Hồi còn bé, bố tôi thường viện dẫn những câu châm ngôn Hán Việt, hoặc Pháp Việt, để nói về triết lý cuộc đời trong những lúc thích hợp đối với các con của ông. Ông học trường Pháp nên nói được tiếng Pháp. Còn tôi nghe nhưng chẳng hiểu gì cả. Tôi còn nhớ, khi nói xong, ông cười ha hả đắc chí, và hỏi tôi cũng như các anh chị tôi có hiểu hết ý nghĩa của các câu châm ngôn này không.
Hình như giới trí thức nói riêng những người ham học nói chung ở mọi nơi thường hay để ý đến những câu văn, vần thơ, châm ngôn hay. Có lẽ với những tên tuổi nổi tiếng, những bậc vĩ nhân, cuộc đời của họ rốt cuộc cũng chỉ để lại vài câu châm ngôn để đời.
Càng trãi đời, tôi có cảm giác dường như tôi trở nên đồng điệu hơn với bố mình ba bốn chục năm về trước.
Tôi xin chia sẻ vài châm ngôn, triết lý tâm đắc trong bài viết cuối năm 2019.
Maya Angelou (thi sĩ, ca sĩ, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ) : Tôi học được rằng người ta sẽ quên những gì bạn nói, người ta sẽ quên những gì bạn làm, nhưng người ta sẽ không bao giờ quên cách mà bạn làm cho họ cảm.
Eleanor Roosevelt (đệ nhất phu nhân, vợ Franklin Delano Roosevelt) : Nên nhớ rằng không ai có thể khiến bạn cảm thấy thấp kém nếu không có sự đồng ý của bạn.
Theodore Roosevelt (Tổng thống Hoa Kỳ thứ 26, bác của Eleanor Roosevelt) : Tin rằng bạn có thể thì bạn đã đi được nửa đường rồi.
Napoleon Hill (tác giả cuốn sách nổi tiếng Think and Grow Rich) : Bất cứ điều gì mà bộ óc con người có thể nhận thức và tin tưởng, nó có thể đạt được.
Albert Einstein (nhà bác học và triết gia) : Phấn đấu không phải để thành công, mà là để có giá trị.
Một câu khác : Một người chưa bao giờ lầm lỗi chưa thử điều gì mới mẻ.
Alice Walker (thi sĩ, nhà văn, nhà hoạt động xã hội người Mỹ) : Cách phổ biến nhất mà người ta từ bỏ quyền lực của họ là bằng cách nghĩ rằng họ không có gì cả.
Steve Jobs (cố tổng giám đốc công ty Apple) : Cách duy nhất để làm những việc vĩ đại là yêu thích những gì bạn làm.
Rosa Parks (nhà hoạt động dân quyền người Mỹ) : Tôi đã học được qua nhiều năm rằng khi một người đã quyết định rồi, nó giảm thiểu nỗi sợ hãi trong lòng.
Jamie Paolinetti (nhà làm phim và đạo diễn nghệ thuật) : Giới hạn chỉ sống trong tâm trí của mình. Nhưng nếu chúng ta sử dụng trí tưởng tượng của mình, khả năng của chúng ta sẽ trở nên vô hạn.
Ralph Waldo Emerson (thi sĩ và triết gia người Mỹ) : Người duy nhất bạn được định sẵn trở thành là người bạn quyết định trở thành.
Ronald Reagan (Tổng thống Hoa Kỳ thứ 40) : Chúng ta không thể giúp đỡ hết mọi người, nhưng mọi người đều có thể giúp một số người khác.
Plato (triết gia cổ Hy Lạp, thầy của Aristotle) : Chúng ta có thể dễ dàng tha thứ cho một đứa trẻ sợ bóng tối ; bi kịch thực sự của cuộc sống là khi người lớn sợ ánh sáng.
Lão Tử : Một nhà lãnh đạo tốt nhất là khi mọi người hầu như không biết anh ta tồn tại… khi công việc của anh ta hoàn thành, mục tiêu của anh ta đã hoàn tất, tất cả họ sẽ nói : Chúng tôi tự làm điều đó.
Andrew Carnegie (một doanh nhân và nhà từ thiện nổi tiếng) : Không ai có thể trở thành lãnh đạo vĩ đại khi anh ta chỉ muốn chính anh ta làm mọi thứ hoặc lấy hết phần thưởng về cho mình.
John Quincy Adams (Tổng thống Hoa Kỳ thứ 6) : Nếu hành động của bạn truyền lửa/cảm hứng cho người khác để họ mơ ước, học hỏi, làm nhiều hơn và trở nên nhiều hơn, bạn là một nhà lãnh đạo.
John F. Kennedy (Tổng thống Hoa Kỳ thứ 35) : Tài năng lãnh đạo và tinh thần học hỏi là không thể thiếu đối với nhau.
Abraham Lincoln (Tổng thống Hoa Kỳ thứ 16) : Không phải là tôi đã tiêu diệt kẻ thù của mình bằng cách biến họ thành bạn của tôi ?
Ruby Dee (thi sĩ, nhà văn, nhà hoạt động dân quyền) : Món quà tuyệt vời nhất là không ngại đặt câu hỏi.
Sự kiện nổi bật nhất của năm 2019 là các cuộc biểu tình rầm rộ kéo dài hơn sáu tháng của người dân Hồng Kông. Hồng Kông trở thành biểu tượng hùng hồn nhất của xu hướng tự do chống lại kiềm kẹp ; dân chủ chống độc tài ; giáo dục phóng khoáng/cấp tiến chống giáo dục yêu nước/nhồi sọ ; phối hợp thay vì mệnh lệnh ; sáng tạo thay vì độc đoán v.v… Cuộc đấu tranh của người Hồng Kông nói riêng, những người Trung Quốc yêu chuộng tự do nói chung, trên hết là để gióng lên tiếng nói cho công lý và sự thật, vì tất cả những điều này không được chấp nhận tại lục địa. Họ phải đấu tranh để giữ lửa, để nuôi hy vọng, và để một ngày nào đó truyền lại các sự thật này cho các thế hệ mai sau mãi ghi nhớ.
Vì thế châm ngôn để đời của năm 2019 có lẽ là từ tiến sĩ Yangyang Cheng khi viết về 30 năm tưởng niệm biến cố Thiên An Môn : "Sợ chết là thường tình con người. Khi một chính phủ độc tài lo sợ sự thật về sự tàn sát của mình, việc thương tiếc người chết không chỉ là vấn đề đau buồn cá nhân, mà còn là biểu hiện của lòng can đảm đạo đức. Tưởng niệm trở thành một hành động chống lại quyền lực nhà nước và (yếu tố) thời gian".
Bố tôi truyền lại bao nhiêu châm ngôn hay ho mà tôi không còn nhớ bao nhiêu. Tuy thế mỗi khi nhớ về ông, tôi vẫn luôn nhớ lời khuyên rằng làm người thì phải cốđứng thẳng như cây.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 01/01/2020
Chỉ còn vài ngày nữa là bước sang năm 2020. Vào những ngày cuối năm, các ký/học giả và cơ quan truyền thông thường đúc kết những vấn đề những sự kiện nổi bậc nhất trong năm. Chẳng hạn như các bài viết hoặc thông tin được quan tâm nhiều nhất trên một hãng thông tấn nào đó.
Người biểu tình Hong Kong ủng hộ người Uighur.
TờThe New York Times thì chia ra thành từng mảnh nhỏ, từ chính trị đến phi chính trị v.v…
Giáo sư chính trị học Stephen M Walt thì liệt kê 10 điều trên thế giới mà nhân loại nên biết ơn vào năm 2019 bởi vì những gì xảy ra không đến nổi tệ như nó có thể. Mặc dầu không đồng ý với tất cả những nhân vật liệt kê, hay ủng hộ các sự kiện này, giáo sư Walt trân quý vai trò và sự đóng góp cho lợi ích chung đối với nhân loại. Chẳng hạn, như cô Greta Thunberg cho môi trường và các thế hệ tương lai. Như viên chức vô danh trong chính quyền/đảng cộng sản Trung Quốc đã tiết lộ tài liệu mật cho báo The New York Times về trại cải tạo tập trung đối với người Duy Ngô Nhĩ (Uighurs) ở Tân Cương. Như các tác giả đã cống hiến những tác phẩm cực hay và hữu ích cho nhân loại. Giáo sư Walt kết luận rằng thế giới hiện nay đang đối diện với những thử thách nghiêm trọng, từ một địa cầu ngày càng hâm nóng, các nền dân chủ đang gặp rắc rối, sự cuồng tín/cố chấp và bài ngoại gia tăng (rising bigotry and xenophobia), làn sóng tị nạn có thể tăng thêm, sự tấn công vào ý tưởng sự thật và quan niệm danh dự trên bình diện chính trị. Tuy thế ông vẫn cảm ơn vì một năm đã trôi qua mà xung đột giữa các quyền lực lớn chưa xảy ra, Hoa Kỳ chưa tham gia vào một cuộc chiến tranh mới, nền kinh tế thế giới chưa đổ bể, mức độ nghèo và bệnh tiếp tục gia giảm trên toàn cầu, và phần lớn người dân Hoa Kỳ có vẻ ý thức được rằng mình đã bầu cho một gã lang băm vào năm 2016.
James M Lindsay thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại thì liệt kê 10 biến cố quan trọng nhất trong năm 2019 trên bình diện bang giao quốc tế.
Đứng thứ 10 là sự bế tắc trong đàm phán giữa Bắc Hàn và Hoa Kỳ về phi hạt nhân. Qua hai lần đàm phán và bao nỗ lực sắp xếp giữa hai phía nhưng kết quả chẳng đi đến đâu, Bình Nhưỡng tiếp tục gửi thông điệp với Washington vào đầu tháng 12 rằng Hoa Kỳ sẽ phải quyết định "món quà giáng sinh nào họ sẽ chọn để nhận". Viễn ảnh năm 2020 vẫn không có gì sáng sủa hơn.
Kế đến là Brexit, một vấn đề gây nhức nhối và chia rẽ cho toàn Anh quốc. Cuối cùng vào ngày 20/12 Quốc hội Anh cũng bầu chọn quyết định ra khỏi Liên hiệp Âu Châu trước ngày 31/01/2020.
Thứ tám là thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tháng Ba năm 2018, Tổng thống Donald Trump tweet rằng "thương chiến là tốt và dễ thắng". Những gì xảy ra sau đó không phải như thế. Sau bao nhiêu vòng đàm phán, đến ngày 11/10 năm nay, hai bên đã tạm đồng ý có thỏa thuận với nhau, nhưng những khác biệt chính yếu vẫn chưa giải quyết ổn thỏa gì cả. Do đó 2020 có thể là năm có nhiều hỗn loạn hơn nữa.
Kế tiếp là các cuộc di cư vĩ đại từ Trung Mỹ đến biên giới Hoa Kỳ mà hệ thống tại đây đã chịu không nổi trọng lực của vấn đề. Trung tâm của các cuộc tranh chấp pháp lý là những câu hỏi hóc búa về việc ai có thể xin tị nạn tại Hoa Kỳ.
Thứ sáu là căng thẳng bùng phát tại Vịnh Ba Tư (Persian Gulf). Những sự kiện diễn ra giữa năm nay ở eo biển Hormuz đưa đến vài cuộc đụng độ quân sự ở bình diện nhỏ giữa Hoa Kỳ, Iran và Saudi Arabia làm leo thang các lực lượng quân sự tại đây. Có khả năng 14 ngàn quân lính Hoa Kỳ sẽ được đưa đến Saudi Arabia vào cuối năm nay.
Kế đến là đại hỏa hoạn rừng Amazon. 80 ngàn vụ cháy trong năm 2019 là cao nhất trong một thập niên qua. Các khoa học gia phải cảnh báo rằng nạn phá rừng Amazon có thể đi đến tình trạng thảo nguyên mà sẽ "nhả hàng triệu tấn carbon lên bầu khí quyển".
Thứ tư là Ấn Độ đã ôm lấy tinh thần dân tộc Ấn (Hindu nationalism), đặc biết qua chính sách hủy bỏ quyền tự trị của Kashmir vào tháng 8 năm nay mà họ đã hưởng độc lập và được ghi nhận trong hiến pháp Ấn Độ. Ngoài ra quốc hội Ấn cũng thông qua đạo luật gây nhiều tranh cãi mà qua đó tạo cơ hội cho người dân không theo đạo Hồi thuộc vùng Nam Á có thể trở thành công dân Ấn.
Kế tiếp là Hoa Kỳ chấm dứt ủng hộ lực lượng người Kurd tại Syria. Hành động này ngày càng được nhiều nước trên thế giới đặt câu hỏi liệu Hoa Kỳ là một đồng minh, đối tác có thể tin cậy được ?Và nó đã làm cho các chuyên gia tranh luận với nhau về hệ quả của các chính sách đối ngoại bất nhất của Hoa Kỳ về sau.
Thứ hai là việc Hạ viện Hoa Kỳ đã thảo luận, tranh luận và thông qua hai điều luận tội đối với Tổng thống Trump vào ngày 18/12 vừa qua. Một là lạm dụng quyền lực để hỗ trợ ông trong chiến dịch tái tranh cử đối với đối thủ chính trị của mình. Hai là gây cản trở cho quốc hội bằng việc không cho các nhân viên Nhà Trắng điều trần và từ chối cung cấp các tài liệu liên quan đến cuộc điều tra luận tội. Không rõ khi nào chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi sẽ gửi lên Thượng viện để tiến hành thủ tục luận tội ở đó, nhưng xác suất Đảng Cộng hòa bác bỏ nó là rất cao.
Trên hết là các cuộc biểu tình tại Hồng Kông kéo dài hơn sáu tháng qua. Lindsay gọi 2019 là "Năm Biểu tình" (The Year of Protests) mà Hồng Kông đã thu hút sự chú ý nhất trên toàn cầu. Ngoài Hồng Kông còn có biểu tình ở Algeria, Sudan, Chile, Lebanon, Iraq, Iran, Blivia, Ấn Độ, Nicaragua, Nga. Lindsay cũng có nhắc đến các biến cố tại Venezuela. Ngoài ra sự kiện bà Aung Sang Suu Kyi xuất hiện tại Tòa Công lý Quốc tế The Hague vào tháng 12 vừa qua phủ nhận rằng quân đội Miến Điện đã thi hành chính sách diệt chủng đối với người Rohingya đã làm cho nhiều người bất bình lên tiếng kêu gọi tước đi Giải Nobel Hòa bình trao cho bà trước đây.
Lindsay cũng liệt kê 10 cuộc bầu cử đáng quan sát vào năm tới 2020, trong đó có bầu cử lại Hội đồng Lập pháp Hồng Kông vào tháng 9/2020 và bầu tử tổng thống Hoa Kỳ ngày 3/11/2020.
Chủ nghĩa dân túy, dân tộc, bộ lạc và cường quyền đang gia tăng trong khi xu hướng dân chủ bị thoái lui. Đó là dấu hiệu đáng quan ngại trước khi kết thúc năm 2019. Tuy thế, người dân khắp nơi vẫn tiếp tục đứng lên bày tỏ nguyện vọng của mình dù có bị đàn áp dã man. Khi các chế độ cường quyền không thể, hay không còn khả năng, lừa gạt người dân hiệu quả nữa thì một vận mệnh mới sẽ đến với dân tộc đó. Nhưng dân chủ sẽ không đến một cách dễ dàng mà nó là một tiến trình tranh đấu không ngừng giữa thành phần cai trị và những người bị trị. Hy vọng năm 2020 sẽ là năm mà người dân trên khắp thế giới trau dồi khả năng làm chủ cuộc đời mình và tương lai đất nước của mình hơn năm trước.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 28/12/2019
Mỗi năm đến dịp Giáng sinh, gia đình nhỏ và gia đình lớn của tôi đều tổ chức ăn mừng. Có lẽ phần chính là vì đây là dịp quan trọng nhất để mọi người gặp gỡ được nhau. Và đặc biệt có lẽ vì trẻ con. Đứa bé nào mà không muốn được quà, nhất là dịp này. Mà đã là con/cháu thì sẽ luôn mãi là con/cháu. Cho nên ngoài Mẹ tôi ra, còn mấy chục con, cháu và chắc. Thuộc nhiều sắc dân và tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, bao gia đình thân thương khác là con nuôi hay con cháu của Mẹ tôi cũng tham gia, từ nhiều nơi trên thế giới tụ về.
Mặc dầu phần lớn gia đình tôi không theo đạo Thiên Chúa, và mặc dầu phần lớn các ý nghĩa nguyên thủy về giáng sinh đã biến đổi qua thời gian, giáng sinh ngày nay là thời gian cho gia đình và bạn bè, để chúng ta tập trung vào các giá trị đích thực nhất cho những người mình thương yêu và quan tâm nhất.
Nhưng cũng không có lý do gì để dừng ở đó. Mỗi lần đến giáng sinh, hay nói đúng hơn vào những dịp thích hợp trong suốt năm, tôi thường nhắc nhở con mình nghĩ đến những người bất hạnh hơn mình ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Tôi chia sẻ với các con tôi rằng không chỉ bố mẹ hạnh phúc, mà các con cũng hạnh phúc, và nhiều người chung quanh sẽ hạnh phúc, nếu các con sống "tử tế, dễ thương, rộng lượng, trắc ẩn, khoan dung và tha thứ" (kind, nice, generous, compassionate, tolerant and forgiving). Tôi cũng nói thêm rằng sau này các con muốn làm gì cũng được, nhưng nếu các con chọn những công việc mang tinh thần phục vụ con người, thì các con sẽ tìm được hạnh phúc, ngay trong thử thách.
Bé trai của tôi thì ở trường bạn bè và thầy cô đều quý mến thì rộng lượng và ngoan (mặc dầu ở nhà thì rất cứng đầu). Bé gái thì luôn chủ động, tử tế, đề cao công lý, bảo vệ động vật, môi trường và những người yếu kém. Tôi đặt nhiều tiêu chuẩn cao cho con mình, đôi khi làm cho các con căng thẳng hơn, nhưng phần lớn các con tự đi tìm hiểu và đi đến kết luận mình cần phải làm gì khi có đầy đủ thông tin về môi trường và cuộc sống chung quanh.
Sống chỉ biết mình thôi thì thiệt là thiếu sót. Tất nhiên trẻ con không cần biết mọi nỗi đau trên thế gian này, vì chúng không thể làm gì được cả với nó. Nhưng chúng biết và giúp được một người, hai người hay nhiều hơn trong khả năng của mình để một phần nào đó giáng sinh của những người đó năm nay là đẹp hơn, bớt cô đơn hơn, và có hy vọng và hạnh phúc hơn năm ngoái, chẳng hạn, là điều cần và đủ rồi.
Vào mùa lễ giáng sinh mọi năm, tôi được biết rằng có vô số những cá nhân, nhóm, đoàn thể, tổ chức, nhà thờ v.v… làm tất cả những gì có thể làm được vào thời điểm này để tạo một không gia mầu nhiệm nhưng cũng vô cùng thực tế để cho tất cả mọi người thuộc mọi sắc tộc và tôn giáo cùng tham dự. Ngay cả tổ chức "Người nghiện rượu vô danh" (Alcoholics Ananymous, thành lập năm 1935 tại Hoa Kỳ, bây giờ có mặt trên toàn cầu) cũng muốn gửi thông điệp vào năm 1944 rằng :
…Chúng ta may mắn hiểu được sâu sắc nghịch lý thiêng liêng rằng sức mạnh trổi lên từ sự yếu kém, rằng sự sỉ nhục đi trước sự phục sinh ; rằng nỗi đau không chỉ là cái giá mà còn là hòn đá tảng của sự tái sinh tâm linh. Biết đầy đủ giá trị và mục đích của nó, chúng ta không còn có thể sợ nghịch cảnh, chúng ta đã tìm thấy sự thịnh vượng ở những nơi nghèo đói ; hòa bình và niềm vui đã xuất hiện giữa sự hỗn loạn. Thực sự là phước lành của chúng ta !
Những bậc cha mẹ nào không có nhiều điều kiện, hay có quá nhiều điều kiện, để không biết mua quà gì cho con mình, thì thật ra điều trẻ con cần nhất không phải là những món quà vật chất. Cái chúng cần hơn là tình thương, là thì giờ của cha mẹ. Dành thì giờ tâm sự, tìm hiểu và chơi trò chơi với các con là các món quà vô giá. Theo tiến sĩ Erin Leonard, người viết nhiều sách về quan hệ giữa cha mẹ và con cái về an toàn và đồng cảm, thì dành 15 phút chơi đổi vai với các con trong mùa giáng sinh để hiểu các con đang nghĩ gì, đang có những ưu phiền nào, đang phiền muộn vì nghĩ mình làm ai đó thất vọng… là vô cùng quan trọng. Qua đó giúp cho con mình hiểu và ý thức cảm xúc của chúng. Hãy để ý đến những lo lắng của chúng. Đồng cảm với cuộc chiến với lòng tự trọng của chúng…
Cách đây hơn 200 năm, bài hát "Đêm thánh vô cùng" (Silent Night) được người phụ tá linh mục có tên Joseph Mohr cùng với một nhà thơ và âm nhạc, Franz Xaver Bruber, người thường chơi Organ tại nhà thờ ở Oberndorf, Salzburg, Áo, cùng nhau sáng tác và trình diễn. Bài phát này lần đầu tiên được trình diễn vào ngày 24 tháng 12 năm 1818. Mặc dầu bài hát được đón nhận nồng nhiệt từ khi ra đời và cho đến mãi bây giờ, chỉ đến năm 1995, người ta mới biết được đến tác giả lời nhạc là linh mục trẻ Joseph Mohr bắt đầu viết năm 1816 và sau đó đã gặp được Bruber để hòa âm và trình diễn vào giáng sinh năm 1818. Cho đến nay bài hát này vẫn còn được yêu chuộng, được hát mãi, và có ý nghĩa nhắc nhở chúng ta về thông điệp hòa bình cho nhân loại.
Có những khi trong cuộc sống chúng ta quan tâm để ý đến những vấn đề lớn, những ước mơ thành tựu lớn. Để làm gì và cho ai ? Bao nhiêu phần trăm trong đó là cho gia đình mình, người bạn đời, con cái mình ? Trong cuộc sống căng thẳng này, chúng ta cũng cần cân bằng giữa việc làm, tình yêu và trò chơi (work, love and play) để cuộc sống thật sự lành mạnh, thăng hoa và bền vững. Tôi biết nói thì dễ nhưng làm thì rất khó ! Nhưng không cần đi xa hay trốn tránh khỏi cuộc sống này mới có thể thực hiện. Điều có thể làm trong thời điểm này là đừng để mình quá bận tâm, quá lo lắng, đừng xem điện thoại hay ipad, và đừng để đầu óc theo thói quen tự điều khiển lối mòn cũ (auto-pilot). Tức chánh niệm, ý thức rõ những suy nghĩ và cảm xúc của mình. Làm được như thế, chúng ta sẽ thấy được người chúng ta thương yêu đứng ngay trước mặt mình, mong muốn được yêu thương.
Nhân dịp sáng sinh năm nay, tôi mong chúc tất cả, gia đình bạn bè độc giả và mọi người Việt Nam an lành, hạnh phúc và sức khỏe. Và mong chúc quý vị một năm mới thành công và vui vẻ. Tôi đặc biệt gửi tặng bài viết này đến cô giáo chủ nhiệm của tôi vào lớp 8C trước khi tôi rời Việt Nam. Cô đã góp phần thay đổi cuộc đời tôi trở nên tốt hơn rất nhiều. Cô là người có niềm tin Thiên Chúa giáo mãnh liệt, và cô đã giúp cho tôi cùng bao học trò khác của cô thương yêu nhau và cùng giúp nhau tạm thời vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của một thời đảo điên vì ý thức hệ chính trị.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 24/12/2019
Sự trổi dậy của Trung Quốc là một thách thức lớn, và có thể nói lớn nhất, đối với Hoa Kỳ nói riêng, và trật tự thế giới hiện nay nói chung, trong nửa đầu thế kỷ này. Nhưng Hoa Kỳ có nên quá lo lắng để rồi đề ra các chiến lược đối phó với Trung Quốc thiếu hiệu quả và viễn kiến, hoặc phản tác dụng, hoặc nguy hiểm cho an ninh và hòa bình của nhân loại, là nội dung bài viết mới nhất của học giả Fareed Zakaria trên tạp chí Foreign Affairs (1). Zakaria hiện nay cũng là người điều hợp chương trình Global Public Square (GPS) trên CNN.
Zakaria công nhận Trung Quốc là nước đáng quan ngại trước những bằng chứng quá rõ ràng, đặc biệt trong 5 năm qua
Với tựa đề "Nỗi sợ hãi Trung Quốc mới" (The New China Scare) đăng vào hôm qua 6 tháng 12, các lập luận của Zakaria mang đặc tính của người cổ võ và tin tưởng vào chủ nghĩa quốc tế cấp tiến (liberal internationalism, mặc dầu Zakaria phủ nhận là ông đứng hẳn về một xu hướng chính trị nào) : lạc quan, thực tế, và ôn hòa. Dù đồng ý hay không với Zakaria, những bài viết, phát biểu, tranh luận, điều hợp chương trình, và sách báo nghiên cứu của ông trong ba thập niên qua đáng để cho chúng ta tìm hiểu và suy ngẫm.
Bài viết này khá dài, nhưng tôi xin trình bày ba luận điểm chính của Zakaria để tóm tắc vào các ý tưởng đáng chú ý nhất : Mối lo ngại ; cách (nên) đánh giá ; cách đối phó.
Về mối lo ngại đối với Trung Quốc
Trước hết Zakaria công nhận Trung Quốc là nước đáng quan ngại trước những bằng chứng quá rõ ràng, đặc biệt trong 5 năm qua, qua các chính sách phi cấp tiến (illiberal policies) : từ việc cấm tự do ngôn luận đến quản thúc thiểu số sắc tộc tôn giáo ; từ việc gia tăng kiểm soát chính trị đến thực hiện nhà nước kinh tế (economic statism) ; ngoài nước, Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh, và có những nơi, là địch thủ của Hoa Kỳ. Chính vì thế mà lưỡng đảng, giới thành trì quân sự, các cơ quan truyền thông chính yếu tại Hoa Kỳ, hầu như đồng thuận với nhau rằng Trung Quốc hiện nay là mối đe dọa sống còn (vital threat) đối với Hoa Kỳ về kinh tế và chiến lược, và Washington cần có một chiến lược cương trực hơn để ngăn chặn Trung Quốc. Ngay cả người dân Hoa Kỳ, chiếm tỷ lệ 60 phần trăm, cũng có quan điểm không thuận đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.
Nhưng Zakaria đặt vấn đề là liệu các dữ kiện/sự thật nói trên có làm cho Trung Quốc trở nên mối đe dọa sống còn, và nếu là như thế thì mối đe dọa này nên được xử lý ra sao ? Lý do là vì nếu không đánh giá đúng mối đe dọa thì hệ quả của nó rất là tai hại, như đã từng thấy trong thời Chiến tranh Lạnh với Liên Xô đưa đến sự lạm dụng tai hại bởi Thượng nghị sĩ McCarthy ; đưa đến cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân v.v… Zakaria cho rằng chiến tranh lạnh với Trung Quốc có thể kéo dài hơn, tốn kém hơn, có khả năng tạo ra kết quả bất định. Hơn nữa, chiến tranh, từ chiến tranh Korea, đến Việt Nam, đến Afghanistan và Iraq, khi đã vào cuộc, thì sự ủng hộ của dân chúng Mỹ ngày càng suy giảm, để rồi sau đó hầu như mọi người đều đi tìm chiến lược rút lui (exit strategy), mà Henry Kissinger từng nhận xét.
Cho nên để tránh con đường mòn này, Hoa Kỳ cần dành thời gian để phân tích kỹ càng những giả định đằng sau sự đồng thuận mới về Trung Quốc. Zakaria liệt kê ba giả định rộng : một, chính sách tiếp cận/kết nối (engagement) đã thất bại vì nó không "chuyển hóa sự phát triển bên trong và cách hành xử bên ngoài của Trung Quốc" ; hai, chính sách ngoại giao của Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền lợi của Hoa Kỳ nói riêng và trật tự quốc tế cấp tiến nói chung mà Hoa Kỳ đã góp phần xây dựng sau năm 1945 ; ba, một chính sách tích cực đối đầu với Trung Quốc sẽ phản công lại mối đe dọa này tốt hơn là phương cách đã áp dụng trước đây. Zakaria phê bình cả ba giả định này.
Về cách đánh giá mối lo ngại này
Sự đồng thuận lưỡng đảng tại Hoa Kỳ được hình thành đối với những thay đổi đáng kể và những quan ngại về Trung Quốc. Tuy Zakaria đồng ý rằng Trung Quốc ngày càng tham vọng và quả quyết hơn, và biết kết hợp sự đàn áp chính trị với chính sách tuyên truyền mang đặc tính dân tộc chủ nghĩa thời Mao, nhưng để có một phản hồi hiệu quả đòi hỏi sự nhận thức rõ ràng về các chiến lược của Hoa Kỳ từ đó đến nay.
Zakaria cho rằng gần 5 thập niên qua, chiến lược của Hoa Kỳ từ thời của Richard Nixon đến nay không chỉ thuần tiếp cận (engagement) mà còn mang tính ngăn cản (deterrence). Các nhà làm chính sách Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1970 kết luận rằng kết nạp Trung Quốc vào hệ thống chính trị và kinh tế quốc tế có lợi hơn thay vì để nó nằm ngoài, như thế làm cho nó bực bội và quậy phá. Cho nên Washington vừa ủng hộ Trung Quốc gia nhập vào cộng đồng quốc tế, đồng thời tiếp tục ủng hộ các quyền lực khác tại Á châu, kể cả việc bán vũ khí cho Đài Loan. Chủ trương/phương thức này còn được gọi là chiến lược phòng ngừa rủi ro (hedging strategy, để bảo vệ ngược lại các thiệt thòi bằng các biện pháp cân bằng).
