"Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Nước nhà hưng thịnh hay suy vong, người thường trong xã hội cũng phải chịu trách nhiệm.
Nước nhà hưng thịnh hay suy vong, người thường trong xã hội cũng phải chịu trách nhiệm.
Thành ngữ này không rõ có từ khi nào. Chắc lâu lắm, thời phong kiến. Nhưng người dân trong thời phong kiến hay quân chủ có tiếng nói gì, có quyền hạn gì, để phải chịu trách nhiệm về sự hưng vong của đất nước ?
Quan niệm này, theo tôi, là vô lý, bất công và thất sách. Kêu gọi người dân có trách nhiệm với nước nhà thì đúng đắn, nhưng đặt trách nhiệm lên họ về sự hưng vong là sai trái.
Quan niệm này chỉ phục vụ và củng cố cho các chế độ độc tài.
Lãnh đạo (chính trị) quốc gia nào phải chịu trách nhiệm đối với sự thành bại, hưng vong của đất nước mình. Lãnh đạo, trong mọi địa hạt, nói chung, phải can đảm nhận lãnh trách nhiệm về mình khi có những quyết định sai lầm.
Ngày nay chúng ta cần đặt lại vấn đề, và định nghĩa lại vai trò và trách nhiệm của lãnh đạo, nhất là lãnh đạo quốc gia. Nguyên tắc căn bản là càng nắm quyền lực trong tay, càng giữ các vai trò quan trọng và quyết định hệ trọng, thì càng phải có trách nhiệm trước người liên hệ, người dân.
Lãnh đạo, trong mọi địa hạt, công hay tư, chính phủ hay phi chính phủ, được trao phó, ủy quyền để điều hành và quyết định các vấn đề hệ trọng. Do đó sự thành bại, hưng vong, của tổ chức hay quốc gia là chủ yếu nằm ở chỗ lãnh đạo có khả năng để thực hiện vai trò và trách nhiệm của họ hay không. Không thì phải từ nhiệm, hoặc người liên hệ phải có quyền để ngăn chặn sự bất tài và phá hoại của người đứng đầu.
Không xây dựng được văn hóa trách nhiệm giải trình này thì mọi sự thay đổi, kể cả thay đổi chế độ độc tài hiện nay, cũng trở thành vô ích.
Mấu chốt của các vấn đề hệ trọng của Việt Nam hôm nay, cũng như trong vài thập niên tới, theo tôi, là vấn đề lãnh đạo, là mục tiêu xây dựng một thế hệ lãnh đạo mới xứng đáng với tiềm năng quốc gia mình. Lãnh đạo trung tầng, và nhất là lãnh đạo thượng tầng, trong mọi địa hạt quốc gia, nhất là giáo dục, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng và chính trị.
Hơn bốn thập niên qua trên toàn nước và bảy thập niên tại miền Bắc, Đảng cộng sản Việt Nam thiết lập nền cai trị toàn diện và tuyệt đối. Họ cai trị bằng bạo lực, tuyên truyền và bưng bít, thay vì lãnh đạo. Tên gọi là "cộng hòa", và "xã hội chủ nghĩa", nhưng quyền lực tập trung vào một thiểu số chóp bu không có ý định chia sẻ quyền lực với ai. Người dân vẫn không có tiếng nói hay quyền lực đáng kể nào cả.
Mặc dầu chế độ cầm quyền thiếu chính nghĩa như thế, các tổ chức đối lập hoặc đối kháng trong và ngoài nước, phần lớn, nếu không phải là tất cả, cũng gặp khủng hoảng lãnh đạo. Khủng hoảng lãnh đạo ở đây là về cả phẩm lẫn lượng. Vẫn chưa có những khuôn mặt nào hay tổ chức nào có khả năng, uy tín và tài năng lãnh đạo để quy tụ nhân tài/lực và xây dựng thế liên minh cần thiết hầu cân bằng quyền lực và tạo thay đổi.
Trong cuộc vận động dân chủ hiện nay, và trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam thời hậu độc tài, lãnh đạo đóng vai trò quyết định cho mọi sự thành bại.
Có lẽ vì nhận thức lãnh đạo quan trọng như thế nên trước đây có nhiều người từng mong ước một minh quân xuất hiện để giải quyết vấn đề của Việt Nam. Theo tôi thì ước mong này thiếu thực tế. Nó sẽ không bao giờ xẩy ra.
- Thứ nhất, thiên tài lãnh đạo không bao giờ tự nhiên xuất hiện cả. Họ đều phải trãi qua quá trình luyện tập, thực tập, trao dồi và phát triển không ngừng.
- Thứ hai, lãnh đạo một phần là do bản tính cá nhân, nhưng phần quan trọng nhất là do môi trường tác động, do đào tạo và kinh nghiệm rèn luyện, cái không thể thiếu.
- Thứ ba, lãnh đạo trổi lên, nhất là trong môi trường hoạt động, là do sự tương tác và qua đó thuyết phục và chứng minh được tài năng, tiềm năng và ý chí của mình, chứ không phải do áp đặt. Thời nay không còn kiểu cha truyền con nối, ngoại trừ trường hợp như Bắc Hàn.
- Và sau cùng, dù là thiên tài lãnh đạo thì một cá nhân cũng không thể kéo cả một con tàu có bản chất ù lì và bảo thủ, không chịu sẵn sàng thay đổi chính mình trong hoàn cảnh mới để thay đổi xã hội. Thiên tài lãnh đạo tài giỏi mấy cũng sẽ bó tay trong hoàn cảnh này. Trong lịch sử Việt Nam cũng như nhân loại, những người lãnh đạo tài giỏi và thành công thường có một đội ngũ xuất sắc không kém, bổ túc cho những thiếu sót hoặc sở đoản của nhau.
Một cách lý tưởng nhất của một tổ chức, dù đó là chính quyền hay một công ty kinh doanh đa quốc, là lãnh đạo có thể thay thế bất cứ lúc nào. Một khi có mệnh hệ gì đến một lãnh đạo nào đó thì có người khác sẵn sàng thay thế gánh vác nhiệm vụ. Một tổ chức có quan niệm và có nhân sự sẵn sàng như thế mới thật sự là tổ chức mạnh. Còn một tổ chức mà phụ thuộc quá nhiều vào một hay vài cá nhân nào đó thì đó là tổ chức không linh động và hiệu quả, dễ rơi vào lòng luẩn quẩn và độc đoán.
Tất cả cần thành thật nhìn nhận rằng vì chúng ta dở, vì văn hóa chúng ta có vấn đề, nên đất nước mới ra nông nổi này. Không thì bốn thập niên nữa, nếu vẫn còn sống, chúng ta sẽ tiếp tục hỏi tại sao đất nước vẫn không có gì đáng để hãnh diện, tự hào.
Vấn đề khủng hoảng lãnh đạo, thật ra, là hiện tượng chung trên toàn cầu hiện nay, không riêng gì của Việt Nam.
Lý do là vì làm lãnh đạo trong thời đại này khó. Rất khó. Rất khác với những thập niên về trước. Và hoàn toàn khác với một thế kỷ trước. Vì nhiều nguyên do, xin được liệt kê vài điểm sơ khởi ở đây.
Một, là vì tác động của thông tin, kiến thức và nhận thức quá nhanh và quá sâu rộng. Xưa, người ta trông cậy lãnh đạo cung cấp thông tin và kiến thức, và qua đó đường đi, nước bước. Nay, khi cần thông tin, trong mọi lĩnh vực, người ta tìm đến Google hay các nguồn truyền thông khác. Nhanh, gần như tức khắc, và mức độ chính xác và khả tín rất cao nếu biết nguồn gốc thông tin, biết chọn lọc và có suy nghĩ phê phán. Nhưng trong thời đại thông tin tràn ngập như thế này, nó dễ tạo cho người ta cảm tưởng rằng họ biết hết mọi vấn đề. Đặc biệt đối với các tổ chức chính trị tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ, yếu tố "kiến thức là quyền lực" này ủy quyền cho người nhận thông tin, trong khi gia giảm ảnh hưởng của người lãnh đạo, một tiền lệ được định hình trước đây. Cũng từ hệ quả này, người ta không thấy có nhu cầu để gặp mặt nhau, trao đổi và thảo luận, hoặc tranh luận, để tìm mối tương đồng và điểm chung để cùng làm việc như trước đây. Đây là thử thách mà lãnh đạo ở mọi tầng xã hội trong mọi quốc gia đều gặp phải hiện nay.
Hai, tốc độ cạnh tranh ngày gia tăng và mức độ ngày càng gây gắt. Trước thực tế này, các tổ chức công cũng như tư, chính phủ cũng như phi chính phủ, cầm quyền cũng như đối lập, đều phải chứng tỏ khả năng điều hành và quản lý để tiếp tục lèo lái hướng đi của tổ chức mình, để tiếp tục được sự tín nhiệm của cổ đông hay của người dân mình. Thay đổi trở thành điều bình thường (the only constant is change) để tồn tại, và điều chắc chắn duy nhất là sự bất định (the only certainty is uncertainty). Lãnh đạo ngày nay vì thế có lắm rủi ro và bất an vì áp lực từ mọi phía. Đây cũng là một trong các lý do mà chủ nghĩa dân túy trổi lên bởi vì các nhà dân túy dám đưa ra các hứa hẹn phần lớn không đáp ứng được nhưng lại là điều người dân muốn nghe, trong khi các lãnh đạo chính trị chân chính không dám hứa hẹn điều gì trước tương lai bất định vì không biết có hoàn thành được không. Tóm lại, một trong các thách thức và cũng là yêu cầu thiết yếu của lãnh đạo ở mọi tầng xã hội hiện nay là khả năng đáp ứng và quản lý thay đổi.
