Trump thì thương lượng và thỏa thuận. Nghĩa là vừa đấm vừa thoa. Làm cho thế giới lo lắng.
Lợi điểm lớn nhất của nền dân chủ, như Hoa Kỳ, chẳng hạn, là trí tuệ tập thể. Dù bất cứ ai lên làm tổng thống thì cũng không thể nào độc đoán mà phải lắng nghe và tham khảo các chuyên gia và rút tỉa từ các kinh nghiệm trước đây. Ngoài ra trong văn hóa chính trị này, mọi suy nghĩ và mọi khía cạnh vấn đề đều được mổ xẻ và được tính toán kỹ lưỡng. Trong khi tại Trung Quốc nói ngược lại quan điểm của "hoàng đế" Tập Cận Bình không phải là văn hóa chính trị của họ. Hơn nữa, một cái đầu như họ Tập thì tư duy cũng bình thường thôi, chẳng có gì đáng gọi là tư tưởng cả. Nhưng dù có xuất chúng đi nữa thì cũng không thể bì lại bao nhiêu cái đầu xuất chúng khác trong giới tinh hoa của Hoa Kỳ hiện nay.
Điều mà lãnh đạo Trung Quốc lo lắng nhất hiện nay là vẫn chưa thật sự nắm rõ Hoa Kỳ muốn gì. Chỉ đòi hỏi thương mại hay còn các điều khác ? Khi đáp ứng đòi hỏi thương mại rồi thì sau đó là gì nữa ? Nhượng bộ bao nhiêu mới đủ ? Ông Tập không muốn chứng minh với người dân Trung Quốc là ông yếu đuối. Sau khi kích động tinh thần dân tộc trong mấy năm cầm quyền vừa qua, ông Tập muốn người dân Trung Quốc phát huy tinh thần yêu nước, hy sinh và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của họ, kể cả dựa trên các tuyên truyền dối trá. Các nước cờ kế tiếp của ông Tập mang tính quyết định sự nghiệp chính trị của ông.
Ông Pence đóng vai "bad cop" khá tài tình cho đến nay, làm cho APEC lần đầu tiên không thể đạt được thỏa thuận hay tuyên bố chung nào kỳ này. Để xem ông Trump đóng vai "good cop" ra sao trong những ngày tới, nhất là cuộc gặp mặt với ông Tập tại hội nghị thượng đỉnh G20 ở Buenos Aires vào cuối tháng 11 này.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 24/11/2018
Mỗi năm vào 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11, tôi và các đồng nghiệp được nghe từ loa âm thanh tại chỗ làm một giọng nói nhắc nhở về gương hy sinh của bao người nằm xuống để bảo vệ lý tưởng tự do. Sau đó là phút mặc niệm để lắng đọng tâm hồn tưởng nhớ về họ, những người mà đối với phần lớn chúng ta là vô danh. Trong những giây phút đó, tôi ngưng tất cả, ngưng nói chuyện hoặc gõ máy, để lắng lòng nghĩ về thân phận con người, về chiến tranh, hòa bình, tự do, và về những gương hy sinh cao cả.
Phút mặc niệm đầu tiên trên mộ người chiến sĩ vô danh, một năm sau ngày Thế Chiến Một chấm dứt, tại Khải Hoàn Môn, ngày 11/11/1919, Paris, Pháp. Ảnh Agence Meurisse, 1923 - source : Gallica-Bn
Năm nay ngày 11 tháng 11 rơi đúng vào Chủ Nhật nên tôi ở nhà. Sáng sớm dậy con gái lớn tôi đã nhắc nhở ngay : "Bố nhớ là chỉ còn hai tiếng mười phút nữa là đến giờ tưởng niệm đó nhe !". Nhìn đồng hồ thì lúc đó là tám giờ năm mươi sáng. Con bé chỉ mới chín tuổi mà biết nghĩ đến những điều này. Nghe cảm động quá. Tôi cảm ơn con gái. Bé còn nhắn thêm : "Đó là lễ tưởng niệm về đình chiến (armistice), 100 năm rồi đó bố".
Đọc về những nguyên do đưa đến Thế Chiến Một đã lâu nhưng mỗi lần nghĩ về nó vẫn không thể ngờ được nó xảy ra như thế. Sự khởi đầu chiến tranh thật là vô duyên và lãng nhách. Nó bắt đầu từ ngày 28 tháng Bảy năm 1914 và kết thúc ngày 11 tháng 11 năm 1918, kéo dài gần bốn năm bốn tháng sau. Cuộc chiến này sau này được diễn tả là "cuộc chiến để chấm dứt mọi cuộc chiến". Nhưng chỉ hai thập niên sau, Thế Chiến Hai lại diễn ra. Sau đó là hơn bốn thập niên của Chiến tranh Lạnh. Người lạc quan hy vọng khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, với sự sụp đổ của Liên bang Sô Viết và Cộng sản Quốc tế, thế giới sẽ hòa bình và thịnh vượng, các quốc gia sẽ dần dần chuyển hóa từ độc tài sang dân chủ, và các hình thức áp bức bóc lột sẽ không còn chỗ đứng trong nền văn minh chung của nhân loại. Điều đó không xảy ra hoàn toàn như vậy. Ngược lại Nga và Trung Quốc cũng như các chế độ cường quyền và độc tài khác đã và đang trở lại.
