Sự kiện Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng kỷ luật giáo sư Chu Hảo đã gây nhiều phẫn uất và phản ứng từ một số trí thức Việt Nam. Một trong những tiếng nói mạnh mẽ nhất là nhà văn Nguyên Ngọc. Theo ông Ngọc thì việc kỷ luật giáo sư Chu Hảo là "một hành động thực hiện chính sách ngu dân… vì quyền lợi ích kỷ của một đảng độc tài đang cướp quyền sống và phát triển của dân tộc" ; và Đảng "tự diễn biến" thành một tổ chức chuyên quyền, phản dân hại nước. Tuyên bố của ông Ngọc được 6.7 ngàn thích, 479 phản hồi và 1467 chia sẻ trên trang facebook của ông chưa đầy ba ngày sau.
Cờ Đảng và cờ Nước. Ảnh minh họa
Một người với 62 tuổi đảng, tham gia kể từ năm 1956, người tự hào đã có mặt suốt hai cuộc kháng chiến, giờ đây không ngần ngại sử dụng những ngôn từ mạnh mẽ nhất để phê phán cái đảng mà ông đã tận tụy cống hiến ba phần tư cuộc đời mình.
Hai ngày sau khi báo chí đăng tin về vụ kỷ luật, ngày 27 tháng 10 một sốtrí thức tại Việt Nam đã cùng nhau lên tiếng phản đối, trong đó có Nguyễn Quang A, Phạm Chi Lan, Lê Đăng Doanh, Chu Hảo vân vân, đứng tên. Họ phê phán sự quy kết này "… là không đúng sự thật, thể hiện sự trấn áp thô bạo những nỗ lực rất đáng trân trọng của một trí thức hết lòng vì dân vì nước, chà đạp những ý kiến chân thật và xây dựng của ông về những vấn đề nóng bỏng của đất nước". Ông Nguyễn Quang A còn cho rằng "Với quyết định này, Đảng cộng sản Việt Nam đã dấn thêm một bước tự chôn mình".
Ngoài các nhà trí thức tương đối có tiếng tăm, một sốbạn trẻ trên mạng xã hội cũng bắt đầu tự ý tình nguyện từ giã Đội, ra khỏi Đoàn, và ra khỏi hoặc không vào Đảng. Họ cũng chúc mừng các thành viên đã ra khỏi Đảng, đứng về phía nhân dân. Trước và sau sự kiện này thì cũng đã có bao nhiêu người âm thầm khác từng bỏ Đảng trong năm qua, cũng như mấy chục năm qua.
Phản ứng quyết liệt của nhà văn Nguyên Ngọc, của các trí thức nói trên, hay của nhiều người quan tâm đến tình hình Việt Nam hiện nay, làm cho ngay cả người bàng quan nhất cũng đặt câu hỏi tại sao Ủy ban Kiểm tra TƯD quyết định tối và tồi như thế ? Phải chăng họ không lường được sẽ có những phản ứng mạnh mẽ ? Hay vì họ không nắm rõ ảnh hưởng của giáo sư Chu Hảo lên nhiều trí thức và thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay, như đã thấy qua các phản ứng trên ? Hay rằng họ biết rõ sẽ có phản ứng mạnh mẽ, nhưng nếu phải chọn một trong hai điều bất lợi, thì nên chọn cái ít bất lợi hơn ! Nghĩa là giữa việc kỷ luật giáo sư Chu Hảo dù dự trù sẽ bị phản ứng (nhất thời ?) với việc không kỷ luật để giáo sư Chu Hảo tiếp tục ảnh hưởng (qua đó khó thể răn đe những trí thức khác), thì nên chọn kỷ luật hơn !
Người ta có thể chê bai và kể cả khinh bỉ các hành động của Đảng, như bao nhiêu hành động khác của họ trước đây. Nhưng thái độ coi thường chẳng thay đổi được gì nếu không có tư tưởng và hành động thực tiễn.
Trước hết, với những thành tích của giáo sư Chu Hảo mà nhiều người đã đề cập đến, chúng ta không nên lấy làm ngạc nhiên vì sao giáo sư Chu Hảo bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng kỷ luật. Tất cả những tiếng nói ra sức bảo vệ thanh danh của ông đều cho thấy công trạng của ông là đáng kể, từ việc mở rộng không gian thông tin qua Internet vào Việt Nam ngay từ ban đầu cho đến việc khai sinh và điều hành nhà xuất bản Tri Thức. Tất nhiên những người quan tâm đến vận mệnh và quyền lợi chung của đất nước Việt Nam không nhìn thấy các hành động này có điều gì phải khiển trách hay kỷ luật, mà ngược lại còn rất đáng trân trọng vì có nhiều công ích. Trong khi đó Trung ương Đảng không nhìn như vậy. Họ chỉ thấy ông Chu Hảo có "những bài viết, phát ngôn có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng…" và ông đã "suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…".
Cách nhìn của Đảng, hay nói đúng hơn, thành phần lãnh đạo tối cao trong Trung ương Đảng (một thiểu số rất nhỏ), hoàn toàn trái ngược với cách nhìn của bao nhiêu thành phần khác trong xã hội. Nó trái ngược với đại đa số người dân. Mà đây không phải là lần đầu. Và chắc chắn không phải lần cuối. Các vụ án Nhân văn Giai phẩm của thập niên 1950, hay các chính sách phân biệt đối xử, coi thường trí thức, coi hồng hơn chuyên một thời gian dài, nhất là người dân miên Nam sau 30 tháng Tư năm 1975, hay nói chung chủ trương coi vai trò của trí thức trong các chế độ cộng sản trên toàn thế giới, đều nhất quán như thế. Đối với cộng sản, vai trò của trí thức là phục vụ mục tiêu chính trị "vĩ đại" của Đảng. Văn nghệ sĩ, truyền thông, giáo viên vân vân, đều như thế. Phục vụ, làm theo chỉ thị, nhưng lại không có quyền phản biện và không được có tư duy độc lập. Từ thời Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Castro, cho đến Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng, hay toàn bộ các quốc gia từng theo cộng sản từ xưa đến nay, cũng đều rập khuôn như thế.
Nhìn như thế thì việc kỷ luật giáo sư Chu Hảo thật ra là đi đúng chủ trương cộng sản hơn 100 năm qua trên khắp thế giới. Nó không có gì là lệch hướng gì cả. Dù trên thực tế họ không hẳn còn là cộng sản nữa, nhất là về ý thức hệ chính trị và về kinh tế, nhưng các chính sách cai trị quốc gia, các cơ chế điều hành guồng máy nhà nước, nhất là biện pháp đối với người bất đồng chính kiến, đều là theo kiểu mẫu Lenin và Stalin thời Liên Sô và có thêm phần sáng tạo của Mao cho đến nay. Đối với chế độ này, trí thức thật sự với tư duy độc lập và phản biện đều là thù nghịch và phải bị triệu tiêu hay loại trừ ảnh hưởng bằng mọi giá.
Do đó tôi cho rằng việc phản đối lại quyết định của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng như thế là thiếu cơ sở và không hợp lý, trừ phi những người phản đối có thể chứng minh được rằng giáo sư Chu Hảo đã không làm trái với "Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng v.v…", một lô điều luật nghị định và nghị quyết mà họ đã biện luận và nêu ra.
Nhà văn Nguyên Ngọc và một số đảng viên kỳ cựu đã, đang và sẽ bỏ Đảng qua vụ này. Chắc chắn sẽ có một số người khác tiếp tục bày tỏ thái độ. Đây là hành động rất đáng khâm phục và trân quý, dù có muộn màn đi nữa. Chọn đứng về phía người dân chứ không phải chính quyền, đứng về lẽ phải chứ không phải ngụy biện, bênh vực cho kẻ yếu chứ không phải cường quyền, là điều cần thiết và trân trọng ở mọi thời điểm mọi xã hội và mọi văn hóa chính trị. Nhưng những tiếng nói lẻ tẻ, từng đợt sóng nhỏ lăn tăn, sẽ không tạo ra cơn sóng đủ mạnh để tẩy sạch các vết nhơ. Ngoài ra các phong trào nhằm gây tiếng vang hơn là xây dựng thế lực lớn mạnh cho mục tiêu lâu dài thì rốt cuộc cũng chỉ tạo lên những âm vang mà sau đó mất cường độ qua thời gian hay hòa tan vào không gian rộng lớn.
Đất nước Việt Nam đang cần thay đổi sâu sắc hơn bao giờ hết. Chế độ hiện nay, tuy vẫn còn đủ mạnh để đàn áp mọi lực lượng dân chủ và các tiếng nói lương tâm, nhưng đã chứng minh sự túng quẫn và tối dạ không còn ngôn từ diễn tả và không còn thuốc chữa. Các lực lượng dân tộc dân chủ phần lớn vẫn chưa ngồi lại được với nhau để bàn thảo các vấn đề hệ trọng. Trong khi đó sức mạnh và sức ép của Trung Quốc lên Việt Nam ngày càng gia tăng.
Mỗi vài tháng hoặc mỗi vài năm, chúng ta lại chứng kiến thêm người bỏ đảng, chứng kiến thêm người bị đảng bỏ tù, chứng kiến thêm sự phá hoại toàn diện và triệt để của chế độ này, chứng kiến thêm sự kéo dài vô lý và vô nghĩa của một chế độ vô luân tiếp tục tồn tại. Điều tích cực là cùng lúc đó chúng ta cũng chứng kiến thêm những người thức tỉnh, những người quan tâm mới, hay những người trước đây cứ cho rằng không muốn làm chính trị mà chỉ muốn làm từ thiện, giáo dục hay tị nạn v.v… nhưng giờ đây đã nghĩ khác. Cũng cùng lúc đó, điều tiêu cực là bao nhiêu người đã mệt mõi, đã bỏ cuộc, đã ra đi, bao nhiêu tổ chức đã chia rẽ, phân tán, và bao người khác đã mất hết hy vọng cho nhau và cho đất nước.
Những đợt sóng thức tỉnh tuy muộn màn, tuy không cùng nhịp đập, tuy không cùng thời cùng lúc, để tạo sóng thần, nhưng dù sao nó vẫn là niềm hy vọng cần thiết cho đất nước Việt Nam hôm nay. Nó vẫn chiếu thêm một chút ánh sáng vào con đường Việt Nam trước mặt. Hy vọng kỷ luật của Trung ương Đảng đối với giáo sư Chu Hảo sẽ giúp cho những người trẻ Việt Nam nhìn rõ và phân biệt được đâu là tuyên truyền dối trá và đâu là sự thật của vấn đề bấy lâu nay.
Nhưng hy vọng thôi vẫn chưa đủ. Nếu người Việt không dứt khoát thay đổi tư duy chính trị của mình thì cho dầu chế độ này sụp đổ, chế độ độc tài khác cũng sẽ lên ngôi và rồi vẫn sẽ ngồi trên đầu trên cổ người dân Việt Nam.
Úc Châu, 29/10/2018
Lời ngỏ : Tôi viết xong bài này cách đây gần một tuần. Chưa kịp phổ biến thì hôm nay được nghe tin Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã được trả tự do và đã cùng hai con chị Nấm và Gấu và mẹ Nguyễn Thị Tuyết Lan đến Hoa Kỳ. Tình thương yêu và sự bền tâm vững chí của bốn thế hệ gia đình này làm cho tôi cảm động và ngưỡng phục. Xin chào mừng gia đình Như Quỳnh và bà Tuyết Lan được đến một quốc gia biểu tượng cho tự do. Tôi mong rằng một ngày không xa không một công dân nào phải rời quê mình vì sự sai trái của chế độ cầm quyền. Tôi luôn tin rằng tình thương yêu của cha mẹ và sự tin tưởng và hỗ trợ của bậc cha mẹ vào các việc làm của con mình là một động lực mạnh mẽ giúp cho họ thành công. Các nghiên cứu tâm lý tán thành kết luận như thế.
Blogger Mẹ Nấm và hai con trên máy bay. Photo Facebook Lê Đại Triều Lâm.
Cha mẹ nào không thương con, không muốn con mình được an toàn, được vui khỏe, thành tài, và hạnh phúc ! Cha mẹ nuôi con với nhịp tim đập cùng con như thế, vui với từng nụ cười và buồn với từng tiếng khóc.
Tôi tin rằng cha mẹ của Phạm Kim Khánh, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hay Trần Huỳnh Duy Thức, hay của bao nhiêu tù nhân lương tâm khác đang bị ngược đãi tại Việt Nam, không ngày nào là không nghĩ tới con ; không giờ phút nào là không nghĩ con mình ra sao, còn sống không, hôm nay có bị ngược đãi, ép cung không, hôm nay có bệnh tình gì không ? Tuyệt thực nhiều lần và lâu ngày như anh Duy Thức, với tinh thần quyết tâm là vũ khí duy nhất để chống chọi với cả một hệ thống tùy tiện và bạo lực, thì sự sống quả thật mỏng manh, như ngọn đèn hắt hiu trước gió. Thương yêu con mình bao nhiêu thì nỗi đau và âu lo cũng bấy nhiêu khi biết con mình bị hành hạ, bị ngược đãi như thế.
Còn làm phận con thì, vì thương cha mẹ, tất nhiên cũng không muốn cha mẹ lo lắng cho mình. Cha mẹ mình khổ đủ rồi khi cả đời tận tụy để nuôi nấng mình. Đâu ai muốn cha mẹ phải tiếp tục khổ sở khi mình đã trưởng thành, đã tự lập rồi.
Có lẽ đây là điều khổ tâm nhất đối với những tù nhân lương tâm và nhà hoạt động tại Việt Nam. Nếu có hề gì thì cả gia đình họ bị liên lụy, bị cô lập, bị bao vây kinh tế, bị đánh đòn tâm lý, nhất là bị đe dọa mọi mặt, kể cả khủng bố tinh thần. Một mình họ khổ thôi thì có thể vượt qua được, chứ để cha mẹ hay chồng/vợ con khổ thì xót xa, thì rất khổ tâm !
Mới đây, một đoạn thư ngắn (Post chia sẻ trên facebook) của bạn Trương Thị Hà, viết cho mẹ vào ngày 24 tháng 9, nói đầy đủ ý nghĩa về tâm trạng này, như sau :
"Con biết con quan tâm chính trị, mẹ không vui và lo lắng cho con. Con cũng chỉ muốn làm một người con bình thường, được ăn cơm mẹ nấu và được nhổ tóc sâu cho mẹ mỗi ngày. Nhưng ai cũng chỉ được sống một lần. Mẹ nên cho con được làm những gì con muốn. Con yêu mẹ, yêu gia đình mình. Nhưng con cũng thương quê hương Việt Nam và nghĩ đến tương lai của con cháu con sau này. Nên con không thể dành trọn thời gian cho gia đình mình được. Mẹ hãy hiểu và đừng buồn nữa.
Lại một mùa trung thu xa nhà. Con nhớ mẹ".
Trong các cuộc biểu tình rầm rộ khắp nước chống lại luật Đặc Khu và Luật An ninh Mạng vào tháng 6 năm nay, Hà đã tích cực tham gia và giương cao các khẩu hiệu như "Cho Trung Quốc Thuê Đặc Khu Là Bán Nước", hay "Tôi Phản Đối"… Hà đã bị đánh đập tàn nhẫn, cùng với bao người khác. Bạn của Hà cũng bị đánh đập đến độ ho ra máu. Bạn của Hà, Phạm Kim Khánh, thì còn đến 5 năm nữa mới ra khỏi tù, chưa kể 4 năm quản chế sau đó.
Tình yêu của Hà đối với mẹ và Kim Khánh tràn đầy nên Hà không còn chỗ cho sợ nữa chăng !
Điều rõ ràng là những tù nhân lương tâm và những nhà hoạt động nào có được sự hỗ trợ của gia đình và mạng lưới hỗ trợ, nhất là của cha mẹ hay/và vợ hoặc chồng và con cái, thì tinh thần của họ khá vững vàn. Đó là điểm tựa tinh thần và là niềm an ủi vô cùng cần thiết đối với họ, đặc biệt trong những lúc thể xác bị ngược đãi và tinh thần bị giao động. Có được chỗ dựa này, họ có thể vượt qua được nhiều thử thách. Những người như Kim Khánh, Như Quỳnh và Duy Thức đều hiểu rất rõ rằng không ai có thể tướt đoạt hay bỏ tù được tư tưởng tự do của họ hay các tù nhân lương tâm khác, dù có nhốt thể xác họ trong tù ; dù có giết họ đi nữa, tư tưởng đó cũng sẽ truyền sang người khác, có khi còn mạnh mẽ hơn nữa.
Mới đây tôi có dịp được nghe một số bạn sinh viên Việt Nam du học tại Úc trao đổi nhau về điều này. Bao nhiêu bạn thấy rõ những vấn đề của đất nước, thấy rõ sự thối nát toàn diện của chế độ cầm quyền, thấy rõ một tương lai phải cần có những thay đổi sâu sắc, nên muốn làm điều gì đó. Tuy nhiên phần lớn họ chùng bước trong lúc này, chưa dám mạnh mẽ dấn thân, chủ yếu vì gia đình, vì cha mẹ. Họ khẳng định gia đình là cản trở lớn nhất hiện nay.
Có phải đó là một trong các nguyên do chính cản trở sự thay đổi của Việt Nam hôm nay ?
Tương lai của mọi quốc gia phụ thuộc vào giới trẻ. Một ngày nào đó sẽ đến phiên họ. Họ sẽ lãnh đạo đất nước, và sẽ lấy những quyết định khó khăn. Không chuẩn bị bây giờ, và không có đủ hành trang, các bạn lấy gì để đóng góp, cống hiến ! Ở các xã hội Tây phương, sự chuẩn bị đó bắt đầu từ nhỏ, từ nền giáo dục mầm non, để các em khi trưởng thành có kiến thức, có tri thức, có tầm nhìn, có hành vi đúng đắn, có nguyên tắc và giá trị nền tảng để thăng tiến và để góp phần xây dựng cho đất nước và con người ngày càng tiến bộ văn minh hơn. Khi các em là người trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên, nhưng thật ra trước đó cũng vậy), tiếng nói của các em được khuyến khích, lắng nghe và trân trọng như mọi tiếng nói của lý lẽ và lương tri khác, không hề phân biệt tuổi tác hay vì lý do gì khác.
Việt Nam rất cần các yếu tố này. Các nhà hoạt động tại Việt Nam hiện nay, nhất là các bạn trẻ, nếu được gia đình được cha mẹ hỗ trợ, thì họ chắc chắn sẽ dấn thân hơn. Clay Pham, người đạo diễn trẻ của cuốn phim ngắn Mẹ Vắng Nhà, chia sẻ trong bức thư gửi mới nhất cho Như Quỳnh rằng trong khi Như Quỳnh sống trong nhà tù nhỏ thì Clay đang sống chui rúc trong nhà tù lớn, như đang "tị nạn" trên chính quê hương mình. Tuy thế, Clay hiểu rất rõ cái giá phải trả khi làm phim này, và khẳng định rằng đó là việc đáng làm nhất trong cả tuổi trẻ của mình. Lúc đầu mẹ của Clay vô cùng lo lắng khi biết con mình phải sống chui lủi như tội phạm, trước bao dư luận ác ý và bao áp lực từ chế độ. Tuy thế, Clay vững tin vì biết rằng mẹ mình thương yêu và tin tưởng mình, và mẹ Clay vững tin rằng con mình không làm điều gì sai cả. Nếu vậy thì chẳng có gì cản trở được sức mạnh tinh thần này !
Điều thế hệ trẻ hôm nay cần trên hết là tin tưởng và tình thương, không phải nỗi sợ. Tình thương, qua hành động cụ thể, bằng ngôn từ thương yêu, là sức mạnh vô biên để giúp vượt sợ vượt khó. Đối diện với nhóm khủng bố Taliban tại Pakistan, một đe dọa sống còn có thực và thường trực, cô bé đã bất chấp mọi hiểm nguy để tranh đấu quyền được giáo dục cho các bạn nữ giống mình. Cô đã bị bắn vào đầu, nhưng rất may được cứu sống. Năm 2014 Malala Yousafzai được giải thưởng Nobel Hòa bình lúc cô chỉ 17 tuổi, người trẻ nhất từ trước đến nay. Người khuyến khích động viên tinh thần cô nhiều nhất chính là cha (mẹ) cô.
Không ai muốn trở thành người con bất hiếu đối với cha mẹ mình. Nhưng một khi họ đã thấy được ánh sáng văn minh, thấy được con đường mình cần đi, thấy được công việc mình cần làm, thì họ sẽ quyết tâm bằng mọi cách. Khó có ai có thể cản trở những trái tim nhiệt huyết và tinh thần dấn thân này, ngoại trừ, một phần nào đó, cha mẹ mình. Còn khi đã được cha mẹ khuyến khích hỗ trợ, ngay từ nhỏ, thì ý chí và nghị lực như đã được ấp ủ bảo bọc để một ngày nào đó đơm hoa kết trái.