Trong khi đó, đối với cộng đồng Việt Nam hải ngoại và các tổ chức đấu tranh cho dân chủ, tôi có cảm tưởng như là mọi sự vẫn như cũ, cách thức làm việc vẫn như xưa, và cũng vì thế nên không những không nắm bắt được cơ hội để chủ động mà phần lớn bị động và phản ứng. Họ không thể lãnh đạo hiệu quả trong bối cảnh hiện nay vì thiếu khả năng và nhân sự chuyên môn, thiếu hế hoạch và kế sách để điều hướng thay đổi, và không nắm bắt được tình huống và cơ hội, kể cả cơ hội về khoa học kỹ thuật, để thay đổi. Phần lớn có lẽ nhìn thấy tốc độ thay đổi liên tục như mối đe dọa.
Ba, trong mọi tổ chức, không chủ động thay đổi thì sẽ bị bắt buộc thay đổi ; và khi ở thế bị động, và không có khả năng lãnh đạo để tìm cách nắm bắt tình thế và thực thi kế hoạch thay đổi, tổ chức đó trước sau gì cũng bị đào thải. Quy luật xã hội trước nay là thế. Ngay cả đối với các tổ chức một thời thành công và uy tín. Trong trường hợp Việt Nam, bao nhiêu tổ chức đấu tranh trước đây giờ này bất lực, có tiếng chứ không có miếng. Có tấm lòng hơn thực chất. Có mong muốn và mục tiêu hơn là viễn kiến, kế hoạch, chiến lược và kiến thuật. Những khó khăn khác là nhân sự. Đấu tranh chính trị luôn đòi hỏi tính chuyên môn, khác với đấu tranh cách mạng cần lực là chính. Thêm vào đó, số người Việt trong và ngoài nước mong muốn đem lại thay đổi cho Việt Nam và nỗ lực để thực hiện điều này cũng chỉ là một thiểu số rất lẻ loi và cô đơn, thiếu huấn luyện và đào tạo về kỹ năng mềm và các kiến thức về chính trị. Nói chung là thiếu thốn mọi mặt. Đó là chưa kể những người vẫn còn trông cậy hay mơ tưởng Hoa Kỳ hay các thế lực ngoại bang can thiệp về dân chủ hay nhân quyền cho Việt Nam. Đó là một suy nghĩ viễn vong, không thực tế chút nào, kể cả sự kỳ vọng vào những người như Donald Trump hay các chính sách và chủ trương "Làm cho Hoa Kỳ vĩ đại trở lại".
Trong thời gian qua, tôi đã dành thời gian để tìm hiểu về lãnh đạo. Lãnh đạo ở mọi tầng xã hội, mọi địa hạt và mọi quốc gia, đều quan trọng. Đối với công việc có lương bổng hẳn hoi, nhân viên sẵn sàng bỏ việc vì cấp trên (boss) dở. Trong cuộc nghiên cứu toàn cầu trên 10 năm với hơn 200 ngàn nhân viên và quản trị do tổ chức O.C. Tanner Learning Group (White Paper) thực hiện, 79 phần trăm những người bỏ việc làm của mình cho biết lý do là vì thiếu sự ghi nhận nỗ lực/đóng góp từ cấp trên (1). Ngay cả khi chấp nhận ở lại làm việc thì tại Hoa Kỳ, khoảng 75 phần trăm nhân viên không hoàn toàn chú tâm (fully engaged) vào công việc của mình. Cũng trong nghiên cứu này thì người ta công nhận rằng những người lãnh đạo hiệu quả, tài năng là những người biết đặt đúng mục tiêu, biết truyền thông giỏi, tạo sự tin tưởng/tín nhiệm và có trách nhiệm giải trình.
Đó là công việc có lương bổng.
Còn việc "ăn cơm nhà vác ngà voi" thì lại càng cần lãnh đạo biết lắng nghe, dám dấn thân, trân quý ghi nhận sự đóng góp của mọi thành viên, và có khả năng truyền sức sống và cảm hứng cho người khác v.v… Tối thiểu là thế, chưa kể các yếu tố như tầm nhìn, khả năng chiến lược và sức động viên thuyết phục người khác. Nhưng tìm người có điều kiện căn bản như thế đã là rất khó.
Không có lãnh đạo nên tình trạng bấy lâu nay bát nháo, điều mà Đảng cộng sản Việt Nam không gì hài lòng và an tâm hơn. Phần lớn các hoạt động hiện nay rời rạc, tản mác, tùy hứng và tùy tiện. Vui, thích thì làm, không thì thôi, hoặc tẩy chay ; tệ hơn thì ném bùn, chụp mũ, vu khống v.v…
Tôi cũng dành thời gian quan sát, nhất là qua một số phương tiện truyền thông xã hội, thì nhận thấy rằng nhiều người Việt, có lẽ vì quá có lòng và quan tâm đến các vấn đề Việt Nam, nên dễ nóng lòng và bất bình khi thấy chuyện lẽ ra phải lên tiếng mà người ta lại vô tư. Vì thế nên dễ đi đến kết luận vội vàng, dán nhãn hiệu người khác là "vô cảm", đẩy họ về phía đối nghịch, tẩy chay hoặc bất cần.
Lãnh đạo hiểu biết và chân chính đâu có ai dám coi thường người dân đến thế ! Nếu không thuyết phục được thì tìm cách khác, hoặc nhận ra sự bất tài của mình, chứ ai lại đi chửi đổng lên như thế. Phần lớn vì thiếu lãnh đạo nên người ta hành động cho cái lợi trước mắt, bất kể cái hậu ra sao !
Nói chung, hầu như trong mọi hoạt động chính trị và đấu tranh hiện nay, thay vì vận dụng tranh thủ và thuyết phục, người ta chửi, mắng để hy vọng người nghe nhận thức. Thay vì nhận thấy cách làm của mình không hiệu quả và cần thay đổi, và nhận trách nhiệm về phía mình, người ta vẫn một mực cho mình đúng và có chính nghĩa. Thay vì tìm hiểu tâm lý con người, nhất là kiến thức về khoa học thần kinh (neuroscience) để vận dụng các phương pháp thích hợp và hiệu quả, để tìm ra phương thức tối ưu hầu vận động đa số người dân ủng hộ các quyết định khó khăn nhưng chính đáng của đất nước thay vì áp đặt và áp bức, thì người ta vẫn chủ yếu phản ứng từ trong tìm thức cách suy nghĩ và hành động đã được định hình từ lúc bé đến giờ. Từ văn hóa đã thấm nhuần, ăn sâu vào máu mủ và tim óc, và tác động lên họ một cách vô thức từ trước đến nay.
Muốn thật sự thay đổi Việt Nam, những người quan tâm và yêu nước cần phải thay đổi chính mình trước. Tất cả cần mở mang học hỏi các kiến thức khoa học dựa trên các khám phá mới nhất về con người. Tất cả cần học hỏi các văn hóa văn minh dân chủ và các tấm gương lãnh đạo sáng ngời và thành công trên thế giới. Tất cả cần thành thật nhìn nhận rằng vì chúng ta dở, vì văn hóa chúng ta có vấn đề, nên đất nước mới ra nông nổi này. Không thì bốn thập niên nữa, nếu vẫn còn sống, chúng ta sẽ tiếp tục hỏi tại sao đất nước vẫn không có gì đáng để hãnh diện, tự hào.
Tất cả các vấn đề này đều liên quan đến lãnh đạo, đến quan niệm của người Việt về lãnh đạo, đến việc bầu chọn trực tiếp lãnh đạo hiện nay và tương lai, trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như cho đất nước Việt Nam. Quan niệm đúng đắn sẽ giúp người Việt tránh bầu chọn những lãnh đạo bất tài, những nhà dân túy, mị dân hay những người trí trá mở miệng hứa hẹn dân chủ nhưng khi lên nắm được quyền thì chỉ muốn bóp nghẹt các tiếng nói khác biệt.
Tôi sẽ lần lược trình bày chi tiết các vấn đề này trong các kỳ tới.
Úc Châu, 12/03/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 13/03/2019
(1) What's missing ? Why can't we achieve optimal performance ?
Mùa đông, tất nhiên, năm nào cũng đến nơi này. Nhưng mùa đông đang đến nơi đây năm này trùng hợp với bộ cuối của cuốn phim tập Trò chơi Vương quyền (Game of Thrones), được biết sẽ trình chiếu khắp nơi vào ngày 14 tháng Tư sắp tới. Gần hai năm chờ đợi cho bộ cuối này, khán giả hâm mộ bộ phim tập này khắp thế giới không dấu được sự nóng lòng và háo hức để biết từng nhân vật sẽ kết thúc ra sao và ai sẽ lên nắm vương quyền sau cùng.
Game of Thrones.
"Mùa đông đang đến" có một số ý nghĩa trong bộ phim tập này. Một, sự cảnh cáo và cảnh giác liên tục để chuẩn bị hầu đối phó với những hiểm nguy và thách thức đang đến. Hai, mùa đông cũng hàm ý rằng những ai đã quen và chuẩn bị tốt nhất sẽ có ưu thế đối phó với nó, mà không ai bằng gia đình họ Stark, hiện thân của mùa đông. Ba, mùa đông đang đến là sự cảnh báo đối với một kẻ thù có nguy cơ hủy diệt tất cả, the White Walkers, trong khi thế gian còn lại lắm nghi ngờ và chia rẽ nhau.