Zakaria biện luận Washington làm như thế vì muốn quyền lực của Trung Quốc được kiểm soát và các quốc gia láng giềng cảm thấy an toàn. Zakaria cho rằng chiến lược/chủ trương này tiếp tục được các tổng thống kế nhiệm của cả hai bên duy trì. Zakaria biện luận nếu nói chiến lược này thất bại thì là thiếu cái nhìn lịch sử. Zakaria đưa ra bao nhiêu bằng chứng khác nhau từ trước khi Hoa Kỳ tiếp cận với Trung Quốc, mà Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông là một chế độ thối nát nhất, cho đến nay thì nó đã là một quốc gia có trách nhiệm hơn nhiều. Chẳng hạn, từ năm 2000 đến 2018, Trung Quốc đã ủng hộ182 trên 190 nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm các quy tắc hoặc chuẩn mực quốc tế.
Về lĩnh vực kinh tế thôi, thì cách hành xử của Trung Quốc như chuyển giao công nghệ mang tính bắt buộc, thực hành thương mại không công bằng, tiếp cận hạn chế cho các công ty nước ngoài, thiên vị quy định cho người dân địa phương, thì theo Zakaria, cũng bằng Nhật Bản vào thập niên 1980 và 1990. Nhưng khi sự tăng trưởng tại Nhật giảm dần, những nỗi sợ hãi quá thái này cũng giảm xuống.
Tất nhiên, cách mà Tập Cận Bình quyết tâm sử dụng vai trò của nhà nước để chiếm vị thế áp đảo về kinh tế trong các địa hạt quan yếu sẽ đưa đến những thách thức mới. Nhưng theo Zakaria thì ưu thế lớn nhất của Trung Quốc không đến từ sự sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà từ chính tầm vóc của nó. Thật ra thì những quốc gia có ảnh hưởng nào mà không làm thế. Ngay cả Hoa Kỳ là quốc gia đứng đầu danh sách sử dụng các rào cản không dựa vào thuế quan (nontariff barriers) trong thương mại với các nước khác, rồi đến Ấn Độ, Nga, và Trung Quốc đứng thứ 5. Đặng Tiểu Bình chủ trương "dấu sức mạnh, chờ thời gian", nhưng lúc đó Trung Quốc chỉ chiếm 1 phần trăm tổng sản lượng toàn cầu. Bây giờ chiếm 15 phần trăm. Trong vòng 10 đến 15 năm, nó sẽ có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất về mọi mặt. Khi càng lớn mạnh nó càng muốn thêm quyền lực, kiểm soát và ảnh hưởng, muốn đóng vai trò lớn hơn trong vòng và toàn cầu. Cho nên Zakaria cho rằng việc Trung Quốc trước sau gì cũng tìm kiếm một biện pháp ảnh hưởng độc lập lớn hơn là kết quả tự nhiên. Cho nên Hoa Kỳ, Châu Âu và các nước khác cần ghi nhận như thế.
Zakaria biện luận nếu Washington định nghĩa mọi nỗ lực của Trung Quốc là nguy hiểm, nó sẽ thiết kế để Hoa Kỳ chống lại sự năng động tự nhiên trong quan hệ quốc tế, điều mà học giả Graham Allison gọi là bẫy Thucydides (the Thucydides trap). Đối phó với một quyền lực đang trổi dậy có khả năng đe dọa tư thế của mình kể từ năm 1945 là một thách thức mới và độc nhất kể từ năm 1945 cho đến nay.
Tóm lại, Zakaria kết luận rằng Trung Quốc đã hành động theo những cách được xem là can thiệp (interventionist), theo chủ nghĩa trọng thương và đơn phương (mercantilist and unilateral), nhưng thường ít hơn rất nhiều so với các cường quốc khác. Tuy sự xâm phạm nhân quyền của Trung Quốc là một thách thức lớn đối với nhân loại, và có thể đe dọa các khía cạnh của trật tự quốc tế cấp tiến, nhưng theo Zakaria, chỉ nội điều này thôi thì không nên xem là mối đe dọa sống còn đối với hệ thống quốc tế rộng mở dựa trên quy tắc.
Về chiến lược đối phó với mối lo ngại này
Zakaria phê bình các chiến lược đối phó với Trung Quốc, nhất là chiến lược ngăn chặn (containment), tách rời (decoupling), xu hướng chống lại toàn cầu hóa, và cho rằng nó sẽ đưa đến nhiều thiệt hại và phí tổn đáng kể, kể cả các chính sách của chính quyền Trump trong thời gian qua (tuy Zakaria có đánh giá rằng chủ trương tách rời để tạo thế tương thuộc/interdependence là thông minh vì nó giúp Hoa Kỳ có ưu thế so với Trung Quốc).
Zakaria biện luận rằng "Một trật tự quốc tế bị bể gẫy, chia đôi, được đánh dấu bởi các hạn chế của chính phủ và thuế đối với thương mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự thịnh vượng giảm sút, sự bất ổn dai dẳng và triển vọng xung đột quân sự thực sự đối với tất cả những người liên quan".
Thay vì chọn các giải pháp trên, Zakaria cho rằng một chính sách thông thái hơn là biến Trung Quốc thành đối tác có trách nhiệm (responsible stakeholder), vì vẫn còn có thể thực hiện được (2). Zakaria liệt kê một loạt hành động mà Washington nên làm để Bắc Kinh hành xử có trách nhiệm hơn, như khuyến khích tầm ảnh hưởng của Bắc Kinh mạnh mẽ hơn trong vùng và xa hơn nếu nó được sử dụng để củng cố hệ thống quốc tế. Nỗ lực tham gia của Trung Quốc để giải quyết nạn hâm nóng toàn cầu, lan rộng vũ khí hạt nhân, rửa tiền và khủng bố thì nên được khuyến khích và trân trọng. Điều quan trọng nhất là Washington cần cho Bắc Kinh biết lập trường rõ ràng của mình về những lằn ranh mà Bắc Kinh không thể vượt qua. Chẳng hạn, Washington nên cho biết rõ ràng rằng các chiến thắng của Bắc Kinh bằng quân sự lên Đài Loan và Hồng Kông sẽ gặp sự lên án của quốc tế. Nếu Bắc Kinh hành động nguy hiểm không cân nhắc tại Hồng Kông hoặc Đài Loan, thì chính sách hợp tác của Hoa Kỳ sẽ không thể thực hiện được trong nhiều năm. Zakaria biện luận Bắc Kinh đã hưởng lợi nhiều, đã phát thịnh trong thế giới mở và ổn định. Họ không muốn tàn phá thế giới này.
Zakaria kết luận bài viết bằng cách phê bình tác phẩm của "100 năm chạy đua" của Michael Pillsbury mà chính quyền Trump đã khen ngợi. Zakaria phản biện nếu cho rằng đây là cuộc chạy đua đường trường, từ đồng minh của Liên Xô đến sự rạn nứt sau đó, từ Bước Nhảy vọt Vĩ đại đến Cách mạng Văn hóa đến câu chuyện thành công trên con đường tư bản, từ sự thù nghịch sâu đậm với Tây phương cho đến quan hệ thân thiết với Hoa Kỳ, rồi trở lại thái độ thù nghịch v.v… thì nhiều trong số đó có thể kết thúc hoàn toàn (tức không thể gọi là đua đường trường). Theo Zakaria thì Hoa Kỳ nên tiếp tục chính sách tiếp cận cộng với ngăn cản, bắt Trung Quốc phải điều chỉnh trong khi Hoa Kỳ cũng tự điều chỉnh mình để tạo không gian cho nó, thì chiến lược chạy đua này sẽ đạt kết quả.
Vài suy nghĩ ngắn
Bài viết trên của Zakaria có nhiều luận điểm khá thuyết phục, và chắc chắn sẽ làm cho chúng ta suy nghĩ, và sẽ gây lắm tranh cãi. Tạo được sự quan tâm và tranh luận đã là một phần thành công của tác giả.
Nhưng để đánh giá Trung Quốc cho chính xác hơn thì cần phải phân tích vai trò của Đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, Zakaria không phân tích nó trong bài này, và khi nhắc đến trong bài về phát biểu của Ngoại trưởng Mike Pompeo tại viện Hudson (mà Michael Pillsbury làm giám đốc) thì chủ yếu để bác bỏ cái nhìn này. Những nhà phân tích khác nhưJohn Garnaut, Michael Pillsbury, Richard McGregor, chẳng hạn, đều hiểu Tập Cận Bình là sự sống và tâm hồn của Đảng cộng sản Trung Quốc hiện nay, và Đảng là tất cả trong mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa v.v… tại Trung Quốc. Các tác giả này đều nghiền ngẫm sâu sắc những tài liệu mật của Đảng. 12 chiến lược bao vây Trung Quốc của tiến sĩ Pillsbury trên bình diện rộng cũng không đi ngược lại cách nhìn vấn đề của Zakaria (Nên nhớ nội dung của tác phẩm quan trọng hơn là tựa đề của tác phẩm).
Cho nên để đánh giá cho gần sự thật hơn, nhất là với các chế độ cộng sản, thì cần phải có thông tin tình báo, cần tiếp cận những bí mật mà những nghiên cứu học thuật với cặp mắt bình thường không thể nhìn thấy tường tận vấn đề và không thấy bức tranh tổng thể. Đây cũng là một thiếu sót lớn của bài này.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 11/12/2019
********************
(1) Nỗi sợ hãi Trung Quốc mới - Tại sao Mỹ không nên hoảng sợ về kẻ thách thức mới nhất của mình
Fareed Zakaria [1], Foreign Affairs, 6/12/2019.
Khách tham quan trước bức ảnh của Tập Cận Bình tại Trung tâm Triển lãm Bắc Kinh, tháng 9/2019 - Ảnh Jason Lee / Reuters
Vào tháng 2/1947, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã hội ý với các cố vấn chính sách đối ngoại cao cấp nhất của ông ta, George Marshall và Dean Acheson, và một ít các nhà lãnh đạo quốc hội. Chủ đề là kế hoạch của chính quyền hỗ trợ chính phủ Hy Lạp trong cuộc chiến chống lại một cuộc nổi dậy của cộng sản. Marshall và Acheson đã trình bày lý lẽ của họ đối với kế hoạch ấy. Arthur Vandenberg, chủ tịch Ủy ban đối ngoại thượng viện, lắng nghe một cách kỹ lưỡng và sau đó đã đưa ra sự ủng hộ của mình kèm một lời cảnh báo. 'Cách duy nhất ngài sẽ có được những gì ngài muốn', ông được kể là đã nói với tổng thống, 'là phát biểu và hù dọa cả nước'.
Trong vài tháng sau đó, Truman đã làm đúng điều ấy. Ông ta đã biến cuộc nội chiến ở Hy Lạp thành một phép thử về khả năng của Mỹ đối đầu với chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Khi ngẫm tới lời hùng biện mở rộng của Truman về việc trợ giúp các nền dân chủ ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, Acheson thú nhận trong hồi ký của mình rằng chính quyền đã đưa ra một lập luận 'còn rõ hơn cả sự thật'.
Một cái gì đó tương tự thế đang xảy ra ngày nay trong cuộc tranh luận của người Mỹ về Trung Quốc. Một sự đồng thuận mới, bao gồm cả hai đảng, nhóm nắm quyền quân sự và các thành tố chính của truyền thông, cho rằng Trung Quốc hiện là mối đe dọa sống còn đối với Mỹ cả về kinh tế lẫn chiến lược, rằng chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc đã thất bại, và Washington cần một chiến lược mới, cứng rắn hơn nhiều để ngăn chặn nó. Sự đồng thuận này đã làm dịch chuyển lập trường của công chúng về phía một sự thù địch gần như có tính bản năng : theo thăm dò ý kiến, 60% người Mỹ hiện có quan điểm bất lợi về nước Cộng hòa Nhân dân này, một mức cao kỷ lục kể từ khi Trung tâm nghiên cứu Pew bắt đầu đặt câu hỏi đó vào năm 2005. Nhưng giới tinh hoa Washington đã làm cho lý lẽ của họ 'còn rõ hơn cả sự thật'. Bản chất của thách thức từ Trung Quốc khác xa và phức tạp hơn nhiều so với những gì đám gieo rắc hoang mang mới miêu tả. Về vấn đề chính sách đối ngoại quan trọng nhất độc nhất vô nhị trong vài thập kỷ tới đây, nước Mỹ đang tự sắp đặt cho mình một thất bại đắt giá.
Hãy nói cho rõ : Trung Quốc là một chế độ đàn áp sử dụng các chính sách hoàn toàn hẹp hòi, từ việc cấm tự do ngôn luận đến giam giữ các nhóm thiểu số tôn giáo. Trong năm năm qua, nó đã tăng cường kiểm soát chính trị và tập trung quyền lực kinh tế trong nước. Ở nước ngoài, nó đã trở thành người cạnh tranh và ở một số nơi thì là đối thủ của Mỹ. Nhưng câu hỏi chiến lược cốt yếu cho người Mỹ ngày nay là liệu những thực tế này có khiến Trung Quốc trở thành một mối đe dọa sống còn [với Mỹ] hay không, và tới mức mà các thực tế ấy như thế, mối đe dọa đó nên được giải quyết như thế nào ?
Các hậu quả của việc phóng đại mối đe dọa của Liên Xô đã là rất lớn : những lạm dụng thô bạo trong nước trong thời kỳ McCarthy ; một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân nguy hiểm ; một cuộc chiến dài, vô ích và không thành công ở Việt Nam ; và vô số các can thiệp quân sự khác ở nhiều quốc gia được gọi là Thế giới thứ ba. Các hậu quả của việc không nắm được cái thách thức Trung Quốc ngay hôm nay sẽ còn lớn hơn. Mỹ có nguy cơ phung phí những lợi ích đã giành được một cách khó nhọc từ bốn thập kỷ can dự với Trung Quốc, khuyến khích Bắc Kinh áp dụng các chính sách đối đầu của riêng nó, và đưa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một cuộc xung đột nguy hiểm với quy mô và phạm vi không biết được mà nó sẽ gây ra nhiều thập kỷ bất ổn và không an toàn. Một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc có thể sẽ kéo dài và tốn kém hơn nhiều so với chiến tranh lạnh đối với Liên Xô, với một kết cục không chắc chắn.
Cam kết đứt quãng
Henry Kissinger đã lưu ý rằng Mỹ đã tham gia vào tất cả các can dự quân sự lớn của mình kể từ năm 1945 - tại Hàn Quốc, Việt Nam, Afghanistan và Iraq - với sự nhiệt tình và hỗ trợ lưỡng đảng to lớn. 'Và sau đó, khi chiến tranh phát triển', Kissinger nói, 'sự hỗ trợ trong nước cho nó bắt đầu tan rã'. Một cách mau chóng, mọi người đều đã tìm kiếm một chiến lược [để] thoát ra.
Để tránh đi lại cái con đường đó, Mỹ nên dành thời gian để xem xét kỹ các giả định đằng sau sự đồng thuận mới [về] Trung Quốc. Theo nghĩa rộng, chúng là như sau. Thứ nhất, sự tham dự đã thất bại vì nó đã không 'làm chuyển đổi được sự phát triển bên trong và hành vi bên ngoài của Trung Quốc', như các cựu quan chức Mỹ Kurt Campbell và Ely Ratner đã viết trong tạp chí này vào năm 2018. Thứ hai, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ, và bằng cách bành trướng, là mối đe dọa quan trọng nhất tới trật tự quốc tế dựa trên quy tắc mà Mỹ tạo ra sau năm 1945. Ngoại trưởng Mỹ, Mike Pompeo, đã đi còn xa hơn, khi nói trong một bài phát biểu năm 2019 tại Viện Hudson rằng 'Đảng Cộng sản Trung Quốc là một đảng Marx-Lenin tập trung vào đấu tranh và thống trị quốc tế'. Và thứ ba, một chính sách đối đầu chủ động với Trung Quốc sẽ chống lại mối đe dọa đó tốt hơn là một sự tiếp tục cách tiếp cận trước đó.
Sự đồng thuận lưỡng đảng này đã hình thành để đáp lại những thay đổi đáng kể và đáng lo ngại theo nhiều cách ở Trung Quốc. Kể từ khi chủ tịch Tập Cận Bình trở thành người cầm quyền tối cao của đất nước, tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại và cải cách chính trị của nó - trong mọi trường hợp đều hạn chế - đã bị đảo ngược. Bắc Kinh giờ đây kết hợp sự đàn áp chính trị với tuyên truyền dân tộc chủ nghĩa tương tự như trong thời đại của Mao. Ở nước ngoài, Trung Quốc đầy tham vọng và quyết đoán. Những thay đổi này là có thật và đáng lo ngại. Nhưng chúng nên làm thay đổi chính sách của Mỹ như thế nào ?
Thành hình nên một phản ứng hiệu quả thì đòi hỏi phải bắt đầu với một sự hiểu biết rõ ràng về chiến lược [về] Trung Quốc của Mỹ cho tới thời điểm này. Điều mà sự đồng thuận mới đang bỏ lỡ là trong gần 5 thập kỷ kể từ việc mở cánh cửa vào Bắc Kinh của tổng thống Mỹ Richard Nixon, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc chưa bao giờ đơn thuần là cam kết tham dự cả ; nó đã là sự kết hợp của tham dự và răn đe. Vào cuối những năm 1970, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã kết luận rằng việc tích hợp Trung Quốc vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu tốt hơn là để nó ngồi ngoài, bực bội và quậy phá. Nhưng Washington đã kết hợp nỗ lực đó với sự hỗ trợ nhất quán cho các quốc gia quyền lực Châu Á khác - bao gồm, tất nhiên, tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Cách tiếp cận đó, đôi khi được mô tả như là một 'chiến lược phòng ngừa rủi ro', đảm bảo rằng khi Trung Quốc trỗi dậy, sức mạnh của nó đã được kiểm tra và các nước láng giềng của nó cảm thấy an toàn.
Trong những năm 1990, không còn kẻ thù Liên Xô nào để mà ngăn chặn nữa, Lầu Năm Góc đã cắt giảm chi tiêu, đóng cửa các căn cứ và giảm số quân trên khắp thế giới - ngoại trừ ở Châu Á. Chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương 1995 của Lầu Năm Góc, được gọi là Sáng kiến Nye, đã cảnh báo về các tham vọng chính sách đối ngoại và xây dựng quân đội của Trung Quốc và tuyên bố rằng Mỹ sẽ không giảm sự hiện diện quân sự tại khu vực này. Thay vào đó, ít nhất 100 ngàn lính Mỹ sẽ ở lại Châu Á trong tương lai gần. Việc bán vũ khí cho Đài Loan sẽ tiếp tục vì lợi ích hòa bình ở eo biển Đài Loan - nghĩa là răn đe Bắc Kinh sử dụng vũ lực chống lại hòn đảo tự trị ấy mà chính phủ đại lục coi là một phần của Trung Quốc.
Cách tiếp cận phòng ngừa rủi ro này được duy trì bởi các tổng thống của cả hai đảng. Chính quyền George W. Bush đã lật ngược hàng thập kỷ chính sách lưỡng đảng và ôm lấy Ấn Độ như một cường quốc hạt nhân, phần lớn để thêm một kiểm tra khác về Trung Quốc. Dưới thời tổng thống Barack Obama, Mỹ đã tăng cường răn đe, mở rộng dấu chân ở Châu Á bằng các thỏa thuận quân sự mới với Úc và Nhật Bản, và nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam. Đó cũng là mục đích của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được thiết kế để cung cấp cho các nước Châu Á một nền tảng kinh tế cho phép họ chống lại sự thống trị của thị trường Trung Quốc. (Chính quyền Trump đã rút khỏi thỏa thuận đó vào đầu năm 2017). Cá nhân Obama đã đối đầu với ông Tập về vấn đề không gian mạng của Trung Quốc và áp thuế nhập khẩu lốp xe để trả đũa các chính sách thương mại không công bằng của Trung Quốc.
Nói rằng [chiến lược] bảo hiểm rủi ro đã thất bại thì toát lên tính thiếu quan điểm lịch sử. Đầu những năm 1970, trước khi Nixon mở cánh cửa vào Trung Quốc, Bắc Kinh đã là chế độ đểu cáng vĩ đại nhất thế giới. Mao Trạch Đông bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng ông ta là người cầm lái một phong trào cách mạng sẽ hủy diệt thế giới tư bản phương Tây. Đã chẳng có biện pháp nào là quá cực đoan cho mục đích đó - kể cả sự hủy diệt hạt nhân cũng không loại trừ. 'Trong trường hợp xấu nhất và nếu một nửa nhân loại đã chết', Mao giải thích trong một bài phát biểu tại Moscow năm 1957, 'nửa còn lại sẽ còn lại trong khi chủ nghĩa đế quốc sẽ bị san phẳng tới tận mặt đất và cả thế giới sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa'. Trung Quốc của Mao đã xúi bẩy và tài trợ cho các cuộc nổi dậy chống phương Tây, các phong trào du kích và các phong trào tư tưởng trên khắp thế giới, từ Mỹ Latinh đến Đông Nam Á. Theo một ước tính, Bắc Kinh đã chi từ 170 triệu đến 220 triệu USD từ năm 1964 đến 1985 chỉ riêng ở Châu Phi, đào tạo 20 ngàn chiến binh từ ít nhất 19 quốc gia.
Để so sánh, Trung Quốc ngày nay là một quốc gia có trách nhiệm đáng kể trên mặt trận địa chính trị và quân sự. Nó đã không tham chiến từ năm 1979. Nó đã không sử dụng lực lượng quân sự giết chóc ở nước ngoài kể từ năm 1988. Nó cũng đã không tài trợ hoặc hỗ trợ cho các lực lượng ủy nhiệm hay các cuộc nổi dậy vũ trang ở bất cứ đâu trên thế giới kể từ đầu những năm 1980. Kỷ lục không can thiệp đó là độc nhất vô nhị trong số các cường quốc trên thế giới. Tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đều đã sử dụng vũ lực nhiều lần ở nhiều nơi trong vài thập kỷ qua - một danh sách, tất nhiên, do Mỹ dẫn đầu.
Trung Quốc cũng đã đi từ chỗ tìm cách làm suy yếu hệ thống quốc tế đến chi một khoản lớn để củng cố nó. Bắc Kinh hiện là nhà tài trợ lớn thứ hai của Liên Hiệp Quốc và chương trình gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Nó đã triển khai 2.500 nhân viên gìn giữ hòa bình, nhiều hơn tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng bảo an cộng lại. Từ năm 2000 đến 2018, Trung Quốc đã ủng hộ 182 trong số 190 nghị quyết của Hội đồng bảo an áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm các quy tắc hoặc chuẩn mực quốc tế. Hẵng cứ cho là như thế này, các nguyên tắc neo giữ chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay - 'tôn trọng chủ quyền', 'toàn vẹn lãnh thổ', và 'không can thiệp' - được cổ vũ phần lớn bởi một mong muốn chống lại sự can thiệp của phương Tây. Tuy nhiên, chúng nhấn mạnh một sự chuyển dịch đáng chú ý từ một chương trình nghị sự cách mạng cấp tiến sang một mối quan tâm bảo thủ về sự ổn định. Ai đó đã dự đoán vào năm 1972 rằng Trung Quốc sẽ trở thành người bảo vệ nguyên trạng quốc tế, song ít ai đã tin được điều đó là có thể.
Địa vị thương mại
Sự đồng thuận mới về hành vi kinh tế của Trung Quốc thì cho rằng Trung Quốc đã buộc các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ, đã trợ cấp cho 'các công ty thành công nhất của quốc gia' và đặt các rào cản chính thức và không chính thức trên con đường các công ty nước ngoài tìm cách thâm nhập thị trường Trung Quốc. Nói tóm lại, Bắc Kinh đã sử dụng nền kinh tế quốc tế mở để củng cố hệ thống trung ương tập quyền và chủ nghĩa trọng thương của riêng mình.
Đúng là những chính sách không công bằng này đòi hỏi phải chú ý và hành động từ phần còn lại của thế giới. Chính quyền Trump xứng đáng nhận được một sự tín nhiệm nhất định nào đó cho việc giải quyết vấn đề này - đặc biệt là trong bối cảnh Tập đã ôm lấy [kinh tế] trung ương tập quyền sau nhiều thập kỷ tự do hóa. Nhưng sự đảo ngược này lớn và lâu dài đến thế nào ? Các tập quán của Trung Quốc thì khác với các nước thị trường mới nổi khác hiện nay ra sao ? Và một lần nữa, phản ứng đúng của người Mỹ là gì ?
Hầu hết tất cả các nhà kinh tế đều đồng ý rằng Trung Quốc có được nhiều thành công kinh tế của mình nhờ ba yếu tố cơ bản : chuyển đổi từ kinh tế học cộng sản sang cách tiếp cận dựa trên thị trường hơn, một tỷ lệ tiết kiệm cao giúp đầu tư vốn lớn, và tăng năng suất. Trong ba thập kỷ qua, nước này cũng đã mở cửa đáng kể cho đầu tư nước ngoài - nhiều hơn so với nhiều thị trường mới nổi lớn khác - cho phép vốn đổ vào. Trung Quốc là một trong chỉ có hai nước đang phát triển được xếp hạng trong 25 thị trường hàng đầu đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài kể từ năm 1998. Trong nhóm BRICS gồm các thị trường mới nổi lớn (bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), Trung Quốc luôn được xếp hạng là nền kinh tế mở và cạnh tranh nhất. Còn như tác động của các chính sách trọng thương của Trung Quốc đối với nền kinh tế Mỹ, cựu Bộ trưởng tài chính Mỹ, Lawrence Summers, đã lưu ý rằng 'không thể tranh luận một cách nghiêm túc rằng các thực tế thương mại không công bằng của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến tăng trưởng của Mỹ thậm chí là 0,1% mỗi năm'.
Điều đáng chú ý là trên mặt trận kinh tế, hầu hết mọi trách nhiệm đổ cho Trung Quốc ngày nay - chuyển giao công nghệ bắt buộc, thực hành thương mại không công bằng, việc tiếp cận hạn chế đối dành cho các công ty nước ngoài, thiên vị pháp lý cho các công ty địa phương - cũng đã được đổ cho Nhật Bản trong những năm 1980s và 1990s. Vào thời điểm đó, cuốn sách đầy ảnh hưởng 'Địa vị thương mại : Nước Mỹ đang nhượng tương lai của mình lại cho Nhật Bản như thế nào và Làm thế nào để giành lại nó' (Trading Places : How America Is Surrendering Its Future to Japan and How to Win It Back) của Clyde Prestowitz đã giải thích rằng Mỹ chưa bao giờ tưởng tượng ra được việc giao dịch với một quốc gia mà 'công nghiệp và thương mại [có lẽ được] tổ chức như một phần của một nỗ lực nhằm đạt được các mục tiêu quốc gia cụ thể'. Một cuốn sách được đọc rộng rãi khác của thời đại đó có tựa đề 'Cuộc chiến sắp tới với Nhật Bản'. Khi tăng trưởng của Nhật Bản giảm dần, những nỗi sợ hãi thái quá này cũng vậy.
Trung Quốc hôm nay đặt ra một số thách thức mới, đặc biệt là quyết tâm của Tập Cận Bình để nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc giúp nước này giành được địa vị thống trị về kinh tế trong các lĩnh vực quan trọng. Nhưng trong lịch sử rộng lớn với nhiều điều ít được để ý, lợi thế lớn nhất của Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu không đến từ việc họ sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà chỉ từ quy mô/kích cỡ của nó. Các quốc gia và công ty muốn tiếp cận với Trung Quốc và sẵn sàng nhượng bộ để có được nó. Điều này hầu như không làm cho Trung Quốc trở nên bất thường. Các quốc gia khác có ảnh hưởng tương tự thường đi xa nữa với hành vi tương tự hoặc tệ hơn - không ai khác hơn là chính Mỹ cũng vậy. Một báo cáo năm 2015 của gã khổng lồ về dịch vụ tài chính, Credit Suisse, cung cấp một danh sách hữu ích về các rào cản chống lại hàng hóa nước ngoài đã được các nước lớn đưa ra từ năm 1990 đến 2013. Với tổng số gần 450 rào cản, Mỹ là một liên minh riêng mình. Tiếp theo là Ấn Độ, sau đó là Nga. Trung Quốc đứng ở vị trí thứ 5, với chỉ một phần ba các rào cản phi thuế quan được áp đặt so với Mỹ. Bức tranh đã không thay đổi mấy trong những năm kể từ đó.
Hầu hết các thay đổi gần đây trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh đã là tiêu cực, nhưng thậm chí cái đó cũng vẫn chưa phải là toàn bộ câu chuyện. Trung Quốc đang thay đổi theo một số đường lối, đôi khi mâu thuẫn nhau. Ngay cả với việc quay trở lại sự kiểm soát nhà nước lớn hơn dưới thời Tập, thì một thị trường tự do hoang dã cũng đã phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực rộng lớn như hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ. Cũng đã có việc tự do hóa trong lập quy thực sự nào đó - thậm chí là cải cách hành chính và tư pháp, như nhà khoa học chính trị Yuen Yuen Ang [2] đã nêu chi tiết. Sự hỗ trợ của chính phủ cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước lớn hơn so với vài năm trước, nhưng Bắc Kinh đã từ bỏ cái một thời đã từng là một phần trung tâm của chiến lược trọng thương của mình : sử dụng một đồng tiền được [có chủ ý] định giá thấp để thúc đẩy tăng trưởng. Nhà kinh tế học Nicholas Lardy [3] đã tính toán rằng sự kết thúc của chủ nghĩa trọng thương tiền tệ chiếm 'khoảng một nửa sự chậm lại tăng trưởng của Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu'.