Muốn xây dựng thì khó còn muốn đạp đổ thì rất dễ. Muốn hòa bình thì khó nhưng muốn chiến tranh thì cũng rất dễ. Có người từng nói lòng thương của con người thì có hạn còn lòng tham thì vô hạn. Tuy là người đa phần lạc quan, nhìn chung quanh tôi nhận thấy con người rất dễ bị tổn thương. Người ta rất dễ gây nhau vì những chuyện rất nhỏ nhặt. Tinh thần kiên nhẫn, bao dung, và chấp nhận trở nên rất mỏng manh thời nay. Sự tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn, độc đoán, thiển cận, và bảo thủ cho mình là đúng nhất còn mọi người khác là sai, rất tiếc lại hiện hữu trong mỗi xã hội và mỗi thời đại. Nhưng một khi thành phần đó nắm quyền lực trong tay và chiếm một tỷ lệ vừa đủ, chiến tranh, dù đó có thể là giữa hai quốc gia, trong vùng hay Thế Chiến Ba, là điều khó tránh khỏi.
Sau Thế Chiến Một chấm dứt, có lẽ rất nhiều người trong các địa vị khác nhau nghĩ đến việc làm sao một cuộc chiến như thế không tái diễn nữa. Trong khi các sử gia ghi chép lại các sự kiện lịch sử để làm bài học cho nhân loại, hay các nhà lãnh đạo quốc gia như cố tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tìm cách thành lập Liên đoàn Quốc gia để gia tăng hợp tác và giảm thiểu đối đầu gây hấn giữa nhau, vân vân…, thì một nhà báo cựu chiến binh người Úc tên Edward George Honey đưa ra một sáng kiến độc đáo.
Honey đã từng phục vụ trong Thế Chiến Một. Khi tin tức về chiến thắng của phe Đồng minh gây ra sự hưng phấn ồn ào trên đường phố London sau ngày 11 tháng 11 năm 1918, ông đã nghĩ đến một ngôn từ đểtưởng nhớ đến sự tàn phá của chiến tranh. Im lặng. Honey đề nghị im lặng như là con thuyền chứa đựng nỗi đau đớn và mất mát của chiến tranh, kể cả sự suy nghĩ về thắng lợi. Im lặng, một từ vựng chứa đầy sức mạnh hơn bao ngôn từ khác.
Một khoảnh khắc im lặng chứa đựng một nhu cầu sâu sắc trong con người để cảm nhận ra được những gì xảy ra cho họ.
Sinh ra năm 1885 tại thành phố St Kilda, Melbourne, tiểu bang Victoria, Úc Châu, Honey đã từng sở hữu một tạp chí, học về truyền thông/ký giả tại Tân Tây Lan, và như bao người khác cùng thời, gia nhập lực lượng Hoàng gia Anh vào năm 1915. Vì lý do sức khỏe, ông bị giải ngũ. Ông ở lại London và tiếp tục nghề ký giả. Ông đã chứng kiến những người lính trở về từ chiến tranh, bị thương và tan nát (injured and broken). Ông viết xuống những suy nghĩ của mình dưới bút hiệu Warren Forster trên the London Evening News vào ngày 8 tháng Năm năm 1919 như sau :
"Tại sao chúng ta không thể dành các mảnh của giờ Hòa bình này, hân hoan tưởng niệm một cách im lặng cho sự chết chóc vĩ đại này ?
Một cách cá nhân, đúng là có. Rất nhiều người trong chúng ta biết chúng ta sẽ dành cho người thân và thân nhân của riêng mình, cho người bạn sẽ không bao giờ quay trở lại. Nhưng với tính cách quốc gia ?
"Tôi chỉ yêu cầu năm phút, chỉ năm phút nhỏ nhoi thôi. Năm phút im lặng của lễ tưởng niệm quốc gia. Một sự can thiệp rất thiêng liêng".
Đề nghị của ông đã đi vào quên lãng. Nhưng chỉ vài tháng sau đó, một tác giả và chính trị gia tại Nam Phi ngài James Percy FitzPatrick đã có một hành động chính trị để thiết lập một truyền thống về sau.
Vào ngày 4 tháng Mười năm 1919, FitzPatrick đã viết thư đề nghị phút mặc niệm cho một người bạn hiện đang là một thành viên trong nội các chính phủ Anh. Sau cùng nó cũng được trình lên vua George thứ Năm (George Frederick Ernest Albert). FitzPatrick và Honey được mời đến tập dợt tại Cung điện Buckingham. Mớt đầu họ dự trù 5 phút mặc niệm, nhưng khi dợt, tất cả đều thấy năm phút là quá lâu, ngay cả cho những người chuyên diễn hành lâu dài. Cuối cùng họ đồng ý còn lại hai phút. Chỉ vài ngày trước ngày kỷ niệm một năm Thế Chiến Một chấm dứt, vua George V ra sắc lệnh hai phút mặc niệm yêu cầu vào giờ thứ 11 ngày 11 tháng 11 mỗi năm, tất cả mọi hoạt động bình thường hay các âm thanh và di động, ngoại trừ những trường hợp bất khả, phải ngưng lại để được tĩnh lặng hoàn toàn, để các suy nghĩ của mọi người có thể tập trung vào việc tưởng nhớ đến những cái chết vinh quanh. Và từ đó trở đi nó trở thành truyền thống. Ngày nay nó là một hình thức phổ quát.