Tương lai thuộc về tuổi trẻ. Mỗi thế hệ phải tự tìm lấy dũng cảm, trí tuệ và tình thương để làm hành trang cho lý tưởng của mình. Các bạn phải tự lấy các quyết định khó khăn khi thời điểm và thử thách đến với họ. Cha mẹ, dù thương con bao nhiêu, cũng không thể sống dùm cho con mình và quyết định dùm cho con mình. Chúng ta chỉ có thể hối tiếc những gì mình chưa làm (được), chứ không thể hối tiếc những gì thuộc về người khác. Điều chúng ta có thể làm hiện nay, vì tình yêu thương thật sự, và vì tương lai của con em mình, và của đất nước và dân tộc, là tin tưởng nơi khối óc, tấm lòng và giấc mơ của các em. Các bạn sẽ đóng một vai trò tích cực cho một lịch sử cần sang trang. Nếu được tình thương và hỗ trợ cụ thể, như niềm tin mãnh liệt của cha hoặc/và mẹ của Kim Khánh, Như Quỳnh và Duy Thức rằng con cháu mình đã làm những điều đúng đắn và công ích, thì tư duy đó không những chuyển hóa họ mà còn cả một xã hội rộng lớn. Các bạn có công chứ không có tội, và lịch sử sẽ ghi chép điều này. Chúng ta cần, nên và sẽ hãnh diện về vai trò của họ. Nhất là lúc này.
(Úc Châu, viết xong ngày 13 tháng 10 năm 2018)
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 18/10/2018
Tham vọng bá quyền của Trung Quốc ngày càng rõ ràng. Dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình từ năm 2012, Trung Quốc không còn dấu tham vọng này như Đặng Tiểu Bình đã chủ trương một thời. Tập Cận Bình cũng không dấu tham vọng làm lãnh tụ không giới hạn nhiệm kỳ để đạt được các mục tiêu chiến lược trong cuộc chạy đua với Hoa Kỳ trong ba thập niên tới.
"Thật là dễ để thắng cuộc đua nếu bạn là người duy nhất biết rằng cuộc đua đã bắt đầu".
Tiến sĩ Michael Pillsbury, người đã hơn bốn thập niên qua nghiên cứu kỹ lưỡng các chiến lược, chiến thuật của giới diều hâu Trung Quốc trong tác phẩm "Một trăm năm chạy đua", ví von rằng "thật là dễ để thắng cuộc đua nếu bạn là người duy nhất biết rằng cuộc đua đã bắt đầu". Tiến sĩ Pillsbury tin rằng Hoa Kỳ có thể uyển chuyển áp dụng vài khái niệm của thời Chiến Quốc để đánh bại Trung Quốc trong trò chơi của chính họ. Kiểu "Gậy ông đập lưng ông !". Pillsbury trình bày đề nghị này trong 12 bước sau đây.
Bước 1, là nhận diện vấn đề, nghĩa là nhu cầu phân biệt bề ngoài với hiện thực, chứ không nhầm lẫn sự tuyên truyền của họ. Nhận diện để nhìn ra được những trí trá của Trung Cộng qua các thông điệp họ muốn gửi, khác xa với những gì họ đã và đang làm trong thực tế.
Bước 2, là lưu trữ hồ sơ tất cả các món quà của mình cho Trung quốc. Mỗi năm, từ hơn bốn thập niên qua, bao nhiêu tiền thuế của dân Mỹ đã được dùng để ủng hộ cho đối thủ Trung Quốc, nhưng các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ không nắm rõ bao nhiêu tiền đã chi cho chỗ nào, và như thế không thể sử dụng như thế đòn bẫy và hiệu quả được.
Bước 3, là đo lường tính cạnh tranh. Nhiều câu chuyện trong thời Chiến Quốc bao gồm việc kỹ càng đo lường sự cân bằng quyền lực trước khi chiến lược được chọn. Đó cũng là nguyên tắc trong kinh doanh Mỹ là "Những gì được đo lường sẽ tiến bộ" (What you measure improves). Bài học rút ra rất sâu sắc : Bạn không thể cải tiến trừ phi bạn biết bạn cần cải tiến những gì.
Bước 4, hoạch định một chiến lược cạnh tranh. Cần phải cởi mở phóng khoáng để nhận định và hành động khi thấy chiến lược của mình cần thay đổi, và sử dụng các chiến thuật mới để đạt được kết quả mong muốn. Rất nhiều các cơ quan nghiên cứu khác nhau tại Hoa Kỳ đã đưa ra sáng kiến rất hay để gia tăng khả năng cạnh tranh và ưu thế vượt trội của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc trong thời gian tới.
Bước 5, tìm nền tảng chung trên đất nước Hoa Kỳ. Có nhiều xu hướng tuy có cùng mục đích vận động cải cách chính sách Hoa Kỳ đối với Trung Quốc nhưng họ thuộc nhiều phái khác nhau mà không nhất thiết coi nhau như đồng minh. Nhu cầu cấp bách là sự phối hợp giữa nhiều xu hướng này để thay đổi Trung Quốc.
Bước 6, là xây dựng liên minh Hoa Kỳ theo hàng dọc. Dù có biết chơi cờ vây hay không, chúng ta cũng hiểu được khi bị bao vây bởi một nhóm thù địch thì nó rất nguy hiểm. Mối lo tự nhiên của Trung Quốc là các quốc gia láng giềng của nó sẽ liên minh với nhau. Hoa Kỳ tuy mới biết trò chơi này như trước đây Hoa Kỳ đã bao vây và kiềm chế Liên Sô khá hiệu quả trong thời Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ nên khuyến khích các quốc gia Mông Cổ, Nam Hàn, Nhật và Phi làm như thế.
Bước 7, là bảo vệ các nhà đối kháng chính trị tại Trung Quốc hiện nay. Ngoài các quốc gia đang là nạn nhân của Trung Quốc, các tổ chức xã hội dân sự, kể cả tôn giáo, đều muốn thay đổi Trung Quốc và họ rất cần liên minh nhau. Trung Quốc càng gia tăng đàn áp thì càng gia tăng sự đối kháng. Bởi vì những người như Václav Havel, Lech Walesa và Aleksandr Solzhenitsyn tại Đông Âu và Nga đã tác động mạnh mẽ lên tâm thức chung của dân tộc họ khi họ từ chối đầu hàng các chính sách kiểm duyệt thông tin, tuyên truyền, đàn áp tôn giáo, và nô lệ kinh tế.
Bước 8, là cứng rắn với các hành xử cạnh tranh bài Hoa Kỳ. Trung Quốc hiện nay là nước chiếm hơn 90 phần trăm tổng cộng các hành động gián điệp trên mạng, đột nhập các cơ quan thương mại và chính phủ của Hoa Kỳ, ăn cắp các kỹ thuật mà nó không sáng chế được và ăn cắp sở hữu trí tuệ, làm Hoa Kỳ mất đến 300 tỷ Mỹ kim hàng năm. Hoa Kỳ cần nỗ lực bảo vệ các tài sản công nghệ của mình nếu muốn cạnh tranh hiệu quả với Trung Quốc.
Bước 9, là nhận diện và chỉ mặt những kẻ phá hoại môi trường. Nếu Hoa Kỳ kiềm chế các cơ sở thương mại của mình để bảo vệ môi trường trong khi Trung Quốc đi xuất cảng các hàng hoá của nó và các chất gây ô nhiễm ở tốc độ khủng khiếp thì Hoa Kỳ không thể cạnh tranh lại được.
Bước 10, là phơi bày tham nhũng và kiểm duyệt của Trung Quốc. Một trong những nỗi sợ lớn nhất của chính quyền Trung Quốc là tự do truyền thông. Họ rất lo sợ nếu người dân biết về tham nhũng, tàn bạo và cả một lịch sử dối trá về Hoa Kỳ và các đồng minh dân chủ khác. Hoa Kỳ nên hỗ trợ cho Wikipedia, Yahoo !, Facebook và những cơ quan truyền thông khác để họ không bị ăn hiếp bởi chính quyền Trung Quốc như đã bị trong thời gian qua.
Bước 11, là ủng hộ các nhà cải cách dân chủ tại Trung Quốc. Giới diều hâu Trung Quốc rất quan ngại lãnh đạo nhân dân của họ bị ảnh hưởng của lãnh đạo Tây phương về đa đảng và phát triển đến dân chủ trong khi Hoa Kỳ lại không có chính sách hay kế hoạch cụ thể nào để nhận diện và ủng hộ những thành phần cởi mở hơn tại Trung Quốc.
Bước 12, là theo dõi và ảnh hưởng các cuộc tranh luận giữa giới diều hâu và phe cải cách của Trung Quốc. Trong thời Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã đầu tư thời gian, kỹ nghệ và nhân sự vào hoạt động của các thành viên của Bộ Chính Trị Liên Sô, nhưng lại không có chính sách tương tự đối với Trung Quốc. Nếu tình báo Hoa Kỳ hiểu về Trung Quốc hơn vào thời điểm biến cố Thiên An Môn và thúc dục tổng thống George H Bush ủng hộ phe cải cách lúc đó thì lịch sử có lẽ đã khác nhiều.
Cách đây gần hai tháng, trong bài "Trật tự thế giới : Phiên bản nào ?", tôi đã tóm tắc 12 điểm trên và đặt câu hỏi liệu các chính quyền Hoa Kỳ hiện nay hay tương lai có tán thành và thực hiện bao nhiêu đề nghị này ! Bài phát biểu của Tổng thống Donald Trump tại Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 9 và của Phó Tổng thống Mike Pence tại Viện Nghiên cứu Hudson đầu tháng 10 đã trả lời phần nào câu hỏi tôi đưa ra. Ông Trump và ông Pence chắc đã đọc kỹ tác phẩm của Tiến sĩ Pillsbury và đã cùng với các chiến lược gia khác hoạch định chiến lược và kế hoạch đối phó với Trung Quốc trong hai năm qua. Họ đã và đang thực hiện bước 1 đến bước 4. Bắt đầu bằng áp chế thuế quan trong các tháng qua lên 250 tỷ đô la hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Ông Trump đe dọa sẽ tăng lên đến 500 tỷ đô la hàng hóa. Ông Trump tuyên bốrằng "Trung Quốc đã lấy mất 500 tỷ đô la mỗi năm từ đất nước chúng ta (Hoa Kỳ), và điều này cần chấm dứt". Ban tham mưu của ông bao gồm giáo sư Peter Navarro (tác giả Chết bởi Trung Quốc) và các chiến lược gia tinh vi trong Bộ Quốc phòng và Hội đồng An ninh Quốc gia chắc chắn đã tính từng nước cờ và tính trước nhiều bước trước khi thi hành sách lược. Tùy theo nước cờ kế tiếp của Trung Quốc mà chính quyền Trump sẽ cân nhắc để phản ứng thích hợp và mưu lược nhất. Mỗi nước cờ là sự tính toán theo tinh thần uyển chuyển nhất có thể.
Ngoài ra, chính quyền Trump cũng cùng lúc nỗ lực thực hiện bước 6 "xây dựng liên minh Hoa Kỳ theo hàng dọc" và bước 8 "cứng rắn với các hành xử cạnh tranh bài Hoa Kỳ". Bài phát biểu của ông Trump và ông Pence đều mạnh mẽ lên án Trung Quốc và yêu cầu chấm dứt vĩnh viễn hành động ăn cắp sở hữu trí tuệ và các hành động bắt buộc chuyển giao công nghệ. Cuộc viếng thăm của Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis tại Sài Gòn, Việt Nam và Singapore vào tuần này hay tuyên bố mạnh mẽ của Cố vấn An ninh Quốc gia John Bolton vào cuối tuần qua rằng "hành vi của Bắc Kinh trong các lĩnh vực thương mại, quốc tế, quân sự, chính trị cần phải được chỉnh đốn", đều nằm trong chiến lược xây dựng thế liên minh lớn của Hoa Kỳ hiện nay. Đây là thế cờ vây mà Hoa Kỳ đã áp dụng rất thành công trước đây, kể cả thời Chiến tranh Lạnh.
Nếu muốn Bắc Kinh dịch chuyển mục tiêu chiến lược của họ, nhất là mục tiêu trở thành bá chủ bằng mọi giá, điều mà làm chiến tranh khó thể tránh khỏi, chính quyền Hoa Kỳ hiện nay và tương lai cần đầu tư rất nhiều vào các bước 7, 11 và 12 cũng như bước 10, tự do thông tin. Nhưng đây là các nước cờ tương lai. Cuộc chiến này sẽ còn rất dài và các ưu tiên chiến lược cần phải được cân nhấc kỹ lưỡng để tạo tối đa bất ngờ hay hụt hẫng đối với lãnh đạo Bắc Kinh trong thời gian tới.
Một trong những nguyên do chính mà từ trước đến nay, tuy vẫn biết rất rõ các mưu xảo của lãnh đạo Bắc Kinh qua giới tình báo chuyên nghiệp của mình, nhưng vẫn chưa điểm mặt chỉ tên Trung Quốc, là vì lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ vẫn hy vọng rằng trước sau gì Trung Quốc cũng phải cải tổ chính trị, trước sau gì Trung Quốc cũng phải dân chủ hoá mà thôi. Niềm tin đó, dù là ảo tưởng vì những gì xảy ra trên thực tế hoàn toàn bác bỏ luận điểm này, lãnh đạo Hoa Kỳ vẫn chưa muốn sử dụng biện pháp cứng rắn để đẩy Trung Quốc thành thù nghịch. Quan niệm nên duy trì mối quan hệ với Trung Quốc này là từ Richard Nixon và Henry Kisinger, người đã chủ trương bắt tay với Trung Quốc năm 1971, đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên George H Bush lúc biến cố Thiên An Môn xảy ra, nên Hoa Kỳ lúc đó không ngờ và không hành động gì cả. Tóm lại, lãnh đạo Hoa Kỳ vẫn chủ trương dù có mất mát một chút vẫn không sao, duy trì quan hệ với Trung Quốc là có lợi về lâu dài, còn áp lực mạnh mẽ quá sẽ biến Trung Quốc thành thù nghịch, sẽ mất đi những ảnh hưởng đã đầu tư bấy lâu nay.
Tiến sĩ Pillsbury phân tích chi tiết vấn đề này trong tác phẩm của ông. Tôi sẽ trình bày đề tài này trong bài tới.
Úc Châu, 17/10/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 17/10/2018
Sự trổi dậy của Trung Quốc là đề tài đã được bàn cãi sôi nổi hơn hai thập niên qua. Nhưng Trung Quốc đã trổi dậy như thế nào, mục tiêu của họ là hòa bình hay hiếu chiến, và họ có đủ khả năng và có dám thách thức Hoa Kỳ, để rồi chiến tranh có phải là điều không thể tránh khỏi trong ba thập niên tới, là đề tài mà được thảo luận và phân tích rất nhiều trong thời gian gần đây.
Phó tổng thống Mike Pence phát biểu ngày 4 tháng 10, 2018 tại Hudson Institute, Washington.
Trước hết là cách thức trổi dậy của Trung Quốc.
Một người đàng hoàng, không gian lận, biết và tôn trọng luật chơi, chỉ sử dụng con đường chính trực để kinh doanh, và trở thành giàu có và quyền lực bằng mồ hôi nước mắt và trí tuệ của mình, thì khó một ai có thể phê bình người đó. Nhật Bản, sau Thế Chiến II, ít nhiều đã giành được sự ngưỡng phục của thế giới vì tinh thần đó. Sự trổi dậy của Trung Quốc thì lại khác hẳn. Trung Quốc, từ một quốc gia nghèo đói không đủ ăn, tụt hậu về mọi mặt vào các thập niên 1950, 1960 và một phần của 1970, đã thay đổi bộ mặt từ khi bắt tay bang giao với Hoa Kỳ năm 1972 vì đã được giúp đỡ, viện trợ và cố vấn về mọi mặt. Kinh tế và hầu như mọi lĩnh vực khác ngày càng phát triển kể từ đó. Trong vòng 17 năm qua tổng sản lượng quốc gia đã tăng trưởng gấp 9 lần, trở thành nền kinh tế thứ nhì của thế giới. Tất nhiên đó là điều tích cực cho quốc gia này, nhất là người dân của họ không phải sống trong lầm than và tủi nhục như trước.
Nhưng hậu quả tiêu cực của sự phát triển bằng mọi giá của giới lãnh đạo Trung Quốc trong các thập niên qua đối với chính người dân của họ, đối với các quốc gia láng giềng, đối với nền an ninh khu vực, và đối với nền trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo trong hơn bảy thập niên qua, là rất quan ngại. Hoa Kỳ đã bị thiệt hại nặng nề trong mối bang giao này, nhưng lãnh đạo hàng đầu của Hoa Kỳ không ai công khai chính thức lên tiếng một cách toàn diện và hệ thống. Cho đến khi Phó Tổng thống Hoa Kỳ Mike Pence phát biểu điểm mặt chỉ tên Trung Quốc tại Viện Nghiên cứu Hudson vào ngày 4 tháng 10 vừa qua (*).
Trong bài phát biểu này, ông Pence chính thức công bố cho người dân Mỹ biết về sự chủ động và điều khiển một cách toàn diện của chính quyền tại Bắc Kinh để gia tăng ảnh hưởng và hưởng lợi đối với Hoa Kỳ trong nhiều thập niên qua. Họ đã sử dụng các dụng cụ quân sự, kinh tế và chính trị cho đến tuyên truyền để tấn công Hoa Kỳ. Ông cho rằng ngày nay Trung Quốc đã áp dụng một cách chủ động hơn trước nữa, tìm cách ảnh hưởng và can thiệp lên chính sách nội địa và nền chính trị của Hoa Kỳ.
Một trong các thông điệp chính của ông Pence là rằng Hoa Kỳ mong muốn một mối quan hệ trên tinh thần xây dựng với Bắc Kinh nơi hai bên có thể cùng nhau phát triển thịnh vượng và an ninh. "Sự cạnh tranh không nhất thiết phải là thù nghịch", và nó không cần phải là như thế. Ông biện luận rằng trong khi Bắc Kinh đã đi xa từ viễn ảnh này, các lãnh đạo của Trung Quốc có thể thay đổi phương hướng, trở lại tinh thần cải cách và mở mang mà đã biểu thị mối quan hệ giữa hai quốc gia vào những thập niên trước. Người Mỹ không muốn gì hơn các điều đó, và người Hoa xứng đáng không ít hơn thế.
Bài phát biểu rất chi tiết của ông Pence đặt lãnh đạo Trung Quốc hiện nay vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.
Hiện nay người ta vẫn chưa rõ là Tổng thống Donald Trump muốn chiến đấu (fight) hay muốn thỏa thuận (deal). Sau ba lần áp thuế nhập khẩu tổng cộng lên 250 tỷ đô la, ông Trump còn có ý định gia tăng lên lượng hàng nhập khẩu tổng trị giá 500 tỷ đô la, nếu cần. Giới chuyên gia và lãnh đạo Trung Quốc hiện nay muốn biết ông Trump thật sự muốn gì, nhưng ông là người khó đoán. Nếu lãnh đạo Trung Quốc chịu "thỏa thuận" thì ông Trump còn "chiến đấu" tiếp không ? Theo một số viên chức trong chính phủ Trump thì "không có thỏa thuận nào cả. Thuế quan là điểm sau cùng". Nhưng Ely Ratner thuộc viện nghiên cứu CNAS, một trong các chuyên gia trẻ và nổi bậc về Trung Quốc hiện nay, cho rằng dù có đạt được thỏa thuận với Trung Quốc, Hoa Kỳ muốn nhiều hơn nữa. Làm sao để nền kỹ nghệ và kỹ thuật của Hoa Kỳ ít bị thiệt hại do nạn ăn cắp và cưỡng chế từ Trung Quốc. Những tổn hại do sự tương thuộc quá nhiều với Trung Quốc chính nó sẽ là vấn đề lớn, cho nên theo Ratner, chủ trương và chính sách của chính quyền Trump hiện nay là tách rời (decouple), muốn giảm bớt sự tương thuộc này. Nếu đọc kỹ các thông điệp trong toàn bộ bài phát biểu của ông Pence thì thỏa thuận, nhất là về thuế nhập khẩu, chỉ là phần nhỏ đối với các yêu cầu hay mục tiêu của Hoa Kỳ. Điều chính yếu là Hoa Kỳ muốn một quan hệ kinh tế được tự do, công bằng và hỗ tương với Trung Quốc, và muốn Bắc Kinh chấm dứt vĩnh viễn hành động ăn cắp sở hữu trí tuệ, chấm dứt các hành động bắt buộc chuyển giao công nghệ. Tất nhiên đời nào mà Tập Cận Bình của Trung Quốc chấp nhận một thỏa thuận như thế.
Chính quyền Trump có lẽ muốn đưa chính quyền Tập Cận Bình vào thế triệt buộc.
Điều đáng ghi nhận nhất ở đây là gần như toàn bộ bài phát biểu của ông Pence phản ánh hầu hết mối quan tâm và nghiên cứu sâu sắc của Tiến sĩ Michael Pillsbury trong tác phẩm "Một trăm năm chạy đua" (được phát hành đầu năm 2015 và được giới học giả chuyên gia đánh giá rất cao). Ông Pillsbury hiện đang là Giám đốc của Viện Nghiên cứu Hudson, nơi ông Pence đến phát biểu. Trong phần mở đầu, ông Pence trân trọng chào riêng ông Pillsbury và trong phần phát biểu có trích vài ý của ông Pillsbury. Ông Pillsbury không phải là một chuyên gia bình thường. Ông đã từng nắm vai trò Phụ tá Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thời của cố Tổng thống Ronald Reagan. Ông là người nói và tranh luận tiếng Hoa lưu loát, làm việc sát cánh với CIA và FBI trên bốn thập niên, đã phục vụ qua bao nhiêu đời tổng thống Hoa Kỳ, và đã tiếp xúc trực tiếp các lãnh đạo chính trị và quân sự hàng đầu của Trung Quốc ngay từ ban đầu khi Hoa Kỳ tái lập quan hệ với Trung Quốc, nên tác phẩm trên của ông có nhiều thông tin mật mà ít ai biết hay ít được tiết lộ trước đây. Ông Trump đánh giá ông Pillsbury là một thẩm quyền hàng đầu về Trung Quốc. Những ai đã đọc tác phẩm sẽ thấy rằng phần lớn các quan điểm và bằng chứng mà ông Pence trình bày là dựa vào các dữ kiện đã được giới tình báo Hoa Kỳ đúc kết và rút tỉa kinh nghiệm từ hơn bốn thập niên đối phó với Trung Quốc, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ông Pillsbury.