Hoặc xem đó là cái gì, cái nói theo Peter Navarro, cố vấn thương mại hàng đầu của tổng thống Mỹ Donald Trump, vấn đề số một trong tranh chấp thương mại của Mỹ với Trung Quốc : 'hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ của chúng ta'. Việc Trung Quốc tham gia vào chuyện trộm cắp tràn lan sở hữu trí tuệ là một thực tế được chấp nhận rộng rãi - ngoại trừ trong số các công ty Mỹ đang kinh doanh tại Trung Quốc. Trong một cuộc khảo sát gần đây về các công ty như vậy do Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Trung (US-China Business Council) thực hiện, bảo vệ sở hữu trí tuệ đứng thứ 6 trong danh sách các mối quan tâm cấp bách, đã giảm xuống từ vị trí thứ 2 trong năm 2014. Các công ty này lo ngại nhiều hơn về tài trợ của nhà nước cho các công ty đối thủ và việc trì hoãn phê duyệt giấy phép cho sản phẩm của họ. Tại sao sự thay đổi này lại từ năm 2014 ? Năm đó, Trung Quốc đã tạo ra các tòa án chuyên ngành đầu tiên để xử lý các vụ án sở hữu trí tuệ. Năm 2015, các nguyên đơn nước ngoài đã đưa 63 vụ ra Tòa án Sở hữu trí tuệ Bắc Kinh. Tòa án đã phán quyết cho các công ty nước ngoài thắng kiện trong tất cả 63 vụ.
Tất nhiên, những cải cách như thế này thường chỉ được thực hiện khi đối mặt với áp lực của phương Tây và, mặc dù thế, bởi vì chúng phục vụ lợi ích cạnh tranh của chính Trung Quốc - công ty nộp đơn xin cấp bằng sáng chế lớn nhất trên toàn thế giới năm ngoái là gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei. Nhưng cũng đúng là nhiều nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách cấp cao của Trung Quốc đã lập luận rằng nước này sẽ hiện đại hóa và phát triển kinh tế chỉ khi nó theo đuổi cải cách hơn nữa. Không làm thế, họ đã cảnh báo, sẽ khiến đất nước bị mắc kẹt trong 'bẫy thu nhập trung bình' - số phận chung của các quốc gia thoát nghèo nhưng vấp phải bức tường với mức GDP khoảng 10 ngàn USD trên đầu người, đã thất bại trong việc hiện đại hóa nền kinh tế, hệ thống pháp quy và pháp lý của họ hơn nữa.
Chừng nào sự phát triển chính trị của Trung Quốc còn đáng quan ngại, phán quyết này vẫn còn không rõ ràng. Trung Quốc đã không mở cửa chính trị của mình đến mức như nhiều người đã dự đoán ; trong thực tế nó đã tiến tới sự đàn áp và kiểm soát lớn hơn. Đối xử tồi tệ của Bắc Kinh với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, một khu vực ở tây bắc Trung Quốc, đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân quyền. Nhà nước cũng đã bắt đầu sử dụng các công nghệ mới, như phần mềm nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo, để tạo ra một hệ thống kiểm soát xã hội kiểu Orwell [4]. Những thực tế này là một thảm kịch đối với người dân Trung Quốc và là một trở ngại cho đất nước tham gia lãnh đạo toàn cầu. Tuy nhiên, sẽ là một sự cường điệu khi thêm chúng vào làm bằng chứng cho sự thất bại của chính sách của Mỹ. Trong thực tế, rất ít quan chức Mỹ từng lập luận rằng sự tham dự sẽ dẫn một cách không thể lay chuyển nổi tới nền dân chủ tự do ở Trung Quốc. Họ hy vọng rằng nó sẽ diễn ra như vậy, thậm chí mong đợi điều ấy, nhưng trọng tâm của họ luôn đặt vào việc tiết chế hành vi bên ngoài của Trung Quốc, điều mà họ đã đạt được.
Băng qua lằn ranh
Dưới thời Tập, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trở nên tham vọng và quyết đoán hơn, từ việc theo đuổi vai trò lãnh đạo của nó trong các cơ quan của Liên Hiệp Quốc cho tới Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI, Belt and Road Initiative) mênh mông và việc xây dựng các hòn đảo ở Biển Đông. Những động thái này đánh dấu một bước đột phá đối với sự thụ động xưa của đất nước trên trường quốc tế, bị kìm giữ bởi câu ngạn ngữ của nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây là Đặng Tiểu Bình 'Giấu sức mạnh, chờ thời' [5]. Đặc biệt, việc xây dựng quân đội của Trung Quốc là quy mô và được thiết kế theo cách gợi ý rằng một kế hoạch dài hạn đang được thực hiện một cách có hệ thống. Nhưng mức độ ảnh hưởng chấp nhận được đối với Trung Quốc sẽ là gì, với trọng lượng kinh tế của nó trên thế giới ? Nếu Washington không đặt câu hỏi này trước tiên, họ không thể đưa ra những tuyên bố nghiêm túc về những việc sử dụng quyền lực nào của Trung Quốc là vượt qua lằn ranh.
Trung Quốc, theo một số thước đo, đã là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trong vòng 10 đến 15 năm nữa, nó có thể sẽ chiếm vị trí này theo mọi thước đo. Đặng đã đưa ra lời khuyên của mình 'chờ thời' đến khi nền kinh tế của đất nước chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu. Ngày nay, nó đang đại diện cho hơn 15%. Trung Quốc thực sự đã chờ đợi đến thời của mình, và giờ đây, một Trung Quốc mạnh mẽ hơn nhiều một cách tự nhiên sẽ tìm kiếm một vai trò khu vực và toàn cầu lớn hơn.
Hãy xem trường hợp của một quốc gia khác đang trỗi dậy mạnh mẽ, điều này trở lại vào thế kỷ XIX, mặc dù không gần như trên quy mô của Trung Quốc ngày nay. Mỹ vào năm 1823 đã là nước mà bây giờ gọi là một quốc gia đang phát triển - thậm chí không nằm trong số 5 nền kinh tế hàng đầu thế giới - ấy vậy mà với Học thuyết Monroe, nó đã tuyên bố yêu sách toàn bộ bán cầu Tây cấm không được bén mảng đối với các cường quốc ở Châu Âu. Trường hợp của Mỹ là một sự tương tự không hoàn hảo, nhưng nó như một lời nhắc nhở rằng khi các nước có được sức mạnh kinh tế, chúng sẽ tìm kiếm sự kiểm soát và ảnh hưởng lớn hơn đối với môi trường của mình. Nếu Washington xác định mọi nỗ lực như vậy của Trung Quốc là nguy hiểm, thì nó sẽ khiến Mỹ chống lại các động lực tự nhiên của đời sống quốc tế và rơi vào cái mà học giả Graham Allison đã gọi là 'cái bẫy Thucydides' [6] - nguy cơ của một cuộc chiến giữa một cường quốc đang trỗi dậy và một nước bá chủ lo lắng.
Đối với Mỹ, đối phó với một đối thủ cạnh tranh như vậy là một thách thức mới và độc nhất vô nhị. Kể từ năm 1945, các quốc gia lớn vươn lên giàu có và nổi bật đều là những đồng minh thân cận nhất của Washington, nếu không phải là những nước gần như là được bảo hộ : Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một đặc tính thường gây rối trong cuộc sống quốc tế - các cường quốc mới đang trỗi dậy - do đó đều cực kỳ lành tính đối với Mỹ. Tuy vậy, Trung Quốc không chỉ lớn hơn nhiều so với các cường quốc đang trỗi dậy trước đó ; nó cũng luôn nằm ngoài cấu trúc liên minh và phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Kết quả là, nó chắc chắn sẽ tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng độc lập lớn hơn. Thách thức đối với Mỹ, và phương Tây nói chung, sẽ là xác định phạm vi có thể chấp nhận được đối với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc và thích ứng với nó - để có được sự tín nhiệm khi các hành động của Bắc Kinh vượt qua lằn ranh.
Cho đến nay, hồ sơ theo dõi của phương Tây về việc thích nghi với sự trỗi dậy của Trung Quốc rất kém. Thí dụ, cả Mỹ và Châu Âu đều miễn cưỡng nhượng lại bất kỳ mảnh đất nào cho Trung Quốc trong các thể chế cốt lõi quản trị kinh tế toàn cầu, Ngân hàng thế giới WB (World Bank) và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), vẫn là các câu lạc bộ Âu-Mỹ. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong Ngân hàng phát triển Châu Á ADB (Asian Development Bank), nhưng Mỹ đã chống lại. Kết quả là vào năm 2015, Bắc Kinh đã thành lập tổ chức tài chính đa phương của riêng mình, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á AIIB (Asian Infrastructure Investment Bank) (mà Washington chống lại song không có kết quả).
Pompeo đã khẳng định - trong một tuyên bố kiểu bề trên mà chắc chắn sẽ chọc giận bất cứ công dân Trung Quốc nào - rằng Mỹ và các đồng minh phải giữ Trung Quốc ở 'đúng chỗ của nó'. Tội lỗi của Trung Quốc, theo Pompeo, là họ chi nhiều cho quân đội hơn mức cần thiết cho quốc phòng của mình. Nhưng điều tương tự vậy, tất nhiên, cũng có thể nói về Mỹ - và của Pháp, Nga, Vương quốc Anh và hầu hết các nước lớn khác. Trong thực tế, một định nghĩa hữu ích về một cường quốc là một nước có liên quan tới nhiều hơn là chỉ liên quan tới an ninh riêng của mình.
Trật tự cũ - trong đó các nước Châu Âu nhỏ đóng vai trò những đối thủ nặng ký toàn cầu trong khi những con hà mã to vật như Trung Quốc và Ấn Độ lại bị loại khỏi những thứ hạng hàng đầu của các tổ chức toàn cầu - không thể duy trì được nữa. Trung Quốc sẽ phải được dành một vị trí bên bàn và phải được tích hợp một cách thành thật vào các cấu trúc ra quyết định, hoặc họ sẽ tự do và đơn phương tạo ra các cấu trúc và các hệ thống mới của riêng mình. Sự thăng tiến của Trung Quốc tới quyền lực toàn cầu là yếu tố mới quan trọng nhất trong hệ thống quốc tế trong nhiều thế kỷ. Nó phải được công nhận như vậy
Không tự do, chẳng quốc tế lẫn chả có trật tự
Đối với nhiều người, sự trỗi dậy của Bắc Kinh đã báo hiệu về hồi chuông báo tử của trật tự quốc tế tự do - tập hợp các chính sách và các định chế, được rèn dập phần lớn bởi Mỹ sau Thế chiến thứ II, tạo nên tổng thể một hệ thống dựa trên luật lệ, trong đó chiến tranh giữa các nước đã mất dần tầm quan trọng trong khi thương mại tự do và nhân quyền đã phát triển mạnh mẽ. Đặc điểm chính trị trong nước của Trung Quốc - một quốc gia độc đảng không cho phép sự phản đối hay bất đồng chính kiến - và một số hành động quốc tế của nó khiến nó trở thành một người chơi không dễ dàng gì trong hệ thống này.
Tuy nhiên, đáng ghi nhớ là trật tự quốc tế tự do chưa bao giờ là tự do, quốc tế, hay có trật tự như bây giờ vẫn được mô tả một cách luyến tiếc cả. Ngay từ đầu, nó đã vấp phải sự khăng khăng phản đối từ Liên Xô, tiếp theo sau là một loạt các đổ vỡ trong hợp tác giữa các đồng minh (qua cuộc khủng hoảng Suez năm 1956, qua Việt Nam một thập kỷ sau) và sự đào ngũ phần nào đó của Mỹ dưới thời Nixon, người vào năm 1971 đã chấm dứt thực tiễn bảo lãnh của Washington đối với trật tự tiền tệ quốc tế bằng việc sử dụng dự trữ vàng của Mỹ. Một hình ảnh thực tế hơn là một trật tự quốc tế tự do non trẻ, đã hư hỏng từ đầu bởi những ngoại lệ, sự bất hòa và tính mong manh. Nước Mỹ, về phần mình, lại thường hành động ra ngoài các quy tắc của trật tự này, khi thực hiện các can thiệp quân sự thường xuyên có hoặc không có sự chấp thuận của Liên Hiệp Quốc ; trong những năm từ 1947 đến 1989, khi Mỹ được cho là đang xây dựng trật tự quốc tế tự do, nó đã cố gắng thay đổi chế độ 72 lần trên khắp thế giới. Nó bảo lưu quyền hành giống như vậy trong lĩnh vực kinh tế, tham gia vào chủ nghĩa bảo hộ ngay cả khi nó chống lại các biện pháp khiêm tốn hơn được áp dụng bởi các quốc gia khác.
Sự thật về trật tự quốc tế tự do, như với tất cả các khái niệm như vậy, là chưa từng bao giờ thực sự có một thời kỳ hoàng kim, nhưng cũng không có thứ trật tự bị phân rã quá như nhiều người tuyên bố. Các thuộc tính cốt lõi của trật tự này - hòa bình và ổn định - vẫn còn tồn tại, với sự suy giảm rõ rệt do chiến tranh và thôn tính kể từ năm 1945. (Hành vi của Nga ở Ukraine là một ngoại lệ quan trọng). Về mặt kinh tế, đó là một thế giới thương mại tự do. Thuế quan trung bình giữa các nước đã công nghiệp hóa là dưới 3%, giảm từ 15% trước Vòng đàm phán thương mại quốc tế Kennedy trong thập niên 1960. Thập kỷ vừa qua đã chứng kiến sự thụt lùi về một số độ đo mức toàn cầu hóa nhưng từ mức cơ bản cực kỳ cao. Toàn cầu hóa từ năm 1990 có thể được mô tả là đã tiến lên ba bước và chỉ lùi một bước.
Trung Quốc hầu như không đủ điều kiện là một mối nguy hiểm chết người đối với trật tự không hoàn hảo này. Hãy so sánh hành động của nó với Nga - một quốc gia mà trong nhiều đấu trường chỉ đơn giản là kẻ phá hoại, cố gắng phá vỡ thế giới dân chủ phương Tây và các mục tiêu quốc tế của nó, thường được hưởng lợi trực tiếp từ sự bất ổn do nó tăng giá dầu (nguồn tài sản lớn nhất của Kremlin). Trung Quốc không có vai trò như vậy. Khi nó bẻ cong các quy tắc và, thí dụ như, tham gia vào chiến tranh mạng, thì nó đánh cắp các bí mật quân sự và kinh tế thay vì cố gắng phá hoại tính hợp pháp của các cuộc bầu cử dân chủ ở Mỹ hoặc Châu Âu. Bắc Kinh lo ngại sự bất đồng quan điểm và sự phản đối và đặc biệt đau thần kinh với các vấn đề của Hongkong và Đài Loan, sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình để kiểm duyệt các công ty phương Tây trừ khi họ theo đúng đường lối của đảng. Nhưng đây là những nỗ lực để bảo tồn những gì Bắc Kinh coi là chủ quyền của mình - không có gì giống như Moscow, những nỗ lực có hệ thống nhằm gây trở ngại và phá vỡ nền dân chủ phương Tây ở Canada, Mỹ và Châu Âu. Nói tóm lại, Trung Quốc đã hành động theo các cách can thiệp, trọng thương và đơn phương - nhưng thường ít hơn rất nhiều so với các cường quốc khác.
Sự trỗi dậy của một nhà nước độc đảng mà nó tiếp tục bác bỏ các khái niệm cốt lõi về quyền con người thì thể hiện một thách thức. Ở một số khu vực nhất định, các chính sách đàn áp của Bắc Kinh đã đe dọa các thành tố của trật tự quốc tế tự do, như thể các nỗ lực của nó nhằm làm suy yếu các tiêu chuẩn nhân quyền toàn cầu cũng như hành vi của nó ở Biển Đông và các phần 'nước ngoài gần' khác của nó. Những trường hợp đó cần được kiểm tra một cách trung thực. Đối với vấn đề đầu, chẳng mấy điều có thể nói được để giảm nhẹ trách nhiệm. Trung Quốc thì rất muốn né tránh/thoát khỏi [vấn đề về] các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của mình, và chương trình nghị sự đó cần được phơi bày và chống lại. (Quyết định của chính quyền Trump rút khỏi Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã đạt được điều hoàn toàn ngược lại bằng cách nhượng lại lĩnh vực này cho Bắc Kinh).
Nhưng trật tự quốc tế tự do đã có thể thích ứng với nhiều chế độ khác nhau - từ Nigeria tới Saudi Arabia cho đến Việt Nam - và vẫn cung cấp một khung khổ dựa trên các quy tắc mà chúng khuyến khích hòa bình, ổn định và ứng xử văn minh giữa các quốc gia. Quy mô và các chính sách của Trung Quốc đặt ra một thách thức mới đối với việc mở rộng quyền con người chủ yếu đã diễn ra từ năm 1990. Nhưng chuyện một lĩnh vực thoái trào tiềm năng thì không nên được xem là mối đe dọa chết người đối với công cuộc lớn hơn nhiều của một hệ thống quốc tế thương mại tự do, dựa trên quy tắc và rộng mở.
Chính sách ngăn chặn và các phí tổn
Giả định cuối cùng ủng hộ sự đồng thuận mới là chuyện một hình thức đối đầu dai dẳng nào đó với Trung Quốc sẽ răn đe được chủ nghĩa phiêu lưu của nó ra nước ngoài và tạo tiền đề cho một sự chuyển đổi trong nội bộ. Rất ít người hào hứng chấp nhận thuật ngữ 'ngăn chặn' của thời chiến tranh lạnh, nhưng nhiều người chấp nhận một phiên bản logic nào đó của nó. Lý thuyết là một đường lối cứng rắn chống lại Trung Quốc sẽ buộc nước này phải cư xử đàng hoàng và thậm chí cải cách. Không nói ra nhưng rõ ràng trung tâm của chiến lược diều hâu ấy là ý niệm rằng ngăn chặn Trung Quốc sẽ sớm làm sụp đổ chế độ của nó, giống như đã xảy ra với Liên Xô.
Nhưng Trung Quốc không phải là Liên Xô, một đế chế bất tự nhiên được xây dựng dựa trên sự bành trướng thô bạo và thống trị quân sự. Với Trung Quốc, Mỹ sẽ đối đầu với một nền văn minh, và một quốc gia, với ý thức mạnh mẽ về sự đoàn kết và niềm tự hào dân tộc đã vươn lên để giành lấy vị trí trong số các cường quốc của thế giới. Trung Quốc đang trở thành một quốc gia ngang hàng về kinh tế, thực sự là một nhà lãnh đạo công nghệ trong một số lĩnh vực. Dân số của nó làm cho dân số Mỹ thành nhỏ bé và thị trường lớn nhất thế giới cho hầu hết mọi hàng hóa thì hiện đang nằm ở Trung Quốc. Nó sở hữu một số máy tính nhanh nhất hành tinh và nắm giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất trên trái đất. Ngay cả khi nó trải qua một số loại thay đổi chế độ, các đặc điểm rộng lớn hơn về sự trỗi dậy và sức mạnh của nó sẽ vẫn cứ tồn tại.
Lầu Năm Góc đã ôm lấy ý niệm Trung Quốc là 'đối thủ cạnh tranh chiến lược' hàng đầu của Mỹ. Từ một quan điểm quan liêu, chỉ định này có ý nghĩa hoàn hảo. Trong 20 năm qua, quân đội Mỹ đã chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy và du kích ở các quốc gia yếu ớt, và hết lần này đến lần khác phải giải thích tại sao bộ máy đắt tiền của nó đã thất bại trước những kẻ thù thiếu tiền bạc, được trang bị kém này. Ngược lại, để làm kẻ thù của Trung Quốc là quay trở lại những tháng ngày hoàng kim của chiến tranh lạnh, khi Lầu năm góc có thể tăng ngân sách thật lớn bằng cách gợi lên bóng ma của một cuộc chiến tranh chống lại một quân đội giàu có, hiện đại với công nghệ tiên tiến của riêng mình. Suốt thời gian ấy, logic của răn đe hạt nhân và sự thận trọng của các cường quốc đã đảm bảo rằng một cuộc chiến tổng lực giữa hai bên sẽ không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, bất kể lợi thế thế nào về ngân sách của Lầu Năm Góc, chi phí cho một cuộc chiến tranh lạnh như vậy với Trung Quốc sẽ là vô cùng lớn, làm biến dạng nền kinh tế Mỹ và làm phình thêm tổ hợp công nghiệp-quân sự [7] mà tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower từng cảnh báo chống lại.
Hãy thêm vào đó là mức độ phụ thuộc lẫn nhau lớn giữa Mỹ và Trung Quốc. Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng 527% kể từ năm 2001 và vào năm 2018, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Mỹ. Cũng còn có sự phụ thuộc lẫn nhau của con người - hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc học tập tại Mỹ, cùng với gần năm triệu công dân và người định cư Mỹ gốc Hoa. Mỹ đã được hưởng lợi rất nhiều từ việc là nơi tập trung những bộ óc thông minh nhất để thực hiện nghiên cứu tiên tiến nhất rồi sau đó áp dụng nó vào mục đích thương mại. Nếu Mỹ cấm các cửa người tài năng như vậy vì tài năng đó đi với hộ chiếu không hợp lệ, nó sẽ nhanh chóng mất vị trí đặc quyền trong thế giới công nghệ và đổi mới.
Cách tiếp cận hiện nay với Trung Quốc của chính quyền Trump, chạy dọc theo hai đường riêng biệt và mâu thuẫn, cùng một lúc tránh sự phụ thuộc lẫn nhau lẫn đi theo nó. Về thương mại, mục tiêu của Washington nói rộng ra là hội nhập : để Trung Quốc mua thêm từ Mỹ, đầu tư nhiều hơn vào Mỹ và cho phép người Mỹ bán và đầu tư nhiều hơn vào Trung Quốc. Nếu thành công, nỗ lực này sẽ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa hai nước. Đó là một nỗ lực đáng khen ngợi, mặc dù té ra là thuế quan thường gây phí tổn cho bên áp đặt thuế nhiều hơn bên người bị áp thuế. Theo một số ước tính, thuế quan lốp xe của chính quyền Obama làm tốn khoảng 1 triệu USD cho mỗi việc làm mà Mỹ tiết kiệm được. Cách tiếp cận tổng thể, tuy vậy, là khôn ngoan, ngay cả khi được thực hiện nhằm theo đuổi chương trình nghị sự 'nước Mỹ trên hết', vì sự phụ thuộc lẫn nhau mang lại cho Mỹ đòn bẩy lớn hơn đối với Trung Quốc.
Trong các vấn đề về công nghệ, mặt khác, cách tiếp cận của chính quyền Trump là nhất quyết phân rã. Chiến lược ở đây là cắt đứt quan hệ với Trung Quốc và buộc phần còn lại của thế giới phải làm điều tương tự - tạo ra một thế giới bị chia cắt giữa hai phe. Chiến dịch toàn cầu của chính quyền Trump chống lại Huawei đã tuân theo logic này ; kết quả nghèo nàn của chiến dịch đó cho thấy các lỗ hổng logic. Phần còn lại của thế giới không đi theo sự dẫn dắt của Mỹ (mà nó thiếu công nghệ thay thế để cạnh tranh với các chào mời 5G của Huawei). Chính quyền Trump đã yêu cầu 61 quốc gia cấm công ty ấy. Cho đến nay, chỉ có ba nước tham gia, cả ba nước trong số đó đều là đồng minh của Mỹ.
Tỷ lệ thành công ảm đạm này là một dấu hiệu chỉ báo sớm cho thấy chiến lược 'tách rời nhau' rộng hơn sẽ ra như thế nào. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của nhiều quốc gia ngoài Mỹ, bao gồm nhiều người chơi chủ chốt ở Tây bán cầu, chẳng hạn như Brazil. Khi được hỏi họ sẽ phản ứng thế nào với việc tách rời [giữa Mỹ và Trung Quốc], các nhà lãnh đạo cấp cao trên toàn thế giới hầu như đều đưa ra một phiên bản nào đó của câu trả lời mà một người đứng đầu chính phủ đã đưa ra cho tôi : 'Xin đừng yêu cầu chúng tôi phải chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Bạn sẽ không thích câu trả lời bạn nhận được đâu'. Điều này không có nghĩa là họ nhất thiết phải đứng về phía Trung Quốc - nhưng họ có thể thích ở lại không vào phe nào, hoặc chơi ván bài hai cường quốc đó chống lại nhau. Còn hơn thế, một Trung Quốc bị cô lập mà nó sẽ xây dựng chuỗi cung ứng và công nghệ nội địa của riêng mình thì sẽ không bị áp lực bởi Mỹ nữa.
Sự vắng mặt kỳ lạ trong hầu hết các cuộc thảo luận về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là câu hỏi về phản ứng của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng vậy, có những người tạo lập đường lối cứng rắn, những người đã cảnh báo trong suốt nhiều năm rằng Mỹ tìm cách giữ cho Trung Quốc yếu và rằng bất kỳ dấu hiệu tham vọng nào của Trung Quốc cũng sẽ gặp phải một chiến lược ngăn chặn. Còn hơn thế nhiều nữa, thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc đang cho phép những tiếng nói đó đòi phải được minh oan, từ đó cho họ đòn bẩy để thúc đẩy chính loại hành vi quyết đoán và gây bất ổn mà chính sách của Mỹ nhắm tới ngăn ngừa.
Mỹ đang trong cuộc đua tranh với Trung Quốc - đó là một thực tế và sẽ vẫn như vậy trong phần lớn thế kỷ này. Vấn đề là liệu Mỹ có nên cạnh tranh trong khuôn khổ quốc tế ổn định hay không, tiếp tục cố gắng hội nhập Trung Quốc [với thế giới hay không] thay vì cố gắng cô lập nó bằng mọi giá. Một trật tự quốc tế bị phá vỡ, phân mảnh, được đánh dấu bởi những hạn chế được đặt ra bởi chính phủ và các loại thuế đối với thương mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự thịnh vượng giảm sút, sự bất ổn dai dẳng và triển vọng thực sự của xung đột quân sự đối với tất cả các bên liên quan.
Sự sụp đổ của toàn cầu hóa, tất nhiên, là mục tiêu của nhiều trong số những quan niệm hàng đầu của chính quyền Trump. Bản thân tổng thống đã công khai chỉ trích 'chủ nghĩa toàn cầu' và coi thương mại tự do là cách để các nước khác cướp bóc ngành công nghiệp Mỹ. Ông coi các liên minh của Mỹ là lỗi thời, còn những định chế và chuẩn mực quốc tế là những ràng buộc hạn chế không đáng có đối với chủ quyền quốc gia. Những người dân túy cánh hữu đã ôm chặt lấy những quan điểm này trong nhiều năm. Và nhiều người trong số họ - đặc biệt là ở Mỹ - hiểu chính xác rằng cách dễ nhất để phá vỡ toàn bộ kiến trúc quốc tế tự do sẽ là gây ra một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc. Khó hiểu hơn nữa nằm ở chỗ những người đã dành hàng thập kỷ để xây dựng cái kiến trúc đó đang sẵn sàng hỗ trợ một chương trình nghị sự chắc chắn sẽ phá hủy nó.
Chiến lược không quá bí mật của Mỹ
Một chính sách khôn ngoan hơn của Mỹ, hướng đến việc biến Trung Quốc thành một 'cổ đông có trách nhiệm', vẫn có thể đạt được. Washington nên khuyến khích Bắc Kinh phát huy ảnh hưởng lớn hơn trong khu vực của mình và xa hơn, miễn là họ sử dụng ảnh hưởng này để củng cố hệ thống quốc tế. Sự tham gia của Trung Quốc vào những nỗ lực giải quyết [các vấn đề của loài người] sự nóng lên toàn cầu, phổ biến hạt nhân, rửa tiền và khủng bố nên được khuyến khích - và đánh giá cao. Sáng kiến Vành đai và Con đường của Bắc Kinh có thể là một lợi ích cho thế giới đang phát triển nếu được theo đuổi một cách cởi mở và minh bạch, ngay cả khi hợp tác với các nước phương Tây ở bất cứ nơi nào có thể. Về phần mình, Bắc Kinh sẽ cần chấp nhận sự chỉ trích của Mỹ về các vấn đề nhân quyền, tự do ngôn luận và tự do nói một cách tổng quát hơn.
Những điểm bắt cháy nguy hiểm nhất có thể là Hongkong và Đài Loan, nơi hiện trạng rất mong manh và cán cân quyền lực thì ủng hộ Bắc Kinh. Lầu năm góc đã ban hành 18 bài tập mô phỏng chiến tranh chống lại Trung Quốc trên Đài Loan và lần nào thì Trung Quốc cũng đã thắng. Washington nên làm rõ rằng bất kỳ chiến thắng nào như vậy cũng sẽ là chiến thắng kiểu Pyrros [8], dẫn đến sự sụp đổ kinh tế ở Hongkong hoặc Đài Loan, sự di cư hàng loạt từ các đảo đó và sự lên án của quốc tế. Nếu Bắc Kinh hành động một cách mau lẹ [nguyên văn : dốc/dựng đứng] ở Hongkong hoặc Đài Loan, chính sách hợp tác của Mỹ sẽ trở nên không thể biện hộ được trong nhiều năm.
Sự đồng thuận mới về Trung Quốc bắt nguồn từ nỗi sợ hãi rằng một lúc nào đó nước này có thể chiếm lấy toàn cầu. Nhưng có lý do để có niềm tin vào sức mạnh và mục đích của Mỹ. Cả Liên Xô lẫn Nhật Bản đều không thể chiếm lĩnh thế giới, bất chấp những lo ngại tương tự về sự trỗi dậy của họ. Trung Quốc đang trỗi dậy nhưng phải đối mặt với một loạt thách thức nội bộ, từ sự suy vi nhân khẩu học đến hàng núi nợ nần. Nó đã thay đổi trước đó và sẽ buộc phải thay đổi một lần nữa nếu các lực tích hợp và răn đe tiếp tục đè lên nó. Giới tinh hoa Bắc Kinh biết rằng đất nước của họ đã thịnh vượng trong một thế giới cởi mở và ổn định. Họ không muốn phá hủy thế giới đó. Và mặc dù có một thập kỷ trì trệ chính trị trên đại lục, mối liên hệ giữa sự trỗi dậy của tầng lớp trung lưu và đòi hỏi mở cửa chính trị lớn hơn nữa là có thật, như đối với hai xã hội Trung Quốc vẫn được Bắc Kinh theo dõi sát sao - Hồng Kông và Đài Loan.