Bộ phim tập Game of Thrones tuy hư cấu nhưng có sức thu hút mãnh liệt với mọi giới. Ngay cả cựu Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cũng bị lôi cuốn. Sau khi bốn tập của mùa năm (season five) bị cắp và đưa lên mạng để rồi sau đó hàng triệu người tải xuống xem miễn phí, cơ quan sản xuất bộ phim tập này HBO đã quyết định từ đó trở đi không làm như thế nữa. Ngoại lệ duy nhất có lẽ là yêu cầu được xem trước của Barack Obama vào lúc đó. Obama là người vốn được biết đến với các đức tính điềm tĩnh, nhẫn nại, và cân nhắc. Có khi quá cân nhắc. Cũng vì mê bộ phim tập này, vào mùa sáu của bộ phim, Obama cũng nóng lòng như mọi người khác, yêu cầu có thể xem trước hay không. Các đạo diễn của bộ phim tập này hãnh diện và thích thú khi được biết Obama cũng mê bộ phim tập này, và hỏi rằng nếu tổng tư lệnh Hoa Kỳ yêu cầu được xem các tập phim này trước thì quý vị sẽ làm gì ? Cho đến cuối năm 2016 lúc còn tại chức, Obama có lẽ là người duy nhất được HBO cho phép xem trước mùa sáu trước khi trình chiếu cho công chúng khắp nơi.
Tại sao bộ phim tập này có sức thu hút hàng triệu người trên khắp thế giới, bất kể văn hóa ngôn ngữ hay địa vị xã hội ? Mỗi người sẽ có câu trả lời riêng cho mình. Riêng tôi, bộ phim này nói lên được rất nhiều về tác động của bản chất và môi trường nuôi dưỡng của con người, trong đó sự tranh đấu liên tục giữa đẹp xấu, thiện ác, chính tà, cũng như sự cám dỗ của quyền lực, tinh thần cải thiện trong mỗi chúng ta, và sự phức tạp về tâm lý con người, đều được diễn tả lôi cuốn và sắc sảo. Obama thì thích nhân vật Tyrion Lannister, người lùn nhưng là chiến lược gia với tài nghệ cao thâm. Tôi cũng thích Tyrion Lannister, nhưng Jon Snow là hiện thân của sự chính trực, toàn vẹn (integrity) và can trường, mặc dầu có lúc có lỗi lầm chiến lược.
Tại sao tôi lại đi nói về bộ phim này lúc này ?
Bởi vì bộ phim này tuy hư cấu nhưng nó đặt câu hỏi cho mỗi chúng ta : đứng trước mối nguy chung của dân tộc/quốc gia hay nhân loại trước cái ác, để đối phó với sự tồn vong, chúng ta chọn thái độ nào ? Tiếp tục tranh chấp, tranh giành quyền lực với nhau hay bỏ qua dị biệt để thống nhất cùng một khối hầu có thể đối phó với kẻ thù chung ?
Sự trổi dậy của Trung Quốc thách thức quyền lực của Hoa Kỳ hiện nay, tuy là điều bình thường trong lịch sử nhân loại, nhưng sẽ đưa đến tàn khốc nếu không khéo quản lý và giải quyết. Graham Allison nghiên cứu lịch sử 500 năm qua và kết luận rằng trong 16 trường hợp tương tự như thế thì có đến 12 trường hợp dẫn đến chiến tranh.
Vậy liệu chiến tranh có xảy ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ không ? Và hệ quả ra sao ? Nếu Trung Quốc thắng, hay hòa, thì nó có ý nghĩa gì đối với các nước trong vùng, và toàn bộ nhân loại ?
Tất cả những giả thuyết, hay nhận định, dù khoa học và khách quan nhất, cũng chỉ mang tính cách suy đoán, bởi không ai có thể nắm bắt được tương lai một cách chắc chắn. Nhất là khi kết quả của cuộc tranh đua hiện nay mất hai ba thập niên nữa mới rõ ràng hơn. Nhưng dựa trên các sự kiện lịch sử cũng như các chính sách đối nội lẫn đối ngoại của nhà nước Trung Quốc, những người lạc quan lắm cũng phải dè dặt. Và thận trọng. Từ sự đàn áp đẫm máu đối với sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn ba thập niên trước, cho đến chủ trương tập trung cải tạo hàng triệu người Uighur và gốc Thổ tại Tân Cương, và cuộc chạy đua trí tuệ nhân tạo AI để gia tăng khả năng nhận diện và kiểm soát mọi hành động của người dân trong lãnh thổ Trung Quốc, và phần nào đó, ngoài lãnh thổ của họ, nhất là đối với Hoa kiều trên khắp thế giới, làm cho chúng ta tự hỏi động cơ đích thực của Bắc Kinh là gì ? Và đâu là điểm dừng của họ ? Nếu bấp chấp mọi phương tiện để đạt cho được mục tiêu, sẳn sàng sử dụng mọi biện pháp trí trá nhất để lường gạt đối phương, kể cả sử dụng vũ khí sinh lý học hay hóa học, như đã từng xảy ra dưới thời Đức Quốc Xã của Hitler, để tất cả phải quy phục mình (điều đã diễn ra trong lịch sử gần ba ngàn năm qua của Trung Quốc), thì quả thật rất đáng quan ngại cho quyền và tự do, quyền tự quyết, chủ quyền quốc gia và nói chung lối sống và văn hóa của nhân loại.
Cách đối phó tốt nhất với mọi hiểm họa, của người Việt Nam hay mọi dân tộc khác, là phải chuẩn bị cho tình huống xấu nhất có thể có.
Trong chuyến viếng thăm Sydney, Úc Châu đầu tháng này, Niall Ferguson đã cảnh báo người Úc rằng thật là ngu dại nếu người Úc chọn Trung Quốc trên Hoa Kỳ. Với những tác phẩm giá trị và trọng lượng, gây nhiều tiếng vang tại Hoa Kỳ và thế giới, giới tinh hoa, kinh doanh và chính trị Úc chắc chắn sẽ lắng nghe và cân nhắc lời cảnh báo này Ferguson, mặc dầu người Úc cũng thừa cẩn trọng đối với các quan điểm thiên Trump của Ferguson. Như đã trình bày, tuy vẫn còn một số người, kể cả trí thức, không xem Trung Quốc là mối đe dọa mà là cơ hội để hai bên cùng có lợi, đại đa số giới tinh hoa Úc cho đến nay không chỉ nhìn Trung Quốc qua lăng kính màu hồng. Qua bao nhiêu dữ liệu tình báo và bằng chứng rành rành trong những năm qua, họ đều rất cẩn trọng và đã chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, kể cả một chính sách đối ngoại, quốc phòng, liên minh với Hoa Kỳ đểchuẩn bị và giúp đỡ các nước trong vùng Thái Bình Dương "thoát Trung", cũng như suy tính lại chiến lược và vai trò của Bộ Tứ (QUAD, gồm Nhật, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Úc) v.v…
Ngoài ra, Úc đã hợp tác chặt chẽ với bốn quốc gia cùng văn hóa và ngôn ngữ là Anh, Canada, Hoa Kỳ, Tân Tân Lan, còn gọi là Năm Mắt (Five Eyes) để thâu thập và chia sẻ thông tin tình báo từ nhiều thập niên qua. Trước đây khi các phái đoàn Năm Mắt gặp mặt nhau, nó thường mang tính cách kín đáo. Nhưng gần đây, hình như với dụng ý ‘hãy coi chừng đấy’ đối với Trung Quốc, các cuộc gặp mặt ở tầng cao cấp như chiến lược hoặc thấp hơn như chiến thuật cũng không còn dấu kín nữa. Thái độ có vẻ thách thức này đã làm cho Trung Quốc tức điêng. Ngoài ra, cũng đang có ý kiến đề nghị rằng thay vì tiếp tục Năm Mắt thì nên gia tăng thành Bảy Mắt, trong đó có Nhật và Đức nữa. Nghĩa là cựu thù của Thế Chiến Hai giờ đây trở thành đồng minh đắc lực để theo dõi, kiểm soát và ngăn chặn mọi hành động trổi dậy bất chính của Trung Quốc. Nếu thành Bảy Mắt thật thì chắc chắn sẽ làm cho Trung Quốc điêng đảo hơn nữa, cảm thấy như bị bao vây tứ phía.
Trung Quốc càng nổi điên hơn nữa khi Úc quyết định cấm hoạt động và ký hợp đồng với tập đoàn Huawei, và còn vận động Anh quốc và các nước Âu Châu cũng làm như thế. Cựu Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull xác định trước cử tọa gồm các chính trị gia gạo cội của Anh rằng chính ông đã quyết định cấm Huawei hoạt động tại Úc vì lý do an ninh, dựa trên thông tin tình báo của Úc chứ không phải vì áp lực nào từ Hoa Kỳ. Turnbull nhấn mạnh rằng mối đe dọa là sự kết hợp giữa khả năng và ý đồ (capability and intent). Khả năng mất nhiều thời gian để gầy dựng, nhưng ý đồ thì có thể thay đổi nhanh trong một nhịp tim đập. Hàm ý của Turnbull là rằng nếu cứ để Trung Quốc tiếp tục xây dựng kỹ nghệ 5G, xây dựng tiềm năng của họ trên khắp thế giới, cài đặt các thiết bị ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, và cho dầu họ không có ý định xấu nào hiện nay đi nữa, nhưng khi đã xây dựng được khả năng rồi và nếu muốn thay đổi ý định, điều xảy ra trong tích tắc, nó là mối đe dọa đến nền an ninh và chủ quyền quốc gia. Chỉ có những người ngây thơ, nhẹ dạ hay vì quyền lợi cá nhân và bè phái mới tin rằng Trung Quốc không phải đe dọa vì không, hoặc chưa có, ý định bá quyền.