Phần cuối của cuốn sách, ông Pillsbury đã trình bày tổng cộng 12 đề nghị chiến lược cho các chính quyền Hoa Kỳ trong tương lai. Ông Pillsbury là người hiểu rõ thế cờ vây và các chiến lược trí trá mà giới lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc đã và đang áp dụng, từ thời chiến quốc cũng như hơn bốn thập niên qua, để trổi dậy. Chính quyền Trump đang tiến hành một số đề nghị chiến lược này. Ông Pence đã bắn phát súng đầu tiên chính thức cảnh báo cuộc chạy đua của Trung Quốc và công bố các chính sách mà Hoa Kỳ sẽ thực hiện để đối phó với sự trổi dậy có nhiều vấn đề của Trung Quốc.
Ông Pence chọn Viện Nghiên cứu Hudson để bắn phát súng này, trong khi biết rõ Trung Quốc đã đọc tác phẩm và nắm rõ các đề nghị của Pillsbury, chính nó cũng là một quyết định chiến lược để gửi thông điệp quan trọng này đến lãnh đạo Trung Quốc.
Đây là cuộc chiến không lạnh, chưa nóng, có thể ấm, nhưng sức công phá sẽ không nhỏ. Nó sẽ lâu dài, có lúc ngấm ngầm, có lúc bộc phá, và cũng sẽ có mất mát. Thử thách nào cũng tiềm ẩn cơ hội trong đó. Đây là cơ hội để Việt Nam thoát Trung, nếu muốn. Hoa Kỳ đã bật đèn xanh nhiều lần. Còn lãnh đạo Việt Nam có muốn hay không là chuyện khác.
Úc Châu, 15/10/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 15/10/2018
******************
(*) Toàn văn bài phát biểu của Phó Tổng thống Mỹ Pence về Trung Quốc
Nguồn : trithucvn.net, 07/10/2018
Viện Hudson ngày 4-10,
Cám ơn Ken (Kenneth R. Weinstein, chủ tịch Viện Hudson – người dịch) vì lời giới thiệu hào phóng đó. Xin chào các thành viên ban trị sự, Tiến sĩ Michael Pillsbury, các vị khách quý, và toàn thể mọi người, những người, đúng với sứ mệnh của mình, "nghĩ về tương lại theo những cách không bình thường" – thật vinh dự khi được quay trở lại Viện Hudson.
Trong hơn một nửa thế kỷ, viện này đã tận tụy "thúc đẩy an ninh, thịnh thượng, và tự do toàn cầu. Và tuy Hudson đã thay đổi bản quán trong nhiều năm qua, có một điều vẫn nhất quán: Các vị vẫn luôn quảng bá sự thật quan trọng rằng sự lãnh đạo của Mỹ luôn soi đuốc mở đường.
Hôm nay, tôi gửi lời chúc mừng từ một nhà tiên phong cho sự lãnh đạo của nước Mỹ trong cũng như ngoài nước – vị tổng thống thứ 45 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Tổng thống Donald Trump.
Ngay từ thời kỳ đầu của chính quyền này, Tổng thống Trump đã xem mối quan hệ của chúng ta với Trung Quốc và với Chủ tịch Tập là một ưu tiên. Ngày 6 tháng 4 năm ngoái, Tổng thống Trump chào đón Chủ tịch Tập đến Mar-A-Lago. Ngày 8 tháng 11 năm ngoái, Tổng thống Trump thăm Bắc Kinh, nơi nhà lãnh đạo Trung Quốc đón tiếp ông nồng hậu.
Hơn 2 năm qua, tổng thống của chúng ta đã gây dựng mối quan hệ cá nhân bền chặt với vị chủ tịch của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và họ hợp tác chặt chẽ trong các vấn đề quan tâm chung, quan trọng nhất là phi phạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Nhưng hôm nay tôi xuất hiện trước các bạn vì người dân Mỹ xứng đáng được biết… ngay khoảnh khắc này, Bắc Kinh đang triển khai một cách tiếp cận của toàn bộ chính quyền, sử dụng các công cụ chính trị, kinh tế và quân sự, cũng như tuyên truyền, để thúc đẩy sự ảnh hưởng và gặt hái lợi ích ở Hoa Kỳ. Trung Quốc cũng áp dụng sức mạnh này theo những cách chủ tâm hơn bao giờ hết, để áp đặt sự ảnh hưởng và can thiệp vào chính sách và chính trị nội bộ của đất nước chúng ta.
Dưới thời chính quyền của chúng tôi, chúng tôi đã tiến hành những hành động quyết liệt để đáp trả Trung Quốc bằng sự lãnh đạo của Mỹ, áp dụng những nguyên tắc và chính sách mà những người trong khán phòng này chủ trương từ lâu.
Trong "Chiến lược An ninh quốc gia" được Tổng thống Trump công bố tháng 12 năm ngoái, ông mô tả một thời kỳ mới của "sự cạnh tranh nước lớn". Các quốc gia nước ngoài đã bắt đầu "tái áp đặt sự ảnh hưởng của họ ở khu vực và toàn cầu", và họ đang "thách thức lợi thế địa chính trị (của nước Mỹ) và cố gắng thay đổi trật tự quốc tế theo hướng có lợi cho họ". Trong chiến lược này, Tổng thống Trump đã nêu rõ rằng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thông qua một chiến lược mới với Trung Quốc. Chúng ta tìm kiếm mối quan hệ trên cơ sở công bằng, có đi có lại và tôn trọng chủ quyền, và chúng ta thực hiện hành động dứt khoát để đạt mục tiêu đó.
Như Tổng thống đã nói năm ngoái trong chuyến thăm của ông đến Trung Quốc, "chúng ta có cơ hội tăng cường mối quan hệ giữa hai đất nước chúng ta và cải thiện cuộc sống của công dân hai nước chúng ta". Tầm nhìn tương lai của chúng ta được vun bồi trên những thời kỳ tốt đẹp nhất giữa hai nước trong quá khứ, khi Mỹ và Trung Quốc liên lạc với nhau trên tinh thần cởi mở và hữu nghị…
Khi đất nước non trẻ của chúng ta tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới sau thời kỳ chiến tranh Cách mạng, người Trung Quốc chào đón những tàu buôn Mỹ chất đầy nhân sâm và lông thú…
Khi Trung Quốc chịu đựng những sự sỉ nhục và bóc lột trong thời kỳ được gọi là "Thế kỷ Ô nhục" của họ, nước Mỹ từ chối tham gia, và chủ trương chính sách "Mở cửa", để chúng ta có thể giao thương công bằng hơn với Trung Quốc và duy trì chủ quyền của họ…
Khi những nhà truyền giáo Mỹ rao giảng tin mừng đến những vùng đất Trung Quốc, họ sửng sờ trước nền văn hóa sâu đậm của những người cổ xưa nhưng đầy sức sống, và không chỉ truyền bá đức tin, họ còn thành lập một trong số những ngôi trường đại học đầu tiên và ưu tú nhất của Trung Quốc…
Khi Đệ nhị Thế chiến nổ ra, chúng ta sát cánh như những đồng minh trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa đế quốc… Và sau cuộc chiến đó, Mỹ bảo đảm Trung Quốc trở thành thành viên Hiến chương Liên Hiệp Quốc, và là một nước tham gia định hình vĩ đại của thế giới thời hậu chiến.
Nhưng không lâu sau khi lên nắm quyền vào năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu theo đuổi chủ nghĩa bành trướng chuyên chế. Chỉ 5 năm sau khi hai quốc gia là chiến hữu, chúng ta đã chiến đấu lại với nhau, trên những ngọn núi và thung lũng ở bán đảo Triều Tiên. Thân phụ của tôi đã chứng kiến chiến sự trên những tiền tuyến tự do.
Ngay cả cuộc chiến tranh Triều Tiên bạo tàn cũng không thể làm giảm đi mong muốn của đôi bên nhằm khôi phục các mối quan hệ gắn bó lâu đời. Bất hòa của Hoa Kỳ với Trung Quốc chấm dứt năm 1972, và ngay sau đó, chúng ta thiết lập lại quan hệ ngoại giao, bắt đầu mở cửa nền kinh tế cho nhau, và các trường đại học Mỹ bắt đầu đào tạo một thế hệ kỹ sư, lãnh đạo doanh nghiệp, học giả và cán bộ Trung Quốc mới. Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, chúng ta cho rằng một Trung Quốc tự do là không thể tránh khỏi. Ngập trong sự lạc quan, vào đầu thế kỷ 21, Mỹ đã đồng ý cho Bắc Kinh tiếp cận với nền kinh tế của chúng ta, và đưa Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới.
Các chính quyền trước đây đưa ra lựa chọn này với hy vọng tự do ở Trung Quốc sẽ mở rộng dưới mọi hình thức – không chỉ về mặt kinh tế, mà cả mặt chính trị, với sự tôn trọng mới dành cho các nguyên tắc tự do cổ điển, tài sản tư nhân, tự do tôn giáo và toàn thảy vấn đề nhân quyền… nhưng hy vọng này đã không được thành toàn.
Giấc mơ tự do vẫn còn xa vời đối với người dân Trung Quốc. Và trong khi Bắc Kinh vẫn chỉ chót lưỡi đầu môi về "cải cách và mở cửa", chính sách nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình giờ đây tỏ ra thiếu thành thật.
Trong 17 năm qua, GDP của Trung Quốc đã tăng gấp 9 lần; trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Phần lớn thành công này được thúc đẩy bởi đầu tư của Mỹ tại Trung Quốc. Và Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã sử dụng một kho chính sách không phù hợp với thương mại tự do và công bằng, trong đó thuế quan, hạn ngạch, thao túng tiền tệ, cưỡng bức chuyển giao công nghệ, trộm cắp tài sản trí tuệ và trợ cấp công nghiệp được ban phát vô tội vạ chỉ là một vài trong số đó. Những chính sách này đã xây dựng cơ sở sản xuất của Bắc Kinh, với hậu quả là tổn thất của các đối thủ cạnh tranh – đặc biệt là Mỹ.
Hành động của Trung Quốc góp phần vào thâm hụt thương mại với Hoa Kỳ mà năm ngoái đã lên đến 375 tỷ USD – gần một nửa thâm hụt thương mại toàn cầu của chúng ta. Như Tổng thống Trump vừa nói tuần này, "chúng ta đã tái thiết Trung Quốc" trong 25 năm qua.
Bây giờ, thông qua kế hoạch "Made in China 2025", Đảng Cộng sản đã đặt mục tiêu kiểm soát 90% các ngành công nghiệp tiên tiến nhất thế giới, bao gồm robot, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Để giành được những đỉnh cao chỉ huy của nền kinh tế thế kỷ 21, Bắc Kinh đã chỉ đạo các quan chức và doanh nghiệp của mình thâu tóm tài sản trí tuệ Mỹ – nền tảng cho sự lãnh đạo kinh tế của chúng ta – bằng mọi phương tiện cần thiết.
Bắc Kinh hiện yêu cầu nhiều doanh nghiệp Mỹ chuyển giao bí mật thương mại của họ để đổi lại hoạt động kinh doanh tại Trung Quốc. Họ cũng phối hợp và tài trợ cho việc mua lại các công ty Mỹ để giành quyền sở hữu sáng tạo của những công ty này. Tệ hại nhất là các cơ quan an ninh Trung Quốc đã chủ mưu đánh cắp trọn gói công nghệ Mỹ – bao gồm các bản thiết kế quân sự tối tân.
Và bằng cách sử dụng công nghệ bị đánh cắp đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đang lấy lưỡi cày rèn gươm trên một quy mô lớn…
Chi tiêu quân sự của Trung Quốc hiện bằng toàn thể phần còn lại của châu Á gộp lại, và Bắc Kinh đã ưu tiên khả năng làm xói mòn lợi thế quân sự của Mỹ – trên đất liền, trên biển, trên không, và trong không gian. Trung Quốc khăng khăng đẩy Hoa Kỳ ra khỏi Tây Thái Bình Dương và cố gắng ngăn cản chúng ta hỗ trợ các đồng minh của mình.
Bắc Kinh cũng sử dụng sức mạnh của mình nhiều hơn bao giờ hết. Tàu Trung Quốc thường xuyên tuần tra quanh quần đảo Senkaku, được quản lý bởi Nhật Bản. Và trong khi nhà lãnh đạo Trung Quốc đứng trong Vườn Hồng của Nhà Trắng năm 2015 và nói rằng đất nước của ông "không có ý định quân sự hóa Biển Đông", ngày nay, Bắc Kinh đã triển khai tên lửa chống hạm và phòng không trên một chuỗi căn cứ quân sự được xây dựng trên các đảo nhân tạo.
Sự hung hăng của Trung Quốc được dịp phô bày trong tuần này, khi một tàu hải quân Trung Quốc áp sát tàu USS Decatur ở khoảng cách 41 mét khi nó tiến hành các hoạt động tự do hàng hải trên Biển Đông, buộc tàu của chúng ta phải nhanh chóng cơ động để tránh va chạm. Bất chấp sự quấy rối liều lĩnh như vậy, Hải quân Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, đi tàu và hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép và theo nhu cầu lợi ích quốc gia của chúng ta. Chúng ta sẽ không bị đe dọa; chúng tôi sẽ không rút lui.
Mỹ từng hy vọng tự do hóa kinh tế sẽ thúc đẩy Trung Quốc đi đến quan hệ đối tác lớn hơn với chúng ta và với thế giới. Thay vào đó, Trung Quốc đã chọn cách xâm lăng kinh tế, điều này đến lượt nó lại thúc đẩy quân đội của họ ngày càng phát triển. Bắc Kinh cũng không hướng tới quyền tự do lớn hơn cho người dân của họ như chúng ta kỳ vọng. Có lúc, Bắc Kinh xích gần đến quyền tự do và tôn trọng nhân quyền nhiều hơn, nhưng trong những năm gần đây, họ đã quay ngoắt về phía sự kiểm soát và áp bức.
Ngày nay, Trung Quốc đã xây dựng một nhà nước giám sát độc nhất vô nhị, và nó càng ngày càng mở rộng và bừa bãi – thường với sự giúp đỡ của công nghệ Mỹ. Tương tự, "Vạn lý hỏa thành của Trung Quốc" cũng ngày càng cao hơn, hạn chế đáng kể dòng chảy tự do thông tin đến với người dân Trung Quốc. Và đến năm 2020, các nhà cai trị của Trung Quốc nhắm đến việc thực thi một hệ thống Orwell dựa trên việc kiểm soát hầu hết khía cạnh của đời sống con người – với cái gọi là "điểm tín nhiệm xã hội". Theo ngôn ngữ trong bản thiết kế chính thức của chương trình, nó sẽ "cho phép người được tín nhiệm rong chơi cùng trời cuối đất, trong khi khiến người mất uy tín không nhấc nổi một bước".
Và khi nói đến tự do tôn giáo, một làn sóng truy bức mới đang ập xuống với các Kitô hữu, Phật tử và người Hồi giáo Trung Quốc…
Tháng trước, Bắc Kinh đóng cửa một trong những nhà thờ ngầm lớn nhất Trung Quốc. Trên khắp đất nước, nhà chức trách đang giật đổ thánh giá, đốt kinh thánh và cầm tù các tín hữu. Và Bắc Kinh giờ đây đã đạt được thỏa thuận với Vatican, mang lại cho Đảng Cộng sản vốn tuyên xưng vô thần một vai trò trực tiếp trong việc bổ nhiệm các giám mục Công giáo. Đối với các Kitô hữu Trung Quốc, đó là những thời kỳ tuyệt vọng. Bắc Kinh cũng đang trấn áp Phật giáo. Trong thập niên qua, hơn 150 tu sĩ Phật giáo Tây Tạng đã tự thiêu để phản đối sự đàn áp của Trung Quốc đối với niềm tin và văn hóa của họ.
Và ở Tân Cương, Đảng Cộng sản đã giam giữ cả triệu người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ trong các trại của chính phủ nơi họ phải chịu đựng sự tẩy não suốt ngày đêm. Những người sống sót trong các trại đã mô tả trải nghiệm của họ như một nỗ lực cố ý của Bắc Kinh để bóp nghẹt văn hóa Duy Ngô Nhĩ và dập tắt đức tin Hồi giáo.
Nhưng như lịch sử chứng minh, một đất nước đàn áp những người dân của chính nó hiếm khi dừng lại ở đó. Bắc Kinh cũng đặt mục tiêu mở rộng tầm với của mình trên toàn thế giới. Như Tiến sĩ Michael Pillsbury của chính Viện Hudson đã nói, "Trung Quốc đã phản đối các hành động và mục tiêu của chính phủ Hoa Kỳ. Thật vậy, Trung Quốc đang xây dựng mối quan hệ riêng của mình với các đồng minh và kẻ thù của Hoa Kỳ, đi ngược lại với bất kỳ ý định hòa bình hay hảo ý nào của Bắc Kinh".
Trung Quốc sử dụng cái gọi là "ngoại giao bẫy nợ" để mở rộng ảnh hưởng của họ. Hôm nay, quốc gia đó đang cung cấp hàng trăm tỷ đô la các khoản vay cơ sở hạ tầng cho các chính phủ từ châu Á đến châu Phi đến châu Âu đến cả Mỹ Latinh. Tuy nhiên, các điều khoản của các khoản vay đó dù có hay ho đến chừng nào thì cũng luôn mơ hồ và lợi ích luôn tuôn đổ về Bắc Kinh.
Chỉ cần hỏi Sri Lanka, nước vay một khoản nợ khổng lồ để các công ty nhà nước Trung Quốc xây dựng một cảng biển với giá trị thương mại đáng ngờ. Hai năm trước, quốc gia đó không còn đủ khả năng thanh toán món nợ của mình nữa – vì vậy Bắc Kinh đã gây áp lực để Sri Lanka chuyển giao cảng mới trực tiếp vào tay Trung Quốc. Nó có thể sớm trở thành căn cứ quân sự tiền phương cho lực lượng hải quân biển xanh đang ngày càng phát triển của Trung Quốc.
Trong chính bán cầu của chúng ta, Bắc Kinh đã giang tay cứu vớt chế độ Maduro tham nhũng và bất tài ở Venezuela, cam kết 5 tỉ đô la trong các khoản vay đáng ngờ có thể được hoàn trả bằng dầu. Trung Quốc cũng là chủ nợ lớn nhất của quốc gia này, tạo gánh nặng cho người dân Venezuela với hơn 50 tỷ đô la nợ nần. Bắc Kinh cũng đang làm suy đồi nền chính trị của một số quốc gia bằng cách cung cấp sự hậu thuẫn trực tiếp cho các đảng phái và ứng viên hứa hẹn sẽ đáp ứng các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc…
Và kể từ năm ngoái, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thuyết phục 3 quốc gia Mỹ Latinh cắt đứt quan hệ với Đài Bắc và công nhận Bắc Kinh. Những hành động này đe dọa sự ổn định của Eo biển Đài Loan – và Hoa Kỳ lên án những hành động này. Và trong khi chính quyền của chúng ta sẽ tiếp tục tôn trọng Chính sách Một Trung Quốc của chúng ta, như được phản ánh trong ba thông cáo chung và Đạo luật Quan hệ Đài Loan, Mỹ sẽ luôn tin rằng sự đón nhận dân chủ của Đài Loan chỉ ra một con đường tốt hơn cho tất cả người dân Trung Quốc.
Đây chỉ là một vài trong số những cách mà Trung Quốc đã tìm cách thúc đẩy lợi ích chiến lược của mình trên khắp thế giới, với cường độ và sự tinh vi ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, các chính quyền trước đây gần như bỏ qua các hành động của Trung Quốc – và trong nhiều trường hợp, họ đã xúi giục Trung Quốc. Nhưng thời đó đã qua.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Trump, Hoa Kỳ đã bảo vệ lợi ích của chúng ta với sức mạnh được phục hồi của Mỹ… Chúng ta đã làm cho quân đội hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới hùng mạnh hơn nữa. Đầu năm nay, Tổng thống đã ký thành luật việc gia tăng chi tiêu quốc phòng lớn nhất kể từ thời Ronald Reagan – 716 tỷ đô la để mở rộng sự thống trị quân sự của chúng ta trong mọi chiến trường.
Chúng ta đang hiện đại hoá kho vũ khí hạt nhân, chúng ta đang triển khai và phát triển những chiến đấu cơ và máy bay ném bom tối tân, chúng ta đang xây dựng một thế hệ tàu sân bay và tàu chiến mới, và chúng ta đang đầu tư vào các lực lượng vũ trang của chúng ta ở mức chưa từng có. Điều này bao gồm việc xúc tiến thành lập Lực lượng Không gian Hoa Kỳ để đảm bảo sự thống trị liên tục của chúng ta trong không gian, và cho phép tăng cường năng lực trong thế giới mạng để xây dựng sự răn đe với các đối thủ của chúng ta.