Một số nhà quan sát Mỹ nói về quan điểm lâu dài của Trung Quốc, về kế hoạch bí mật, kiên nhẫn của nó thống trị thế giới, liên tục được thực hiện kể từ năm 1949, nếu không phải là từ trước đó. Học giả và cựu quan chức Bộ quốc phòng Mỹ, Michael Pillsbury, đã gọi nó là 'cuộc đua marathon trăm năm' của Trung Quốc trong một cuốn sách thường được chính quyền Trump ca ngợi. Nhưng một bức tranh chính xác hơn là về một đất nước đã chần chừ một cách phù hợp từ một liên minh chặt chẽ với Liên Xô đến sự chia rẽ Trung-Xô, từ Đại nhảy vọt tới Cách mạng văn hóa đến một câu chuyện thành công tư bản, và từ sự thù địch sâu sắc đối với phương Tây tới quan hệ chặt chẽ với Mỹ rồi quay trở lại việc tán tỉnh với thái độ thù địch. Nếu đây là một cuộc đua marathon, nó đã thực hiện một số bước ngoặt kỳ lạ, nhiều trong số đó có thể đã chấm dứt nó hoàn toàn.
Trong khi đó, kể từ năm 1949, Mỹ đã kiên nhẫn đưa ra các cấu trúc và chính sách để tạo ra một thế giới ổn định, cởi mở và hội nhập hơn ; đã giúp các nước bước vào thế giới đó ; và đã răn đe những kẻ tìm cách phá hủy nó - tất cả đều thành công đáng kinh ngạc. Washington đã là cái đối ngược với sự do dự/dao động hay tập trung quá mức xét về ngắn hạn. Vào năm 2019, quân đội Mỹ vẫn ở bên bờ sông Rhine, họ vẫn đang bảo vệ Seoul và họ vẫn ở Okinawa.
Trung Quốc đưa ra một thách thức mới và lớn. Nhưng nếu Washington có thể giữ bình tĩnh và kiên nhẫn tiếp tục theo đuổi chính sách cam kết cộng với răn đe, buộc Trung Quốc phải điều chỉnh, trong khi [Mỹ] cũng tự điều chỉnh để tạo không gian cho nó, một học giả nào đó trong nhiều thập kỷ từ bây giờ có thể viết về kế hoạch không có gì là bí mật của Mỹ nhằm mở rộng khu vực hòa bình, thịnh vượng, cởi mở và quản trị tốt trên toàn cầu - một chiến lược marathon đã có kết quả.
Fareed Zakaria
Nguyên tác : The New China Scare - Why America Shouldn't Panic About Its Latest Challenger, Foreign Affairs, 6/12/2019
Một thân hữu của Viet-studies dịch và chú giải
Nguồn : viet-studies, 11/12/2019
[1] Fareed Zakaria : Nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ, năm nay mới 55 tuổi song đã rất thành công trong sự nghiệp báo chí. Tốt nghiệp Đại học Yale và lấy bằng PhD tại Đại học Harvard, F. Zakaria giữ nhiều mục cho các kênh tivi như CNN hay các tạp chí danh tiếng như Foreign Affairs, Washington Post, Newsweek... Khá nổi tiếng, mặc dù còn khá trẻ, với những suy nghĩ tự do, độc đáo và độc lập.
[2] Yuen Yuen Ang : Nhà khoa học chính trị người gốc Singapore, Phó Giáo sư về khoa học chính trị tại Đại học Michigan, trước khi về làm Phó Giáo sư cho Đại học Michigan (2011) cô đã là trợ lý giáo sư tại Đại học Columbia. Tốt nghiệp loại xuất sắc nhất (Summa Cum Laude) Đại học Colorado, lấy bằng thạc sĩ (2003) và PhD (2009) về khoa học chính trị. Là một chuyên gia am hiểu về Trung Quốc, diễn giảng nhiều và viết nhiều cho các tạp chí/báo (như Bloomberg, Foreign Affairs, Project Syndicate, Wall Street Journal...) về Trung Quốc. Các tác phẩm (sách, bài báo...) của cô được nhiều giải thưởng và được nhiều hãng tin, báo, tạp chí trích dẫn.
[3] Nicholas Lardy : Nhà kinh tế học, thành viên cao cấp danh hiệu Anthony M. Solomon tại PIIE (Peterson Institute for International Economics, Viện Peterson về kinh tế quốc tế, Washington D.C.), chuyên gia giỏi về kinh tế Trung Quốc, tác giả của vài chục đầu sách về Trung Quốc. N. Lardy đồng thời là thành viên và là biên tập viên trong ban biên tập của Asia Policy và China Review, Hội đồng quan hệ quốc tế CFR (Council on Foreign Relations, một think-tank hàng đầu thế giới về quan hệ quốc tế, có ảnh hưởng nhất ở Mỹ). N. Lardy tốt nghiệp Đại học Wisconsin (1968) và lấy bằng PhD tại Đại học Michigan (1975), đều về kinh tế học.
[4] Hệ thống kiểu Orwell : Mang tên nhà văn, nhà báo và nhà phê bình người Anh từng mô tả một kiểu điều kiện xã hội 'biểu thị một thái độ và chính sách tàn bạo kiểm soát hà khắc bằng công tác tuyên truyền, giám sát, thông tin sai, chối bỏ sự thật và thao túng quá khứ'.
[5] Tiếng Việt thường được dịch là 'Giấu mình chờ thời'. Nguyên bản tiếng Trung Quốc của câu ngạn ngữ đó là 韜光養晦 (thao quang dưỡng hối), nghĩa đen là 'giấu ánh sáng nuôi dưỡng bóng tối', do Đặng Tiểu Bình sử dụng để ẩn dụ về chính sách đối ngoại của Trung Quốc khi đó.
[6] Cái bẫy Thucydides (Thucydides trap) : Thucydides (nhà sử học thực chứng đầu tiên trên thế giới) đã viết từ hơn 2.400 năm trước trong cuốn 'Lịch sử chiến tranh Peloponnesus' về nguyên nhân của cuộc chiến tranh : 'sự lớn mạnh của cường quốc Athens và nỗi lo sợ mà nó gây ra ở Sparta'. Nói một cách khác, khi một cường quốc trỗi dậy, một cường quốc đã sẵn có sẽ lo ngại và chuẩn bị chiến tranh, với cái này biến thành một vòng luẩn quẩn thì rút cục sẽ dẫn đến chiến tranh. Khái niệm 'cái bẫy Thucydides' đã được G.T. Allison (Giáo sư nổi tiếng về khoa học chính trị tại Trường hành chính Kennedy, Đại học Harvard) đặt ra và sử dụng để ám chỉ rằng sự lo ngại của Mỹ trước sức mạnh đang tăng lên của Trung quốc có thể chuyển hóa thành chiến tranh (nóng hay lạnh). Trong bài báo có tựa đề 'The Thucydides Trap', Foreign Policy 9/5/2017, G. Allison đã tổng kết rằng 'trong 500 năm qua đã có 16 trường hợp trong đó một cường quốc đang nổi lên đe doạ sẽ thay thế một cường quốc cầm quyền. Mười hai trong số này đã kết thúc trong chiến tranh'. Bốn trường hợp còn lại, theo G. Allison là 'Tây Ban Nha vượt qua Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ 15, Mỹ vượt qua Anh vào đầu thế kỷ 20, và sự trỗi dậy của Đức ở Châu Âu từ năm 1990 - sự đi lên của Liên bang xô viết là một bài học độc nhất vô nhị ngày hôm nay. Mặc những khoảnh khắc mà một cuộc đụng độ dữ dội dường như đã chắc chắn diễn ra, một sự dâng trào trí tưởng tượng chiến lược đã giúp cả hai bên phát triển các cách cạnh tranh mà không xảy ra một cuộc xung đột thảm khốc. Cuối cùng, Liên bang xô viết đổ ụp và Chiến tranh lạnh kết thúc với một tiếng rên chứ không phải bằng một tiếng nổ'.
[7] Tổ hợp công nghiệp-quân sự (MIC, Military-Industrial Complex) : Liên minh nhằm những mục đích chung giữa những nhân vật hoạch định chính sách, các tướng lĩnh quân đội với các công ty sản xuất/cung ứng đồ quân sự cũng như những tầng lớp trong xã hội quan tâm tới ngân sách quốc phòng, bao gồm cả những người vận động hành lang. Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, đưa ra khái niệm này lần đầu vào năm 1961 trong diễn văn từ biệt đọc trước quốc hội, cảnh báo về nguy cơ có thể gây hại cho xã hội của liên minh công nghiệp-quân phiệt móc ngoặc và thao túng đó. Xin lưu ý không nên nhầm lẫn với khái niệm Tổ hợp công nghiệp quốc phòng (DIC, Defence-Industrial Complex, trong tiếng Nga là Военно-Промышленный Комплекс, nếu được dịch sát từng chữ cũng sẽ là 'Tổ hợp công nghiệp-quân sự' nên hay gây nhầm lẫn) vẫn được các nhà nghiên cứu lịch sử thiên về kinh tế của các nước phương Tây sử dụng để chỉ Phức hợp công nghiệp-quân sự trong quá trình nghiên cứu về công nghiệp quân sự Liên xô trước đây - bao gồm công nghiệp quốc phòng, các đơn vị nghiên cứu và sản xuất của nó, lực lượng lao động và hệ thống quản lý, các nhà máy và các nhà lãnh đạo, không bao hàm các lãnh đạo Đảng, nhà nước, quân đội chuyên nghiệp cũng như một số thành phần khác.
[8] Chiến thắng kiểu Pyrros (Pyrrhic victory) : Là chiến thắng mang tính hủy diệt đối phương song bên chiến thắng cũng tổn thất nặng nề, có thể dẫn tới diệt vong. Pyrros là vua và là chỉ huy quân sự kiệt xuất xứ Ipiros (Hy Lạp cổ đại), từng chiến thắng, đánh tan tác quân La Mã trong các trận đánh tại Heraclea (280 trước công nguyên) và Asculum (279 trước công nguyên) song mất rất nhiều binh lực và tướng tài, bản thân nhà vua cũng bị thương. Sau chiến thắng Asculum, quần thần dâng lời tôn vinh chiến công, nhà vua nói rằng 'Thêm một trận thắng như vậy thì sự nghiệp của trẫm cũng đi đời'. Thực tế thì, mặc dù quân La Mã bị tổn thất nặng hơn quân Ipiros rất nhiều trong các trận Heraclea và Asculum song La Mã có tiềm lực hơn hẳn Ipiros (các thiệt hại không bù đắp được) nên tới năm 275 trước công nguyên thì La Mã đánh bại Ipiros.
******************
(2) Thay vì triệt hạ, Mỹ nên thích nghi với sự vươn lên của Trung Quốc ?
VOA, 11/12/2019
Thay vì xem Trung Quốc là một đối thủ nguy hiểm mà Mỹ cần phải cắt đứt quan hệ và tìm cách triệt hạ về kinh tế, chính trị và quân sự, Washington nên chấp nhận thực tế là sự vươn lên của Trung Quốc là không cách nào có thể cản lại được và Mỹ và thế giới đều được hưởng lợi từ sự vươn lên đó, một bài viết trên tạp chí chuyên ngành về đối ngoại ‘Foreign Affairs' nhận định.
Trung Quốc đang thi hành chính sách ngoại giao quyết đoán dưới thời Tập Cận Bình
Tác giả Fareed Zakaria trong bài phân tích nhan đề ‘Nỗi sợ mới về Trung Quốc : Tại sao Mỹ không nên hoảng sợ về đối thủ mới nhất này ?' đã trình bày cụ thể những lý do mà VOA Việt ngữ xin lược dịch để giới thiệu đến quý độc giả.
Sự đồng thuận mới
Trong cuộc tranh luận hiện nay của Mỹ về Trung Quốc, có sự đồng thuận mới từ phía lưỡng đảng, cánh quân sự và các cơ quan truyền thông chủ chốt cho rằng Trung Quốc hiện là mối đe dọa đối với Mỹ cả về kinh tế và chiến lược, rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đã thất bại, và Washington cần một chiến lược mới mẻ và cứng rắn hơn để kiềm chế Bắc Kinh. Sự đồng thuận này đã đẩy lập trường của công chúng Mỹ về phía gần như là thù địch : theo thăm dò dư luận, có 60% người Mỹ hiện có quan điểm tiêu cực về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - mức cao kỷ lục kể từ khi Trung tâm Nghiên cứu Pew bắt đầu cuộc thăm dò này vào năm 2005.
Cần phải nói rõ : Trung Quốc là một chế độ đàn áp với những chính sách hoàn toàn phi tự do, từ cấm đoán tự do ngôn luận cho đến cầm tù các nhóm tôn giáo thiểu số. Trong năm năm qua, họ đã tăng cường kiểm soát chính trị và kinh tế ở trong nước. Còn ở nước ngoài, họ là kẻ ganh đua và trong một số lĩnh vực là đối thủ của Mỹ. Nhưng câu hỏi chiến lược thiết yếu cho người Mỹ ngày nay là, liệu những sự thật này có khiến Trung Quốc trở thành một mối đe dọa lớn và ở mức độ đe dọa như thế, nó cần được xử lý như thế nào ?
Hậu quả của việc phóng đại mối đe dọa của Liên Xô là rất lớn : trong nước Mỹ là sự chà đạp nhân quyền trắng trợn trong thời kỳ McCarthy (vị nghị sỹ đề ra dự luật chống Cộng mang tên ông) ; cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân nguy hiểm ; một cuộc chiến tranh dài, vô ích và thất bại ở Việt Nam ; và vô số các cuộc thiệp quân sự khác ở những nước được gọi là Thế giới thứ Ba. Hậu quả của việc không hiểu đúng thách thức của Trung Quốc ngày hôm nay sẽ còn lớn hơn nữa. Mỹ có nguy cơ phung phí những lợi ích mà khó khăn lắm mới có được từ bốn thập kỷ can dự với Trung Quốc, khuyến khích Bắc Kinh thực hiện chính sách đối đầu, và đưa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuộc xung đột tàn nhẫn với quy mô và mức độ không rõ ràng. Điều này sẽ dẫn đến nhiều thập kỷ bất ổn và bất an. Một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc có thể sẽ kéo dài và tốn kém hơn nhiều so với cuộc chiến với Liên Xô, với kết cục không chắc chắn.
Mỹ nên dành thời gian để xem xét kỹ các giả định đằng sau sự đồng thuận mới về Trung Quốc. Theo nghĩa rộng, sự đồng thuận đó là : thứ nhất, sự can dự đã thất bại vì nó không ‘chuyển hóa sự phát triển bên trong và hành vi bên ngoài của Trung Quốc' ; thứ hai, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ và, mở rộng ra, đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ mà Mỹ đã gầy dựng sau năm 1945 ; thứ ba, chính sách đối đầu tích cực với Trung Quốc sẽ giúp đẩy lùi mối đe dọa tốt hơn là tiếp tục cách tiếp cận trước đó.
Sự đồng thuận lưỡng đảng này ra đời để đáp lại những thay đổi đáng kể và đáng lo ngại ở Trung Quốc. Kể từ khi Chủ tịch Tập Cận Bình lên làm lãnh đạo tối cao ở Trung Quốc, quá trình tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại và cải cách chính trị - dù hạn chế - đã bị đảo ngược. Bắc Kinh bây giờ kết hợp đàn áp chính trị với tuyên truyền dân tộc chủ nghĩa vốn giống như thời đại Mao Trạch Đông. Ở nước ngoài, Trung Quốc có tham vọng và quyết đoán. Những thay đổi này là có thật và đáng lo ngại.
Can dự và phòng ngừa
Xác định phản ứng hiệu quả đòi hỏi phải bắt đầu từ hiểu biết rõ ràng về chiến lược Trung Quốc của Mỹ cho đến thời điểm này. Điều không thấy trong đồng thuận mới là trong gần năm thập kỷ kể từ khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon mở cửa cho Bắc Kinh, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc chưa bao giờ hoàn toàn là can dự mà là sự kết hợp của can dự và răn đe. Vào cuối những năm 1970, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã kết luận rằng việc gắn kết Trung Quốc vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu sẽ tốt hơn là để họ ngồi ngoài, tức tối và tìm cách cản trở. Nhưng Washington cũng đồng thời hỗ trợ nhất quán cho các cường quốc Châu Á khác, bao gồm, tất nhiên là tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Cách tiếp cận đó, đôi khi được mô tả là một ‘chiến lược phòng ngừa', đảm bảo rằng khi Trung Quốc trỗi dậy, sức mạnh của nó sẽ được kiểm soát và các nước láng giềng của Trung Quốc cảm thấy an toàn.
Vào những năm 1990, khi kẻ thù Liên Xô không còn nữa, Ngũ Giác Đài đã cắt giảm chi tiêu, đóng cửa căn cứ và giảm quân số trên toàn thế giới, ngoại trừ ở Châu Á. Chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương năm 1995 của Lầu Năm Góc, còn được gọi là Sáng kiến Nye, đã cảnh báo về việc xây dựng quân đội và tham vọng chính sách đối ngoại của Trung Quốc và tuyên bố rằng Mỹ sẽ không giảm sự hiện diện quân sự trong khu vực. Thay vào đó, ít nhất 100.000 lính Mỹ sẽ ở lại Châu Á trong tương lai gần. Bán vũ khí cho Đài Loan sẽ tiếp tục vì hòa bình ở Eo biển Đài Loan để răn đe Bắc Kinh đừng sử dụng vũ lực đối với hòn đảo tự trị này.
Cách tiếp cận phòng ngừa này được duy trì bởi tổng thống của cả hai đảng. Chính quyền George W. Bush đã đảo ngược chính sách phi đảng phái của Mỹ trong hàng thập kỷ để công nhận Ấn Độ là cường quốc hạt nhân mà chủ yếu là để thêm một chốt chặn khác về Trung Quốc. Dưới thời Tổng thống Barack Obama, Hoa Kỳ đã tăng cường răn đe, mở rộng sự hiện diện ở Châu Á với các thỏa thuận quân sự mới với Úc và Nhật Bản và nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam. Đó cũng là mục đích của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được ra đời nhằm để tạo cho các nước Châu Á một nền tảng kinh tế cho phép họ kháng cự sự thống trị của Trung Quốc. Bản thân ông Obama đã đương đầu với ông Tập về vấn đề không gian mạng và áp thuế nhập khẩu lốp xe Trung Quốc để trả đũa các chính sách thương mại không công bằng của nước này.
Quốc gia có trách nhiệm ?
Trung Quốc ngày nay là một quốc gia có trách nhiệm về địa chính trị và quân sự. Họ đã không gây chiến kể từ năm 1979. Họ cũng không sử dụng vũ lực gây chết chóc ở nước ngoài kể từ năm 1988. Bắc Kinh cũng không tài trợ hoặc hỗ trợ cho các lực lượng nổi dậy vũ trang ở bất cứ đâu trên thế giới kể từ đầu những năm 1980. Sự không can thiệp quân sự đó là kỷ lục duy nhất trong số các đại cường. Tất cả các ủy viên thường trực khác của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã sử dụng vũ lực nhiều lần ở nhiều nơi trong vài thập kỷ qua với Mỹ là nước dẫn đầu.
Bắc Kinh đã đi từ nỗ lực làm suy yếu trật tự quốc tế đến bỏ ra số tiền lớn để củng cố trật tự đó. Bắc Kinh hiện là nước đóng góp lớn thứ hai cho Liên Hiệp Quốc và chương trình gìn giữ hòa bình của cơ quan này. Họ đã triển khai 2.500 nhân viên gìn giữ hòa bình, nhiều hơn tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng Bảo an gộp lại. Từ năm 2000 cho đến 2018, Bắc Kinh ủng hộ 182 trong số 190 nghị quyết của Hội đồng Bảo an áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm luật pháp hoặc chuẩn mực quốc tế.
Nếu ai đó đã dự đoán vào năm 1972 rằng Trung Quốc sẽ trở thành người bảo vệ nguyên trạng quốc tế, ít ai có thể tin rằng nó sẽ xảy ra.
Chơi xấu về kinh tế ?
Sự đồng thuận mới về hành vi kinh tế của Trung Quốc cho rằng nước này đã buộc các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ, đã trợ cấp cho ‘công ty nhà nước hàng đầu' và đã dựng lên các rào cản chính thức và không chính thức để chặn đường các công ty nước ngoài đang tìm cách thâm nhập thị trường Trung Quốc. Nói tóm lại, Bắc Kinh đã sử dụng nền kinh tế quốc tế mở để củng cố hệ thống kinh tế đặt dưới sự quản lý Nhà nước của họ.
Đúng là những chính sách không công bằng này cần được phần còn lại của thế giới chú ý và đáp trả. Chính quyền Trump xứng đáng được khen ngợi vì đã giải quyết vấn đề này, đặc biệt là trong bối cảnh ông Tập củng cố sự kiểm soát của Nhà nước sau nhiều thập kỷ tự do hóa. Và một lần nữa, Mỹ cần phải phản ứng như thế nào mới là đúng ?
Hầu hết các kinh tế gia đều đồng ý rằng Trung Quốc thành công về kinh tế như vậy nhờ vào ba nhân tố cơ bản : chuyển đổi từ nền kinh tế cộng sản sang cách tiếp cận mang tính thị trường hơn, tỷ lệ tiết kiệm cao giúp họ có thể đầu tư vốn ào ạt và năng suất gia tăng. Trong ba thập kỷ qua, quốc gia này cũng đã mở tiếp nhận đầu tư nước ngoài một cách đáng kể. Trung Quốc là một trong chỉ hai quốc gia đang phát triển có mặt trong 25 thị trường hàng đầu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1998. Trong nhóm BRICS các quốc gia mới nổi lớn, Trung Quốc luôn được xếp hạng là nền kinh tế mở và cạnh tranh nhất.
Điều đáng chú ý là hầu hết những cáo buộc nhằm vào Trung Quốc ngày nay như ép buộc chuyển giao công nghệ, thương mại không công bằng, hạn chế tiếp cận đối với các công ty nước ngoài, ưu ái về luật lệ cho các công ty tong nước, cũng từng là những chỉ trích nhằm vào Nhật Bản trong những năm 1980 và 1990.
Vào thời điểm đó, cuốn sách có ảnh hưởng lớn của Clyde Prestowitz với tựa đề : Đổi ngôi : ‘Làm thế nào nước Mỹ đầu hàng tương lai cho Nhật Bản và làm thế nào để giành lại vị thế' giải thích rằng nước Mỹ chưa bao giờ tưởng tượng phải xử lý một quốc gia mà ‘công nghiệp và thương mại được tổ chức như một phần của nỗ lực đạt được các mục tiêu quốc gia cụ thể'. Khi tăng trưởng của Nhật Bản giảm dần, những nỗi sợ hãi quá đà này cũng dần biến mất.
Trung Quốc ngày nay đặt ra một số thách thức mới, đặc biệt là quyết tâm của ông Tập để nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc giúp nước này chiếm ưu thế kinh tế trong các lĩnh vực quan trọng. Nhưng lợi thế lớn nhất của Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu không đến từ việc họ sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà từ quy mô quá lớn của nó. Các quốc gia và công ty muốn tiếp cận thị trường Trung Quốc phải sẵn sàng nhượng bộ để được tiếp cận. Điều này cũng không có gì bất thường. Các quốc gia khác có sức mạnh tương tự thường có cách làm tương tự hoặc thậm chí còn tệ hơn nữa mà cũng chẳng hề hấn gì. Một báo cáo năm 2015 của Credit Suisse tổng kết một loạt các rào cản phi thuế quan mà các nước lớn áp đặt trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 2013 với Mỹ gần như đứng một mình không nước nào bằng. Tiếp theo là Ấn Độ, sau đó là Nga. Trung Quốc đứng ở vị trí thứ năm với số lượng rào cản phi thuế quan chỉ bằng một phần ba của Mỹ. Mọi thứ đã không thay đổi nhiều kể từ đó.
Hầu hết những thay đổi gần đây trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh đều tiêu cực, nhưng không phải toàn bộ đều là như vậy. Ngay cả khi ông Tập thiết lập trở lại sự kiểm soát nhà nước chặt chẽ hơn, thị trường tự do đã lớn mạnh trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Chính phủ hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhà nước hơn so với vài năm trước đây, nhưng Bắc Kinh đã từ bỏ chính sách vốn từng đóng vai trò trung tâm trong chiến lược thương mại của họ : phá giá đồng tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng. Kinh tế gia Nicholas Lardy đã tính toán rằng việc chấm dứt cách làm này ‘chịu trách nhiệm đến phân nửa trong đà suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu'.
Theo ông Peter Navarro, cố vấn thương mại hàng đầu của Tổng thống Donald Trump, vấn đề số một trong tranh chấp thương mại với Trung Quốc là ‘hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ'. Việc Trung Quốc có hành vi đánh cắp tài sản trí tuệ tràn lan là một thực tế được thừa nhận rộng rãi. Một khảo sát gần đây Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Trung thực hiện cho thấy bảo vệ sở hữu trí tuệ đứng thứ sáu trong danh sách các mối quan tâm cấp bách của các doanh nghiệp Mỹ hoạt động ở Trung Quốc, giảm từ vị trí thứ hai năm 2014. Đó chính là năm mà Trung Quốc đã thiết lập các tòa án chuyên môn đầu tiên để thụ lý các vụ án sở hữu trí tuệ. Trong năm 2015, các nguyên đơn nước ngoài đã đưa 63 vụ ra Tòa án Sở hữu trí tuệ Bắc Kinh và tòa đã phán phán quyết phần thắng cho các công ty nước ngoài trong tất cả 63 vụ.
Tất nhiên, những cải cách như thế này thường chỉ được thực hiện khi đối mặt với áp lực của phương Tây và, ngay cả khi đó, chúng phục vụ lợi ích cạnh tranh của chính Trung Quốc -hãng xin bằng sáng chế lớn nhất thế giới năm ngoái là hãng viễn thông khổng lồ của Trung Quốc Huawei.
Cho Trung Quốc vai trò xứng đáng ?
Còn về các diễn biến chính trị, mọi việc là không thể nghi ngờ. Trung Quốc đã không mở cửa chính trị đến mức nhiều người mong đợi ; trên thực tế họ tiến tới đàn áp và kiểm soát chặt chẽ hơn. Sự đối xử tàn tệ của Bắc Kinh đối với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương đã gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo. Nhà nước cũng đã bắt đầu sử dụng các công nghệ mới, như phần mềm nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo, để tạo ra một hệ thống kiểm soát xã hội toàn diện. Tuy nhiên, sẽ là cường điệu khi cho rằng chúng là bằng chứng cho sự thất bại của chính sách Mỹ. Trên thực tế, rất ít quan chức Mỹ từng lập luận rằng việc can dự sẽ dẫn đến nền dân chủ tự do ở Trung Quốc. Họ chỉ hy vọng rằng nó sẽ xảy ra, nhưng trọng tâm của họ luôn là điều chỉnh hành vi bên ngoài của Trung Quốc, điều mà họ đã thành công.
Dưới thời ông Tập, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trở nên tham vọng và quyết đoán hơn, từ việc theo đuổi vai trò lãnh đạo tại các cơ quan Liên Hợp Quốc đến Sáng kiến Vành đai và Con đường và bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông. Những động thái này đánh dấu sự đoạn tuyệt với chính sách trước đó của Bắc Kinh trên vũ đài quốc tế theo phương châm do cựu lãnh đạo Đặng Tiểu Bình để lại là ‘Giấu mình chờ thời'. Đặc biệt, quân đội Trung Quốc được xây dựng với quy mô và được thiết lập theo cách cho thấy họ đang thực hiện một cách có hệ thống kế hoạch dài hạn. Nhưng đối với Mỹ mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc như thế nào là chấp nhận với trọng lượng kinh tế của họ trên thế giới ? Nếu trước tiên Washington không đặt ra câu hỏi này, họ không thể đưa ra những tuyên bố nghiêm túc rằng Trung Quốc sử dụng quyền lực nào là vượt qua giới hạn. Trung Quốc, theo một số tiêu chí, đã là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trong vòng mười đến 15 năm tới, nước này có thể sẽ chiếm được vị trí này tính theo tất cả các tiêu chí. Ông Đặng đưa ra lời khuyên ‘giấu mình chờ thời' khi nền kinh tế Trung Quốc chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu. Ngày nay, nó chiếm hơn 15%. Trung Quốc thực sự đã chờ đợi thời cơ của mình, và giờ đây, một Trung Quốc mạnh mẽ hơn tự nhiên sẽ tìm kiếm vai trò lớn hơn ở khu vực và toàn cầu.
Hoa Kỳ vào năm 1823 là được xem là quốc gia đang phát triển theo tiêu chuẩn bây giờ, thậm chí còn không nằm trong số năm nền kinh tế hàng đầu thế giới, và với Học thuyết Monroe, nước này đã tuyên bố toàn bộ bán cầu Tây là ‘không thể đụng đến' đối với các cường quốc Châu Âu. Trường hợp của Mỹ là lời nhắc nhở rằng khi các nước có được sức mạnh kinh tế, họ tìm kiếm sự kiểm soát và ảnh hưởng lớn hơn đối với không gian của họ. Nếu Washington xem nỗ lực tương tự của Trung Quốc là nguy hiểm, thì nước Mỹ sẽ đi ngược lại sự vận động tự nhiên của đời sống quốc tế và rơi vào ‘cái bẫy Thucydides', tức nguy cơ chiến tranh giữa một cường quốc mới nổi và cường quốc hiện trạng.