Peter Costello, cựu Tổng trưởng Tài chánh/Ngân khố, cho rằng nếu phải chọn giữa thịnh vượng kinh tế với an ninh quốc phòng thì tuy là một chọn lựa khó khăn, an ninh luôn là ưu tiên đối với Úc. Nếu an ninh là ưu tiên, và nếu bắt phải chọn, giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, hiển nhiên nước Úc biết rõ phải chọn ai rồi.
Ferguson nhấn mạnh rằng thông điệp ông muốn để lại trong chuyến viếng thăm Úc lần này là "mùa đông đang đến". Trung Quốc là "the White Walkers", hay là triều đại gia đình (Ceisei) Lannister ?!?!?! Khi sử dụng thành ngữ này Ferguson hiển nhiên có hàm ý. Tình hình thế giới có bi quan đến thế không trong khi một sử gia tiếng tăm như Ferguson lại ví von với bộ phim tập này, và đi so sánh các đặc tính cạnh tranh và đối đầu hiện nay giống thời Chiến tranh Lạnh ?
Dù gì đi nữa, phòng bệnh hơn chữa bệnh là châm ngôn chiến lược cần thiết trong lúc này. Đó là phương châm hành động của Úc, một nước mà có khoảng cách với Trung Quốc gần 7,5 ngàn cây số đường chim bay. Ngay cả một quốc gia mà đa số người dân có gốc Hoa như Singapore cũng nhìn thấy mối đe dọa mà Trung Quốc biểu hiện. Vì thế nên Singapore đang nghiên cứu học hỏi phương pháp và luật pháp đối phó với sự can thiệp của nước ngoài mà Úc đã thực hiện thành công trong thời gian qua. Tóm lại, nếu có chút lý trí thì sẽ nhận ra được rằng thà chuẩn bị tối đa cho tình huống xấu nhất có thể có còn hơn là lạc quan tếu hay hy vọng hão huyền. Nhất là các quốc gia đang nằm gần địa chính trị dầu sôi lửa bỏng này, đặc biệt là Việt Nam.
Nhưng, thay vì làm luật để ngăn chặn sự can thiệp nước ngoài, bảo vệ tối đa an ninh, chủ quyền và quyền lợi thiết thực của dân tộc, nhà nước Việt Nam lại thông qua luật An ninh Mạng năm ngoái để chủ yếu trấn át các tiếng nói đối lập ; và có ý định, dù bất thành, để thông qua luật Đặc Khu giúp Trung Quốc có thêm biện pháp và phương tiện để trục lợi và gây nguy hại đến chủ quyền quốc gia Việt Nam. Thật là đáng tiếc và đáng quan ngại !
Úc Châu, 08/03/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 08/03/2019
Sự kiện Hồng y George Pell bị kết tội xâm hại tình dục trẻ em (với hai bé trai thuộc ca đoàn), tức tội ấu dâm, đã trở thành đề tài thảo luận nhiều nhất trên mọi cơ quan truyền thông Úc từ trưa hôm qua cho đến hôm nay. Và hiển nhiên sẽ còn tiếp tục trong những ngày tới. Đề tài này chiếm đầy các trang báo, truyền thanh, truyền hình và các trang mạng chính mạch cũng như các ngôn ngữ sắc tộc, qua mọi thể loại đặc sản truyền thông. Phần lớn thì giờ của tin tức trên các cơ quan truyền hình Úc hôm qua cũng chỉ đề cập đến bản tin này.
Hồng y George Pell bị tòa án ở Melbourne kết tội xâm hại tình dục trẻ em, Australia, 26 tháng Hai, 2019. Ảnh minh họa
Hồng y George Pell là người đứng đầu giáo phận Công giáo Úc hơn hai thập niên qua, giữ vai Tổng Giám mục Melbourne từ năm 1996 đến 2001, Tổng Giám mục Sydney từ năm 2001 đến 2014, và được bổ nhiệm làm Hồng y năm 2003. Ông được sự tín nhiệm của tòa thánh Vatican qua ba đời giáo hoàng. Ông được xem là nhân vật thứ ba tại tòa Vatican chỉ vài tháng trước. Không chỉ chịu trách nhiệm về tài chánh cho Vatican kể từ năm 2014, ông còn ảnh hưởng mạnh mẽ về chính sách ngoại giao và là người Vatican phải tham khảo về mọi vấn đề liên quan đến Úc. Và tất nhiên trong chức vụ hồng y, các điều liên quan đến việc bổ nhiệm tổng giám mục, giám mục, cũng như linh mục hay các mục vụ quan trọng tại Úc, đều trực tiếp hay gián tiếp phải thông qua ông.
Vì địa vị và tầm ảnh hưởng lớn lao như thế của ông Pell, bản án này đã gây xôn xao dư luận Úc từ mọi phía.
Có người vẫn chưa tin điều này, vẫn nghĩ là ông vô tội. Có người cho rằng sự kiện này khó thể xảy ra. Có người phủ nhận hoặc nghi vấn kết quả. Ngay cả khi đã biết kết quả bản án này, cựu Thủ tướng Úc John Howard vẫn khẳng định rằng nó không hề lây chuyển quan điểm của ông về ông Pell. Chính ông Howard là một trong mười người ảnh hưởng mạnh mẽ tại Úc viết thư tham chiếu tư cách của ông Pell (character reference) trước khi bồi thẩm đoàn đi đến kết luận bản án.
Và cũng có nhiều người phẫn nộ.
Nhưng phần lớn ai nấy đều cảm thấy bàng hoàng và sốc đến tận cùng. Nhiều người theo đạo Công giáo hiển nhiên cũng cảm thấy bị tổn thương tột cùng.
Đây là lần đầu tiên một người cao cấp nhất của Giáo hội Công giáo Úc, thuộc thượng tầng lãnh đạo của Tòa thánh Vatican, bị kết án xâm hại tình dục trẻ em. Ông Pell vẫn khẳng định mình vô tội. Luật sư của ông cho biết sẽ kháng án. Nhưng hôm nay họ quyết định không nộp đơn tại ngoại hầu tra, mà không nêu rõ lý do. Ngày 13 tháng Ba năm nay mới chính thức biết án lệnh của tòa là gì, ông sẽ bị tù bao nhiêu năm v.v... Ông hiện nay 77 tuổi và sức khỏe có vấn đề, nên án lệnh tùy thuộc rất nhiều các yếu tố và hoàn cảnh cá nhân như trường hợp của ông Pell. Tối nay ông Pell phải nằm sau song sắt.
Trong vụ án này, những ai muốn biết tình tiết sự vụ có thểđọc bài hoặc xem video. Trong phạm vi bài này, tôi thấy có ba điều đáng nói về luật pháp của nền dân chủ Úc.
Đầu tiên là về bồi thẩm đoàn. Theo thường lệ thì 12 người bình thường trong xã hội được chọn một cách ngẫu nhiên. Tôi đã từng được chọn làm một bồi thẩm trong một vụ án khác trước đây nên cũng biết sơ về thủ tục. Cho một vụ án thì thường có khoảng vài chục người được chọn vào vòng đầu, sau đó khoảng 20 đến 25 người được chọn vào vòng hai, và vào vòng ba trong phiên tòa thì bênh bị cáo, tuy có quyền đề cử, nhưng phải cùng với bên nguyên cáo hoặc công tố viên chọn ra 12 người sau cùng.
Trong trường hợp đặc biệt này, có đến hơn 100 bồi thẩm được chọn. Lý do là để tìm một bồi thẩm đoàn công minh chính trực nhất. Trong ngày đầu tiên của phiên xử, chánh án Peter Kidd đề nghị những bồi thẩm nào cảm thấy mình không thể vô tư, công trực bởi vì mình là người theo đạo Công giáo hay là người có cảm xúc không tốt về tòa thánh, thì cả hai thành phần này nên tự loại mình. Chánh án Kidd nhấn mạnh : "Phiên xử này không thể sử dụng như là cơ hội để dùng Hồng y George Pell như vật tế thần cho các hành vi không nằm trong cáo trạng hay các hành xử hay thất bại của Giáo hội Công giáo nói chung".
Bồi thẩm đoàn đầu tiên cho vụ án này đã không đi đến quyết định chung cuộc. Và bị giải tán nhiệm vụ. Đến bồi thẩm đoàn lần thứ hai, sau khi phiên xử kéo dài đến năm tuần và mất ba ngày để tranh luận thuyết phục nhau với tất cả các bằng chứng trình bày trước mắt họ, lần này bồi thẩm đoàn đã cuối cùng nhất trí kết luận với nhau.
Nói chung tiến trình chọn bồi thẩm đoàn và cả tiến trình xét xử công minh tại phiên tòa trong nhiều tuần là không thể đặt vấn đề.