Và theo chỉ đạo của Tổng thống Trump, chúng ta cũng đang áp đặt thuế quan lên 250 tỷ đô la hàng hóa Trung Quốc, với mức thuế cao nhất nhắm vào các ngành công nghiệp tiên tiến mà Bắc Kinh đang cố gắng nắm bắt và kiểm soát. Và Tổng thống cũng đã nói rõ rằng chúng ta sẽ áp thêm nhiều loại thuế nữa, với khả năng tăng hơn gấp đôi con số đó, trừ khi đạt được một thỏa thuận công bằng và có đi có lại.
Hành động của chúng ta đã có tác động lớn. Thị trường chứng khoán lớn nhất Trung Quốc giảm 25% trong 9 tháng đầu năm nay, phần lớn bởi vì chính quyền của chúng ta đã chống lại những hành vi thương mại của Bắc Kinh.
Như Tổng thống Trump đã nêu rõ, chúng ta không muốn thị trường của Trung Quốc phải khốn đốn. Trong thực tế, chúng ta muốn họ phát triển mạnh. Nhưng Hoa Kỳ muốn Bắc Kinh theo đuổi các chính sách thương mại tự do, công bằng và có đi có lại.
Đáng buồn thay, các nhà cai trị của Trung Quốc đã từ chối đi theo con đường đó – cho đến nay. Người dân Mỹ xứng đáng biết điều đó, để đáp trả lập trường mạnh mẽ của Tổng thống Trump, Bắc Kinh đang theo đuổi một chiến dịch toàn diện và phối hợp để làm suy yếu sự ủng hộ dành cho Tổng thống, chương trình nghị sự của chúng ta, và những lý tưởng được trân quý nhất của quốc gia chúng ta.
Hôm nay tôi muốn nói với bạn những gì chúng tôi biết về hành động của Trung Quốc – một số trong đó chúng tôi thu thập từ những đánh giá tình báo, một số trong đó đã được công chúng biết đến. Nhưng tất cả đều là sự thật.
Như tôi đã nói trước đây, Bắc Kinh đang triển khai một cách tiếp cận của toàn thể chính quyền để thúc đẩy ảnh hưởng của họ và gặt hái lợi ích cho họ. Họ sử dụng sức mạnh này theo cách chủ tâm và đe dọa hơn để can thiệp vào các chính sách và chính trị nội bộ của Hoa Kỳ.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đang tưởng thưởng hoặc hăm dọa các doanh nghiệp Mỹ, các hãng phim, trường đại học, viện nghiên cứu, các học giả, nhà báo, và các quan chức địa phương, tiểu bang và liên bang.
Tệ hại nhất, Trung Quốc đã khởi xướng một nỗ lực chưa từng có để tác động đến ý kiến công chúng Mỹ, cuộc bầu cử năm 2018, và môi trường dẫn đến cuộc bầu cử tổng thống năm 2020…
Nói thẳng ra, sự lãnh đạo của Tổng thống Trump đang có hiệu quả; và Trung Quốc muốn một Tổng thống Mỹ khác.
Trung Quốc đang can thiệp vào nền dân chủ của Mỹ. Như Tổng thống Trump vừa nói tuần trước, chúng tôi "phát hiện Trung Quốc đã cố gắng can thiệp vào cuộc bầu cử [giữa kỳ] năm 2018 sắp diễn ra của chúng ta".
Cộng đồng tình báo của chúng tôi nói rằng "Trung Quốc đang nhắm đến các chính quyền và quan chức cấp tiểu bang và địa phương của Mỹ để khai thác bất kỳ sự chia rẽ nào về chính sách giữa chính quyền liên bang và các cấp địa phương. Họ sử dụng các vấn đề xung khắc, như thuế quan thương mại, để thúc đẩy ảnh hưởng chính trị của Bắc Kinh".
Vào tháng Sáu, Bắc Kinh đã lưu hành một tài liệu bí mật, có tiêu đề "Chỉ thị Tuyên truyền và Kiểm duyệt", vạch ra chiến lược của mình. Nó nói rằng Trung Quốc phải "tấn công chính xác và cẩn thận, chia tách các nhóm trong nước khác nhau" tại Hoa Kỳ.
Để phục vụ mục đích đó, Bắc Kinh đã huy động các nhân tố bí mật, các nhóm bình phong, và tổ chức tuyên truyền để thay đổi nhận thức của người Mỹ về các chính sách của Trung Quốc. Như một thành viên cấp cao trong cộng đồng tình báo của chúng ta gần đây đã nói với tôi, những gì người Nga làm chẳng là gì cả so với những gì Trung Quốc đang làm trên khắp đất nước này.
Các quan chức cấp cao Trung Quốc cũng đã cố gắng tác động đến để các nhà lãnh đạo kinh doanh lên án hành động thương mại của chúng ta, tận dụng mong muốn duy trì hoạt động của họ ở Trung Quốc. Trong một ví dụ gần đây, họ đe dọa sẽ khước từ cấp giấy phép kinh doanh cho một tập đoàn lớn của Mỹ nếu từ chối phát biểu chống lại chính sách của chính quyền chúng ta.
Và khi nói đến việc tác động đến cuộc bầu cử giữa kỳ, bạn chỉ cần nhìn vào thuế quan mà Bắc Kinh đáp trả chúng ta. Họ nhắm mục tiêu cụ thể vào các ngành công nghiệp và tiểu bang sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc bầu cử năm 2018. Theo một ước tính, hơn 80% các hạt của Hoa Kỳ bị Trung Quốc nhắm đến đã bỏ phiếu cho Tổng thống Trump vào năm 2016; bây giờ Trung Quốc muốn biến các cử tri này chống lại chính quyền của chúng ta.
Và Trung Quốc cũng đang trực tiếp chiêu dụ cử tri Mỹ. Tuần trước, chính phủ Trung Quốc trả tiền để đăng nhiều phụ trang trên tờ Des Moines Register – tờ báo có lượng phát hành lớn ở bang nhà của Đại sứ của chúng ta tại Trung Quốc, và là một tiểu bang quan trọng trong (cuộc bầu cử – người dịch) năm 2018. Phần phụ trang, được thiết kế trông giống như các bài báo, phê phán các chính sách thương mại của chúng ta là liều lĩnh và có hại cho người dân bang Iowa.
May mắn thay, người Mỹ không bị thuyết phục. Chẳng hạn : nông dân Mỹ đang đứng về phía vị Tổng thống này và đang nhìn thấy kết quả thực sự từ những lập trường mạnh mẽ mà ông đã chọn, bao gồm Thỏa thuận Mỹ-Mexico-Canada tuần này, nơi chúng tôi đã mở rộng đáng kể thị trường Bắc Mỹ cho các sản phẩm của Hoa Kỳ – một chiến thắng lớn cho nông dân và nhà sản xuất Mỹ.
Nhưng hành động của Trung Quốc không chỉ tập trung vào việc ảnh hưởng đến chính sách và chính trị của chúng ta. Bắc Kinh cũng đang thực hiện các bước để khai thác đòn bẩy kinh tế, và sức hấp dẫn từ thị trường nội địa lớn của Trung Quốc, để tăng cường ảnh hưởng của họ lên các tập đoàn Mỹ. Bắc Kinh hiện yêu cầu các liên doanh của Mỹ hoạt động tại Trung Quốc thành lập "các tổ chức đảng" trong công ty của họ, mang lại cho Đảng Cộng sản một tiếng nói – và có thể là quyền phủ quyết – trong các quyết định tuyển dụng và đầu tư.
Chính quyền Trung Quốc cũng đe dọa các công ty Hoa Kỳ mô tả Đài Loan như một thực thể địa lý riêng biệt, hoặc đi lệch khỏi chính sách của Trung Quốc về Tây Tạng. Bắc Kinh buộc Delta Airlines phải công khai xin lỗi vì không gọi Đài Loan là một "tỉnh của Trung Quốc" trên website của mình. Họ cũng gây áp lực cho Marriott để sa thải một nhân viên người Mỹ bấm thích một tweet về Tây Tạng.
Bắc Kinh thường xuyên yêu cầu Hollywood mô tả Trung Quốc theo một góc nhìn tích cực ngặt nghèo, và họ trừng phạt các hãng phim và nhà sản xuất không làm thế. Những nhà kiểm duyệt của Bắc Kinh nhanh chóng chỉnh sửa hoặc cấm chiếu những bộ phim phê phán Trung Quốc, thậm chí theo những cách nhỏ nhặt. Phim "World War Z" đã phải cắt bỏ khỏi kịch bản phần đề cập đến một loại virus có nguồn gốc từ Trung Quốc. "Red Dawn" đã được chỉnh sửa kỹ thuật số để biến những nhân vật phản diện thành người Bắc Triều Tiên, chứ không phải là người Trung Quốc.
Ngoài lĩnh vực kinh doanh, Đảng Cộng sản Trung Quốc đang chi hàng tỷ đô la cho các tổ chức tuyên truyền ở Hoa Kỳ, cũng như các quốc gia khác.
Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc hiện phát sóng chương trình thân thiện với Bắc Kinh trên hơn 30 tổ chức truyền thông ở Hoa Kỳ, phần nhiều tập trung ở các thành phố lớn của Mỹ. Mạng lưới Truyền hình Toàn cầu của Trung Quốc tiếp cận hơn 75 triệu người Mỹ – và nó nhận được lệnh điều động trực tiếp từ những lãnh đạo Đảng Cộng sản của mình. Như nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc phát biểu trong một chuyến thăm trụ sở của mạng lưới, "Các phương tiện truyền thông do Đảng và chính phủ điều hành là mặt trận tuyên truyền và phải có Đảng tính".
Đó là lý do tại sao, tháng trước, Bộ Tư pháp đã ra lệnh cho mạng lưới đó đăng ký là tổ chức nước ngoài.
Đảng Cộng sản cũng đã đe dọa và giam giữ các thành viên gia đình người Trung Quốc của các nhà báo người Mỹ, những người tìm tòi quá sâu. Và họ đã chặn các website của các tổ chức truyền thông Hoa Kỳ và khiến các nhà báo của chúng ta gặp nhiều khó khăn hơn để có được visa. Điều này xảy ra sau khi tờ The New York Times công bố các bài báo điều tra về sự giàu có của một số nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Nhưng phương tiện truyền thông không phải là nơi duy nhất mà Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách nuôi dưỡng một nền văn hóa kiểm duyệt. Điều này cũng đúng với các học viện.
Chỉ cần nhìn vào Hội sinh viên và học giả Trung Quốc, vốn có hơn 150 chi nhánh trên khắp các cơ sở đại học của Mỹ. Các nhóm này giúp tổ chức các sự kiện xã hội cho một số trong hơn 430.000 công dân Trung Quốc đang theo học tại Hoa Kỳ ; họ cũng cảnh báo các lãnh sự quán và đại sứ quán Trung Quốc khi các sinh viên Trung Quốc, và các trường học của Mỹ, đi chệch khỏi đường lối của Đảng Cộng sản.
Tại Đại học Maryland, một sinh viên Trung Quốc gần đây đã phát biểu tại lễ tốt nghiệp của mình về những gì cô gọi là "không khí trong lành của tự do ngôn luận" ở Mỹ. Tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản đã nhanh chóng trừng phạt cô, cô trở thành nạn nhân của một cơn bão chỉ trích gay gắt trên mạng truyền thông xã hội được kiểm soát chặt chẽ của Trung Quốc, và gia đình cô trở ở trong nước đã bị quấy nhiễu. Đối với bản thân trường đại học, chương trình trao đổi của nó với Trung Quốc – một trong những chương trình sâu rộng nhất của nước này – đột nhiên bị tắc tị.
Trung Quốc cũng gây áp lực học thuật theo những cách khác. Bắc Kinh cung cấp tài trợ hào phóng cho các trường đại học, viện nghiên cứu và các học giả, với thỏa thuận rằng họ sẽ tránh những ý tưởng mà Đảng Cộng sản thấy nguy hiểm hoặc xúc phạm. Các chuyên gia về Trung Quốc biết rõ rằng thị thực của họ sẽ bị trì hoãn hoặc bị từ chối nếu nghiên cứu của họ mâu thuẫn với các luận điểm của Bắc Kinh.
Và ngay cả các học giả và tổ chức tránh nhận tài trợ của Trung Quốc cũng bị quốc gia đó nhắm đến, như Viện Hudson trực tiếp trải nghiệm. Sau khi bạn đề nghị tiếp đón một diễn giả mà Bắc Kinh không thích, website của bạn hứng chịu một cuộc tấn công mạng lớn, có nguồn gốc từ Thượng Hải. Bạn biết rõ hơn đa số rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đang cố gắng làm suy yếu tự do học thuật và tự do ngôn luận ở Mỹ ngày nay.
Những hành động này và những hành động khác, nhìn chung, cấu thành một nỗ lực đang được tăng cường để chuyển dịch ý kiến công chúng và chính sách công của Hoa Kỳ ra xa khỏi phong cách lãnh đạo Nước Mỹ trên hết của Tổng thống Donald Trump. Nhưng thông điệp của chúng ta đối với các nhà cầm quyền của Trung Quốc là: Tổng thống này sẽ không lùi bước – và người dân Mỹ sẽ không bị lung lạc. Chúng ta sẽ tiếp tục đứng vững vì an ninh và nền kinh tế của chúng ta, ngay cả khi chúng ta hy vọng cải thiện mối quan hệ với Bắc Kinh.
Chính quyền của chúng ta sẽ tiếp tục hành động dứt khoát để bảo vệ lợi ích, công việc và an ninh của người Mỹ.
Khi chúng ta xây dựng lại quân đội của mình, chúng ta sẽ tiếp tục khẳng định lợi ích của Mỹ trên khắp Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Khi chúng ta đáp trả các hành vi thương mại của Trung Quốc, chúng ta sẽ tiếp tục đòi hỏi một mối quan hệ kinh tế tự do và công bằng và có đi có lại với Trung Quốc, đòi hỏi Bắc Kinh tháo dỡ rào cản thương mại, thực hiện nghĩa vụ thương mại, và mở hoàn toàn nền kinh tế như chúng ta đã mở cửa nền kinh tế của chúng ta.
Chúng ta sẽ tiếp tục hành động cho đến khi Bắc Kinh chấm dứt hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ của Mỹ, và chấm dứt hành vi bóc lột là cưỡng bức chuyển giao công nghệ…
Và để thúc đẩy tầm nhìn của chúng ta về một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và mở, chúng ta đang xây dựng các liên kết mới và mạnh mẽ hơn với các quốc gia chia sẻ giá trị của chúng ta trên khắp khu vực – từ Ấn Độ đến Samoa. Các mối quan hệ của chúng ta sẽ tuôn chảy từ tinh thần tôn trọng, được xây dựng trên quan hệ đối tác, chứ không phải sự thống trị.
Chúng ta đang thiết lập các thỏa thuận thương mại mới, trên cơ sở song phương, giống như tuần trước, Tổng thống Trump đã ký một thỏa thuận thương mại cải tiến với Hàn Quốc và chúng ta sẽ sớm bắt đầu đàm phán một thỏa thuận thương mại tự do song phương lịch sử với Nhật Bản.
Và chúng ta đang sắp xếp lại các chương trình tài chính và phát triển quốc tế, mang lại cho các quốc gia nước ngoài một lựa chọn thay thế minh bạch và công bằng thay vì chính sách ngoại giao bẫy nợ của Trung Quốc. Để đạt được mục đích đó, Tổng thống Trump sẽ ký thành luật Đạo luật BUILD trong những ngày tới.
Và vào tháng tới, tôi sẽ có đặc ân đại diện cho Hoa Kỳ tại Singapore và Papua New Guinea, tại ASEAN và APEC. Ở đó, chúng ta sẽ công bố các biện pháp và chương trình mới để hỗ trợ một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và mở – và thay mặt Tổng thống, tôi sẽ phát đi thông điệp rằng cam kết của Mỹ đối với Ấn Độ-Thái Bình Dương chưa bao giờ mạnh mẽ hơn.
Để bảo vệ quyền lợi của chúng ta ở trong nước, chúng tôi đã tăng cường CFIUS – Ủy ban Đầu tư nước ngoài ở Hoa Kỳ – nâng cao sự giám sát đầu tư của Trung Quốc ở Mỹ, để bảo vệ an ninh quốc gia của chúng ta trước các hành động bóc lột của Bắc Kinh.
Và khi nói đến ảnh hưởng và sự can thiệp thâm độc của Bắc Kinh vào nền chính trị và chính sách của Mỹ, chúng tôi sẽ tiếp tục phơi bày nó, bất kể hình thức của nó là gì. Và chúng ta sẽ làm việc với các nhà lãnh đạo ở mọi cấp xã hội để bảo vệ lợi ích quốc gia và những lý tưởng được trân quý nhất. Người dân Mỹ sẽ đóng vai trò quyết định – và trên thực tế, họ đã như thế…
Khi chúng ta tề tựu nơi đây, một sự đồng thuận mới đang dấy lên trên khắp nước Mỹ…
Có thêm nhiều nhà lãnh đạo kinh doanh đang suy nghĩ vượt ra ngoài quý tiếp theo, và suy nghĩ hai lần trước khi thâm nhập vào thị trường Trung Quốc nếu nó đồng nghĩa với việc chuyển giao tài sản trí tuệ của họ hoặc khuyến khích sự đàn áp của Bắc Kinh. Nhưng còn nhiều thứ phải nối bước. Ví dụ : Google phải ngay lập tức chấm dứt việc phát triển ứng dụng "Dragonfly" vốn sẽ tăng cường sự kiểm duyệt của Đảng Cộng sản và xâm phạm quyền riêng tư của khách hàng Trung Quốc…
Có thêm nhiều nhà báo đang tường thuật sự thật mà không sợ hãi hoặc thiên vị và đào sâu để vạch ra nơi Trung Quốc đang can thiệp vào xã hội của chúng ta, và tại sao – và chúng tôi hy vọng rằng sẽ có nhiều hơn những người Mỹ, và những tổ chức toàn cầu, những tổ chức tin tức sẽ tham gia vào nỗ lực này.
Có thêm nhiều học giả đang phát biểu mạnh mẽ và bảo vệ tự do học thuật, và có thêm nhiều trường đại học và viện nghiên cứu đang tập trung nhuệ khí để khước từ món tiền dễ kiếm của Bắc Kinh, nhận ra rằng mỗi đồng đô la đều đi kèm những đòi hỏi tương ứng. Chúng tôi tự tin có thêm nhiều người sẽ tham gia vào hàng ngũ của họ.
Và trên toàn quốc, người dân Mỹ đang ngày càng cảnh giác, với một sự đánh giá cao mới dành cho các hành động của chính quyền của chúng ta nhằm thiết lập lại mối quan hệ kinh tế và chiến lược của Mỹ với Trung Quốc, để cuối cùng đưa Nước Mỹ lên trên hết.
Và dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Trump, Mỹ sẽ đi đúng hướng. Trung Quốc nên biết rằng người dân Mỹ và đại diện được bầu của họ ở cả hai đảng đều quyết tâm.
Như Chiến lược An ninh Quốc gia của chúng ta tuyên bố : "Cạnh tranh không luôn đồng nghĩa với thù địch".
Như Tổng thống Trump đã nói rõ, chúng ta muốn có một mối quan hệ xây dựng với Bắc Kinh, nơi mà sự thịnh vượng và an ninh của chúng ta cùng phát triển, chứ không tách rời. Trong khi Bắc Kinh đã rời xa tầm nhìn này, các nhà cầm quyền của Trung Quốc vẫn có thể thay đổi hướng đi, và quay trở lại với tinh thần "cải cách và mở cửa" và sự tự do lớn hơn. Người Mỹ không muốn nhiều hơn ; người dân Trung Quốc xứng đáng không ít hơn.
Nhà văn vĩ đại người Trung Quốc Lỗ Tấn thường than trách rằng đất nước của ông "chỉ có một là khinh khi người nước ngoài như cầm thú, hoặc hai là tôn xưng họ như thánh thượng, chứ chưa bao giờ xem là đồng đẳng". Hôm nay, nước Mỹ đang vươn tay ra với Trung Quốc ; chúng tôi hy vọng Bắc Kinh sẽ sớm vươn tay lại – bằng hành động chứ không phải lời nói, và với sự tôn trọng mới đối với nước Mỹ. Nhưng chúng ta sẽ không ngừng nghỉ cho đến khi mối quan hệ của chúng ta với Trung Quốc đặt cơ sở trên sự công bằng, có đi có lại, và tôn trọng chủ quyền.
Có một câu ngạn ngữ cổ của Trung Quốc nói rằng "con người chỉ nhìn thấy hiện tại, nhưng trời nhìn thấy tương lai". (Nhân kiến mục tiền, thiên kiến cửu viễn – người dịch). Khi chúng ta tiến lên, chúng ta hãy theo đuổi một tương lai hòa bình và thịnh vượng với quyết tâm và niềm tin…
Niềm tin vào sự lãnh đạo của Tổng thống Trump, và mối quan hệ mà ông đã thiết lập với chủ tịch Trung Quốc…
Niềm tin vào tình hữu nghị bền vững giữa người Mỹ và người Trung Quốc…
Niềm tin rằng trời nhìn thấy tương lai – và nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, Mỹ và Trung Quốc sẽ cùng đi tới tương lai đó.
Cảm ơn các bạn. Chúa phù hộ các bạn. Và Chúa phù hộ nước Mỹ !