Cách đây đúng 100 năm, vào lúc 11 giờ sáng những tiếng súng đã được ngưng dọc theo mặt trận kéo dài 400 cây số, và các tiếng nổ sét tai của nó đã được thay thế bởi tiếng rung của chuông nhà thờ. Hơn hai thập niên sau, Thế Chiến Hai lại diễn ra. Winston Churchill từng nói "Những ai không học hỏi từ lịch sử bị lên án lập lại nó". Tôi nghĩ rằng biết lịch sử thì có biết. Học, cũng có thể rất nhiều người học. Nhưng nó chỉ cần vài cá nhân bất bình thường, hiếu chiến, cuồng vọng và điên rồ, thì mọi người khác dù có học cũng chẳng ngăn cản được sự suy thoái và leo thang cấp tốc của xung đột và chiến tranh.
Hơn nữa, tuy học là cần thiết, nhưng khi chưa trãi nghiệm, người ta không thể thẩm thấu những gì người khác đã trãi qua, nhất là những mất mát lớn lao. Trãi nghiệm là cần thiết cho sự phát triển của con người. Nhưng không ai muốn trãi nghiệm thêm một chiến tranh thế giới nữa trong thời đại của vũ khí hạt nhân/sinh học/hóa học, hay nói chung là vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Điều chúng ta có thể làm để tránh những đau thương mất mát to lớn gây cho nhau là trau dồi khả năng phản ánh, tự chiếu (self-reflection). Trung tâm điểm của chức năng tự chiếu là giúp cho chúng ta tìm đến ý nghĩa làm người. Trong thế giới ngày càng ồn ào này - khó có không gian và thời gian cho tĩnh lặng - thì việc bỏ qua các tiếng ồn để tìm đến sự im lặng sẽ giúp cho chúng ta gia tăng khả năng tự chiếu và phát triển.
Im lặng sẽ rất là hữu ích cho chúng ta, lúc tưởng niệm như Honey đề nghị, cũng như lúc tư/chánh niệm, khi mọi tiếng ồn hay những thứ tiếng khác làm mình dao động. Trong thế giới bất định hôm nay, có lẽ chúng ta cần đến im lặng hơn bao giờ hết.
Có nhiều điều đáng nói về cuộc bầu cử Mỹ giữa kỳ vào tuần qua.
Điện Capitol Hạ viện Mỹ - vào thu - Hình minh họa
Trước hết, kết quả là hỗn hợp. Dân chủ thắng hạ viện, Cộng hòa thắng thượng viện. Không bên nào thua hoàn diện hay thắng hoàn diện kỳ này. Cả hai viện cần làm việc với nhau trong hai năm trước mặt để thông qua bao nhiêu dự luật bế tắc hay cần thiết. Đó là các dự luật phải thông qua để có thể giải quyết trần nợ (debt ceiling) hay ngăn cản sự ngưng hoạt động của chính phủ (government shutdown). Ngoài ra họ có sẵn sàng để làm việc với nhau, để thỏa hiệp vì quyền lợi chung của quốc gia không, thì chưa có gì rõ ràng cả. Sự phân hóa chính trị vẫn còn rất sâu sắc trong lòng người dân Mỹ hiện nay.
Kế tiếp, những người bầu cho Trump vẫn mạnh mẽ tiếp tục ủng hộ ông, và họ sẽ không đi đâu cả trong thời gian tới. Phía Dân chủ dường như hy vọng rằng người dân sẽ nhìn ra được bao nhiêu vấn đề về cách điều hành quốc gia của Trump trong hai năm qua và qua đó sử dụng lá phiếu của họ khác đi kỳ này. Nhưng điều đó không xảy ra. Chính Trump biết rất rõ điều này khi ông nói trong cuộc họp báo sau đó là "Tôi nghĩ họ thích tôi". Họ đây là các cử tri trung thành nòng cốt đã ủng hộ ông trong cuộc bầu cử 2016. Và số này không nhỏ. Nói cách khác có rất ít xác xuất những người ủng hộ Trump sẽ thay đổi quan điểm của họ, và có rất nhiều xác xuất họ vẫn muốn ông tiếp tục tái nhiệm vào năm 2020. Do đó Đảng Dân chủ nếu muốn thắng cử năm 2020 thì không thể mong đợi chuyển hóa họ mà phải tìm căn cứ cử tri khác, như những người trong hơn 50 phần trăm dân số cử tri chưa đi bầu hiện nay.
Sau cùng, điều có lẽ đáng nói nhất qua kỳ bầu cử này là sự tham gia tích cực của người Việt ở tầm liên bang, tiểu bang và địa phương. Đại đa số là trẻ và thuộc thế hệ thứ hai. Người Việt tại Mỹ có ít nhất một dân biểu liên bang, nhiều dân biểu hoặc thượng nghị sĩ tiểu bang, và nhiều nghị viên và thị trưởng của các hội đồng thành phố đã thắng cử kỳ này. Điều đáng nói nữa là tỷ lệ phụ nữ Việt Nam nói riêng, của nữ giới nói chung, muốn thể hiện quan điểm và mạnh dạn tranh cử kỳ này. Sự quyết tâm dấn thân vào con đường này và thắng được những người đương nhiệm đầy kinh nghiệm là điều cần ghi nhận và tuyên dương. Số lượng người ghi danh và tham dự cuộc bầu cử này đã đạt con số kỷ lục 113 triệu người (tuy vẫn chỉ là 49 phần trăm số lượng cử tri có tư cách bỏ phiếu, nhưng đó vẫn là kỷ lục). Con số kỷ lục này có thể một phần là vì nhân tố Trump, dù ủng hộ hay chống đối. Nhưng dù theo Cộng hòa hay Dân chủ, sự quan tâm, tham vọng và hành động dấn thân vào chính trường để có tiếng nói, để đại diện cho các ý tưởng và lý tưởng của mình và của những người khác, là những yếu tố vô cùng cảm kích. Thế hệ này có đủ sự tự tin, ngôn ngữ, kiến thức và, trên hết, quan niệm rằng bằng cách dấn thân vào chính trị giòng chính thì mọi ước nguyện hay tham vọng thay đổi xã hội mới trở thành hiện thực.