Điều kế tiếp là lệnh cấm/bịt miệng, mà tiếng Anh gọi là suppression/gag order. Thật ra bồi thẩm đoàn đã đi đến quyết định vụ án này vào ngày 11 tháng 12 năm 2018. Mãi cho đến giờ mới được công bố chính thức. Tại sao ? Lý do là vì lệnh cấm này.
Cũng theo quan điểm của chánh án Peter Kidd nói trên, vì ông Pell bị tố cáo đến hai vụ xâm phạm, một vụ xảy ra vào thập niên 1970 lúc ông còn là một linh mục ở Ballarat thuộc tiểu bang Victoria, và một vụ mới hơn, vào năm 1996 lúc ông là Tổng Giám mục Melbourne. Vụ án hai có khả năng bịnhận chìm bởi kết quả vụ án một, theo chánh án Kidd. Cho nên ông Kidd cho rằng để công bằng và chánh trực cho ông Pell và cho vụ án hai, để kết quả của vụ án một (dù có tội hay không) không ảnh hưởng đến vụ án hai, nhất là tác động của kết quả lên bồi thẩm đoàn của vụ án hai, thì mọi thông tin về kết quả của vụ án một phải bị bít hết. Lệnh của chánh án Kidd cấm cả việc đưa thông tin đơn sơ, chẳng hạn có hai hay mấy vụ án, bởi ngay cả thông tin như thế có khả năng làm cho bồi thẩm đoàn nghi ngờ là ông Pell có thể gặp nhiều hơn một vụ án. Để rồi đưa đến định kiến, ảnh hưởng đến quyết định vô tư, khách quan v.v…
Nhưng vào hôm qua, thứ Ba 26 tháng Hai, vụ án thứ hai đã được Giám đốc Công tố Kerri Judd quyết định không tiến hành vào tháng Tư này, sau khi cảm thấy không đủ bằng chứng. Vì thế lệnh cấm/bịt thông tin không còn lý do để tồn tại. Và nó đã được nhất lên. Do đó truyền thông đã ào ạt đưa tin về sự kiện này trưa hôm qua.
Tóm lại, lệnh cấm này có thể được dùng để ngăn ngừa định kiến khi thi hành công lý, hay để bảo vệ an toàn của một người đặc biệt nào đó, hay vì vấn đề an ninh quốc gia hay quốc tế v.v… Thế nhưng trong vụ này, sau khi bồi thẩm đoàn thứ hai đi đến quyết định về kết quả vụ án ngày 11 tháng 12 năm 2018, một số cơ quan truyền thông đã đưa tin và vì thế đã vi phạm lệnh cấm này.
Và đây là điều thứ ba mà tôi muốn nói trong bài này. Quyền lực của ngành tư pháp. Trong phạm vi trách nhiệm xét xử của tòa quận Victoria (Victorian County Court) mà Trưởng Chánh án là Peter Kidd, ông có thẩm quyền ra lệnh điều này nếu xét thấy chính đáng, và bất cứ ai vi phạm, dù là truyền thông hay đương kim hay cựu thủ tướng, hay bất kể ai, đều có thể bị xét xử và phải có trách nhiệm giải trình.
Một số tờ báo, kể cả báo uy tín hàng đầu Úc The Age, đã vội vã đưa thông tin về kết quả vụ án này sau ngày 11 tháng 12 năm 2018. Mặc dầu chỉ đưa thông tin vô thưởng vô phạt, như "Một nhân vật rất cao cấp đã bị kết án vào thứ Ba về một tội phạm nghiêm trọng, nhưng chúng tôi không thể báo cáo danh tính của họ do lệnh cấm", các ký giả thuộc báo The Age cùng nhiều cơ quan truyền thông khác sẽ phải đối phó với khả năng bị phạt lẫn tù trong những ngày tháng tới. Tội khinh thường tòa án (contempt of court) cũng được Giám đốc Công tố Kerri Judd xem xét đối với các cơ quan truyền thông mà có thể vi phạm tội định kiến đối với phiên tòa này.
Cũng xin nói thêm là sau khi đi các mẫu tin trên sau kết án năm ngoái, các cơ quan truyền thông đã xin phép tòa được đưa tin này đến công chúng nhưng đã bị chánh án Peter Kidd mắng. Ông Kidd nói với luật sư biện hộ cho các cơ quan truyền thông : "Trong vòng 72 tiếng đồng hồ, khách hàng của ông đã chọn tấn công tòa án, tấn công luật pháp mà không bao giờ đưa ra một lập luận pháp lý nào cho tôi". Và ông Kidd đã từ chối hủy lệnh cấm này cho đến trưa ngày hôm qua.
Theo tờThe Gurdian thì có đến 100 ký giả bị xem là vi phạm lệnh cấm trên có thể bị án tù.
Điều đáng nói là lệnh cấm này tất nhiên chỉ có hiệu nghiệm trong nước Úc mà thôi. Luật tiểu bang Victoria hay quốc gia Úc không thể có quyền hạn đối với các phóng viên nước ngoài. Vì thế nên tin Hồng y Pell bị kết tội đã bay xa khỏi Úc ngay lập tức trong thời đại tin học, được các cơ quan truyền thông nhưThe Washington Post đăng ngay ngày sau đó, mặc dầu tờ báo này cũng cẩn thận không dám nêu đích danh nguồn tin từ ai để những người đó tại Úc khỏi bị tội vạ.
Không phải ai cũng ủng hộ lệnh cấm này, nhất là các ký giả đã nhận thư từ Giám đốc Công tố Victoria. Luật bên Mỹ có lẽ khác với luật của Victoria hay Úc. Ký giảDamien Cave thuộc báo The New York Times cho rằng "Ý tưởng rằng một thẩm phán tại một tòa án ở Melbourne có thể thực sự xác định những gì thế giới có thể đọc về một nhân vật có tầm ảnh hưởng toàn cầu như vậy tôi nghĩ là một cú sốc thực sự đối với thế giới". Nhưng nếu thấy luật cấm này hơi quá và muốn hủy bỏ hay thay đổi nó thì phải thực hiện tại quốc hội thôi.
Vụ án này cho thấy mọi thành phần xã hội, từ những người tưởng bất khả xâm phạm, từng đứng đầu các cơ quan tôn giáo, truyền thông, hành pháp, lập pháp và cả tư pháp, cũng phải tôn trọng và thi hành pháp luật. Bởi nó đều có răng cứng và không chừa kẻ vi phạm nào cả.
Úc Châu, 27/02/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 27/02/2019
Các hoạt động gây ảnh hưởng đa dạng của Trung Quốc đã được cơ quan tình báo Úc ASIO theo dõi trong những năm qua, kể cả các đóng góp tài chánh hàng triệu đô la cho các chính đảng hay các viện nghiên cứu qua tỷ phú gốc Hoa như Huang Xiangmo hay Chau Chak Wing mà đã được trình bày trong các bài trước.
Chuẩn bị một hội thảo Úc - Trung Quốc tại Beijing.
Tuy thế, các hoạt động này không được đề cập nhiều trên các phương tiện truyền thông hay cơ quan tình báo ASIO vào trước năm 2016. Nhưng sau đó đã đổi hẳn. Năm 2016 là năm đã đưa đến bao nhiêu thử thách to lớn cho nước Úc, qua cách hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông, trong khi Hoa Kỳ, nhất là sau cuộc bầu cử cuối năm, đã làm cho Canberra cảm thấy hụt hẫng, mất chỗ dựa.
Bài viết này nhằm tìm hiểu chiến lược đối phó của Úc đối với các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài của Trung Quốc, cũng như chính sách ngoại giao của Úc trước tình hình địa chính trị trong vùng và quốc tế.
Về tình báo và can thiệp nước ngoài, theo sự tìm hiểu qua các tài liệu, báo cáo và các tin tức trên các cơ quan truyền thông thì tôi nhận thấy ba điều đáng chú ý sau đây.
Ba điều đáng lưu ý
Một, các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài trước năm 2016 chưa bị lộ diện nhiều và chưa đến mức báo động. Các bản báo cáo hàng năm của ASIO cho quốc hội Úc năm 2014-2015 và 2015-2016 cho biết ASIO đã và đang thu thập các dữ kiện về tình báo và can thiệp nước ngoài, nhưng các báo này không bày tỏ sự quan ngại sâu sắc hay đáng kể nào, và chưa nêu cụ thể các hoạt động đó là gì [1]. Nghĩa là vẫn như thường lệ. Nhưng bản báo cáo của ASIO vào năm 2016-2017 và nhất là năm 2017-2018 cho cùng vấn đề này khác toàn diện về tầm mức hoạt động [2]. Chỉ trong bản báo cáo năm 2016-2017, ASIO nhấn mạnh rằng họ đã "nhận diện các quyền lực nước ngoài kín đáo tìm cách uốn nắn quan điểm của các thành viên công cộng, các cơ quan truyền thông và các nhân viên chính phủ để tiến đạt các mục tiêu chính trị cho chính quốc gia của họ". Các cộng đồng sắc tộc và tôn giáo tại Úc cũng là mục tiêu của các hoạt động ảnh hưởng bí mật này được thiết kế để giảm thiểu các chỉ trích của họ đối với các chính quyền nước ngoài. Như đã từng trình bày, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có lý do chính trị và mục tiêu chiến lược, ASIO không nêu đích danh thủ phạm chính của hoạt động trên là ai. Nhưng những ai quan tâm theo dõi thời sự đều biết là Trung Quốc.
