Có lẽ ít có lần đề cử thẩm phán vào Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ nào mang tính căng thẳng và gây cấn như đối với thẩm phán Brett Kavanaugh kỳ này. Có nhiều nguyên nhân, nhưng phần lớn nằm trong bối cảnh chính trị của Hoa Kỳ hơn là chính cá nhân ông Kavanaugh.
Ứng viên tối cao pháp viện, Brett Kavanaugh và khung hình là bản Hiến Pháp Mỹ.
Trước hết cần nói về vai trò ngày càng quan trọng của ngành tư pháp.
Giáo sư Kermit Hall chia sẻ rằng triết gia người Pháp Alexis de Tocqueville, trong chuyến tham quan Hoa Kỳ đầu thế kỷ 19, đã có nhận định vào thời điểm đó rằng "Tôi không rõ có quốc gia nào trên thế giới này cho đến nay tổ chức quyền lực tư pháp trong cung cách giống như người Mỹ không… Một quyền lực tư pháp mang tính áp đặt hơn lại không bao giờ được cấu tạo bởi người dân" [1].
Chỉ có vài pháp viện khác trên thế giới có quyền lực về bề rộng và về hoạt động giống như Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Hall cho rằng Tối cao Pháp viện là sản phẩm của Hiến Pháp Hoa Kỳ, và là một trong các định chế mới ấn tượng nhất, nhưng đồng thời ít được tranh luận nhất, được hình thành từ Hội nghị Philadelphia năm 1787. Trong các nỗi quan tâm của các phái đoàn đến Philadelphia lúc đó có ý tưởng pháp quyền (the rule of law) bị đe dọa nghiêm trọng, do đó các nhà định hình Hiến pháp ban đầu muốn xây dựng một ngành tư pháp mạnh mẽ để bảo toàn các chuẩn mực mới của nền pháp luật toàn quốc và để mang lại một số hạn chế đối với các mong muốn phổ biến quá đà.
Tuy quan niệm và mong muốn xây dựng ngành tư pháp như thế, mãi cho đến năm 1935 Tối cao Pháp viện mới có tòa nhà riêng của mình. Tạp chí Economist biện luận rằng ngày hôm nay Tối cao Pháp viện chiếm vị thế trọng tâm nhưng ngày càng không thể đứng vững được (untenable) trong đời sống người Mỹ [2].
Nó là tâm điểm vì phần lớn đến từ sự bế tắc. Khi Quốc hội (tức Lập pháp) không thể thông qua các dự luật đơn giản, thuần tuý mang tính thương lượng chính trị với nhau, thì quyền lực của chính nó tràn sang Hành pháp và Tư pháp. Các vấn đề chính trị như phá thai hay hôn nhân đồng tính lại trở thành các vấn đề mang tính pháp lý, được dàn xếp bởi chín thẩm phán, trong đó không một ai được dân bầu lên.
Nó không thể đứng vững được là do vị thế thiên vị ngày càng gia tăng của pháp viện. Không phải lúc nào nó cũng như thế. Trước đây các tổng thống thuộc đảng Cộng hoà đã bổ nhiệm ba thẩm phán cấp tiến nổi tiếng nhất của thế kỷ 20, gồm Earl Warren, William Brennan và Harry Blackmun, và kể cả Anthony Kennedy, mặc dầu ông Kennedy, người mới vừa quyết định về hưu, được xem là người giữ phiếu quyết định nhưng xoay chiều khi cần (swing vote). Trong khi đó, bốn thẩm phán có lập trường bảo thủ hiện nay đều do các tổng thống của Đảng Cộng hòa bổ nhiệm, và bốn thẩm phán cấp tiến đều do các tổng thống của Đảng Dân chủ bổ nhiệm.
Tiến trình đề cử thì ngày càng trở nên độc hại. Cộng hòa đổ lỗi cho thủ thuật của Dân chủ qua cuộc điều trần của Robert Bork, một ứng viên mà tổng thống Ronald Reagan đề cử. Dân chủ thì đổ lỗi cho Cộng hòa qua sự kiện cựu tổng thống Barack Obama đề cử thẩm phán Merrick Garland vào năm 2016. Cộng hòa lúc đó chiếm đa số ở thượng viện, do đó có quyền quyết định khi nào diễn ra cuộc điều trần. Họ đã ngâm tôm cuộc điều trần này bởi vì cuối năm 2016 diễn ra bầu cử lại một phần ba thượng viện, toàn hạ viện và bầu cử tổng thống. Ứng cử viên Cộng hoà Donald Trump, trong một cuộc vận động bầu cử lúc đó, đã phát biểu : "Quý vị phải bầu cho tôi… Quý vị biết tại sao không ? Thẩm phán Tối cao Pháp viện. Không có chọn lựa nào khác". [3]. Dân chủ mất cơ hội chọn thẩm phán theo quan điểm của mình.
Hiện nay Cộng hòa chiếm tỷ lệ 51 – 49 ở thượng viện, trong đó 47 thuộc Dân chủ, và hai thượng nghị sĩ độc lập. Đảng nào có hơn 50 ghế thượng viện là coi như nắm phần quyết định việc bổ nhiệm thẩm phán vào Tối cao Pháp viện. Cũng vì thế nên Trump đã thành công trong việc đề cử thẩm phán Neil Gorsuch vào Tối cao Pháp viện năm ngoái. Việc Trump đề cử thẩm phán Brett Kavanaugh, người đã và đang được điều trần tại Thượng viện Hoa Kỳ tuần qua, có lẽ sẽ không gặp khó khăn nào đáng kể mặc dầu vào giờ phút cuối, một người phụ nữ ẩn danh đã cáo buộc ông Kavanaugh từng xâm phạm tình dục đối với bà khi còn là học sinh [4]. Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Dianne Feinstein đã đưa vấn đề này ra bàn cãi vào thứ Năm 13 tháng 9 vì cho rằng những lời cáo buộc này rất nghiêm trọng về tính cách của thẩm phán Kavanaugh.
Vì các tranh chấp và thủ thuật chơi nhau giữa hai đảng, như trình bày trên, Đảng Dân chủ sẽ không dễ dàng thông qua cuộc điều trần này, hay bỏ qua cơ hội đặt vấn đề khi có thêm các thông tin tiêu cực về Kavanaugh [5]. Tuy nhiên Carl Hulse thuộc báo New York Times nhận định rằng trước đây hai thẩm phán Clarence Thomas và Neil Gorsuch đã phải đối diện với bao điều cáo buộc về cung cách hành xử của họ trong giai đoạn cuối của cuộc điều trần, nhưng họ cuối cùng cũng được vào Tối cao Pháp viện ; do đó ngoại trừ các cáo buộc này chồng chất lên, Kavanaugh cũng sẽ ngồi vào ghế Tối cao Pháp viện thôi [6].
Thế nhưng vào lúc viết bài này thì vấn đề trở nên rắc rối hơn cho ông Kavanaugh. Người phụ nữ ẩn danh đó quyết định công khai danh tánh của mình trên báo Washington Post, kể chi tiết về vụ hành hung đó khoảng năm 1982, lúc bà chừng 15 tuổi, ông Kavanaugh chừng 17 tuổi. Bà tên là Christine Blasey Ford, 51 tuổi, hiện là một giáo sư nghiên cứu và giảng dạy tâm lý tại trường đại học Palo Alto, tiểu bang California [7]. Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Jeff Flake thuộc tiểu bang Arizona cho biết ông chưa sẵn sàng bỏ phiếu "Yes" cho đến khi ông biết thêm về vụ bà Ford [8]. Theo dự trù thì Đảng Cộng hòa muốn bỏ phiếu thông qua đề cử này vào thứ Năm 20 tháng 9, trong khi Đảng Dân chủ muốn hoãn lại và muốn có thêm thời gian.
Như đã trình bày trên, tiến trình tuyển chọn thẩm phán, từ đề cử bởi tổng thống đương nhiệm đến điều trần tại thượng viện, mang đầy tính đảng phái, thiên vị, do đó hoàn toàn không tốt cho ngành tư pháp và cho toàn nước Mỹ. Theo tạp chí Economist thì nó có khả năng làm què quặt ngành tư pháp vì hai cách. Một, nếu chỉ khi nào một tổng thống có đa số ở thượng viện mới có thể bổ nhiệm thành công một ghế trống ở Tối cao Pháp viện thì rất có khả năng là phần lớn thời gian tòa án không thể hoạt động với toàn lực của mình. Hai, tính chính nghĩa của tòa án phụ thuộc vào uy tín của nó như là một trọng tài trung lập khả tín.
Thẩm phán Kavanaugh, trong cuộc điều trần tuần qua, đã khẳng định lập trường rằng ông sẽ làm việc cùng với tám thẩm phán còn lại trong Tối cao Pháp viện như là một thành viên của đội (team player), và cương quyết dựa vào hiến pháp và pháp luật của Hoa Kỳ trong mọi quyết định của mình. Tuy thế, ông cũng khó thuyết phục phía Dân chủ hay những người khác rằng quyết định của ông sẽ hoàn toàn khách quan, không bị ảnh hưởng về các quan điểm có vẻ bảo thủ của mình.
Vì sự khác biệt quá sâu sắc trong xã hội Mỹ, và bao nhiêu quốc gia khác, về các vấn đề gây tranh cãi trong thời gian qua, từ các giá trị tôn giáo như phá thai đến các vấn đề chính trị bản sắc (identity politics) như hôn nhân đồng tính, cho nên nếu trước đây Tối cao Pháp viện phần lớn quyết định theo tuyệt đối, nhất trí với nhau, về nhiều vấn đề thì ngày nay không còn như thế nữa.
Với bốn thẩm phán bảo thủ, bốn thẩm phán cấp tiến, thì Kavanaugh, nếu được thượng viện thông qua, sẽ góp phần làm nghiên cán cân về phía bảo thủ. Ngoài ra, việc tổng thống Trump đề cử thẩm phán Kavanaugh cũng chính nó gây nhiều tranh cãi. Trump đang bị cho là có âm mưu vi phạm luật liên bang, và những người chung quanh Trump trong chiến dịch tranh cử năm 2016 đang được điều tra có liên hệ như thế nào với Nga. Hiện giờ thì chưa rõ nhưng rất có thể Tối cao Pháp viện sẽ phải quyết định Trump có phải bị bắt buộc làm chứng trong cuộc điều tra này, hoặc có phải bị truy tố, và có được quyền tha thứ cho mình không v.v… Quan điểm của Kavanaugh liên quan đến các vấn đề này mang tính quyết định về cách tòa án quy định quyền hạn của tổng thống.
Khác với Tối cao Pháp viện Úc, ràng buộc trong hiến pháp rằng các thẩm phán phải về hưu ở tuổi 70, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ không giới hạn tuổi tác. Thẩm phán Kavanaugh hiện nay chỉ mới có 53 tuổi. Nếu được thượng viện thông qua, và nếu có sức khỏe, ông có thể tại nhiệm trong hai ba thập niên tới, và sẽ ảnh hưởng lớn lao lên nền tư pháp tới đây. Đảng Dân chủ không hề yên tâm về điều này, không chỉ vì khác quan điểm mà còn vì khá bực mình với Đảng Cộng hòa vì lẽ ra một ghế của Tối cao Pháp viện thuộc về thẩm phán Garland.
Tư pháp trong một nền dân chủ đích thực phải thực sự độc lập, vô tư/công bình (không bị chính trị hóa) và khả tín mới có thể hoàn thành sứ mạng công lý lớn lao của mình. Nó phải được sự tin tưởng cao cả thì mới phục vụ tối hảo cho mọi công dân dưới hiến pháp và pháp luật đó.
Tối cao Pháp viện có quyền quyết định nếu Lệnh Hành pháp (Executive Order) hay các bộ luật từ Lập pháp có hợp hiến không. Nghĩa là trách nhiệm và quyền hạn rất lớn và rất nặng về, trên cả hai ngành kia. Vì thế việc chính trị hóa ngành từ pháp của Hoa Kỳ trong thời gian qua, qua việc các tổng thống chỉ đề cử người có cùng quan điểm chính trị với đảng, đã làm giảm đi khả tín và tính lưỡng đảng (phi chính trị) của nền tư pháp. Như thế nó có thể làm giảm đi niềm tin của người dân Mỹ về nền công lý của quốc gia. Điều đó đã làm cho nhiều người chuyên môn quan tâm đệ trình một số cải tổ triệt để hoặc ôn hòa hơn.
Giới hạn nhiệm kỳ mỗi thẩm phán trong vòng 18 năm thay vì suốt đời là một đề nghị. Hoặc thay phiên mỗi 9 thẩm phán trong số 180 thẩm phán liên bang phục vụ trong vòng hai tuần, nhưng điều này sẽ gây nhiều khó khăn và cản trở về mặt hành chánh. Một cách khác nữa là số thẩm phán gia tăng lên 15 người, bởi trong hiến pháp không quy định bao nhiêu, số 9 hiện nay chỉ là theo thông lệ, kể từ năm 1869. 5 được Dân chủ đề chọn, 5 từ Cộng hòa, và 5 còn lại do các thẩm phán bầu chọn nhau. Dù kết quả ra sao đi nữa, cải tổ sâu sắc ngành Tư pháp hiện nay là điều hợp lý để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi sự năng động và thách thức không ngừng trong đời sống chính trị của người Mỹ hiện nay và tương lai.
Úc Châu, 17/09/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 17/09/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Kermit L. Hall, "The Law of the Land : The History of the Supreme Court", Course Guide, Utah State University, Recorded Books, 2003 ; trang 7.
2. "America’s highest court needs term limits ", The Economist, Leaders, 15 September 2018.
3. "How America’s Supreme Court became so politicised ", The Economist, Briefing, 15 September 2018.
4. "Brett Kavanaugh denies sexual misconduct in high school ", US & Canada, BBC, 14 September 2018.
5. "Ðảng Dân chủ quyết chận đề cử của TT Trump vào Tối cao Pháp viện ", VOA, 4 September 2018.
6. Carl Hulse, "New Kavanaugh Disclosure Shows Little Sign of Impeding His Nomination ", The New York Times, 15 September 2018.
7. Emma Brown, "California professor, writer of confidential Brett Kavanaugh letter, speaks out about her allegation of sexual assault ", The Washington Post, 16 September 2018.
8. Sheryl Gay Stolberg, "Brett Kavanaugh’s Confirmation in Turmoil as Accuser Comes Forward ", The New York Times, 16 September 2018.
Sắc đẹp, phải chăng, là do cặp mắt của người nhìn, như có người từng nói !
Khi các nhóm cảm thấy bị đe doạ, họ dễ trở thành phòng thủ hơn, hẹp hòi hơn và khoác áo chủ nghĩa bộ lạc hơn (ta với địch). Hình minh họa.
Còn quan điểm của mỗi người về thế giới mình đang sống là từ đâu ra, tạo hóa/bản chất hay giáo hóa/dưỡng dục (nature or nurture) ? Và nó được định hình bởi yếu tố nào : kinh nghiệm sống, kiến thức, niềm tin (tôn giáo hay nhân bản) v.v… ?
Đó là câu hỏi không dễ trả lời. Và không rõ có thể có trả lời nào thỏa đáng không !
Một ly nước nửa đầy hay một ly nước nửa vơi ? Tùy theo cái nhìn lạc/bi quan, tích/tiêu cực cũng như não trạng của mỗi người. Trong cùng một người mà có khi mỗi vấn đề và mỗi thời điểm cũng có thể khác nhau.
Người lạc quan, như cựu tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, vào năm 2016 cho rằng nếu có cơ hội được chọn thời điểm sinh ra làm người, ông sẽ chọn thời điểm này. Không phải 50 năm trước, không phải 50 năm nữa, mà ngay thời điểm này. Tuy ghi nhận có lắm thử thách lớn lao của thời đại, ông khẳng định chưa có thời đại nào trong lịch sử nhân loại được hòa bình, thịnh vượng và tiến bộ nhất như bây giờ [1].
Trái ngược với Obama, ứng viên Cộng Hòa Donald Trump cũng ngay vào lúc đó chỉ nhìn thấy một Hoa Kỳ hoàn toàn thua và thiệt, vì các vấn đề về di dân, thương mại, thuế, đạo Hồi, ngoại giao v.v… Trump đổ lỗi cho những chính sách thất bại của chính quyền Obama và trước đây, làm cho nước Mỹ trở nên bi đát như vậy, do đó khẩu hiệu "Làm cho Hoa Kỳ vĩ đại trở lại" nghe lọt lỗ tai không ít người.
Chủ đề của tạp chí Foreign Affairs số tháng 7/8 vừa qua có trình bày sáu bài, với bao quan điểm khác nhau, khi nhìn về thế giới chúng ta đang sống [2]. Thế giới hiện thực, cấp tiến, bộ lạc, Mác xít, kỹ thuật và hâm nóng nhìn vấn đề gần khác nhau hoàn toàn đưa đến cách kết luận vấn đề cũng hoàn toàn khác nhau.
Thế giới hiện thực (realist world)
Thế giới hiện thực nhìn nhận quyền lực và nhà nước quyết định tất cả.
Giáo sư lịch sử và bang giao quốc tế Stephen Kotkin cho rằng mỗi bá chủ thiên hạ (hegemon) cứ cho mình là cuối cùng, không còn ai khác nữa ; nhưng thực tế thì mọi quốc gia đều trổi lên, chìm xuống, và cạnh tranh nhau mãi, và tiến trình đó đã quyết định số phận của thế giới [3]. Thời bây giờ cũng thế, chính trị cạnh tranh quyền lực ở tầm lớn sẽ tác động lên các sự kiện lớn, và kết quả cạnh tranh sẽ được quyết định bởi sức mạnh của các bên : từ nhân lực và tài lực cho đến khả năng quản trị quốc gia và hiệu quả của chính sách đối ngoại.
Theo Kotkin thì thế kỷ này phần lớn sẽ được quyết định bởi Hoa Kỳ và Trung Quốc trong việc quản lý nguồn lực và quan hệ của họ. Nhiều người tự thuyết phục rằng sự hội nhập toàn cầu chủ yếu là về kinh tế và các quan điểm tương đồng, và là tiến trình không thể tránh được. Chỉ có vài người, chẳng hạn như Samuel Huntington, chỉ ra rằng văn hóa là quan trọng hơn, và sự hội nhập chỉ làm nổi bật thêm sự khác biệt hơn là hòa tan nó, trong hay ngoài nước. Năm 2004, Huntington nhận xét giới tinh hoa Hoa Kỳ và công chúng có một khoảng cách khác biệt lớn về bản sắc dân tộc và vai trò của Hoa Kỳ trên thế giới ; phần lớn giới tinh hoa ngày càng tách xa đất nước của họ, trong khi công chúng Hoa Kỳ thì lại vỡ mộng về chính quyền của mình. Ngược giòng lịch sử, từ cuối thế kỷ 19 đến thế kỷ 20, không giống như các nước Âu Châu và Nhật Bản, Hoa Kỳ dành rất ít thời gian để áp đặt nền cai trị thuộc địa trực tiếp đối với các nước khác. Hoa Kỳ, thay vào đó, chọn phát huy quyền lợi của mình với các đồng minh tự nguyện, các định chế đa phương và tự do thương mại. Sự chọn lựa đó đến từ ý thức tư lợi (enlightened self-interest) hơn là lòng vị tha, và được yểm trợ bởi sức mạnh quân sự áp đảo. Khác với trường phái chủ nghĩa cấp tiến, Kotkin không nhìn nhận những định chế đa phương và các tiến trình của hệ thống hậu chiến là "trật tự quốc tế cấp tiến", cái mà ông cho là cái nhìn ảo huyền của một số người, chứ thật ra nó là cơ chế để Hoa Kỳ tổ chức và phát triển vòng ảnh hưởng lớn lao của mình.
Kotkin nhận định độc tài thì hùng mạnh nhưng lại dễ bể, trong khi dân chủ thì dễ động lòng nhưng bền vững. Trung Quốc đang vươn lên trên nhiều mặt, với nền kinh tế khổng lồ và phóng chiếu sức mạnh của mình, cứng cũng như mềm, ở mọi hướng. Vấn đề chính hiện nay là liệu sự mở rộng vòng ảnh hưởng của Trung Quốc có đưa đến sự thay đổi trật tự quốc tế mà Hoa Kỳ đang lãnh đạo không ? Và câu hỏi thực tế cần đặt ra là trên con đường như thế, liệu Trung Quốc sẽ dẫm nát một số quốc gia trên chặng đường đó vì nó có thể, và Hoa Kỳ phải chia sẻ lãnh đạo toàn cầu với Trung Quốc vì nó không có sự chọn lựa nào khác ? Trong vị thế Hoa Kỳ, nếu chọn chiến lược chuyển tiếp từ hoạt động mạnh mẽ toàn cầu trên mọi mặt (như các chính sách trước đây) sang một số hoạt động chọn lọc chỉ để phục vụ quyền lợi quốc gia, thì sẽ được hoan nghênh trong nước, mặc dầu các chính trị gia và chuyên gia sẽ phản kháng.
Theo Kotkin, để các đấu sĩ ngày nay không bị mất đầu như các thế hệ trước của họ, bốn điều cần xảy ra trước sự biến đổi khôn lường của cuộc cách mạng công nghệ bốn. Một, các nhà làm chính sách Tây phương phải tìm ra những phương thức để đại đa số người dân của họ được hưởng lợi và ủng hộ cho một thế giới mở rộng và hội nhập. Hai, các nhà làm chính sách Trung Quốc phải bảo đảm sự trổi dậy của họ là hòa bình, bằng thỏa hiệp, hơn là cưỡng ép các quốc gia bên ngoài. Ba, Hoa Kỳ cần phải duy trì vị thế cân bằng chính xác giữa răn đe và đảm bảo mạnh mẽ đối với Trung Quốc, và tìm cách ổn định các vấn đề nội địa. Bốn, sau cùng, phép màu nhiệm cần đến đối với Đài Loan (vì theo Kotkin thì dù muốn hay không Đài Loan vẫn mang giá trị chiến lược trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc).
Thế giới cấp tiến (liberal world)
Thế giới cấp tiến nhìn nhận quy luật, tương thuộc và hợp tác quyết định tất cả.
Theo giáo sư G. John Ikenberry và Daniel Deudney thì hệ thống và trật tự quốc tế tự do sẽ tiếp tục tồn tại, mặc dầu sức mạnh tương xứng của Hoa Kỳ đã gia giảm [4]. Các thế lực đen tối, từ chủ nghĩa phi tự do, độc tài, dân tộc, bảo hộ, vòng ảnh hưởng, chủ nghĩa xét lại lãnh thổ đã không những biến mất mà còn trở lại gây ảnh hưởng. Trung Quốc và Nga đã làm tiêu tan mọi hy vọng chuyển hóa sang dân chủ, trong khi Hoa Kỳ và Anh, hai bảo hộ của trật tự quốc tế cấp tiến lại tự chọn thái độ tự huỷ. Tuy nhiên hai ông tin rằng chủ nghĩa cấp tiến trong đó nền dân chủ cấp tiến như là một hệ thống chính quyền, và nền trật tự cấp tiến như là một khung sườn định hình chính trị quốc tế, sẽ tiếp tục ngự trị. Lý do, theo hai ông, vì tính cách tương thuộc (interdependence). Khi sự tương thuộc về kinh tế, an ninh và môi trường càng gia tăng thì người dân và chính phủ khắp nơi sẽ phải làm việc với nhau để giải quyết vấn đề, nếu không tất cả sẽ bị tổn hại nghiêm trọng.
Hai giáo sư biện luận không có gì chắc chắn để bảo đảm rằng lịch sử sẽ kết thúc với sự chiến thắng của chủ nghĩa cấp tiến, nhưng điều chắc chắn là một trật tự thế giới lương thiện sẽ mang tính cấp tiến. Một thế giới mà có nhiều quốc gia tư bản có nền dân chủ cấp tiến sẽ hòa bình, thịnh vượng và tôn trọng nhân quyền. Những người cấp tiến hay bị phê bình là có những giả định quá lạc quan, lý tưởng, ngay cả không tưởng, về tiến trình lịch sử nhân loại. Trên thực tế tinh thần lạc quan của họ có điều kiện, họ công nhận có những thỏa hiệp bi thảm (không tránh được), và họ cũng để ý đến những khả năng có thể dẫn đến thảm họa ở tầng lớn. Giống như người hiện thực, người cấp tiến cũng ghi nhận rằng bản chất con người thường muốn có quyền lực, và do đó người cấp tiến vận động cho sự ràng buộc của hiến pháp và pháp luật. Nhưng khác với người hiện thực nhìn lịch sử như là sự lập đi lập lại, người cấp tiến là kẻ kế thừa gia sản của thời đại Khai sáng, của sự sáng tạo khoa học kỹ thuật, cái mà đưa đến bao nhiêu khả năng tiến bộ cũng như thảm hoạ cho nhân loại.
Chủ nghĩa cấp tiến chủ yếu là thực dụng. Người cấp tiến hiện đại ủng hộ các chính quyền dân chủ, hệ thống kinh tế dựa trên thị trường, và các định chế quốc tế không phải vì lý tưởng mà vì sự sắp xếp như thế sẽ phục vụ tốt hơn cho nhân loại, hơn tất cả những giải pháp khác. Chủ nghĩa cấp tiến cũng có khả năng thích ứng thực dụng và có thiên hướng đưa đến những sáng tạo định chế (institutional innovations) mang tính sống còn đối với các thử thách đang hiện ra, bao gồm trí tuệ nhân tạo, chiến tranh mạng và kỹ thuật di truyền.
Trên hết, chủ nghĩa cấp tiến có sức quyến rủ toàn cầu và vĩnh viễn bởi vì nó cam kết đối với nhân phẩm và tự do cá nhân. Nó soi sáng ý tưởng khoan dung, điều mà chắc chắn cần thiết trong một thế giới càng tương tác và đa dạng. Mặc dầu chủ thuyết này đến từ Tây phương, các giá trị của nó đã trở thành phổ quát, và những nhà vô địch ủng hộ nó bao gồm Mahatma Gandhi, Mikhail Gorbachev và Nelson Mandela. Mặu dầu chủ nghĩa đế quốc, nô lệ và kỳ thị chủng tộc đã làm xấu đi lịch sử Tây phương, chủ nghĩa cấp tiến đi đầu các nỗ lực, vừa hòa bình vừa chiến đấu, để cải tổ và chấm dứt các hành xử trên. Đến mức độ mà vòng cung lịch sử đã hướng đến công lý, đó là do những hoạt động và cam kết đạo đức của người cấp tiến và những liên minh của họ.
Hai giáo sư phân tích nguyên nhân đưa đến sự suy thoái của dân chủ và sự trồi dậy của chủ nghĩa dân túy trong thời gian qua. Lý do phần lớn là do sự bất bình đẳng kinh tế quá lớn, nhưng giải pháp cho các vấn đề này là sự cần thiết quay trở lại nền dân chủ cấp tiến. Chẳng hạn như áp dụng các chính sách dân chủ xã hội thể hiện trong New Deal, thông qua các luật thuế tiến bộ, và đầu tư nhiều hơn vào giáo dục và cơ sở hạ tầng. Nói cách khác, giải pháp cho các vấn đề của dân chủ cấp tiến là dân chủ cấp tiến nhiều hơn. Tóm lại, hai giáo sư kết luận chủ nghĩa cấp tiến, tự bản chất, có những hạt giống để cứu lấy chính nó.
Hai giáo sư cho rằng sau Thế Chiến II, các nền dân chủ cấp tiến đã hợp tác để tạo ra một trật tự mà phản ảnh quyền lợi chung của họ. Sau hơn bảy thập niên, mặt dầu có những điểm bất toàn của nó, nó đã bám rễ quá sâu, trong đó hàng trăm triệu người, nếu không phải là tỷ người, đã có những hoạt động và mong đợi nhắm vào các định chế và khuyến khích của trật tự này, cho nên không dễ gì thay đổi nó. Nếu nghĩ rằng một vài năm theo xu hướng mị dân thì quốc gia sẽ đột ngột thay đổi chủ nghĩa cấp tiến là điều không tưởng. Các xã hội tư bản dân chủ cấp tiến đã phát đạt và mở mang vì nó rất giỏi trong việc kích thích và vận dụng sáng tạo nhưng đồng thời giải quyết các ảnh hưởng quá đà của chính nó hay các yếu tố tiêu cực ngoại cuộc.
Hai giáo sư đã đi sâu phân tích các yếu tố lịch sử và hiện tại để biện minh chủ nghĩa cấp tiến sẽ trường tồn. Tính năng động của sự thay đổi liên tục và tính tương thuộc gia tăng đang ngày càng tăng tốc độ, từ vấn đề môi trường, vũ khí sinh học, chiến tranh mạng, đã làm cho mọi quốc gia phải dựa vào các quy định quốc tế để duy trì nền an ninh của mình, và chủ nghĩa tư bản toàn cầu phải dựa vào khả năng quản trị tài chánh và thương mại quốc tế. Ngay cả Trump mặc dầu có những lời nói và hành động trái ngược với xu hướng cấp tiến, trên thực tế vẫn tiếp tục nhiều chính sách của các vị tiền nhiệm ; còn trong các vấn đề khác thì các quốc gia trong trật tự cấp tiến này đã nhận lãnh vai trò này, không cần đến Trump hay lãnh đạo từ Oval Office. Trong thời đại thương thuộc toàn cầu, ngay cả người hiện thực cũng phải là một người quốc tế (internationalist).