Dấu hiệu tích cực này chưa thấy ở những cộng đồng người Việt khác ngoài Hoa Kỳ. Có thể vì không có cộng đồng người Việt nào lớn bằng tại Hoa Kỳ, và văn hóa chính trị tại đây thuận tiện và thích hợp hơn những nơi khác (mặc dầu hầu như ai cũng biết vận động chính trị tại Mỹ là cực kỳ tốn kém). 43 năm qua, sau khi đã hội nhập tương đối thành công, đã ổn định về chỗ ở và công ăn việc làm, đã "tu thân", "tề gia", thì bây giờ là "trị quốc" ? Phải chăng đây là lúc mà nhu cầu về sự kính trọng và tự hiện thực, hai bậc thang nhu cầu cuối cùng (sau sinh lý học, an toàn, và yêu thương và thuộc về) mà nhà tâm lý học Abraham Maslow từng biện luận trong tác phẩm về các thứ tự nhu cầu, đã trở thành ưu tiên hiện nay ?
Tại Úc, trong kỳ bầu cử tiểu bang Victoria sắp tới có tiến sĩ Kiều Tiến Dũng ra tranh cử thượng viện tiểu bang, ứng viên cùng Đông Nam Melbourne, thuộc Đảng Lao động. Ngoài tiến sĩ Dũng thì được biết có thêm vài người trẻ khác thuộc các đảng Tự do, đảng Xanh và độc lập cũng ra tranh cử. So với các kỳ trước thì tỷ lệ kỳ này vẫn tích cực hơn và xác xuất có thêm người Việt vào quốc hội tiểu bang cũng tương đối cao. Hiện tại đã có một bạn trẻ Việt Nam tên Trương Hương thuộc Đảng Xanh đã được bầu vào thượng viện vào tháng Hai năm nay khi người tiền nhiệm ghế này từ nhiệm. Tuy nhiên cô Hương cũng như 39 ghế thượng viện khác, và 88 ghế hạ viện của quốc hội tiểu bang đều phải bầu lại vào ngày 24 tháng này.
Hiện tượng người Việt tại Hoa Kỳ, Úc, Canada v.v… gia tăng tham chính trong thời gian qua là một dấu hiệu tích cực. Nó chứng minh sự hội nhập và trưởng thành về nhiều mặt, nhất là tâm thức chính trị. Tuy nhiên nó vẫn chủ yếu mang tính cách tự phát và cá nhân. Nếu các thế hệ trẻ hôm nay và mai sau được gia đình (nhất là cha mẹ) khuyến khích từ nhỏ, được chuẩn bị và trang bị bằng kiến thức, tinh thần và kinh nghiệm (qua các hoạt động tập thể từ trong nhà trường và ngoài xã hội) để trau dồi khả năng phục vụ, lãnh đạo cũng như các kỹ năng mềm, và được thực hiện một cách khoa học và hệ thống, thì các thế hệ trẻ Việt Nam kế tiếp sẽ thay đổi bộ mặt cộng đồng Việt Nam tại khắp nơi trên thế giới trong những thập niên tới.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 14/11/2018
Tôi không theo dõi tạp chí Foreign Policy nhiều bằng Foreign Affairs vì nhiều nguyên do, một phần vì phẩm chất về nội dung và phần khác vì có không có nhiều thời gian. Nhưng mỗi khi mở Foreign Policy ra đọc, tôi thường chú ý đến các bài viết của giáo sư Stephen Walt. Ông luôn có những suy nghĩ phê phán và chiến lược đối với các chính sách ngoại giao và thành trì ngoại giao của Hoa Kỳ, và luôn có những dữ kiện và biện luận vững chắc cho các quan điểm của mình. Ông không đứng về phía Cộng hòa hay Dân chủ mà thẳng thắn nói lên suy nghĩ của mình. Các phê bình của ông nhắm đến các chính sách ngoại giao thời Bill Clinton, George W Bush và Barack Obama, cũng như với Donald Trump hiện nay.
Giáo sư Stephen M Walt. Ảnh minh họa
Tuy không cùng quan điểm với ông về nhiều vấn đề hay các khía cạnh của vấn đề, cách phân tích nhận định và cách đặt vấn đề của Walt làm cho người đọc, trong đó có tôi, suy nghĩ và phản ánh các quan niệm đang có của mình. Tôi luôn quan niệm không có một sự thật tuyệt đối, và do đó không nên bảo thủ ôm cứng các quan niệm của mình, nhất là khi có dữ kiện mới hay lý luận thuyết phục. Vì thế nên tôi nhận thấy tầm quan trọng trong các bài viết của Walt, và đây là sự thành công của ông, dù chúng ta có đồng ý với ông hay không. Làm cho người khác suy nghĩ (lại) đã là một thành công trong việc viết lách rồi.