Hai, giận mất khôn nên để lộ tông tích. Vì kín đáo hoạt động nên các cơ quan truyền thông Úc và cả ASIO cũng chỉ biết phần nào, nhưng chưa thật sự nắm rõ bức tranh tổng thể của các hoạt động gây ảnh hưởng này. Tình thế này thay đổi khi Phi Luật Tân thắng kiện về chủ quyền các hòn đảo trên Biển Đông tại Tòa Trọng tài Thường trực The Hague vào tháng Bảy năm 2016. Giận điêng với kết quả này, lãnh đạo Trung Quốc đã một mặt kích động tinh thần quốc gia ở trong nước để phản đối, mặt khác nỗ lực vận động các quốc gia khác để đứng về phía Trung Quốc và bác bỏ kết quả vụ kiện này. Tại Úc, họ đã sử dụng các ảnh hưởng mà họ đã tốn công âm thầm xây dựng trong nhiều năm trước đó với cộng đồng Hoa kiều tại Úc, hay qua các Viện Khổng Tử và các viện nghiên cứu được tài trợ bởi những người như Huang Xiangmo hay Chau Chak Wing. Qua các thái độ này, họ đã để lộ bộ mặt của các cá nhân và tổ chức liên hệ kể từ đó, để rồi các cơ quan truyền thông, các nhà nghiên cứu học thuật và ASIO điều tra được dây mơ rễ má của nó đến tận Bắc Kinh. Nghĩa là từ giữa năm 2016 thái độ hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông cũng như tại Úc, qua các hoạt động bí mật lẫn công khai, chẳng khác gì "lậy ông tôi ở bụi này".
Ba, trong nền dân chủ pháp quyền, quyền lực của cơ quan tình báo ASIO, chẳng hạn, tuy tưởng chừng rất lớn và rộng khắp, nhưng thật ra các hoạt động của họ, cũng như mọi cơ quan và ban ngành khác, cũng phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Các biện pháp điều tra và thu thập thông tin tình báo, tuy là đặc quyền của ASIO trước pháp luật, nhưng cách thức thực hiện cũng phải đúng theo quy định mà pháp luật cho phép, nếu không thì sẽ phạm pháp. Khi biết Trung Quốc, qua chân tay của họ tại Úc, đã tìm cách gây ảnh hưởng lên chính trường và dư luận Úc qua việc ủng hộ tài chánh một cách hào phóng, chẳng hạn, Duncan Lewis đã tìm cách gặp riêng thủ lãnh các chính đảng (Cấp tiến, Lao động và Quốc gia) đểcảnh báo họ vào năm 2015 [3]. Nhưng ngoài việc theo dõi các hoạt động này và thu thập dữ liệu để báo cáo cho chính quyền, quốc hội và các chính đảng, mà ngay cả trong hoạt động này quyền hạn của ASIO cũng bị giới hạn, ông Lewis cho biết các bộ luật tình báo và can thiệp nước ngoài lúc đó (trước khi được sửa đổi) đã lỗi thời và thiếu sót, và ASIO thật sự bị bó tay bởi chính pháp luật.
Trong bài điều trần trước thượng viện Úc ngày 16 tháng Ba năm 2018, ông Lewis đã cho biết một số thí dụ mang tính độc hại, mặc dầu không nêu đích danh hay chi tiết cụ thể sự kiện [4]. Một, một học giả Úc đã được một tình báo nước ngoài tuyển dụng và đã đồng ý làm tình báo bằng cách ăn cắp các thông tin mật, và đây là trường hợp sống. Hai, một thương gia Úc đã ý thức rõ ràng rằng mình làm việc cho một tình báo nước ngoài và đã tuyển dụng một nhân viên chính quyền để cung cấp thông tin đặc nhiệm (tức chỉ có trong vai trò và trách nhiệm mới có được thông tin này). Ba, có một tình báo đã được cơ quan nước ngoài gửi đến Úc nhưng giả vờ ‘ngủ’ và vài thập niên sau mới được kích hoạt để tố cáo các nhà đối kháng và để ủng hộ các hoạt động kín tại Úc. Ngoài ra cũng có một trường hợp một công chức liên bang đã lấy đi một lượng lớn truyền thông điện tử và đã đồng ý giao chuyển thông tin cho một tình báo nước ngoài. Và cũng có một công dân Úc đã được đào tạo bởi cơ quan tình báo nước ngoài và đã dấu sự thật này trong đơn nộp khai tỏa an ninh với chính quyền Úc (Australian government security clearance application).
Theo ông Lewis thì đối với các trường hợp trên, luật hiện hành không cho phép truy tố, trong khi mỗi trường hợp này đều mang tính hoạt động kín đáo và trí trá để gây hại cho quyền lợi của Úc. Chúng đều tìm cách dấu diếm các hoạt động của mình và tránh bị phát hiện. Một số tìm cách ảnh hưởng bí mật lên tiến trình quyết định của Úc. Một số tìm cách chiếm ưu thế bất công cho các quyền lực nước ngoài bằng cách phá hoại hay tiết lộ các ý định và khả năng của Úc. Nhưng quan trọng nhất, một số đã đặt công dân và thường trú nhân của Úc vào tình thế trực tiếp bị nguy hại. Ông Lewis hỏi các cung cách hành xử như thế có nên được chấp nhận mà không bị truy tố ? Theo suy nghĩ của ông thì không thể chấp nhận tình trạng này. Ông cho rằng nó có khả năng phá hoại chủ quyền, an ninh và thịnh vượng của Úc [5]. Ông biện luận rằng nếu (quốc hội) thêm vào các tội phạm hình sự có ý nghĩa, thực tế và hiện đại vào các bộ luật hiện hành, nó sẽ đóng góp vào họp đồ nghề để cơ quan tình báo Úc đối phó với sự đe dọa gia tăng đáng kể mà Úc đang đối diện hiện nay. Như thế nó sẽ giúp bảo vệ được quyền lợi quốc gia.
Chiến lược và phản chiến lược
Cũng cần nhắc lại hai mục tiêu chiến lược của Trung Quốc tại Úc vào lúc đó, một ngắn hạn và một dài hạn. Mục tiêu ngắn hạn là tìm sự hậu thuẫn hay ít nhất là không phản đối của Úc đối với sự khẳng định chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông, nhất là sau kết quả của tòa The Hague. Mục tiêu lâu dài là Bắc Kinh muốn lôi kéo Canberra gần hơn thay vì gần Washington như trước đây, để Canberra không chỉ là một đối tác quan trọng về kinh tế, mà các chính sách chiến lược nếu có khác Bắc Kinh thì cũng không có hại cho họ.
Tại sao vai trò Úc quan trọng đối với Bắc Kinh ? Tuy dân số chỉ mới đến 25 triệu mới đây, nghĩa là Trung Quốc gấp 56 lần và Hoa Kỳ gấp 14 lần dân số Úc, ảnh hưởng về kinh tế, ngoại trợ (foreign aid), ngoại giao và các lĩnh vực giáo dục, hay nói chung là quyền lực mềm của Úc, là đáng kể trên tầm quốc tế. Tiến sĩ Anthony Bergin vừa mới viết bài trên tạp chí Viện Chính sách Chiến lược Úc (APSI) biện luận rằng đã đến lúc Úc không nên tiếp tục tự gọi mình là "quyền lực trung bình" (middle power) nữa, bởi theo ông ảnh hưởng của Úc đã vượt xa khả năng đó rồi [6]. Úc có quan hệ ngoại giao bền vững với bốn quốc gia nói tiếng Anh còn lại (Anh, Canada, Tân Tây Lan, Hoa Kỳ) và có mối quan hệ tích cực về ngoại giao, kinh tế/thương mại, an ninh, môi trường và các vấn đề về phát triển bền vững với cả khối Liên hiệp Âu châu. Do đó nếu Trung Quốc gây ảnh hưởng được Úc, kéo được Úc gần về phía mình, thì sẽ hoàn toàn có lợi cho thế cờ vây của họ, qua các dự án như Vành Đai Con Đường, Biển Đông cũng như Thái Bình - Ấn Độ Dương, trong đó có cả mục tiêu ảnh hưởng các nước nhỏ trong vùng Thái Bình Dương như Papua New Guinea/PNG.
Để thực hiện các mục tiêu này, Trung Quốc đã tìm hiểu kỹ lưỡng và qua đó lợi dụng các lổ hỏng về luật pháp của Úc, bao gồm luật tình báo và can thiệp nước ngoài, luật hình sự 1995, các lổ hỏng về ủng hộ và kê khai tài chánh cho các hoạt động của chính đảng v.v… Thêm vào đó, ngoài việc đầu tư vào các nguồn phương tiện chiến lược như điện, viễn thông, hải cảng v.v…, Trung Quốc đã tìm cách vận dụng hơn một triệu Hoa kiều tại Úc và các chính giới cũng như các chính trị gia từng giữ các vai trò quan trọng trong chính phủ, kể cả các cựu Thủ tướng và Bộ trưởng Úc, để giúp họ ảnh hưởng lên các chính sách Úc có lợi cho các mục tiêu chiến lược của họ.