Tóm lại, nền dân chủ cấp tiến đã tồn tại và phát triển khi phải đối diện với bao thử thách lớn lao hơn, từ Đại Khủng khoảng đến Trục Quyền (Đức Ý Nhật) đến phong trào cộng sản quốc tế. Do đó có mọi lý do để tin là nó sẽ vượt qua thử thách kỳ này. Nhưng trên hết, sự lạc quan về chủ nghĩa cấp tiến dựa trên một sự thật đơn giản : các giải pháp của những vấn đề hôm nay là càng dân chủ và càng trật tự cấp tiến. Tương thuộc và hợp tác là đặc tính của nền chính trị thế giới. Qua tiến trình lịch sử, tiến hóa, khủng hoảng và thay đổi huyên náo là điều bình thường, và chủ nghĩa cấp tiến rất giỏi về mặt cưỡi trên các bão táp xáo trộn của chuyển động lịch sử. Theo hai giáo sư nhận định thì các chế độ phi tự do sẽ bị chôn vùi trong thời nguy biến trong khi chủ nghĩa cấp tiến sẽ chậm rãi tiến về phía trước.
Thế giới bộ lạc (tribal world)
Thế giới bộ lạc nhìn nhận bản sắc và chủng tộc quyết định tất cả.
Giáo sư luật Amy Chua cho rằng người Mỹ, giới phân tích cũng như các nhà làm chính sách của họ, không quan tâm hoặc không ghi nhận tầm trong trọng của chủ nghĩa bộ lạc trong chính trị quốc tế [5]. Họ chỉ chú tâm đến vai trò của ý thức hệ và kinh tế và có khuynh hướng nhìn nhà nước-quốc gia (nation-states) như là thành phần tổ chức quan trọng nhất. Làm như thế họ đánh giá không đúng về vai trò mà đặc tính của nhóm (group) đã ảnh hưởng đến cách hành xử của con người như thế nào. Họ bỏ qua dữ kiện quan trọng rằng tại nhiều nơi, bản sắc vẫn mang tầm quan trọng nhất - nơi mà người ta sẽ sẵn sàng sống chết vì nó - không phải là vấn đề quốc gia mà là chủng tộc, vùng, tôn giáo, giáo phái hoặc gia tộc, bộ lạc. Không nhìn thấy sức mạnh của bộ lạc sẽ ảnh hưởng không chỉ đến cách người Mỹ nhìn thế giới mà còn cách họ hiểu về chính xã hội của họ.
Chua trích dẫn cuộc nghiên cứu gần đây của đội nghiên cứu tâm lý đối với các em bé 4 tới 6 tuổi, chia thành hai đội đỏ và xanh. Các em bé nam và nữ này thể hiện một trí nhớ lệch lạc có hệ thống, chỉ nhớ những điều tích cực về nhóm của mình nhưng tiêu cực đối với nhóm khác. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng sự nhận thức của trẻ em đối với các bạn khác là méo mó sâu rộng chỉ vì là thành viên của một nhóm xã hội. Các cuộc nghiên cứu khác đối với trẻ em - thành phần được cho là ngây thơ, không bị nhiều thành kiến cũng như thành thật hơn - đưa đến những kết luận rằng khi thấy nhóm của mình thành tựu thì nó làm cho trung tâm tưởng thưởng (reward centres) của bộ não con người được kích thích ; ngay cả khi nhóm khác bị thất bại hay đau đớn thì cũng phản ứng như thế ; và sự đồng cảm với người cùng nhóm, hay sự ác cảm đối với người khác nhóm, nhất là khi các nhóm đó đã từng thù nghịch hay không thích nhau từ lâu, đã tác động lên trẻ em ngay từ nhỏ.
Chua biện luận rằng bản sắc nhiều khi mang tính quyết định hơn ý thức hệ. Trường hợp điển hình là Chiến tranh Việt Nam. Lãnh đạo Hoa Kỳ đã đánh giá quá thấp về việc người Việt trong cả hai miền Nam và Bắc muốn được độc lập dân tộc, so với sự cam kết đối với ý thức hệ Mác. Trong khi đó, Hà Nội chấp nhận sự ủng hộ về kinh tế và quân sự từ Trung Quốc, là đồng minh tiện lợi lúc đó, nhưng mỗi đứa bé Việt Nam từ nhỏ đã học lịch sử rằng cha ông của họ đã chiến đấu và đã chết để giải phóng đất nước của họ từ sự đô hộ ngàn năm của Trung Quốc, bắt đầu từ năm 111 trước Công nguyên. Cuộc chiến biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979 càng chứng tỏ bản sắc quyết định hơn ý thức hệ cộng sản. Tuy nhiên lãnh đạo Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam không cân nhắc yếu tố này trong chính sách của mình.
Chua cũng đưa trường hợp của Afghanistan ra làm thí dụ cho thấy Hoa Kỳ cũng quên tầm quan trọng của bản sắc chủng tộc. Sau sự kiện 11 tháng 9, Hoa Kỳ đưa quân vào Afghanistan để tiêu diệt al Qaeda và lật để chế độ Taliban. Afghanistan là quốc gia có mối quan hệ phức tạp giữa các sắc tộc và bộ lạc. Hơn 200 năm, Pashtuns là sắc tộc lớn nhất chiếm vị thế áp đảo tại đây. Taliban không chỉ là một phong trào Hồi Giáo mà còn là phong trào chủng tộc. Pashtuns thành lập và chiếm đa số Taliban. Sau khi lật đổ Taliban năm 2001 chỉ trong vòng 75 ngày, Hoa Kỳ thành lập chính phủ đứng đầu là Hamid Karzai, người gốc Pashtuns, nhưng phần lớn các bộ chính trong chính phủ này đều là người gốc Tajiks. Người Pashtuns nghĩ họ bị gạt ra ngoài lề, cho nên mặc dầu nhiều người Pashtuns cũng thù ghét Taliban, ít ai trong họ sẵn sàng ủng hộ một chính phủ mà đặt quyền lợi của kẻ thù truyền kiếp của họ lên trên chính họ. 17 năm sau khi Hoa Kỳ xâm chiếm nước này, một cuộc chiến dài nhất của Hoa Kỳ, Taliban vẫn chiếm một phần lớn lãnh thổ của Afghanistan. Bây giờ tuy các giới khoa bảng và các nhà làm chính sách hiểu những phức tạp về chủng tộc tại Afghanistan, sự nhận thức này hơi trễ và cũng chưa mang lại ý nghĩa nhiều đối với chính sách tại đây.
Một trường hợp khác nữa là chiến tranh Iraq. Các kiến trúc gia và những người ủng hộ cuộc chiến Iraq không cân nhắc các yếu tố đã chia rẽ sâu sắc giữa các hệ phái theo Shiites, Sunnis và Kurds tại Iraq, tầm quan trọng chính yếu về sự trung thành đối với bộ lạc và gia tộc trong xã hội Iraq. Bởi vì họ quên một điều cụ thể "sự hiện hữu của một thiểu số áp đảo thị trường (market – dominant minority)". Sunnis đã áp đảo nền chính trị của Iraq nhiều thế kỷ, đầu tiên dưới sự cai trị của Ottoman, và đặc biệt dưới thời Saddam Hussain. Trước khi Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq, khoảng 15 phần trăm dân số Iraq là người Ả Rập Sunni thống trị nền kinh tế, chính trị và quân sự của nước này, trong khi phái Shiites chiếm đa số ở thành thị và nông thôn. Thay vì mang lại hòa bình và thịnh vượng cho Iraq, nền dân chủ non trẻ đã dẫn đến chiến tranh giáo phái, đưa đến sự hình thành nên cái gọi là Nhà nước Hồi Giáo IS/ISIS, một phong trào cực đoan phái Sunni nhằm tiêu diệt phái Shiite, những người bỏ đạo và cả người Tây phương vô đạo. Nhờ chính sách thay đổi 180 độ về sự quan tâm của quân lực Hoa Kỳ kể từ năm 2007 để họ được giáo dục hơn về các động lực phức tạp về giáo phái và sắc tộc tại quốc gia này nên đã mang lại những thành công đáng kể, kể cả sự gia giảm về bạo lực giữa các giáo phái và nạn nhân của quân đội Hoa Kỳ và Iraq.
Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ, một quốc gia được xem là dân chủ cấp tiến và phần lớn không hiểu các suy nghĩ và hành xử kiểu hậu bộ lạc (post tribalism), nay cũng không còn miễn nhiễm nữa. Lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, người Mỹ da trắng đã gần như bị mất vị thế chiếm đa số tại quốc gia này. Cuộc nghiên cứu năm 2011 cho thấy hơn một nửa người Mỹ da trắng tin rằng "người da trắng thay thế người da đen thành nạn nhân chính của sự kỳ thị". Khi các nhóm cảm thấy bị đe doạ, họ dễ trở thành phòng thủ hơn, hẹp hòi hơn và khoác áo chủ nghĩa bộ lạc hơn (ta với địch). Nó cũng đưa đến sự căng thẳng giữa da trắng với da đen, Thiên Chúa Giáo, Da Thái và Hồi Giáo, cấp tiến và bảo thủ v.v…
Nhưng có một nguyên nhân khác dẫn đến căn bệnh chủ nghĩa bộ lạc tại Hoa Kỳ ngày nay. Lịch sử Hoa Kỳ trước đến nay không có chuyện "một thiểu số áp đảo thị trường". Phần lớn đất nước này do đa số người da trắng tương đối thống nhất nhau ảnh hưởng một cách áp đảo về kinh tế, chính trị và văn hóa. Nhưng giờ đây, sự thịnh vượng của Hoa Kỳ tập trung vào một thiểu số nhỏ sống dọc các bờ biển, và họ chiếm phần lớn Wall Street, truyền thông và Thung lũng Silicon (Valley). Tuy họ không phụ thuộc vào bất kỳ một chủng tộc nào, họ có những nét văn hóa riêng biệt, họ chia sẻ các giá trị phổ quát như chủ nghĩa thế tục, đa văn hóa, chấp nhận đa nguyên giới tính, ủng hộ di dân và nền chính trị cấp tiến. Họ được xem là không quan tâm hay ngay cả đối nghịch với quyền lợi đất nước. Chua biện luận Trump biết sử dụng các yếu tố này, sự bất mãn của người dân nói chung và người Mỹ da trắng nói riêng, tuyên bố "phải lấy lại nước mình" hoặc "làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại".
Chua kết luận rằng một cách để thoát khỏi hoàn cảnh chia rẽ này là phải giải quyết cả hai vấn đề kinh tế lẫn văn hóa. Hàng trăm năm qua, cơ hội kinh tế đã nâng cao nấc thang xã hội giúp cho Hoa Kỳ hội nhập thành công mọi người khác thuộc mọi sắc tộc nhau hơn tất cả các quốc gia khác. Cho nên sự sụp đổ của cơ hội thăng tiến đó nên được xem là một vấn đề cấp bách của quốc gia. Trên bình diện thế giới cũng như tại Hoa Kỳ, sự đoàn kết sẽ không tự nhiên đến mà phải bằng sự chăm chỉ, lãnh đạo gan đạ và ý chí tập thể.
Thế giới Mác (Marxist world)
Thế giới Mác xít nhìn nhận phân chia đồng đều và bình đẳng vật chất quyết định tất cả.
Kể từ năm 1967, thu nhập trung bình của 60 phần trăm dân số Hoa Kỳ đã trì trệ mặc dầu sự thu nhập và giàu có của những người giàu nhất đã gia tăng. Robin Varghese nhận xét rằng Mác tin tưởng cách mạng sẽ đến đối với các nền kinh tế tư bản phát triển nhất, nhưng không, nó lại đến với các quốc gia chậm phát triển hơn như Nga và Trung Quốc [6]. Giữa thế kỷ 20, các nước Tây Âu và Hoa Kỳ đã học cách quản lý sự bất ổn và bất công, đặc trưng của nền tư bản thời Mác. Tuy nhiên, hơn ai hết, Mác hiểu rõ cơ chế đã làm suy thoái chủ nghĩa tư bản, và các vấn đề đã mọc ra khi chính quyền không tích cực giải quyết nó, như đã thấy trong 40 năm qua. Do đó Varghese cho rằng chủ nghĩa Mác không quá cố mà vẫn còn cắt nghĩa được các vấn đề ngày hôm nay.
Varghese phân tích áp lực của giới thương gia là cần tích luỹ vốn liếng trong điều kiện cạnh tranh của thị trường, như sau. Một, những người công nhân luôn nhận lấy phần ít hơn về mình so với những gì họ đóng góp để tạo ra kết quả, đưa đến sự bất công và bần cùng. Hai, sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản để giảm chi, như lương công nhân, bắt buộc họ phải nghĩ đến khoa học kỹ thuật để có thể giảm bớt sức lao động. Các kỹ thuật này sẽ loại trừ một số việc, làm cho một thành phần xã hội vĩnh viễn bị mất hoàn toàn hay một phần việc làm. Ba, Mác cho rằng sự cạnh tranh gây gắt sẽ dẫn đến sự tập trung và sự lớn mạnh của một số doanh nghiệp, và các doanh nghiệp có nhiều lợi nhuận hơn sẽ loại trừ các doanh nghiệp nhỏ hơn, và càng như thế càng cạnh tranh và càng hiện đại về kỹ thuật, đưa đến nhiều thặng dư hơn. Tuy nhiên các thặng dư này cũng không được chia đồng đều, làm cho hai điều một và hai nói trên gia tăng.
Nhưng Mác đã đánh giá thấp sức mạnh của nỗ lực chung (của chế độ tư bản) để cải tổ chính trị. Và Mác cũng sai lầm về khả năng của nền kinh tế tư bản trong việc thỏa mãn nhu cầu của con người, ít nhất là về mặt vật chất.
Đối với các nước phát triển, từ năm 1948 đến 1973, lương bổng gia tăng song song với năng suất, nhưng kể từ năm 1973, năng suất gia tăng gần 75 phần trăm, trong khi mức lương thật sự chỉ tăng dưới 10 phần trăm. Đối với 60 phần trăm gia đình, lương bổng không thay đổi gì đáng kể. Và đây chính là lý do làm cho Mác hiện hữu trở lại, như đã tiên đoán được diễn tiến của chủ nghĩa tư bản. Nói cách khác, tuy chủ nghĩa tư bản mang lại sự giàu có và sự phát triển khoa học kỹ thuật chưa từng thấy trước đây, nó không thể đáp ứng được nhu cầu của toàn xã hội.
Theo Varghese thì Mác biện luận rằng vấn đề không phải là giới hạn về vật chất mà là chính trị và xã hội : sự sản xuất được sắp xếp theo quyền lợi của giai cấp tư bản hơn là cho toàn xã hội ; ngay cả khi cá nhân các nhà tư bản và công nhân suy nghĩ và hành động hợp lý, cả hệ thống lại phi lý. Khi nhu cầu sản xuất gia tăng, giới tư bản muốn đầu tư nhiều hơn vào khoa học kỹ thuật để gia tăng năng xuất, gia giảm tiền lương cho công nhân. Trong vài thập niên qua, những người dưới bằng cấp trung học chiếm tỷ lệ dưới 50 phần trăm lao động. Với kỹ nghệ tự động hóa và trí tuệ nhân tạo, tất cả các việc này đều có thể bị xóa sạch trong vài thập niên tới. Theo tổ chức OECD thì có đến 14 phần trăm, tức 60 triệu, công việc trong các quốc gia này có thể được tự động hóa. Theo công ty tư vấn McKinsey thì 30 phần trăm của mọi thời gian làm việc toàn cầu có thể được tự động hóa. Những công nhân này sẽ làm gì, sẽ được phân phối trong xã hội như thế nào, thì chưa ai biết được. Theo tiến trình của 50 năm qua gợi ý thì các công nhân này sẽ không được thu nhận vào lực lượng lao động nếu số phận của họ được quyết định bởi thị trường. Thêm vào đó, tiến trình thay đổi do khoa học kỹ thuật mang lại sẽ đưa đến sự tập trung thị trường (market concentration), với những thương nghiệp ngày càng lớn mạnh sẽ áp đảo sản xuất. Mác tiên đoán một thế giới không phải độc quyền mà là độc quyền cạnh tranh, trong đó những kẻ mạnh đang hiện hữu sẽ thụ hưởng lợi nhuận, những kẻ yếu hơn sẽ vất vả để tồn tại, và những kẻ mới vào sẽ phải nỗ lực sáng tạo để chiếm dần thị trường. Các thương nghiệp lớn có lợi thế hơn, về sáng chế cũng như mạng lưới sẵn có, mua và sát nhập các thương nghiệ p nhỏ, hay sa thải công nhân khi cần để gia tăng cạnh tranh v.v… Từ năm 1982 đến nay, sáu lĩnh vực chiếm 80 phần trăm nhân công tại Hoa Kỳ (tài chánh, sản xuất, dịch vụ, bán lẻ, bán sỉ, và tiện ích và giao thông) ngày càng tập trung cạnh tranh. Khi các đại thương nghiệp như Amazon, Apple, FedEx chiếm áp đảo địa hạt của mình tại các nền kinh tế Tây phương, công nhân bị thiệt thòi nhiều nhất.
Sự thách thức lớn nhất đối với quan điểm của Mác là sự hình thành và phát triển của nhà nước phúc lợi (welfare states) ở Tây phương vào giữa thế kỷ 20, phần lớn là do các đảng dân chủ xã hội đại diện giới công nhân. Kiến trúc sư trí tuệ John Maynard Keynes là nhân vật chính của các phát động này. Ông biện luận rằng hoạt động kinh tế không phải được điều khiển bởi quyết định đầu tư của giới tư bản mà chủ yếu là sự tiêu thụ của người dân thường. Ảnh hưởng của Keynes lên nền kinh tế và chính trị rất lớn, giúp cho các đảng chính trị tả lẫn hữu điều chỉnh chính sách, đạt được hiệu năng, công bằng và mọi người đều có việc (full employment), điều mà Mác không thể tưởng tượng có thể xảy ra. Tuy nhiên từ thập niên 1970 trở đi, các chính phủ này gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua các giới hạn của chủ nghĩa tư bản, một bên là công việc đầy đủ cho mọi người, nhưng lực lượng lao động đến từ nó đã dẫn đến sự giảm sút lợi nhuận. Varghese cho rằng về lâu dài, quyền lợi kinh tế của tư bản đã thắng cung cách tổ chức chính trị của người dân.
Giải pháp cho các vấn đề phức tạp và đầy thử thách trên là đầu tiên ghi nhận sự giới hạn của chính trị trong thời đại vàng son của chủ nghĩa tư bản, bao gồm sự kết hợp của các công đoàn mạnh, sự quản trị cung cầu theo chủ thuyết của Keynes, chính sách tiền tệ lỏng lẻo, và sự quản lý vốn, sẽ không thể nào dẫn đến xã hội công bằng trong chủ nghĩa tư bản mãi được. Thử thách của ngày hôm nay là tìm ra những đường nét chính của nền kinh tế hỗn hợp mà đã đem lại những kết quả đáng kể trong thời đại vàng son của chủ nghĩa tư bản như nói trên, và thêm vào đó khởi động cho sự bình đẳng về phái tính và sắc tộc. Nói cách khác, nó cần sự sắp xếp định chế mới được hỗ trợ bởi các hình thức chính trị mới.
Thế giới kỹ thuật (Tech world)
Thế giới kỹ thuật nhìn nhận cách mạng công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo, quyết định tất cả.
Theo Drum thì tiên đoán tương lai ra sao rất khó, thôi thì nhìn về quá khứ để tìm giải thích [7]. Thế kỷ 19 là bình minh của nền dân chủ cấp tiến. Nhưng nó cũng là thế kỷ của đế quốc và thực dân Tây phương. Nó cũng bắt đầu cuộc chiến tranh toàn diện. Thế lực tôn giáo đi xuống trong khi chủ nghĩa dân tộc đi lên. Và nó cũng bất đầu thời đại của bình đẳng. Phụ nữ đòi bình quyền tại Seneca Falls, New York, và Tân Tây Lan là quốc gia đầu tiên cấp quyền sử dụng lá phiếu bầu cử. Anh cấm buôn nô lệ, Hoa Kỳ giải phóng nô lệ và Nga trả tự do cho nông nô.
Dân chủ, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, chiến tranh hiện đại, chủ nghĩa dân tộc, và quyền bình đẳng đã đưa đến bao hệ quả, và lý do ra đời của hàng ngàn cuốn sách về các vấn đề này. Nhưng theo Kevin Drum thì tất cả những điều nêu trên không quan trọng. Điều quan trọng nhất của địa chính trị trong thế kỷ 19 là cuộc Cách mạng Công nghệ. Không có nó thì sẽ không có giai cấp trung lưu, như thế không có áp lực để dân chủ hóa. Sẽ không có cuộc cách mạng tư bản vì các nhà nước nông nghiệp không cần đến nó. Sẽ không có thực dân hóa ở tầm lớn bởi vì giới hạn của sự thèm muốn nguyên liệu thô đối với các quốc gia phi kỹ nghệ. Sẽ không có chiến tranh toàn diện nếu không có kỹ nghệ sản xuất thép và độ chính xác rẻ. Và nếu thế giới phần lớn vẫn ở trong trạng thái văn hóa và kinh tế chủ yếu dựa trên nền nông nghiệp sinh tồn truyền thống, rất có thể là nền nô lệ sẽ không chấm dứt và nữ quyền sẽ không bắt đầu.
Các yếu tố chính tác động ở thời đại này là động cơ hơi nước, lý thuyết vi trùng, điện và xe lửa. Vào năm 1800, không ai biết tương lai địa chính trị của thế kỷ 19 sẽ như thế nào, nhưng nó đã được chuyển động trước đó chín thập niên khi Thomas Newcomen đã chế tạo thành công động cơ sử dụng hơi nước đầu tiên. Drum cũng tin rằng các thế hệ người máy tiếp theo sẽ tác động lên tiến trình lịch sử nhân loại trong thế kỷ 21. Kết quả cuộc cạnh tranh và đối đầu giữa hai cường quốc Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ được định đoạt khi một bên thắng được trí tuệ nhân tạo. Để đạt đến đó, Drum cho rằng máy vi tính cần phần cứng mạnh như bộ não con người (hardware) và phần mềm có khả năng suy nghĩ (software). Hiện tại bộ óc con người có thể tính từ 10 đến 100 petaflops (bằng một triệu tỷ, tức 10 luỹ thừa 15, tính toán một giây), và sức mạnh của máy vi tính hiện nay cũng tương đương như thế. Nhưng một cái máy siêu vi tính như thế chiếm bằng một căn phòng, tốn hơn 200 triệu, và tiền điện mỗi năm tốn 5 triệu đô la. Vấn đề là làm sao máy nhỏ hơn và rẻ hơn. Nghiên cứu về máy tính lượng tử hiện nay nằm trong mục tiêu đó. Các nhà chuyên về trí tuệ nhân tạo AI cho rằng có 50 phần trăm cơ hội là AI sẽ thực hiện được tất cả các hoạt động của con người vào 2060, trong khi giới AI Á Đông thì cho rằng có thể hiện thực khoảng năm 2045.
Các nhà nghiên cứu này không nghĩ rằng các máy móc này chỉ làm được các việc thường ngày thôi, mà nó còn có thể nấu burger, viết tiểu thuyết và thực hiện giải phẫu. Nó sẽ làm nhanh hơn, không bao giờ biết mệt, sẽ cập nhật kiến thức thế giới mới nhất trong vòng tích tắc, và có sức mạnh phân tích hơn bất cứ một cá nhân nào. Hiện nay thì chưa có vẻ gì sẽ đạt được kết quả như thế, nhưng trng vòng vài thập niên tới, máy robot sẽ làm cho hàng triệu người mất việc.
Drum cho rằng mấu chốt vấn đề là liệu Trung Quốc, trong vòng 20 năm tới, đạt được kỹ nghệ AI tốt nhất không ? Nếu được, họ có thể trở thành bá quyền, nếu họ muốn. Nếu không thể thì họ sẽ không được.
Còn vấn đề khủng bố thánh chiến ? Nó sẽ trở thành nạn nhân của AI. Những máy bay không người lái hiện tại (drone) đã đẩy lùi các nhóm khủng bố này, nói gì đến các máy được điều khiển bởi AI trong tương lai. Không có tổ chức nào với kỹ thuật kém có thể tồn tại được. Chiến tranh trong tương lai chủ yếu là do giữa máy móc với nhau. Nhiều công việc sẽ mất vì tự động hóa, kể cả lái xe truck. Phân tích của công ty PwC vào năm 2017 cho hay có đến 38 phần trăm công việc tại Hoa Kỳ có nguy cơ bị tự động hóa vào đầu thập niên 2030. Vào thập niên 2040, các nhà nghiên cứu phỏng đoán các máy vi tính sẽ có thể tự thực hiện nghiên cứu công trình toán học mới, giải phẫu, viết tiểu thuyết bán chạy nhất và có thể làm bất cứ công việc nào đòi hỏi khả năng nhận thức như trên. Không như cuộc Cách mạng Công nghệ đầu tốn gần 100 năm để chuyển động, lần này nó chỉ mất một hai thập niên, và AI sẽ là kỹ nghệ mang lại lợi nhuận nhiều nhất so với tất cả các thứ khác.
Điều này có hệ quả gì đối với chính trị ? Theo Drum thì vai trò của các chính quyền hiện tại là quản lý và kiểm soát nền kinh tế cho quyền lợi chung của toàn thể người dân. Cho nên nền chính trị trong tương lai là chính quyền có khả năng sử dụng sức mạnh của AI cho đa số dân chúng. Những người theo chủ nghĩa Mác thì đã có lời giải : để robot kiểm soát phương tiện sản xuất, rồi phân chia chiến lợi phẩm cho cho mọi người hưởng theo nhu cầu của họ. Nền dân chủ cấp tiến cũng sẽ có cơ hội nếu lãnh đạo của họ nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc, tìm cách làm cho chủ nghĩa tư bản thích ứng với một thế giới mà trong đó việc sản xuất hàng hóa tách biệt với công việc (lao động). Điều đó có nghĩa kìm chế sức mạnh của tài phiệt, tái suy nghĩ khái niệm thế nào là một tập đoàn, và chấp nhận một mức độ bình đẳng nào đó về phân phối hàng hóa và dịch vụ.
Drum ghi nhận hai thử thách lớn nhất của thế kỷ 21 là nạn thất nghiệp lớn do AI mang lại, và thay đổi khí hậu do nhu cầu năng lượng. Với kỹ thuật tân tiến hiện nay, gió và năng lượng mặt trời là lời giải cho năng lượng sạch. Nhưng cần phải sản xuất ở tầm lớn. Robot rẻ và khôn, tức có AI, sẽ là lời giải. Chủ nghĩa bộ lạc không còn quan trọng nữa. Ai quan tâm đến bản sắc nếu công việc đều do máy móc làm ra ? Dân chủ cấp tiến sẽ còn hiện hữu nếu nó biết cách giải quyết nạn thất nghiệp lớn so với các hình thức chính quyền khác. Tôn giáo cũng sẽ gặp nhiều khó khăn với thế giới đầy máy móc như thế. Lịch sử chứng minh sự đói kém về kinh tế ở tầm lớn đem lại ít hơn những cải tổ tiến bộ sâu sắc so với các cuộc cách mạng và chiến tranh bạo động. Drum cho rằng điều quan trọng là phải hiểu và nghĩ đến cách đối phó tốt nhất đối với những gì sẽ xảy ra trong thời gian tới.
Thế giới hâm nóng (warming world)
Thế giới hâm nóng nhìn nhận thay đổi khí hậu và hợp tác toàn cầu quyết định tất cả.
Nền dân chủ toàn cầu đang xuống dốc, sự phục hồi kinh tế không làm cho lương bổng người dân Tây phương tăng lên đáng kể, và sự trổi dậy của Trung Quốc đe doạ quyền lực của Hoa Kỳ, có nguy cơ đưa đến cuộc chiến tranh khủng khiếp. Tuy thế, đối với Joshua Busby, không có đe doạ nào trong thế kỷ 21 có thể so sánh bằng hâm nóng địa đầu [8]. Tác động của khí hậu trái đất đòi hỏi sự chú tâm và nguồn lực, và sẽ có ảnh hưởng lớn lao lên nền kinh tế toàn cầu và quan hệ quốc tế hơn bất cứ một trọng lực nào khác trên thế giới hiện nay.
Hiện tại độ nóng bề mặt trái đất là trên 1.2 độ Celsius so với trước thời Cách mạng Công nghệ. Giới khoa học gia đồng thuận với nhau rằng nhiệt độ gia tăng cao nhất để tránh thay đổi khí hậu là 2 độ C. Sẽ không có khác biệt bao nhiêu giữa gia tăng 2 độ C so với 3 hay 4 độ. Khi khí hậu gia tăng, sự phân tán hiện tượng khí hậu sẽ chuyển đổi. Các trận lụt mà trước đây 100 năm xảy ra bây giờ sẽ xảy ra 50 hay 20 năm. Các trận mưa vũ bão như tại Hawaii đầu năm nay với 50 inches trong vòng 24 tiếng đồng hồ có thể diễn ra thường xuyên hơn. Các kiểu thời tiết mới này sẽ gây ra các xáo trộn xã hội và chính trị, đưa đến các ảnh hưởng lên địa chính trị. Mực nước biển dâng, các vùng đất trồng trột chết, các trận bão và lụt khổng lồ sẽ làm cho một số quốc gia không thể sống được nữa. Những thay đổi này sẽ thử nghiệm hệ thống quốc tế hiện nay những cách thức mới và khó tiên đoán.
Theo Busby, các đe doạ mang tính lịch sử toàn cầu đòi hỏi mức độ hợp tác mang tính lịch sử toàn cầu. Nếu nhân loại đối diện thành công với vấn đề này, đó là vì lãnh đạo biết pha trộn trật tự toàn cầu với ý thức về mục đích chung và ghi nhận sự thay đổi sâu sắc về vấn đề phân chia quyền lực. Trung Quốc và Hoa Kỳ phải làm việc chặt chẽ với nhau và với các tác nhân khác, các chính quyền trực thuộc các quốc gia, cũng như các công ty và các tổ chức phi chính phủ.