Walt hiện đang giảng dạy quan hệ quốc tế tại trường đại học Harvard. Ông thuộc trường phái hiện thực trong quan hệ quốc tế (realist school of international relations, tức realism). Nhưng khác với những nhà sáng lập hay trụ cột trong trường phái này, Walt có vẻ là người hiện thực hơn bởi vì tuy coi trọng lý thuyết (điều mà ông cho là tất cả mọi người đều chịu ảnh hưởng dù có ý thức hay có công nhận hay không), ông không câu nệ hay phụ thuộc quá nhiều vào nó, và vì thế ông không phải là người giáo điều. Nói cách khác, Walt là người hiện thực theo nghĩa thực dụng.
Cũng cần nhắc lại một chút về chủ nghĩa hiện thực (realism) và tân hiện thực (neo-realism). Những người như Hans Morgenthau, tác giả của Chính trị Giữa các Quốc gia (Politics Among Nations, xuất bản đầu tiên năm 1948, một thời là sách gối đầu cho sinh viên ngành bang giao quốc tế), được xem như là cha đẻ của trường phái hiện thực cổ điển. Trong thời cao điểm của Chiến tranh Lạnh, Kenneth Waltz đã tái cấu trúc lại chủ nghĩa hiện thực, và ông là tác giả của Lý thuyết về Chính trị Quốc tế (Theory of International Politics, xuất bản năm 1979). Trong thời Chiến tranh Lạnh, hai trường phái quan điểm ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ nói riêng và bang giao quốc tế nói chung là chủ nghĩa tân hiện thực và tân cấp tiến.
Kenneth Waltz là tác giả của Lý thuyết về Chính trị Quốc tế (Theory of International Politics), xuất bản năm 1979).
Chủ nghĩa hiện thực, theo quan điểm của Walt, là cố gắng giải thích chính trị thế giới như những gì chúng là, chứ không phải những gì chúng nên là. Nó có một quá khứ lâu dài và có nhiều khác biệt trong cùng trường phái, nhưng nồng cốt của nó dựa vào tập hợp các ý tưởng đơn giản. Ông tóm gọn nó như sau. Một, đối với người hiện thực, quyền lực nằm trung điểm của đời sống chính trị. Mặc dầu các yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trọng, nhưng chìa khóa để hiểu chính trị nằm ở chỗ ai đang nắm giữ quyền lực và đang làm gì với nó. Hai, đối với các nhà hiện thực, nhà nước là nhân vật chính trong hệ thống chính trị thế giới. Vì không thể trông chờ một trung tâm quyền lực giải quyết các tranh chấp, mọi nhà nước phải dựa vào tài nguyên và chiến lược của chính mình để tồn tại. Do đó an ninh là quan tâm muôn đời của mọi nhà nước, mà tất cả đều lo lắng ai trở nên mạnh hay yếu, và xu hướng thay đổi nấc thang quyền lực lên xuống ra sao. Ba, hợp tác không phải là điều bất khả, có lúc nó cần thiết để sống còn, nhưng nó rất là mỏng manh. Các nhà hiện thực xác định rằng nhà nước có xu hướng phản ứng với đe doạ bằng cách chuyển nhượng cho người khác việc đối phó với hiểm nguy, và nếu không thành công thì họ tìm cách cân bằng mối đe dọa đó, bằng cách tìm đồng minh hoặc xây dựng khả năng của riêng mình.
Tuy chịu ảnh hưởng về chủ nghĩa hiện thực hoặc tân hiện thực của những người thầy và các thế hệ đi trước, Walt có tư duy phóng khoáng và cởi mở hơn. Walt ghi nhận chủ nghĩa hiện thực không phải là cách duy nhất để giải thích, để thấu hiểu các vấn đề phức tạp của chính trị quốc tế, bởi vì luôn có nhiều xu hướng khác thích hợp và hữu lý hơn, tùy theo từng vấn đề. Nhưng theo Walt, nếu suy nghĩ như một người hiện thực, trong khoảng thời gian nào đó, thì nhiều khía cạnh mập mờ, mơ hồ của chính trị quốc tế sẽ trở thành dễ hiểu hơn. Ngoài ra trong cuộc tranh luận với giáo sư G. John Ikenberry (một người nổi tiếng trong trường phái chủ nghĩa quốc tế cấp tiến), tuy phê bình thẳng thắn tác phẩm Liberal Leviathan của Ikenberry vì cho rằng trường phái cấp tiến là quá lạc quan (nên thiếu thực tế), Walt cũng công nhận rằng phần lớn ông cũng đồng ý với các quy định cụ thể trong cuốn sách này, và thế giới sẽ trở nên tốt hơn nếu các nhà nước hành xử như Ikenberry đề nghị.
Trong bài mới đây trên Foreign Policy, "Thế giới chúng ta đang hướng tới là thế giới kiểu nào ?", Walt cho rằng chính trị quyền lực vẫn còn đây, không đi đâu cả, và chúng ta chưa bao giờ thật sự rời nó. Thế giới vào năm 2025, chẳng hạn, sẽ tiếp tục đánh dấu cuộc cạnh tranh càng gây gắt giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, và có thể tiếp tục kéo dài sau đó. Tuy nhiên không có quốc gia nào như Hoa Kỳ có đủ các yếu tố tổng hợp về ảnh hưởng kinh tế, công nghệ tinh tế (technological sophistication), sức mạnh quân sự, an ninh lãnh thổ, và dân số thuận lợi để qua mặt Hoa Kỳ, mặc dầu khoảng cách của thế thượng phong sẽ ngày càng nhỏ hơn so với trước đây cũng như các vấn đề về tài chính dài hạn và sự chia rẽ chính trị sâu sắc trong nền chính trị nội địa của quốc gia này.