Đứng trước các thử thách lớn lao này, cựu Thủ tướng Malcolm Turnbull đã cùng với nội các, đặc biệt là cựu Ngoại trưởng Julia Bishop, đã vạch ra các kế sách đối nội lẫn đối ngoại. Về đối ngoại, đó cũng là thời điểm bầu cử lại Tổng thống và quốc hội Hoa Kỳ cuối năm 2016, nên lãnh đạo Úc đã khôn ngoan vận dụng trí tuệ tập thể của mọi người, nhất là các chuyên gia và lãnh đạo ngoại giao để thực hiện Bạch thư Chính sách Ngoại giao Úc, có tầm nhìn năm đến mười năm để giúp lèo lái quốc gia trong bối cảnh chính trị mới.
Về đối nội, Úc phải đối diện với bao nhiêu vấn đề nhức nhối cần cải tổ. Một số chính trị gia và các cơ quan truyền thông Úc yêu cầu cải tổ luật về ủng hộ tài chánh cho chính trị và luật về tình báo và can thiệp nước ngoài. TNS Stephen Conroy, chẳng hạn, đã chính thức kêu gọi Thủ tướng Úc cải tổ luật ủng hộ tài chánh cho bầu/tuyển cử, vì Úc là một trong số hiếm các quốc gia chưa cấm cản các ủng hộ tài chánh từ các tác nhân nước ngoài. Khi các cơ quan truyền thông Úc điều tra rồi phanh phui bao nhiêu vụ nhận tiền ủng hộ bất chính, như trường hợp của cựu Thượng nghị sĩ Sam Dastyari, hay sử dụng công quỹ bất chính cho các hoạt động cá nhân, tính liêm chính mà đã từng được đề cao trước đó trở thành khôi hài và chế giễu. Sự phơi bày các hành động sai trái của một số dân biểu và thượng nghị sĩ của các chính đảng, tuy chỉ là thiểu số, cũng đủ để làm cho dân chúng Úc bất bình và phẫn nộ.
Khi các vấn đề này được phơi bày trên truyền thông Úc, được tranh luận trên các viện nghiên cứu chính sách, và nhất là tại quốc hội, mọi người dân được có cơ hội bày tỏ ý kiến và góp ý vào việc cải tổ luật pháp. Sau gần ba năm tham khảo ý kiến từ mọi quan điểm khác nhau, đón nhận các đệ trình và tranh luận sâu sắc, các bộ luật liên hệ trực tiếp đến tình báo và can thiệp nước ngoài, cũng như gián tiếp qua việc ủng hộ tài chánh, đã được quốc hội Úc thông qua. Một số điều trong luật Tu chính về luật Cải cách Công khai và Tài trợ Bầu cử đã có hiệu lực từ 1 tháng 12 năm 2018, và số khác từ 1 tháng Giêng năm nay 2019 [7]. Luật về Đề án Minh bạch Ảnh hưởng Nước ngoài (Foreign Influence Transparency Scheme Bill) và luật về Tình báo và Can thiệp Nước ngoài (Espionage and Foreign Interference Bill) đã được quốc hội Úc thông qua ngày 28 tháng Sáu năm 2018, và phần lớn các thay đổi này sẽ bắt đầu có hiệu lực vào ngày 10 tháng 12 năm 2018 [8].
Ba điều hay để học hỏi
Quan sát cách nhìn nhận, phân tích, tham khảo, tranh luận và truyền thông của xã hội Úc, từ các cơ quan truyền thông đến các viện nghiên cứu và sau cùng lưỡng viện quốc hội, tôi nhận thấy ba điều rất hay để học hỏi từ văn hóa chính trị Úc.
Thứ nhất, tuy sự trổi dậy của Trung Quốc là đáng quan ngại, qua các hành động công khai lẫn kín đáo của họ cũng như sự đối xử tồi tệ của họ với chính người dân của mình và các sắc tộc thiểu số, giới tinh hoa Úc đối phó với thách thức này một cách điềm tỉnh và khôn khéo. Thay vì nhìn các thách thức này từ Trung Quốc như mối đe dọa, phần lớn giới chuyên gia và lãnh đạo chính trị Úc xem là cơ hội để giải quyết tận gốc vấn đề. Trung Quốc là đối tác kinh tế quan trọng nhất của Úc. Gần 30 phần trăm nền kinh tế (xuất khẩu và nhập khẩu) phụ thuộc vào Trung Quốc, do đó chính quyền cần quản lý mối quan hệ ngoại giao này một cách tinh tế để không đổ vỡ, nát bấy. Cách tốt nhất để đối phó với tình báo và can thiệp nước ngoài, không chỉ riêng với Trung Quốc mà còn đối với các thế lực thù nghịch khác trong tương lai, là cải tổ pháp luật. Một nền dân chủ pháp quyền sẽ bất lực và vô hiệu quả nếu luật pháp có vấn đề, có lổ hỏng, ngay cả khi các cơ quan thi hành pháp luật có đầy đủ năng lực và kinh nghiệm. Tóm lại, mấu chốt lâu dài của vấn đề là tìm cách xiết chặt các lổ hỏng luật pháp và gia tăng phương tiện và biện pháp để ngăn ngừa, truy tố và xét xử những nghi phạm trong tương lai.
Thứ hai, để cải tổ luật hầu đáp ứng cho mục tiêu lâu dài nói trên, cách hiệu quả nhất là tham khảo rộng rãi mọi thành phần xã hội để có cái nhìn bao quát và sát thực. Trong các vấn đề phức tạp như thế này, các điều luật tu chính sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến quyền tự do của người dân. Tương tự tiến trình đề ra các bộ luật mới hay cải tổ luật cũ cũng như các chính sách quan trọng của quốc gia cho phù hợp với hoàn cảnh và môi trường xã hội mới, như chính sách ngoại giao đã trình bày trên, chính quyền và giới tinh hoa của Úc đã mất rất nhiều thời gian để tham khảo rộng rãi mọi thành phần trong xã hội, nhất là những ai bị ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp, bởi các thay đổi này. Các ý kiến và xu hướng khác nhau là điều tự nhiên trong mọi xã hội. Chỉ quan trao đổi, thảo luận và tranh luận thì mới giải quyết được các sự khác biệt hoặc tìm các giải pháp đồng thuận chung.
Các cuộc điều trần, với ông Duncan Lewis và nhiều nhân vật chuyên môn hàng đầu, phục vụ cho các mục tiêu khác nhau : thu thập các quan điểm trái chiều ; công khai, minh bạch các quan điểm này ; bằng chứng, dữ liệu lưu trữ để mọi người dân và các thế hệ mai sau hiểu rõ tại sao các bộ luật cần tu chính và kết quả sau cùng của các tu chính đó là gì v.v… Các diễn đàn này là cơ hội để những ai quan tâm đến các vấn đề này có thể tham dự, tìm hiểu và đóng góp tiếng nói của mình một cách minh bạch.
Như đã trình bày trong bài trước, ông Duncan Lewis quan ngại rằng nếu giới ký giả/truyền thông được miễn nhiễm từ các bộ luật này, thì đó là lổ hỏng rất lớn để giới tình báo nước ngoài tìm cách khai thác. Tuy các quan điểm và lý luận ông Lewis đưa ra rất hữu lý và chính đáng, không phải ai cũng đồng ý và tán thành các nhìn vấn đề như thế. Chẳng hạn, các phóng viên chuyên về vấn đề quốc tế, đối ngoại thường phải tiếp cận với nhiều thông tin mà hư thực chưa được kiểm chứng, có khi đối tượng tiếp cận cũng có thể là tình báo mà không ai biết được, và những tin tức được tiết lộ có thể ảnh hưởng đến vấn đề an ninh quốc gia. Nghiệp vụ của họ vì thế có thể đưa họ vào tình thế hiểm nguy, nhất là khi các thế lực nước ngoài, vì lý do nào đó, muốn gài bẫy họ. Nếu không khéo và không rõ ràng, các điều luật tu chính này có thể gây cản trở cho nghiệp vụ của họ, và họ có nguy cơ bị truy tố, mặc dầu xác xuất xảy ra không cao. Nhưng khi đã có xác xuất nguy cơ như thế thì các tu chính luật cần phải cân nhắc kỹ càng hệ quả nó có thể đem đến để các phóng viên không bị phiền phức hay bị truy tố một cách tùy tiện, hay vì lý do chính trị, chẳng hạn.
Trên đây chỉ là một trong bao nhiêu các khía cạnh phức tạp của luật pháp được bàn cãi trong cuộc điều trần về các bộ luật này, chưa kể các khía cạnh khác chưa đụng đến, và không có thì giờ để phân tích thêm ở đây.
Điều này cho thấy khi làm luật và tu chính luật, những người có trách nhiệm cần phải suy nghĩ thật xa và thật sâu, về mọi tình huống có thể có, hiện nay cũng như một hai thập niên tới, chẳng hạn, cũng như các hệ quả và hậu quả mà những thay đổi này mang tới. Chỉ cần một nạn nhân, thí dụ như một phóng viên nào đó bị truy tố và kết án về sau này, mà sau khi ngồi tù một thời gian thì các dữ kiện mới xuất hiện bênh vực người đó vô tội, chẳng hạn, thì như thế bộ luật đã thất bại. Người làm luật cũng cần suy nghĩ thật kỹ bên hành pháp cũng như tư pháp sẽ diễn giải điều luật như thế nào, có giống như những ý định diễn giải của mình lúc ban đầu hay không. Nói đến đây, tôi tin rằng những người hiểu biết sẽ nhận thấy rằng các hiến pháp và pháp luật của các chế độ độc tài và cộng sản thường là quái gỡ, mâu thuẫn và vô lý. Lý do chính là vì cả ba ngành tư pháp, hành pháp, và lập pháp đều chỉ có giá trị tượng trưng. Mọi quyết định không phải do những người chính thức trong các ngành này mà là thành phần nắm thực quyền trong đảng (đối với cộng sản) hoặc chính quyền (đối với độc tài).