Trong 17 năm được ghi nhận có bằng chứng nóng nhất thì 16 năm là từ năm 2001 đến nay. Nhiều kiểu mẫu khí hậu rất lạ diễn ra khắp nơi, các khoa học gia nhận định có cái liên quan đến thay đổi khí hậu, có cái không rõ lắm. Mùa thay đổi. Hạn hán xảy ra khi các nhà khí tượng học trông đợi mưa. Thiếu mưa đưa đến nguy cơ cháy rừng, như đã thấy tại tiểu bang California năm ngoái (lẫn năm nay). Khi mưa, nó mưa ào ạt cùng lúc, như đã thấy ở Houston qua trận cuồng phong Harvey. Khi mực nước biển gia tăng và bão gia tăng mạnh mẽ hơn, các biến cố mà từng được xem là mực nước cao bình thường sẽ gây lụt cho các hạ tầng cơ sở ven biển, như đã xảy ra ở Miami trong những năm gần đây. Điều đó đưa đến nhu cầu gắn các hệ thống thiết bị bơm nước mưa với trị giá hàng trăm triệu đô la.
Đến giữa thế kỷ này, mực nước biển gia tăng cao đến độ nó có thể phá hoại vùng đất nông nghiệp và nước uống ở nhiều quốc gia hải đảo thấp so với mặt nước biển, làm cho những nơi đó không thể sống được lâu nữa trước khi nó bị ngập dưới nước. Các biến chuyển này sẽ thay đổi nền chính trị toàn cầu một cách sâu sắc. Các quốc gia như Trung Quốc và Hoa Kỳ có dân số lớn và hạ tầng cơ sở giá trị nhưng dễ bị nguy hại đối với thay đổi khí hậu. Các chính quyền này sẽ phải sử dụng đến các phương tiện quân sự để cứu người và tái xây dựng các thị trấn và thành phố bị tàn phá. Trong năm 2017, ba trận bão lớn đánh phá Hoa Kỳ liên tiếp, và các cơ quan dân vệ phòng chống thiên tai phải cần được hậu thuẫn của quân đội để ngăn ngừa tổn thất nhân mạng tầm lớn. Hàng chục ngàn vệ binh quốc gia đã được điều động để cứu người, cung cấp về tiếp tế, tái thiết các dịch vụ căn bản và pháp luật. Tổng phí đối với các cơn bão này và các trường hợp cấp cứu khác liên quan đến thiên tai trong năm 2017 thôi đã lên đến 300 tỷ đô la.
Trung Quốc cũng có các vấn đề riêng của nó. Dọc ven biển phía nam, những thành phố như Quảng Châu và Thượng Hải, dễ bị lụt lội. Ở phía bắc, trung tâm công nghiệp của quốc gia, các vùng này thường bị thiếu nước, ảnh hưởng đến 500 triệu người. Trong 25 năm qua, 28 ngàn con sông tại Trung Quốc đã biến mất. Giải quyết vấn nạn lớn như thế không rẻ. Một dự án chuyển nước từ nam lên bắc tốn ít nhất 48 tỷ đô la, và mặc dầu chưa hoàn tất, Trung Quốc cho rằng họ đã cải thiện được an ninh nước và 50 triệu người được hưởng lợi. Đối với những nơi bị lũ lụt, Trung Quốc đang nghiên cứu các thành phố hút nước nơi có thể gia tăng thoát nước tự nhiên.
Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai quốc gia giàu có nên có thể chịu đựng tốn kém đối với các thiên tai này. Những quốc gia khác thì vất vả hơn, tổn thất về nhân mạng và vật chất nhiều hơn so với khả năng họ có thể gánh chịu. Từng cơn bão tuy gây thiệt hại đáng kể nhưng người ta có thể vực lại được. Còn thay đổi khí hậu thì nó gây thiệt hại lâu dài hơn. Trong khi một số quốc gia thì tràn đầy nước, những nước khác thì lại thiếu nước trầm trọng. Năm 2011 Somalia sau bao nhiêu thập niên chiến tranh lại hứng chịu hạn hán và tiếp theo nạn đói đưa đến 260 ngàn tử vong. Thay đổi khí hậu, qua gia tăng nhiệt độ và chuyển đổi kiểu mưa, làm cho nhiều vùng không đủ mưa hoặc mưa bất thường, ảnh hưởng đến mùa màn và lượng nước cần thiết cho nhu cầu con người. Đối với một số quốc gia, khi hiệu năng nông nghiệp bị giảm sút và các nguy cơ khí hậu khác sẽ làm cho người dân từ nông thôn chuyển đến thành thị hay sang qua biên giới quốc gia khác. Điều này sẽ ảnh hưởng sâu sắc lên nền chính trị khắp nơi. Thay đổi khí hậu sẽ trắc nghiệm các hệ thống phản ứng hiện nay về nhân đạo và thiên tai, cái đang gặp nhiều thách thức quá sức đối với các xung đột hình như không chấm dứt tại Somalia, South Sudan, Syria và Yemen.
Thay đổi khí hậu sẽ làm cho quan hệ quốc tế càng thêm căng thẳng. Sông Mekong là một thí dụ. Trong sáu quốc gia sử dụng chung con sông này, Ủy hội Sông Mekong được thành lập để giải quyết các tranh chấp nhưng Trung Quốc không muốn trở thành một thành viên dù là quốc gia lớn nhất và xây các đập ảnh hưởng nặng nề nhất ở thượng nguồn đối với các quốc gia ở hạ nguồn. Sự tranh chấp về lượng chảy của con sông này trở nên tệ hơn khi mà hạn hán trong vùng trở nên thường xuyên hơn. Khi hạn hán xảy ra ảnh hưởng đến mùa màng, giá cả lúa mì hay ẩm thực có nguy cơ gia tăng toàn cầu. Tại Ai Cập, khi nạn lạm phát giá cả ẩm thực hàng năm tăng lên 19 phần trăm năm 2011, nó giúp gia tăng các cuộc biểu tình lật đổ tổng thống Hosni Mubarak.
Để đáp ứng với các điều kiện khí hậu thay đổi, chính phủ có thể ban hành vô số các chính sách có khả năng gây tranh cãi. Cấm không cho xuất cảng các nguyên liệu quý, mua đất ở nước ngoài, bắt sử dụng nhiên liệu sinh học, làm luật bảo vệ rừng, và hàng ngàn sự chọn lựa khác sẽ tạo ra kẻ thắng người thua và gia tăng sự căng thẳng trong nội địa và quốc tế. Thay đổi khí hậu sẽ bao gồm chuỗi vấn đề khác nhau, từ vận chuyển, năng lượng, xây cất, nông nghiệp, và bao địa hạt khác, và các ảnh hưởng tổng hợp của nó lên thành phố, sản xuất ẩm thực, và cung cấp nước uống sẽ là những thử thách khủng khiếp cho địa cầu này. Busby cho rằng với vấn đề ở tầm lớn như thế này, nó cần sự phối hợp và hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc để cùng nhau giải quyết. Còn nếu cạnh tranh chống đối nhau toàn diện thì tất cả đều bị thiệt hại. Sự hợp tác giữa các thỏa thuận quốc tế, mạng lưới tổ chức và những người dốc tâm tìm ra các giải pháp cụ thể là một cơ hội tốt nhất để tránh một thiên tai thay đổi khí hậu khủng khiếp đối với nhân loại.
Vài kết luận
Sáu quan điểm nêu trên chỉ là tiêu biểu, không phải là tất cả. Bên trong mỗi trường phái của các nhãn quan này đều có những nhận định và kết luận khác nhau, một cách sâu sắc. Ngoài sáu quan điểm này còn bao nhiêu lý thuyết và ý thức hệ khác nhau, làm cho thế giới chúng ta đang sống vừa thật sự đa nguyên vừa vô cùng phức tạp.
Càng phức tạp hơn cho những ai muốn đi tìm sự thật. Sự thật nằm ở đâu ? Trong sự tổng hợp các quan sát trình bày trên hay, đơn giản và rốt cuộc vẫn là, trong cặp mắt người nhìn ?
Francis Fukuyama nhận xét khá tinh tế và sâu sắc về ảnh hưởng của chủ nghĩa bộ lạc đối với nền chính trị thế giới trong bài mới nhất của ông trên Foreign Affairs [9]. Bài này tóm lược các ý chính trong cuốn sách mới nhất của ông sắp được phát hành. Fukuyama kết luận : con người sẽ không bao giờ ngừng suy nghĩ về chính họ và xã hội của họ về mặt bản sắc ; nhưng bản sắc của con người không phải là cứng ngắt mà cũng không phải được cấu tạo lúc sinh thành ; bản sắc có thể được sử dụng để chia rẽ mà cũng có thể để đoàn kết ; sau cùng nó có thể là phương thuốc cho nền chính trị dân túy của thời hiện tại.
Khi chủ nghĩa bộ lạc vẫn còn hiện hữu, thể hiện qua chính trị về bản sắc, như Chua và Fukuyama phân tích, thì chính trị quyền lực cũng sẽ còn đó, không đi đâu cả. Như thế, về mặt chính trị và bang giao quốc tế, quyền lực và quyền lợi sẽ luôn đóng vai trò quan trọng, như Kotkin và những nhà hiện thực nhận định.
Chỉ khi nào con người trở nên thánh thiện, tôn trọng và đối xử nhau một cách nhân ái, tương kính và không phân biệt, và không sử dụng bạo lực với nhau, thì quan hệ giữa con người và trên bình diện quốc tế mới thay đổi sâu sắc. Những tranh chấp về chủng tộc, tôn giáo, văn minh, phái tính, hay ý thức hệ v.v… sẽ còn với con người một thời gian dài. Do đó trong hiện tại, có lẽ chỉ có chủ nghĩa cấp tiến và nền dân chủ cấp tiến mới có khả năng giải quyết được các bài toán nhức nhối của con người, như Deudney and Ikenberry biện luận. Nền tảng tư tưởng/lý thuyết của chủ nghĩa cấp tiến là mọi người phải được đối xử bình đẳng, phải có quyền tự do cá nhân, nhân phẩm/quyền không bị chà đạp vì phái tính hay vì thuộc một nhóm xã hội nào đó (particular social group) v.v…
Nhưng chủ nghĩa cấp tiến chỉ có thể là giải pháp lâu dài và vững ổn nếu các nhà lãnh đạo chính trị trong các thập niên tới có thể hoạch định những chính sách vừa phát huy tối đa hiệu năng của cuộc cách mạng công nghệ tới, vừa tái phân phối hàng hóa và dịch vụ một cách tối ưu (optimal) cho toàn xã hội, đồng thời cũng phải quan tâm đúng mức đến chính sách nhân dụng, như Drum đã biện luận. Còn không thì Mác sẽ "hiện hồn" về, chờn vờn ám ảnh và báo động những xung đột lúc ngấm ngầm lúc bùng nổ trong nền kinh tế tư bản cực đoan khi một thiểu số nắm mọi quyền lực vật chất trong tay, và đa số thì vất vả không ngừng, như Varghese trình bày.
Sau cùng, khi thế giới bị hâm nóng một cách vô trách nhiệm thì môi trường sống sẽ bị ảnh hưởng sâu sắc, như Busby đã nhắc nhở. Khi di dân/tị nạn - là nạn nhân của tranh chấp chính trị qua chủ nghĩa bộ lạc, hay là nạn nhân của thiên tai/môi trường sống - phải tìm cách lánh nạn ở tầm lớn, nhưng thế giới, nhất là các quốc gia dân chủ và phát triển, lại quảnh mặt làm ngơ, thì tuyên ngôn quốc tế nhân quyền chẳng còn giá trị gì cả ngoại trừ trên giấy tờ. Đó có thể là mốc điểm của sự suy thoái toàn diện của nền văn minh toàn cầu.
Những vấn đề này có liên hệ gì đến mỗi chúng ta ? Có nhiều lắm chứ ! Mỗi chúng ta, không phân biệt, bằng suy nghĩ và hành động thực tiễn, có thể góp phần làm cho chính mình, gia đình, xã hội, đất nước và thế giới, tốt hơn. Không cần làm những gì quá lớn, ngoài tầm tay. Nền văn minh nhân loại sẽ bị hủy hoại nếu chúng ta chỉ biết sống cho chính mình và chỉ biết quan tâm trong cuộc đời mình mà không nghĩ đến người khác và các thế hệ về sau. Cho nên chỉ cần bắt đầu bằng sự tử tế, liêm chính và tinh thần trách nhiệm, thì một ngày nào đó những tinh thần và giá trị này sẽ loan tỏa sâu rộng và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Cuối cùng chúng ta có quyền lạc quan nhưng không thể tự mãn khi các thách thức của nhân loại vô cùng lớn lao trong khi số người quan tâm và đóng góp vẫn còn là thiểu số.
Úc Châu , 07/09/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 11/09/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Tổng thống Barrack Obama, "Remarks by the President at the White House Summit on Global Development ", The White House, Office of the Press Secretary, 20/07/2016.
2. Foreign Affairs, "Which world are we living in ?", Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; pages 10-55. Vì các bài viết này rất hay và sâu sắc, thay vì tóm lược vài ý chính để toàn bài ngắn gọn hơn, tôi quyết định viết ngắn gọn nhưng vẫn cố duy trì lập luận chính của tác giả này. Mục đích là để cho độc giả không chỉ biết họ biện luận gì mà còn biện luận ra sao khi họ tìm cách thuyết phục hay bảo vệ quan điểm của mình. Độc giả cũng có thể tìm đọc các nguyên tác này nếu có điều kiện.
3. Stephen Kotkin, "Realist World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; pages 10-15.
4. Daniel Deudney and G. John Ikenberry, "Liberal World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; pages 16-24.
5. Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; pages 25-33.
6. Robin Varghese, "Marxist World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; pages 34-42.
7. Kevin Drum, "Tech World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; pages 43-48.
8. Joshua Busby, "Warming World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; pages 49-55.
9. Francis Fukuyama, "Against Identity Politics", Volume 97, Number 5, September/October 2018 ; pages 90-114. Hoặc tìm mua sách "Bản sắc : Nhu cầu về Phẩm giá và Chính trị của Oán giận" (Identity : The Demand for Dignity and the Politics of Resentment), Profile Books, October 2018.
Kết quả bầu cử Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 11 năm 2016 đã gây sốc không những cho người Mỹ mà toàn thế giới. Không lâu sau đó, giới lãnh đạo chính trị Úc nhìn thấy nhu cầu cấp bách trong việc hoạch định lại chính sách ngoại giao, dưới thời Trump và xa hơn. Từ tháng 12 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017, Đặc vụ Bạch thư Chính sách Ngoại giao Úc đã tổ chức được 24 thảo luận bàn tròn trên khắp nước Úc, gặp mặt trao đổi với hơn 60 chuyên gia hàng đầu của Úc về chuyên đề này, và nhận hơn chín ngàn hai trăm đệ trình [1].
Sự thách thức của Trump cho nền trật tự cấp tiến là rất nguy hiểm vì nó coi thường các quy tắc và giá trị của nền dân chủ cấp tiến
Đặc vụ này cũng đã tiếp xúc với đủ mọi thành phần trong xã hội Úc, từ sinh viên, nông gia, lãnh đạo doanh nghiệp, giới khoa bảng cho đến đại diện của bao nhiêu tổ chức xã hội dân sự trên khắp Úc để tìm hiểu nguyện vọng và quan điểm của họ. Tháng 3 năm 2017, Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT) triệu tập tất cả các đại sứ, ủy viên cao cấp và tổng lãnh sự từ khắp nơi trên thế giới về thủ đô Canberra để bàn về các mục tiêu ngoại giao, thương mại và chính sách phát triển trong bối cảnh chính trị toàn cầu bất định hiện nay [2].
Giới lãnh đạo chính trị Úc nhận định rất rõ tầm quan trọng của việc hoạch định một chiến lược ngoại giao có tầm nhìn năm đến mười năm để giúp lèo lái quốc gia trong bối cảnh chính trị mới. Đó là sức mạnh của Hoa Kỳ đã gia giảm mà lãnh đạo hiện nay lại có vẻ không muốn tiếp tục nhiệm vụ của mình, trong khi sự trổi dậy của Trung Quốc tuy góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của Úc trong những thập niên qua nhưng đã gia tăng những quan ngại về an ninh quốc phòng và xâm nhập tình báo mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc rõ ràng đứng phía sau.
Một năm sau, với bao nhiêu tham khảo và tranh luận sôi nổi và bao nỗ lực lớn lao trong việc vận dụng trí tuệ và chuyên môn hàng đầu của quốc dân, đứng đầu là Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc DFAT, chính quyền Úc đã công bố Bạch thư này vào ngày 23 tháng 11 năm 2017 [3]. Trong Bạch thư này, Úc ghi nhận là không riêng gì Úc mà hầu như toàn cầu đang ở trong giai đoạn thử thách đối với những luật lệ và nguyên tắc mà trước nay đã là nền tảng vững chắc cho sự hợp tác quốc tế. Xu hướng chống lại toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, sự thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu, và sự cạnh tranh địa chính trị đang trắc nghiệm trật tự quốc tế. Úc ghi nhận sau Thế Chiến II, nền an ninh và thịnh vượng của Úc đã được trợ giúp bởi lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ, nền kinh tế toàn cầu ngày càng rộng mở và sự phát triển của các định chế và luật lệ quốc tế. Các nguyên tắc như thị trường mở, tầm quan trọng của luật lệ và quy tắc để hướng dẫn sự hợp tác quốc tế, sự công khai ghi nhận các quyền và tự do phổ quát, và nhu cầu để các nhà nước phối hợp chặt chẽ với nhau đối với các thử thách toàn cầu, đã giúp cho Úc đạt được các quyền lợi và giá trị của mình. Đặc biệt Úc ghi nhận tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ để bảo đảm nền an ninh toàn cầu, kể cả xuyên qua các mạng lưới đồng minh của Hoa Kỳ và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Á châu và Âu châu.
Nói tóm lại, Úc đề cao giá trị của trật tự quốc tế do Hoa Kỳ hình thành và lãnh đạo, cho Úc cũng như sự thịnh vượng toàn cầu, kể từ hậu Thế Chiến II đến nay.
Vài hàng về chữ nghĩa
Trước khi đi vào chi tiết, tôi xin dành vài hàng để nói về chữ nghĩa. Tiếng Anh, chữ liberty có nghĩa là tự do. Theo tự điển Oxford thì liberty là trạng thái được tự do trong xã hội từ các ràng buộc mang tính cưỡng chế áp đặt bởi uy quyền (hay chính quyền) lên cách hành xử hay quan điểm chính trị của một người. Chữ Liberal thì nhiều người Việt dịch là tự do, như Liberal Party là Đảng Tự do, là không chính xác. Liberal, cũng theo tự điển Oxford, có nghĩa là sẵn sàng tôn trọng hoặc chấp nhận cách hành xử hoặc ý kiến khác với cái của mình ; cởi mở với các ý tưởng mới ; tôn trọng các quyền và tự do cá nhân v.v… Nói cách khác, liberal nên hiểu là phóng khoáng hay cấp tiến. Liberalism (hay liberals, tức những người theo chủ nghĩa này), là một triết học chính trị ảnh hưởng nhất đối với Tây phương, điển hình là các triết gia Rene Descartes từ thế kỷ 17, John Locke thế kỷ 17/18, John Stuart Mill thế kỷ 19 và John Rawls thế kỷ 20. Chủ nghĩa này cũng có bao nhiêu nhánh khác nhau, nhưng tựu chung đề cao hai giá trị chính : tự do (liberty) và bình đẳng (equality). Phần lớn những người theo xu hướng này đề cao giá trị tự do hơn bình đẳng. Ngoài ra, xu hướng này đề cao sự tiến bộ không ngừng của xã hội, đặt nặng vai trò của lý luận và của khoa học kỹ thuật. Do đó chủ nghĩa/người cấp tiến là thích hợp nhất cho liberalism/liberal.
Trở lại Bạch thư này, cụm từ trật tự quốc tế dựa trên quy luật (rules-based international order), trật tự quốc tế (international order), hay trật tự dựa trên quy luật (rules-based order) được sử dụng nhiều lần. Trước, trong và sau khi Bạch thư này được công bố, các chuyên gia và các nhà khoa bảng cũng tranh luận rất nhiều về các chữ nghĩa hay định nghĩa này. Một tên khác phổ biến hơn từ nhiều thập niên qua là trật tự quốc tế cấp tiến (liberal international order) nhưng cuối cùng Bạch thư chọn rules-based international order có lẽ vì hai lý do chính. Một, để trung hòa hơn, vì chính quyền hiện nay là thuộc liên Đảng Cấp tiến (Liberal Party) và Đảng Quốc gia (National Party) trong khi đây là chính sách cho toàn quốc gia. Hai, để đề cao yếu tố quy luật trong trật tự này. Hoa Kỳ, phần lớn, tôn trọng luật quốc tế và hành xử đúng mực, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Khi cần Hoa Kỳ vẫn cho mình là ngoại lệ hoặc/và ngoại hạng. Với cung cách hành xử của Trump cùng với những thách thức lớn lao lên nền trật tự hiện nay, đặc biệt từ Trung Quốc tại Biển Đông và mộng bá quyền của họ, các nhà chính trị và ngoại giao Úc vì thế mà quyết định cần phải nhấn mạnh đến trật tự quốc tế dựa trên quy luật.
Trật tự qua lăng kính của chủ nghĩa cấp tiến
Tại Hoa Kỳ, tức cái nôi của trật tự này, cuộc tranh luận về nguồn gốc, động cơ và tiến trình của trật tự này cũng tốn bao nhiêu bút mực và giấy in. Gần đây nhất là các bài viết trên các số mới nhất của tạp chí Foreign Affairs, tạp chí hàng đầu của Hoa Kỳ về các vấn đề ngoại giao. Cụm từ liberal international order được sử dụng nhiều nhất, nhưng thỉnh thoảng các chữ trật tự thế giới hay trật tự toàn cầu (world order or global order) cũng được dùng.
Liền sau khi Trump thắng cử cuối năm 2016, nhà khoa học chính trị nổi tiếng Joseph S. Nye Jr, tác giả của "quyền lực mềm", đã bày tỏ quan ngại đối với tương lai của trật tự [4]. Theo Nye thì trật tự quốc tế cấp tiến xuất hiện sau năm 1945 là sự bố trí lỏng lẻo của các định chế đa phương trong đó Hoa Kỳ cung cấp các mặt hàng công cộng toàn cầu như chế độ thương mại tự do hơn và tự do của biển cả, và các quốc gia yếu hơn được sự bảo vệ từ sức mạnh của Hoa Kỳ.
Theo Nye thì Hoa Kỳ đã cho Anh vây khoản tiền lớn, ủng hộ các chính phủ tại Hy Lạp và Thổ Nhỉ Kỳ theo xu hướng Tây phương năm 1947, đầu tư rất lớn vào việc tái kiến thiết Âu Châu qua Kế hoạch Marshall năm 1948, lãnh đạo liên minh bảo vệ sự xâm chiếm Nam Hàn năm 1950, và ký hiệp định an ninh mới với Nhật năm 1960. Các hành động này cũng như những việc khác đã tăng cường sức mạnh của trật tự và kiềm chế quyền lực của Sô Viết. Tuy ghi nhận nhiều vấn đề và giới hạn của nó, Nye biện luận rằng sự thành công quá rõ của trật tự này trong việc bảo đảm và ổn định thế giới trong hơn bảy thập niên qua đã đưa đến sự đồng thuận mạnh mẽ rằng bảo vệ, tăng cường và mở rộng hệ thống này là nhiệm vụ trọng yếu của chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Nye kết luận rằng người Mỹ và dân tộc khác có thể không để ý đến an ninh và thịnh vượng mà trật tự này đã cung cấp cho đến khi không còn nữa, và tới lúc đó thì đã quá trễ.
Một trong các học giả hàng đầu về chủ nghĩa cấp tiến quốc tế hiện nay là G. John Ikenberry, giáo sư chính trị và bang giao quốc tế tại Đại học Princeton có cùng quan điểm này. Ikenberry biện luận rằng nếu Trump thực hiện các lời hứa bầu cử của mình về thương mại, liên minh, luật quốc tế, đa phương, bảo vệ môi trường, tra tấn và vấn đề nhân quyền, thì nó sẽ kết thúc vai trò của Hoa Kỳ như là người bảo đảm cho trật tự thế giới cấp tiến (liberal world order) [5]. Khi Trump tuyên bố "Kể từ nay trở đi, Hoa Kỳ sẽ là trên hết", thì Trump đã đặt vấn đề với những thành tựu mang lại do nền trật tự Hoa Kỳ thiết lập trước đây. Đối với người cấp tiến, bảy thập niên qua tuy không hoàn hảo nhưng Hoa Kỳ cũng như trật tự này đã đem lại những thành tựu lớn lao. Ikenberry nhận định trong suốt thời gian này Hoa Kỳ đã vận dụng được quyền lực nhất trên sân khấu chính trị, vậy mà Trump lại cho đây là thời đại mà quốc gia mất mát và suy sụp. Sự thách thức của Trump cho nền trật tự cấp tiến là rất nguy hiểm vì nó coi thường các quy tắc và giá trị của nền dân chủ cấp tiến. Tổng thống lại đi đặt vấn đề về tính chính đáng của các thẩm phán liên bang, tấn công vào truyền thông, và không tỏ vẻ tôn trọng Hiến pháp hay nền pháp trị. Các sự thật, bằng chứng, kiến thức khoa học, sự cần mẫn và cẩn trọng trong công việc, đàm thoại lý luận – các yếu tố cần thiết trong đời sống chính trị dân chủ - bị phỉ báng hàng ngày. Do đó Ikenberry nhận định từ xưa đến nay, trật tự được thiết kế bởi các cường quốc đến rồi đi, nhưng họ thường kết thúc bằng bị ám sát, không phải bằng tự sát. Thế mà Hoa Kỳ, một cường quốc hàng đầu thế giới, lại bắt đầu tự phá hủy lấy trật tự mình xây dựng nên !
Năm sau, cũng trên tạp chí Foreign Affairs, số mới nhất tháng Bảy/Tám, Ikenberry tỏ vẻ lạc quan hơn về sự tồn tại của trật tự này. Có lẽ một phần là do sự thay đổi đáng kể trong thái độ và chính sách mà chính phủ Trump đã thực hiện trong gần một năm qua. Cùng viết với Daniel Deudney, hai vị giáo sư này nhận định rằng rằng Trung Quốc và Nga đã làm tiêu tan mọi hy vọng chuyển hóa sang dân chủ, trong khi Hoa Kỳ và Anh, hai nước bảo hộ của trật tự quốc tế cấp tiến, lại tự chọn thái độ tự hủy [6]. Tuy nhiên hai ông tin rằng chủ nghĩa cấp tiến (liberalism) trong đó nền dân chủ cấp tiến (liberal democracy) như là một hệ thống chính quyền, và nền trật tự cấp tiến (liberal order) như là một khung sườn định hình chính trị quốc tế, sẽ tiếp tục ngự trị. Lý do, theo hai ông, vì tính cách tương thuộc (interdependence). Khi sự tương thuộc về kinh tế, an ninh và môi trường càng gia tăng, thì người dân và chính phủ khắp nơi sẽ phải làm việc với nhau để giải quyết vấn đề, nếu không sẽ bị tổn hại nghiêm trọng trên bình diện toàn cầu.
Trung Quốc và Nga đã làm tiêu tan mọi hy vọng chuyển hóa sang dân chủ, trong khi Hoa Kỳ và Anh, hai nước bảo hộ của trật tự quốc tế cấp tiến, lại tự chọn thái độ tự hủy
Hai giáo sư nhận định sau Thế Chiến II, các nền dân chủ cấp tiến đã hợp tác để tạo ra một trật tự mà phản ảnh quyền lợi chung của họ. Sau hơn bảy thập niên, mặt dầu có những điểm bất toàn của nó, nó đã bám rễ quá sâu, trong đó hàng trăm triệu người, nếu không phải là tỷ người, đã có những hoạt động và mong đợi nhắm vào các định chế và khuyến khích của trật tự này, cho nên không dễ gì thay đổi nó. Nếu nghĩ rằng một vài năm theo xu hướng mị dân mà quốc gia sẽ đột ngột thay đổi chủ nghĩa cấp tiến là điều không tưởng. Các xã hội tư bản dân chủ cấp tiến đã phát đạt và mở mang vì nó rất giỏi trong việc kích thích và vận dụng sáng tạo nhưng đồng thời giải quyết các ảnh hưởng quá đà của chính nó hay các yếu tố tiêu cực ngoại cuộc.
Các tranh luận về trật tự
Tuy áp đảo, biện luận này đã bị phê bình từ nhiều học giả và khuynh hướng khác nhau. Phản biện lại cái nhìn của Ikenberry là giáo sư chính trị học Graham Allison, người đã đặt tên "bẫy Thucydides" [7]. Allison biện luận rằng xu hướng đang ngự trị hiện nay (tức cấp tiến) đưa ra ba luận điểm chính [8]. Một, trật tự cấp tiến đã là nguyên nhân chính của nền hòa bình lâu dài giữa các cường quốc trong bảy thập niên qua. Hai, thiết kế nền trật tự này là động lực chính của khế ước Hoa Kỳ đối với thế giới trong giai đoạn đó. Ba, tổng thống Hoa Kỳ hiện nay Donald Trump là mối đe dọa chính của nền trật tự này, và qua đó nền hòa bình thế giới.
Allison phê bình các luận điểm của Ikenberry, Nye và luôn cả lời kêu gọi của cựu phó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden trong những ngày cuối của chính quyền Obama "hãy hành động khẩn cấp để bảo vệ nền trật tự quốc tế cấp tiến". Allison cho rằng tuy tất cả các mệnh đề trên đều chứa đựng một số tự thật, mỗi cái có nhiều phần sai hơn đúng. Nền hòa bình lâu dài không phải là kết quả của trật tự cấp tiến mà là phó sản của sự cân bằng quyền lực nguy hiểm giữa Sô Viết và Hoa Kỳ trong bốn thập niên rưỡi của Chiến tranh Lạnh, rồi một giai đoạn ngắn thống trị của Hoa Kỳ. Khế ước Hoa Kỳ đối với thế giới không được định hình bởi lòng ham muốn được phát huy chủ nghĩa cấp tiến ở ngoài nước hoặc để xây dựng một trật tự quốc tế mà là nhu cầu phải làm những gì cần thiết để duy trì nền dân chủ cấp tiến ở trong nước. Và mặc dầu Trump đang phá hoại các yếu tố căn bản của nền trật tự hiện tại, ông không hề là mối đe dọa lớn nhất đối với nền ổn định toàn cầu.