Trung Quốc khó lòng là mối đe dọa mang tính sống còn đối với trật tự quốc tế tự do. Đối với Mỹ, đối phó với một đối thủ như vậy là một thách thức mới. Kể từ năm 1945, các quốc gia mới vươn lên trở thành phồn vinh và có địa vị nổi bật đều là những đồng minh thân cận nhất của Washington như : Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc không chỉ lớn hơn nhiều so với các nước đó mà nó còn nằm ngoài cấu trúc liên minh và phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Thách thức đối với Hoa Kỳ và phương Tây nói chung là xác định phạm vi có thể chấp nhận được đối với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc và thích nghi với nó.
Cho đến nay, phương Tây đã hành động rất kém để thích nghi với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cả Hoa Kỳ và Châu Âu đều không muốn để mất phần về tay Trung Quốc trong các định chế kinh tế toàn cầu cốt lõi như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tìm kiếm vai trò lớn hơn trong Ngân hàng Phát triển Châu Á, nhưng Mỹ đã chống lại. Kết quả là vào năm 2015, Bắc Kinh đã thành lập định chế tài chính đa phương của riêng mình, Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á vốn gặp phải sự phản đối của Washington nhưng vô vọng. Ngoại trưởng Mỹ Pompeo đã phát biểu một cách kẻ cả rằng Mỹ và các đồng minh phải kiềm giữ Trung Quốc ở ‘nơi thích hợp của họ'. Tội lỗi của Trung Quốc, theo ông Pompeo, là họ chi cho quân đội nhiều hơn cần thiết để phòng thủ. Nhưng Mỹ, Pháp, Nga, Anh và hầu hết các nước lớn khác đều làm như vậy.
Trật tự thế giới cũ mà các nước Châu Âu có trọng lượng lớn trên trường quốc tế trong khi những quốc gia khổng lồ như Trung Quốc và Ấn Độ bị loại khỏi hàng đầu của các tổ chức toàn cầu là không thể bền vững. Trung Quốc sẽ phải được dành cho vị trí xứng đáng và thực sự được cơ cấu vào các cấu trúc ra quyết định, nếu không họ sẽ tự hành động và đơn phương tạo ra các định chế và trật tự mới của riêng mình. Sự vươn lên của Trung Quốc nắm lấy quyền lực toàn cầu là nhân tố mới quan trọng nhất trong hệ thống quốc tế trong nhiều thế kỷ.
Không đe dọa trật tự thế giới như Nga ?
Đối với nhiều người, sự trỗi dậy của Bắc Kinh đã gióng lên hồi chuông báo tử đối với trật tự quốc tế tự do được Mỹ thiết lập sau Đệ nhị Thế chiến, vốn bao gồm hệ thống dựa trên luật pháp giúp giảm bớt nguy cơ chiến tranh và tạo điều kiện cho giao thương và nhân quyền phát triển. Tính chất chính trị của Trung Quốc, một nhà nước độc đảng vốn không dung thứ chống đối hay bất đồng chính kiến và một số hành động của họ trên quốc tế khiến họ trở thành một thành viên không thoải mái trong trật tự này. Tuy nhiên, cần nhớ rằng trật tự quốc tế không bao giờ tự do, hoặc có trật tự thật sự. Bản thân nước Mỹ cũng thường hành động bên ngoài các quy tắc của trật tự này chẳng hạn như họ thường xuyên can thiệp quân sự có hoặc không có sự chấp thuận của Liên Hiệp Quốc ; trong khoảng thời gian từ năm 1947 đến 1989, khi Mỹ được cho là đang xây dựng trật tự quốc tế tự do, họ đã tìm cách thay đổi chế độ 72 lần trên toàn thế giới. Mỹ cũng thực thi chủ nghĩa bảo hộ trong khi sỉ vả các biện pháp thương mại ôn hòa hơn của các nước khác.
So với Nga, vốn tìm cách phá vỡ thế giới dân chủ phương Tây và thường được hưởng lợi trực tiếp từ sự bất ổn vì nó làm tăng giá dầu (nguồn thu nhập lớn nhất của Kremlin), Trung Quốc không có vai trò như vậy. Khi họ thật sự bẻ cong các quy tắc và tham gia vào chiến tranh mạng, họ đánh cắp các bí mật quân sự và kinh tế thay vì tìm cách phá hoại các cuộc bầu cử dân chủ ở Hoa Kỳ hoặc Châu Âu. Bắc Kinh lo ngại bất đồng và chống đối và đặc biệt nhạy cảm về Hong Kong và Đài Loan và sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để kiểm duyệt các công ty phương Tây trừ khi họ đi theo đường lối của đảng. Nhưng Bắc Kinh làm như vậy là để bảo vệ điều mà họ xem là chủ quyền chứ không giống như những nỗ lực có hệ thống của Moscow nhằm phá hoại nền dân chủ phương Tây.
Sự trỗi dậy của một quốc gia độc đảng vốn bác bỏ các khái niệm cốt lõi về nhân quyền là một thách thức. Các chính sách đàn áp của Bắc Kinh đe dọa các yếu tố của trật tự quốc tế tự do, như nỗ lực hạ thấp các chuẩn mực nhân quyền toàn cầu và hành xử của họ ở Biển Đông. Những vấn đề cần được xem xét một cách trung thực. Trung Quốc rất muốn né tránh bị định danh các vi phạm nhân quyền và nghị trình đó cần được vạch trần và chống lại. Tuy nhiên, quyết định của chính quyền Trump rút khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc lại có tác dụng ngược bằng cách nhượng sân chơi lại cho Bắc Kinh.
Giả định cuối cùng trong sự đồng thuận mới là kiên trì đối đầu với Trung Quốc sẽ ngăn hành động phiêu lưu của họ ở nước ngoài và tạo tiền đề cho sự thay đổi bên trong. Tức là lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc sẽ buộc nước này phải biết điều và thậm chí phải cải cách. Trung tâm của chiến lược diều hâu này là quan niệm rằng kiềm chế Trung Quốc sẽ dẫn đến sự sụp đổ chế độ, giống như đã xảy ra với Liên Xô.
Nhưng Trung Quốc không phải là Liên Xô, một đế chế phi tự nhiên được xây dựng trên sự bành trướng tàn bạo và thống trị quân sự. Ở Trung Quốc, Mỹ đối đầu với một nền văn minh, và một quốc gia, với ý thức đoàn kết và niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ. Trung Quốc đang trở thành một đồng đẳng kinh tế của Mỹ và thực sự là nước đi đầu về công nghệ trong một số lĩnh vực. Dân số của họ gấp nhiều lần của Mỹ và là thị trường lớn nhất thế giới cho hầu hết mọi hàng hóa trên thế giới. Nó có trữ lượng ngoại hối lớn nhất trên hành tinh.
Phụ thuộc lẫn nhau
Lầu Năm Góc đã đưa ra khái niệm Trung Quốc là ‘đối thủ chiến lược' hàng đầu. Nếu xem Trung Quốc là kẻ thù tức là nước Mỹ quay trở lại thời đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, khi mà Lầu Năm Góc có thể tăng ngân sách rất nhiều bằng cách thổi phồng bóng ma của một đối thủ với quân đội rủng rỉnh tiền bạc, tân tiến với công nghệ mũi nhọn. Trong khi đó, khả năng răn đe hạt nhân và sự thận trọng của các cường quốc đảm bảo rằng một cuộc chiến toàn diện giữa hai bên sẽ không bao giờ xảy ra. Chi phí cho một cuộc chiến tranh lạnh như vậy với Trung Quốc sẽ là vô cùng lớn, làm biến dạng nền kinh tế Mỹ.
Ngoài ra Mỹ và Trung Quốc còn có sự phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng 527% kể từ năm 2001 và trong năm 2018, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Mỹ. Hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc đang học tập tại Hoa Kỳ, cùng với gần năm triệu công dân Mỹ gốc Hoa. Mỹ đã hưởng lợi rất nhiều từ việc là nơi tập trung những bộ óc thông minh nhất để thực hiện nghiên cứu mũi nhọn nhất và sau đó áp dụng nó vào mục đích thương mại. Nếu Mỹ cấm cửa những tài năng như vậy chỉ vì họ đến từ Trung Quốc, Mỹ sẽ nhanh chóng mất vị thế đặc quyền trong thế giới công nghệ và sáng tạo.
Trong các vấn đề về công nghệ, chiến lược của chính quyền Trump là cắt đứt với Trung Quốc và buộc phần còn lại của thế giới phải làm theo, chẳng hạn trong lệnh cấm tập đoàn viễn thông Huawei. Tuy nhiên, phần còn lại của thế giới không nghe theo vì Mỹ thiếu công nghệ thay thế để cạnh tranh với các sản phẩm 5G của Huawei. Chính quyền Trump đã yêu cầu 61quốc gia cấm cửa Huawei nhưng cho đến nay chỉ có ba nước tham gia và đều là đồng minh thân cận của Mỹ. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của nhiều quốc gia ngoài Mỹ, bao gồm các nước lớn ở Tây bán cầu, chẳng hạn như Brazil. Khi được hỏi họ sẽ phản ứng thế nào về việc cắt đứt giữa Mỹ và Trung, các nhà lãnh đạo trên thế giới hầu như đều đưa ra câu trả lời giống nhau là : ‘Đừng yêu cầu chúng tôi chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Quý vị sẽ không thích câu trả lời đâu'. Hơn nữa, nếu Trung Quốc bị cô lập thì họ sẽ xây dựng chuỗi cung ứng và công nghệ nội địa của riêng mình và khi đó áp lực của Mỹ sẽ không làm gì được.
Trung Quốc cũng có thành phần cứng rắn như Mỹ. Những người này đã cảnh báo trong nhiều năm rằng Mỹ đang tìm cách kiềm chế Trung Quốc. Lập trường của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đang khiến cho thành phần diều hâu này chứng tỏ tầm ảnh hưởng của họ và từ đó cho họ đòn bẩy để thúc đẩy hành vi quyết đoán và gây bất ổn – chính là điều mà Mỹ muốn tránh.
Vấn đề là liệu Mỹ có nên cạnh tranh trong khuôn khổ quốc tế ổn định hay không và tiếp tục hội nhập Trung Quốc thay vì cố gắng cô lập bằng mọi giá. Một trật tự quốc tế bị phá vỡ, bị rẽ đôi với những hạn chế nhằm vào nahu và thuế vào thương mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự giảm sút thịnh vượng, bất ổn dai dẳng và nguy cơ xung đột quân sự trên toàn cầu.
Khó lòng soán ngôi Mỹ ?
Nhận định của nhà báo Fareed Zakaria cũng giống như ý kiến của ông Richard Heydarian, phó giáo sư chính trị học thuộc Đại học De La Salle, Philippines, tại một buổi thảo luận bàn tròn mới đây ở Viện Hudson, Washington D.C., với chủ đề ‘Đẩy lùi Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương'.
Vị giáo sư này nói rằng việc gìn giữ hòa bình và ổn định ở Châu Á-Thái Bình Dương ‘không phải là vấn đề đương đầu hay loại bỏ Trung Quốc mà là đảm bảo chúng ta có thể xử lý sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng một cách có thể chấp nhận được và có lợi ích cho cả hai bên'.
Ông dẫn lại nhận định của cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, người mà ông cho rằng ‘rất am hiểu về Trung Quốc, rằng ‘sự trỗi dậy của Trung Quốc đột biến đến mức nó sẽ thay đổi bản thân trật tự thế giới chỉ vì quy mô, tầm ảnh hưởng và tham vọng của Trung Quốc'.
"Chúng ta cảm thấy điều này rất rõ ở khu vực Đông Nam Á", ông nói. "Đây không chỉ là một cường quốc mới nổi khác mà chúng ta phải tìm cách cân bằng mà là cường quốc thay đổi luật lệ của cuộc chơi".
Tuy nhiên, ông cho rằng Mỹ và thế giới không nên quá lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc vì theo ông lập luận, dù có trỗi dậy đi nữa, Trung Quốc cũng khó lòng soán ngôi Mỹ.
"Rất nhiều người có suy nghĩ sai lầm rằng Trung Quốc sắp vượt qua Mỹ vì quy mô GDP của họ quá lớn", ông nói. "Nhưng sức mạnh của một nước không chỉ đơn thuần là quy mô của nền kinh tế mà còn là tài nguyên, là nguồn nhân lực, là mức sống và là khả năng có được công nghệ của nước đó".
Ông đưa ra dẫn chứng là trong một lĩnh vực mũi nhọn là công nghệ sinh học ‘Mỹ hiện đi trước Trung Quốc khá xa'.
"Nhiều người hoảng sợ vì Trung Quốc đang cho ra lò đến một triệu khoa học gia mỗi năm. Nhưng vấn đề là chất lượng của các khoa học gia này, họ có tỷ lệ trích dẫn và bài báo đăng trên các tạp chí ISI đến đâu", ông phân tích.
Một lý do nữa mà Trung Quốc khó lòng giành lấy vị trí lãnh đạo thế giới của Mỹ là ‘người dân khắp khu vực Châu Á-Thái Bình Dương vẫn muốn Mỹ là nước lãnh đạo nhiều hơn Trung Quốc mặc dù đã có những nghi ngờ về chính quyền Trump.
Ông cho biết về mặt chính thức lãnh đạo các nước Đông Nam Á hoan nghênh các khoản đầu tư của Trung Quốc trong khôn khổ Ý tưởng Vành đai-Con đường nhưng ‘trong hậu trường có rất nhiều nghi ngại từ phía các chuyên gia và các quan chức chính phủ'.
Ông cũng chỉ ra rằng trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng mà ông cho là tuyến đầu của cuộc cạnh tranh địa chính trị, ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á không lớn như nhiều người tưởng mà thật ra Nhật Bản mới là người dẫn đầu.
"Nếu nhìn vào Đông Nam Á thì Nhật có nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng hơn Trung Quốc", ông nói và cho biết ở những nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Đông như Việt Nam và Philippines, Nhật Bản là nước dẫn đầu trong đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bỏ xa các nước khác.
Ông cho biết ở Việt Nam, Nhật hiện có 74 dự án cơ sở hạ tầng so với chỉ 24 dự án của Trung Quốc.
Nguồn : VOA, 11/12/2019
Tôi định có vài sơ lược tổng kết về tình trạng nhân quyền năm 2019 nhân kỷ niệm 71 năm Ngày Quốc tế Nhân quyền. Tuy nhiên đa số các tổ chức nhân quyền thế giới đều công bố bản báo cáo của mình cho năm đó vào năm sau để trình bày đầy đủ dữ kiện hơn. Nên bài viết này cũng chủ yếu tập trung vào vài khía cạnh nhân quyền năm 2018 và 2019.
Trang đầu bản báo cáo của Freedom House về tự do trên toàn thế giới năm 2019
Trang đầu bản báo cáo của Freedom House về tự do trên toàn thế giới năm 2019 là bức họa hình của chín lãnh đạo quốc gia, trong đó có Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela, Iran, Hungary, Trung Quốc, Saudi Arabia, Miến Điện và sau cùng là Hoa Kỳ cùng nhau đứng chung quanh cụm chữ "Tự Do" đang bị châm lửa đốt. Có người quạt, có người thổi, có người châm dầu, có người cầm đuốc, có người cổ võ, và có người thưởng ngoạn nó.
Bản báo cáo trên tổng kết : năm 2018 là năm thứ 13 liên tục xuống cấp về tự do trên toàn cầu ; các quyền lực độc tài ngày càng cấm đoán các nhóm đối lập hoặc bỏ tù lãnh đạo của họ, tìm cách xóa bỏ nhiệm kỳ, và xiết chặt các cơ quan truyền thông độc lập còn tồn tại ; trong khi đó nhiều nước đã dân chủ hóa sau Chiến tranh Lạnh giờ đã thoái bộ khi đối diện với tham nhũng lan tràn, các xu hướng dân túy phi cấp tiến, và sự hư hỏng của nền pháp quyền ; quan ngại hơn nữa là các nền dân chủ lâu đời cũng bị lung lây bởi các thế lực chính trị dân túy chối bỏ các nguyên tắc căn bản như phân quyền và tấn công vào thiểu số với những đối xử phân biệt. Tuy thế Freedom House cho rằng sự hứa hẹn của dân chủ vẫn còn thực tế và mạnh mẽ. Mặc dầu sự thất thoát tổng thể không nhiều so với những gì đã đạt được cuối thế kỷ 20, nhưng xu hướng hiện nay là nhất quán và đáng ngại.
Vềquyền chính trị và tự do dân sự, thì 68 quốc gia được đánh giá là xuống cấp, 50 gia tăng, còn lại không thay đổi, trong đó có Việt Nam. Trường hợp Việt Nam có nghĩa là vẫn tệ hại như những năm qua. Quyền chính trị thì đạt điểm 7 trên 7, tự do dân sự thì 5 trên 7, xếp hạng tự do 6 trên 7, điểm tổng hợp là 20 (số 1 là tự do nhất, 7 là ít tự do nhất, và 100 là cao nhất cho tổng số điểm). Nếu so sánh thì nước Finland, Norway, Sweden được xem là gần như toàn hảo, với con số 1, 1, 1.0 và 100 ; kế đến là Hòa Lan 1, 1, 1.0 và 99 ; Úc, Luxembourg, Tân Tây Lan, Uruguay 1, 1, 1 và 98. Theo Freedom House thì tại Việt Nam, các vụ bắt bớ, giam cầm, kết tội hình sự, và đánh đập phóng viên, blogger, các nhà hoạt động nhân quyền vẫn tiếp diễn nguyên năm 2018.
Theo báo cáo của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) năm 2019, mà phần lớn cũng chủ yếu dựa vào các diễn biến năm 2018, thì trong khi các nhà độc tài và những kẻ vi phạm nhân quyền chiếm đầu trang tin tức năm 2018, những người bảo vệ nhân quyền đã phản kháng và dành được sức mạnh bằng những cách không ngờ được. Tinh thần phản kháng được bồi đắp để chống lại cường quyền không phải lúc nào cũng thành công trong ngắn hạn, và nó sẽ là một thời kỳ đen tối đối với nhân quyền, nhưng sự hứa hẹn cho một nền dân chủ mà tôn trọng nhân quyền vẫn tiếp tục là viễn kiến đầy sức sống và vận động.
Đối với Việt Nam, HRW nhận định rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam độc quyền qua chính phủ, kiểm soát tất cả các tổ chức chính trị và xã hội, và trừng phạt những ai dám chỉ trích hay thách thức sự cai trị của nó. Nói chung tình trạng nhân quyền năm 2018 trở nên tồi tệ hơn so với các năm trước.
Báo cáo của tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International-AI) năm 2017/2018, trong trường hợp Việt Nam, thì cũng toàn màu đen. Đàn áp tiếng nói đối lập, các tù nhân lương tâm thì bị tra tấn và đối xử tồi tệ khác, và AI nêu ra bao quan ngại về tự do hội họp, chết trong khi bị giam giữ (đồn công an), án tử hình v.v…
Vềtrường hợp Hồng Kông thì AI nêu lên những quan ngại sâu sắc. Robert Godden, sáng lập viên và giám đốc của một cơ quan tư vấn nhân quyền có trụ sở tại Hồng Kông, từng là nhân viên làm việc cho AI, và cô Jennifer Wang, đã bị bắt giữ vào ngày 18 tháng 11 gần trường đại học Polytechnic. Các tổ chức xã hội dân sự tại Hồng Kông báo cáo rằng họ đã bị sách nhiễu, bị giải tán và bị thiệt hại trong khi hội họp với nhau. Họ cũng bị tấn công bởi hơi cay, đạn tiêu, súng nước mạnh tại những nơi mà hầu như không có bạo lực xảy ra và nơi mà chỉ có những người quan sát nhân quyền và ký giả cũng như những người bàng quan tập trung. AI kêu gọi chính quyền Hồng Kông thi hành một cuộc điều tra hoàn toàn độc lập, không thiên vị, hiệu quả và nhanh chóng về việc sử dụng bạo lực bởi cơ quan công quyền trong suốt các cuộc biểu tình chống lại Dự luật Dẫn độ.
Tình trạng vi phạm nhân quyền tại Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela, Iran, Trung Quốc, Saudi Arabia, Miến Điện trong năm 2018 và 2019 cũng rất tồi tệ. Iran, một chế độ thần quyền, vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất vào cuối năm 2019 kể từ cuộc cách mạng 1979. Từ giữa tháng 11 vừa qua, người dân Iran đã biểu tình trên khắp 100 thị xã và thành phố, và chế độ đã phản ứng bằng cách đóng Internet trong nhiều ngày và đàn áp thô bạo người biểu tình. Theo AI thì chính quyền đã bắn giết 161 người, bắt giam hơn 7 ngàn người, tuy con số chính thức có thể cao hơn nhiều. TờNew York Times thì ước đoán ít nhất 180 người, trong khi so với các cuộc biểu tình 10 năm về trước của Phong trào Xanh (Green Movement) thì chỉ có khoảng 72 người bị giết, theo CNN.
Trở lại trường hợp Việt Nam, ngày 11 tháng 11 năm nay tòa án Việt Nam đã tuyên phạt ông Châu Văn Khảm, Nguyễn Văn Viễn, Trần Văn Quyền 12, 11 và 10 năm tù trong phiên xử chỉ vài tiếng đồng hồ. Ông Châu Văn Khảm là một công dân Úc mà còn bị đối xử như thế. Luật sưTrịnh Vĩnh Phúc, người bào chữa cho ông Châu Văn Khảm, cho rằng chỉ có biện pháp can thiệp ngoại giao từ Úc mới là cơ hội mạnh mẽ nhất để mang ông Châu về lại Úc rất sớm.
Ông Châu Văn Khảm và ông Trần Văn Quyền được dẫn đến tòa án ở Thành phố Hồ Chí Minh hôm 11/11/2019. Hai ông bị tuyên án trong phiên tòa chỉ kéo dài vài tiếng đồng hồ.
Nhân quyền là giá trị thiêng liêng phổ quát cho toàn nhân loại, nhưng đồng thời nó cũng luôn bị tác động sâu sắc bởi các yếu tố địa chính trị/chính trị quyền lực, kinh tế chính trị (political economy), và quyền lợi quốc gia. Các chính quyền dân chủ lẫn độc tài cũng thường sử dụng nhân quyền để mặc cả nhau, như một món hàng hay một khí cụ. Biện pháp cấm vận/trừng phạt của chính quyền Hoa Kỳ đã góp phần tạo tối đa áp lực lên nền kinh tế và chính trị của Iran, đưa đến các cuộc biểu tình vào giữa tháng 11 nói trên. Hoa Kỳ và Úc, chẳng hạn, có thể thẳng thừng lên án tình trạng vi phạm nhân quyền tại Iran vừa qua, nhưng sẽ không làm như thế đối với Việt Nam trong chiến lược chung là kéo Việt Nam về phía mình để cân bằng và kiềm chế sự trổi dậy của Trung Quốc hiện nay. HRW kêu gọi chính phủ Úc cần thúc ép Việt Nam tôn trọng nhân quyền vì "có ít nhất 131 người đang bị tù giam ở Việt Nam vì thực hành các quyền tự do cơ bản", nhất là trước khi Thủ tướng Úc Scott Morrison viếng thăm vào cuối tháng Tám năm nay. Chính quyền Úc sẽ chọn thái độ nào ?
Nhân quyền là giá trị cao cả và phổ quát cho mọi cá nhân trong bất cứ xã hội nào, nhưng nó không phải là mối quan tâm hay ưu tiên hàng đầu của mọi chính quyền. Các tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài quốc gia đó đóng vai trò then chốt để cổ võ, đấu tranh và bảo vệ quyền con người. Bởi nếu chính họ không cùng nhau tích cực đấu tranh và bảo vệ thì mọi chính quyền, dân chủ hay độc tài, đều là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền và tự do của người dân.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 09/12/2019
Cuộc bầu cử quận tại Hồng Kông vào ngày 24/11 tuần qua, tuy không thay đổi đáng kể các mục tiêu đấu tranh của phong trào dân chủ tại Hồng Kông, nhưng đã mang lại kết quả vô cùng tích cực và niềm tin hết sức lạc quan cho công cuộc đấu tranh suốt sáu tháng qua.
Phe ủng hộ dân chủ tập hợp tại Hong Kong với cờ Mỹ, 1 tháng 12, 2019.
Hơn 2,9 triệu người trên tổng số4,1 triệu cử tri ghi danh đã đi bầu, chiếm tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay, tức 71,2 phần trăm [1]. Joshua Wong (Hoàng Chi Phong) mặc dầu đã bị loại ngay từ đầu với lý do bất hợp lệ vì chủ trương cổ võ độc lập cho Hồng Kông, người thay thế Wong đã đắc cử tại quận phía nam này.
Trong tổng số 452 ghế thì gần 400 ghế, thuộc phe dân chủ, chiếm 344 ghế, và phe độc lập, chiếm 41 ghế, với 9 ghế chưa rõ, trong khi chỉ có 58 ghế ủng hộ Bắc Kinh. 17 trên 18 quận bây giờ thuộc về phe ủng hộ phong trào dân chủ [2]. Hơn một nửa số ghế này chuyển sang ủng hộ phía phong trào dân chủ so với cuộc bầu cử cách đây bốn năm.
Đây là lần đầu tiên mà tất cả 452 ghế quận đã được tranh cử [3]. Điều này cho thấy chiến lược và quyết tâm của phong trào vận động dân chủ giành lấy chính nghĩa bằng lá phiếu tín nhiệm của người dân. Nói cách khác, phong trào dân chủ Hồng Kông hiểu rằng biểu tình phản kháng lại sự can thiệp của Bắc Kinh vào nền chính trị tại đây là một cách đấu tranh. Cách đấu tranh hiệu quả khác là vận động người dân sử dụng lá phiếu của mình để chính thức bày tỏ nguyện vọng và để gửi thông điệp trực tiếp đến người Trưởng khu (Tổng chánh) Carrie Lam, cũng như lãnh đạo Bắc Kinh.
Trong khi đó, các cơ quan truyền thông của Trung Quốc lại sử dụng những từ ngữ như thiên lệch/bóp méo (skewed) và thất bại/thoái lui (setback) đểdiễn tả kết quả bầu cử [4]. Họ đổ lỗi cho phong trào dân chủ phá hoại chiến dịch bầu cử, cáo cuộc phong trào dân chủ thị oai các cử tri để họ không dám bầu phía thân chính quyền/Bắc Kinh. Tuy đưa ra đầy cáo cuộc như thế trên các cơ quan truyền thông tại Trung Quốc, họ không trưng bày bằng chứng nào, và cũng không đưa ra kết quả bầu cử rằng phe ủng hộ dân chủ đã thắng gần 90 phần trăm ghế quận này để người dân Trung Quốc nhận xét thông tin một cách trung thực. Cho nên truyền thông nhà nước Trung Quốc muốn nói sao thì nói bởi họ không chỉ độc quyền đưa thông tin và bình luận mà còn kiểm soát và ngăn cấm mọi tiếng nói khác biệt.
Kết quả bầu cử cuối tuần qua đã gửi thông điệp đến Bắc Kinh, và phe thân Bắc Kinh tại Hồng Kông, rằng đại đa số người dân Hông Kông ủng hộ phong trào dân chủ ;rằng họ không muốn Bắc Kinh can thiệp vào chuyện nội bộ Hồng Kông ;rằng họ yêu cầu chính quyền Hồng Kông đáp ứng tất cả năm yêu cầu của họ, chứ không chỉ đơn thuần rút lại dự luật dẫn độ là thôi.
Cuộc đấu tranh tại Hồng Kông để bảo vệ các quyền, tự do và nguyên tắc/tiến trình dân chủ trong sáu tháng qua đã gây hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trên toàn thế giới. Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Dự luật Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông S.1838 và chuyển lên Tổng thống Trump ngày 21/11, và được ông ký thông qua ngày 27/11 [5].
Làm sao phong trào dân chủ tại Hồng Kông đạt được những kết quả đầy ngoạn mục này, qua các cuộc biểu tình liên tục và có lúc huy động được một hai triệu người, và qua con số đi bầu kỷ lục 2,9 triệu người mà đại đa số bầu cho phe ủng hộ dân chủ ?
Như đã trình bày trong các bài trước, ba lý do căn bản mà phong trào dân chủ tại Hồng Kông thể hiện một cách đáng ngưỡng mộ và đáng để cho tất cả những ai khát vọng tự do dân chủ học hỏi [6]. Một, người Hông Kông may mắn tiếp thu một nền văn hóa và chính trị dân chủ từ Anh quốc hơn 150 năm qua, trong đó nền pháp quyền (rule of law) và các tiến trình thủ tục dựa trên pháp luật là nền tảng xã hội. Nhờ các nền tảng căn bản nhưng vững chắc này nên Hồng Kông mới có thể trở thành trung tâm tài chánh hàng đầu tại Á châu. Người Hông Kông hiểu rõ giá trị tự do dân chủ và thành quả nó mang lại, cho nên họ phải đấu tranh để bảo vệ nó. Hai, một nền giáo dục cấp tiến đào tạo ra những cá thể biết suy nghĩ độc lập, có tư duy phản biện (suy nghĩ phê phán/critical thinking), có tinh thần sáng tạo và có sự tự tin mạnh mẽ. Ba, họ học hỏi không ngừng, rút tỉa những thành công cũng như thất bại từ các cuộc đấu tranh Dù vàng năm 2014, từ các cuộc cách mạng cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, các bài học đấu tranh bất bạo động của Gene Sharp, các triết lý "hãy như nước" của Bruce Lee, v.v… và áp dụng nó vào thực tế mà không sợ thất bại.
Joshua Wong có tiết lộ rằng phong trào dân chủ tại Hồng Kông tuy không có lãnh đạo nhưng có hàng trăm điều phối viên. Qua cuộc bầu cử quận cuối tuần qua, kết quả cho thấy họ đã chuẩn bị người tranh cử vào tất cả 452 ghế quận này, và đã giành được khoảng 350 ghế trong tổng số ghế này. Họ không những linh động, uyển chuyển, sáng tạo, mà còn luôn trên tinh thần sẵn sàng để chủ động, đặt chính quyền về phía bị động ;đồng thời luôn sẵn sàng ứng biến, đối phó khi tình thế hoặc điều kiện thay đổi.