Duan Dang chuyển ngữ
Nguồn : trithucvn.net, 07/10/2018
Ngày 28 tháng 9 vừa qua, Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã có bài phát biểu tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Lần nói chuyện trước của Hun Sen tại đây là vào năm 2005, 15 tháng 9, cách đây 13 năm. Lần này, cũng như lần trước, Hun Sen dùng cơ hội này để ngợi ca những thành quả mà Campuchia đã đạt được (dưới sự lãnh đạo của mình), đưa đất nước này từ một quá khứ tăm tối, từ những cánh đồng tàn sát (killing fields), sang một Campuchia có tỷ lệ phát triển kinh tế 7 phần trăm hơn một thập niên qua, một Campuchia đã thật sự giành được nền hòa bình, dân chủ, pháp quyền và nhân quyền tại đây được tôn trọng. Bàn về dân chủ, Hun Sen tuyên bố Campuchia là nền dân chủ cấp tiến đa đảng, với các cuộc bầu cử được tổ chức thường xuyên, công bằng và tự do, để người dân có thể bầu chọn lãnh đạo quốc gia của họ.
Hun Sen đọc diễn văn tại buổi họp khoáng đại Liên Hiệp Quốc, New York, 28 tháng Chín, 2018. (AP Photo/Richard Drew)
Hun Sen đã làm Thủ tướng Campuchia kể từ năm 1985, được xem là một trong những thủ tướng và lãnh đạo quốc gia lâu đời nhất trên thế giới. Tháng 7 năm nay, Hun Sen và đảng của ông, Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), đã thắng tất cả 125 ghế quốc hội khi bên đối lập, Đảng Cứu Quốc Campuchia (CNRP), đã bị giải tán và nhiều thủ lãnh của đảng này đã lần lược bị bắt bớ và tù đầy. Do đó Hun Sen sẽ tiếp tục nắm toàn bộ quyền lực trong tay, ít nhất là 5 năm tới, nếu không phải là 10 năm hoặc lâu hơn nữa.
Vậy thì Hun Sen muốn gì khi phát biểu tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và ông muốn gửi thông điệp gì tại đây ?
Trước tiên là để phản hồi lại các phản ảnh tiêu cực của các chính phủ Tây phương, kể cả Hoa Kỳ, Liên hiệp Âu châu, và Canada, trong thời gian qua về chính quyền ông đang lãnh đạo. Thứ nhất, cuộc bầu cử cuối tháng 7 vừa qua bị nghi ngờ là bất chính, rằng chính quyền Hun Sen đã thổi phồng số cử tri đi bầu và đã dọa nạt cử tri. Thứ hai, bản báo cáo đặc biệt của Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc Michelle Bachelet tại cuộc họp Hội đồng Nhân quyền thứ 39 đã đặt nhiều vấn đề đối với chính quyền Hun Sen. Vào ngày 10 tháng 9, trong bản tường trình này, bà Bachelet đã nêu lên các quan ngại về sự xuống cấp nghiêm trọng của các quyền dân sự và chính trị tại Campuchia, từ sự đàn áp đối với các tiếng nói và các cơ quan truyền thông đối lập cho đến việc giải thể đảng đối lập CNRP, mà bà cho là đã tước đoạt quyền lựa chọn của người dân. Bà cảnh báo rằng sự phát triển bền vững đòi hỏi chính quyền bảo vệ và phát triển không gian của xã hội dân sự, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, đối lập truyền thông và chính trị, trong một môi trường đối thoại nhau, cho phép mọi người Campuchia có tiếng nói, kể cả những người có thể phê phán các quyết định của chính quyền. Thứ ba, vào đầu tuần mà Hun Sen phát biểu, Báo Cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc tại Campuchia Rhona Smith cho rằng cuộc bầu cử vừa qua đã "chôn vùi nền dân chủ cấp tiến đa đảng vào lịch sử trong vòng năm năm tới".
Tóm lại, mang tiếng dân chủ cấp tiến đa đảng nhưng Hun Sen lại đi triệt tiêu đảng đối lập để chỉ có đảng của mình cai trị thì tính chính đáng của nền dân chủ sẽ bị lung lây. Khi uy tín và thể diện quốc gia đang bị thách thức trước dư luận quốc tế, Hun Sen nhận thấy khai mạc của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc là cơ hội toàn hảo để biện minh cho các hành động của mình.
Trong phần phát biểu, Hun Sen cảnh báo sự can thiệp của bên ngoài vào nội tình chính trị của Campuchia. Ngoài ra Hun Sen đã lợi dụng cơ hội này để lên lớp dạy đời Hoa Kỳ và lấy lòng Trung Quốc. Tuy không nêu thẳng tên của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, Hun Sen đề cao nhu cầu duy trì và củng cố chính sách đa phương, và phê phán chính sách bảo hộ mậu dịch, đơn phương và chiến tranh thương mại có hại cho toàn cầu. Hun Sen cũng muốn làm vừa lòng Trung Quốc khi lên án Hoa Kỳ vì quan hệ với Trung Quốc hiện đang là yếu tố then chốt quyết định sự sống còn của Hun Sen và đảng CPP.
Những lời phát biểu của Hun Sen tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc có lẽ chẳng ảnh hưởng gì lên chính trường quốc tế. Nhưng dù sao sự xuất hiện này cũng là tính toán chiến lược của Hun Sen.
Theo tường trình của Ân xá Quốc tế (Amnesty International) và Quan sát Nhân quyền (Human Rights Watch), chính quyền Hun Sen (ba cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp đều nằm gọn trong tay của đảng CPP), trong ba năm qua đã gia tăng đàn áp giới hoạt động bảo vệ nhân quyền, giới truyền thông độc lập, các tổ chức xã hội dân sự cũng như các lãnh đạo của đảng đối lập CNRP. Đảng đối lập CNRP đã gia tăng ảnh hưởng đáng kể vào cuộc bầu cử toàn quốc năm 2013 cũng như bầu cử thôn xã/địa phương năm 2017, làm cho Hun Sen lo sợ đến kết quả bầu cử toàn quốc được ấn định ngày 29 tháng 7 năm 2018. Do đó Hun Sen và Đảng CPP đã tìm cách tu chính luật về Đảng Chính trị vào tháng Hai và tháng 7 năm 2017, cho phép Bộ Nội vụ và tòa án quyền lực mới đối với các đảng chính trị và ngăn chặn các cá nhân đã có tiền án tiền sự tham gia giữ các vai trò lãnh đạo chính trị. Ngày 16 tháng 11 năm 2017, Tòa án Tối cao do một thẩm phán, cũng là ủy viên trung ưng đảng của CPP, đã quyết định giải tán đảng CNRP và cấm 118 đảng viên và dân biểu quốc hội thuộc đảng CNRP hoạt động trong vòng 5 năm tới.
Trong 33 năm cầm quyền dưới những chức vụ hàng đầu của quốc gia, Hun Sen lên nắm được quyền lực này và tiếp tục duy trì cho đến ngày hôm nay phần nào nhờ công ơn của hai quan thầy mình. Một là Đảng Cộng Sản Việt Nam và hai là Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tính ra thì Hun Sen có bản lãnh hơn cả hai quan thầy. Trong khi ĐCSVN và ĐCSTQ đều không dám, trong suy nghĩ khoan nói hành động, cho phép bất cứ hình thức đối lập nào, thì Hun Sen dám chấp nhận một thể chế tương đối có dân chủ trong một thời gian, trong đó có các đảng đối lập thực sự, có nền tự do báo chí phần nào, và các các tổ chức xã hội dân sự năng động. Nhưng kẻ độc tài chuyên quyền nào cũng lo sợ. Sợ mất quyền lực, mất quyền lợi, mất ảnh hưởng, và nhất là khi quyền lực vào tay người khác, những hành động bất chính của mình trước đây, sợ sẽ bị phơi bày. Do đó sợ mất hết, không còn gì, có khi còn phải đi tù nữa. Những nỗi lo sợ này là cái vòng luẩn quẩn của cường quyền. Do đó Hun Sen đã tiếp tục sử dụng nhiều thủ đoạn và chiến thuật khác nhau để kìm chế đối lập và duy trì quyền lực.
Tính ra Hun Sen không phải là một tay vừa : có bản lãnh, biết đu dây giỏi, dám chơi khăm quan thầy, nhưng cũng biết sợ. Nhưng trong lịch sử xưa nay thì đâu có ai có thể sống mãi để bảo vệ cơ ngơi của mình.
Úc Châu, 10/10/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 11/10/2018
Tiếp theo bài "Ngôn từ là cửa sổ", trong bài này tôi xin trình bày một số quan sát tiếp theo của Mel Shwarts. Shwarts phân tích những giới hạn của tiếng Anh về động từ "to be" (to be verbs), đưa đến suy nghĩ hay hành động cứng ngắt, không thay đổi, như sau [1].
"Chỉ nên nói nếu nó tốt hơn là im lặng".
Động từ "to be" trong tiếng Anh bao gồm các từ : Are, Am, Is, Was, Be, Been, Being.
Theo Shwarts thì động từ chủ yếu diễn đạt sự chuyển động và hành động. Nhưng các động từ "to be" đều có điểm chung, hàm ý trạng thái bất biến, không thay đổi. Các động từ "to be" đều là tĩnh, không động. Cho nên Shwarts biện luận rằng nếu ngôn từ thông báo tư tưởng của mình và nếu chúng ta ứng dụng các động từ "to be" trong các suy nghĩ của mình, thì làm sao chúng ta có thể cảm nhận bất cứ điều gì khác ngoài "kẹt cứng". Chẳng hạn như suy nghĩ "Tôi không đáng giá gì cả" (I am worthless), hoặc "Tôi thật là khó thương/không thể thương được" (I am unlovable).
Làm như thế dễ biến niềm tin của mình thành sự thật mà đầu óc mình hình dung, và trở thành dữ kiện không thể thay đổi. Shwarts đặt câu hỏi làm sao chúng ta có thể hình dung và thực hiện thay đổi nếu các suy nghĩ bị kẹt cứng trong một bức tranh hiện thực không lay chuyển, bất động ? Các động từ "to be" này cản trở các khả năng mới, cản trở chuyển động.
Khi so sánh "Thật là khó để thay đổi" (It’s hard to change), với "Tôi cố gắng thay đổi" (I struggle to change), hoặc "Tôi cảm thấy thật là khó để mình thay đổi" (It feels so hard to me to make change) hoặc "Tôi không bao giờ thành công trong việc thay đổi" (I’ve never succeeded in making change) thì sẽ thấy sự khác biệt. Câu đầu mang tính nhận định khách quan về sự thật, do đó khó thay đổi điều gì đã được xem là sự thật ; trong khi ba câu sau mang tính chủ quan : một quan điểm hay một cách nhìn. Nhìn nhận như thế thì thay đổi có thể xảy ra khi một người chuyển đổi khái niệm của mình.
Shwarts cho biết năm 1933, Alfred Korzybsky là người nhận ra được điều này nên trong tác phẩm "Khoa học và Tỉnh táo" (Science and Sanity), ông trình bày ý tưởng nên nói và viết mà không dùng, hay bớt dùng, động từ "to be". Korzybsky cho rằng động từ "to be" là di tích của một quan điểm thế giới cũ, cơ động thế kỷ 17 mang đặc tính của nhà khoa học Isaac Newton. Trong khi đó, vật lý lượng tử được khám phá vào thập niên 1920 đã thay đổi sâu sắc quan niệm về thực tế thời đó, khác với những gì Newton miêu tả trong thời của ông. Cái nhìn thế giới mới diễn tả thực tế như là sự lưu chảy và sủi bọt (bubbling) vĩnh viễn với khả năng mọi phần liên hệ không tách rời nhau, một quá trình hình thành thực tế ảo [2].
Thay đổi, đối với con người, phần lớn và chủ yếu, là từ bộ não. Với những khám phá lớn lao trong lĩnh vực khoa học thần kinh (neuroscience), điều lạc quan là ai trong chúng ta cũng có khả năng thay đổi sâu sắc chính mình. Nhanh hay chậm, sâu hay cạn, lớn hay nhỏ, tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng cách nhìn, niềm tin và quyết tâm đóng vai trò then chốt. Một não trạng cởi mở phát triển (growth mindset) sẽ dễ dàng thay đổi, còn não trạng bảo thủ cứng ngắt (fixed mindset) thì khó hơn [3]. Ở tuổi 80 vẫn có thể thay đổi, vẫn có khả năng phát triển các tế bào thần kinh, nhưng để phát huy tối đa tiềm năng của các tế bào mới này hay bộ não của mình, chúng ta cần liên tục thách thức chính mình, khám phá các điều mới, tập thể dục, và nhìn vấn đề ở khía cạnh lạc quan, nửa ly nước đầy thay vì nửa ly nước vơi, chẳng hạn [4]. Bộ não của con người rất là huyền diệu, cái độ dẻo thần kinh (neuroplasticity), và như Tiến sĩ Lara Boyd có trình bày trong một TEDs Talks, sau khi xem bài thuyết trình của Boyd, bộ não của người xem cũng đã đổi khác [5]. Tóm lại, con người thay đổi liên tục mà lắm khi chúng ta không ý thức. Nó không tĩnh như trước nay mình nghĩ.
Khi nhận thức ra được lợi ích của nhu cầu xê dịch (chuyển đổi chỉ một chút thôi) trong ngôn ngữ, Shwarts bắt đầu tận dụng nó như là kỹ thuật truyền thông mang tính chuyển hóa. Ông nhìn thấy được những tiến bộ đáng kể trong ngành trị liệu khi nhiều người ý thức việc giảm thiểu sử dụng các động từ "to be" này.
Shwarts kể một bệnh nhân ở tuổi trung niên thường xuyên cho mình là ngu ngốc, chẳng hạn. Bà bảo "Tôi ngu" (I am stupid). Khi được hỏi tại sao bà lại nghĩ thế, thì bà trả lời từ nhỏ bố bà hay gọi bà như thế, nên bà luôn cảm thấy ngu ngốc. Shwarts phân tích rằng có lẽ bà luôn cảm thấy như thế, nhưng bà không có ngu đâu. Cảm thấy là một trạng thái, cho nên nó có thể thay đổi. Ông đã giúp bà xoay chuyển từ thực tế khách quan sang sự thật được xây dựng bằng cảm nhận của bà.
Shwarts cũng đã giúp người khác chuyển suy nghĩ khác, như : "Tôi không là gì cả. Tôi trống rỗng". (I am nothing. I am empty) sang "Tôi không cảm thấy gì cả. Tôi cảm thấy trống rỗng" (I feel nothing. I feel empty). Vấn đề không phải là người đó, mà chỉ là cảm giác của người đó vào lúc đó mà thôi.
Shwarts nhận định động từ "to be" nói lên sự thật khách quan hơn là cảm nhận và cảm giác, qua đó làm cho chúng ta cảm thấy bất lực, bất động, và là nạn nhân.
Khi ý thức điều này, một người có thể tránh những nhận định dễ gây tranh cãi nếu trình bày một thực tế khách quan, thay vào đó sử dụng "tôi suy nghĩ" hoặc "tôi cảm nhận/thấy". Nếu mình chỉ đơn giản chia sẻ những suy nghĩ, cách nhìn và ý tưởng theo cách thức chủ quan, chúng ta dễ vượt qua được nỗi lo sợ bị sai lầm, hay đúng sai. Làm như thế, chúng ta cũng mời người khác đóng góp ý kiến và quan điểm. Những cuộc đối thoại như thế giúp chúng ta mở lòng chia sẻ những suy nghĩ mang tính độc thoại, với người khác. Shwarts cho rằng cách này có thể áp dụng đối với nghề nghiệp, gia đình, quan hệ cho đến mọi loại truyền thông.
Theo Shwarts thì không có gì làm cho một cuộc đối thoại trật đường rầy nhanh chóng bằng nhận định "Anh/chị sai" (You are wrong) hoặc "Anh/chị quá ích kỷ" (You are so selfish). Nó sẽ làm cho người khác không muốn nghe nữa mà còn trở nên phòng thủ, nếu không phải là thù địch. Tại sao không sử dụng những câu như : "Giúp tôi hiểu điều anh/chị nói, (vì) tôi không nhìn như cách của anh/chị nhìn". Đây cũng là cơ hội mở ra mời gọi cách truyền thông hợp lý.
Shwarts biện luận phương pháp này giúp chúng ta chịu trách nhiệm với từng suy nghĩ và cảm nhận của mình hơn là đổ thừa/lỗi cho người khác. Nó mở ra cơ hội trao đổi nhau bằng tình thương và cảm thông khi chúng ta vượt qua được vấn đề đúng sai. Shwarts tin rằng nó giúp con người tự giải thoát mình khi ý thức sử dụng ngôn từ mà mở ra cơ hội và khả năng thay vì đóng kín cơ hội và giam tù mình.
Kết luận trên của Shwarts phản ảnh một phần trong bát chánh đạo của Phật giáo, đặc biệt là chánh ngữ và chánh niệm. Trong thời đại truyền thông liên tục và thông tin tràn ngập, con người được đi học nhiều hơn và hiểu biết nhiều hơn xưa, nắm bắt nhiều thông tin cần thiết cho cuộc sống. Nhưng ngôn từ có vẻ trở nên rẻ rúng hơn. Người ta sẵn sàng xả rác trên các diễn đàn và các trang mạng xã hội mà không cần biết hoặc quan tâm nó sẽ ảnh hưởng như thế nào lên người đọc và người bị phê bình. Do đó có khi không cần nói gì cả để phản ứng lại, lại là hay, lại là một tự do cảm xúc [6]. Mahatma Ghandi từng nói : "Chỉ nên nói nếu nó tốt hơn là im lặng" (Speak only if it improves upon the silence).
Trong bài "Chúng ta đang cần gì nhất ?" trên Thông Luận mới đây, ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng mấu chốt vấn đề là nâng cao phẩm chất cuộc thảo luận chính trị để xây dựng lực lượng và có sức thuyết phục [7]. Quả thật 43 năm qua, tuy phần lớn có cùng chung mục đích, đa số người Việt vẫn chưa thể ngồi lại với nhau để bàn luận rốt ráo những giải pháp, hướng đi, kế hoạch ngắn hạn và dài hạn, hay chương trình hành động cho tương lai Việt Nam. Vẫn mạnh ai nấy làm, mạnh tổ chức nào nấy làm, mà chẳng có sự liên kết hợp tác đáng kể nào. Những nỗ lực liên kết một thời không đưa đến kết quả gì bền vững vì mang nhiều tính biểu kiến hơn là xây dựng nền tảng. Ông Kiểng đưa ra một đạo lý thảo luận và mời mọi người góp ý, nhưng không rõ có ai góp ý chưa. Tôi đồng ý với ông Kiểng rằng nếu không thể thảo luận được với nhau thì không thể nào chuẩn bị một giải pháp thay thế đúng mực. Theo tôi, cùng lắm, khi tức nước vỡ bờ, thì chỉ có được một giải pháp cách mạng. Nhưng bất kỳ cuộc cách mạnh nào mà không có một giải pháp chính trị vững ổn thì cuộc cách mạng đó sẽ tất bại. Chúng ta có thể nghiệm lại điều này qua các cuộc cách mạng trên toàn thế giới, và ngay tại Việt Nam, trong thế kỷ qua.
Trước khi chấm dứt, tôi xin được chia sẻ thêm một bài thơ của Marshall Rosenberg trích từ cuốn sách "Truyền thông bất bạo động" của ông [8].
Quan sát mà không đánh giá
Tôi có thể xử lý điều bạn nói với tôi
những gì tôi làm hay không làm.
Và tôi có thể xử lý những diễn giải của bạn,
nhưng làm ơn đừng nhập nhằng hai cái với nhau.
Nếu bạn muốn gây nhầm lẫn mọi vấn đề,
Tôi có thể giúp bạn cách làm điều đó :
Trộn chung những gì tôi làm
với cách bạn phản ứng nó.
Cho tôi biết là bạn đã thất vọng
với những việc bạn thấy chưa hoàn tất,
Nhưng bảo rằng tôi là "vô trách nhiệm"
là không phải cách để khuyến khích tôi.
Và cho tôi biết rằng bạn đang cảm thấy tổn thương
khi tôi nói "không" đối với sự tấn tới của bạn,
Nhưng gọi tôi là người lạnh lùng
sẽ không gia tăng cơ hội của bạn trong tương lai.
Vâng tôi có thể xử lý điều bạn nói với tôi
những gì tôi làm hay không làm,
Và tôi có thể xử lý những diễn giải của bạn,
nhưng làm ơn đừng nhập nhằng hai cái với nhau [4].
Marshall B Rosenberg, PhD
Úc Châu, 25/09/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 10/10/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Mel Schwartz, "Change a Word, Change Your Life ", Psychology Today, 05 September 2018.
2. Kiều Tiến Dũng, "Khoa học phương Tây và triết lý phương Đông", Người Việt Books, 2016. Những ai muốn tìm hiểu thêm về vật lý lượng tử hay những triết lý sâu sắc về tương quan giữa triết lý phương Đông và khoa học phương Tây nên tìm đọc cuốn sách này.
3. Carol Dweck, "Developing a Growth Mindset with Carol Dweck ", Stanford Alumni.
9 October 2014.
4. Susan R. Barry, "How to Grow New Neurons in Your Brain ", Psychology Today, 16 January 2011. Thomas Hills, "Creating and Caring for Your New Neurons ", Psychology Today, 17 November 2014.
5. Lara Boyd, "After watching this, your brain will not be the same ", TEDs Talks, 14 November 2015.
6. Nancy Colier, "Mindful Speech : Using Your Words to Help, Not Harm", Psychology Today, 20 September 2018.
7. Nguyễn Gia Kiểng, "Chúng ta đang cần gì nhất ? ", Thông Luận, 30 Tháng 8 năm 2018.
8. Marshall B. Rosenberg, "Nonviolent Communication", A Language of Life, PuddleDancer Press, 2015 ; page 25.
Observing Without Evaluating
I can handle your telling me
what I did or didn’t do.