Tóm lại, Allison biện luận thay vì đi tìm trở lại một quá khứ tưởng tượng cho rằng Hoa Kỳ đã uốn nắn hình thành thế giới như thế trong sự hình dung của mình, Hoa Thịnh Đốn nên giới hạn các nỗ lực của mình để bảo đảm một trật tự bên ngoài vừa đủ để tập trung vào việc tái xây dựng nền dân chủ cấp tiến sống động hơn tại nước mình.
Allison phân tích các lập luận của mình như sau. Trước hết sự thiết kế của Liên Hiệp Quốc cũng đã có vài vấn đề không bình đẳng hay công bằng. Chẳng hạn như Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc được năm cường quốc (Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và Pháp) có ghế ngồi thường trực và có quyền phủ quyết, do đó cho họ cái quyền ngoại lệ, khi nào phù hợp với mục đích của mình thì ủng hộ, nói chung là tuỳ tiện. Còn việc hình thành các định chế quốc tế khác và cả NATO chủ yếu là để kiềm chế và ngăn chặn Liên Sô. Allison cũng phê bình các chính sách đơn phương của Hoa Kỳ sử dụng vũ lực để tấn công các quốc gia khác, từ việc ném bom Belgrade, Serbia đến xâm chiếm Iraq và Afghanistan v.v…
Allison nhận định trong các đe dọa mang tính cách sinh tử đối với nền trật tự toàn cầu, Trump là một nhưng không phải là cái hệ trọng nhất. Hành động Trump rút ra khỏi các nỗ lực mà các chính quyền trước tìm cách hạn chế khí thải nhà kính hay cổ võ thương mại gây nhiều lo lắng, và sự hiểu lầm của Trump về sức mạnh cần phải có sự đoàn kết với đồng minh, thì thật quấy rối. Nhưng sự trổi dậy của Trung Quốc, sự hồi phục của Nga, và sự suy thoái quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ, đã là những thử thách lớn hơn Trump nhiều. Allison kể rằng trong chuyến đi sang Trung Quốc gần đây, một trong các viên chức cao cấp trong chính quyền đã đặt câu hỏi thật khó trả lời cho ông. Đó là phần lớn giới ưu tú Hoa Kỳ nhận định tính cách và kinh nghiệm của Trump không thích hợp để làm lãnh đạo của một quốc gia vĩ đại. Vậy thì đổ lỗi cho ai ? Trump, cơ hội chủ nghĩa giành lấy thắng lợi, hay hệ thống chính trị đã cho phép ông đạt được điều đó ?
Trước thời Trump, giai cấp chính trị đã mang lại các cuộc chiến chưa chấm dứt và không thành công như ở Afghanistan, Iraq và Libya, cộng với sự khủng hoảng tài chánh và đại suy thoái, đã làm mất uy tín của chính mình. Những thảm hoạ này đã làm suy yếu sự tự tin trong nền tự trị cấp tiến hơn những gì Trump có thể gây nên. Thử thách quan trọng nhất đối với những người Mỹ tin vào nền quản trị dân chủ là việc tái xây dựng nền dân chủ hữu hiệu ngay tại nước mình. Allision cho rằng để làm được điều đó, Hoa Kỳ không cần phải cải hóa người Trung Quốc, người Nga hay bất cứ một ai khác sang niềm tin của người Mỹ về giá trị tự do. Và nó cũng không nhất thiết phải thay đổi các chế độ khác trở thành dân chủ. Allison trích phần phát biểu của cố tổng thống John F Kennedy năm 1963 rằng chỉ cần làm sao duy trì nền trật tự thế giới "an toàn cho đa nguyên", tức bao gồm các quốc gia dân chủ lẫn phi dân chủ, là cũng đủ rồi.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực (realism) cũng mạnh mẽ phản biện quan điểm của xu hướng cấp tiến về trật tự này. Giáo sư lịch sử và bang giao quốc tế Stephen Kotkin không nhìn nhận những định chế đa phương và các tiến trình của hệ thống hậu chiến là "trật tự quốc tế cấp tiến", cái mà ông cho là cái nhìn ảo huyền của một số người, thật ra nó là cơ chế để tổ chức và phát triển vòng ảnh hưởng lớn lao của Hoa Kỳ [9]. Nhưng không giống như các nước Âu châu và Nhật Bản, Hoa Kỳ dành rất ít thời gian để áp đặt nền cai trị thuộc địa trực tiếp đối với các nước khác từ cuối thế kỷ 19 đến thế kỷ 20. Thay vào đó, Hoa Kỳ chọn phát huy quyền lợi của mình với các đồng minh tự nguyện, các định chế đa phương và tự do thương mại. Sự lựa chọn đó đến từ ý thức tư lợi (enlightened self-interest) hơn là lòng vị tha, và được yểm trợ bởi sức mạnh quân sự áp đảo.
Trong cuộc thảo luận bàn tròn với các chuyên gia trong ngành khoa học chính trị tại Hoa Kỳ, giáo sư chính trị học thuộc ngành bang giao quốc tế tại Đại học Harvard Stephen Walt, một blogger nổi tiếng trên tạp chí Foreign Policy, cũng phê bình quan điểm của giáo sư Ikenberry, về tác phẩm Liberal Leviathan của ông [10]. Các luận điểm chính của Walt là như sau. Một, mặc dầu hệ thống trật tự này có quy luật thật, cái mà các nhà cấp tiến gọi là dựa trên quy luật (rules-based), nhưng ông không thấy nó có nghĩa lý gì khi mà các cường quốc áp dụng một cách tuỳ tiện. Thay vào đó, người hiện thực thấy hệ thống này được định nghĩa chủ yếu bởi quyền lực và quyền lợi, mà phần lớn quyền lợi lại được định hình nặng nề bởi quyền lực. Các cường quốc sử dụng quy luật để tiến đạt quyền lợi của mình nhưng lại bỏ nó một bên nếu nó không phục vụ quyền lợi của mình. Hai, những điều nằm trong lý thuyết của cuốn sách của Ikenberry không mang tính tích cực hay giải thích, bởi quá nhiều cách mà các cường quốc (nhất là Hoa Kỳ) đi xa từ các biện luận chính của sách này. Thay vào đó, nó mang tính cách tiêu chuẩn hay quy định hơn, tức các nhà nước nên hành xử như thế nào để gặt hái nhiều lợi ích khác nhau. Tuy thế, Walt cũng cho rằng thật là mỉa mai vì phần lớn ông cũng đồng ý với các quy định cụ thể trong cuốn sách này, và thế giới sẽ trở nên tốt hơn nếu các nhà nước hành xử như Ikenberry đề nghị. Nói chung Walt, hay xu hướng hiện thực, phê bình Ikenberry hay xu hướng cấp tiến là họ quá lạc quan. Walt nhận định rằng trên thực tế giới làm chính sách Hoa Kỳ lắm khi nói cho xướng cái miệng về luật và quy định và quy tắc và đa phương, nhưng khi đụng phải chuyện, cái thường xảy ra, thì họ cứ làm theo cách riêng của họ thôi.
Giữa trường phái cấp tiến và với các nhà nghiên cứu sử học thì cũng có lắm bất đồng. Đó là cuộc tranh luận sôi nổi giữa học giả và người điều hợp chương trình trên kênh CNN Fareed Zakaria với nhà sử học nổi tiếng hiện nay Niall Ferguson trong loạt tranh luận có tên the Munk Debate Series. Ferguson thì cho rằng cái gọi là trật tự quốc tế cấp tiến thật ra không có trật tự, không phải quốc tế, và cũng chẳng cấp tiến chút nào [11]. Trong khi đó, theo Fareed Zakaria thì khoảng một năm sau biến cố Pearl Harbor, tổng thống Hoa Kỳ Frank Roosevelt gặp Thủ tướng Canada Mackenzie King (người nắm giữ chức vụ này lâu đời nhất tại Canada, trên 21 năm) tại văn phòng bầu dục. Lần gặp mặt này, tuy Hoa Kỳ chỉ mới chính thức tham chiến và viễn ảnh chiến tranh chấm dứt vẫn còn khá xa vời, Roosevelt hoàn toàn tin tưởng vào thế tất thắng của phe đồng minh. Nhưng điều Roosevelt quan tâm hơn là viễn ảnh tương lai : làm thế nào để xây dựng một thế giới hợp tác và cạnh tranh chứ không phải đối đầu và chiến tranh nữa. Nên nhớ lịch sử thế giới cho đến thời điểm đó phần lớn mang đậm nét chiến tranh, xung đột, đế quốc thực dân, chủ nghĩa thương mại bảo hộ/quốc gia và chế độ bóc lột.
Zakaria biện luận rằng Roosevelt không thể tiếp tục ủng hộ một thế giới trật tự như thế nữa. Viễn kiến của Roosevelt là : một, phải làm cho Trục Quyền (Axis powers, gồm Đức Ý Nhật) đầu hàng hoàn toàn vô điều kiện ; hai, phải yêu cầu Anh quốc và Pháp quốc không tái xây dựng đế quốc của họ khắp nơi như trước đây. Theo Roosevelt thì cần phải xây dựng một thế giới mà tự do và quyền tự quyết có tác dụng bao quát hơn ; ba, Roosevelt mong muốn một thế giới có tự do mậu dịch, thương mại, nhưng cũng cần dựa trên luật lệ rõ ràng và cơ cấu hẳn hoi để qua đó các bất đồng hay tranh chấp chính trị có thể được giải quyết một cách ôn hòa (như Liên Hiệp Quốc). Roosevelt không sống để nhìn thấy viễn kiến của ông được thực hiện ra sao sau Thế Chiến II, nhưng trong suốt thời gian tại vì, ông nỗ lực không ngừng để thực hiện viễn kiến đó. Cho đến nay, nhìn lại thì trật từ này tất nhiên không hoàn hảo, không bắt đầu suông sẻ, nhưng không thể phủ nhận vai trò và kết quả nó đã đóng góp để duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung của nhân loại sau Thế Chiến II cho đến nay.
Bài mới nhất của giáo sư chính trị học Michael J. Mazarr thuộc RAND Corporation trên tạp chí Foreign Affairs phản biện lại bài viết của Allison, trình bày ở trên [12]. Mazarr nhận định rằng 70 năm qua phần lớn giới bình luận Mỹ ủng hộ ý tưởng một trật tự quốc tế dựa trên quy luật do Hoa Kỳ lãnh đạo. Vậy mà gần đây có nhiều học giả, chuyên gia, kể cả Graham Allison, đã bác bỏ nó và cho nó là một "huyền thoại". Mazarr ghi nhận bài viết của Allison có nhiều điểm quan trọng nhưng đã đi sai theo ba hướng quan hệ với nhau : nó đọc sai lịch sử của trật tự hậu chiến, thổi phồng các mục tiêu của trật tự, và lầm lẫn các hoạt động toàn cầu quá hạn của Hoa Kỳ với các hoạt động của chính trật tự này.
Thứ nhất, về lịch sử, Allison biện luận trật tự này là hệ quả không lường của Chiến tranh Lạnh, nghĩa là một tai nạn lịch sử. Nó diễn ra vì sự lo sợ và chủ trương cân bằng quyền lực, chứ không phải ý đồ định hình nền chính trị thế giới. Vì thế, Allison ngụ ý, nó luôn là quyền lực chính trị thực tiễn được đội lốt để có thể phổ biến các giá trị cấp tiến. Theo Mazarra thì cái nhìn đó, tốt nhất, chỉ là một chiều của một lịch sử phức tạp. Mỗi viên chức nhìn vấn đề khác nhau về trật tự này khi họ bắt tay thực hiện nó, nhưng nói một cách tổng quát, vào đầu thập niên 1940 Hoa Kỳ đã đầu tư vào Liên Hiệp Quốc, chế độ thương mại quốc tế, và các định chế toàn cầu để ổn định kinh tế để qua đó cấu tạo một thế giới giới có trật tự hơn mà khó trở thành nạn nhân của các thảm nạn của thập niên 1930. Các khái niệm này đã có trước khi các nhà ngoại giao Hoa Kỳ nhận ra rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Sô chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ. Tổng thống Franklin Roosevelt đã có những cuộc đàm thoại sâu sắc với thủ tướng Anh Winston Churchill và những người khác (như thủ tướng Canada Mackenzie King, mà Zakaria đã trình bày ở trên) về các vấn đề này đầu thập niên 1940. Tóm lại, theo nhận định của Mazarr thì Hoa Kỳ không hề có ý định chơi trò quyền lực chính trị hay ngăn chặn Sô Viết sau Thế Chiến II khi lập nền trật tự này, mà chủ yếu là xây dựng nền tảng cho nền chính trị thế giới hợp tác nhau hơn dựa trên các quy luật chung. Các định chế và các quy luật chung này nhắm đến sự ổn định kinh tế và địa chính trị chứ không phải để truyền bá các giá trị của Hoa Kỳ.
Thứ hai, về thổi phồng các mục tiêu của trật tự, như "nó là nguyên nhân của yếu tố nền hòa bình lâu dài giữa các cường quốc trong bảy thập niên qua", thì Mazarr cho rằng ông không biết có quan điểm cực đoan về tầm quan trọng của trật tự vậy không. Tâm thức của giới lãnh đạo Hoa Kỳ khi giải thích và thuyết phục công chúng về sự cần thiết hình thành Liên Hiệp Quốc là rằng "một tổ chức quốc tế mới là một sự cần thiết nghiêm trọng, ngay cả khi nó không thể giải quyết được hết các vấn đề của thế giới". Các định chế nói trên, cùng với các quy luật và quy ước ràng buộc, đã trở thành một hệ thống mà các viên chức Hoa Kỳ đã ý thức rõ ràng khi tiến hành thực hiện nó kể từ giữa thập niên 1940. Đây là một trật tự mà đã miêu tả một cách nổi bật trong tất cả các Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ kể từ thập niên 1950. Nó cũng là một trật tự mà hàng tá quốc gia khác đã đặt trọng tâm trong khái niệm của họ về an ninh và thịnh vượng, như Úc, Anh, Pháp, Đức, Ấn Độ, Nhật, Tân Tây Lan, Nam Hàn và bao quốc gia khác. Mazarr cùng cơ quan RAND Corporation đã bỏ ra hai năm tìm hiểu và đánh giá trật tự này. Họ kết luận các quốc gia này đều nhìn nhận rằng trật tự này là có thật và lo ngại một cách sâu sắc nếu nó qua đời [13].
70 năm nhìn lại để nhận thức, một số hy vọng của các kiến trúc sư của trật tự này đã rõ ràng đạt được phần nào. Các tiến trình đa phương mà các kiến trúc sư này tạo ra đã giúp ổn định nền kinh tế toàn cầu và ngăn chặn sự hung hăn. Bằng cách sắp xếp ba phần tư nền kinh tế thế giới chung quanh bộ quy định rộng (broad set of norms), nó đã tạo ra một lực hút mạnh về trọng tâm ổn định của nền chính trị thế giới. Các quốc gia đều biết muốn duy trì khả năng cạnh tranh, họ không thể chống lại một trật tự đang thắng thế như thế.
Thứ ba, về lầm lẫn các hoạt động toàn cầu quá hạn của Hoa Kỳ với các hoạt động của chính trật tự này, thì Allison biện luận các hành động quân sự đơn phương của Hoa Kỳ kể từ năm 2001 mang tính phá hoại trật tự này đã tự dẫn chứng (speak for itself). Mazarr phản biện rằng hiếm khi các hành xử quốc tế có thể tự dẫn chứng. Các hành xử thường được các quốc gia khác diễn dịch trong bối cảnh hiểu biết rộng hơn về quyền lực và mục đích. Hoa Kỳ đã tự đặt quyền lực của mình trong dự án đa phương này, đã giúp chính nghĩa hóa vai trò của mình trên thế giới, và chiếm được sự nhẫn nại (của các quốc gia khác) vào những khi Hoa Kỳ thất bại với sự cam kết các lý tưởng của mình. Do đó giải pháp là phục hồi, không phải từ bỏ, chủ nghĩa đa phương mà đã từng thuyết phục được sự đối kháng đối với quyền lực của Hoa Kỳ.
Mazarr kết luận rằng những nhà sáng tạo nên trật tự thời hậu chiến đã đặt ra mục tiêu vừa giới hạn vừa cách mạng. Họ thực hiện nó trong các ràng buộc của quyền lợi quốc gia và cân bằng quyền lực quốc tế để xây dựng định chế và quy trình mà có thể định hình đặc tính của nền chính trị thế giới. Hệ thống này đã đạt một số thành quả đáng kể, trong đó có hòa bình và thịnh vượng. Khi mà thế giới đang bước vào một thời kỳ cạnh tranh gây gắt hơn, các nhà làm chính sách Hoa Kỳ cẩn trọng không nên coi thường tầm quan trọng của trật tự thời hậu chiến này. Trật tự này không hề là một huyền thoại ; nó là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của Hoa Kỳ hiện nay.
Dù thiết kế với cái nhìn hiện thực, hay cấp tiến, hay cả hai, của giới lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đầu thập niên 1940, kết quả, như chúng ta cũng biết, là sự ra đời của các định chế quốc tế và toàn cầu, ngay cả trước khi Thế Chiến II chấm dứt, bao gồm : Liên Hiệp Quốc năm 1945 (United Nations) ; Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại năm 1947 (General Agreement on Tariffs and Trade/GATT), tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organisation/WTO) ; Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund/IMF) và Ngân hàng Tái Xây dựng và Phát triển Quốc tế (the International Bank for Reconstruction and Development/IBRD, sau này là Ngân hàng Thế giới/World Bank) thành lập năm 1944, hoạt động năm 1946. Điều không thể phủ nhận là thế giới đã thay đổi lớn lao và toàn diện nhờ sự hợp tác và tương thuộc qua các định chế quốc tế này.
Vài kết luận
Sự trổi dậy không mang tính hòa bình như reo rao mà ngược lại đầy tính gây hấn, trên Biển Đông cũng như trong các chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng và khắp nơi, đã làm bao người quan ngại đối với nền trật tự hiện nay và nền hòa bình tương lai. Trung Quốc có tham vọng bá quyền và có khả năng qua mặt Hoa Kỳ về kinh tế trong một thập niên rưỡi, tuy về mặt quân sự và khoa học kỹ thuật thì còn xa mới bắt kịp, ít nhất là ba thập niên nữa.
Vấn đề nằm ở hai mặt trận chính : chiến lược đường dài, và lãnh đạo.
Theo nhà bình luận chính trị người Mỹ và cũng là một blogger Kevin Drum, thì nếu không có cuộc cách mạng công nghệ, đầu tiên là động cơ hơi nước, lý thuyết vi trùng, điện và xe lửa, thì lịch sử thế giới đã hoàn toàn khác ; sẽ không có cuộc cách mạng dân chủ như đã diễn ra trong thế kỷ 18, 19, 20 như đã thấy [14]. Cuộc cách mạng công nghệ tới đây sẽ quyết định vận mệnh trật tự thế giới. Drum nhận định rằng vấn đề là liệu Trung Quốc, trong vòng 20 năm tới, đạt được kỹ nghệ trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence/AI) tốt nhất không ? Nếu được, họ có thể trở thành bá quyền, nếu họ muốn ; nếu không thể thì chẳng gì phải quan tâm cả.
Cuối cùng thì tương lai của trật tự thế giới chủ yếu tùy thuộc vào tài năng lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Tuy Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về trí tuệ nhân tạo AI hiện nay, lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc không hề dấu tham vọng muốn qua mặt Hoa Kỳ trong mặt trận này vào năm 2030 [15]. Trong khi ngân sách cho Nền tảng Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ bị cắt giảm 10 phần trăm xuống còn 175 triệu đô la thì ngân sách dự chi của Trung Quốc vào năm 2030 cho AI là 100 tỷ đô la. Sự chênh lệch về ngân sách đầu tư cho nền khoa học kỹ thuật quốc gia như thế hiển nhiên sẽ dẫn đến kết quả khác nhau vào năm 2030.
Ngoài khoa học kỹ thuật, Trung Quốc đã chuẩn bị nhiều mặt trận khác. Nhà chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc Michael Pillsbury đã nghiên cứu kỹ lưỡng các chiến lược, chiến thuật của giới diều hâu Trung Quốc hơn bốn thập niên qua, và đã đề nghị các biện pháp cần thiết để vận dụng chính các khái niệm từng được họ sử dụng trong thời Chiến Quốc và bốn thập niên qua để đánh bại chính họ [16]. Pillsbury trình bày chi tiết đề nghị này trong 12 bước. Tựu chung là cần nhận diện được những trí trá của Trung Cộng, lưu trữ tất cả các hồ sơ tài liệu này một cách hệ thống, hoạch định các chiến lược cạnh tranh, tìm đồng thuận chung để phối hợp hành động cho hiệu quả, hỗ trợ cho các nhà đối kháng và xu hướng cải cách tại Trung Quốc, đánh vào các điểm yếu của chế độ, có biện pháp cứng rắn với sự gian lận ăn cắp tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ v.v…
Trên đây là các đề nghị của Pillsbury, nhưng chính quyền Hoa Kỳ hiện nay và tương lai có tán thành và sẽ thực hiện bao nhiêu điều trong này thì chưa rõ. Các chiến lược đường dài của Hoa Kỳ vẫn chưa rõ ràng và thống nhất. Hiện tại Trump đã công khai tuyên chuyến với Trung Quốc trên mặt trận thương mại, nhắm đến hàng hóa nhập cảng trị giá 505 tỷ Mỹ kim. Nhiều người chưa gì đã vội tung hô Trump và tin chắc Trung Quốc sẽ thua cuộc. Thuế nhập cảng có thể là phần quan trọng trong cuộc chiến thương mại này, nhưng không đủ để quyết định và tác động để buộc Trung Quốc phải đổi chiều. Như Abigale Grace nhận định trên tạp chí Foreign Policy, các nhà hoạch định sách lược tại Hoa Kỳ cần chuẩn bị cuộc cạnh tranh trên nhiều mặt trận bắt nguồn từ tư thế chính trị, mặt trận tuyên truyền trong nước, và các chính sách kinh tế cưỡng ép các công ty Mỹ đang hoạt động tại Trung Quốc [17]. Grace cho rằng Trung Quốc biết đây là ưu tiên hàng đầu của Trump nên đã chuẩn bị người dân của họ cho cuộc chiến dài và xấu này, và họ có khá nhiều dụng cụ/vũ khí để trả đũa. Lãnh đạo Trung Quốc muốn đạt mục tiêu chiến lược lớn hơn cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ hiện nay, đó là họ không muốn chơi theo các luật lệ thế giới. Nói cách khác mục đích cao nhất của họ là muốn thay đổi nền trật tự hiện nay, như Pillsbury đã nghiên cứu tỉ mỉ trong sách ông.
Về mặt quân sự thì quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua ngân sách quốc phòng khổng lồ cho năm tài chánh 2019, 716 tỷ đô la Mỹ, vào ngày 22 tháng 7 năm 2018 [18]. Phải chăng Hoa Kỳ muốn đầu tư mạnh mẽ vào quốc phòng để Trung Quốc không thể nào bắt kịp, sức mạnh quân sự Hoa Kỳ sẽ áp đảo, như thế Trung Quốc phải biết sợ, dù là một chút thôi, để không dám thách thức Hoa Kỳ trong tương lai !
Ngoài ngân sách quốc phòng và chiến tranh mậu dịch nói trên, chính phủ Trump vẫn chưa trình bày rõ ràng các chiến lược lâu dài khác của Hoa Kỳ là gì trong việc đối đầu với Trung Quốc, và chiến lược ngoại giao của mình. Trump tỏ vẻ muốn kéo Nga về phía Hoa Kỳ, nếu không là đồng minh thì cũng không là đối thủ gây thêm khó khăn cho Hoa Kỳ để Trump có thể dồn nỗ lực kiềm chế Trung Quốc trong thời gian tới. Trump có đạt được mục tiêu kéo Nga về phía mình hay không thì nó hoàn toàn không đơn giản chút nào.
Về mặt lãnh đạo thì nền dân chủ như Hoa Kỳ và nền độc tài như Trung Quốc có những ưu và khuyết khác nhau.
Nền tảng sức mạnh của các chế độ dân chủ, tự bản chất, là từ mỗi người dân. Từ mỗi cá nhân, các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức do người dân thành lập trong xã hội đó. Nếu so sánh năng xuất (productivity) giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì khoảng cách vẫn còn là một trời một vực. Nhưng Trung Quốc đông dân gấp bốn lần Hoa Kỳ. Ngoài ra, sức mạnh của một quốc gia không chỉ là tập hợp năng xuất mỗi cá nhân trong quốc gia đó là còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó lãnh đạo chính trị của quốc gia đó đóng vai trò chiến lược then chốt. Nó mang tính đường dài và đòn bẫy cho mọi chính sách phát triển của quốc gia đó.
Hoa Kỳ, mỗi hai năm thay thế một phần lập pháp, và mỗi bốn năm thay thế lãnh đạo hành pháp. Cho dù giới lãnh đạo hành pháp tài giỏi xuất chúng bao nhiêu, họ cũng phải khôn khéo thương lượng và thuyết phục quốc hội để thông qua các ngân sách, nhân sự, dự luật mới cũng như các tu chính với bộ luật cũ vv… Hành pháp cũng bị ràng buộc bởi các diễn nghĩa của tư pháp, nhất là Tối cao Pháp viện, đặc biệt khi đưa ra các Lệnh Hành pháp (Executive Order). Nhiệm kỳ là bốn năm, tối đa là hai nhiệm kỳ, trong đó có sự thay đổi nhân sự thường xuyên trong vai trò điều hành và lãnh đạo ở các cấp bậc cao nhất. Ngoài ra còn bao nhiêu sự ràng buộc của hiến pháp và pháp luật, cũng như sự đấu tranh liên tục giữa các ngành tư pháp, hành pháp, lập pháp, truyền thông cũng như sự vận động không ngừng nghỉ của giới doanh nhân và các tổ chức xã hội dân sự.
Do đó dù có tầm nhìn chiến lược lâu dài và tối ưu đi chăng nữa, giới lãnh đạo chính trị tại Hoa Kỳ nói riêng và các nền dân chủ cấp tiến nói chung khó thể nào thi hành các chiến lược quốc gia của mình nếu không giỏi thương thuyết và thỏa hiệp. Nó cũng rất khó khăn thuyết phục quốc hội/dân đầu tư ngân sách đầy đủ và ủng hộ các chính sách dài hạn, ngoài tầm của một nhiệm kỳ bốn năm. Tuy vậy, trong nền dân chủ, sự chuyển tiếp lãnh đạo từ người này sang người khác hoặc chính quyền này sang chính quyền khác luôn ổn định, qua các thủ tục rõ ràng, và với hàng trăm năm kinh nghiệm, luôn diễn ra hiệu quả và tốt đẹp. Tất nhiên mọi lần chuyển tiếp lãnh đạo đều mất thời gian để được quốc hội thông qua, và để người kế nhiệm nắm rõ các vấn đề chuyên môn và các thủ tục cần thiết để điều hành hiệu quả.
Trong khi đó, Trung Quốc là độc đảng, khống chế mọi ngành khác, một cách toàn diện và tuyệt đối, nên các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa v.v… đều dễ dàng được thông qua và thi hành. Bảy người trong Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng cũng như 25 người trong Bộ Chính trị hầu như nắm mọi quyền lực trong tay. Mục tiêu lâu dài của giới lãnh đạo Trung Quốc là tiếp tục tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, gia tăng tiềm năng quốc phòng, tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên và nhất là đầu tư tối đa vào cuộc cách mạng công nghệ tới, đặc biệt về trí tuệ nhân tạo, để phát huy ưu thế chiến lược, nhất là so với Hoa Kỳ. Tuy cũng đấu đá khủng khiếp với nhau để tranh giành quyền lực, nó hiếm khi công khai minh bạch mà thường mà kín đáo và xảo quyệt. Sau Mao Trạch Đông, các vụ đấu đá thanh trừng trong đảng cũng long trời lở đất. Đặng Tiểu Bình hiểu được điều này hơn ai hết cho nên muốn đặt giới hạn hai nhiệm kỳ để hy vọng có sự chuyển tiếp suông sẻ. Tuy nhiên, mục tiêu này đã được thay thế bởi mục tiêu chiến lược quan trọng hơn : cuộc chạy đua bá quyền với Hoa Kỳ. Đó là lý do vì sao Tập Cận Bình (Xi Jinping), được mệnh danh là Chủ Tịch của Mọi Thứ (Đảng, Nhà Nước và Quân Đội), không còn bị giới hạn hai nhiệm kỳ trong vai trò chủ tịch nước nữa vào ngày 17 tháng Ba năm 2018. Giới diều hâu Trung Quốc ủng hộ Tập để bảo đảm sự liên tục trong việc lèo lái và thực hiện giấc mộng bá quyền của họ.