Nhưng bên cạnh, và đàng sau, những khuôn mặt nổi này, là hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn, những cá nhân khác. Mà mỗi người là một chiến sĩ. Và cũng là một lãnh đạo nhỏ, trong nhóm riêng của mình. Sự thành công của phong trào Hồng Kông nằm ngay ở tinh thần độc lập và tự quyết của mỗi cá nhân này. Không có lãnh đạo, họ đặt nặng ở chiến thuật cốt lõi : phối hợp. Mỗi cá nhân biết nhìn bức tranh tổng thể, biết tự xem mình có thể làm gì, đóng góp được gì, trong bức tranh đó, để hỗ trợ cũng như phối hợp nhịp nhàng và khôn khéo. Khả năng và tinh thần phối hợp của họ được thể hiện rõ ràng qua các cuộc biểu tình, qua cuộc bầu cử cuối tuần qua, và qua cung cách quốc tế vận của họ với các khuôn mặt nổi đi khắp nơi để mang tiếng nói và chuyển tải thông điệp của mình trên bình diện quốc tế.
Cuộc đấu tranh nào cũng cần lãnh đạo. Đó là điều chắc chắn. Các chế độ độc tài thừa hiểu sách lược này. Họ cũng từ đó mà ra. Cho nên để triệt tiêu các cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ, các thể chế độc tài tìm mọi cách để kiềm chế, quản thúc, triệt hạ uy tín, gây nghi kỵ chia rẽ, và sau cùng nếu cần thì ngụy tạo bằng chứng để kết tội, để xét xử tại tòa án cho có lệ và để bỏ tù qua tiến trình đầy thủ đoạn, bất công và hoàn toàn không minh bạch của họ đối với các lãnh đạo phong trào dân chủ. Chặt được đầu não thì đã giải quyết phần lớn vấn đề.
Phong trào đấu tranh tại Hồng Kông thì khai dụng sách lược khác. Phối hợp hàng ngang để vận động số đông. Để có hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn, hay cả hàng triệu ngàn, cái đầu. Làm sao chặt hết !!!
Phối hợp (collaboration), về mặt xã hội học, hay có thể nói hầu hết các lĩnh vực và ngành nghề, ngày càng được xem là các đặc điểm đưa đến sự thành công trên bình diện lớn, và mang tính định hình của sự sáng tạo và tăng trưởng [7].
Ngay cả trong lĩnh vực học thuật, càng ngày các chuyên gia càng phối hợp với nhau. Những cá nhân thần đồng/xuất chúng mà trước đây làm việc một mình bây giờ là huyền thoại của quá khứ. Ngày hôm nay, những đột phá (breakthrough) lớn nhất xảy ra khi mạng lưới những người có động lực mạnh mẽ và với tầm nhìn tập thể cùng tham gia và chia sẻ ý tưởng, thông tin và công việc [8]. Greta Thunberg là một điển hình mạnh mẽ và ấn tượng nhất [9].
Trong lĩnh vực nghiên cứu, sáng tạo, hay nói chung là mọi vấn đề liên quan đến con người, phối hợp là một trong các chìa khóa quan trọng nhất để đưa đến kết quả lớn và quan trọng.
Phối hợp để vận động số đông
Lý do căn bản nhất, là mỗi chúng ta, dù tài giỏi, thần đồng, xuất chúng đi nữa, khả năng của từng cá nhân cũng sẽ có giới hạn của nó. Vài tổ chức/tập thể, dù lớn mấy, cũng có những giới hạn của nó. Những vấn đề, thử thách của con người trên bình diện quốc gia và quốc tế cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trên tinh thần vì quyền lợi chung. Hòa bình, an ninh, kinh tế, thay đổi khí hậu, môi trường sống v.v… là những vấn đề như thế.
Phối hợp, thật ra, nói dễ nhưng làm khó. Nó có lắm ưu điểm, nhưng cũng dễ tạo ra nhiều lãnh đạo giả và xung đột trong cách làm việc. Nhưng người Hồng Kông, dù chưa thành đạt các mục tiêu của họ, họ đã kích động tinh thần và truyền cảm hứng mạnh mẽ lên toàn thế giới trong thời gian qua. Vì sao ? Vì họ có tinh thần và khả năng phối hợp rất cao. Vì thế cho nên các cuộc biểu tình của họ, tuy không có lãnh đạo, nhưng nhờ khả năng phối hợp tài tình, họ huy động được số người tham dự với tỷ lệ dân số cao nhất. Cách đây 5 năm, chỉ có khoảng một hai trăm ngàn người tham dự. Năm nay, có đến một hai triệu người. Có đến 2,9 triệu người tham gia đi bầu trong kỳ bầu cử quận vừa qua.
Các cách thức phối hợp
Để phối hợp thành công, phong trào dân chủ Hồng Kông đã vận dụng hiệu quả tâm lý con người qua các phương pháp sau đây [10].
Một, thiết kế các hoạt động phải có khả năng tạo ra kết quả cụ thể. Như thế mới giữ được lửa, duy trì suy nghĩ tích cực, và hướng tới tinh thần và mục tiêu chung.
Hai, về nguyên tắc, bất cứ ai cũng có thể thực hiện các hoạt động này. Như thế mới huy động được số đông. Mặt đồ đen, cầm dù, đeo khẩu trang/mặt nạ v.v… ai cũng làm được.
Ba, hoạt động có thể được thực hiện cùng với cuộc sống hàng ngày (thay vì chiến dịch hoặc sự kiện một lần). Chẳng hạn, trên đường đi làm về, những người biểu tình Hông Kông thay áo quần ra rồi bắt tay tham gia và vận động nhau, thay vì phải nghỉ nguyên ngày.
Bốn, các hoạt động đáp ứng nhu cầu trong cộng đồng. Mục tiêu của biểu tình Hồng Kông là đưa ra năm yêu cầu chính đáng, bảo vệ quyền lợi của người Hồng Kông.
Năm, hoạt động chủ yếu dựa vào sự tự lực cánh sinh, ai làm được gì thì làm, trong khả năng của mình, thay vì phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố bên ngoài, hay các tổ chức lớn, để hỗ trợ họ, mặc dầu họ biết họ cũng cần đến sự hỗ trợ của quốc tế.
Sáu, hoạt động đối diện và thách thức nguồn gốc của vấn đề (ở đây là Bắc Kinh can thiệp quá nhiều vào nền chính trị "một quốc gia hai thể chế" tại Hồng Kông). Cho nên họ đấu tranh để chống đối sự can thiệp của Bắc Kinh và mong muốn từ đó tạo ra một ý thức trách nhiệm về một viễn ảnh Hồng Kông mà trong đó tương lai tốt đẹp hơn.
Tinh thần phối hợp
Để phối hợp hiệu quả, những người tham gia cần thể hiện các đức tính/tinh thần sau đây.
Cần học cách lắng nghe (active listening). Kỹ năng này không phải dễ, và không phải ai cũng có. Nó cần được học, thực tập, trau dồi, và ý thức không ngừng.
Cần tập trung vào các ý tưởng, thay vì vào con người hay vào cá nhân. Khi tranh luận, hay phê bình, cần tránh tối đa nhắm vào con người, mà hãy nhắm vào vấn đề. Phân tích và phê bình sự việc, hành vi, thay vì chỉ trích nguyên con người đó.
Cần mở rộng lòng, trái tim, bộ óc khi phối hợp. Nghĩa là thay vì làm lớn chuyện, thì hãy học làm chuyện lớn, học làm việc với nhau (Open Up Instead of Size Up).
Cần quan tâm để ý đến sự thiên kiến đã định sẵn (confirmation bias) trong chính mình. Ai cũng có thiên kiến cả, không ngoại trừ ai. Phần lớn người ta chỉ muốn nghe những gì hợp tai hay hợp nhãn quan của mình.
Cần sự kết nối bên ngoài lĩnh vực và văn hóa của mình một cách sâu rộng. Nghĩa là phải có tinh thần bao hàm (inclusive) thay vì loại trừ (exclusive). Cần nhiều người ở nhiều lĩnh vực khác nhau và có cách nhìn, đánh giá, phân tích khác mình để bổ túc cho nhau. Những người mà có khả năng nhìn ra được những điều, khía cạnh mà mình nhìn không ra. Đi tìm tài năng có thể bổ túc cho mình hay dạy mình những điều mình không có.
Cần tránh tối đa sự chia rẽ (divisiveness), nghi kỵ, tị hiềm.
Cần gia tăng giáo dục và đào tạo thường xuyên, cho mình và những người chung quanh.
Cần tránh dĩ hòa vi quý. Khi có quá nhiều ý kiến, nó dễ dàng đi đến sự đồng thuận ở giữa để thỏa mãn mọi người. Đây là điều hay nhưng cũng có thể là điều dở. Cho nên cần phải luôn thách thức chính mình và những người chung quanh để phát huy những ý tưởng xuất sắc.
Cần phải nhớ tầm quan trọng của sự chuyên môn. Phối hợp đòi hỏi cấu trúc ngang hàng khi hoạt động, tức ngang nhau, và do đó dân chủ. Nhưng cũng phải tôn trọng và vận dụng khả năng chuyên môn và chỗ đứng của chuyên gia. Ý kiến của đám đông không thể thay thế vai trò của chuyên gia được.
Vài kết luận
Nhiều người Việt có xu hướng trông chờ lãnh đạo. Nhiều người ao ước có được một lãnh đạo sáng suốt, một minh quân xuất hiện, để tập hợp quần chúng, để huy động sức mạnh, và để mang lại thay đổi cho Việt Nam.
Nhưng chờ như thế chẳng khác gì chờ sung rụng. Đến bao giờ mới xảy ra ! Lãnh đạo đâu phải tự nhiên xuất hiện. Nó là cả một quá trình tôi luyện, học hỏi, phấn đấu, dấn thân, thử nghiệm, rút tỉa kinh nghiệm, vượt qua những thất bại ê chề, vượt qua nghịch cảnh của chính mình v.v… Nói theo ngôn ngữ của thông minh cảm xúc (emotional intelligence) là phải có ý thức, biết tự chủ, hiểu biết về xã hội và có khả năng quản lý mối quan hệ với người khác.
Khi điều kiện cần và đủ, sẽ có lãnh đạo. Đối với phong trào đấu tranh tại Hồng Kông cũng thế. Nhưng khi chưa có lãnh đạo ? Phối hợp. Hơn nữa, phối hợp là phương cách hiệu quả nhất hiện nay để chống lại độc tài. Vì sao ? Vì độc tài, tự bản chất, là thâu tóm quyền hành, là tập trung quyền lực, vào một hay vài cá nhân, vào một hay vài tổ chức/đảng phái. Phối hợp thì ngược lại. Nó mang đặc tính của một xã hội dân sự linh động mà ai cũng có vai trò trong đó. Càng nhiều người tham gia với tinh thần độc lập, tự quyết và có tư duy phản biện, họ sẽ có một số ảnh hưởng nhất định nào đó. Trong bối cảnh như thế, rất khó để có thể tập trung ảnh hưởng hay tập trung quyền lực. Rất khó để trở thành độc tài và toàn trị.
Nhưng phối hợp cần phải đi song song với nền giáo dục cấp tiến để mỗi con người trong xã hội đó biết quyết định lấy các vấn đề trọng yếu ảnh hưởng lên cuộc sống của mình. Điều đó có nghĩa người Việt cần thay đổi cách nhìn về giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội và quan hệ quyền lực.
Tóm lại, tản quyền (decentralisation) và ủy/trao quyền (empowerment) là chìa khóa để xây dựng các tổ chức xã hội dân sự vững mạnh và để xây dựng nền tảng dân chủ vững ổn cho một Việt Nam tương lai.
Trong lúc này, các tổ chức đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam có thể áp dụng tinh thần phối hợp thật sự để xây dựng liên minh. Sẵn sàng làm việc với nhau vì mục đích chung. Mỗi người mỗi tổ chức đều có một số khả năng, tuy cũng đầy giới hạn, nhưng khi cùng nhau phối hợp cho mục tiêu chung, sức mạnh và kết quả sẽ gia tăng đáng kể. Đây cũng là điều mà nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay không muốn. Đảng cộng sản Việt Nam muốn cộng đồng người Việt hải ngoại luôn chia rẽ nhau và tranh chấp nhau. Họ cũng chủ trương các cá nhân và tổ chức nào còn hoạt động tại Việt Nam luôn nghi kỵ nhau và không thể hợp tác nhau. Họ cũng muốn cô lập hoặc bứng đi các cá nhân nào còn ở trong vai trò lãnh đạo mà có ảnh hưởng. Việc bắt nhà báo tiến sĩ Phạm Chí Dũng vừa qua cũng nằm trong mục đích này, dù họ có đưa ra bất cứ luận điệu tuyên truyền nào [11].
Những người Việt từng kinh nghiệm với cộng sản đều hiểu biết điều này. Chẳng có gì mới mẽ ở đây cả. Ngay người ngoại quốc giáo sư Stephen Young cũng hiểu sâu sắc cách chia để trị của cộng sản qua bài "Ai thống trị Việt Nam ngày nay ?" [12]. Đảng cộng sản Việt Nam không cần chính họ tài giỏi. Họ chỉ cần người dân không thể phối hợp với nhau là họ đã thành công. Nhưng hiểu là một chuyện. Vượt qua được chính mình hay không, và làm được hay không, là chuyện khác. Cũng như biết chứng hư, tật xấu là một chuyện, nhưng vượt qua được, bỏ được nó hay không, là cả một tiến trình. Nhưng nếu để cái tôi quá lớn và không phối hợp được với nhau thì thật là đáng tiếc. Trong khi đó một chế độ thô bạo, bất lực và hèn hạ vẫn tiếp tục đè đầu cưỡi cổ người dân.
Mỗi người Việt, mỗi nhà hoạt động, nên nỗ lực trở thành một phối hợp viên, không cần lãnh đạo, cho đến khi nào lãnh đạo được tín nhiệm. Ngay cả khi có lãnh đạo, sự phối hợp vẫn mang tính quyết định để có thể vận động được số đông. Hơn nữa, khi phối hợp, chúng ta học cách bỏ cái tôi to lớn sang một bên, để cái chung, cũng như sự sáng tạo, sáng kiến, đổi mới được phát triển tối đa, đem lại những thành quả chung cho tập thể, cho đất nước.
Do đó, nhu cầu phối hợp hành động là tối quan trọng. Cho mục đích cao cả nhất. Mục đích chung của con người, xã hội, quốc gia, và nhân loại. Không phối hợp được với nhau vì mục đích chung thì mọi mơ ước đều viễn vong (wishful thinking).
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 03/12/2019
Tài liệu tham khảo :
1. K.K. Rebecca Lai and Jin Wu, "Hong Kong Election Results Mapped ", The New York Times, 24 November 2019.
2. Ngọc Lễ, "Phe dân chủ thắng lớn trong bầu cử, Hong Kong sẽ có gì thay đổi ? ", VOA Tiếng Việt, 26/11 năm 2019.
3. James Griffiths, Eric Cheung and Maisy Mok, "Landslide victory for Hong Kong pro-democracy parties in de facto protest referendum ", CNN, 25 November 2019.
4. Huileng Tan, "Beijing finally responds to Hong Kong election results after big win for democrats ", CNBC, 26 November 2019.
5. Thượng viện thông qua ngày 19/11 với tỷ số tuyệt đối ;Hạ viện thông qua ngày 20/11 với tỷ lệ gần tuyệt đối 417-1 ; và Thượng viện chuyển đến Tổng thống Donald Trump để ký vào ngày 21/11. Ngày 27/11 ông Trump đã ký thành luật, dù quan điểm của ông ra sao đi nữa, ông Trump không có sự chọn lựa nào khác khi quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua gần như tuyệt đối.
6. Phạm Phú Khải, "Viễn ảnh cuộc đấu tranh tại Hồng Kông ?, VOA Tiếng Việt ; Kỳ 1 ngày 9/11 ; Kỳ 2 ngày 13/11. "Hong Kong : Biểu tượng vì tự do" ngày 9/10 ; "Tại sao cần nền giáo dục cấp tiến ?" ngày 25/9 ; "Hong Kong : tự do hay là chết ? " ngày 6/9/2019.
7. Karen Sternheimer, "Learning Sociology through Collaboration", Everyday Sociology, 17 April 2017 ; Lynda Moultry Belcher ; Reviewed by Jayne Thompson, "Advantages & Disadvantages of Collaboration in the Workplace", Psychology Today, 4 April 2019 ; Jeffrey Davis, "How Wonder Plays a Key Role in Collaboration", Psychology Today, 4 April 2019.
8. Jeff DeGraff, "The Good, the Bad, and the Future of Creative Collaboration", Psychology Today, 11 May 2019.
9. Somini Sengupta, "Greta Thunberg, on Tour in America, Offers an Unvarnished View", The New York Times, 18 September 2019 ; Agence France-Presse in Stockholm, "'The climate doesn't need awards' : Greta Thunberg declines environmental prize", The Guardian, 30 October 2019.
10. Jeff DeGraff, "What Can Companies Do to Create a Culture of Innovation ?", Psychology Today, 24 October 2017 ; Jeffrey Davis, "3 Psychological Barriers to Creative Collaboration", Psychology Today, 31 July 2018 ; Jeffrey Davis, "How Wonder Plays a Key Role in Collaboration", 29 June 2016.
11. "Nhà báo Phạm Chí Dũng bị bắt vì ‘tuyên truyền chống nhà nước’", VOA tiếng Việt, 21/11 năm 2019.
12. Stephen B. Young, "Ai thống trị Việt Nam ngày nay ?", Dân Luận, 17 tháng 1 năm 2014.
Trong những ngày qua, bao nhiêu bài và ý kiến đã được viết về 39 nạn nhân Việt Nam, phần lớn là từ miền Bắc như Hà Tĩnh và Nghệ An. Danh tính của họ đã được Bộ Công an Việt Nam và cảnh sát hạt Essex củ Anh công bố vào ngày 8 tháng 11.
Một buổi truyền thông phòng, chống buôn bán người tại xã Bát Đại Sơn (Quản Bạ) của Hội phụ nữ tỉnh.
Hiện nay chúng ta chưa biết hết được câu chuyện của từng người. Một vài khía cạnh cá nhân của cô Bùi Thị Nhung, hay cô Phạm Thị Trà Mi, được chia sẻ. Mỗi câu chuyện đều là nỗi thương tâm. Mỗi mạng sống đều quan trọng. Không biết khi nào và có thể nào biết từng hoàn cảnh của mỗi người không. Và có mấy người thật sự quan tâm để muốn biết.
Chuyện đưa thi thể về lại Việt Nam bằng cách nào để đáp ứng được nguyện vọng của gia đình, theo truyền thống của phần lớn gia đình Việt Nam, cũng là một vấn đề phức tạp và nhức nhối không kém. Nếu xảy ra tại Úc, xác suất rất cao là chính quyền Úc, cũng như dân chúng Úc sẽ ủng hộ hết mình, tài trợ cho nguyên chiếc máy bay (charter plane) để đưa thi hài về Việt Nam, đến tận sân bay nội bài. Không biết nước Anh có làm vậy không?
Người đã chết trong vụ này thì quá tội nghiệp. Người còn sống thì khổ tâm không kém.
Sẽ còn rất lâu để biết rõ được đường dây buôn người mà 39 người Việt đã trở thành nạn nhân trong vụ này. Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc tổ chức Ủy ban Cứu người Vượt biển (BPSOS), đã trình bày một số chi tiết quan trọng về đường dây nhiều mắc xích. Liệu sẽ có cuộc điều tra ngọn ngành hay không, và dù có đi nữa, có tìm ra được thủ phạm hay không, là một câu hỏi chưa thể có câu trả lời hiện nay.
Chính quyền Việt Nam có thể làm gì ?
Nhiều lắm. Tìm ra các thủ phạm đằng sau vụ này là điều tối thiểu. Tất nhiên nó đã có bảo kê, và có bao nhiêu dây dưa rễ má đến tầng cao, nếu không phải là cao nhất, của chính quyền. Việt Nam có gần cả triệu công an thuộc mọi ngành nghề, và công an Việt Nam cũng trách nhiệm luôn phần di trú, gọi là Cục Xuất Nhập Cảnh. Những ai đi khỏi, hay về lại, Việt Nam thì họ đều biết. Nhất là những người bất đồng chính kiến, các nhà hoạt động độc lập, hay các thành phần bị liệt kê là "phản động". Sẽ không quá đáng khi cho rằng trong mắt giới cầm quyền và những người thực thi công quyền tại Việt Nam, những thành phần này được xem là nguy hiểm hơn cả những kẻ tội phạm hình sự, kể cả tội phạm buôn người (human trafficking) và chuyển nhập lậu người (people smuggling). Họ cũng nguy hiểm hơn cả thành phần tình báo Trung Quốc xâm nhập và lũng đoạn chính trị, kinh tế và văn hóa Việt Nam nữa. Cách xử lý của các cơ quan công quyền và lãnh đạo chính trị Việt Nam cho thấy quan niệm và chủ trương như thế.
Liệu có nên tin tưởng chính quyền Việt Nam sẽ nỗ lực điều tra và chống tận gốc nạn buôn người và chuyển nhập lậu người sau sự kiện này, mặc dầu Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có lên án, và chỉ đạo "cơ quan chức năng sớm hoàn tất điều tra, truy tố, xét xử để nghiêm trị những kẻ phạm tội" hay không, để nó không xảy ra lần nữa?
Nhưng trước khi tiến hành "điều tra, truy tố, xét xử để nghiêm trị những kẻ phạm tội", thì cần phải có những chính sách và phương pháp đúng đắn. Đầu tiên là "phòng ngừa/prevention" và sau đó là "phát hiện/detention". Phòng ngừa cần phải có sự phối hợp của tất cả các ban ngành chính phủ tại Việt Nam. Phát hiện phải cần có sự phối hợp ít nhất từ cục an ninh, cục xuất nhập cảnh và cảnh sát đặc nhiệm. Vấn nạn buôn người tại Việt Nam đã xảy ra vài thập niên nay. Những trẻ em Việt Nam bị buôn người sang Trung Quốc và Cambodia làm nô lệ tình dục đã xảy ra ít nhất hai thập niên qua, nếu không phải lâu hơn. Nhưng cho đến bây giờ ông Thủ tướng ra chỉ thị các ban ngành thực hành mà vẫn không nắm rõ mục tiêu và chiến lược, thì kết quả, nếu có, cũng sẽ rất giới hạn.
Bài nghiên cứu của Oanh Nguyen và Hoan Nguyen, được xuất bản trên tạp chí Flinder Law Journals năm 2018, cho biết sự thất bại từ luật pháp, chính sách, đến việc thi hành các pháp luật và chính sách này, đặc biệt từ cảnh sát Việt Nam, và nói chung các cơ quan công quyền Việt Nam. Hai tác giả đề nghị Việt Nam nên cải thiện các chiến lược để chủ động nhận diện và hỗ trợ nạn nhân của nạn buôn người, nhất là trong phạm trù xuất khẩu lao động, mại dâm và trẻ em lao động.
Nếu chính quyền Việt Nam biết lắng nghe, ít nhất với những nghiên cứu khoa học và học thuật đúng đắn, như hai tác giả nêu trên, hay bao nhiêu các nghiên cứu và đề nghị khác tại Việt Nam và trên thế giới, kể cả Liên Hiệp Quốc, thì chuyện 39 "thùng nhân" có xác suất rất thấp để xảy ra.
Điều tiếp chính quyền Việt Nam có thể làm là cách tiếp cận và giải quyết vấn nạn này. Sau khi đã trừng phạt những kẻ buôn người, chính quyền phải có trách nhiệm giúp đỡ nạn nhân và gia đình họ. Họ đã trãi qua bao nhiêu đau khổ, mất mát, chấn thương trong chặng đường này. Có người bị hãm hiếp, đánh đập, hâm dọa, luôn sống trong sợ hãi. Và cũng có người bị giết hại, trên đường đi. Nó sẽ không bao giờ phai nhòa trong đầu họ. Cho nên họ cần được hỗ trợ, nâng đỡ, và điều trị tâm lý, để vượt qua và để làm lại cuộc đời. Một cuộc đời đầy thương tích. Đầy nghịch cảnh. Hai tác giả Oanh Nguyen và Hoan Nguyen cũng kết luận rằng cần phải cải tổ luật, nhất là vì những nạn nhân, dù biết mình bị lường gạt, cũng không dám khai báo vì sợ bị luật pháp xét xử. Luật pháp và cách thi hành pháp luật như thế thảo nào không những thất bại hoàn toàn trong việc bảo vệ nạn nhân mà còn là động cơ để những kẻ buôn người tiếp tục trục lợi tối đa và vẫn tiếp tục hoành hành.
Điều tiếp theo mà tôi muốn nói, vắn tắc thôi vì không thể đi sâu trong bài này, là vấn đề hộ chiếu. Hai trong những dấu hiệu mà chúng ta, ngay cả người không chuyên môn hay trách nhiệm về vấn nạn buôn người, có thể nhận diện ra ai là nạn nhân, là hai yếu tố sau. Một, là sự sợ hãi thể hiện rất rõ nơi nạn nhân mà mình tiếp xúc. Họ không dám nói, người khác thường trả lời dùm cho họ, và họ luôn ngó chừng coi thử có ai đó quan sát theo dõi họ không, luôn lo lắng sợ hãi trong ánh mắt và cử chỉ v.v... Hai, là hộ chiếu. Các nạn nhân buôn người phần lớn, nếu không phải tất cả, đều bị tịch thu hộ chiếu. Những kẻ buôn người dùng nó để kiểm soát và ngăn chặn mọi ý định nào báo cáo với các cơ quan công quyền. Hiểu được điều này nên chính quyền của nhiều nước dân chủ đã thay đổi luật và luôn tìm cách bảo vệ nạn nhân, mặc dầu sau cùng nếu không phải là công dân thì họ cũng bị buộc phải trở về lại nước, trừ phi có diện hợp pháp để ở lại.
Trong khi đó, tại Việt Nam, tôi không rõ các nạn nhân của các vụ buôn người này có bị tịch thu hộ chiếu khi về lại Việt Nam hay không. Nhưng những nhà hoạt động Việt Nam, mới đây nhất là cô Đinh Thảo, mới về lại Việt Nam cách đây hai hôm khi viết bài này, đã bị tịch thu hộ chiếu. Cô Đinh Thảo cũng không phải là ngoại lệ. Nguyễn Hồ Nhật Thành, Nguyễn Anh Tuấn v.v… cũng đều bị như vậy. Tại các quốc gia như Úc, hộ chiếu là quyền đi lại của công dân. Bất cứ công dân nào. Chỉ khi nào phạm tội rất nặng, về an ninh quốc gia, về tình trạng sức khỏe (như bệnh truyền nhiễm có thể lan rộng), hay áo dâm, chẳng hạn, thì hộ chiếu mới có thể không được cấp/từ chối (refused), hay bị hủy bỏ (cancelled). Nhưng mọi người đều có thể khiếu kiện tại tòa án. Tòa án là nơi quyết định sau cùng, không phải chính quyền.
Những nhà hoạt động Việt Nam với mơ ước vì một tương lai Việt Nam tốt đẹp hơn lại bị chính chính quyền của mình đối xử như mối đe dọa an ninh. Họ đối xử như thủ phạm buôn người với nạn nhân bị buôn người. Hết ý kiến !
Sau cùng, liệu những tuyên bố của ông Nguyễn Xuân Phúc có giá trị gì không, có giải quyết được tận gốc vấn đề không? Những lý do bỏ nước ra đi (push factors) thì vô số, và những lý do di cư đến nơi khác (pull factors) thì cũng quá nhiều, trong trường hợp Việt Nam. Điều đó cho thấy sự thất bại toàn diện của chính quyền Việt Nam hôm nay trước mọi vấn đề của đất nước, mặc dầu họ muốn nói muốn tuyên truyền như thế nào đi nữa. Đất nước chưa bao giờ có được như ngày hôm nay, người đứng đầu nước Nguyễn Phú Trọng tuyên bố nhiều lần như thế. Cuối năm 2016 ông Trọng nói thế. Đến đầu năm 2019 cũng nói thế. Nhưng mang hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị coi thường. Số mạng của 39 người Việt Nam bị buôn người và chết tức tưởi như thế trong thời đại này. Có gì để hãnh diện, để tự mãn đến thế !
Trên thực tế thì thực trạng của đất nước hôm nay là ai cũng muốn ra đi, nếu có cơ hội. Ngay cả khi trả một số tiền quá lớn và phải đi làm nô lệ thời đại mới, qua đường dây buôn lậu đầy nguy hiểm và bất an, mà cũng có hàng chục, nếu không phải hàng trăm, ngàn người cũng muốn đi? Thông tin trung thực và giáo dục công dân vì thế là phần vô cùng quan trọng trong một phần của giải pháp này. Nhưng chính quyền Việt Nam đã làm gì trong phòng ngừa và ngăn chận này ?
Vài lời kết
Ông Phúc nên tìm hiểu cách tiếp cận và giải quyết nạn buôn người của các nước khác trên thế giới, như Úc, chẳng hạn. Bốn nguyên tắc quan trọng nhất là : phòng ngừa và ngăn chận ; phát hiện và điều tra ; truy tố và tuân thủ ; hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân. Nguyên tắc và chiến lược đối phó này là sựphối hợp toàn diện của chính quyền.
Hơn nữa, muốn chống tận gốc vấn nạn buôn người, thì trước hết phải chống tận gốc nạn tham nhũng, với tính cách hệ thống. Ở đâu cũng có tham nhũng, nhiều hay ít. Con người mà, tham lam ác độc đâu cũng có cả. Nhưng hệ thống? Chỉ có dưới các chế độ độc tài và cộng sản thôi. Khi tham nhũng tràn lan ở mọi tầng, mọi nơi, mọi lúc, thì làm sao chống cội nguồn vấn đề ? Chẳng lẽ tự hủy diệt chính mình!