Walt là người cổ võ cho chiến lược "cân bằng ngoài nước" (offshore balancing ). Chiến lược này đề cao việc sử dụng quyền lực vùng (regional powers, tức các quốc gia có tiềm lực trong vùng) để kiềm chế và cân bằng sự trổi dậy của các cường quốc thù nghịch có tiềm năng trổi lên, thay vì chiến lược "vượt trội/lãnh đạo cấp tiến" (liberal hegemony). Walt biện luận rằng các chính quyền từ thời Clinton, Bush cho đến Obama đều chủ trương sử dụng sức mạnh đồ sộ của nó để phát huy các giá trị cấp tiến trên toàn thế giới, bằng biện pháp hòa bình nếu có thể, không thì bằng vũ lực . Walt phê phán chiến lược này, cho nó là thất bại hoàn toàn, làm hao mòn quyền lực và uy tín của Hoa Kỳ một cách không cần thiết.
Tựu chung Walt biện luận rằng Hoa Kỳ nên tự chế trong cung cách sử dụng quyền lực của mình, nên áp dụng chiến lược "cân bằng ngoài nước" vì có nhiều điểm lợi. Một, tiết kiệm được hàng tỷ đô la, không bị tốn kém quá mực về chi phí quân sự, mà thay vào đó sử dụng nguồn lực này cho các chiến lược ưu tiên khác, nhất là các chi phí cần thiết cho quốc nội. Hai, nó tôn trọng sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, như thế không tìm cách áp đặt các giá trị của Hoa Kỳ lên những quốc gia khác (qua đó ít bị phản đối hơn), và nên tập trung vào việc làm gương cho các quốc gia khác noi theo.
Chính sách đối ngoại của chính quyền Trump hiện nay một phần nào đó phản ảnh một chiến lược ngoại giao có vẻ tự chế hơn, không tham vọng bao trùm như trước. Thoạt nhìn thì chủ trương của Trump và quan niệm của Walt có vẻ tương đồng. Cho nên đã có người khác như sử gia Hal Brands biện luận rằng những người như John Mearsheimer, Barry Posen và Stephen Walt - là những học giả phê bình gây gắt các chính sách ngoại giao thất bại của Hoa Kỳ - và Donald Trump cũng phê phán như thế, nên tựu chung họ tương đồng với nhau. Nhưng Walt bác bỏ điều này vì theo ông vấn đề là phức tạp hơn nhiều, và không thể bóp méo các luận điểm của ông đã trình bày nhiều thập niên qua.
Vào tháng Ba năm 2013, Walt được nhân viên Kế hoạch Chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mời nói chuyện và yêu cầu ông nên thẳng thắn "khiêu khích" (be provocative). Nhận lời, Walt trình bày đề tài "Vì sao các chính sách ngoại giao Hoa Kỳ tiếp tục thất bại". Sau bài nói chuyện này, Walt có ý định viết thành cuốn sách hẳn hoi. Ông đã hoàn tất bản thảo vào tháng 10 năm 2016, và dự trù cuốn sách sẽ ra mắt khoảng chừng một năm sau khi bà Hillary Clinton làm tổng thống, tức khoảng cuối năm 2017. Ông tính vậy thì nghĩ rằng bà Clinton cũng sẽ như các người tiền nhiệm của mình lập lại các lỗi lầm chiến lược. Ông không ngờ bà Hillary lại bị ông Trump đánh bại cuối năm đó. Vì thế nên việc ra mắt sách của ông bị hoãn lại và đã thay đổi nội dung sâu sắc cho phù hợp. Ông cho ra mắt tác phẩm mới của mình vào tháng 10 vừa qua.
Phạm Phú Khải
Nguồn : 06/11/2018
Vào đảng hoặc ra đảng là chuyện khá bình thường trong mọi tổ chức chính trị khắp nơi. Nhưng một đảng viên với 62 năm tận tụy với Đảng, khi ra lại có thái độ dứt khoát đoạn tuyệt đểthốt lên rằng Đảng đã thực hiện chính sách ngu dân, độc tài, cướp quyền sống và phát triển của dân tộc, thì đó là điều bất thường.
"Tôi không thích Đảng Cộng sản Việt Nam - Hèn với Giặc - Ác với Dân" - Ảnh minh họa
Qua sự kiện này, chúng ta cần đặt các câu hỏi tại sao và khi nào mình nên vào đảng (dù đó là Đảng Cộng sản, Đảng Quốc dân, Đảng Dân chủ, Đảng Cộng hòa, hay bất cứ đảng chính trị nào), và tại sao và khi nào mình nên ra khỏi đảng ?
Câu hỏi tiếp theo là đảng là ai, có phải là tổ quốc, là đất nước, là dân tộc, hay chỉ là một bộ phận nhỏ trong đại khối dân tộc ? Đảng đại diện cho những giá trị và triết lý nào, chiến lược có phục vụ cho mục tiêu xây dựng một đất nước tiến bộ văn minh và thịnh vượng không, và các phương châm hành động có đi cùng hay đi ngược các giá trị của mình ?