Mặc dầu đây là sức mạnh của Trung Quốc, đó cũng chính là điểm yếu của họ. Chế độ độc tài nào cũng có vô số giới hạn và rủi ro của nó. Bởi để tập trung quyền lực như thế vào tay mình, Tập và nhóm diều hâu đã loại trừ bao nhiêu thành phần trong đảng không đứng về phía mình, do đó họ cũng có lắm kẻ thù. Đó là chưa kể chính sách vô cùng thô bạo và cung cách tàn bạo mà họ đã đối xử với người dân, đặc biệt là các nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Ngoài ra người Hoa đã kinh nghiệm bao nhiêu tai họa trong thời Mao, với chủ nghĩa tôn sùng cá nhân, nên dù giới trẻ có thể không nắm rõ vì sử liệu giáo dục bị bóp méo trầm trọng, những người từng sống thời đó chắc hẳn còn nhớ rõ và hiểu sâu. Người Hoa Đài Loan và Hồng Kông hiển nhiên rất quan ngại về cánh tay nối dài của Bắc Kinh, nhất là khi Tập đã lập lại nhiều lần cảnh cáo đối với mọi nỗ lực độc lập tách rời khỏi Trung Quốc. Vào ngày 14 tháng 8 vừa qua, Andy Chan, 27 tuổi, lãnh đạo của Đảng Quốc gia Hồng Kông, với chủ trương độc lập từ Trung Quốc, đã hùng hồn phát biểu tại Câu Lạc bộ Phóng viên Ngoại quốc rằng "Trung Quốc là mối đe dọa đối với mọi người tự do trên toàn thế giới" [19]. Mọi chế độ chính trị đều quan ngại sức mạnh của truyền thông, nhưng chế độ độc tài thì không chỉ quan ngại mà là thật sự lo sợ, vì truyền thông có khả năng phơi bày sự thật về mình. Nhưng cái mà chế độ độc tài lo sợ nhất là người dân có tư duy độc lập và suy nghĩ phê phán. Như thế, mọi tuyên truyền của họ đều vô hiệu quả, và họ không thể kiểm soát tư tưởng và ngày càng mất dần ảnh hưởng đối với người dân.
Kinh tế Trung Quốc hiện đang chậm lại, và còn gặp khó khăn trong cuộc chiến thương mại hiện nay nên thành phần bất mãn hoặc đối trọng với Tập có thể khai dụng cơ hội đặt vấn đề về hiệu quả của việc tập trung quá nhiều quyền lực vào một cá nhân [20]. Bốn năm tới, và xa hơn nữa, các thử thách đối với Trung Quốc không hề nhỏ mà ngày càng gia tăng. Nền kinh tế sẽ không tiếp tục tăng trưởng như trước. Khi người dân càng có nhiều thì càng mong đợi nhiều, và khi mong đợi không được đáp ứng thì, cho dù bộ máy tuyên truyền đồ sộ và tốn kém khủng khiếp bao nhiêu, nó cũng sẽ không thoả mãn được nhu cầu mong đợi khổng lồ từ một tỷ bốn trăm triệu người dân của họ hiện nay.
Cuối cùng thì tương lai của trật tự thế giới chủ yếu tuỳ thuộc vào tài năng lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc, và hiệu năng của cơ chế vận hành quốc gia, tức guồng máy đẩy quốc gia đó về phía trước. Dù chưa thể tiên đoán được kết quả tương lai ra sao, chúng ta có thể lạc quan rằng những gì được xây dựng dựa trên chân thiện mỹ thì vẫn vững ổn hơn giả ác xấu.
Úc Châu, 28/08/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 29/08/2018
Tài liệu tham khảo :
1. "Public consultations " by Department of Foreign Affairs and Trade (DFAT), accessed on 11/08/2018.
2. Phạm Phú Khải, "Nước Úc trước tương lai bất định ", Nghiên Cứu, Quốc Tế, 02/04/2017.
3. "2017 Foreign Policy White Paper " by Australian Government, accessed on 11/08/2018. Có thể tìm hiểu thêm bài viết của giáo sư Martin Parkinson, Thư ký của Bộ Thủ Tướng và Nội các Chính phủ Úc, "2017 Foreign Policy White Paper : advancing Australia’s interests ". Xem trang v, 6 và 21.
4. Joseph S. Nye Jr, "Will the Liberal Order Survive ?", Foreign Affairs, Volume 96, Number 1, January/February 2017 ; trang 10-16.
5. G. John Ikenberry, "The Plot Against American Foreign Policy", Foreign Affairs, Volume 96, Number 3, May/June 2017 ; trang 2-3.
6. Daniel Dauney and G. John Ikenbery, "Liberal World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 16-24.
7. Allison là người nghiên cứu về cái bẫy chết người mà nhà sử học Hy Lạp Thucydides đã nhận diện và lý giải. Đó là sử trổi dậy của Athen và mối lo sợ lên Sparta đã làm cho chiến tranh hai bên không thể tránh được. Xin đọc Graham Allison, "The Thucydides Trap", Foreign Policy, 9 June 2017. Allison nghiên cứu lịch sử 500 năm qua và kết luận rằng trong 16 trường hợp tương tự như thế thì có đến 12 trường hợp dẫn đến chiến tranh. Liệu chiến tranh có xảy ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ không ? Nếu thích thì tìm hiểu thêm tác phẩm của ông "Destined for war", Houghtin Mifflin Harcourt, 2017.
8. Graham Allison, "The Myth of the Liberal Order", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 124-133.
9. Stephen Kotkin, "Realist World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 10-15.
10. Stephen M Walt, "What I told my APSA panel", Foreign Policy, 3 September 2011.
11. Cuộc tranh luận giữa Fareed Zakaria Niall Ferguson, "Trật tự cấp tiến quốc tế đã qua rồi ? ", (The Munk Debate Series : Is the Liberal International Order Over ?), trên Youtube, 28 April 2017. Muốn nghiên cứu thêm về thủ tướng Mackenzie King có thể vào Thư viện Quốc gia của Canada nơi lưu trữ tất cả những nhật ký của ông "Diaries of William Lyon Mackenzie King ", từ năm 1893 đến 1950, gồm khoảng 50 ngàn trang viết, và nếu chất chồng lên nhau thì cao hơn 7 mét.
12. Michael J. Mazarr, "The Real History of the Liberal Order ", Foreign Affairs, 7 August 2018.
13. Michael J. Mazarr, "Building a Sustainable International Order ", RAND Corporation, accessed on 16 August 2018.
14. Kevin Drum, "Tech World", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 43-48.
15. Elsa B. Kania, "Artificial Intelligence and Chinese Power ", Foreign Affairs, 5 December 2017.
16. Michael Pillsbury, "The Hundred Year Marathon", Henry Holt and Company, February 2015.
17. Abigail Grace, "China Doesn’t Want to Play by the World’s Rules", Foreign Policy, 8 August 2018.
18. US Senate Committe on Armed Services, "John S. McCain National Defense Authorization Act for Fiscal Year 2019 ", 22 July 2018.
19. Stuart Lau, "China takes on Hong Kong’s press club ", The Interpreter, Lowy Institute, 16 July 2018.
20. Richard McGregor, "Has China's leader Xi Jinping now passed his peak ? ", The Interpreter, Lowy Institute, 27 July 2018.
Tôi là người theo xu hướng tự do. Có lẽ đó là giá trị cao cả và tiền điều kiện để sống cho có nhân phẩm. Đây là kinh nghiệm của chính mình và của bao người thuộc đủ mọi sắc tộc mà tôi có cơ hội làm việc. Khi một người có đủ thứ, tiền tài danh vọng, mà không có tự do, thì cũng không trọn vẹn. Tự do cho toàn xã hội, cho mọi công dân mà không phân biệt vì bất cứ lý do nào. Không phải là loại tự do hoang dã, nhưng là tự do ràng buộc bởi hiến pháp và pháp luật. Có tự do chưa hẳn sẽ mưu cầu được hạnh phúc, nhưng không có tự do, nghĩa là bị áp bức và nhất là bị áp đặt về mặt tư tưởng, chẳng hạn, thì không thể mưu cầu hạnh phúc đích thực.
Các nhà lập quốc Hoa Kỳ hiểu rất rõ rằng xây dựng một chính quyền mà trong đó các công dân tự do của mình có thể tự quản trị là một đảm nhận nguy hiểm và bất định - Hình minh họa.
Có thể có người siêu phàm vượt qua được mọi chướng ngại chung quanh để có hạnh phúc chăng, dù không có tự do. Nhưng đó là thiểu số đếm trên đầu ngón tay. Có thể họ đã tôi luyện được "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Có thể họ đã trở thành cao siêu và giác ngộ đến độ những cái khổ đau, tội ác, xấu xa hay bất công chung quanh mình không ảnh hưởng đến cảm nhận hay trí tuệ siêu việt của họ. Rất có thể họ có khả năng tách mình ra ngoài xã hội để không bị ảnh hưởng và không cảm nhận được nỗi đau của đồng loại, của những người chung quanh. Nhưng khoa học đã chứng minh con người là một động vật xã hội. Chúng ta không thể tồn tại hay phát triển một cách ý nghĩa, trọn vẹn và toàn diện nếu cô lập mình hoàn toàn. Một người chỉ có thể có hạnh phúc nếu họ tự do được chọn thực hiện những gì họ có khả năng nhất và thích hợp nhất với tài năng và lương tâm họ của họ. Tóm lại, tôi tin rằng tự do là điều kiện căn bản cho hạnh phúc đích thực.
Để có tự do, mọi công dân trong xã hội cần phải hiểu cái giá mà nhân loại đã trải qua, ngay cả khi họ đã có nó. Coi thường tự do thì sẽ mất tự do. Xâm phạm quá nhiều vào quyền tự do của người khác sẽ dẫn đến mất tự do của chính mình, nếu không bây giờ thì cũng sẽ xảy ra một ngày nào đó. Bao nhiêu cuộc đấu tranh nhân danh tự do để lật đổ chính thể cai trị để rồi khi đã nắm được quyền lực trong tay, những cá nhân và chính quyền này đã phản bội mọi sự hứa hẹn trước đó. Các thể chế chính trị dân chủ non trẻ như Ba Lan, Tiệp Khắc, Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan v.v…, nơi mà văn hóa dân chủ chưa thấm sâu vào trong cách suy nghĩ và hành xử của cá nhân và tập thể, và nơi mà các định chế nhà nước, từ chính trị đến xã hội và giáo dục, vẫn chưa đề cao sự trong sạch, minh bạch và trách nhiệm, thì không có gì bảo đảm sự vững ổn của nền dân chủ đó. Chỉ cần có những khó khăn của quốc gia về môi trường sống, về kinh tế, về công ăn việc làm, chẳng hạn, thì sự hứa hẹn của một nhà dân túy mị dân có thể làm lung lây cái nền tảng dân chủ không vững chắc này.
Cho nên một trong những điều quan trọng, và là bài học cần thiết cho Việt Nam trong tương lai, là chương trình giáo dục cho mọi công dân. Ít nhất là từ trung học trở đi, tất cả đều phải học về văn hoá, lịch sử, chính trị học, xã hội học, và nhân chủng học, của đất nước và của thế giới, để hiểu về con người, các điểm tương đồng cũng như khác biệt, giữa cùng chủng tộc và khác chủng tộc, về các tôn giáo và các nền văn minh khác nhau.
Học ở đây không phải là học thuộc lòng. Cái kiến thức không quan trọng bằng cái tri thức. Bộ óc con người có khả năng trí nhớ nhưng như thế không khác gì máy vi tính hiện nay. Máy vi tính có bộ nhớ hơn hẳn con người. Với trí tuệ nhân tạo trong tương lai gần, máy siêu vi tính hay máy tính lượng tử có khả năng vượt qua con người trên nhiều bình diện. Nếu con người không chỉ biết nghĩ gì mà nghĩ như thế nào (not only what to think but how to think) thì chúng ta sẽ tồn tại và sẽ tiếp tục phát triển khoa học kỹ thuật và nền văn minh của mình trong các thập niên và các thế kỷ tới. Những gì bất khả ngày hôm nay không có nghĩa vẫn như thế ngày mai. Bộ óc con người được trang bị như thế để tồn tại, và chúng ta đều có khả năng thay đổi thói quen tưởng chừng như bất di bất dịch.
Học thì phải biết phân tích, lý luận, biện luận và tranh luận cho quan điểm của mình hay phản biện các quan điểm khác. Bậc đại học là nơi để sinh viên trao dồi và phát huy cách suy nghĩ như thế nào về một vấn đề nào đó. Còn đến đó chỉ để học về kiến thức thôi thì không những không thể có được những khám phá gì mới mẻ mà còn mãi mãi chỉ là học trò của những người bạn chung quanh.
Cái tư duy độc lập đó, được trang trị bởi cách suy nghĩ phê phán và đa phương, là nền tảng căn bản nhưng quan trọng nhất của một nền dân chủ vững ổn.
Chúng ta đã được nghe và đọc rất nhiều về lịch sử lập quốc của Hoa Kỳ. Đọc lịch sử với các biến cố và kết cuộc vĩ đại, chúng ta dễ dàng choáng ván rồi bỏ qua điều quan trọng. Đó là các nhà lập quốc đã nghĩ gì, đã tranh luận như thế nào, đã vận động, thuyết phục và thoả hiệp nhau như thế nào, để đưa đến Tuyên Ngôn Độc Lập rồi thống hợp 13 tiểu quốc/bang để thành một Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với một hiến pháp và các quyền tự do trong tu chính một đến mười kèm theo ngay sau đó.
Theo giáo sư chính trị học nổi tiếng Graham Allison, người đã đặt tên "bẫy Thucydides", thì các nhà lập quốc Hoa Kỳ hiểu rất rõ rằng xây dựng một chính quyền mà trong đó các công dân tự do của mình có thể tự quản trị là một đảm nhận nguy hiểm và bất định [1]. Trong những câu hỏi khó khăn nhất mà họ phải đối diện là làm thế nào cấu tạo một chính quyền đủ mạnh để đảm bảo các quyền công dân ngay trên nước mình, đồng thời bảo vệ họ từ những kẻ thù bên ngoài, nhưng không quá mạnh đến độ nó lạm dụng sức mạnh của nó.
Giải pháp của họ không chỉ là sự phân chia quyền lực (separation of power) của nhà nước thành các định chế/nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp, mà còn là "các định chế phân lập chia sẻ quyền lực" (separated institutions sharing power). Theo Richard Neustadt thì hiến pháp là một sự mời gọi để đấu tranh nhau (invitation to struggle). Các tổng thống, thành viên quốc hội (dân biểu và thượng nghị sĩ), thẩm phán và ngay cả các ký giả/nhà truyền thông đã đấu tranh nhau kể từ đó và sẽ không bao giờ chấm dứt. Tiến trình này không có nghĩa/được xem là tốt đẹp (not meant to be pretty). Thẩm phán tối cao pháp viện của Hoa Kỳ Louise Brandeis đã giải thích với những người bực bội về những sự chậm chạm, đình trệ và kể cả ngu xuẩn đối với những sự kiểm tra và cân bằng này thỉnh thoảng đưa đến, rằng mục đích của các nhà lập quốc Hoa Kỳ là "không phải để đề cao hiệu năng mà là để ngăn chặn sự áp dụng quyền lực một cách tuỳ tiện".
Cho nên ngay từ ban đầu, sự thử nghiệm của Hoa Kỳ đối với nền tự trị luôn luôn là công việc tiếp diễn không ngừng. Nó đã đưa đến thất bại không chỉ một lần, cuộc nội chiến. Thời Abraham Lincoln, ông từng đặt câu hỏi : "có thể một quốc gia, hay bất cứ quốc gia nào được hình thành, … có thể tồn tại lâu dài được chăng". Nó không phải là một câu hỏi nghe cho vui. Nhưng lập đi lập lại, và phần lớn rất kỳ diệu, Hoa Kỳ đã chứng minh khả năng đổi mới và tái tạo. Allison biện luận rằng qua kinh nghiệm đau đớn này, điều bắt buộc tái diễn đối với các lãnh đạo Hoa Kỳ là phải chứng minh được rằng chủ nghĩa cấp tiến (liberalism) có thể tồn tại ít nhất tại một quốc gia.
Trump là một thách thức cực lớn không phải chỉ cho nền trật tự thế giới hiện nay mà còn cho chính nền dân chủ tại Hoa Kỳ hôm nay. Trump đặt vấn đề về tính chính đáng của các thẩm phán liên bang, không tỏ vẻ tôn trọng Hiến pháp hay nền pháp trị, và nhất là tấn công vào truyền thông, vân vân…
Trong nền dân chủ cấp tiến (liberal democracy), truyền thông được xem là đại tứ quyền, ngoài tư pháp hành pháp và lập pháp. Không phải truyền thông nào cũng nói sự thật. Thật ra, một cách tốt nhất (at best), truyền thông nào cũng chỉ nói một hay nhiều phần sự thật, dù với thiện ý để đi tìm hoặc phơi bày sự thật đi nữa. Họ đều có giới hạn, hoặc là vì khả năng, nhân sự chuyên môn, quan điểm chính trị, hay vì tài lực v.v… Người đọc, do đó, cần phải đọc với cặp mắt phê phán chứ không nên tin răm rắp những gì truyền thông, ngay cả các cơ quan uy tín nhất đi nữa, nói/viết. Nhưng nếu truyền thông không được tự do trong việc truyền tải thông tin và nhận định của họ thì quốc gia và xã hội đó chắc chắn sẽ trở thành độc đoán và độc tài, không sớm thì muộn.
Winston Churchill xem việc than phiền về truyền thông cũng chẳng khác gì than trách thuyền trên biển gặp phải sóng. Vậy mà Trump không biết bao nhiêu lần gọi các cơ quan truyền thông không cùng quan điểm với mình là "kẻ thù của người dân Mỹ", và là "giả", đủ mọi thứ giả [2]. Tin giả, chuyện giả, truyền thông giả, thăm dò ý kiến giả v.v… Tuy thế, tôi tin rằng hiện tượng Trump đã (hay sẽ) làm cho Hoa Kỳ, nhất là giới ưu tú, thức tỉnh để từ đó góp phần giúp Hoa Kỳ hồi phục và trở thành vĩ đại trở lại. Ít ra là phục hồi và củng cố nền dân chủ đang có nhiều vấn đề hiện nay.
Những ai quan tâm đến tình hình Việt Nam, cho cuộc vận động dân chủ hiện nay và cuộc xây dựng nền tảng dân chủ cho đất nước mai sau, với tinh thần cầu tiến và khách quan, có thể học hỏi nhiều từ những đấu tranh không ngừng giữa mọi thành phần xã hội và chính trị tại Hoa Kỳ. Chúng ta cũng có thể học hỏi được rất nhiều từ công cuộc vận động dân chủ thành công lẫn thất bại khắp nơi trong các thập niên qua. Và cũng có thể học được rất nhiều từ các nhà lập quốc Hoa Kỳ, qua tư tưởng, chiến lược, chính sách và kế hoạch thời đó. Đặc biệt là qua nỗ lực xây dựng các định chế nhà nước của họ. Đó là những nỗ lực không ngừng, tái kiến thiết tái xây dựng và tái hoàn chỉnh. Bởi chỉ khi nào chúng ta nghĩ một vấn đề gì đó đã hoàn chỉnh thì mới không còn cố gắng hoàn chỉnh nó. Nhưng mọi sự do con người làm ra đều không hoàn chỉnh. Bản chất con người là không hoàn hảo hay hoàn thiện. Mỗi thời đại lại có ý tưởng mới. Hiểu được như thế chúng ta không kiêu ngạo và không an phận.
Mỗi thế hệ họ tự thấu hiểu và tự điều chỉnh lấy các vấn đề xã hội và các thử thách đối diện. Để làm được việc đó, mỗi công dân trong xã hội cần được trang bị kiến thức cần thiết và được khuyến khích tinh thần chuẩn bị gánh vác những vai trò quan trọng cho cộng đồng và quốc gia, bằng tư duy độc lập. Chỉ khi nào người dân, nhất là những người quan tâm đến các vấn đề chung, hiểu thấu các vấn đề của quá khứ/lịch sử, của hiện tại, và có viễn kiến, tầm nhìn cho tương lai, thì mới hy vọng xây dựng được những ước mơ lớn cho chính mình và cho dân tộc mình.
Úc Châu, 16/08/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn VOA, 17/08/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Graham Allison, "The Myth of the Liberal Order ", Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018 ; trang 124-133. Allison là người nghiên cứu về cái bẫy chết người mà nhà sử học Hy Lạp Thucydides đã nhận diện và giải thích. Đó là sử trổi dậy của Athen và mối lo sợ của Sparta đã làm cho chiến tranh hai bên không thể tránh được. Xin đọc Graham Allison, "The Thucydides Trap ", Foreign Policy, 9 June 2017. Allison nghiên cứu lịch sử 500 năm qua và kết luận rằng trong 16 trường hợp tương tự như thế thì có đến 12 trường hợp dẫn đến chiến tranh. Liệu chiến tranh có xảy ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ không ? Nếu thích thì có thể tìm hiểu thêm tác phẩm của ông "Destined for war", Houghtin Mifflin Harcourt, 2017.
2. Cleve R. Wootson Jr., " ‘Not the enemy of the people’ : 70 news organizations will blast Trump’s attack on the media ", The Washington Post, 12 August 2018.
Người Việt, phần lớn, và hình như đa số người Á Đông cũng thế, không thích ai tham vọng, và quan ngại những người có tham vọng lớn, dù người đó tài giỏi mấy.
Hình minh họa.
Sự hiểu biết hay nhận thức của chúng ta về một chữ, một ý tưởng, hay một khái niệm nào đó, sẽ ảnh hưởng lên cách tiếp cận, cách suy nghĩ, cách đặt vấn đề và cách giải quyết vấn đề của chúng ta.
Tôi tò mò mở một số tự điển ra để tra chữ tham vọng, thì thấy cách hiểu hay nhận thức của người Việt về tham vọng là phần lớn mang đầy tính tiêu cực, như đã nói trên. Kiểu như tham vọng là "lòng ham muốn quá mức, quá tham, cao hơn những gì mình có thể đạt", hay là "lòng ham muốn, mong ước quá lớn, vượt quá xa khả năng thực tế"… Dùng Google để truy tìm thì cũng thấy đa số mang định nghĩa khá tiêu cực hay hạn hẹp.
Phải chăng vì trong mắt họ, những người tham vọng là tham lam, và tham quá cái mức mà họ có khả năng với tới, nên ảo tưởng, nên thường là xấu và gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực về sau ? Phải chăng trong các xã hội vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng Giáo, tham vọng là thể hiện cái tôi, cái chủ nghĩa cá nhân "xấu xa", là cái không hề được khuyến khích hoặc chấp nhận trong một tập thể hay một quốc gia như thế ? Phải chăng vì quan niệm như thế nên bất cứ ai có chút tham vọng vươn lên thì đều bị kéo xuống hoặc bị đẩy qua bên ?
Có phải vì thế mà những người có tham vọng trong xã hội đó thường phải dấu kín nó ? Có khi họ phải đóng kịch, phải tỏ vẻ khiêm cung, phải luồn lách suốt một thời gian dài, nhưng trong thâm tâm và thầm kín, họ vẫn có những tham vọng lớn. Những người có tham vọng lớn mà lại sử dụng các phương pháp trí trá nhất để qua mắt bao nhiêu người để trèo lên đến đỉnh cao quyền lực thì lại còn nguy hiểm hơn rất nhiều. Con đường họ phải đi qua để bước lên được đỉnh cao đó khó thể nào cho họ cái nhìn tích cực hay nhân bản để hành động như thế về sau này.
Theo tôi, đã đến lúc chúng ta phải thay đổi nhận thức về tham vọng. Đất nước Việt Nam không thiếu nhân tài, nhưng thiếu những giá trị nền tảng, thiếu những suy nghĩ tích cực và cấp tiến, và thiếu những cơ chế và định chế thích hợp, để khuyến khích, nâng đỡ và hỗ trợ cho những cá nhân có ước mơ, có tầm nhìn và có những tham vọng lớn để trở thành những nhân cách lớn ở tầm quốc gia và quốc tế. Theo tôi thì càng nhiều người càng tham vọng lớn càng tốt cho tình hình đất nước hiện nay.
Tôi mới tình cờ đọc được một chia sẻ của ông Chủ tịch tập đoàn Tôn Hoa Sen Lê Phước Vũ với 1200 sinh viên Cao đẳng năm 2016, trong đó ông có nói về tham vọng, tuy ở khía cạnh tích cực hơn. Ông nói : "Theo tôi, tham lam thuộc về ý nghĩa mang tính cá nhân, tham vọng vì lợi ích của nhiều người, của cộng đồng…", nên "tôi khuyên các bạn hãy là người tham vọng chứ đừng tham lam" [1].
Không rõ các bạn sinh viên Việt Nam này nghĩ gì về lời khuyên của ông Vũ. Tuy mang tính tích cực hơn, như một lời khuyên hơn là một định nghĩa, tôi cho rằng nó không đủ chiều rộng và chiều sâu. Tham lam và tham vọng đều có thể mang tính cá nhân, tập thể hay cộng đồng. Nhưng tập thể, cộng đồng, hay ngay cả quốc gia, cũng do một số cá nhân lãnh đạo, và khi họ lại độc tôn, độc quyền và độc tài, cái tham lam hay tham vọng được thể hiện chưa hẳn là sự tổng hợp của các cá nhân trong tập thể đó là phần chính là sự phản ảnh của những cá nhân đó nhiều hơn. Tập Cận Bình và phe diều hâu trong Đảng cộng sản Trung Quốc với giấc mộng bá quyền hiện nay là một thí dụ [2].
Trong khi đó, định nghĩa "ambition" trong tự điển tiếng Anh như Oxford, chẳng hạn, là "một ham muốn mạnh mẽ để làm hoặc để đạt một cái gì đó", hoặc "ham muốn và quyết tâm để đạt được sự thành công". Đi xa hơn, các nhà tâm lý học định nghĩa tham vọng là "thứ nhất, ham muốn thành công, và thứ hai, động cơ và quyết tâm để phấn đấu đạt được ngay cả khi đối mặt với nghịch cảnh và thất bại" [3]. Thời cổ Hy Lạp, các triết gia Plato hay Aristotle cũng đã bàn nhiều về những đề tài này. Tất nhiên vẫn có người nghĩ tham vọng là một hình thức tham lam, cho cá nhân nhiều hơn cho cái tốt của số đông. Trước thế kỷ 16, nó được xem như những tính xấu cùng với tự hào/phụ (pride), kiêu căng, hư vinh, những điều không thích hợp đối với vinh dự [4]. Nhưng cái suy nghĩ của thời nay, nhất là của các nước dân chủ tiến bộ, đã thay đổi hoàn toàn quan niệm về tham vọng.
Xã hội Tây phương nói riêng, và mọi xã hội/văn hóa nói chung, phát triển vững ổn nhờ đại đa số cá nhân trong xã hội đó phấn đấu, và tham vọng. Một xã hội mà càng có nhiều cá nhân có tham vọng lớn, được xã hội đó khuyến khích và hỗ trợ, thì sự vận động và chuyển động của xã hội càng mạnh mẽ. Ngược lại khi người dân thiếu động cơ, thiếu tham vọng để vươn lên, cho mình hoặc cho tập thể mình phục vụ, thì đó là điều rất đáng quan ngại.
Trong xã hội phát triển lành mạnh, những người có tham vọng lớn thường vì nhiều nguyên do hay động cơ khác nhau. Trên hết là cho bản thân họ, với hoài bão để chiếm một địa vị, một danh vọng, một chỗ đứng, hay vì quyền lợi, quyền lực (hay ảnh hưởng) nào đó, cho mình và/hoặc để thay đổi xã hội. Cũng có người có tham vọng cho để mang lại những giá trị cao cả nào đó, như tự do, dân chủ và nhân quyền. Cũng có người có tham vọng lớn vì công lý, vì công bằng xã hội, vì môi trường sống, vì thương yêu thú vật v.v… Adam Smith, cha đẻ của chủ nghĩa tư bản, cho tư lợi (self-interest) là động cơ lớn nhất trong hoạt động kinh tế. Tuy không phải động cơ nào cũng ích kỷ, tính toán, nhưng điều rõ ràng là người có tham vọng lớn thường nghĩ đến những mục tiêu cụ thể để họ nhắm đến và quyết tâm thực hiện để mang lại quyền lợi, quyền lực hay tiếng tăm cho chính mình cũng như làm hãnh diện cho gia đình mình, tập thể mình, quốc gia mình.
Hầu hết những người có tham vọng cao, dù cho chính cá nhân họ, vẫn có tinh thần xã hội, cộng đồng, quốc gia rất cao. Bởi họ hiểu rất rõ rằng không bảo vệ nền tảng chung, nguyên tắc chung, giá trị chung, thì mọi thứ đều có thể bị đảo ngược, và họ sẽ không thể đứng vững lâu dài. Nói khác đi, ngay cả khi họ ra sức bảo vệ cái chung, đó là vì họ muốn bảo vệ cái riêng, cái không gian và quyền lợi riêng của họ.
Suy nghĩ như thế không có gì sai trái hay tiêu cực, mà ngược lại, xã hội Hoa Kỳ hay Úc đều vận hành như thế. Và hầu như các quốc gia dân chủ tiến bộ đều vận hành như thế (ngoại lệ có lẽ là Nhật Bản, phần nào đó, có các đặc tính văn hóa rất khác). Từ nhỏ đến lớn, từ mọi địa hạt như giáo dục, thể thao, nghệ thuật, chính trị, lãnh đạo, v.v… đều được khuyến khích như thế. Mọi người, kể cả các sinh viên học sinh từ khi còn nhỏ, đều được khuyến khích có nhiều tham vọng và bày tỏ nó qua hành động cụ thể của mình [5].
Có một điều lạ. Ở những xã hội mà suốt ngày cứ đòi hỏi người khác bỏ đi cái tôi, phải phục vụ tập thể, cộng đồng và đất nước, hay phải yêu nước v.v… thì cái xã hội đó không những không tiến bộ mà còn chậm tiến, độc đoán, độc tài. Nó còn tạo cơ hội và môi trường cho bao nhiêu những cá nhân tham nhũng và ích kỷ ngồi trên đầu trên cổ người dân.