Anh I can handle your interpretations,
But please don’t mix the two.
If you want to confuse any issue,
I can tell you how to do it :
Mix together what I do
with how you react to it.
Tell me that you are disappointed
with the unfinished chores you see,
But calling me "irresponsible"
is no way to motivate me.
And telling me that you feeling hurt
when I say "no" to your advances,
But calling me a frigid man
won't increase your future chances.
Yes, I can handle your telling me
what I did or I didn't do,
And I can't handle your interpretations,
but please don’t mix the two.
Marshall B Rosenberg, PhD
Những gì xảy xa đối với tiến sĩ Christine Blasey Ford và với thẩm phán Brett Kavanaugh trong cuộc điều trần tại Ủy ban Tư pháp Thượng viện trong những ngày qua cho thấy dù ở cương vị nào đi nữa, dù trí tuệ, thành công hay quyền lực đến mấy, mỗi chúng ta đều là con người với những điểm yếu và những tổn thương tâm lý. Ở cương vị có thẩm quyền và thẩm định khác hẳn cương vị bị đánh giá và phán xét. Cho nên câu nói hãy đặt mình vào vị trí của người khác nhiều khi là châm ngôn của cuộc đời.
Bà Christine Blasey Ford và Thẩm phán Brett Kavanaugh .
Bà Ford, một giáo sư và nhà nghiên cứu về tâm lý, khẳng định trong cuộc điều trần rằng bà đâu có muốn ở đó, rằng bà rất khiếp sợ (terrified), nhưng vì trách nhiệm công dân mà bà phải lên tiếng chia sẻ câu chuyện của bà, trước bao nhiêu lời hăm dọa giết bà, buộc bà phải tạm sống xa nhà trong những ngày qua. Đó là chưa kể những ảnh hưởng của cuộc điều tra và quan sát kỹ lưỡng của cơ quan FBI, trong những ngày tới đối với bà và gia đình [1]. Giọng nói của bà không dấu được nỗi xúc động và run sợ trước cuộc điều trần này, nhất là khi phải đối diện với bao áp lực nặng nề từ truyền thông và dư luận, lắm khi thù nghịch. Cho nên quyết định đồng ý ra điều trần để trình bày câu chuyện của mình là một quyết định khó khăn, cân nhắc và can đảm. Dù kết quả cuộc điều trần này ra sao đi nữa, đời sống của bà Ford và gia đình bà từ nay trở đi sẽ không còn như trước nữa.
Ông Kavanaugh cũng thế. Chính ông cho biết trong 10 ngày qua từ khi công bố các cáo buộc của bà Ford cho đến khi được điều trần vấn đề này vào thứ Năm tuần trước, tên tuổi, uy tín và gia đình của ông bị thiệt hại nặng nề bởi những người cố tình muốn phá hoại ông và gia đình ông. Những hăm dọa hành hung, những điện thư đe dọa với vợ ông, sự tấn công đối với bạn bè ông v.v... Thực hư trong chuyện này thì chưa có kết luận, nhưng điều rõ ràng là không chỉ ông Kavanaugh mà vợ, hai con gái và những người thân của ông cũng bị tổn thương. Cung cách trình bày và trả lời của ông vào thứ Năm vừa qua, cũng như cử chỉ của vợ ông mặc dầu bà chỉ ngồi đó lắng nghe, cho thấy họ đã bị áp lực và ảnh hưởng sâu sắc. Những ngày điều trần trước đó, ông vẫn giữ được sự điềm tĩnh, tính cách cần thiết và quan trọng của một thẩm phán với hàng chục năm kinh nghiệm trong các tòa phúc thẩm, cho dầu có bao câu hỏi có vẻ hóc búa hay thù nghịch. Nhưng đến khi sự kiện bà Ford được đem ra mổ xẻ, nét mặt ông không dấu nỗi âu lo, có lúc ông tỏ vẻ giận dữ và đầy cảm xúc [2].
Điều nên nhớ là nếu chúng ta chỉ nghe, đọc hay thấy trên màn hình về các cuộc điều trần này thì khó thể nào hiểu được tâm trạng của người bị điều trần, trước bao áp lực lớn lao từ đủ mọi phía. Có trí tuệ, tâm lực hay kinh nghiệm thôi cũng chưa chắc đủ khi đối diện với những câu hỏi hóc búa hay các ngôn từ đầy thù nghịch. Trong bối cảnh chia rẽ chính trị và xã hội sâu sắc như hiện nay, một hiện tượng có lẽ phổ biến toàn cầu, người ta dễ dàng bị giao động mạnh, dễ dàng bị lôi cuốn vào các tiểu tiết chưa được kiểm chứng, dễ dàng đi đến kết luận và kết án, thay vì để cho các cơ quan chuyên ngành điều tra với nhiều bằng chứng xác đáng để đưa ra nhận định, kết luận hay đề nghị đúng đắn hơn. Dường như tính cách tự kỹ luật và tự kiềm chế trong quan hệ giữa con người với nhau bị soi mòn trầm trọng trong những thập niên qua, đặc biệt trong những năm gần đây.
Tôi nghĩ khó có ai còn được nguyên vẹn sau cuộc điều trần đầy như thế, nghĩa là không ít thì nhiều bị trầy da tróc vẫy.
Những kinh nghiệm đau thương mà một người từng trãi qua, những chấn thương tinh thần/tâm lý (trauma), như kinh nghiệm sống chết, chẳng hạn, của mình hay của người thân, sẽ khó thể nào phai nhòa trong trong tâm trí của người đó. Và không một ai trong chúng ta bị miễn nhiễm về chấn thương tâm lý này.
Những ai trong chúng ta được sinh trưởng trong một gia đình không bạo lực, không có bạo hành trong nhà, và không bị ngược đãi, dù là lời nói hay hành động, thì đó là điều vô cùng may mắn. Nhưng cho dù mái ấm gia đình có hoàn hảo đi nữa, chúng ta đều chịu ảnh hưởng của môi trường chung quanh, trong khi xã hội nào cũng lắm điều bất toàn. Trong mọi xã hội hiện nay, bạo lực vẫn còn hiện hữu khắp nơi, không ít thì nhiều, kể cả những xã hội văn minh, dân chủ và pháp trị hàng đầu. Các xã hội văn minh lại có những vấn đề khác của nó. Cho nên nếu may mắn không bị ảnh hưởng tiêu cực của gia đình, chưa chắc chúng ta sẽ không bị miễn nhiễm từ ảnh hưởng của xã hội, từ cách cư xử và ứng xử, kể cả bắt nạt (bullying), của thầy cô và bạn bè ở các lớp mầm non đến tiểu học và trung học. Lớn lên khi bắt đầu va chạm với cuộc sống, trưởng thành và có công ăn việc làm vững chãi, dù luật pháp, chính sách hay quy chế có bảo đảm trên giấy tờ đi nữa, sự bất công đối xử và sự bắt nạt tại sở làm không phải vì thế mà biến mất. Nếu không làm công khai, các thủ phạm này vẫn tìm cách làm kín đáo, vẫn đâm sâu lưng, vẫn sử dụng các ngôn từ thâm hiểm để đánh vào điểm yếu hay sự nhạy cảm của người khác. Những kẻ có uy quyền nhưng đầy thủ đoạn và trí trá như thế, tuy chỉ là thiểu số, nhưng chỉ cần tỷ lệ vài phần trăm, vài người trong một trăm người, cũng đủ làm cho chúng ta cảm thấy bất an.
Khi an toàn bị đe dọa, khi sự sợ hãi quá mạnh mẽ lấn áp mọi lý trí, khi các giá trị và nguyên tắc sống của mình bị đe dọa, và sống còn chỉ là sự chọn lựa duy nhất, các biến cố như thế gây chấn động lên tinh thần và để lại những vết thương lòng khó phai nhòa.
Các nhà tâm lý học nghiên cứu về đề tài chấn thương này nhiều thập niên, nếu không phải là cả thế kỷ, qua. Càng ngày khi các kiến thức và khám phá mới về khoa học thần kinh càng gia tăng, nó giúp cho chúng ta đến gần sự thật hơn để tìm hiểu về nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng sâu xa của chấn thương đối với sự phát triển và hoạt động của bộ não con người ; đặc biệt ký ức hay bộ nhớ của con người bị ảnh hưởng ra sao khi đối diện với các biến cố đầy đau thương đó.
Nạn nhân, hay chỉ là chứng nhân, của các thiên tai như động đất, cháy rừng, lũ lụt, bão tố, vân vân, hay nhân tai như chiến tranh, khủng bố, hiếp dâm, xâm phạm tình dục, bạo hành, tai nạn xe cộ, vân vân, sẽ trãi nghiệm các chấn thương này. Và chỉ có những người trãi qua chấn thương đó mới thật sự biết được cảm giác ra sao. Tùy theo từng loại chấn thương khác nhau, hậu quả có thể ở tầng cảm xúc, hành vi hay nhận thức, tức khả năng để suy nghĩ và quyết định, hoặc để lại hậu chứng thần lý (neurologic sequelae) [3]. Nghị lực, và khả năng phục hồi, của mỗi người cũng khác nhau, do đó phản ứng và đối phó cũng khác nhau. Có người vượt qua được và trở thành mạnh mẽ hơn. Có người không vượt qua được và phát triển chứng bệnh trầm cảm, chẳng hạn. Có người tìm cách quên nó đi bởi nó quá khủng khiếp trong tâm trí họ, nhưng thỉnh thoảng nó lại hiện về. Nỗi lo âu đó ám ảnh nhiều người cả cuộc đời. 10 phần trăm đàn bà và 4 phần trăm đàn ông bị chấn thương nặng sẽ phát triển thành tình trạng rối loạn tâm lý, hay từ chuyên môn là Rối loạn Căng thẳng Hậu Chấn thương (Post-Traumatic Stress Disorder, PTSD) trong đời mình [4].
Các nhà tâm lý và phái thiền học khuyên chúng ta là dù muốn quên cũng không quên được. Không những thế, nó có thể trở nên tệ hại hơn, trầm trọng hơn nếu cứ tránh né nó. Cách tốt nhất là đối diện trực tiếp với nó, dần dần sẽ khắc phục và vượt qua nỗi căng thẳng và sợ hãi này. Nhưng để làm được điều này, một trong các điều kiện căn bản là một môi trường an toàn trong đó người ta được điều trị bởi các nhà chuyên môn sử dụng các phương pháp khoa học được thử nghiệm là có hiệu quả. Ngoài ra mạng lưới hỗ trợ cho những người này, từ gia đình, bạn bè đến những người quan tâm là rất cần thiết để giúp người ta từng bước khắc phục.
Theo nghiên cứu thì những người từng bị chấn thương, nhất là các chấn thương nghiêm trọng, mất nhiều thời gian để khắc phục, và thường sống hay sống lại (relive) các biến cố, kinh nghiệm này nhiều lần trong cuộc đời. Họ rất dễ bị tổn thương mặc dầu trong thâm tâm họ không nghĩ hay không tin điều đó.
Qua sự kiện điều trần thẩm phán Brett Kavanaugh vào tối cao pháp viện, vấn đề nổi bật là liệu bà Christine Blasey Ford có nhớ đúng hay không, trong khi các nhân chứng khác mà bà nêu ra, có đến bốn người, xác định là họ không nhớ và không hồi tưởng lại (recall) sự kiện này. Như thế thì phải chăng sự kiện đó không xảy ra, hay bà nhớ lầm, hay vấn đề là thế nào ?
Từ ngàn xưa, đối diện với hiểm họa sống còn, từ các loài thú dữ cho đến thiên nhiên hiểm nghèo, và cũng từ chính giữa con người, như gia đình hay bộ lạc với nhau, con người tồn tại và phát triển được cho đến ngày nay phần chính là nhờ khả năng phát hiện được sớm các hiểm nguy từng phút từng giây của mình để đối phó.
Không chỉ từng giây, và không chỉ về mối nguy thôi. Theo nghiên cứu của tiến sĩ Evian Gordon, nhà nghiên cứu nổi tiếng về khoa học thần kinh, bộ óc của chúng ta dò xét môi trường để nhận diện mối nguy và phần thưởng năm lần trong một giây. Nguyên tắc tổ chức chính của bộ não con người là giảm thiểu mối nguy và tối đa phần thưởng, và điều này xảy ra một cách tiềm thức và cực nhanh [5].
Khi con người bị chấn thương nặng, như rối loạn thần kinh/PTSD (posttraumatic stress disorder), chẳng hạn, gây nên bởi thiên tai hay nhân tai, hai vùng chính của bộ óc con người bị rối loạn chức năng, bao gồm : Amygdala và Prefrontal Cortex (PFC) [6]. Theo tiến sĩ Melanie Greenberg thì Amygdala bình thường có chức năng phát hiện mối nguy trong môi trường và kích hoạt phản ứng "chiến đấu" hay "bỏ chạy" (có khi không quyết định dứt khoát, nó cũng kích hoạt phản ứng đông cứng ; tóm lại là fight, flight or freeze). Nó điều khiển cả hệ thống thần kinh giao cảm giúp cho chúng ta chống chọi với mối đe dọa. Và nó cũng giúp cho chúng ta lưu trữ các ký ức tình cảm hay liên hệ đến mối đe dọa mới. Còn PFC thì được thiết kế để điều chỉnh sự chú ý và ý thức, quyết định phản ứng nào tốt nhất thích hợp nhất cho hoàn cảnh, đề xuất hành vi ý thức tự nguyện, điều nghiên ý nghĩa và tầm quan trọng của cảm xúc đối với các sự kiện, điều chỉnh các cảm xúc, và ngăn cấm hay chỉnh đốn các phản ứng rối loạn. Tóm lại, PFC là phần lý trí, suy nghĩ của bộ óc, biết cân nhắc và lý giải trước khi quyết định chứ không làm theo quán tính.
Khi phát hiện mối nguy, amygdala đề xuất một phản ứng phòng thủ rất nhanh và rất tự động, trong khi đó trung phần của PFC nhận xét mối nguy một cách rõ ràng để tăng cường hay để trấn tỉnh phản ứng chiến đấu hay bỏ chạy.
Đối với những người từng bị chấn thương nặng như dạng PTSD, theo tiến sĩ Melanie Greenberg, các nghiên cứu cho biết amygdala của họ phản ứng quá mạnh đối với mối đe dọa có thể có (hyper-reactive/hyperactive to potential threat) trong khi đó trung phần của PFC thì bị suy yếu về khả năng điều chỉnh phản ứng đối với mối nguy, và có khó khăn trong việc giảm bớt lo âu và tức giận.
Trong sự kiện thẩm phán Brett Kavanaugh và tiến sĩ Blasey Ford, bà rõ ràng không bị PTSD, nhưng biến cố như bị tấn công tình dục, và tưởng chừng bị giết chết, như bà kể chi tiết trong bài tường trình của mình, nếu có xảy ra, thì khó thể nào quên được, dù cách đây 35 năm. Bà cho biết có bốn nhân vật có mặt ở đó : Brett Kavanaugh, Mark Judge, một nam nhi tên P.J., và một nam nhi khác bà không nhớ tên. Bà nhớ có bạn bà tên Leland cũng tham dự. Tuy nhiên theo Kavanaugh thì cả bốn người được cáo buộc là có mặt ở đó đều cho rằng chuyện đó không xảy ra [7]. Theo tờ New York Times thì chỉ có Kavanaugh là phủ nhận chuyện đó không xảy ra, còn ba người Mark Judge, Leland Keyser và Patrick J. Smith, qua các lời công khai của họ, chỉ nói rằng họ không có nhớ về chuyện này.
Không nhớ không có nghĩa là không xảy ra.
Theo tiến sĩ Ira Hyman, có vài điều cần biết về ký ức (memory) của con người [8]. Thứ nhất, các ký ức đau buồn không thể xóa nhòa được. Chấn thương có những hậu quả quan trọng đối với ký ức. Khi bị kích động cảm xúc mạnh mẽ, người ta trở nên tập trung hạn hẹp, giúp cho họ nhớ những nét chính của sự kiện, ngược lại họ không chú ý bao nhiêu đến các chi tiết ngoài biên. Cho nên theo Hyman thì bà Blasey Ford có thể không nhớ về các khía cạnh khác của sự kiện, như là buổi tiệc diễn ra ở đâu, thời gian và những người tham dự là ai, nhất là khi nó đã mấy chục năm về trước, nhưng bà vẫn sẽ nhớ sự kiện này và thủ phạm là ai. Thứ hai, sự nhận diện sai và ký ức sai khó xảy ra trong trường hợp này. Nghiên cứu cho biết các vụ nhận diện sai thường liên quan đến người lạ, trong khi ký ức sai đòi hỏi sự trình bày các thông tin hoặc đề nghị có tính cách lường gạt, gây hiểu lầm. Tuy nhiên, bà Blasey Ford cho hay bà biết Kavanaugh và Judge trước buổi tiệc đó, nên bà có thể nhận diện họ dễ dàng ở buổi tiệc, sau tiệc, và trong suốt biến cố đó. Thứ ba, bà Blasey Ford có thể có mâu thuẫn trong ký ức, bởi không có ký ức nào hoàn hảo cả, và bộ nhớ của con người không phải là máy quay phim. Thứ tư, chúng ta không thể mong đợi những người khác tại buổi tiệc này nhớ về sự kiện này. Đối với họ, nếu không có biến cố đáng kể nào để họ nhớ về buổi tiệc thì sau năm tháng, nhất là sau 35 năm, nó sẽ đi vào quên lãng, không có gì đáng nhớ cả.
Kavanaugh phủ nhận hành động này. Hyman biện luận rằng có thể nó không xảy ra, có thể ông Kavanaugh thành thật, và cũng có thể ông không còn nhớ sự kiện này trong lúc đã uống quá say, tuy không phải là lý do để biện minh.
Tiến sĩ Jim Hopper, một chuyên gia về chấn thương tâm lý, kể cả các vụ tấn công tình dục và ký ức đau thương, phân tích chi tiết cách bộ óc con người ghi nhớ các sự kiện như thế nào. Hopper đã dành 25 năm nghiên cứu về lĩnh vực này [9]. Ông đã từng huấn luyện các sĩ quan cảnh sát quân sự và dân sự, các công tố viên và các chuyên gia khác, bao gồm cả các cấp chỉ huy tại Fort Leavenworth và Lầu Năm Góc, và dạy cho các bác sĩ tâm thần đang thực tập tại Trường Y Harvard. Theo Hopper thì những người lính và cảnh sát biết rằng các ký ức đau thương thường có nhiều gián đoạn lớn. Họ cũng biết thật là khó khăn hoặc bất khả để hồi tưởng thứ tự của sự việc xảy ra. Đây là sự thật, chứ không phải lý thuyết hay giả thuyết, đối với những người bảo vệ quốc gia này và hàng triệu nạn nhân sống sót sau các vụ xâm phạm tình dục.
Hopper cho biết các nhà nghiên cứu chia tiến trình ghi nhớ của bộ óc thành ba đoạn : mã hóa, lưu trữ và thu hồi.
Mã hóa đề cập đến việc đăng ký tạm thời các cảm giác và suy nghĩ vào bộ nhớ ngắn hạn, có thể duy trì thông tin trong vòng 30 giây. Đối với mọi biến cố mà chúng ta từng trãi, trong từng khoảnh khắc, những gì bộ óc của chúng ta mã hóa là một chức vụ của những gì chúng ta quan tâm để ý đến, cũng như những gì có tầm quan trọng cảm xúc đối với chúng ta. Đây gọi là những chi tiết trọng yếu (central details). Còn những chi tiết khác, không quan trọng đối với chúng ta vào lúc đó, gọi là chi tiết ngoài biên (peripheral details). Khi một sự kiện xảy ra đối với một người, bộ não của họ tập trung vào sự sống còn, những chi tiết quan trọng đối với bộ óc của người đó vào lúc đó, không phải các khía cạnh mà người điều tra sự việc tin rằng họ lẽ ra phải nhớ. Khi một người không nhớ các chi tiết ngoài biên, điều đó không nói lên điều gì cả về sự khả tín của họ.
Lưu trữ là bước tiếp theo. Lưu trữ các chi tiết trọng yếu là mạnh mẽ hơn các chi tiết ngoài biên. Các chi tiết ngoài biên sẽ tan mau nếu không được nhớ lại hay mã hóa lại, phần lớn trong vòng một ngày. Điều mà ai cũng biết là những gì chúng ta tập trung để ý đến và mang tầm quan trọng đối với chúng ta thì chúng ta dễ nhớ hơn qua thời gian. Ngay cả khi chúng ta ngủ, bộ óc của chúng ta vẫn tiếp tục làm công việc sàn lọc các chi tiết được lưu trữ và ưu tiên việc tiếp tục lưu trữ một số chi tiết trọng yếu này, không phải tất cả. Vì thế nên tất cả các ký ức thường rời rạc và không toàn bộ. Vì thế nên tất cả ký ức đều thiếu chi tiết mà đã được mã hóa lúc ban đầu, ngay cả các chi tiết mà đã được lưu trữ một thời gian sau đó.