Câu hỏi quan trọng không kém là nếu một lúc nào đó đảng mình tham gia giờ đây đi ngược lại các nguyên tắc, giá trị hay lý tưởng của mình, thì thái độ của chúng ta lúc đó nên như thế nào ?
Trả lời được các câu hỏi này sẽ giúp cho tất cả chúng ta, nhất là các bạn trẻ hôm nay và mai sau, có những quyết định tích cực và đúng đắn khi chọn vào hay ra một đảng chính trị nào đó, chứ không bị lầm lẫn và ăn phải bánh vẽ, có khi suốt đời, như nhà văn Nguyên Ngọc hay các thế hệ đi trước.
Theo tôi, mỗi chúng ta trong vị trí, khả năng và hoàn cảnh đều có thể đóng góp hiệu quả cho một tập thể, tổ chức, xã hội hay đất nước nếu chúng ta biết tuân theo một số nguyên tắc và giá trị chuẩn mực. Không nhất thiết chúng ta phải tham gia vào một tổ chức hay một đảng phái chính trị mới đóng góp hiệu quả. Khi mỗi người cố gắng làm tốt nhất trong khả năng và trong vị thế của mình thì toàn xã hội sẽ tiến bộ lên. Chẳng hạn người làm truyền thông hay các nhà nghiên cứu học thuật thì nên giữ tư thế độc lập và không thiên vị để những sản phẩm mình làm ra có giá trị tổng quát, có tính đại diện cao, có tính khoa học vững vàn, thay vì chỉ để phục vụ cho một xu hướng nào đó. Tuy nhiên những ai quyết định chọn tham gia vào một tổ chức chính trị thì đó cũng là một chọn lực đáng trân quý bởi con đường phục vụ này cũng lắm phức tạp và nhiều hy sinh.
Nhưng dù quyết định đứng vào một tổ chức chính trị hay đứng ngoài, điều quan trọng trên hết là trách nhiệm của mỗi người trong vai trò là một công dân. Của bất cứ quốc gia nào. Chúng ta chỉ là những công dân tốt của đất nước đó nếu chúng ta có những suy nghĩ tích cực, hành xử thích hợp và tinh thần trách nhiệm, dù trong bất cứ vị trí nào của xã hội.
Việt Nam hôm nay mục ruỗng một phần lớn là do chế độ độc tài toàn trị làm hư hỏng toàn diện xã hội trong nhiều thập niên qua. Nhưng một phần lớn khác là do văn hóa chính trị tiêu cực của Khổng Giáo của nhiều thế kỷ trước và của chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ 20 ảnh hưởng. Người Việt Nam trong đó có thành phần lãnh đạo cộng sản hiện nay cũng là nạn nhân của nền văn hóa chính trị tiêu cực đó. Chúng ta đều là sản phẩm của nền văn hóa và giáo dục quốc gia, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự kiến tạo của xã hội mình đang sống (social construction).
Do đó để giúp đất nước thoát ra khỏi vũng lầy hôm nay, mỗi người Việt Nam cần ý thức thay đổi tư duy và dứt khoát đoạn tuyệt với những lối mòn xưa. Trong các thái độ này, tôi biện luận bốn điều căn bản sau đây.
Một, tập làm quen đặt câu hỏi với mọi vấn đề, với mọi người kể cả lãnh đạo của mình, để tìm hiểu và nhìn vấn đề thấu đáo trước khi phát biểu hay hành động. Đây là một đức tính hơi trái ngược với cung cách hành xử xưa nay của người Việt, của văn hóa Việt Nam. Đại đa số người Việt Nam (ngoại trừ các thế hệ hai và ba sinh trưởng tại hải ngoại, nhưng tính ra thì họ cũng không còn là công dân Việt Nam nữa) không quen đặt vấn đề, không quen thách thức các quyết định của cấp trên, của lãnh đạo. Ngay cả những người được cho là trí thức cũng thế. Đây là vấn đề văn hóa nên khó thay đổi và nếu có thì cũng mất rất lâu. Từ bé chúng ta đã được dạy "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó", "Con cãi cha mẹ trăm đường con hư" v.v… Trẻ em Việt Nam đâu có quyền đặt câu hỏi, và nhiều khi không có quyền được nói trước mặt người lớn. Giáo dục mầm non trong gia đình và nhà trường phần lớn như thế, chủ yếu là một chiều, nhồi nhét và áp đặt thay vì hướng dẫn và đào tạo tư duy độc lập và sáng tạo. Cho nên mặc dầu người Việt nói chung đều có trí thông minh không thua kém dân tộc khác, cách giáo dục mầm non này đã thui chột cả một dân tộc. Cùng lắm thì chúng ta chỉ đào tạo ra những người giỏi về kỹ thuật hay chuyên môn hơn là có tầm nhìn và lãnh đạo.