Theo tôi thì đất nước Việt Nam hiện nay cần rất nhiều cá nhân tham vọng lớn. Tốt cho cá nhân, cho tập thể, thì cũng sẽ tốt cho cộng đồng, cho đất nước. Không có ước mơ, hoài bão, ham muốn thay đổi xã hội mà cứ chấp nhận hiện tại, dù hiện tại có hoàn hảo mấy đi chăng nữa, thì xã hội đó không thể tiến được. Trong khi đó cái hiện thực xã hội Việt Nam có quá nhiều vấn đề.
Sự vận động không ngừng của xã hội, cũng như sự thay đổi do các tác động bên ngoài về mặt kinh tế/thương mại, ngoại giao, chính trị quốc tế, đặc biệt là do tác động của cuộc cách mạng công nghệ bốn, và những thử thách cũng như cơ hội lớn lao do những thay đổi này tạo ra, cho thấy nhu cầu cấp thiết cho một thế hệ lãnh đạo mới có viễn kiến và tài năng để lèo lái con thuyền quốc gia. Thay vì sợ hay quan ngại những người có tham vọng lớn, cái tư duy chiếm đa số hiện nay, thì nên khuyến khích mọi người trong xã hội có những tham vọng lớn. Vấn đề lo ngại họ trở thành độc đoán, độc tài hay chỉ biết lo cho quyền lực/lợi của mình là điều không cần thiết. Bởi tâm lý lo ngại không giải quyết được điều gì mà chỉ cản trở sự vươn lên một cách tích cực và bình thường của xã hội.
Tại các quốc gia dân chủ, các cơ quan nhà nước, các định chế chính phủ cũng như phi chính phủ, các doanh nghiệp tư và công, và các thành phần xã hội dân sự, hầu như đều có một số giá trị chung nào đó cũng như các nguyên tắc đạo đức và hành xử (code of conduct/ behaviour or ethics) để tất cả tôn trọng và noi theo. Tất nhiên các nguyên tắc và giá trị chung này đều phải hợp hiến và hợp pháp. Một cá nhân nào đó, dù tham vọng đến mấy và đạt đỉnh cao mấy, cũng không thể tồn tại nếu tiếp tục có những hành xử vi phạm đến các nguyên tắc và giá trị như thế, trừ phi cơ chế đó bị hư hỏng toàn bộ, điều mà rất hiếm khi xảy ra trong nền dân chủ pháp trị. Nói tóm lại, điều cần thiết là làm sao các hiến pháp, luật pháp và cơ chế vận hành của guồng máy xã hội đó được thiết kế một cách hiệu quả để ngăn ngừa sự lợi dụng hay lạm dụng của bất cứ một cá nhân hay tập thể/đoàn nào không xảy ra. Để người ta không trở thành độc quyền (monopoly) trong một lĩnh vực nào đó, chẳng hạn như truyền thông, hoặc không độc tài, chẳng hạn như chính trị.
Thay vì kìm hãm sự phát triển cần thiết và tự nhiên của mọi người, nhất là những người có tài, đam mê và ham muốn mãnh liệt để vươn lên tầm cao của đất nước và của thế giới, đã đến lúc phần lớn người Việt cần phải thay đổi quan niệm về tham vọng để đất nước có thể có những cá nhân và những lãnh đạo thật sự tài năng để phục vụ tối đa trong khả năng và vai trò mà họ có thể đóng góp hiệu quả nhất. Mọi thay đổi, trước hết, phải đến bằng ý thức, tư duy, rồi mới đi đến các hành động thiết thực khác để xây dựng một văn hóa tích cực hầu mang lại kết quả tốt đẹp lâu dài.
Úc Châu, 06/08/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 06/08/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Bài phát biểu của Chủ tịch tập đoàn Tôn Hoa Sen : "Hãy là người tham vọng chứ đừng tham lam", FPT Polytechnique, 21/09/2016.
2. Michael Pillsbury, "The Hundred Year Marathon", Henry Holt and Company, February 2015.
3. Neel Burton, "Is Ambition Good or Bad ? ", Psychology Today, 16 November 2016.
4. Liah Greenfeld, "Modern Emotions : Aspiration and Ambition ", Psychology Today, 28 April 2013.
5. Hilary Levey Friedman, "Measuring Ambition in Today’s Youth ", Psychology Today, 3 July 2013.
Tôi đã có dịp coi phim tài liệu “Mẹ Vắng Nhà” do VOICE thực hiện, Clay Pham đạo diễn.
Tôi được biết phim này sẽ được chiếu rộng rãi tại Úc và nhiều nơi khác trong thời gian tới.
Mẹ Nấm cùng hai con phản đối Trung Quốc đem giàn khoan HD-891 vào vùng biển chủ quyền của Việt Nam.
Những ai chưa có dịp xem phim này nên dành chút thời gian đến xem và tìm hiểu. Nếu đã xem rồi, như tôi, thì vẫn nên tới, nếu có thể. Không phải để xem lần nữa, đối với tôi. Tôi tự biết cảm xúc của mình. Tôi thấy khó cầm lòng khi nhìn cảnh mẹ của Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, bà Nguyễn Thị Tuyết Lan, vì tình thương dành cho mẹ, con và cháu của mình, mà phải gánh trên vai những trách nhiệm và những áp lực nặng trĩu oằn lên người. Bà Tuyết Lan phải vừa lo cho người mẹ của mình và hai cháu Nấm và Gấu từng ngày từng giờ, rồi lo cho sinh mạng của con mình đang ở trong tù, nhất là khi Như Quỳnh bị đối xử thâm độc đến mức phải tuyệt thực một thời gian dài. Coi các cảnh này tôi dễ bị bức xúc. Nó cũng làm cho tôi liên tưởng đến những tháng ngày Mẹ tôi vừa phải vất vả nuôi đàn con 10 đứa, vừa phải đi thăm nuôi ba tôi, trong cảnh cùng quẫn của một xã hội bị đảo ngược hoàn toàn sau 30 tháng Tư năm 1975. Hàng trăm ngàn gia đình Việt Nam cũng trong hoàn cảnh đó, không khác gì gia đình tôi.
Hơn bốn thập niên sau, xã hội Việt Nam đã thay đổi nhiều. Nhưng những cảnh trái ngang như thế vẫn đầy dẫy. Tại sao vô lý đến như vậy ?
Tôi sẽ đến những nơi chiếu tại địa phương nếu có thể, không phải để xem, nhưng để bày tỏ sự cảm thông và lòng cảm phục vô hạn đối với bà Tuyết Lan, đối với Như Quỳnh, và tất cả những ai đang làm một cái gì đó, dù nhỏ nhoi đến mấy, để cùng góp một bàn tay, mang lại những thay đổi tích cực, cần thiết nhưng cũng vô cùng gian khó, hiện nay và sắp tới.
Hiện nay vẫn có những xã hội đầy dẫy bất công, không chỉ riêng gì Việt Nam. Sự bất công áp bức, khi đã ngự trị qua một thời gian dài, sẽ có những tác động vô cùng tiêu cực lên xã hội. Nó làm cho con người trở nên nhỏ mọn, ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình, bởi vì không ai bảo vệ được họ. Những người can đảm dám đứng lên bảo vệ người khác thì lại bị chế độ đàn áp, tù đầy hay bị áp lực tứ bề. Chúng ta cần thương hơn là trách móc. Lỗi không phải từ người dân. Không phải ai sinh ta cũng để làm anh hùng, và không biết sợ. Trong xã hội bất bình thường như Việt Nam, sợ là hậu quả của chính sách cai trị hà khắc, có chủ đích, kéo dài hơn bốn thập niên qua trên toàn nước, và được thi hành và củng cố bởi một bộ máy an ninh khổng lồ ; các cơ chế và định chế khác của nó cũng không nằm ngoài mục đích đó.
Nhìn như thế, chúng ta càng thấy thương và cảm phục cho tất cả những ai đang khao khát tự do, độc lập và dân chủ, và đang góp phần thực hiện các mục tiêu này. Họ hiểu rõ rằng không có các giá trị này thì nhân phẩm không hề hiện hữu, và sống chẳng khác gì trong một nhà tù lớn, dù không có bốn bức tường chung quanh. Nhưng họ lại vô cùng cô đơn. Họ quả đúng là thành phần “phản động”, dám lội ngược giòng. Nhưng phản động đối với cường quyền và độc đoán để trở thành văn minh và tiến bộ thì là chuyển động. Tại sao không ?
Coi phim này để thấy rằng cả một chế độ như thế mà lại đi làm những việc vô cùng hèn hạ, nhục nhã đối với gia đình bà Tuyết Lan. Chẳng hạn như thường xuyên sai người ném vào nhà bà nào gạch, nhớt, nước tiểu, phân vv... Nói chung là cực kỳ nhỏ nhen, ti tiện.
Tôi hy vọng phim này cũng sẽ được người ngoại quốc xem, càng nhiều càng tốt. Nếu được nên dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau ngoài tiếng Anh. Hy vọng nó sẽ được các đài truyền hình quốc gia trên khắp thế giới trình chiếu trên đài của họ.
Nên nhớ rằng một người bị hành hạ, ngược đãi, mà không ai lên tiếng, thì bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của hệ thống cai trị như thế.
Trên hết, tôi hy vọng người Việt, trong và ngoài nước, sau khi coi phim này, làm một số cử chỉ nhỏ, trong tầm tay mình, không có gì là nguy hiểm cả, để hỗ trợ cho bà Tuyết Lan, Như Quỳnh, và bao nhiêu người khác đang bị ngược đãi tại Việt Nam.
Một, quảng bá rộng rãi phim này đến người thân, bạn bè, đồng nghiệp, các người bạn ngoại quốc hay chính giới, khi các phim này có phụ đề bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh. Ngoài ra, chúng ta tìm cách gọi về Việt Nam, đặc biệt bạn bè thân nhân mình quen biết, khuyến khích họ coi phim này khi được phổ biến rộng rãi trên YouTube, chẳng hạn.
Hai, khuyến khích những người sống ở gần gia đình bà Tuyết Lan cùng rủ nhau vào một ngày nào đó, mỗi người mang một bông hồng hay một biểu tượng gì đó, một nơ trắng, chẳng hạn, mang đến cài trước nhà bà. Hành động cảm thông, đoàn kết này không những làm kích lệ gia đình bà Tuyết Lan mà còn bao nhiêu tấm lòng đang ấp ủ chung một giấc mơ Việt Nam tươi sáng.
Tất nhiên chế độ sẽ tìm cách phá mọi nỗ lực liên kết và đoàn kết, mọi biểu tượng, ý chí hay hành động của người quan tâm. Nhưng đánh phá phương thức đấu tranh bằng biểu tượng tinh thần như thế không phải dễ. Hãy sẵn sàng để chụp hình quay phim hầu đưa các hình ảnh này đi khắp thế giới.
Ba, nhiều phong trào đấu tranh thành công trên thế giới đôi khi thu gọn lại trong một biểu tượng đoàn kết, trong đó có những con người tưởng mỏng manh yếu đuối nhưng thật ra là vô cùng kiên trì quyết tâm. Gia đình bà Tuyết Lan là một biểu tượng như thế. Cho nên quyết tâm đấu tranh để Như Quỳnh được về với mẹ, bà Tuyết Lan, để có cơ hội báo hiếu cho mẹ, và quyết tâm để Như Quỳnh được về với Nấm với Gấu, để chu toàn bổn phận làm mẹ, thì không còn lý do nào chính đáng hơn, ý nghĩa hơn, và vĩ đại hơn.
Hãy làm sao hàng vài ngàn, rồi vài chục ngàn người, rồi hàng trăm ngàn người, thường xuyên đi đến cài bông hồng hay nơ trắng lên nhà bà Tuyết Lan. Không cần nói ra, các biểu tượng này cũng có nghĩa hãy trả tự do cho Như Quỳnh vậy.
Tại sao gia đình bà Tuyết Lan là biểu tượng đấu tranh hiện nay ?
Ngoài sự hy sinh và dấn thân của Như Quỳnh, gia đình bà Tuyết Lan là bốn thế hệ phụ nữ Việt Nam. Họ không hề yếu đuối. Họ chính là biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc đằng sau hàng ngàn năm giữ nước của người Việt.
Bà ngoại, tức bà cố của Nấm, nay đã mất. Nhưng trong lúc thực hiện phim này, bà không còn đi đứng được nữa, không nói được nhiều, ngồi xe lăng suốt ngày. Nhưng qua vài câu ngắn ngủi, chúng ta hiểu được hai điều : một, tuy các việc làm của Như Quỳnh gây mọi thứ khó khăn cho gia đình, trong mắt bà ngoại, Như Quỳnh là người con (cháu) ngoan, giàu tình thương người, luôn giúp đỡ người khác mà bà tỏ vẻ tự hào ; hai, Như Quỳnh không làm gì sai hay mất mặt gia đình cả.
Bà Tuyết Lan cũng nhìn Như Quỳnh như thế, qua các đoạn trong phim hay qua các cuộc đối thoại trực tiếp sau khi chiếu phim. Bà luôn khẳng định Như Quỳnh không làm gì sai cả.
Có lẽ vì bà ngoại và mẹ mình có tinh thần và niềm tin như thế nên dù khó khăn vô vàn, Như Quỳnh vẫn mạnh mẽ. Vẫn không chùng bước. Vẫn kiên trì suốt bao nhiêu năm qua cho đến khi bị bắt và bỏ tù.
Còn Nấm ? Nấm không nói nhiều. Nấm có vẻ cô đơn, ở trường cũng như ở nhà. Nhưng với niềm tin và tinh thần mạnh mẽ như thế từ ba thế hệ trước mình, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu sau này Nấm sẽ là con người kiên cường, hiên ngang, dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải và sự thật.
Lúc đi thăm mẹ, cho đến giờ phút cuối, sau khi phải thương lượng với nhóm cai quản để được “khoan hồng”, thì mẹ con mới được ôm nhau một chút. Có thể nói đây là hình ảnh tiêu biểu nhất nói lên được bản chất thật sự của chế độ cầm quyền hiện nay. Những ai đã từng đọc “Đại Học Máu”, “Trại Đầm Đùn”, “Tôi Phải Sống” v.v… đều hiểu được cuộc sống trong tù cộng sản như thế nào. Dưới chế độ phong kiến, quân chủ hay thực dân, trẻ con đi thăm cha hay mẹ của mình trong tù có bị đối xử như thế không thì tôi không rõ. Nhưng chính sách đối xử tù nhân của cộng sản, nhất là tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm, thì có lẽ không có một chế độ tù nào tàn bạo và ác độc hơn. Tình mẫu tử thiêng liêng và bao la như thế mà sao họ có thể lạnh lùng đến mức đó ! Như Quỳnh đâu có làm gì để phải bị xem như kẻ thù truyền kiếp, trong khi kẻ thù truyền kiếp thì họ lại coi còn hơn “16 chữ vàng”.
Cho nên qua bộ phim này, qua những con người thật việc thật, nó lại phơi bày hết bản chất và lột trần hết những tuyên truyền bóp méo lịch sử mà chế độ đã nỗ lực gần chín thập niên qua từ khi họ rước chủ nghĩa tai họa này để dán lên đầu dân tộc Việt Nam.
Sợ là một phản ứng tâm lý. Con người phải biết sợ thì mới xây dựng sự an toàn và an ninh tối đa cho mình trước những nguy hiểm đe doạ đến tính mạng, đến sự sống còn. Cho nên sợ có cả hai đặc tính chủ quan và khách quan. Sợ chủ quan là đánh giá không đúng đối tượng nguy hiểm, phần lớn là sợ quá để rồi nó lấn át cả lý trí của mình. Mọi chế độ độc tài đều muốn người dân của mình phải sợ như thế. Sợ khách quan là đánh giá đúng đối tượng nguy hiểm của mình, biết dùng lý trí để nhận định đúng mối nguy nằm ở đâu, cũng như nguồn gốc và nguyên do của nó.
Khi chính người dân nhận ra được rằng sợ, nhất là cái sợ chủ quan, không bổ ích mà còn lắm độc hại, thì đó là mốc điểm của sự chuyển hoá. Suy nghĩ lúc đầu như thế có thể làm người ta bất an, nhưng tập dần một thời gian, người ta sẽ nhận ra rằng nó thật sự tốt cho sức khoẻ, nhất là sức khoẻ tinh thần. Khi tin tưởng rằng mình có đủ khả năng để đối phó với cái sợ vô lý, đối phó với cái ác và cái bất công, để có một cuộc sống thật sự an toàn hơn thay vì những điều dối trá, điêu ngoa, thì não trạng của họ sẽ thay đổi. Đến lúc đó thay đổi sẽ đến.
Trước mắt, bốn thế hệ phụ nữ trong gia đình mẹ Nấm chẳng thấy họ sợ gì ngoài chân lý và lẽ phải.
Úc châu, 27/07/2018
Nguồn : VOA, 27/07/2018
Về bạo lực, tôi nghĩ đến ba điều chính : một, nguồn gốc ; hai, tiến hóa ; ba, chuyển hóa.
Will Nguyễn bị kéo trên đường phố Sài Gòn trong một cuộc biểu tình.
Nguồn gốc của bạo lực có từ thời tiền sử, thời ăn lông ở lỗ, từ lúc con người hiện hữu trên thế gian này. Con người là một động vật, như bao động vật khác, nhưng thông minh hơn và bạo lực hơn nhiều. Để chống chọi với thiên nhiên đầy hiểm nguy và bạo lực chung quanh, trong đó có các loài thú dữ tợn hơn rình rập mọi lúc, cũng như với các gia đình hay bộ tộc khác (hay về sau này quốc gia hay liên quốc gia) luôn cạnh tranh và đe dọa, con người thời đó không có sự chọn lựa nào khác hơn là dựa vào sức mạnh bắp thịt để sống còn. Họ không có khả năng và cũng không thể nói lẽ phải với người khác, cái chưa hề hiện hữu. Thành phần nào bạo lực hơn và biết tính toán để tổng hợp được sức mạnh hơn, thì có khả năng tồn tại. Bộ não của con người thời đó phát triển về mặt cảm xúc nhiều hơn lý trí. Nói tóm lại, bạo lực là đặc tính, là bản chất của con người, trước đe doạ sống còn.
Qua thời gian, qua quá trình tiến hóa, con người trở nên "văn minh" hơn. Họ biết kết đoàn và liên minh để tổ chức làm việc, để cùng nhau xây dựng những nền tảng chung, luật lệ chung, về mặt vật chất và tinh thần, hay nói chung là nền tảng giá trị và quyền lợi chung, để cùng nhau bảo vệ những hiểm họa có thể đe dọa đến sự sống còn không phải chỉ cho cá nhân, gia đình hay bộ tộc họ, mà còn cho dân tộc, đất nước họ đang sống. Họ biết học hỏi những cái hay cái mới, và biết rút tỉa kinh nghiệm từ những thất bại trong quá khứ. Qua thời gian bộ óc con người phát triển hơn về mặt lý trí, lý luận, từ đó giúp họ suy nghĩ khoa học hơn. Có tiếng nói, có ngôn ngữ, có chữ viết v.v… để truyền đạt thông tin, để "truyền thông" nhau, nên hiểu nhau nhiều hơn, và hiểu lầm ít hơn, tránh bớt những xung đột bạo lực không cần thiết. Những điều này phần lớn chỉ xảy ra trong vòng bốn đến năm ngàn năm nay thôi. Tức là từ khi chúng ta gọi chung là có văn minh. Trước đó nó không được như vậy.
Tuy thế, những hiểm nguy và mối đe doạ đối với con người vẫn hiện hữu, ở mức độ và tốc độ khác nhau. Càng thông minh, con người càng chế ra bao nhiêu vũ khí và dụng cụ khác nhau để tiêu diệt nhau và tiêu diệt hàng loạt. Tâm lý sợ hãi của con người văn minh cũng khác, nhất là khi người ta phải nghe, thấy hoặc đọc từ vô số nguồn thông tin "tiêu cực" tràn ngập từ trong nhà ra đến ngoài xã hội. Do đó nỗi sợ hãi và bất an trước những thay đổi to lớn vẫn lấn át bộ não. Khi bị chỉ trích, khiêu khích hay đe dọa tính mạng, phần của não có tên là amygdala, đóng vai trò như cái chuông trong bộ não, nhận diện mối đe dọa như sống chết, nên la lên cần phải "chiến đấu hay chạy trốn" (fight or flight response). Trong tình trạng đó, Amygdala chiếm cứ phần cao trung của bộ não, điều khiển "hành động trước, suy nghĩ sau", và đóng băng phần não chịu trách nhiệm về lý luận phân tích. Qua thời gian, bộ não được cài đặt chương trình như thế, và vận hành như thế, một cách vô ý thức [1].
"Chiến đấu hay chạy trốn" - Ảnh minh họa
Mặc dầu trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc chiến tranh lạnh cũng như bao nhiêu cuộc nội chiến, tàn sát và diệt chủng ở mức độ tàn khốc diễn ra trong thế kỷ 20, mức độ bạo lực tổng thể đã gia giảm đáng kể so với trước đây, đặc biệt là từ sau Chiến tranh Lạnh cho đến nay. Tuy thế, tính chất bạo lực vẫn tiềm ẩn trong con người, ngay cả những người đang sống trong các quốc gia văn minh hàng đầu như Hoa Kỳ, chẳng hạn. Theo thống kê năm 2015 thì có 372 vụ xả súng (mass shooting), khiến cho 475 người bị giết và 1.870 người bị thương [2]. Tính theo tỷ lệ thì số người bị giết vì súng tại Hoa Kỳ nhiều gấp 30 lần so với Anh. Từ năm 1968 đến năm 2011, có 1,4 triệu người chết vì súng, trong khi đó chỉ có 1,2 triệu người chết trong mọi cuộc xung đột từ chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ đến cuộc chiến Iraq. Các tội phạm mang tính bạo lực, từ giết người, hiếm dâm hoạc xâm phạm tình dục, cướp bóc và bạo hành, chỉ vào năm 2015 thôi, đã là 1,25 triệu vụ [3].
Bạo lực, nhất là bạo lực gia đình, là khá phổ biến trong mọi nền văn hóa. Nhưng điều oái ăm là nó lại phổ biến nhất trong những nền văn hóa đề cao giá trị gia đình. Bạo lực lại duy trì bạo lực. Cái vòng luẩn quẩn của bạo lực sẽ không có lối thoát nếu không nhìn ra được và không ý thức được phương cách giải quyết nó.
Nếu lòng tốt và sự tử tế ảnh hưởng tích cực và sâu rộng lên con người chung quanh, thì ngược lại, bạo lực mang tính truyền nhiễm nhanh và mạnh.
Theo các nghiên cứu năm 2016, thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ có khả năng lên đến 183 phần trăm gây nên bạo lực nếu một trong những người bạn của họ đã phạm tội đó [4]. Những người nghĩ đến bạo lực hay sử dụng bạo lực thường tìm đến nhau, và các mạng lưới xã hội như thế là nơi dung dưỡng bạo lực. Nghiên cứu này kết luận rằng một người tiếp xúc với bạo lực thường có nguy cơ dẫn đến bạo lực hơn là một người không bị ảnh hưởng bởi vòng truyền nhiễm này. Một khi bạo lực bắt đầu với các mạng lưới xã hội này, nó có nguy cơ lan rộng đến toàn thể thành viên trong mạng lưới. Bạo lực từ một người có khả năng ảnh hưởng lan rộng đến hai độ xa cách (bạn của bạn) như gây thương tích trầm trọng, ba độ xa cách (bạn của bạn của bạn) như sử dụng vũ khí, và bốn độ xa cách (bạn của bạn của bạn của bạn) như đánh nhau nặng nề.
Kết luận của các nghiên cứu này có thể giải thích các hành động bạo lực mang tính tập thể, từ khủng bố, các cuộc cách mạng chính trị, và những cuộc đấu đá giữa các băng đảng.
Để gia giảm hay chấm dứt bạo lực trong xã hội, nó cần phải bắt đầu từ mỗi một người, bởi một người là đã có khả năng gây nên bạo lực và lan tràn đến tất cả các thành viên trong mạng lưới xã hội đó.
Làm sao để chuyển hóa bạo lực cho một tập thể, một cộng đồng, một quốc gia ? Nhất là một quốc gia mà chế độ cầm quyền lại chủ trương dùng bạo lực để cai trị, đàn áp mọi tiếng nói phản biện ? Đề cao lý trí hơn cảm xúc là một cách, cũng như việc đề cao khả năng sử dụng trí cảm (emotional intelligence) là điều cần thiết và hệ trọng hiện nay. Ai cũng có cảm xúc, nhưng biết sử dụng nó, biết chuyển hóa những cảm xúc tiêu cực sang tích cực, chứ không tránh né nó, là phương pháp hữu hiệu. Đeo nơ trắng (white ribbon) để ủng hộ tinh thần chống lại bạo hành gia đình cũng là một cách hay để gây ý thức. Và còn bao nhiêu cách sáng tạo và độc đáo khác để nói không đối với bạo lực. Điều thiết yếu là phải ý thức được rằng bạo lực nó rất là nguy hiểm và dễ lan truyền, nó lan rất nhanh và rất mạnh. Hơn nữa, một người kiểm soát được từng suy nghĩ, lời nói và hành động của mình là điều rất khó. Khó hơn nữa là vì người đó có thể kiểm soát được mình, nhưng không kiểm soát được người khác. Và khi bị kích động mạnh thì ai có thể điều khiển được mình hay người khác, nhất là khi chưa có kinh nghiệm từng trải và chưa chuẩn bị tinh thần ?
Một số kết quả nghiên cứu trên có thể hữu dụng trong trong trường hợp Việt Nam. Trong và sau các cuộc biểu tình chống Luật Đặc Khu và Luật An Ninh Mạng vừa qua, vấn đề bạo lực một lần nữa được bàn cãi sôi nổi, nhất là trên mạng xã hội. Có nhiều người trước đây không hề cổ võ cho bạo lực, nhưng khi thấy người biểu tình bị đàn áp thô bạo, nó làm cho họ suy nghĩ lại lập trường bất bạo động như thế có thật sự hiệu quả không và đúng đắn không. Rồi cũng có những người khác nặng lời hơn cho rằng kêu gọi bất bạo động để chống chế độ phi nhân, vô pháp và tàn bạo thì là ngu đần, hèn nhát và nguỵ trá.
Thay vì phân tích chính đáng về ích lợi hay thiệt hại của bạo lực hay ôn hòa, rất nhiều người Việt thường có khuynh hướng lên án kết tội, xem mình như quan tòa, mà không dựa vào bằng chứng hay nghiên cứu khoa học. Cảm tính vẫn cứ tiếp tục lấn át các tranh luận bấy lâu nay.
Những cuộc biểu tình chủ trương ôn hòa tại Việt Nam, chẳng hạn như những cuộc quy tụ vài chục ngàn người của các tôn giáo trong thời gian qua, chứng minh sức mạnh của tinh thần và niềm tin vào lẽ phải.
Không những thế, đấu tranh bất bạo động sẽ giúp cho người đấu tranh kỷ luật hơn về tinh thần, hiểu biết hơn về lý trí, bảo toàn được lực lượng và ý thức hơn về mục tiêu đấu tranh. Chế độ cầm quyền vô cùng lo sợ sức mạnh của lẽ phải. Những người như Trần Huỳnh Duy Thức hay Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, không có đến một tấc sắt trong tay, nhưng chế độ đã kết án họ 16 và 10 năm tù. Sức mạnh của lý lẽ, của lời nói, của sự thật, tuy chưa nhưng rồi một ngày nào đó sẽ chiến thắng họng súng, lưỡi gươm.
Không còn con đường nào khác ngoài đấu tranh bất bạo động nếu muốn thay đổi Việt Nam theo chiều hướng tốt hơn. Các cuộc đấu tranh bất bạo động thành công của Mohandas Gandhi, Martin Luther King là những bài học đáng noi theo cho con đường Việt Nam. Lẽ ra Việt Nam có thể đi trước các quốc gia này, vì chúng ta có cụ Phan Chu Trinh, người cổ võ cho tri thức và bất bạo động. Nhưng văn hóa bạo lực đã thấm quá sâu vào dân tộc Việt Nam.
Đã đến lúc chúng ta cùng đồng lòng quyết tâm đề cao tinh thần ôn hòa nhưng vô úy, tinh thần bất bạo lực nhưng bất tuân phục đối với cường quyền, vì ba lý do sau đây.
Một, đối đầu với cả một hệ thống quyền lực chuyên sử dụng bạo lực để cai trị, lại đối đầu bằng tinh thần bất bạo động, thật ra là một tinh thần bất khuất, vô uý. Một người có vũ khí trong tay thì còn có thể nghĩ rằng mình tự bảo vệ được khi bị tấn công, dù lập luận hay tâm lý như thế không vững trên thực tế. Trong khi đó, một người không có gì cả ngoài tinh thần bất khuất, lại đối đầu với súng đạn, vũ khí và ngay cả cái chết trước mặt họ, quả là can trường. Những kẻ dùng vũ khí để tấn công những người này, và những người bàng quan chung quanh, sẽ rung động trước tinh thần vô uý như thế. Có thể nó không xảy ra một sớm một chiều, nhưng rồi chắc chắn tinh thần vô uý như thế sẽ lan toả để chôn vùi bạo lực.
Hai, sử dụng biện pháp bạo lực đối với cả một hệ thống quyền lực chuyên sử dụng bạo lực trong hoàn cảnh ngày hôm nay chẳng khác gì trứng chọi đá, hay đá chọi súng. Đó là cuộc đấu tranh bất cân xứng về lực lượng, giữa tỷ lệ một so với một trăm hay một ngàn. Rõ ràng những người đấu tranh có tất cả mọi lý do chính đáng để phẫn nộ, và vì sự phẫn uất chồng chất nên dễ trở thành bạo động qua các cuộc biểu tình này. Nhưng những người đấu tranh bạo động cùng lắm thì chỉ có thể thắng nhất thời, thắng trận đánh, nhưng không thể nào thắng cuộc. Họ sẽ bị nghiền nát bằng bạo lực ngay sau đó. Đó là điều dứt khoát. Như thế, cái thoả mãn cảm xúc nhất thời sẽ gây thiệt hại cho mục tiêu chiến lược lâu dài.