Hopper nhấn mạnh một điều khác cũng cần nên biết mà ảnh hưởng đến sức mạnh lưu trữ : Tầm quan trọng cảm xúc của chi tiết đó mang tính tích cực hay tiêu cực. Tiến hóa đã chọn duy trì bộ óc thiên vị khi mã hóa những gì tiêu cực hơn để giúp chúng ta tồn tại trong một thế giới có nhiều kẻ thù và các nguy hiểm nghiêm trọng khác. Nói cách khác, những gì bi quan tiêu cực dễ được ghi nhớ hơn lạc quan tích cực. Quan trọng hơn hết, những gì còn lưu trữ trong bộ óc của chúng ta là tùy thuộc vào phản ứng của chúng ta : khiếp sợ, lo lắng hay kích hoạt cảm xúc vào lúc đó. Các nghiên cứu hàng thập niên qua cho biết lo lắng và tổn thương làm gia tăng sự lưu trữ đặc biệt của các chi tiết trọng yếu đối với ngoài biên. Do đó có những chi tiết, như nhìn thấy khuôn mặt của kẻ thù khi viên đạn bay xuyên vào lồng ngực của họ, sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí nhớ của mình.
Ký ức, dù trọng yếu, cũng phai dần nếu không được thu hồi hay tái mã hóa. Những ký ức có vẻ đầy chi tiết trước đây qua thời gian trở nên trừu tượng hơn. Có thể chúng ta nhớ điểm chính của câu chuyện và một vài chi tiết trọng yếu. Việc thu hồi ký ức, như khi chúng ta nhớ hay kể lại câu chuyện, thì bộ óc của chúng ta tìm cách sắp xếp các mảnh rời lại với nhau một cách nhanh chóng.
Tuy nhiên, theo Hopper thì các ký ức của những trải nghiệm đầy căng thẳng và đau thương, nhất là các chi tiết trọng yếu, không phai theo thời gian. Có người kể lại các chấn thương đau đớn nhất trong đời họ, nghe tưởng chừng như các câu chuyện trừu tượng hời hợt, trong đó nhiều chi tiết có vẻ bị thất thoát. Lý do : Thường là vì họ không muốn nhớ nó, và chưa cảm thấy an toàn để nhớ nó. Có người bị dầy vò đau đớn cố gắng tránh nó, có lúc thành công có lúc không, trong nhiều năm hay nhiều thập kỷ.
Theo hai nhà nghiên cứu về lĩnh vực này, tiến sĩ Hyman và Hopper, nói trên, thì ký ức là lĩnh vực vô cùng phức tạp, nhưng trong câu chuyện này, bà Blasey Ford có vẻ khả tín.
Tuy thế, chúng ta cần phải chờ xem cuộc điều tra của FBI sẽ kết luận ra sao trong vài ngày tới. Các chuyên viên FBI có tay nghề và kinh nghiệm cao được huấn luyện và trang bị cho các tình huống khó khăn. Như cựu giám đốc FBI James Comey chia sẻ, mặc dầu chỉ có một tuần để điều tra và mặc dầu họ sẽ không tự kết luận, mà chỉ tóm tắc trình bày của mọi nhân chứng trong một bản báo cáo có tên/số 302, và tổng hợp tất cả các phỏng vấn này trong một tóm tắt điều hành (executive summary) cho Nhà Trắng, các chuyên viên FBI sẵn sàng đối với trách nhiệm này và sẽ tìm sự thật, nói thật với quyền lực [10].
Sau cùng, hiểu về chấn thương và ký ức trong chuyện này sẽ giúp cho chúng ta, dù là một công dân bình thường, hay là một chuyên viên điều tra vụ án thuộc FBI, hay là một thượng nghị sĩ nằm hay không nằm trong Ủy ban Tư pháp Thượng viện, nắm bắt cách ghi nhớ sự kiện của bộ óc con người và cách mỗi người đối phó ra sao khi đối diện với hiểm nguy. Nó cũng giúp cho chúng ta hiểu biết và cảm thông hơn đối với các nạn nhân của mọi vụ bạo hành, hay những người còn sống sốt sau các biến cố đau thương. Những người đã bị chấn thương nặng hay bị các cú sốc nặng thì bộ óc của họ đã không còn như trước, đã bị tổn thương và hư hại ít nhiều. Điều này cũng giúp cho chúng ta cảm thông và thương kính đối với những người lính Việt Nam Cộng Hòa, có người đã chiến đấu trên 20 năm rồi sau đó cũng có người đã bị tù đầy có khi 10 đến 15 năm, bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần không bút mực nào tả xiết. Những kiến thức này cũng giúp cho chính người Việt Nam hiểu rõ hơn những nguy hại và cản trở lớn lao trong việc phát triển quốc gia nếu đất nước tiếp tục bị cai trị bởi các chế độ chuyên sử dụng bạo lực, dối trá và ảo tưởng.
Phạm Phú Khải
(Úc Châu, 02/10/2018)
Tài liệu tham khảo :
1. Lauren Gambino, "Christine Blasey Ford offers powerful testimony in the #MeToo era ", The Guardian, 28 September 2018.
2. Vì thế mà người ta đã nêu ra những câu hỏi về tinh thần trung lập của ông, tính cách ứng xử, và qua đó nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Tòa án Tối cao mà uy tín hiện đang thử thách rằng liệu định chế này, cái mà trước nay luôn tận tụy với pháp luật chứ không phải với chính trị, có bị đe dọa không nếu ông được thượng viện phê chuẩn. Xin đọc thêm bình luận của Adam Liptak, "A Bitter Nominee, Questions of Neutrality, and a Damaged Supreme Court ", The New York Times, 28 September 2018.
3. Ana Nogales, "Trauma ", Psychology Today, 19 February 2014.
4. Melanie Greenberg, "How PTSD and Trauma Affect Your Brain Functioning ", Psychology Today, 29 September 2018.
5. Kristen Hansen, "Traction", Published by Kristen Hansen, October 2017. Có thể tìm hiểu thêm từ cuốn sách của Evian Gordon, "Integrative Neuroscience", Harwood Academic Publishers, 2000.
6. Melanie Greenberg, "How PTSD and Trauma Affect Your Brain Functioning", Psychology Today, 29 September 2018. Nạn nhân, hay chỉ là chứng nhân, của các thiên tai như động đất, cháy rừng, lũ lụt, bão tố, vân vân, hay nhân tai như chiến tranh, khủng bố, hiếp dâm, xâm phạm tình dục, bạo hành, tai nạn xe cộ, vân vân, sẽ trãi nghiệm các chấn thương này. Tùy theo từng loại chấn thương khác nhau, hậu quả có thể ở tầng cảm xúc, hành vi hay nhận thức, tức khả năng để suy nghĩ và quyết định, hoặc để lại hậu chứng thần lý (neurologic sequelae). Xin đọc thêm Ana Nogales, "Trauma", Psychology Today, 19 February 2014.
7. Karen Yourish and Troy Griggs, "Brett Kavanaugh Testimony : Three Inconsistencies the F.B.I. Investigation Could Address", the New York Times, 28 September 2018.
8. Ira Hyman, "A Supreme Court Nominee, A Sexual Assault, and Memory", Psychology Today, 24 September 2018.
9. Jim Hopper, "Traumatic Memories : Tools to Evaluate the Senate Testimony", Psychology Today, 28 September 2018.
10. James Comey, "The F.B.I. Can Do This", the New York Times, 30 September 2018.
Trong bài viết về nền dân chủ tại Úc vừa rồi, tôi có trình bày rằng Rupert Murdoch là một trong những người ảnh hưởng mạnh mẽ lên Liên Đảng, nhất là Đảng Cấp tiến, hiện nay. Ảnh hưởng của Murdoch đối với Đảng Lao động là không đáng kể bởi khác quan điểm, mặc dầu tất nhiên trong mọi cuộc bầu cử, ảnh hưởng truyền thông do Murdoch nắm tại Úc là không hề nhỏ.
"I Voted", tôi đã bỏ phiếu bầu ! Hình minh họa.
Theo Ủy hội Bầu cử Úc, vào thời điểm 30 tháng 6 năm 2018, trong dân số 25 triệu người thì có 16.136.122 người đã ghi danh đi bầu, 628.547 người khác, vì nhiều lý do khác nhau, bị "thất lạc" từ sổ bầu [1]. Số cử tri vào cuộc bầu cử năm 2016 không chênh lệch số này bao nhiêu. Cho nên qua sự kiện "đảo chánh" Thủ tướng Malcolm Turnbull ngày 24 tháng 8 vừa qua, tính ra tiếng nói của Rupert Murdoch (như Turnbull phải ra đi), hay của Kerry Stokes, quyết định hơn cả hàng triệu cử tri Úc.
Ảnh hưởng của Murdoch tại Hoa Kỳ qua các hệ thống truyền thông Fox News, hay các nhánh truyền thông của News Corp, cũng rất lớn lao.
Ngoài Murdoch thì cũng có nhiều người khác, nhưng quan trọng nhất là anh em nhà họ Koch, nhất là hai anh em Charles Koch và David Koch. Từ một gia nghiệp của người cha để lại vào cuối thập niên 1960, trị giá 250 triệu đô la thu nhập từ bán hàng và có 650 nhân viên làm việc, Charles và David Koch đã phát triển thành một công ty với 115 tỷ thu nhập, hơn 100 ngàn nhân viên và hiện diện trên 60 quốc gia [2]. Hai ông là người theo xu hướng cực hữu của trường phái cấp tiến, cổ võ cho chủ nghĩa cá nhân cực đoan và vai trò của chính phủ càng nhỏ càng tốt, nghĩa là ít can thiệp nhất vào mọi mặt đời sống của người dân (libertarianism). Trong các cuộc bầu cử trước đây, đặc biệt năm 2008, 2012 và 2016, hai ông đã đổ vào hàng triệu đô la với mục đích chuyển hóa địa hình chính trị của Hoa Kỳ và muốn tạo ảnh hưởng xu hướng tự do cực hữu của mình. Không giống như những người ủng hộ các hoạt động chính trị khác, chủ yếu là tài chánh, hai ông còn giúp cho họ cái nhìn chiến lược. Hai ông còn tài trợ cho giới học thuật, các cơ quan nghiên cứu, và các tổ chức chính trị để huy động công chúng ủng hộ các mục tiêu của mình. Tea Party là một trong các tổ chức đó sau khi tổng thống Barack Obama lên nắm quyền năm 2008. Theo Daniel Schulman thì Tea Party đã trở thành một lực lượng chính trị đáng kể trong Đảng Cộng hoà, làm tê liệt quốc hội và gây phân hóa trầm trọng trong đảng này.
Đầu năm nay, hai anh em họ Koch đã thu hút được thêm 550 thành viên giàu có với cùng xu hướng đến dự hội nghị tại California [3]. Họ chủ trương gia tăng ảnh hưởng sâu rộng lên nền giáo dục như sinh viên, nghiên cứu viên tại 350 trường đại học, và hệ thống công lý hình sự, như các nhà tù. Ngân sách dự chi tổng cộng là 400 triệu đô la, bao gồm các dự án, chính sách, chính trị và hỗ trợ cho cả các tổ chức phi lợi nhuận. Chắc chắn các chủ trương và hoạt động này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng lên tận gốc, lên cơ sở hoạt động công chúng khắp nơi.
Báo Washington Post phân tích rằng cách làm của gia đình nhà Koch hay những tài phiệt cực giàu ủng hộ Đảng Cộng hòa tuy không phô trương nhưng rất hiệu quả, hơn hẳn cách của các tài phiệt Hoa Kỳ ủng hộ cho Đảng Dân chủ nhiều [4]. Họ đã ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc lên ngành truyền thông, nhất là các quảng cáo trên truyền hình và truyền thông đa dạng, cũng như hỗ trợ tài chánh cho bao nhiêu tổ chức chính trị và xã hội có cùng quan điểm cực hữu với mình. Có phải một nhóm nhỏ cực giàu như gia đình Charles và David Koch, những người mà đã dành rất nhiều thời gian và tiền bạc, muốn xây dựng một thực tế khác ?
Hậu quả là một nước Mỹ, sau bao nhiêu năm như thế, trở nên vô cùng chia rẽ và gian nan để hợp tác và hòa giải. Nếu cuộc thăm dò ý kiến năm 1960 cho biết 5 phần trăm người theo Đảng Cộng hòa và 4 phần trăm theo Đảng Dân chủ nghĩ rằng họ sẽ buồn phiền nếu con họ cưới người thuộc đảng kia, thì đến năm 2010, tỷ lệ này gia tăng lên 49 phần trăm cho Cộng hòa và 33 phần trăm cho Dân chủ [5].
Đây là một hệ quả rất đáng quan ngại cho mọi nền dân chủ. Thành kiến trong nhận thức (cognitive biases), do ảnh hưởng của truyền thông, là rất sâu sắc. Khi truyền thông tập trung vào một chủ đề hay một chiều hướng suy nghĩ nào đó quá nhiều thì sẽ làm cho chúng ta khó thấy được toàn cảnh [6]. Qua thời gian, phần lớn người ta chọn nghe các chương trình truyền thông có nội dung cùng quan điểm và suy nghĩ với mình hơn là theo dõi những gì khác với điều mình muốn nghe hay muốn tin. Và mưa dầm thấm đất ! Nếu cứ nghe ra rả ngày này qua tháng nọ thì các góc nhìn vấn đề, tuy chỉ là một phần/nửa sự thật, sẽ trở thành sự thật hoàn toàn trong đầu óc người ta.
Phải chăng nền dân chủ khắp nơi, ngay cả những nền dân chủ cấp tiến hàng đầu như Hoa Kỳ và Úc, đã suy thoái trầm trọng đến độ một thiểu số tài phiệt như Murdoch hay anh em Koch đã nắm quyền quyết định số phận lãnh đạo quốc gia, điều mà lẽ ra phải trực thuộc người dân qua từng lá phiếu của mỗi công dân ?
Trong cuộc phỏng vấn của Oprah Winfrey với cựu tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter cách đây ba năm, ông cho rằng "Chúng ta nay đã trở thành một thiểu số tài phiệt cai trị (oligarchy) chứ không phải dân chủ. Và tôi nghĩ đó là sự phá hoại tồi tệ nhất đối với các tiêu chuẩn luân lý và đạo đức căn bản của hệ thống chính trị Hoa Kỳ mà tôi đã nhìn thấy trong cuộc đời của mình" [7].
Tuy là ngôn ngữ khá mạnh để diễn tả bối cảnh chính trị của Hoa Kỳ ngày hôm nay, điều không thể phủ nhận là người dân ngày càng bất mãn với nền dân chủ hiện tại. Trong khi đó một thiểu số cực kỳ giàu có và ảnh hưởng như Murdoch hay Koch tiếp tục tìm mọi cách tác động lên tiến trình chính trị tại các quốc gia mà họ mong muốn bảo vệ quyền lực/lợi và tài sản của họ. Hình thức vẫn là dân chủ, nhưng người dân thật sự có còn làm chủ không ? Do đó những người quan tâm và yêu chuộng dân chủ cần phải nhận thức được điều này nếu muốn bảo vệ các quyền chính trị và tự do căn bản của mình. Các thay đổi tiệm tiến rất khó nhận ra, nếu không quan tâm, cho đến khi không thể đảo ngược.
Phạm Phú Khải
(Úc Châu, viết xong ngày 25/09/2018)
Nguồn : VOA, 27/09/2018
Tài liệu tham khảo :
1. "Enrolment statistics ", Australian Electoral Commission, 2018 ; Accessed on 25 September 2018. Tổng cộng lại thì có 16.764.669 cử tri có quyền bầu cử, tức đã là công dân từ 18 tuổi trở lên.
2. Daniel Schulman, "Sons of Wichita", Grand Central Publishing, 2014.
3. Philip Elliot, "The Koch Brothers Plan to Spend a Record-Setting $400 Million ", The Time, 28 January 2018.
4. Reid Wilson, "Why there’s no Democratic version of the Koch brothers organization ", The Washington Post, 7 February 2014.
5. Hillary Rodham Clinton, "American Democracy Is in Crisis ", The Atlantic, 16 September 2018. Bài viết này cũng là lời kết của cuốn sách của bà Clinton vừa mới xuất bản tuần qua có tên "Chuyện gì xảy ra" (What Happened).
6. Renee Garfinkl, "Deadly Cognitive Biases ", Psychology Today, 10 August 2014.
7. Oprah Winfrey, "Jimmy Carter on Whether He Could Be President Today ", Oprah’s Supersoul Conversations, Season 7 Episode 620, 27 September 2015.
Ở nhiều quốc gia, nhiệm kỳ lãnh đạo chính quyền thường là bốn năm, có nơi cũng có năm, sáu hoặc bảy năm. Với Úc, nó chỉ là ba năm. Mà không phải ba năm đầy. Thủ tướng cầm quyền có thể kêu gọi bầu cử lại bất cứ lúc nào, miễn không quá thời hạn ba năm kể từ ngày quốc hội mở khóa họp đầu tiên cho kỳ bầu cử khóa trước.
Thủ tướng Morrison, người vừa mới lên nắm quyền ngày 24/08/2018
Mỗi ba, hay chưa đầy ba, năm bầu lại chính quyền, người dân Úc có dịp bầu lại lãnh đạo chính trị quốc gia. Tưởng là người lãnh đạo đó sẽ tiếp tục trong cương vị này, ít nhất là cho đến kỳ bầu cử tới, ngoại trừ bị chết yểu, bị mất tích, bị ám sát, hay vì lý do nào đó, như từ nhiệm. Phần lớn lịch sử chính trị Úc từ trước đến nay là thế. Nhưng gần đây lại khác. Trong mắt người dân thì chẳng có lý do chính đáng nào để lãnh đạo chính trị phải thay đổi liên tục. Thế mà trong 11 năm qua, tức chưa đầy bốn kỳ bầu cử, tổng cộng lại chưa bằng thời gian John Howard làm thủ tướng bốn nhiệm kỳ trước đó, đã có tổng cộng bảy lần thay đổi thủ tướng Úc [1].
Rất có thể từ đây đến ngày 18 tháng 5 năm 2019, tức thời điểm phải bầu cử chung cho toàn hạ viện lẫn một nửa thượng viện, Thủ tướng Morrison, người vừa mới lên nắm quyền vào ngày 24 tháng 8 vừa qua, cũng có khả năng bị chính người khác trong đảng thay thế, hoặc bị Bill Shorten thắng cử trong kỳ bầu cử tiếp. Nếu thế thì càng nâng thêm kỷ lục là trong vòng 12 năm thay thế đến tám thủ tướng Úc. Trước đây có một thời nước Nhật cũng thay đổi thủ tướng liên miên, nhưng nay đã tạm ổn định, hay ít ra là không bằng Úc. Phóng viên Nick Bryant của BBC gọi Úc là "thủ đô đảo chánh của thế giới dân chủ" [2].
Người dân, không nhiều thì ít, ở mọi xã hội, đều muốn có cơ hội thay đổi lãnh đạo chính trị quốc gia, nhất là khi lãnh đạo đó đang có vấn đề về tài năng điều hành, đường hướng hay chính sách, chẳng hạn. Nhưng khi lãnh đạo đó không có vẻ gì là có vấn đề và chưa hết nhiệm kỳ thì họ không cảm thấy có lý do chính đáng nào để thay thế. Tuy nhiên, trong cơ chế chính trị Úc, một chế độ đại nghị (parliamentalism), thì đảng hay liên đảng nào chiếm đa số ghế hạ viện 150 ghế, tức từ 76 ghế trở lên, đều có thể thành lập chính quyền (về mặt này thì hành pháp và lập pháp không hoàn toàn độc lập như tổng thống chế (presidentialism), như Hoa Kỳ, chẳng hạn). Đảng hay liên đảng lập chính quyền đó có thể duy trì người thủ lãnh và phó thủ lãnh ban đầu (tức lúc bầu cử), hoặc thay đổi bất cứ lúc nào, nếu họ xét thấy thích hợp. Người thủ lãnh sẽ đảm nhiệm vai trò thủ tướng và tuyển chọn thành viên nội các chính phủ và bộ trưởng các bộ còn lại.
Tóm lại, đối với nền đại nghị của Úc, mặc dầu người dân có thể gián tiếp bầu chọn lãnh đạo chính trị, các thành viên chọn lọc của đảng, gồm những vị dân cử của cả hạ viện lẫn thượng viện (Caucus), có quyền quyết định thay đổi lãnh đạo của mình.
Tuy đây là điều bình thường trước đây, nhưng khi các dân cử làm trái ngược nguyện vọng của người dân, thì đó là điều làm cho họ ngày càng bức xúc và bất mãn. Nhất là khi phần lớn các lý do thay đổi này dựa vào các cuộc thăm dò ý kiến của công chúng trong đó phỏng đoán chính quyền hiện tại có thể tồn tại trong kỳ bầu cử tới không, và nếu không thì bao nhiêu ghế có xác xuất bị mất v.v…
Nhưng tại sao nền chính trị Úc ở trong tình trạng như thế trong vòng 11 năm qua mà hiếm khi xảy ra trước đây ?
Theo Kevin Rudd thì sự khủng hoảng dân chủ tại Úc là do một số nguyên nhân [3].