Hai, phân biệt rõ ràng lằn ranh giữa đảng và dân tộc. Những ai đã quyết định tham gia vào một đảng chính trị thì đó cũng là điều rất tốt. Nhưng phải luôn nhớ rằng đảng của mình chỉ đại diện cho những người có những quan tâm, quan điểm hay quyền lợi thiết thực của một thành phần nào đó trong xã hội. Những đảng khác cũng thế, cũng chỉ đại diện cho những thành phần khác trong xã hội mà thôi. Xã hội nào cũng đa dạng cả, và không một đảng nào có tính đại diện cho toàn xã hội đó. Những đảng nào tự nhận như thế thì chỉ là nguỵ biện và phản khoa học. Và sẽ luôn luôn có những thành phần trong xã hội mà không có ai đại diện cả. Tiếng nói của họ thường không được nghe, và họ bị đẩy ra ngoài rìa xã hội. Nhưng trong các thể chế dân chủ cấp tiến đích thực, các chính đảng khi lên cầm quyền thì phần lớn, chứ không phải hoàn toàn, thực hiện các chính sách phục vụ cho đại đa số người dân, tức những người bầu cho mình cũng như những người không bầu cho mình. Cho nên các chính quyền dân chủ cấp tiến thật sự là của dân do dân và vì dân.
Ba, luôn nhớ rằng một trong những điều bất toàn về con người là quyền lực. Quyền lực tuyệt đối sẽ làm hư hỏng tuyệt đối, nhưLord Acton từng nói. Khi quyền lực của toàn quốc gia lại tập trung vào một hay vài cá nhân, một nhóm người, một tổ chức, một đảng phái thay vì được phân chia rộng rãi cho toàn xã hội để cân bằng và kiểm soát, thì trước sau gì quốc gia đó cũng sẽ có vô số quốc nạn. Khi quyền sinh sát nằm trong tay một thiểu số mà không ai kiểm soát được thì sự lạm quyền và lộng quyền là điều chắc chắn xảy ra. Tham nhũng, bòn rút là hệ quả không tránh được, một thứ bệnh ung thư làm hư đốn tất cả. Độc tài độc đoán và tham nhũng luôn đi với nhau, triệt tiêu mọi tiếng nói khác biệt, triệt tiêu các đảng phái, tổ chức và cá nhân cũng như các cơ quan truyền thông không ủng hộ quan điểm hay quyền lực và quyền lợi của họ. Không hiểu vềquyền lực và sự đam mê cuốn hút của con người đối với quyền lực thì sẽ ngây thơ không ngăn ngừa được độc tài và độc quyền.
Bốn, chính trị, như mọi vấn đề khác, đều có mặt tích cực lẫn tiêu cực. Một người, hay nhóm người, có tâm, có tầm, có tài lãnh đạo và mưu lược, thì sẽ góp phần thay đổi sâu sắc cả một xã hội, một quốc gia. Một người khác, hay nhóm người khác, không có các đức tính này mà còn coi tài sản quốc gia là nơi để bòn rút, chia chác quyền lợi và quyền lực, và sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ các lợi ích của cá nhân hay bè phái, thì chỉ là đại họa cho quốc gia đó. Cho nên người dân Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn và tìm hiểu sân sắc hơn về chính trị. Trong mọi quốc gia, nền chính trị là ảnh hưởng sâu sắc nhất lên mọi mặt đời sống. Không có một nền chính trị vững ổn, không có một văn hóa chính trị đề cao các lý tưởng, ý tưởng, sáng kiến, và không có các chính sách mới phù hợp với kinh tế, văn hóa, giáo dục hay các quyền căn bản của công dân, thì tất cả mọi người đều bị thiệt thòi, ngoại trừ kẻ cầm quyền và vây cánh của họ. Không có gì và không có ai mà không bị ảnh hưởng một khi độc tài, nhất là độc tài toàn trị, nắm mọi quyết định trong tay và có đủ quyền lực trấn áp người dân. Nhưng người dân lại cứ để cho những người bất tài và bất đức nắm quyền thì làm sao mong đợi điều gì tích cực cho đất nước ! Nhìn như thế thì chế độ độc tài rõ ràng là một quốc nạn, nhưng văn hóa chính trị tiêu cực cũng là một quốc nạn không kém. Nó là nguyên nhân của phần lớn các vấn nạn hôm nay. Hai thứ này như con gà và cái trứng. Cho nên không có gì lạ nếu nhiều người Việt Nam, dù là trí thức và yêu nước thật sự, đã chọn nhầm đảng để trao phó cuộc đời của mình, để đến cuối đời phải than trách. Bởi vì văn hóa nói chung và văn hóa chính trị của Việt Nam xưa nay nói riêng phần lớn vẫn chỉ kiềm kẹp tư tưởng hơn là giải phóng tư tưởng tự do của mỗi người.
Tóm lại, chính trị tích cực hay tiêu cực, tốt hay xấu, chủ yếu là do người thực hiện nó. Chính trị có thể xây dựng và cũng có thể đạp đổ. Trong chính trị, xây dựng thì rất khó mà đạp đổ thì rất dễ. Có người từng nói lãnh đạo là một nghệ thuật. Cũng có người từng nói chính trị là nghệ thuật để đạt được điều mình muốn. Lãnh đạo và chính trị, hay lãnh đạo chính trị, có điểm giống nhau là nghệ thuật. Nghệ thuật ở đây nói cho cùng là con người. Con người là muôn mặt, là đa nguyên, là phức tạp, và là nghệ thuật. Để làm chính trị hay lãnh đạo thành công thì phải hiểu con người. Không hiểu con người thì mọi chiến lược hay nỗ lực đều thất bại. Hiểu con người là hiểu về cảm xúc, quan tâm và lý giải trong đầu óc của họ. Tất cả nằm trong bộ môn tâm lý.
Úc Châu, 01/11/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 01/11/2018