Còn những vấn đề ở tầng bao quát hơn, như bao vấn nạn khác của xã hội, của giáo dục, của khủng hoảng niềm tin và suy đồi đạo đức, của sự giả dối và trí trá, của sự lạm quyền và lộng quyền, của tư duy bảo thủ và lạc hậu, v.v… thì phải làm gì ?
Rõ ràng là cần một giải pháp chính trị. Toàn diện và triệt để.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 23/11/2019
5 tháng, hay gần 23 tuần, qua là những cuộc biểu tình diễn ra liên tục tại Hồng Kông, ít nhất là hàng tuần, và có khi hàng ngày. Khởi đầu vào tháng Tư năm nay, nó trở thành rộng lớn, dồn dập và đầy ấn tượng vào đầu tháng Sáu, một phần vì tưởng niệm 30 năm biến cố Thiên An Môn. Nếu chỉ tính đến ngày 3 tháng 10 thôi thì đã có hơn một trăm cuộc biểu tình lớn nhỏ khác nhau, hơn hai ngàn người bị bắt, và ít nhất ba ngàn đạn hơi cay bắn vào người biểu tình [1]. Đến hôm nay thì hơn ba ngàn người bị bắt, nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp diến, gần đây nhất là vào dịp lễ hội Halloween tuần qua [2].
Kêu gọi điều tra bạo lực cảnh sát liên quan đến cái chết của một sinh viên đại học University of Science and Technology, Hong Kong.
Ngoại trừ dự luật dẫn độ đã được chính thức rút lại, bốn đòi hỏi còn lại của người Hồng Kông vẫn chưa được đáp ứng [3]. Không có dấu hiệu gì cho thấy chính quyền Hồng Kông, hay Bắc Kinh, sẽ đáp ứng các đòi hỏi này, hoặc sẽ nhượng bộ ngồi xuống thảo luận với những người đấu tranh tại Hồng Kông, trong thời gian tới.
Những ấn tượng
5 tháng nhìn lại, cuộc đấu tranh của người Hồng Kông đã cho thấy những ấn tượng sâu sắc sau đây.
Một, con số kỷ lục. Về số người tham dự thì nó chiếm tỷ lệ có lẽ cao nhất tính theo dân số trong lịch sử. Con số này lúc lên cao đến hai triệu, lúc xuống còn vài ngàn hay vài trăm, nhưng phần lớn là biển người, biển dù, biển đen. Người tham dự cũng rất đa dạng, mang tính đại diện cho mọi thành phần xã hội, nhưng giới trẻ vẫn chiếm đa số.
Hai, tính sáng tạo và linh hoạt/động. Các chiến lược chiến thuật sử dụng đều phản ảnh yếu tố này, giống như phương châm "hãy là/như nước" của Lý Tiểu Long. Họ khai dụng các phương tiện truyền thông và kỹ thuật hiện đại để vận động người đi biểu tình và vận dụng cho mục tiêu biểu tình [4]. Họ vận dụng âm nhạc và nghệ thuật để tranh thủ lòng người. Họ sử dụng mặt nạ, dù và tia laser để chống hơi cay, và nhất là chống lại kỹ nghệ theo dõi nhận diện (surveillance technology). Họ hiểu một khi đã được thu thập thì hồ sơ dữ kiện sẽ còn mãi đó và có thể được sử dụng bất lợi cho họ về sau này. Họ luôn tìm ra các phương thức mới hoặc bất tuân đối với các biện pháp kiềm chế hay kiểm soát, kể cả bất tuân luật khẩn cấp cấm sử dụng mặt nạ.
Ba, tinh thần tự quyết, không lãnh đạo. Những người tham gia bất chấp mọi hiểm nguy, mọi quan ngại của gia đình, hay các ảnh hưởng bởi công ăn việc làm. Năm tháng, tuy không dài, nhưng kéo dài cuộc đấu tranh mỗi tuần, có khi mỗi ngày, trên mọi địa bàn chiến lược tại Hồng Kông mà không có lãnh đạo, không phải là điều dễ làm. Hẳn nhiên đằng sau phong trào đấu tranh tại Hồng Kông là các nhà doanh nhân, chiến lược gia, giới trí thức, và lãnh đạo các tổ chức xã hội dân sự v.v... Ngoài ra họ cũng có hàng trăm phối hợp viên khác nhau, được đào tạo các kiến thức và kỹ năng căn bản về đấu tranh bất bạo động v.v…, để thảo luận và lấy quyết định nhanh chóng. Nhưng họ không có lãnh đạo theo ý nghĩa một hay nhiều nhân sự chịu trách nhiệm chính, và cũng không theo cơ cấu hay tổ chức chặt chẽ nào cả. Nó cho thấy sự trưởng thành, tinh thần độc lập và khả năng tự quyết của phong trào, nhất là giới trẻ Hồng Kông.
Những thành tựu
Nhìn lại, cuộc đấu tranh của người Hồng Kông sau 5 tháng đã đạt được những gì ?
Theo tôi, ít nhất là ba điều sau đây.
Một, chiếm được sự quan tâm của dư luận quốc tế, và qua đó sự ủng hộ. Các cuộc biểu tình quy mô và kéo dài năm tháng qua đã được truyền tãi bằng cách này hay cách khác đến mọi nơi trên địa cầu này. Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua dự luật Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông 2019 (Hong Kong Human Rights and Democracy Act of 2019) vào ngày 15 tháng 10 [5]. Nó cần phải được Thượng viện thông qua và tổng thống ký mới trở thành luật. Tựu chung, lưỡng đảng Dân chủ và Cộng hòa đều ủng hộ cuộc đấu tranh của người Hồng Kông [6]. Và có thể nói đa số người dân và các chính trị gia thuộc các nền dân chủ cấp tiến chẳng có lý do gì để không ủng hộ những yêu cầu chính đáng của người Hồng Kông.
Hai, đặt tiêu chuẩn cho các cuộc vận động/đấu tranh (phần lớn) ôn hòa. Như đã trình bày trên, khả năng vận động số đông tham gia trong một thời gian dài, với đầy tính sáng tạo, linh hoạt và phong phú, và với một tinh thần tự quyết cao, đã làm cho người dân khắp nơi trên thế giới quan tâm theo dõi. Các phương thức liên lạc, phối hợp, tổ chức cho biểu tình và cử người đi khắp nơi để quốc tế vận một cách hiệu quả sẽ đáng để các cuộc đấu tranh về sau nghiên cứu học hỏi.
Ba, dấy lên niềm tin vào sức mạnh của khát vọng tự do. Phong trào đấu tranh tại Hồng Kông là một trong các biểu tượng mạnh mẽ nhất từ trước đến nay cho khát vọng tự do trước mối đe dọa của chế độ độc tài cộng sản. Những học sinh trẻ 14, 15 tuổi, cho đến các sinh viên đại học, cho đến các vị lão thành 70, 80 tuổi, đều tham gia mạnh mẽ. Không phải tất cả đều đấu tranh vì tự do, dân chủ. Thật ra một thành phần không nhỏ tham gia vì bất mãn với nền kinh tế đang suy thoái và các vấn nạn xã hội, như thiếu hụt nhà cửa. Theo nghiên cứu thì giá nhà tăng gấp ba lần trong thập niên qua, tiền thuê nhà gia tăng 25 phần trăm trong sáu năm qua, khoảng 250 ngàn người đang chờ nhà ở công cộng, trong khi mức lương không tăng đủ so với sự gia tăng phí tổn trong cuộc sống của người Hồng Kông [7]. Nhưng hầu như tất cả người Hồng Kông, cho dù không tham gia trực tiếp, hay có ủng hộ Bắc Kinh vì quyền lợi cá nhân hay vì tinh thần dân tộc, trong thâm tâm sâu thẳm của họ, đều quan ngại những quyền tự do ngày càng bị soi mòn nếu Bắc Kinh tiếp tục can thiệp mà họ lại chấp nhận hay im lặng không làm gì cả.
Con đường kế tiếp là gì ?
Tuy đầy ấn tượng, quyết tâm và chính nghĩa, và được phần lớn thế giới tự do ủng hộ, liệu người dân Hồng Kông có đạt được những mục tiêu của họ qua các hình thức đấu tranh như 5 tháng qua ? Và mục tiêu sau cùng của họ là gì ?
Ngay từ đầu, phong trào đấu tranh tại Hồng Kông đưa ra năm yêu cầu, trong đó chính thức rút lại dự luật dẫn độ đã được đáp ứng ngày 4 tháng 9, tức mất gần ba tháng [8]. Bốn yâu cầu khác của người dân Hồng Kông vẫn chưa được hiện thực. Đó là : ân xá cho những người biểu tình bị bắt, mở cuộc điều tra độc lập về sự tàn bạo của cảnh sát, chấm dứt dán nhãn hiệu các cuộc biểu tình là "bạo loạn", và áp dụng nghiêm chỉnh quyền bầu cử phổ thông.
Quyền phổ thông bầu cử thì dứt khoát Bắc Kinh sẽ không chấp nhận. Ba yêu cầu còn lại khó thể thỏa thuận được vì Bắc Kinh luôn nhìn nó với những hệ quả chính trị sâu sắc. Nó cũng ngược lại chung cách hành xử và tư duy chính trị của lãnh đạo Bắc Kinh xưa nay. Nhượng bộ, trong mắt họ, là nhu nhược, là mất mặt. Và là cơ hội để đối thủ xấn tới. Ngay cả khi các quyết định và hành động là rõ ràng sai lầm, các chế độ độc tài cộng sản thay vì công nhận và sửa sai thì luôn tìm cách khỏa lấp, nguỵ biện và tuyên truyền. Họ cũng xóa sạch dữ kiện và viết lại lịch sử để cho ra một phiên bản "sự thật khác" (alternative facts) và cấm tất cả các phiên bản còn lại.
Phong trào đấu tranh tại Hồng Kông sẽ làm gì nếu cứ tiếp tục biểu tình nhưng vẫn không nhận được sự nhượng bộ nào ở trên ? Và câu hỏi khác cần đặt ra là mục tiêu sau cùng của người Hồng Kông là gì ? Hoàn toàn độc lập với Trung Quốc, hay vẫn tiếp tục "một quốc gia, hai chế độ" (one country, two systems) thực sự ?
Cảnh sát chống bạo động bắt người biểu tình ở Hong Kong.
Các cuộc thăm dò ý kiến trong thời gian qua, tuy chênh lệch vào thời điểm khác nhau, cho biết phần lớn người Hồng Kông vẫn ủng hộ một quốc gia hai chế độ, và chỉ có dưới 20 phần trăm (bản thăm dò năm 2017 cho biết chỉ có 11 phần trăm ủng hộ) ủng hộ lập trường độc lập sau năm 2047 [9].
Ngay cả Hoàng Chi Phong (Joshua Wong) cũng chính thức bày tỏ lập trường này lần đầu tiên vào cuối tháng 10 qua khi Wong ra tranh cử vào hội đồng quận hạt (district council elections) vào ngày 24 tháng 11 sắp tới. Wong nhấn mạnh rằng anh chưa bao giờ cổ võ cho độc lập tại Hồng Kông, mà chỉ mong muốn có được tinh thần tự quyết dân chủ (democratic self-determination). Wong cũng ủng hộ một cuộc trưng cầu dân ý không ràng buộc về tương lai của thành phố này trong khuôn khổ của hiến pháp hiện hành. Nhưng Wong có thể bị loại vì không hợp lệ, với lý do rằng "tự quyết" và "độc lập" có cùng ý nghĩa như nhau [10]. Và như thế là vi hiến, ngược lại với Luật Cơ bản (Basic Law), khung sườn pháp luật như một hiến pháp chi phối mọi hoạt động tại Hồng Kông, được thông qua ngày 1 tháng 4 năm 1990 và hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 1997 cho đến năm 2047 [11]. Wong kịch liệt phản đối cuối tháng qua vì đã là người duy nhất bị cho là bất hợp lệ, và biện luận rằng điều này chứng minh Bắc Kinh đã thao túng bầu cử bằng kiểm duyệt và sàng lọc ra sao [12].
Thật là khó để mà biết những người đóng vai "lãnh đạo" trẻ khác ngoài Wong, như Denise Ho, Agnes Chow, Andy Chan v.v…, cũng như phần lớn những người nhập cuộc biểu tình trong thời gian qua, có lập trường như thế nào về vấn đề tế nhị và phức tạp này ?
Người Hồng Kông có thể làm gì ?
Với chủ trương tăng cường quyền lực cứng, mềm và bén (hard, soft and sharp power) trong những thập niên qua, đặc biệt tăng vọt dưới thời Tập Cận Bình, để can thiệp và tạo ảnh hưởng vào nền chính trị tại nhiều nơi trên thế giới, kể cả Úc, Mỹ, Tân Tây Lan v.v…, thì Hồng Kông không phải là ngoại lệ. Đúng ra Hồng Kông là địa bàn chính trị mà Bắc Kinh cảm thấy cần can thiệp nhiều nhất. Cái gai bên cạnh. Có thể Bắc Kinh quan niệm rằng không những họ có thể, mà còn có quyền, trong việc này. Hồng Kông là thuộc về họ, cho dù dưới chính sách "một quốc gia hai chế độ" hiện nay, hay 28 năm nữa, năm 2047.
Đài Loan đã hoàn toàn độc lập và tự chủ từ năm 1949 cho đến nay, nhưng Bắc Kinh vẫn tiếp tục đe dọa sẽ sử dụng mọi phương tiện để ngăn chặn sự độc lập của quốc gia này, theo Bạch thư Quốc phòng của họ vào tháng Bảy vừa qua [13].
Hồng Kông thì khác Đài Loan. Khi Anh hoàn trả Hồng Kông về lại cho Trung Quốc năm 1997, trên lý thuyết các cơ quan tư pháp, hành pháp và lập pháp vẫn phải được hoạt động hoàn toàn độc lập cho đến năm 2047. Trên thực tế, Bắc Kinh vẫn luôn tìm cách ảnh hưởng qua các nhân sự mà họ xem là trung thành với mình [14]. Nhưng trên hết, Bắc Kinh vẫn tiếp tục duy trì độc quyền diễn giải Luật Cơ bản của Hồng Kông. Đặc biệt là qua nhân vật đứng đầu hành pháp, Tổng Chánh (The Chief Executive). Ngày hôm nay, 1.200 thành viên của đủ mọi lĩnh vực chuyên môn chọn ra vị tổng chánh, thay vì phiếu phổ thông của người Hồng Kông, và hơn nữa, phải được Bắc Kinh chấp thuận. Mọi thay đổi trong tiến trình chính trị này phải được chấp thuận bởi chính quyền Hồng Kông và quốc hội Trung Quốc.
Luật Cơ bản thì khá mơ hồ về vấn đề này. Điều 45 của Luật Cơ bản nói rằng vị Tổng Chánh của Hồng Kông sẽ được chọn bằng bầu cử, hoặc qua sự tham khảo tại địa phương, và được bổ nhiệm bởi Chính quyền Trung ương (tức Bắc Kinh). Điều 45 này cũng nói rằng mục tiêu sau cùng là để làm sao vị Tổng Chánh được bầu bằng phiếu phổ thông sau khi đã được một hội đồng đại diện rộng rãi trong công chúng đề cử chiếu theo các thủ tục dân chủ. Tuy nhiên, đã 23 năm qua, Bắc Kinh vẫn chưa có nỗ lực nào để tiến triển điều lệ này thành hiện thực. Cũng vì ù lì không chịu cải tổ tiến trình bầu cử cho nên nó đã đưa đến các cuộc biểu tình rầm rộ cách đây 5 năm, kéo dài ba tháng, còn được gọi là Phong trào Dù vàng năm 2014. Cho đến nay vẫn chỉ có những ứng viên được kiểm tra bởi một hội đồng đề cử do Bắc Kinh tuyển chọn được ra tranh cử. Đây là nguyên do chính mà phong trào dân chủ tại Hồng Kông phải quyết liệt đấu tranh để duy trì và phát huy thể chế và văn hóa dân chủ mà họ đã tiếp nhận hơn 150 năm qua.
Wong và những người đứng đầu phong trào mong muốn những thay đổi chính trị lớn lao tại đây. Nhưng họ không thể làm cách mạng trong bối cảnh này. Đầu tiên là vì người dân Hồng Kông hiện nay phần lớn chưa muốn độc lập hẳn Trung Quốc. Kế tiếp là tương quan lực lượng. Cho dầu đa số người Hồng Kông vào một ngày nào đó ủng hộ độc lập, vẫn có thể phải cần hy sinh, kể cả máu đổ, để đạt được kết quả này vì Trung Quốc duy trì lập trường không chấp nhận xu hướng ly khai với bất cứ giá nào. Sau cùng, Luật Cơ bản cho phép Bắc Kinh can thiệp bằng nhiều hình thức vào nền chính trị Hồng Kông một cách hợp pháp, bởi khi làm ra nó năm 1990, Bắc Kinh thiết kế để nắm cái cán, người Hồng Kông nắm cái lưỡi.
Bắc Kinh sẽ đối đầu, nhượng bộ hay bất động ?
Những cuộc đấu tranh vì khát vọng tự do đầy ngoạn mục, can trường và sáng tạo của người Hồng Kông đã làm cho thế giới ngưỡng mộ. Nó cũng làm cho Bắc Kinh thật sự bối rối và lưỡng lự có nên gửi quân đội vào can thiệp, và dập tắt, hay không. Bắc Kinh đã chọn không, một cách khôn ngoan. Họ chọn không giải quyết bằng đối thoại, mặc dầu họ có dư khả năng và quyền hạn để làm việc này [15]. Họ cũng chọn không, hoặc chưa, sử dụng biện pháp bạo lực để đàn áp, như từng xảy ra tại Thiên An Môn cách đây 30 năm, mặc dầu họ cũng dư khả năng và quyền hạn để làm điều này. Điều 18 trong Luật Căn bản cho phép Bắc Kinh tuyên bố tình trạng chiến tranh hay hỗn loạn để sử dụng mọi phương tiện, kể cả quân đội, nếu xét có mối đe dọa đến đoàn kết hay an ninh quốc gia tại đây.
Một số nhà nghiên cứu và ngoại giao lúc ban đầu lý luận rằng nếu các cuộc biểu tình tiếp diễn thì khó có thể tránh được một Thiên An Môn tại Hồng Kông. Lý do ? Vì các cuộc biểu tình tại Hồng Kông nếu tiếp diễn sẽ làm mất mặt Bắc Kinh, sẽ gửi thông điệp mạnh mẽ rằng người dân Hồng Kông khẳng khái từ chối, phủ nhận con đường Bắc Kinh định hướng, cho nên sẽ là một sỉ nhục lớn lao đối với Bắc Kinh. Và như thế thì Tập Cận Bình, qua cung cách hành xử bấy lâu nay, sẽ không chấp nhận điều này.
Tuy nhiên, ông Tập có vẻ kiên nhẫn hơn, và chiến lược hơn, nhiều người nghĩ. Ông Tập đã quyết định để cho chính quyền Hồng Kông, cảnh sát và cộng đồng kinh doanh trực tiếp giải quyết vấn đề ở đây, thay vì tuyên bố tình trạng khẩn cấp để can thiệp [16]. Mọi giải pháp cho Hồng Kông đều nhức đầu mà Bắc Kinh không hề muốn, nhưng đây có lẽ là cách ít rủi ro nhất cho Bắc Kinh. Bắc Kinh chưa đủ lý do để can thiệp vì các cuộc biểu tình phần lớn bất bạo động. Trừ khi nào chính quyền Hồng Kông chính thức yêu cầu, và ngay cả thế cũng không chắc là nên can thiệp liền. Nếu có điều gì đáng tiếc xảy ra thì chính quyền Hồng Kông chịu trách nhiệm, ông Tập hay Bắc Kinh có thể biện luận thế. Sau cùng, mọi cuộc biểu tình qua thời gian nếu không đạt được kết quả thì sẽ mệt mõi, sẽ mất dần sự ủng hộ, nội bộ sẽ có vấn đề với nhau, và sẽ dần dần tan rã. Tất nhiên trong thời gian đó, Bắc Kinh sẽ tìm mọi cách theo dõi mọi động thái của những người đứng đầu của phong trào và, khi thời điểm thuận tiện đến, sẽ ra tay. Đó là món đòn sở trường mà họ từng áp dụng xưa nay.
Tương lai cuộc đấu tranh
Tương lai của Hồng Kông sẽ như thế nào ngoài năm 2047 thì cho đến nay Bắc Kinh vẫn chưa công bố, mặc dầu biết rằng nó sẽ có lợi hơn cho cả Hồng Kông lẫn Trung Quốc nếu có thông tin này [17]. Bắc Kinh có tính xa đến đó hay không thì chắc chỉ trong nội bộ tối cao của họ mới biết.
Người dân Hồng Kông hiển nhiên muốn biết để xem tương lai của họ sẽ ra sao, qua đó biết rõ mức độ dấn thân và đấu tranh của họ từ đây tới đó phải như thế nào. Sự bất định này làm cho người Hồng Kông lo lắng. Lo lắng hơn khi phong trào đấu tranh tại Hồng Kông nhìn thấy sự can thiệp rộng khắp của Bắc Kinh, tại đây cũng như trên bình diện quốc tế, làm soi mòn các quyền tự do chính trị ở đây. Tuy nhiên vẫn còn quá sớm để tính quá xa, vì đến lúc đó thành phần lãnh đạo nồng cốt của Trung Quốc sẽ lèo lái theo chiều hướng của họ. Nhưng nếu hành động của Bắc Kinh hiện nay như thế thì Hồng Kông sẽ ra sao sau năm 2047, làm sao không quan tâm được !
Người đấu tranh tại Hồng Kông mong đợi Hoa Kỳ can thiệp [18]. Họ vẫy cờ Mỹ, mặc đồ Captain America, và khẩn khoản yêu cầu các nhà lập pháp, nhất là thượng viện Hoa Kỳ, thông qua Dự luật Nhân quyền và Dân chủ tại Hồng Kông, để đưa lên tổng thống Trump phê chuẩn. Họ tuyển người đi khắp nơi, đến Hoa Kỳ, Úc, Anh, Đức, v.v… để vận động quốc tế cho Hồng Kông. Điều này cho thấy họ hiểu rất rõ thế và lực của họ, và nhu cầu vận động quốc tế trước thế và lực của Bắc Kinh.
Ân xá Quốc tế/AI theo dõi các cuộc biểu tình của người dân Hồng Kông trong suốt thời gian qua đã kết luận rằng lực lượng cảnh sát Hồng Kông đã vi phạm nhân quyền trầm trọng đối với các cuộc biểu tình này [19]. AI cũng kêu gọi một cuộc điều tra độc lập, không thiên vị vì không thể giao phó cuộc điều tra này cho chính quyền đã vi phạm nó.
Sau 5 tháng đấu tranh, phong trào Hồng Kông vẫn chưa thấy kết cuộc và lối thoát. So với phong trào Dù vàng năm 2014, những người như Wong, Ho, Chow v.v… đều đã trưởng thành, và nhiều kinh nghiệm hơn trước. Sau hàng trăm cuộc biểu tình, những nhà hoạt động như Wong đã chọn con đường tham chính để có tiếng nói. Wong đã chính thức tuyên bố không chấp nhận Hồng Kông độc lập khi ra ứng cử vào hội đồng quận hạt cuối tháng 10 vừa qua, nhưng vẫn giữ lập trường "tự quyết trên tinh thần dân chủ". Các nhà đấu tranh khác có đồng ý với Wong hay không, và sẵn sàng tiếp tục đoàn kết với nhau cho mục tiêu chung của Hồng Kông hay không, thì tương lai mới biết được.
Phong trào đấu tranh không lãnh đạo mà đã tạo ra những thành quả ấn tượng và ngoạn mục trong 5 tháng qua cũng là điều hay và mới lạ. Nhưng đây là một thử nghiệm, còn thành công hay không thì thời gian mới trả lời được.
Điều cần lưu tâm, là khi cuộc đấu tranh này càng kéo dài, nó sẽ càng khó tiếp tục thu hút quan tâm của dư luận quốc tế. Sự nhẫn nại của con người có giới hạn, nhất là khi nó không phải là vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Giới truyền thông quốc tế hiện nay vẫn tiếp tục đưa tin tức về các cuộc biểu tình này, nhưng mức độ ngày càng giảm đi. Những người quan tâm theo dõi không còn nhiều như trước, trừ phi nó có những gì mới. Thị hiếu người dân ở đâu cũng vậy. Các hãng truyền thông quốc tế rồi cũng sẽgiảm dần các bản tin nếu vẫn chỉ có biểu tình mà không có những câu chuyện mới, thông điệp mới, tường thuật/luận ngôn (narrative) mới [20]. Mỗi cuộc biểu tình cần đưa ra những yêu cầu hay thông điệp nhất định nào đó để tiếp tục thu hút sự quan tâm hiện nay. Ngoài ra, đến lúc này những người trụ cột của phong trào cũng cần duyệt lại mục tiêu của mình, phải xét lại mình có khả năng kéo dài các cuộc biểu này này bao lâu nữa, vì nếu không thì khi không đạt được mục tiêu và vì kéo dài mệt mõi, nó là nguy cơ làm cho hàng ngũ dần dần tan rã.
Các chế độ độc tài cộng sản như Bắc Kinh có nhiều phương tiện trong tay và đủ mọi thủ đoạn trí trá để trấn áp đối kháng. Họ cũng rút tỉa kinh nghiệm từ các cuộc đấu tranh của người dân, qua các cuộc cách mạng thành công lẫn thất bại của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, cũng như sử dụng các công nghệ và dụng cụ tân tiến nhất để theo dõi và tiêu diệt đối kháng khi cần. Họ luôn luôn nhân danh tinh thần dân tộc và quyền lợi quốc gia nhưng thực chất là để bảo vệ quyền lợi cá nhân, bè phái và đảng phái của họ. Cho nên các cuộc đấu tranh chống độc tài tuy là cơ hội để thay đổi tương lai tốt đẹp hơn, nhưng cũng là những thử thách vô cùng gian nan trong thế kỷ này. Sau cùng có thành công hay không có lẽ nằm ở sự đồng lòng, quyết tâm và kiên trì cao độ.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 13/11/2019
Tài liệu tham khảo :
1. Jin Wu, K.K. Rebecca Lai and Alan Yuhas, "116 Days of Hong Kong Protests. How Did We Get Here ? ", The New York Times, 3 October 2019.
2. "China's Xi Jinping meets Carrie Lam in 'vote of confidence' amid Hong Kong protests ", ABC News, 5 November 2019 ; "Hong Kong Halloween revellers struck by tear gas as police clash with anti-Government protesters ", ABC News, 3 November 2019.
3. "The Hong Kong protests explained in 100 and 500 words ", BBC News, 14 October 2019.
3. "H.R.3289 - Hong Kong Human Rights and Democracy Act of 2019 ", US Congress, 15 October 2019.
4. Paul Mozur and Lin Qiqing, "Hong Kong Takes Symbolic Stand Against China’s High-Tech Controls ", The New York Times, 3 October 2019.
5. Christopher Smith, "H.R.3289 - Hong Kong Human Rights and Democracy Act of 2019 ", House - Foreign Affairs ; Judiciary ; Financial Services ; Accessed 6 November 2019.
6. Haley Byrd, "House approves bills supporting pro-democracy activists in Hong Kong ", CNN, 15 October 2019.
7. Andrew J. Nathan, "How China Sees the Hong Kong Crisis ", Foreign Affairs, 30 September 2019.
8. Lily Kuo and Verna Yu, "Hong Kong's leader withdraws extradition bill that ignited mass protests ", The Guardian, 4 September 2019.
9. Press Release, "Public Opinion & Political Development in Hong Kong ", Centre for Communication and Public Opinion Survey, The Chinese University of Hong Kong, 7 June 2019.
10. Alvin Lum, "Activist Joshua Wong says he does not support Hong Kong independence under current constitutional framework, conveying political stance before district council elections ", South China Morning Post, 26 October 2019.
11. "The Basic Law ", Hong Kong Special Administrative Region, Acceseed on 6 November 2019.
12. Joshua Wong, "I become the only candidate banned from running …", Twitter, 28 October 2019. Laignee Barron, "Hong Kong Democracy Activist Joshua Wong Disqualified From Upcoming Election ", Time, 29 October 2019.
13. White Paper, "China's National Defense in the New Era ", Ministry of National Defense of the People's Republic of China, Chinese (GB), 24 July 2019. Hoặc xem bài "Bạch thư quốc phòng Trung Quốc nói gì ? " đăng trên VOA ngày 30 tháng 7 năm 2019.
14. Eleanor Albert, "Democracy in Hong Kong ", Council on Foreign Relations, 30 September 2019.
15. Donald Greenlees, "Beijing could end the Hong Kong crisis peacefully, but will it ? ", The Stragegist, ASPI, 4 September 2019.
16. Theo giáo sư Andrew J. Nathan, trong bài "How China Sees the Hong Kong Crisis ", Foreign Affairs, 30 September 2019.
17. Jieh-Yung Lo, "In search of clarity on Hong Kong’s future ", The Interpreter, Lowy Institute, 1 November 2019.
18. Edward Wong, "Hong Kong Protesters Call for U.S. Help. China Sees a Conspiracy ", The New York Times, 3 November 2019
19. "Patterns of repression : Timeline of the 2019 Hong Kong protests ", Amnesty International, 11 October 2019.
20. JJ Rose, "Hong Kong protesters need a narrative – now ", The Interpreter, Lowy Institute, 23 October 2019.
Nhân quyền là một trong các vấn đề rất được quan tâm bởi những người Việt thiết tha đến đất nước. Nhiều tổ chức nhân quyền Việt Nam được hình thành sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975 cho đến nay. Nhưng số người Việt tình nguyện tham gia hay làm việc cho các tổ chức nhân quyền Việt Nam hay quốc tế vẫn còn khá hiếm hoi.