Ba, với sự bất cân xứng về tương quan lực lượng hiện nay, cuộc đấu tranh sẽ không đưa đến kết quả mong đợi nếu không có các thành phần khác trong xã hội nhập cuộc. Nhiều thành phần xã hội khác sẽ nhập cuộc nếu có lãnh đạo và tổ chức, và phải bằng phương pháp bất bạo động. Nghĩa là khi họ có được hy vọng là có những tổ chức chính trị đủ khả năng, tầm nhìn và phương thức đấu tranh để đem lại thay đổi, đem lại thắng lợi, nhưng ít tổn thất và xáo trộn, thì họ sẽ mạnh dạn hơn để tham gia. Đa số không muốn ủng hộ cho một thay đổi mà họ không rõ sẽ đi về đâu, hay bạo loạn và bất ổn. Xu hướng chung, và tâm lý chung, của mọi xã hội đều như thế. Lịch sử đất nước Việt Nam đã triền miên trong khói lửa, chiến tranh và hận thù, và không còn mấy ai muốn nó tiếp diễn như thế nữa. Bao nhiêu mất mát chồng chất để được gì ? Nếu chủ trương bạo động, dù có thành công đi nữa, thì khi lên nắm quyền họ có tự động chuyển hóa sang ôn hòa và dân chủ không ?
Do đó những người điều hợp và phối hợp đấu tranh hiện nay cần giữ vững niềm tin sắc son vào bất bạo động. Cương quyết, kỷ luật và không nao núng tinh thần trước bạo lực là điều rất khó. Bạo động, như đã nói trên, dễ bùng nổ và lan truyền nhanh như lửa hoang, nhất là trong xã hội và môi trường đã bị dồn nén quá lâu mà áp xuất chỉ chờ dịp bùng nổ. Cho nên nếu không giữ vững nguyên tắc và kỹ luật khắc khe về đấu tranh bất bạo động trong hàng ngũ đấu tranh thì những kẻ cầm quyền chỉ cần lý do như thế để dập tắt. Có khi chính họ tạo ra cái cớ như thế, và họ thừa khả năng và thủ đoạn để làm chuyện đó. Tất nhiên đấu tranh bất bạo động thì vẫn sẽ có đàn áp. Vẫn sẽ tiếp tục có đổ máu. Nhưng mọi cuộc đấu tranh đều theo quy trình đó. Đàn áp bằng bạo lực càng gia tăng khi càng nhiều người dân nhập cuộc cũng là lúc sự cáo chung của chế độ độc tài đang đến gần.
Úc Châu, 26/06/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 27/06/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Laura Delizonna, "High-Performing Teams Need Psychological Safety. Here’s How to Create It ", Harvard Business Review, 24 August 2017.
2. BBC, "Guns in the US : The statistics behind the violence ", BBC, 5 January 2016.
3. Statista, "Violent crime in the U.S. - statistics & facts ", The Statistics Portal, accessed on 23 June 2018.
4. Christopher Bergland, "Why Is Violence So Contagious ? ", Psychology Today, 26 December 2016.
Ngay ở trang đầu, Điều (1) quy định mục tiêu của Luật An ninh mạng là để "bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng". Nhưng đọc hết 24 trang của Luật An ninh mạng, người ta thấy ngay chủ đích của những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam là muốn bịt miệng dân Việt để họ củng cố quyền lực.
Luật An ninh mạng buộc các doanh nghiệp mạng viễn thông và Internet, các tổ chức và cá nhân phải hợp tác với cơ quan an ninh mạng của nhà nước để xừ lý những thông tin vi phạm luật.
Luật An ninh mạng để bảo vệ đảng
Điều (8) của Luật An ninh mạng liệt kê những hành vi bị nghiêm cấm một cách mơ hồ trong đó có ba điểm chính như sau :
1. Chống nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa (xã hội chủ nghĩa) Việt Nam ;
2. Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc ;
3. Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác ;
Điều (16) liệt kê những thông tin trên mạng cần phải xử lý. Những thông tin này có nội dung "tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng ; làm nhục, vu khống ; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế".
Luật An ninh mạng buộc các doanh nghiệp mạng viễn thông và Internet, các tổ chức và cá nhân phải hợp tác với cơ quan an ninh mạng của nhà nước để xừ lý những thông tin vi phạm luật.
Luật An ninh mạng buộc các doanh nghiệp mạng viễn thông và Internet trong và ngoài nước cung cấp cho Bộ Công An những thông tin về tài khoản và người dùng. Những công ty này còn có trách nhiệm ngăn chặn nhưng thông tin xấu, không cung cấp hoặc ngưng cung cấp dịch vụ cho các tổ chức và cá nhân đã đăng tải thông tin xấu. Những doanh nghiệp mạng viễn thông và Internet còn phải chịu trách nhiệm về an ninh mạng của công ty.
Những doanh nghiệp mạng viễn thông và Internet trong và ngoài nước nếu có "thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của chính phủ".
Ngoài ra, doanh nghiệp nước ngoài phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam. Như vậy, nhà nước Việt Nam đã đặt lên vai những công ty nước ngoài một gánh nặng to lớn.
Tổ chức nhân quyền Amnesty International nhận định rằng Luật An ninh mạng trên thực tế sẽ làm cho các công ty kỹ thuật nước ngoài trở thành "đặc vụ do thám cho nhà nước".
Vào tháng Tư vừa qua, một số nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam đã gửi cho ông Mark Zuckerberg, Giám Đốc Điều Hành của Facebook, một lá thư ngỏ, kết án công ty này đã hợp tác với giới chức cầm quyền cộng sản để loại bỏ một số nội dung và đình chỉ khoảng 160 chương mục chống chính phủ theo bài phúc trình của ông Dien Lương trên báo Washington Post. Vào đầu năm 2017, theo lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam, Google cũng đã loại bỏ gần 1.500 đoạn video trên YouTube trong số 2.300 đoạn video mà Việt Nam đòi hỏi.
Ông Dương Ngọc Thái, kỹ sư kinh nghiệm về an ninh mạng tại Hoa Kỳ, nhận định rằng nhà nước Việt Nam hiểu an ninh mạng như trên là sai về bản chất. Ông nghĩ rằng vấn đề an ninh mạng đặt ra cho Việt Nam là phải làm sao để các mạng và hệ thống điện toán của Việt Nam không bị tấn công. Ông cho biết trong vài năm gần đây hệ thống máy điện toán của Việt Nam đã bị xâm nhập nhiều lần. Năm 2014 chứng kiến hệ thống máy điện toán của Bộ Tài nguyên và môi trường bị tấn công vào dịp Trung Quốc kéo giàn khoan vào Biển Đông. Có nhiều bắng chứng cho thấy rằng cuộc tấn công này đến từ Trung Quốc. Vào 2016, Tien Phong Bank bị xâm nhập và mất cắp 1,1 triệu Mỹ Kim. Hai tháng sau hệ thống máy điện toán của của phi trường Tân Sân Nhất, phi trường Nội Bài và Vietnam Airlines bị tin tặc Trung Quốc phá hoại. Vào năm ngoái, hàng ngàn máy điện toán ở Việt Nam bị nhiễm WannaCry virus. Ít lâu sau hệ thống máy chủ e-mail của Bộ ngoại giao bị xâm nhập, trong khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đang viếng thăm Hoa Kỳ. Cách đây hai tháng, 75 triệu tài khoản người dùng của VNG, một công ty về trò chơi và Internet lớn nhất của Việt Nam đã bị đánh cắp.
Việt Nam cần làm luật và phát triển kỹ thuật chống lại sự xâm nhập của tin tặc như những trường hợp kể trên, bảo vệ hệ thống điện toán, điện thư, và các mạng thông tìn, chứ không cần luật và kỹ thuật để bịt miệng dân và củng cố chế độ độc tài.
Thiệt hại do Luật An ninh mạng gây ra
Trước hết chúng ta phải kể đến những cuộc biểu tình rầm rộ của người dân ở nhiều thành thị trong mấy ngày qua kể từ Chủ Nhật, 10 tháng 6 do sự phẫn uất của dân đối với Luật An ninh mạng và dự luật thiết lập đặc khu cho thuê 99 năm. Rất tiếc máu đã đổ, một số xe đã cháy, và một số công sở đã bi hư hại. Nhưng nặng nề hơn cả là uy tín của nhà nước đã bị tổn thương, một số lãnh tụ đã mất mặt, không những người dân ở trong nước mà còn đối với thế giới.
Từ những vụ Việt Nam bị chèn ép liên tiếp ở Biển Đông cho thấy sự hèn nhát của các nhà lãnh tụ cộng sản Việt Nam, rồi đến vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức phơi bày ra tính chất bất tuân luật lệ quốc tế và bản chất tham nhũng đáng kinh tởm của chế độ Hà Nội, nay lại đến biến động chính trị sâu xa ở trong nước. Một trong những lý do mà dân Việt dám đối đầu với lực lượng Cảnh sát cơ động là vì các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã bị dân chúng khinh thường.
Trong tình hình chính trị xáo trộn như vậy, thị trường Việt Nam trở nên bất ổn, môi trường kinh doanh ở Việt Nam khép kín lại và trở nên bấp bênh hơn. Các nhà đâu tư ngoại quốc sẽ phải suy nghĩ nhiều hơn về những dự tính đầu tư ở Việt Nam. Đầu tư ngoại quốc sẽ giảm ít nhất trong năm nay và năm tới. Đối với Việt Nam đầu tư nước ngoài là một động cơ chính để giúp phát triển kinh tế.
Chính Luật An ninh mạng cũng sẽ gây trở ngại cho kinh tế và thương mại của Việt Nam. Trước khi Quốc hội Việt Nam biểu quyết về Luật An ninh mạng, nhóm 13 công ty kỹ thuật nước ngoài và cả Việt Nam gồm Panasonic, Toshiba, Lazada, FPT, VNG, và Mobilfone đã gửi thư cho Quốc hội Việt Nam để trì hoãn việc bỏ phiếu về Luật An ninh mạng vì họ thấy Luật An ninh mạng sẽ gây trở ngại cho hoạt động của công ty.
Một ngày trước khi Quốc hội biểu quyết một số hiệp hội Internet Việt Nam cũng đã yêu cầu Quốc hội trì hoãn việc bỏ phiếu để nghiên cứu kỹ hơn.
Sau khi Quốc hội đã biểu quyết chấp thuận Luật An ninh mạng, ông John Rockhold đã tuyên bố với phóng viên báo Nikkei Asian Review rằng ông đề nghị Việt Nam cứu xét thêm về luật này và nên theo những điều kiện đã thỏa thuận trong Hiệp Định Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP) gồm 12 nước.
Ông Jeff Paine, Giám đốc quản trị của tổ chức Asia Internet Coalition bao gồm Apple, Facebook, Expedia, Facebook, Google, Line, LinkedIn, Rakuten, và Yahoo’s nói rằng ông rất thất vọng về việc Quốc hội Việt Nam thông qua Luật An ninh mạng. Ông cho biết thêm rằng những điều khoản về tồn trữ dữ kiện ở địa phương và kiểm soát nội dung sẽ ảnh hưởng đến quyền tự do ngôn luận và những đòi hỏi lập văn phòng địa phương chắc chắn sẽ cản trở việc phát triển kinh tế và tạo việc làm.
Một cuộc nghiên cứu vào năm 2014 của Trung tâm Châu Âu Nghiên cứu Chính trị Kinh tế Quốc tế (European Centre for International Political Economy – ECIPE) cho thấy rằng đòi hỏi thiết lập trung tâm lưu trữ dữ kiện tại địa phương và luật an ninh đối xử phân biệt những công ty nước ngoài. Ảnh hưởng về kinh tế đáng kể. Đối với trường hợp Việt Nam, tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) sẽ giảm 1,7% và đầu tư quốc nội sẽ giảm 3,1%. Nay với tình trạng chính trị bất ổn, ảnh hưởng tai hại sẽ lớn hơn.
Một trong những hậu quả trầm trọng của Luật An ninh mạng là tình trạng bưng bít thông tin sẽ gia tăng. Nó sẽ giúp cho việc đàn áp nhân quyền và tham nhũng ở Việt Nam gia tăng, vì những vi phạm nhân quyền, ăn hối lộ, thâm lạm công quỹ của các viên chức, cán bộ không bị phanh phui trên báo chí và các mạng.
Luật An ninh mạng không phù hợp với một số cam kết thương mại quốc tế
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (World Trade Organization – WTO) vào 2006. Thỏa hiệp của Việt Nam không đòi hỏi những công ty nước ngoài phải lập văn phòng hay trung tâm lưu trữ dữ kiên tại địa phương. Do đó Luật An ninh mạng trái ngược với cam kết WTO của Việt Nam. Trường hợp Hiệp ước Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu (European Unnion – Vietnam Free Trade Agreement - EVFTA) cũng vậy.
Ngoài ra, vào tháng Ba vừa qua, Việt Nam mới ký gia nhập Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn diện và Lũy tiến (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP). Theo thỏa hiệp này các công ty ngoại quốc không bị bắt buộc phải đặt văn phòng ở Việt Nam.
Kết luận
Luật An ninh mạng xâm phạm quyền tự do ngôn luận, quyền riêng tư, và quyền thông tin qua các mạng viễn thông và Internet của người dân.
Luật An ninh mạng cần được sửa đổi lại cho phù hợp với các cam kết thương mại quốc tế của Việt Nam. Trong quá khứ có những luật đã được Quốc hội thông qua, nhưng vẫn được tu sửa. Thí dụ như Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và Luật Hình sự 2018.
Hiện nay các công ty mạng viễn thông và Internet nước ngoài chưa có một phản ứng chính thức nào. Quyết định của những đại công ty này cũng sẽ có những ảnh hưởng lớn đến quyết định của chính phủ Việt Nam. Trung Quốc, một thị trường lớn và mạnh, có thể ép các công ty nước ngoài theo đòi hỏi của nhà nước. Trung Quốc có bức tường lửa. Việt Nam không làm vì muốn lôi kéo những công ty nước ngoài. Trung Quốc có Weibo và WeChat. Việt Nam cố gắng xây GoOnline.vn nhưng không thành công.
Quan trọng hơn cả vẫn là nguyện vọng của toàn dân mà chính phủ cần lắng nghe. Trước đây gặp phải sự chống đối mạnh mẽ của công nhân, chính phủ đã phải sửa lại Luật Bảo Hiểm Xã Hội.
Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ dân số dùng Internet cao. Thật vậy, hiện nay Việt Nam có khoảng 52 triệu tài khoản Facebook và số người dùng Internet khoảng 50 triệu, chiếm khoảng 54% dân số. Những người này đã thực thi quyền tự do phát biểu ý kiến trong khoảng 10 năm nay trong không gian mạng. Họ đã bắt đầu thực hiện quyền chính đáng đó trên đường phố. Nay chính phủ làm luật khóa miệng họ lại là một chuyện quá trễ.
Tôi không nghĩ rằng Việt Nam sẽ mời công ty Trung Quốc Weibo hay Wechat thay thế Google hay Facebook vì dị ứng cao độ của người Việt. Nhưng nếu những lãnh tụ cộng sản Việt Nam tiếp tục đặt quyền lợi của cá nhân và của đảng lên trên quyền lợi của dân tộc, tôi không ngạc nhiên nếu họ điên rồ không thay đổi Luật An ninh mạng.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 15/06/2018
Tham khảo :
1. Amnesty International, "Vietnam : New cybersecurity law a devastating blow for freedom of expression", June 12, 2018.
2. Dien Luong, "Vietnam wants to control media" Too late", New York Times, November 30, 2017.
3. Dien Luong, "Vietnam’s internet is in trouble", Washington Post, February 19, 2018.
4. Dương Ngọc Thái, "Thư ngỏ gửi Quốc hội về dự thảo an ninh mạng", May 31, 2018.
5. European Centre for International Political Economy, "The costs of data localization : friendly fire on economic recovery", ECIPE occasional paper No. 3, 2014.
6. Financial Times, "Vietnam cyber security law restrict Facebook and Google", June 12, 2018.
7. Freedom House, "Manipulation social media to undermine democracy", 2017.
8. Nikkei Asian Review, "Vietnam’s cybersecurity law sparks concerns from business". Ho Chi Minh City, June 12, 2018
9. Quốc hội Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, "Luật an ninh mạng", 2018/QH14.
10. Reuters, "Vietnam unveils 10,000-trong cyber unit to combat wrong views", December 26, 2017.
Năm 2049, chỉ hơn ba thập niên nữa, giấc mộng bá chủ của Trung Quốc có thể được hoàn thành, theo một trong những chuyên gia kinh nghiệm hàng đầu về Trung Quốc tại Hoa Kỳ, tiến sĩ Michael Pillsbury [1].
Số phận của dân tộc Việt Nam như cá nằm trên thớt, nhưng họ vẫn dửng dưng.
Là người từng làm việc trực tiếp với tầng lãnh đạo cao nhất trong chính quyền của Hoa Kỳ và Trung Quốc trên bốn thập niên qua, từ Richard Nixon, Henry Kissinger vào cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970 mở đường cho chính sách bình thường hóa quan hệ với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai của Trung Quốc, cho đến các giới lãnh đạo chính trị, ngoại giao và quân sự của cả hai bên mãi gần đây, ông Pillsbury đã tiết lộ nhiều bí mật quốc gia mà có lẽ chưa có cuốn sách tiền lệ nào như thế.
Cuộc chạy đua 100 năm
Trong "Cuộc chạy đua Marathon 100 năm, các chiến lược bí mật của Trung Quốc để thay thế Hoa Kỳ trong vai trò siêu cường quốc toàn cầu", ông Pillsbury đã trình bày chi tiết các mưu kế của Bắc Kinh trong việc chủ động bậc đèn xanh để sẵn sàng bắt tay với Hoa Kỳ hầu chống lại Liên Bang Xô Viết thời đó. Pillsbury là người nắm giữa các vai trò then chốt của chính phủ Hoa Kỳ, khởi đầu trong chức vụ tình báo tại Liên Hiệp Quốc đối với Liên Xô, và sau đó cho cả FBI và CIA, lại rành rõi tiếng Hán với sự hiểu biết sâu sắc của các ý nghĩa thâm sâu và bí ẩn trong ngôn ngữ ngoại giao, và nghiên cứu tỉ mỉ các cuốn Tôn Tử Binh Pháp, Tam Quốc Chí và các tài liệu mật quốc gia hàng đầu bằng tiếng Hán mà ông đã thu thập được trên bốn thập niên qua. Pillsbury đã kết luận rằng tất cả các lãnh đạo của Hoa Kỳ từ thời Nixon và Kissinger cho đến nay đều đánh giá sai lầm về chủ trương và mục đích của Trung Quốc. Pillsbury cũng đưa ra các bằng chứng chấn động như các quyết định của Henry Kissinger hay Jimmy Carter, chẳng hạn, trong việc sẵn sàng yểm trợ Trung Quốc về nhiều mặt, nhất là khoa học kỹ thuật, để hiện đại hóa quốc gia này. Nhưng rồi chính Pillsbury, người chủ trương ủng hộ chính sách yểm trợ và phát triển Trung Quốc ngay từ đầu, đã công khai thừa nhận là mình sai lầm hoàn toàn, và thế giới nên cẩn trọng với một nước Trung Quốc mà phe diều hâu trong giới lãnh đạo của họ hiện nay đã chủ yếu sử dụng biện pháp kỹ xảo, trí trá (deception) - những kỹ thuật mà họ nghiên cứu kỹ lưỡng từ lịch sử ngàn năm trước trong thời chiến quốc của họ - để áp dụng cho hoàn cảnh hôm nay.
Không cần và không nên chờ đến ba thập niên nữa, tức kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2049, để đánh giá về những gì ông Pillsbury trình bày trong tác phẩm này. Nhìn vào những gì Trung Quốc đã và đang làm trong những thập niên qua và trong thời gian tới thì nỗi lo âu cho một tương lai bất định đang ngày càng gia tăng.
Sau khi thay thế Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đã yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp Trung Quốc phát triển khả năng khoa học kỹ thuật của họ vì họ Đặng biết rõ sức mạnh của quốc gia tùy thuộc vào mặt này [2]. Theo Pillsbury thì sau chuyến viếng tham của họ Đặng tại Hoa Kỳ năm 1979, Trung Quốc gửi 50 sinh viên đầu tiên sang Hoa Kỳ du học, và trong vòng năm năm về sau, Trung Quốc đã gửi 19 ngàn sinh viên sang Hoa Kỳ chủ yếu học các ngành kỹ sư, khoa học vật lý và khoa học y tế, và con số sinh viên du học về sau càng gia tăng. Carter ký Sắc lệnh Tổng thống 43 năm 1978 chuyển nhượng các phát triển khoa học và kỹ thuật cho Trung Quốc trong lĩnh vực giáo dục, năng lượng, nông nghiệp, không gian, địa khoa học, thương mại, và y tế công cộng. Ronald Reagan ký quyết định NSDD 11 năm cho phép Ngũ Giác Đài kỹ thuật tối tân về tên lửa, không gian, hải quân, bộ binh để chuyển hoá Quân đội Giải phóng Nhân dân thành lực lượng chiến đấu tầm vóc quốc tế. Tóm lại, Hoa Kỳ đã góp phần lớn lao trong việc tạo nên sức mạnh của Trung Quốc như đang thấy hiện nay.
Nhờ khoa học kỹ thuật làm nền tảng cho sự hiện đại hóa và phát triển kinh tế của đất nước, Trung Quốc đã tiếp tục đầu tư không ngừng cho khoa học kỹ thuật vì họ thấy rõ nó là vũ khí lợi hại hàng đầu của quốc gia. Trung Quốc đã chuẩn bị kỹ càng cho cuộc Cách mạng Công nghiệp Bốn, đặc biệt để nắm phần chủ động và ưu thế về mặt tự động hóa (automation) và trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence, AI). Ngoài Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về AI hiện nay, lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc không hề dấu tham vọng đi đầu trong mặt trận này vào năm 2030 [3]. Tuy Hoa Kỳ hiện chiếm giữ số chuyên gia AI cao nhất thế giới, số lượng nghiên cứu tại Trung Quốc đang dần bắt kịp Hoa Kỳ. Trong khi ngân sách cho Nền tảng Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ bị cắt giảm 10 phần trăm xuống còn 175 triệu đô la thì ngân sách dự chi của Trung Quốc vào năm 2030 cho AI là 100 tỷ đô la. Sự chênh lệch về ngân sách đầu tư cho nền khoa học kỹ thuật quốc gia như thế hiển nhiên sẽ dẫn đến kết quả khác nhau vào năm 2030.
Trung Quốc còn chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho sự trổi dậy của mình, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá, giáo dục cho đến quân sự, trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc, trên đất liền, trên biển, trên không gian, xuyên lục địa, cả địa cực và trên không gian xa như mặt trăng. Họ không chỉ học khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ mà còn là kẻ ăn cắp sở hữu trí tuệ hàng đầu [4], và nghiên cứu mọi đường đi nước bước làm sao Hoa Kỳ trở thành siêu cường quốc từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay.
Ngoài sự phô trương sức mạnh hải quân Trung Quốc qua việc đưa quân sĩ và vũ khí tới các quần đảo nhân tạo tại Biển Đông mà họ đã bồi đắp tại Hoàng Sa và Trường Sa gần đây, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc xây dựng các căn cứ hải quân ở vùng biển Ấn Độ Dương. Những nỗ lực này nằm trong dự án tham vọng thế kỷ Vành đai và Con đường (BRI) của họ. Djibouti là căn cứ hải quân đầu tiên, căn cứ thứ hai có thể nằm gần Gwadar, phía Tây Pakistan, và cách đó 60 cây số về phía tây là căn cứ quân sự khác có tên Jiwani [5]. Nhiều địa thế chiến lược khác cũng được cân nhắc, như Hambantota thuộc Nam Sri Lanka hay các đảo Maldives thuộc Nam Ấn Độ v.v… Cảng Kyaukpyu tại Rakhine State thuộc Miến Điện cũng đang nằm trong tầm tay của Trung Quốc để biến thành căn cứ quân sự [6]. Nhưng Trung Quốc sẽ cần nhiều căn cứ hải quân và không quân xuyên vùng Ấn Độ Dương để xây dựng một mạng lưới tạo cho họ nhiều lựa chọn hơn và lợi thế chiến lược để có thể làm bá chủ.
Trong vòng chỉ hơn mười năm, từ một quốc gia đóng vai trò không đáng kể, Trung Quốc đã trở thành một quốc gia thành viên có hạng của cực (Nam Cực và Bắc Cực). Gọi chung là polar states, là những nước có sức mạnh về quân sự, kinh tế và khoa học [7]. Trung Quốc đã có đội ngũ nghiên cứu, đủ máy móc dụng cụ và đã xây dựng một số căn cứ tại các cực này. Họ sẽ tiếp tục khai dụng ba địa bàn chiến lược mới là các vùng cực Nam và Bắc này, các vùng biển sâu và không gian ngoài vũ trụ để tìm tài nguyên mới để thực hiện giấc mộng của họ. Đưa robot lên phía bên kia của mặt trăng dự tính thực hiện cuối năm nay là nằm trong chủ trương đó của Trung Quốc để từng bước mở rộng "lãnh thổ" [8].
Thế cờ vây
Theo Pillsbury, một trong những chiến lược vĩ mô của Trung Quốc là thế trận ngang – dọc (horizontal – vertical), được áp dụng cho tình huống khi cần phải bao vây đối thủ/kẻ thù bằng cách xây dựng thế liên minh, cùng lúc đó phá vỡ thế liên minh của đối thủ/kẻ thù để không bị bao vây. Sử dụng mọi chiến lược và biện pháp trí trá nhất, bất ngờ nhất, để đạt cho được mục tiêu, là cách thức của phe diều hâu Trung Quốc hiện nay. Thế cờ wei qi, tên tiếng Anh là "go" game, tiếng Việt là cờ vây, thể hiện suy nghĩ này của họ.
Trung Quốc là sư tổ của cờ vây, họ đã chế ra nó và chơi nó trên hai ngàn rưỡi năm nay. Ngày nay họ chơi nó ở kỹ thuật còn nhuần nhuyễn hơn nữa : dương đông, kích tây ; tằm ăn dâu (mà chữ tiếng Anh có nghĩa tương đồng là salami slicing strategy). Thế cờ của họ ngày nay tinh vi đến độ họ đi cờ rồi, đối thủ cũng không biết họ đã đi, và đã giăng bẫy bao vây khắp nơi ra sao. Sáu năm về trước, thế giới bán tin bán nghi hành động lấn lướt của Trung Quốc tại Biển Đông bởi trước đó họ luôn miệng lưỡi cho rằng họ trổi dậy ôn hoà [9]. Nhưng từng bước tằm ăn dâu, từng bước đi trong thế cờ vây, nhẹ nhàng nhưng vô cùng cẩn trọng, đối thủ bị bao vây, và gạo đã "gần" thành cơm trong vấn đề Biển Đông. Nhìn lại, các cơ quan tình báo hàng đầu của Hoa Kỳ chắc cũng không ngờ được mình đã lầm, như Pillsbury đã chính thức công nhận.
Chưa hết. Trong khi thế giới tập trung mọi mắt vào sự dàn trận công khai của họ trên Biển Đông trong những ngày qua thì Trung Quốc lại kích tây : sửa soạn mọi điều kiện cần thiết để xiết chặt hầu bao của các quốc gia trung và hạ nguồn sông Mekong, trong đó có 60 triệu người sống nhờ vào nó. Sông Mekong giúp sản xuất 40 phần trăm vựa lúa của Việt Nam, và là nguồn cung cấp ẩm thực và chất đạm cần thiết cho bao triệu người dân Việt [10]. Thế nhưng trong vòng 50 năm tới, các nền kinh tế của hạ nguồn sông Mekong sẽ bị thâm thụt 7.3 tỷ đô la, trong đó Việt Nam và Cam Bốt sẽ chịu thiệt thòi nhất.
Theo Elliot Brennan thì điều khiển được lượng nước chảy dọc sông Mekong có nghĩa là kiểm soát được thực phẩm của hàng triệu người đang dựa vào mạch sống mà nó mang lại. Trong 11 dự án đập nước điện hiện nay có hơn một nửa có bàn tay Trung Quốc nhúng vào, với dung lượng dự trù hơn 15000 MW. Các đập nước này có thể lưu trữ 23 tỷ khối nước, chiếm 27 phần trăm lượng nước chảy của sông này giữa Trung Quốc và Thái Lan. Trung Quốc có ưu thế của thượng nguồn sông Mekong, lại sử dụng tối đa lợi thế đó bất kể các quốc gia trung hay hạ nguồn ra sao. Họ xem như thế cờ Dominoes. Khi muốn, họ có thể xả nước ở một hay vài đập mà không cần thông báo trước. Các kênh đập ở dưới khi biết phải tìm cách xả nước cấp bách qua các ngã đập tràn, mặc dầu làm như thế sẽ ảnh hưởng đến nguồn điện lực, nhưng không có cách nào khác. Cách xả nước như thế có nguy cơ gây lụt lội dưới hạ nguồn hoặc làm hư hại các thành đập. Điều này đã xảy ra và các đập của Trung Quốc ít hoặc không hề báo động cho các đập phía dưới, như tại Lào. Thêm vào đó, dự án có tên "gieo mây" (cloud seeding) của Trung Quốc tại Tianhe dự trù tăng lượng thu hoạch nước mưa lên 10 tỷ khối nước, chiếm 7 phần trăm số lượng tiêu dùng cho dân số Trung Quốc. Lượng nước này có thể được tiếp liệu vào sông Mekong và các nhánh sông khác tại Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là Trung Quốc sẽ sử dụng để trừng phạt, chế tài hay cảnh cáo các nước hạ nguồn khi cần. Hoạ vô đơn chí : 70 phần trăm các sông và rạch của Trung Quốc bị ô nhiễm môi trường trầm trọng, cho nên các nước hạ nguồn sẽ lãnh đủ.