Một, tính cách chính trị đầy kịch tích của thay đổi khí hậu đã làm phân hóa quốc gia hơn một thập niên qua, nhưng Úc lại thiếu sự trưởng thành chính trị quốc gia để đối phó với nó, trong khi đây là lục địa khô khan nhất trên địa cầu hiện nay. Hai, sự coi trọng (hay thờ phượng) quá đáng đối với các cuộc thăm dò ý kiến, làm cho các tầng lớp chính trị không ngừng lo sợ bị mất ghế nếu thật sự hành động lên các chính sách mang tính dài hạn. Ba, cái văn hóa trẻ con của phần lớn thế hệ chính trị gia con nít "Đảng viên trẻ Lao động/Tự do" (Young Labor/Young Liberal), thành phần chưa bao giờ làm gì khác ngoài chính trị trong thời sinh viên của họ, chỉ nhìn thấy chính trị như trò chơi để đối sử tồi tệ với người khác. Bốn, sự thuận tiện thay đổi/đảo chánh lãnh đạo, dưới quy luật của hai chính đảng hiện nay, dễ như trở bàn tay (qua sự kiện chính ông Rudd bị truất phế năm 2010 thì sau đó lúc trở lại ông đã tu chính quy định này cho Đảng Lao động vào năm 2013, nhưng Đảng Cấp tiến thì chưa đổi). Năm, mẫu người như Tony Abbot, người mà Rudd cho là không hề quan tâm đến chính sách, không hề khởi xướng hay thi hành một chính sách nào đáng kể, mà chỉ quan tâm đến thắng lợi bằng mọi giá, đã ảnh hưởng không ít tiêu cực lên nền chính trị quốc gia trong thời gian qua.
Nhưng trên hết, Rudd biện luận nguyên do chính là ảnh hưởng của Rupert Murdoch, mà ông cho là "ung thư lớn nhất đối với nền dân chủ Úc" (the greatest cancer on the Australian democracy). Rudd cho rằng Murdoch không chỉ là cơ quan thông tin bình thường, mà hoạt động và tổ chức như một đảng chính trị ; không chỉ theo đuổi các quyền lợi thương mại được vạch ra rõ ràng, mà ông còn có cái nhìn về thế giới mang ý thức hệ cực hữu. Các kênh truyền thông của Murdoch, như các báo chí của ông tại Anh, đã ảnh hưởng đến kết quả của Brexit tại Anh, còn Fox News đã giúp cho Tea Party và Trump ảnh hưởng lên Đảng Cộng hòa tại Hoa Kỳ ; tại Úc cũng như Hoa Kỳ, Murdoch đã vận động hàng thập niên qua ủng hộ việc giảm thuế cho người giàu, giết chết các hành động về thay đổi khí hậu, và thủ tiêu tất cả những gì gần giống chủ nghĩa đa văn hóa. Murdoch đã chiếm hai phần ba thị trường báo chí tại Úc, điều mà Rudd cho là không có nền dân chủ nào gần như độc quyền truyền thông một cách hiệu quả giống như Murdoch.
Rudd chia sẻ chính ông biết cả hàng tá chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, ký giả và học giả, cả tả lẫn hữu, đều rất sợ để đối diện với Murdoch vì các đòn trả thù đối với cá nhân họ. Riêng trong trường hợp của mình thì Rudd cho biết trong thời ông làm thủ tướng, Murdoch không thích các chiến sách kích thích kinh tế, ghét bỏ chiến lược thay đổi khí hậu, và tìm mọi cách để triệt tiêu hệ thống NBN mang dây cáp quang đến nhà (fiber-optic to the home) vì lo sợ rằng như thế sẽ giúp cho Netflix trở thành đối thủ của Foxtel, ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty của mình.
Riêng trong trường hợp của Turnbull thì được biết Murdoch đã quyết định Turnbull phải ra đi. Theo phóng viên Andrew Probyn, người đã từng làm việc tám năm cho News Corp của Murdoch, thì Murdoch đã đến Úc ngày 10 tháng 8, ngày 20 vẫn còn ở Úc, tức trong cái tuần mà Peter Dutton thách thức Malcolm Turnbull và sau đó "đảo chánh" thành công, mặc dầu kết quả không thuận lợi cho Dutton [4]. Theo các nguồn tin mà Probyn thu thập được thì Murdoch rõ ràng bày tỏ ý kiến của mình là "Turnbull phải ra đi". Murdoch cho rằng nếu việc ra đi của Turnbull có làm cho Liên Đảng thất cử sắp tới, thì cũng chẳng sao cả, không đến nỗi tệ hại lắm, vì ông có thể tồn tại ba năm với một chính quyền Lao động, và ông vẫn có thể "làm ra tiền" được. Tờ báo The Australian của Murdoch (News Corp) vẫn tiếp tục đưa các thông tin và bình luận bất lợi cho Turnbull cho đến ngày thứ Sáu 24 tháng 8 khi cuộc "đảo chánh" đã hoàn tất. Trong khi đó, Kerry Stokes, một doanh nhân, tỷ phú, người sở hữu khá nhiều cơ quan truyền thông tại Úc, và là người khá thân cận với Turnbull, lại không hề muốn ông Turnbull bị truất phế như thế. Nhưng sau khi trao đổi với Murdoch, và khi nhận ra rằng ván cờ không thể đảo ngược nữa, cuối cùng trên tờ báo The West Australian mà ông sở hữu, đã chọn quyết định yểm trợ cho Scott Morrison bằng tít lớn : "Thủ tướng nên đứng sang một bên cho ScoMo (tức Scott Morrison)" [5].
Tóm lại, sự thay đổi lãnh đạo chính trị ngoạn mục tại Úc vừa qua đã quá sức tưởng tượng của nhiều người. Bốn cuộc "đảo chánh" thành công trong 11 năm qua, nhất là cuối tháng Tám vừa rồi, đã làm cho nhiều người bất bình, nếu không phải là phẫn nộ. Nhưng tôi cho rằng nguồn gốc vấn đề này bắt đầu từ cuối thời của John Howard, năm 2006, 2007. Người dân đã mong muốn thay đổi chính quyền sau bốn nhiệm kỳ, và bày tỏ rõ ràng như thế qua nhiều cuộc thăm dò ý kiến. Peter Costello, Bộ trưởng Tài chánh (Treasurer) lúc đó, mong muốn Howard nhường quyền lãnh đạo lại cho mình nhưng Howard chưa sẵn sàng. Kết quả là liên danh Kevin Rudd và Julia Gillard đã thắng vẻ vang, và chính ghế của Howard cũng không giữ nỗi, bị mất về tay cô phóng viên Maxine McKew thuộc Đảng Lao động. Có lẽ đây là một trong các bài học quan trọng nhất của cả hai đảng Cấp tiến và Lao động trong việc chủ động thay đổi nhân sự lãnh đạo khi các cuộc thăm dò ý kiến bất lợi về mình để, một, có khả năng xoay chuyển tình thế để biến thua thành thắng, và hai, nếu thua, thì cũng giảm thiểu số ghế bị mất. Nó trở thành một tiền lệ, hay chuẩn mực, cho nền chính trị Úc kể từ đó.
Với bài học này, các chính trị gia đã áp dụng triệt để tình hình thực tế khi đến gần kỳ bầu cử kế tiếp. Ai cũng sợ mất ghế, nên quyền lực và quyền lợi của mỗi dân biểu và thượng nghị sĩ mang tính quyết định cho các hành động của họ, không nhất thiết cho quyền lợi của toàn đảng. Tương tự, quyền lực và quyền lợi của đảng, trên lý thuyết, là để phục vụ người dân và cử tri, và trên hết nó phải là phương tiện để phục vụ quốc gia, nhưng trên thực tế, các chính đảng coi quyền lợi và quyền lực của mình là trên hết. Thay vì thương lượng, cho và lấy, để cũng đi đến thỏa hiệp có lợi cho toàn quốc gia, họ rõ ràng không sẵn sàng làm như thế. Cũng vì thế nên họ tùy tiện thay đổi lãnh đạo với nhau bất kể nguyện vọng của người dân. Ngoài ra, ảnh hưởng lớn lao của vài nhà tài phiệt đang nắm giữ các cơ quan truyền thông tại Úc, chủ yếu là Murdoch, cũng tác động đáng kể lên tiến trình dân chủ tại Úc.
Các sinh hoạt đảng phái và các chuẩn mực dân chủ ngày càng có vẻ bị soi mòn, suy thoái. Đảng chính trị, lẽ ra, là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Cái vấn đề chung của chính trị toàn cầu ngày hiện nay là người ta dùng phương tiện riết rồi họ tưởng nó là cứu cánh luôn. Khi tin tưởng và tuyệt đối trung thành với đảng mình, người ta nhìn vấn đề từ bên trong ra, tức nội chiếu (introspection), hơn là nhìn từ bên ngoài vào, tức ngoại thức (extrospection), nên khó thấy được toàn cảnh. Người ta sẽ nhìn vấn đề ở lăng kính hoàn toàn khác nhau. Những góc nhìn như thế khó làm cho họ đánh giá khách quan hoặc chính xác về mình và về mọi vấn đề khác. Đó cũng là điều tự nhiên khi con người học hỏi và làm việc. Nhưng khi phần lớn chủ quan cho là mình là đúng nhất, hay nhất, bất chấp dư luận hay bằng chứng khoa học ra sao, đó là điểm khởi đầu, là nguồn gốc và nguyên nhân sâu xa, của sự suy thoái. Sự thay đổi sẽ vô cùng khó khăn đối với tư duy bảo thủ, giáo điều. Hệ quả sẽ vô cùng tiêu cực và không có lối thoát.
Đã đến lúc Đảng Cấp tiến cũng phải cải tổ quy định về việc thay đổi lãnh đạo, như Kevin Rudd đã làm đối với Lao động, để nó không dễ như trở bàn tay, như hiện nay. Đã đến lúc quốc hội Úc phải thay đổi hiến pháp và luật bầu cử để nhiệm kỳ trở thành bốn năm, thay vì ba năm, và ngày bầu cử được ấn định hẳn hoi, thay vì thủ tướng đương nhiệm quyết định. Đã đến lúc người dân cùng với quốc hội và chính quyền tìm những phương cách sáng tạo và hữu hiệu để hạn chế sự lũng đoạn của những tài phiệt như Murdoch, nếu không mọi lá phiếu của mọi công dân chỉ là tượng trưng chứ thực chất chẳng còn giá trị bao nhiêu. Sau cùng, tôi thấy đề nghị của ông Rudd rất hay là chính quyền Úc được công chúng bầu vào nhiệm kỳ tới cần ủy nhiệm một ủy ban độc lập để mở cuộc điều tra về những lũng đoạn của Rupert Murdoch hầu điều nghiên các hoạt động này có vi hiến và vi pháp không.
Chúng ta phải đấu tranh để giành lại quyền quyết định của mình trong việc chọn lựa lãnh đạo quốc gia một cách xứng đáng và liêm chính. Nếu không thì nền dân chủ trở thành chính trị đầu sỏ quyết định bởi thiểu số tài phiệt.
Úc Châu, 24/09/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 25/09/2018
Tài liệu tham khảo :
1. John Howard thuộc Liên Đảng (Cấp tiến và Quốc gia) bị Kevin Rudd thuộc Đảng Lao động thắng cử năm 2007 ; Rudd bị Julia Gillard thay thế năm 2010, vài tháng trước khi Rudd hết nhiệm kỳ năm 2010 ; Gillard lại bị chính Rudd thay thế năm 2013 trước khi Gillard hết nhiệm kỳ 2013 vài tháng ; Tony Abbot thuộc Liên Đảng đánh bại Rudd năm 2013 ; Abbot bị Malcolm Turnbull thay thế năm 2015 trước khi Abbot hết nhiệm kỳ năm 2016 ; Turnbull thắng cử năm 2016 nhưng chưa hết nhiệm kỳ năm 2019 của mình thì bị Peter Dutton thách thức, không thành, rồi mấy ngày sau bị thách thức lần nữa ; kỳ này ngoài Peter Dutton còn có Scott Morrison và Julia Bishop tham gia. Kết quả : Scott Morrison trở thành thủ tướng Úc vào ngày 24 tháng 8 năm nay, thủ tướng lần thứ bảy trong vòng 11 năm, trong bốn kỳ bầu cử. Có thể xem Prime Ministers of Australia trên Wikipedia .
2. Nick Bryant, "Australia : Coup capital of the democratic world ", BBC News, 14 September 2015.
3. Kevin Rudd, "Cancer eating the heart of Australian democracy ", The Age, 27 August 2018.
4. Andrew Probyn, "What did Rupert Murdoch and Kerry Stokes have to do with the Liberal leadership spill ? ", ABC News, 19 September 2018.
5. Nick O’Malley, "Labor's laughing as Coalition kowtows to Murdoch ", The Age, 22 September 2018.
Truyền thông là một trong những lĩnh vực và chức năng quan trọng nhất của con người. Trong mọi hoạt động đời sống, tư và công.
Ngôn từ là cửa sổ - Hình minh họa.
Bởi không thể xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ nếu không có nền truyền thông cao cấp, trong đó tư tưởng và ngôn ngữ diễn đạt phải ở trình độ cao, để có thể trình bày các vấn đề phức tạp hoặc chuyên môn. Giáo dục, ở mọi cấp, có thành công và hiệu quả hay không không chỉ nằm trong triết lý hay phương pháp dạy, mà chủ yếu là cách truyền đạt các kiến thức này từ người dạy sang người học. Cũng không thể có nền kinh tế tri thức nếu không có một nền truyền thông cấp tiến. Và không thể có dân chủ nếu các vấn đề triết lý chính trị, và tính chuyên môn và phức tạp của pháp luật, không được truyền thông một cách hiệu quả và dễ thẫm thấu cho phần lớn công dân.
Trong truyền thông, ngôn từ là thành tố quan trọng nhất.
Lắm khi chúng ta cảm thấy được tràn đầy hạnh phúc, hoặc bị đau khổ vô biên, cũng chỉ vì một vài từ, hay chỉ một, mà thôi. Có khi nó đến từ người mà mình thương yêu, và cũng có khi nó đến từ chính mình dành cho người mình thương yêu.
Nhưng trong những năm gần đây, tôi nhận thấy người ta dễ dàng dành cho nhau những ngôn từ rất nặng nề, không chỉ riêng người Việt. Các thành phần gọi là "troll" hiện ra rất nhiều trên các diễn đàn mạng. Chúng ta dễ có cảm tưởng rằng văn minh nhân loại đang đi thụt lùi. Còn các diễn đàn hay trang mạng xã hội như facebook của người Việt Nam thì khỏi nói. Người ta rất dễ dàng chửi nhau, lăng mạ nhau, chụp mũ nhau, vì những lý do rất nhỏ nhặt. Đọc mà thấy buồn.
Mới đây có một cái nhìn khá mới của Mel Schwartz về đề tài này mà tôi thấy khá hay, nên muốn được chia sẻ với bạn đọc [1].
Schwartz chia sẻ rằng trước đây ông thường bất đồng với người vợ cũ của ông. Vấn đề tưởng chừng như nhỏ xíu và lãng nhách. Khi lên giường lúc đi ngủ, ông thường cảm thấy nóng nên buộc miệng nói : "Thiệt là nóng ở đây" (It’s hot in here). Vợ ông liền đáp lại : "Không, không phải nóng, mà là lạnh" (No, it’s not, it’s cold). Cãi qua cãi lại chuyện nóng hay lạnh làm cho hai người bực mình nhau mà chẳng đi tới đâu.
Shwarts mất một thời gian mới khám phá ra cách mới để trình bày cùng ý tưởng, chỉ khác một chút thôi. "Tôi thấy nóng" (I feel hot). Từ một nhận định mang tính khách quan (objective statement) như trên, Shwarts ý thức chuyển sang tính chủ quan (subjective statement). Do đó thay vì tranh cãi nhau về sự thật, tức nhận định khách quan, Shwarts chỉ chia sẻ nhận thức của mình về sự việc, tức cảm nhận chủ quan của ông về nhiệt độ. Tất nhiên Shwarts cũng nhận thức rõ là làm như thế không nhất thiết giải quyết tận cùng vấn đề nhiệt kế giữa hai người, tuy nhiên ông cũng cảm thấy nhẹ nhõm vì vượt qua được khúc mắc tranh luận đó. Vợ ông cũng không có lý do chính đáng nào cãi tiếp hay bắt ông phải cảm nhận khác. Mỗi cơ thể có máy đo nhiệt độ khác nhau.
Tôi tin rằng ai trong chúng ta, ít hay nhiều, từ nhỏ đến lớn, đều đã trải nghiệm bao nhiêu trường hợp như thế. Chúng ta bị mắc bẫy không lối thoát vì bị mắc kẹt trong khung sườn suy nghĩ cố định của mình. Suy nghĩ là vấn đề tư tưởng, mà tư tưởng được cấu thành bởi các ký hiệu ngôn ngữ, bởi chữ nghĩa. Ngôn ngữ, hay chữ nghĩa, càng phong phú thì tư tưởng càng phong phú và càng có khả năng diễn đạt chính xác hoặc gần xác thực với luồng suy nghĩ trong đầu một người. Ngược lại, ngôn ngữ càng cứng ngắc và giới hạn thì khả năng trình bày các vấn đề phức tạp cũng bị ít nhiều gò bó.
Khoảng 25 thế kỷ về trước, Lão Tử cũng đã nhận thức rất rõ giới hạn của ngôn từ trong việc diễn đạt tư tưởng.
Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo hằng cửu.
Tên mà có thể gọi được, không phải là tên hằng cửu.
Không tên là gốc của Trời và Đất.
Có tên là mẹ của muôn vật.
The Tao that can be spoken is not the eternal Tao
The name that can be named is not the eternal name
The nameless is the origin of Heaven and Earth
The named is the mother of myriad things
Cho nên có những khi "Ngàn lời không đủ, một chữ quá thừa !" [2].
Hơn 20 năm kinh nghiệm trong nghề tâm lý trị liệu (psychotherapist) và tư vấn truyền thông, Shwarts đã quan tâm, do đó tập trung nhiều vào việc, tìm hiểu những yếu tố nào cản trở sự thành công khi truyền thông. Shwarts nhận ra rằng ngôn từ là rất quan trọng. Những ngôn từ chúng ta sử dụng : hoặc sửa soạn để người ta trở nên mở lòng và hiếu kỳ với những gì mình nói ; hoặc trở thành phòng thủ và phản ứng với những gì họ nghe.
Shwarts cho rằng ngôn từ là nền tảng quan hệ của chúng ta không chỉ với những người khác mà còn là nguyên tố căn bản với chính mình. Bởi vì những suy nghĩ của chúng ta thật sự ghi chép kinh nghiệm sống của mình. Nó ảnh hưởng chúng ta hơn tất cả mọi điều khác, hơn cả quan hệ gần gũi nhất với mình. Cái gì tạo nên suy nghĩ, tư tưởng của mình ? Đó là ngôn từ.
Tiếng Anh, và có lẽ mọi ngôn ngữ (tôi chỉ đoán chừng vậy thôi chứ không phải là nhà ngôn ngữ học), đều có những giới hạn về ngôn từ và cấu trúc của nó. Shwarts phân tích giới hạn của tiếng Anh về động từ "to be" (to be verbs), dễ đưa đến suy nghĩ hay hành động cứng ngắt, không thay đổi. Tôi sẽ trở lại đề tài này vào dịp khác.
Trước khi chấm dứt, tôi xin được chia sẻ một bài thơ khá hay của tác giả Ruth Bebermeyer trích từ cuốn sách "Truyền thông bất bạo động" của Marshall Rosenberg [3].
Ngôn từ là cửa sổ (hoặc là Bức tường)
Tôi cảm thấy bị kết án bởi ngôn từ của bạn,
Tôi cảm thấy bị phán xét và bảo đi nơi khác,
Trước khi đi tôi muốn biết,
Có phải ý của bạn là thế không ?
Trước khi tôi đứng lên bảo vệ lấy mình,
Trước khi tôi nói trong tinh thần bị tổn thương hay sợ hãi,
Trước khi tôi xây bức tường bằng ngôn từ,
Cho tôi biết, có phải tôi nghe như thế không ?
Ngôn từ là cửa sổ, hoặc là bức tường,
Chúng kết án chúng ta, hoặc trả chúng ta tự do.
Khi tôi nói và khi tôi nghe,
Hãy để ánh sáng tình thương soi sáng xuyên tôi.
Có những điều tôi cần nó,
Những điều có nhiều ý nghĩa đối với tôi,
Nếu ngôn từ của tôi không làm tôi rõ,
Bạn sẽ giúp cho tôi được tự do ?
Nếu tôi dường như làm cho bạn buồn,
Nếu bạn cảm thấy tôi không quan tâm,
Cố gắng lắng nghe qua ngôn từ của tôi,
Với những cảm xúc chúng ta chia sẻ nhau.
Ruth Bebermeyer
*************
Words Are Windows (or They’re Walls)
I feel so sentenced by your words
I feel so judged and sent away
Before I go I got to know
Is that what you mean to say ?
Before I rise to my defense,
Before I speak in hurt or fear,
Before I build that wall of words,
Tell me, did I really hear ?
Words are windows, or they’re walls,
They sentence us, or set us free.
When I speak and when I hear,
Let the love light shine through me.
There are things I need to say,
Things that mean so much to me,
If my words don’t make me clear,
Will you help me to be free ?
If I seemed to put you down,
If you felt I didn’t care,
Try to listen through my words
To the feelings that we share.
Ruth Bebermeyer
(from the book Nonviolent Communication – A Language of Life)
Úc Châu, 19/09/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 19/09/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Mel Schwartz, "Change a Word, Change Your Life", Psychology Today, 05 September 2018.
2. Kiều Tiến Dũng, "Khoa học phương Tây và triết lý phương Đông", Người Việt Books, 2016. Có thể đọc thêm bài viết về buổi ra mắt sách này trên báo Người Việt, Hoa Kỳ.
3. Marshall B. Rosenberg, "Nonviolent Communication", A Language of Life, PuddleDancer Press, 2015 ; page xix.