Nhà hoạt động nhân quyền Nguyễn Trường Sơn. Ảnh minh họa
44 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, Việt Nam vẫn là một trong các quốc gia vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất trên thế giới. Năm 2018, các bản báo cáo nhân quyền của tổ chức Quan sát Nhân quyền (Human Rights Watch) và Ân xá Quốc tế (Amnesty International) bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình trạng xâm phạm nhân quyền tại Việt Nam, đặc biệt sự tùy tiện bắt giữ và giam cầm các tù nhân lương tâm, dùng cô đồ để tấn công các nhà hoạt động nhân quyền, hay thông qua các bộ luật thắt chặt hay đe dọa quyền bày tỏ của người dân v.v...
Các bản báo cáo khác của các cơ quan chính phủ như Bộ Ngoại giao hay Nội vụ nhưDFAT của Úc, UK Home Office của Anh, US Department of State, đều dựa trên các bằng chứng hẳn hoi và lập luận chặt chẽ, cho thấy bức tranh toàn diện về Việt Nam trong mọi lĩnh vực xã hội, từ chính trị, tôn giáo, văn hóa, chính sách đối với các sắc tộc thiểu số v.v…
Để tìm hiểu thêm nhân quyền từ khía cạnh của một người làm việc cho một trong các tổ chức nhân quyền phi chính quyền lớn nhất thế giới, Ân xá Quốc tế, mời quý bạn đọc theo dõi cuộc trò chuyện giữa Phạm Phú Khải (PPK) với bạn Nguyễn Trường Sơn (NTS) sau đây.
Chào Sơn, rất hân hạnh có cơ hội được trò chuyện với Sơn.
Phạm Phú Khải : Đầu tiên, Sơn có thể cho biết vai trò và trách nhiệm của Sơn tại Ân xá Quốc tế (Amnesty International) hiện nay ?
Nguyễn Trường Sơn : Chào anh, hiện tại tôi đang giữ vai trò phụ trách chiến dịch cấp khu vực của văn phòng Ân xá Quốc tế tại Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Trong đó, Việt Nam và Cambodia là hai quốc gia mà tôi phụ trách chính.
Phạm Phú Khải : Sơn đã làm việc cho AI bao lâu rồi ? Và nguyên do nào, hoàn cảnh nào đưa Sơn đến AI ?
Nguyễn Trường Sơn : Tôi gia nhập Ân xá Quốc tế vào tháng 3 năm 2018, trước đó thì tôi làm việc cho tổ chức Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển (BPSOS).
Trong lĩnh vực nhân quyền thì Ân xá Quốc tế vẫn được biết tới là tổ chức lâu đời và uy tín bậc nhất trên thế giới, cho nên khi mới chập chững làm việc trong lĩnh vực này thì tôi đã có tham vọng là muốn làm việc tại đây, sau hai năm làm việc và tích lũy kinh nghiệm tại BPSOS thì cuối cùng cơ duyên cũng tới, và tôi đã ngay lập tức nắm bắt.
Lúc bấy giờ thì người tiền nhiệm của tôi vừa mới nghỉ việc, và bản thân tổ chức cũng muốn địa phương hóa nhân sự, nên họ quyết định tìm kiếm một người Việt Nam để đảm nhiệm vị trí này. Khi biết tin thì tôi liền ứng tuyển và cuối cùng đã được nhận.
Phạm Phú Khải : Trước khi đến AI, nhân quyền có phải là một trong các quan tâm hàng đầu của Sơn không ? Tại sao ?
Nguyễn Trường Sơn : Đúng là như vậy, đây có lẽ là điều bất ngờ với nhiều người. Bởi tôi sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, nơi nhân quyền thực sự là một lĩnh vực rất ít người quan tâm, thậm chí là thường xuyên bị gán cho những cái mác không mấy tích cực.
Thường thì những người đồng trang lứa với tôi sẽ theo đuổi các công việc giúp họ kiếm được nhiều tiền, hoặc một cuộc sống ổn định. Riêng tôi thì lại đam mê theo đuổi sự nghiệp làm việc trong lĩnh vực nhân quyền.
Ngay từ nhỏ thì tôi đã quan tâm tới những điều lớn lao hơn là thỏa mãn các nhu cầu cá nhân, một trong những câu hỏi luôn thường trực trong đầu là làm thế nào để đất nước mình phát triển và tiến bộ hơn. Sau này thì tôi nhận ra rằng chỉ khi các quyền cơ bản của mỗi một người dân được bảo vệ thì lúc đó xã hội mới văn minh và tiến bộ được, trong khi trên thực tế thì tình trạng xâm phạm quyền con người ở nước ta vẫn còn rất tràn lan, cho nên tôi đã quyết định theo đuổi lĩnh vực này.
Phạm Phú Khải : Từ khi đến AI, Sơn đã học hỏi những gì ? Triết lý, phương pháp vận/hoạt động, truyền thông, hay những khía cạnh khác ?
Nguyễn Trường Sơn : Ân xá Quốc tế là một tổ chức có quy mô rất lớn, tổ chức này có văn phòng ở hơn một phần ba các quốc gia trên thế giới, hàng ngàn nhân viên và hàng triệu thành viên trên toàn cầu.
Điều quan trọng nhất mà tôi học được có lẽ là cách thức vận hành một tổ chức có quy mô lớn như vậy. Đây là điều mà không phải ai cũng có cơ hội để học hỏi. Để vận hành một bộ máy đa dạng và phúc tạp như thế này thì tất nhiên là cần phải có triết lý, và triết lý của Ân xá Quốc tế rất đơn giản, "chúng tôi coi vi phạm nhân quyền là chuyện của mình", tức là cảm thấy liên quan, và tìm cách giải quyết. Bất cứ ai làm việc ở đây đều thấm nhuần triết lý này.
Ngoài ra thì còn rất nhiều thứ khác mà trong thời gian làm việc ở đây tôi đã học được, từ cách nhìn nhận vấn đề bao quát hơn, vĩ mô hơn, đối chiếu vấn đề ở Việt Nam với các quốc gia khác, các kĩ năng và cách thức làm việc mới, kết hợp với kiến thức bản địa mà mình sẵn có để thiết kế ra các chiến dịch nhân quyền.
Cách thức làm việc trong môi trường đa dạng văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quan điểm… cũng là điều quan trọng nữa mà tôi học được. Tôn trọng sự khác biệt và luôn giữ tinh thần cầu thị là tôn chỉ của tôi, bởi xung quanh mình là rất nhiều người giỏi giang, nếu giữ sự bảo thủ thì không thể tiếp nhận kiến thức và quan điểm mới được.
Phạm Phú Khải : AI có nhiều người Việt làm việc trên các văn phòng của họ trên thế giới không ?
Nguyễn Trường Sơn : Theo như tôi biết thì tôi là người Việt Nam duy nhất làm việc tại tổ chức này.
Phạm Phú Khải : Theo Sơn thì những phương thức hoạt động như AI đã góp phần cụ thể ra sao cho vấn đề cải thiện nhân quyền tại Việt Nam ?
Nguyễn Trường Sơn : Bất cứ nỗ lực bảo vệ và cải thiện tình hình nhân quyền ở quốc gia nào thì người địa phương mới là nhân tố chính, các tổ chức như Ân xá Quốc tế chỉ đóng vai trò phụ. Chúng tôi vạch ra vai trò và nhiệm vụ của mình dựa trên thế mạnh của tổ chức, còn lại chúng tôi tập chung khuyến khích người dân Việt Nam quan tâm hơn tới các quyền của mình và hỗ trợ các nhà hoạt động lẫn các tổ chức trong nước đi đầu trong việc bảo vệ nhân quyền.
Một trong những thế mạnh của Ân xá Quốc tế là uy tín quốc tế của tổ chức tại Liên Hiệp Quốc và với các quốc gia Châu Âu, châu Mỹ, châu Úc. Ngoài ra, điểm mạnh nữa của Ân xá Quốc tế là chúng tôi có được sự tin tưởng của truyền thông quốc tế. Do đó, chúng tôi tập chung vận dụng các điểm mạnh của mình để quốc tế hóa các lĩnh vực nhân quyền cần lưu tâm ở Việt Nam.
Bảo vệ và cổ xúy các quyền con người là công việc cần phải làm liên tục và không có hồi kết, ngay cả các quốc gia được đánh giá là có tình trạng nhân quyền tích cực, thì công việc vẫn diễn ra.
Chúng tôi có nhận thấy sự thay đổi đáng kể trong nhận thức của người dân tới các quyền con người cơ bản của mình, sự chú ý của cộng đồng quốc tế đối với các vấn đề nổi cộm ở Việt Nam đang tăng dần, và các nhà hoạt động cũng như tổ chức trong nước ngày càng mạnh dạn hơn. Điều đó cho thấy chúng tôi đang đi đúng hướng.
Phạm Phú Khải : Từ năm ngoái đến nay, nhiều nhà hoạt động tại Việt Nam đã bị giam cầm. Mới đây nhất là nghệ sĩ Thịnh Nguyễn, bị công an bắt giam ngày 25 tháng Mười vừa qua. Theo quan sát của Sơn thì AI nói riêng, hay Human Rights Watch, hay nói chung là các tổ chức quan tâm đến nhân quyền trên toàn thế giới, họ có cập nhật nhanh chóng các diễn biến tại Việt Nam không ?
Nguyễn Trường Sơn : Theo tôi biết thì mức độ nhanh nhạy trong việc nắm bắt tình hình ở Việt Nam giữa các tổ chức quốc tế là khác nhau.
Đối với Ân xá Quốc tế thì bản thân tôi là người Việt Nam, khi còn ở trong nước thì tôi cũng tham gia các phong trào khác nhau và có mối liên hệ với rất nhiều nhà hoạt động. Cho nên việc nắm bắt thông tin và tình hình ở trong nước là tương đối dễ dàng. Có thể nói là gần như ngay lập tức. Phần là vì tôi đọc tiếng Việt và ở trong cộng đồng những người thường chia sẻ thông tin về tình hình nhân quyền, phần là vì mọi người có thể báo cáo với tôi khi chuyện gì đó xảy ra mà không gặp bất cứ rào cản nào.
Phạm Phú Khải : Như thế thì nếu càng có nhiều người Việt làm việc cho AI hay HRW v.v... thì càng hữu ích cho vấn đề nhân quyền tại Việt Nam vì những sự xâm phạm đều được cập nhật rất nhanh. Sơn có nghĩ vậy không ? Và người Việt có thể làm gì để góp phần vào việc cải thiện nhân quyền tại Việt Nam ?
Nguyễn Trường Sơn : Người Việt Nam ở trong và ngoài nước thì có những điểm ưu/nhược khác nhau, do đó, xác định được điểm mạnh của mình và tận dụng nó là điều cần làm.
Người trong nước luôn luôn đóng vai trò quan trọng nhất, bởi họ là người chịu ảnh hưởng trực tiếp khi vi phạm nhân quyền xảy ra, và cũng sẽ là người mà nếu hành động thì sẽ tạo ra thay đổi. Mọi người cần phải ý thức hơn về các quyền mà mình có, và tích cực thực hành chúng nhiều hơn, đặc biệt là các quyền tự do biểu đạt, hội họp và tổ chức. Nói tới đây thì sẽ thấy tầm quan trọng của các tổ chức trong nước ở việc cổ xúy và hướng dẫn người dân thực hành quyền của mình.
Những người đang sinh sống ở nước ngoài cũng có vai trò rất quan trọng, mà đặc biệt là việc kêu gọi sự chú ý của cộng đồng quốc tế đối với các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, và bày tỏ sự ủng hộ cách này hay cách khác đối với người trong nước.
Tham gia vào hoặc hỗ trợ các tổ chức nhân quyền cũng là một cách hữu hiệu để thúc đẩy việc bảo vệ và cổ xúy quyền con người. Đây là việc mà cả người ở trong lẫn bên ngoài Việt Nam đều có thể làm.
Phạm Phú Khải : Theo Sơn thì làm thế nào để có thêm nhiều người trẻ như Sơn, từ Việt Nam cũng như trên thế giới, tham gia tích cực hơn vào lĩnh vực này ?
Nguyễn Trường Sơn : Ở Việt Nam có không ít các bạn trẻ quan tâm tới lĩnh vực nhân quyền và họ rất tài năng, điều khác biệt giữa các bạn trẻ ở Việt Nam và các bạn trẻ ở các quốc gia phát triển, đó là cơ hội.
Lấy ví dụ, một bạn trẻ ở Đài Loan hay Hàn Quốc muốn làm việc trong lĩnh vực nhân quyền thì sẽ không khó khăn gì, bởi vì hai quốc gia này có rất nhiều tổ chức nhân quyền, hoạt động trong mọi lĩnh vực và nhà nước thì rất tôn trọng sự hoạt động của họ.
Trong khi ở Việt Nam ta, số lượng tổ chức nhân quyền đã ít, lĩnh vực nhân quyền được hoạt động lại hạn chế, và nhà nước thì luôn luôn thường trực giám sát và sẵn sàng đóng cửa bất cứ tổ chức hay hội nhóm nào làm trái với ý muốn của họ.
Vậy nếu muốn có thêm các bạn trẻ tham gia làm việc trong lĩnh vực nhân quyền, thì cần phải tạo ra môi trường và cơ hội để cho các bạn ấy có điều kiện học hỏi, phát triển và cống hiến. Đây là việc mà tôi tin rằng cả người Việt Nam trong và ngoài nước đều có thể tham gia thực hiện.
Phạm Phú Khải : AI phát hành bản báo cáo nhân quyền trên toàn thế giới hàng năm. Sơn có biết được bản báo cáo của AI về Việt Nam năm nay sẽ có những điểm nổi bật nào không ?
Nguyễn Trường Sơn : Vâng, như thường lệ thì Ân xá Quốc tế sẽ phát hành bản báo cáo chung về tình hình nhân quyền thế giới, và Việt Nam là một trong những quốc gia được đề cập.
Năm nay chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập tới các vấn đề vốn vẫn nổi bật ở Việt Nam, như tình hình tù nhân lương tâm, tình trạng sách nhiễu và đàn áp đối với những người hoạt động nhân quyền.
Ngoài ra chúng tôi cũng sẽ nêu những vấn đề mới, như luật An ninh mạng mà chúng tôi coi là mối đe dọa nghiệm trọng đối với quyền tự do biểu đạt trên không gian internet của người dân. Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái cũng là một vấn đề mà chúng tôi sẽ đề cập, bởi trong năm vừa qua, đây là một trong những vấn đề đáng chú ý nhất.
Phạm Phú Khải : Sơn có thấy một sự chuyển dịch trong tư duy của giới trẻ Việt Nam về vấn đề tự do, dân chủ và nhân quyền trong thời gian qua không ?
Nguyễn Trường Sơn : Tất nhiên rồi ! Tôi nhận thấy sự thay đổi rất đáng kể là đàng khác.
Lần đầu tiên tôi tham gia thực hành quyền tự do biểu đạt của mình là vào năm 2011, lúc đó tôi tham gia tuần hành ở Hà Nội để phản đối việc chính phủ Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông. Đã 8 năm trôi qua và tôi nhận thấy có một sự cải thiện đáng kinh ngạc ở giới trẻ ở Việt Nam.
Các bạn đã hiểu vấn đề hơn, sẵn sàng tham gia vào các phong trào để biểu lộ thái độ của mình, từ việc phản đối chặt cây xanh ở Hà Nội, phản đối nhà máy Formosa, và gần đây nhất là phong trào phản đối hai điều luật Đặc Khu và An Ninh Mạng.
Không những thế, các bạn trẻ còn rất sáng tạo trong việc bày tỏ thái độ của mình, từ làm phim, vẽ/thiết kế tranh đồ họa, sáng tác nhạc, nhiếp ảnh và các hình thức khác… nó cho thấy một sự trưởng thành hơn trong nhận thức của giới trẻ, và sự can đảm hơn trong việc biểu lộ thái độ của mình.
Phạm Phú Khải : Sơn có lạc quan về một Việt Nam tương lai mà trong đó nhân quyền được tôn trọng không ? Theo Sơn thì khi nào nó sẽ xảy ra ? Các điều kiện cần có là gì ?
Nguyễn Trường Sơn : Tôi vô cùng lạc quan rằng sẽ đến lúc người dân Việt Nam được thụ hưởng tất cả những quyền con người căn bản được nêu trong Hiến Pháp 2013 và các công ước quốc tế.
Tôi căn cứ vào sự trưởng thành của giới trẻ trong nhận thức và các hình thái biểu đạt của họ, và người dân nói chung trong việc phản ứng lại các vụ việc vi phạm nhân quyền.
Cổ xúy và bảo vệ nhân quyền là cuộc hành trình không có điểm kết thúc, nên tôi sẽ không đặt ra mốc thời gian nào cả. Thay vào đó, mỗi một bước tiến, dù nhỏ, cũng được tính là một thành công.
Có lẽ điều chúng ta cần đó là duy trì tinh thần tương thân tương ái, tinh thần vì cái chung, sẵn sàng tương trợ lẫn nhau. Và sự phối nhợp nhịp nhàng hơn giữa các cá nhân, tổ chức cả trong và ngoài nước.
Phạm Phú Khải : Sơn đấu tranh để cải thiện nhân quyền tại Việt Nam nói riêng, và trên thế giới nói chung. Sơn có nghĩ chính quyền Việt Nam biết rất rõ những gì Sơn làm không ? Và nếu về Việt Nam thì Sơn nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra cho mình ?
Nguyễn Trường Sơn : Nhân quyền là lĩnh vực rất phát triển ở các quốc gia tiến bộ, những người hoạt động và làm việc trong lĩnh vực này thường được đánh giá cao và coi trọng, bởi bảo vệ nhân quyền là điều mà ai cũng nên làm. Tuy nhiên một thực tế đáng lý ra không nên xảy ra ở Việt Nam, đó là những người hoạt động và làm việc trong lĩnh vực nhân quyền vẫn gặp phải sự dò xét của nhà nước, và nhiều khi bị cáo buộc dưới những tội danh bất công.
Lý do duy nhất tôi ra nước ngoài làm việc là vì tôi cho rằng bản thân sẽ học hỏi được nhiều hơn từ kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, để rồi trở về làm việc ở Việt Nam để giúp thúc đẩy nhân quyền cho người dân trong nước. Tôi coi đây là một chương trình du học, và học xong thì sẽ trở về.
Đã có nhiều người trước tôi làm điều này, và khi họ quay trở về thì cũng đối diện với những vấn đề khác nhau. Tuy nhiên thì bản thân tôi không nghĩ nhiều tới việc chuyện gì sẽ xảy ra, mà thường nghĩ nhiều hơn về khía cạnh mình sẽ làm được gì khi quay về. Và chủ trương của tôi là luôn luôn công khai những việc mình làm, tôi muốn không những nhà nước mà cả người xung quanh mình biết những việc tôi làm. Mục đích duy nhất là tôi muốn nhân quyền trở nên bình thường trong mắt cả nhà nước lẫn xã hội.
Phạm Phú Khải : Sơn có điều gì chia sẻ sau cùng với quý bạn đọc không ?
Nguyễn Trường Sơn : Tôi chỉ muốn kết luận bằng một trong những câu châm ngôn của tổ chức Ân xá Quốc tế ; "thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn nguyền rủa bóng tối". Mỗi người chúng ta đều có khả năng mang lại thay đổi, chỉ cần chúng ta bắt tay vào làm việc gì đó và tin vào khả năng của mình, thì thay đổi sẽ xảy ra.
Phạm Phú Khải thực hiên
Nguồn : VOA, 01/11/2019
Giáo dục, ai cũng biết, là nền tảng xây dựng con người. Mọi người. Để thay đổi chính mình, môi trường chung quanh, quốc gia và thế giới. Như Nelson Mandela từng nói, "Giáo dục là vũ khí mạnh mẽ nhất mà bạn có thể dùng để thay đổi thế giới".
Triết lý giáo dục nào cho Việt Nam ?
Không được giáo dục và chỉ sống trong môi trường sơ khai, ngay cả trong thời đại nay, một người có thể hành xử một cách ban sơ/nguyên thủy (primitive). Nhưng nếu được giáo dục ngay từ nhỏ và bằng nền học thuật cấp tiến, một sinh viên mới ra trường bởi tuổi đầu hai mươi có thể có tri thức được gạn lọc và tích lũy hàng ngàn năm qua. Với nền tảng này, và với môi trường trọng dụng nhân tài dựa trên tài năng (based on merit), thay vì quen biết tham nhũng hay mọi lý do khác, cá nhân đó có thể vươn lên tận trời xa.
Một hai thế hệ, với chính sách giáo dục khoa học, cấp tiến, và một môi trường lành mạnh để thi thố tài năng, có thể đưa một quốc gia/dân tộc đó sánh vai với nhân loại. Singapore, Đài Loan và Nam Hàn là các thí dụ thành công mà chúng ta có thể nhìn thấy kết quả rõ ràng kể từ thập niên 1960, 1970 cho đến nay.
Nhưng nói đến giáo dục, lĩnh vực quá sâu rộng, chúng ta nghĩ đến điều gì ? Chính sách ? Ngân sách ? Lương bổng ? Giáo viên ? Học viên ? Cha mẹ ? Hậu/Đại học, trung học, tiểu học, mầm non ? Thi cử ? Thưởng phạt ? v.v…
Có lẽ chúng ta nên bắt đầu bằng điều cơ bản, và là nền tảng quan trọng, nhất : triết lý giáo dục. Nó giúp cho chúng ta suy vấn, đến tận cùng vấn đề, để nhận thức và kết luận cho chính mình các câu hỏi như giáo dục là gì, để làm gì, cho mục đích sau cùng là gì v.v…
Triết lý giáo dục nào ?
Về điều này thì chúng ta có thể học hỏi được từ các đầu óc tinh hoa nhất của nhân loại, để từ đó rút ra cho chính mình ý nghĩa của giáo dục là gì. Cảm ơn tiến sĩ
Marilyn Price-Mitchell, người nghiên cứu về sự phát triển con người, đồng thời là sáng lập viên của Cội nguồn của Hành động (Roots of action, một trang điện tử giá trị và công phu để tất cả những ai quan tâm về giáo dục nên tìm hiểu), đã nghiên cứu và chọn lọc những định nghĩa/quan niệm từ triết gia, nhà thơ, nhà giáo dục, sử gia, nhà thần học, chính trị gia và lãnh đạo thế giới từ thế kỷ thứ năm trước công nguyên cho đến thế kỷ 21 để chúng ta cùng suy ngẫm.
Trong 40 triết lý chọn lọc này bởi Price-Mitchell, mặc dầu hầu như câu nào cũng hay, nhưng vì sự giới hạn của bài viết, tôi chỉ xin trích năm điều tiêu biểu và tâm đắc sau đây (*). Quý bạn đọc nghĩ sao về các câu này và những câu còn lại ?
Một, từ Jean Piget, triết gia, tâm lý gia về phát triển người Thụy Sĩ : Mục đích căn bản của giáo dục tại các trường học nên là tạo ra những người đàn ông và phụ nữ có khả năng làm những gì mới, chứ không đơn thuần lập lại những gì thế hệ trước đã làm. (Câu kế tiếp số 2 cũng tương tự : Một nền giáo dục không phải là để ghi vào trí nhớ, hay ngay cả về những gì mình biết. Nó là về khả năng có thể phân biệt những gì mình biết và những gì mình không biết – Anatole France, thi sĩ và nhà văn người Pháp. Câu số 10 cũng vậy : Giáo dục không phải là đổ đầy thùng, mà là sự thắp lửa sáng – William Butler Yeats, thi sĩ người Irish)
Hai, từ Nancy Astor, nhà hoạt động xã hội và chính trị gia người Mỹ : Nền giáo dục thật nên giáo dục chúng ta từ bản thân thành một thứ gì đó tốt hơn - thành một sự vị tha/vô ngã liên kết chúng ta với toàn nhân loại.
Ba, từ John Dewey, triết gia, tâm lý gia và nhà cải sách giáo dục người Mỹ : Giáo dục không phải là để chuẩn bị cho cuộc sống ; giáo dục chính là cuộc sống (nghĩa là liên tục, không bao giờ chấm dứt, cho đến khi ngừng thở). Một câu khác số 23 tương tự từ Robert M. Hutchins, triết gia về giáo dục người Mỹ : Mục tiêu của giáo dục là để chuẩn bị giới trẻ tự giáo dục mình suốt cả cuộc đời.
Bốn, Albert Einstein, nhà khoa học vật lý học : Giáo dục là những gì còn lại sau khi người ta đã quên những gì người ta đã học ở trường. (Câu này giống câu số 33 của B. F. Skinner, triết gia xã hội, tâm lý gia và nghiên cứu về hành vi, nói rằng giáo dục là những gì còn tồn tại khi những điều được học đã bị lãng quên.)
Năm, Ralph Waldo Emerson, nhà luật văn, giáo sư và thi sĩ người Mỹ : Bí quyết của giáo dục nằm ở sự tôn trọng sinh viên/học sinh.
Price-Mitchell cho rằng các triết lý trên có những sợi dây chung nối kết các khía cạnh trí thức, xã hội, cảm xúc và thể lý của giáo dục với nhau, và theo Price-Mitchell, nền giáo dục tốt là tạo điều kiện cho sự phát triển một la bàn bên trong/nội hướng (internal compass) hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống.
Các quan niệm và triết lý giáo dục này đã góp phần đáng kể trong việc xây dựng con người và đất nước tại các nước văn minh tiên tiến hiện nay.
Còn Việt Nam mình ?
Trong lá thư của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gửi ngành Giáo dục ngày 1 tháng 9 năm nay, ông Trọng yêu cầu "ngành Giáo dục cần tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quảcác chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục và đào tạo…". Ông mong "các thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý, người lao động ngành Giáo dục luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức…" và "các em học sinh, sinh viên tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học… phấn đấu học tập tốt, rèn luyện tốt để sau này trở thành những người vừa "hồng" vừa "chuyên" như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vẫn là cực lỳ giáo điều, mù mờ và tụt hậu. Ông Trọng vẫn xem chủ trương của đảng là trên hết. Còn giáo viên phải có bản lĩnh chính trị. Nhưng điều này có nghĩa gì ? Bản lĩnh chính trị, nếu thật sự có và đúng nghĩa, thì lẽ ra phải tích cực phê phán và kể cả chống đối lại một cách mạnh mẽ cái đảng đã nhúng tay vào mọi vấn đề của đất nước, kể cả giáo dục, làm cho nó tồi bại bởi vì chính trị hóa nó từ trước đến nay. Khác với quan niệm giáo dục của các nước văn minh, và hoàn toàn không giống một tí nào các triết lý giáo dục nêu trên. Người đứng đầu Việt Nam vẫn công khai tiếp tục chủ trương "hồng" và "chuyên", một bước tiến bộ hơn trước "hồng hơn chuyên", nhưng vẫn mang tư duy cổ hủ và ý thức hệ cộng sản cả thế kỷ trước. Ông Trọng rõ ràng chỉ muốn thế hệ này và tới tiếp tục thờ bác, yêu đảng, vì chuyên mà không hồng thì vẫn vô tích sự trong mắt ông và đảng. Ông Trọng không muốn sinh viên học sinh có khả năng phân biệt giữa đảng, lãnh đạo đất nước và người dân.
Một người lãnh đạo quốc gia với tư duy như thế thì làm sao giúp cho người Việt Nam, nhất là chuẩn bị các thế hệ hôm nay và sắp tới, những hành trang cần thiết để tự vươn lên và góp phần xây dựng quốc gia một cách tốt nhất trong bối cảnh đầy thử thách và cạnh tranh ?
Việt Nam cần triết lý, đặc biệt là triết lý giáo dục, thay vì những phát biểu ngớ ngẫn. Triết lý đó giúp định hướng để phát triển lành mạnh, bền vững và lâu dài cho toàn thể dân tộc, chứ không phải cho bất cứ đảng chính trị nào hay bất cứ nhà nước nào. Tôi hy vọng những phát ngôn độc hại như của ông Trọng không làm dơ bẩn những đầu óc ngây thơ và trong sạch của đa số thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 25/10/2019
Chú thích :
(*) Sau đây là năm triết lý tiếp theo về giáo dục từ bài viết "What Is Education ? Insights from the World's Greatest Minds " của Marilyn Price-Mitchell.
Sáu, từ William Temple, nhà giáo và giám mục người Anh : Ảnh hưởng lớn nhất trong tất cả các yếu tố giáo dục là cuộc trò chuyện trong ngôi nhà của đứa bé.
Bảy, từ John F Kennedy, Tổng thống thứ 35 của Mỹ : Chúng ta hãy nghĩ về giáo dục như là phương tiện để phát triển những khả năng lớn nhất của chúng ta, bởi vì trong mỗi chúng ta đều có hy vọng và ước mơ riêng tư, mà nếu hoàn thành, có thể được chuyển thành lợi ích cho mọi người và cho sức mạnh lớn hơn của quốc gia.
Tám, từ John W. Gardner, Bộ trưởng Y tế, Giáo dục và Phúc lợi thời Tổng thống Lyndon Johnson : Phần lớn giáo dục ngày nay chẳng hiệu quả gì cả. Chúng ta thường xuyên cho những người trẻ những bông hoa cắt sẵn khi mà chúng ta nên tự dạy cho họ cách tự trồng cây cho mình.
Chín, từ Oscar Wilde, nhà văn thi sĩ người Irish : Giáo dục là một điều đáng ngưỡng mộ, nhưng điều thỉnh thoảng cũng đáng nhớ là rằng không có gì đáng biết có thể được dạy (tức những điều đáng biết thì không phải từ dạy mà phải tự nghiệm lấy).
Mười, Bob Beauprez, một cựu nghị sĩ của quốc hội Mỹ : Giáo dục là một cam kết chung giữa giáo viên tận tâm, học sinh năng động và phụ huynh nhiệt tình với kỳ vọng cao.