Bằng cách phá đảo nhỏ, gềnh và đá trong và dọc bờ sông, Trung Quốc đã làm rộng các nhánh sông để thuyền bè của họ đi lại dễ dàng. Họ đã biến sông Mekong thành một ác mộng chiến lược. Ủy ban Sông Mekong, thành lập năm 1995 để giải quyết các tranh chấp này, nhưng thái độ của Trung Quốc là câu giờ, hống hách, trịch thượng, "cách của tôi, còn không xin miễn". Họ tự lập ra một cơ quan mới có tên Hợp tác Lancang Mekong, và sử dụng củ cà rốt vào tháng Ba năm 2016 bằng cách xả nước cho các quốc gia hạ nguồn đang bị hạn hán. Lấy tên là hợp tác, nhưng Brennan cho rằng nó là tiền đề để giải quyết tranh chấp, không phải hợp tác.
Sức mạnh của chính nghĩa
Quyền lực, khi được dùng cho việc chính nghĩa, sẽ mang lại những ảnh hưởng tích cực vào mọi mặt xã hội ; ngược lại, khi có quá nhiều quyền lực trong tay, lại lọt vào bàn tay của những kẻ độc tài, xảo trá, thì mức tai hại của nó vô cùng khủng khiếp.
Biển của Việt Nam đang bị bao vây như thế, sông thì có nguy cơ bị điều khiển như nắm yết hầu, trong khi sản xuất của Việt Nam có thể sẽ không cạnh tranh nỗi với hàng hoá Trung Quốc trong một hai thập niên tới nếu Việt Nam không chuẩn bị kỹ càng, trong khi đó Trung Quốc đã chuẩn bị tối hảo cho cuộc Cách mạng Công nghệ Bốn này.
Người Việt và nước Việt sẽ ra sao trong hai đến ba thập niên tới ?
Đến lúc đó Trung Quốc thật ra không cần xâm chiếm Việt Nam nữa. Họ đã nắm gần như mọi yết hầu của dân tộc. Cuộc thực dân đế quốc kỳ này sẽ không giống như những lần trước. Trung Quốc muốn xây dựng một trật tự thế giới mới có lợi cho họ, thay thế trật tự thế giới tự do mà Hoa Kỳ lãnh đạo hiện nay. Một khi họ đã đủ mạnh về quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, và nhất là chính trị, các nước láng giềng dù có độc lập và chủ quyền trên giấy tờ thì cũng không có tự chủ tự quyết trên thực tế. Họ phải kính trọng và nghe theo Trung Quốc cho một số chính sách nào đó, chẳng hạn. Có thể các lãnh đạo quốc gia phải được sự chấp thuận của Bắc Kinh, hay phải nghe theo chỉ thị của Bắc Kinh, như mô hình Hồng Kông hiện nay, chẳng hạn. Theo tôi, đây là một hình thức đô hộ kiểu mới của đế quốc trong thế kỷ 21 nếu tiếp tục cái đà hiện nay.
Trước áp lực từ xã hội trong những ngày qua, ông Nguyễn Xuân Phúc đã nhượng bộ rằng chính phủ đã lắng nghe ý kiến của người dân và sẽ xét lại thời hạn cho thuê của luật Đặc Khu (cho ba địa điểm Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc) cho thích hợp hơn, không còn 99 năm như dự trù nữa, trên báo Tuổi Trẻ. Không cần đến 99 năm, 50 năm hay 30 năm thôi cũng đủ để thay đổi mọi vấn đề. Chưa biết người sẽ mướn các đặc khu này là ai (mặc dầu dân chúng đều tỏ vẻ biết rõ) và sẽ sử dụng nó như thế nào, có đưa đến sự hủy hoại môi trường như Formosa không, hay những hiểm họa khác mà nhà nước Việt Nam hiện nay chưa rõ hay rõ nhưng chưa phổ biến thông tin này cho người dân. Tuy nhiên các kẻ hở của bộ luật này, do cố tình hay ngây thơ, sẽ đưa đến những hậu quả vô cùng to lớn và khôn lường. Dù gì đi nữa, đây rõ ràng là sự tính toán của một số phe cánh quyền lợi với nhau mà người dân không hề biết cho đến khi quốc hội Việt Nam sắp thông qua. Nếu là Trung Quốc và một số phe nhóm quyền lợi Việt Nam đứng đằng sau các dự án và luật đặc khu này thì rõ ràng nó nằm trong thế cờ vây của họ. Có được ba đặc khu này, nó có thể giúp cho nước cờ vây của Trung Quốc đạt được mục tiêu bá chủ của họ dễ dàng và nhanh chóng hơn, vì nó đều có một số vị thế chiến lược quan trọng. Nhưng nếu không có ba đặc khu này, giấc mộng bá quyền của Trung Quốc vẫn không thay đổi. Việt Nam vẫn bị Trung Quốc bọc ép từ thế cờ Dominoes của sông Mekong bên hướng tây và Hoàng Sa Trường Sa của Biển Đông ở hướng đông, cũng như các căn cứ quân sự họ đang xây dựng trên Ấn Độ Dương.
Số phận của dân tộc Việt Nam như cá nằm trên thớt, nhưng họ vẫn dửng dưng. Kể cũng lạ. Có thể người ta đã quen với kẻ lạ !
Nói như thế không có nghĩa là vô vọng. Chúng ta còn hy vọng nếu đồng lòng. Tuy nhiên Việt Nam chỉ còn 10 đến 20 năm để xây dựng sức mạnh dân tộc hầu vượt qua được cơn quốc nạn nguy biến này. Nếu không chuẩn bị bây giờ thì e rằng mọi sự sẽ trễ. Nhà nước Việt Nam đã làm gì bấy lâu nay, đã suy tính đường đi nước bước của Trung Quốc như thế nào, và đã có chiến lược nào để chuẩn bị đối phó trong trận thế này ? Trong mọi tình huống, người dân là sức mạnh là sức sống của dân tộc, nhưng nhà nước Việt Nam đã có những động thái nào trong việc trang bị cho dân và cùng với dân tìm ra những biện pháp thích hợp ngăn chặng thế cờ vây này, thay vì cứ tiếp tục coi dân như cỏ rác và đàn áp những người có lòng với đất nước dân tộc !
Đây là cơ hội sống còn để tìm giải pháp khó khăn nhưng cần thiết cho quốc gia. Việt Nam cần phải cải tổ toàn diện. Việt Nam không thiếu nhân tài, không thiếu lòng yêu nước, nhưng thiếu lãnh đạo sáng suốt, trong sạch và có tầm nhìn. Lãnh đạo sáng suốt phải bắt đầu bằng tinh thần biết lắng nghe. Bước đầu tiên và quan trọng nhất là chấp nhận các tiếng nói khác biệt để tìm ra lẽ phải. Không ai được độc quyền về lẽ phải. Cùng nhau, những trái tim và khối óc Việt Nam, như các thế hệ cha ông của chúng ta đã từng làm trong hai ngàn năm qua, sẽ tìm ra phương cách xây dựng lại sức mạnh dân tộc để ngăn cản hiểm hoạ và các bước tiến thâm độc của phương Bắc.
Phạm Phú Khải
(08/06/2018)
Tài liệu tham khảo :
1. Michael Pillsbury, "The Hundred Year Marathon", Henry Holt and Company, February 2015.
2. Tìm đọc "Chính Đề Việt Nam" của ông Ngô Đình Nhu. Ông là người nhìn rất rõ và nhấn mạnh đến nhu cầu phát triển đất nước bằng khoa học kỹ thuật và tư tưởng, đặc biệt là cách làm việc có tổ chức và khoa học.
3. Elsa B. Kania, "Artificial Intelligence and Chinese Power", Foreign Affairs, 5 December 2017.
4. Philip Ewing, "Gates : French cyber spies target U.S.", Politico, 22 May 2014.
5. David Brewster, "China’s new network of Indian Ocean bases", Lowy Institute, 30 January 2018.
6. David Brewster, "China’s play for military bases in the eastern Indian Ocean", Lowy Institute, 15 May 2018.
7. Anne-Marie Brady, "China's undeclared foreign policy at the poles", Lowy Institute, 30 May 2017.
8. Morris Jones, "The Moon is still strategic", Lowy Institute, 24 May 2018.
9. Robert Haddick, "Salami Slicing in the South China Sea", Foreign Policy, 3 August 2012.
10. Elliot Brennan, "China eyes its next prize – the Mekong", Lowy Institute, June May 2018.
Yếu tố cần thiết nhất để xây dựng một đội ngũ mạnh hay một tổ chức mạnh là gì ? Lãnh đạo giỏi ? Tinh thần đồng đội cao ? Khả năng chuyên môn xuất sắc ?
Nelson Mandela, một trong những nhà lãnh đạo được thế giới ngưỡng mộ.
Các nhà nghiên cứu quản trị/tổ chức trong vài thập niên qua đã nhấn mạnh nhiều về trí tuệ cảm xúc, hay trí cảm (emotional intelligence, hay EI/EQ), như là kỹ năng cần thiết cho từng cá nhân, đặc biệt là lãnh đạo, trên cả chỉ số thông minh (intelligence quotient, hay IQ). Từng cá nhân tuy quan trọng, nhưng cái trí tuệ và sức mạnh tập thể quan trọng hơn. Vấn đề là làm sao cả cái tập thể đó được vận dụng một cách tối hảo cho mọi tình huống khi đối diện với rủi ro, thử thách, hiểm nguy ?
Thời gian gần đây, yếu tố "an toàn tâm lý" (psychological safety) được xem như là lời giải của các cuộc nghiên cứu này.
An toàn tâm lý được các học giả về tổ chức (organisational scholars) đầu tiên đề cập đến vào thập niên 1960, nhưng bị chìm vào quên lãng sau đó và mãi đến thập niên 1990 mới xuất hiện trở lại và dành được sự quan tâm từ đó đến nay [1].
Lý do được quan tâm trở lại, trong lĩnh vực học thuật, như các nghiên cứu mang tính khái niệm và thực nghiệm, hay trong thực hành, như trong việc điều hành quản lý, là vì các tổ chức thời nay đều nhìn thấy tầm quan trọng của việc học hỏi và sáng tạo. Trong nền kinh tế tri thức, môi trường làm việc mang tính phức tạp nên đòi hỏi tính chuyên môn cao, đòi hỏi các nhân viên thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau phải cộng tác để cùng hoàn thành mục tiêu đề ra. Khi các chuyên viên cộng tác nhau trong một đội hoặc hợp tác nhau giữa các đội, thì yếu tố lãnh đạo được nêu ra. Người đội trưởng phải có những kỹ năng, khả năng và kinh nghiệm về quản lý, lãnh đạo nào để điều hành hiệu quả ? Làm sao để giải quyết các bất đồng ý kiến giữa các thành viên đồng đội ? v.v... Nhưng người đội trưởng, dù tài giỏi và cần thiết mấy, cũng không quan trọng bằng các thành viên còn lại. Mấu chốt vấn đề là làm sao để phát huy năng lực trí tuệ chung, nhất là tính sáng tạo, để tìm ra những giải đáp cho những vấn đề khó khăn hay những thử thách mà tổ chức có thể đối diện, hiện nay và tương lai ?
Để làm được việc này, những nghiên cứu và phân tích trong nhiều thập niên qua cho thấy an toàn tâm lý là điều kiện tiên quyết, và ngày càng như thế bởi thay đổi xảy ra ngày càng nhanh chóng và lớn lao. Chỉ khi người ta cảm thấy an toàn tâm lý, không bị rủi ro cá nhân, thì người ra mới sẵn sàng đóng góp ý kiến và hành động một cách hết mình cho mục tiêu chung. An toàn tâm lý giúp cho người ta sẵn sàng chia sẻ thông tin và kiến thức, trình bày ý kiến giúp tổ chức cải thiện, nỗ lực phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, và giúp cho các đội và các tổ chức khác nhau học hỏi và hoàn thành trách nhiệm.
Tóm lại, an toàn tâm lý mô tả sự cảm nhận, của một người nào đó, về hậu quả của hành động dám mạo hiểm trong môi trường nào đó, chẳng hạn như chỗ làm.
Nghiên cứu của Google
Google, nay thuộc Alphabet, là một công ty kỹ nghệ tin học hàng đầu thế giới, có hơn 88 ngàn nhân viên hiện nay, với thu nhập chỉ sau Apple. Trong nhiều năm qua Google đã dành nhiều nỗ lực nghiên cứu làm cách nào để xây dựng các nhà quản lý xuất sắc và một đội (team) hiệu quả nhất.
Cuộc nghiên cứu đầu tiên rất thành công mang tên Dự án Oxygen tìm hiểu "yếu tố nào làm cho một người quản lý tuyệt vời ?" (what makes a great manager ?"). Khi bắt tay thực hiện dự án này, Google khởi điểm bằng giả thuyết rằng các nhà quản lý nếu tốt nhất chỉ là một ác nhân cần thiết, và tệ nhất là thêm một tầng hành chánh [2]. Từ giả thuyết này, Google điều nghiên kỹ lưỡng nhưng nhận ra rằng những đội có khả năng quản lý tài giỏi thì họ hạnh phúc hơn và hiệu năng hơn. Do đó Google công nhận rằng quản lý là quan trọng, nhưng nó không giải thích yếu tố nào làm cho người quản lý được xem là tuyệt vời ?
Sau khi nghiên cứu sâu rộng thêm, Google đã đi kết đến luận rằng những nhà quản lý tuyệt vời của Google có các đức tính/hành xử sau đây. Một, là một huấn luyện viên giỏi (a good coach). Hai, ủy quyền/nhiệm và không quản lý vi mô, nhỏ nhặt. Ba, nỗ lực xây dựng một môi trường dung hợp, bày tỏ quan tâm đến sự thành công và phúc lợi của nhân viên. Bốn, làm việc hiệu quả và quan tâm đến thành quả. Năm, là nhà truyền thông giỏi, biết lắng nghe và chia sẻ thông tin. Sáu, hỗ trợ sự phát triển nghề nghiệp của nhân viên và thảo luận về hiệu suất của họ. Bảy, có tầm nhìn và chiến lược rõ cho đội. Tám, có những kỹ năng căn bản để cố vấn cho đội khi cần. Chín, cộng tác toàn diện trong toàn công ty (Google). Mười, là người mạnh dạn lấy quyết định.
Sau Dự án Oxygen, Google bắt tay vào dự án Aristotle, tên nhà triết học Hy Lạp, qua câu nói : "Tổng thể lớn hơn tổng hợp của các phần ráp lại" (The whole is greater than the sum of its parts, nghĩa là mỗi cá nhân, dù tài năng mấy, nếu cộng tác làm việc với nhau thì sẽ hiệu quả hơn tổng hợp của các cá nhân). Mục đích của dự án là tìm hiểu "yếu tố nào làm nên một đội hiệu quả tại Google ?" (what makes a team effective at Google ?) [3].
Trên hai năm, thực hiện hơn hai trăm cuộc phỏng vấn, điều nghiên hơn 250 đặc tính của hơn 180 đội, Google đã tìm ra được đáp án. Google ban đầu đinh ninh rằng một đội hiệu quả lý tưởng là sự kết hợp tài tình giữa kỹ năng và đặc tính cá nhân, chẳng hạn một học giả Rhodes, hai người ngoại cảm tự tin (extrovert), một kỹ sư xuất sắc tại AngularJS, một tiến sĩ Voila. Nhưng đội nghiên cứu của Google nhìn nhận mình sai lầm hoàn toàn.
Toán nghiên cứu kết luận có năm đặc tính căn bản phân biệt sự thành công hay không giữa các đội tại Google như sau.
Một, an toàn tâm lý. Các thành viên có thể mạo hiểm mà không cảm thấy bất an hay mất mặt.
Hai, nương tựa nhau. Các thành viên có thể trông cậy vào nhau để làm ra các sản phẩm tốt theo đúng thời hạn giao phó.
Ba, cơ cấu và tính minh bạch. Các mục đích, vai trò và kế hoạch thi hành rõ ràng.
Bốn, ý nghĩa công việc. Các thành viên cảm thấy những gì đang làm quan trọng đối với cá nhân họ.
Năm, ảnh hưởng công việc. Các thành viên tin tưởng nhiệt thành rằng công việc họ đang làm có quan hệ/ảnh hưởng và tạo thay đổi.
Trong tất cả năm yếu tố này, an toàn tâm lý là quan trọng nhất, là nền tảng của các yếu tố còn lại. Nguyên do ? Phần lớn, gần như tuyệt đại đa số, con người đều lưỡng lự khi đối diện với những hành xử mang tính tiêu cực vì cho rằng người khác có thể đánh giá khả năng, ý thức và tính tích cực của mình. Đây là tính tự vệ cần thiết để một người cảm thấy an toàn trong tình huống như thế. Nhưng ngược lại, khi các thành viên càng cảm thấy an toàn với nhau, họ dễ dàng công nhận lỗi lầm, và sẵn sàng cộng tác và nhận lấy các vai trò mới. Điều này ảnh hưởng toàn diện về các bản đánh giá nhân viên của Google. Những cá nhân trong các đội mà có an toàn tâm lý cao tại Google ít khi bỏ công ty, họ dễ dàng chấp nhận và vận dụng sức mạnh của các ý kiến đa dạng từ đồng đội của mình, mang lại nhiều thu nhập, và được giới lãnh đạo Google đánh giá hiệu quả gấp hai lần bình thường.
Hệ quả và bài học cho Việt Nam
Các cuộc nghiên cứu về an toàn tâm lý của Google trong thời gian qua, của Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Business School), cũng như của giới nghiên cứu quản trị, đã gây những ảnh hưởng lớn lao và tác động sâu xa. Tính áp dụng của nó rất rộng lớn, không chỉ trong kinh doanh mà hầu như mọi mặt phát triển của con người và xã hội.
Khi cảm thấy an toàn, người ta tiếp thu, học hỏi và sáng tạo một cách nhanh chóng và hiệu quả. Người ta sẵn sàng làm hơn những gì được trao phó, tận tuỵ hy sinh hơn những gì được yêu cầu, và cho ra những sáng kiến táo bạo, khác thường nhưng có khả năng khai thông hay tìm ra giải đáp cho những bế tắc lớn, với điều kiện họ cảm thấy thật sự an toàn. Còn nếu có nhiều rủi ro, đe dọa hay nguy hiểm trong môi trường hoạt động/làm việc, những người biết suy nghĩ tính toán đều không muốn tai họa xảy ra cho mình. Hay nói cách khác, chẳng ai muốn làm hơn những gì căn bản để khỏi bị "làm ơn mắc oán" cả.
Do đó để xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn, công bằng và tiến bộ hơn, quan niệm của xã hội văn minh là làm thế nào vận dụng hết những điểm tích cực của con người, của mỗi cá nhân trong toàn xã hội. Nói cách khác là tạo cơ hội rộng lớn và bình đẳng để mọi công dân phát huy tối đa khả năng, tiềm năng, và mọi đức tính tốt đẹp của con người. Vì thế cho nên người lãnh đạo tài giỏi là người được xem có khả năng mang lại hay khai dụng được những cái hay nhất của mỗi cá nhân trong tổ chức của mình (bring the best out of people). Ngược lại, người lãnh đạo tồi bại, và thất bại, là những người chỉ nhìn thấy cái xấu của người khác, và chỉ biết khai dụng cái xấu đó cho mục tiêu của họ hay của tập đoàn họ phục vụ.
Khi chúng ta hiểu được các điều căn bản này, nó giúp chúng ta có cái nhìn thiết thực hơn và khoan dung hơn về con người, trong bối cảnh gia đình, tập thể/cộng đồng, quốc gia và toàn thể nhân loại.
Để có được cái nhìn khoan dung và thiết thực, có lẽ chúng ta cần hiểu rõ và chấp nhận rằng con người vốn không hoàn hảo. Có lẽ tạo hóa là thế. Thiên tài hay nhân tài cũng có lắm bất toàn. Ai trong chúng ta mà không ngưỡng phục thiên tài khoa học Stephen Hawking trong cơ thể mỏng manh yếu đuối như ngọn nến trước gió.
Những người tài giỏi hay ảnh hưởng lớn đều có những điểm mạnh và điểm yếu của họ. Ngay cả những người có vẻ mạnh mẽ phi thường cũng có điểm yếu trong cuộc đời của họ. Cũng từng ít hay nhiều thất bại, chán nản, muốn bỏ cuộc trước những khó khăn thử thách tưởng chừng không thể vượt qua. Những lãnh đạo quốc gia được thế giới ngưỡng phục trong lịch sử nhân loại, như Abraham Lincoln, Mohandas Gandhi hay Nelson Mandela, cũng đều là con người bằng xương bằng thịt và từng trải nghiệm như thế. Không một ai hoàn toàn không biết đau đớn khi bị hành hạ thể xác, tinh thần hay tâm lý. Không một ai đạn bắn không xuyên (bulletproof). Không một ai khôn ngoan xuất chúng để hiểu biết tất cả, có khả năng tiên tri hay không hề lầm lỗi. Không một ai không có những bất an/tổn thương tâm lý cả (psychological vulnerability).
Những người tử tế, chân thật, nhạy cảm và biết thương yêu người chung quanh cũng thường là những người dễ bị tổn thương nhất.
Khi hiểu rằng mỗi chúng ta đều có bất an và tổn thương tâm lý, chúng ta sẽ dễ có sự thông cảm và đồng cảm cho nhau, trong gia đình cũng như trong một cộng đồng dân tộc.
Do đó để xây dựng an toàn tâm lý cho nhu cầu cá nhân hay tập thể của mình, chúng ta cần thay đổi tâm lý hay thói quen cố hữu để xây dựng ý thức mới : 1) tìm người cộng tác thay vì biến họ thành thù nghịch ; 2) xem người khác là những con người có nhu cầu như mình, muốn được tôn trọng, vui vẻ, hạnh phúc, có gia đình êm ấm, có cảm giác vui buồn, hy vọng v.v… ; 3) dự đoán phản ứng và chuẩn bị đáp trả một cách khôn khéo để thuyết phục ; 4) thay vì đổ lỗi cho người khác thì bày tỏ sự tò mò của mình ; 5) luôn hỏi người ta nghĩ gì về mình sau khi hoàn tất công việc ; 6) đo lường mức độ an toàn tâm lý một cách định kỳ [4]. Nghĩa là phải có đầu óc phóng khoáng, cởi mở, không kỳ thị, không thiên vị, và sẵn sàng lắng nghe mọi ý kiến và sáng kiến mới thay vì quá nhiều định kiến.
Nếu người lớn, nghĩa là người đã có ít nhiều kinh nghiệm đau thương trong cuộc đời và làm cho họ ít nhiều bị chai lì hơn chút, mà còn dễ bị tổn thương tâm lý, thì trẻ con sẽ dễ bị tổn thương hơn rất nhiều. Do đó trong các nền văn minh nhân bản, môi trường giáo dục là nền tảng quan trọng nhất cho việc hướng dẫn, dạy dỗ và hình thành những mầm non tốt đẹp cho xã hội mai sau. Không xây dựng và chuẩn bị chu đáo và tối ưu cho thế hệ hôm nay thì làm sao mong đợi sự lãnh đạo khôn ngoan và hiệu quả về sau này ! Trong môi trường giáo dục khai phóng và nhân bản này, kiến thức chỉ là phần phụ. Phần chính là nâng đỡ, hướng dẫn, khuyến khích và đào tạo những thế hê trẻ phát huy tinh thần tự lập, tự tin, tự giác ; hiểu mình, hiểu người và hiểu môi trường chung quanh ; hiểu được quan hệ phức tạp và đa nguyên của con người và xã hội ; và biết suy nghĩ, phân tích, nhận định, đánh giá và truyền đạt ý tưởng để hiểu nhau và tìm sự thông cảm và đồng cảm. Nói cách khác, một con người chỉ trở thành một công dân hữu ích tối đa cho xã hội nếu cá nhân đó được đào tạo để biết suy nghĩ như thế nào chứ không chỉ suy nghĩ cái gì (not just what to think but mainly how to think). Nhưng điều kiện thiết yếu để xây dựng các mầm non như thế là một môi trường mà tất cả các em cảm thấy an toàn để tham gia, lên tiếng và trình bày suy nghĩ của mình mà không bị ai lấn áp, hiếp đáp hay hành hạ, nhất là các thầy cô dạy dỗ hướng dẫn mình.
Nếu môi trường giáo dục quan trọng như thế thì môi trường gia đình có lẽ quan trọng không kém. Bởi vì khi còn ở tuổi vị thành niên, ngoài môi trường học đường, thời gian với gia đình và sự ảnh hưởng của gia đình trong việc uốn nắn hình thành nên những tư cách và nhân cách của trẻ con có nhiều tác động hơn so với bên ngoài xã hội. Môi trường gia đình trong các nền văn minh nhân bản cũng đặt nặng yếu tố an toàn tâm lý cho sự phát triển tốt đẹp và toàn diện của con người. Môi trường như thế được luật pháp bảo vệ tối đa, vì Hiệp ước về Quyền của Trẻ con (Convention on the Right of the Child) đã được phần lớn thế giới công nhận và được đưa vào luật quốc gia của họ [5]. Trong trường hợp Việt Nam, những hình thức la mắng, chửi rủa, đánh đập và trừng phạt nặng nề thay vì sử dụng lý trí và lý lẽ để thuyết phục đã trở thành thói quen bao đời nay, do đó cần được nhận thức và chỉnh sửa sớm. Mặc dầu cha mẹ Việt Nam nói chung rất thương con, nhưng tâm lý "thương cho roi cho vọt", hay các truyền thống và giá trị hủ lậu, kể cả nhiều quan niệm trong tư tưởng của Khổng Giáo, đã là tư duy vẫn còn ngự trị trong nền văn hóa Việt Nam và cung cách hành xử bấy lâu nay. Những tư duy và cách thức như thế chỉ tạo thêm những tâm hồn đầy oan ức và phẫn nộ. Bạo lực và bạo ngược từ đó leo thang và không lối thoát. Khi một người không thể dùng lý lẽ để nói chuyện, thuyết phục hay giải quyết vấn đề với nhau thì giải pháp còn lại là đoạn tuyệt hoặc bạo lực.
Có thể nói ngoại trừ một thiểu số nhỏ ý thức, còn lại đại đa số gia đình, học đường và xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện tư duy này. Nó lại được duy trì và củng cố bằng một loại văn hóa chính trị độc hại nhất trong lịch sử Việt Nam.
Vài kết luận
Khi bị chỉ trích, khiêu khích hay đe dọa tính mạng, phần của não có tên là amygdala, đóng vai trò như cái chuông của bộ não, nhận diện mối đe dọa như sống chết, nên la lên cần phải "chiến đấu hay chạy trốn" (fight or flight response). Trong tình trạng đó, Amygdala chiếm cứ phần cao trung của bộ não, điều khiển "hành động trước, suy nghĩ sau", và đóng băng phần não trách nhiệm về lý luận phân tích.
Khi mối đe dọa sống còn của con người trong xã hội đó quá lớn và quá lâu, vì an toàn cho mình và cho gia đình mình, là điều dễ hiểu, thì người ta cứ theo phản ứng tự nhiên là hành động trước, suy nghĩ sau. Qua thời gian, bộ não được cài đặt chương trình như thế, và vận hành như thế, một cách vô ý thức.
Xã hội như thế dù có phát triển kinh tế hay vật chất đến bao nhiêu nữa, sự phát triển toàn diện của con người cũng bị chập chững, méo mó và què quặt.
Khi mọi người trong xã hội không có an toàn tâm lý để nghĩ đến cái gì sâu sắc, lâu dài, vững ổn mà phần lớn chỉ toàn nghĩ đến những gì ngắn hạn, chụp giựt và nhỏ nhen, chỉ nghĩ đến sống còn, thì hậu quả là một xã hội băng hoại về niềm tin, đạo đức và thang giá trị chung, và sự leo thang của bạo lực và cường quyền.
Thực trạng của đất nước Việt Nam hôm nay và trong nhiều thập niên qua cho thấy nhu cầu thay đổi xã hội và văn hóa một cách sâu sắc, cấp bách và toàn diện.
Và nó càng cấp bách hơn nữa khi đất nước đang đứng trước những thử thách và hiểm họa quá lớn lao trong khi thế hệ trẻ hôm nay - những người lãnh đạo đất nước trong tương lai - đang tiếp tục được uốn nắn hay đào tạo bằng những chủ trương đầy lừa mị và nguy hiểm.
Úc Châu, 28/05/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 31/05/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Edmondson, A. ; Lei, Z. (2014). "Psychological Safety : The History, Renaissance, and Future of an Interpersonal Construct". Annual Review of Organizational Psychology and Organizational Behavior ; pages 23–43.
2. Google, "Learn about Google's manager research ". Quan niệm này mô phỏng tư tưởng của Thomas Paine khi ông cho rằng một chính quyền tốt nhất chỉ là điều ác cần thiết, và trong tình trạng tệ nhất, là một điều không thể chịu đựng được.
3. Google, "Identify dynamics of effective teams ", Accessed on 27 May 2018.
4. Laura Delizonna, "High-Performing Teams Need Psychological Safety. Here’s How to Create It ", Harvard Business Review, 24 August 2017. Or Greg Satell, "4 Ways to Build an Innovative Team ", Harvard Business Review, 13 February 2018.
5. United Nations Human Rights, Office of the High Commissioner, "Convention on the Rights of the Child ", được chấp thuận ngày 20 tháng 11 năm 1989, hiệu lực ngày 2 tháng 9 năm 1990.