Trở lại vấn đề nêu trên, các tổ chức nhân quyền, xã hội dân sự, từ thiện và truyền thông phần lớn phản đối dự luật tu chính này vì nó giới hạn và trói buộc các việc làm chuyên môn và nghiệp vụ của họ. Bên đối lập Đảng Lao động lúc đầu cũng không ủng hộ bản đề nghị tu chính, nhưng sau một thời gian tranh cãi tại hạ viện lẫn thượng viện, và sau khi phía chính quyền chấp nhận sửa đổi hàng trăm điều để các điều luật này rõ ràng và giảm thiểu ảnh hưởng đến các quyền tự do và hoạt động xã hội, cuối cùng các tu chính cũng được thông qua. Các ký giả nói riêng truyền thông nói chung không hoàn toàn bị miễn nhiễm, nhưng các quyền tự do nghiệp vụ của họ không bị ảnh hưởng bao nhiêu bởi các tu chính này. Nếu họ có những thông tin phân loại/bảo mật (classified information) và phổ biến nó với lý do là vì "lợi ích công chúng" thì nó sẽ giúp cho họ phòng thủ, bảo vệ khi bị truy tố, chứ không phải là sự miễn trừ [9].
Theo thông báo của văn phòng Bộ Tư pháp thì kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2018, "bất cứ ai có những hoạt động nào đó thay mặt chánh nhân nước ngoài với mục đích ảnh hưởng đến tiến trình chính trị hoặc chính quyền sẽ được yêu cầu đăng ký theo đề án này", và "các tác nhân nước ngoài sẽ tiếp tục được tự do để vận động cho quyền lợi của họ tại Úc, miễn là nó được thực hiện một cách hợp pháp, công khai và minh bạch" [10]. Nhưng 14 Viện Khổng Tử tại Úc và các công ty quốc doanh của Trung Quốc, ngay cả Huawei, từng phủ nhận là có liên hệ và nhận chỉ thị từ lãnh đạo Bắc Kinh, thì họ có cần ghi danh với chính quyền Úc hay không, thì không biết kết quảsẽ ra sao [11].
Thứ ba, là nỗ lực truyền đạt thông tin của giới truyền thông và chính quyền đến mọi thành phần xã hội về các thay đổi về luật và chính sách. Tất nhiên trong mọi xã hội đều có những người hoàn toàn không quan tâm đến các vấn đề chính trị hay cộng đồng. Con số này quá bán trong đa số xã hội. Điển hình như ở Hoa Kỳ số người tham gia bầu cử ít khi nào quá bán trong 100 năm qua. Cho nên dù thông tin tràn ngập trên các phương tiện truyền thông và trên mạng, họ cũng không màn tìm hiểu kỹ càng. Nhưng dù sao biết ít vẫn tốt hơn là không biết. Một nền dân chủ vững ổn cần những công dân hiểu biết các vấn đề phức tạp. Còn những người quan tâm, dù là thiểu số trong mọi xã hội, thì vẫn luôn tìm cách tiếp cận và nắm bắt mọi thông tin. Điều tích cực là các cơ quan truyền thông tại các nước dân chủ luôn nhận lãnh trách nhiệm hàng đầu trong việc đưa các thông tin hữu ích và liên hệ về mọi mặt đời sống đến người dân. Nhu cầu của người dân về thông tin, và trách nhiệm cung ứng của người làm truyền thông, là quan hệ cung cầu của một thị trường đúng nghĩa. Nhờ làm đúng các chức năng cần thiết của truyền thông, tức thông tin nhanh chóng, trung thực và độc lập, nên các khuynh loát hay âm mưu chính trị phần lớn được phơi bày đến người dân. Lộng quyền, hay lạm quyền, vì thế, khó qua mắt được công chúng.
Trong sự kiện trên, vì sự phức tạp của các điều/bộ luật này, do đó các thay đổi trên cần phải được giải thích tường tận đến mọi người dân một cách dễ hiểu. Luật pháp thường rắc rối và khó hiểu, với các ngôn từ chuyên môn và cách diễn giải vô cùng phức tạp, ngay cả đối với những người trong ngành. Do đó nên các cơ quan trách nhiệm, từ Ủy hội Bầu cử Úc AEC về các vấn đề ủng hộ tài chánh cho đến Bộ Tư pháp và ASIO, và tất nhiên từ Hansard nơi lưu trữ mọi điều được phát biểu hay tranh luận tại quốc hội, đều dễ dàng cho những ai muốn biết để tìm kiếm và tham khảo. Các cơ quan này thực hiện các bản thông tin ngắn gọi là Factsheet, dài từ hai đến bốn trang, làm rõ các thắc mắc thường có, hay giải thích các vấn đề phức tạp bằng ngôn ngữ giản dị, bình thường. Bộ Tư pháp Úc đã thực hiện 17 bản thông tin ngắnnhư thế về các điều luật liên quan đến tình báo và can thiệp nước ngoài để giúp người dân hiểu tường tận hơn các vấn đề này [12]. Ngoài ra, văn phòng của Bộ Tư pháp hay các cơ quan công quyền liên hệ đều sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc khác, nếu có, sau khi đọc các bản thông tin này.
Người dân cũng có thể gọi lên các cơ quan truyền thông để bày tỏ quan điểm hay thắc mắc của mình và nhờ các cơ quan truyền thông này liên lạc với những người trách nhiệm trong các cơ quan chính quyền nếu vẫn còn thắc mắc, chẳng hạn. Nói chung những ai muốn tìm hiểu thì sẽ có vô vàn phương thức và phương tiện để thực hiện điều này.
Ai nên học ?
Vào đầu tháng 6 năm 2017, cựu Giám đốc Tình báo Quốc gia của Hoa Kỳ James Clapper đã đến viếng thăm Úc, không biết vì tình cờ, trùng hợp hay sắp sẵn. Bởi trước đó một tuần cuộc điều tra của các phóng viên ABC và Fairfax đã làm chấn động nước Úc, như đã trình bày trong các bài trước. Ông Clapper đã cảnh báo Úc là Hoa Kỳ, lẫn Úc, cần phải cảnh giác đối với Trung Quốc [13]. Tương tự, các lãnh đạo chính trị và tình báo Hoa Kỳ, điển hình như bà Hillary Clinton khi viếng thăm Úc, cũng đã cảnh giác mức độ can thiệp nước ngoài từ Trung Quốc [14].
Nhờ sự trao đổi thông tin, tình báo cũng như lắng nghe tiếng nói của mọi quan điểm khác biệt và trái chiều như thế nên giới tinh hoa và lãnh đạo chính trị Úc đã vận dụng được trí tuệ tập thể và tìm ra được các biện pháp tối ưu để đối phó với các thử thách lớn lao, đối nội cũng như đối ngoại, trong thời đại mà tốc độ thay đổi quá nhanh và nồng độ thay đổi quá lớn. Phương thức vận hành và lãnh đạo quốc gia của Úc, tuy là trên danh nghĩa cá nhân cũng như đảng phái, nhưng thực chất là tập thể đúng nghĩa. Nước Úc hùng mạnh một phần vì Úc là một xã hội đa văn hóa trong đó các công dân biết đặt quyền lợi chung của đất nước lên trên cá nhân, bè phái, đảng phái và chủng tộc, nhưng cũng nhờ vai trò quan yếu của truyền thông để mọi vấn đề được minh bạch hơn.
Úc đã rất thành công trong nền văn hóa chính trị này. John Promfet thuộc báo The Washington Post cho rằng Hoa Kỳ có nhiều điều cần phải học hỏi từ Úc trong việc đối phó với Trung Quốc. Nhưng thành phần nên học hỏi nhiều nhất từ Úc có lẽ là lãnh đạo chính trị tại Việt Nam hiện nay, hay các chính quyền dân chủ sau này, vì ba lý do chính. Một, Trung Quốc không đi đâu cả, sẽ luôn luôn là mối đe dọa truyền kiếp của Việt Nam, cho đến khi nước này trở thành dân chủ thật sự thì mối đe dọa chỉ bớt đi, chứ không biến mất. Trung Quốc còn vươn tới được Úc huống chi Việt Nam bên cạnh. Hai, vì tình thế này nên chỉ có sức mạnh của toàn thể dân tộc, từ giới tinh hoa trí thức cho đến dân thường, mới có hy vọng đối phó hiệu quả với âm mưu thâm độc của Trung Quốc hiện nay. Rõ ràng một hay vài cái đầu không thể nào nhìn thấy được bao nhiêu vấn đề phức tạp và chuyên môn khác được. Người lãnh đạo giỏi phải ghi nhận điều này và tìm cách vận dụng nguồn lực dân tộc cho mục tiêu chung của quốc gia. Ba, muốn làm được như thế, thì phải có tự do, phải dân chủ hóa chính trị và toàn xã hội. Chỉ khi nào giới tinh hoa, trí thức, học giả, chuyên gia, nói riêng, và mọi người dân, nói chung, được thảo luận một cách tự do, được các cơ quan truyền thông điều tra và cung cấp các dữ kiện mà ngay cả chính quyền cũng bị giới hạn về khả năng, thì sự việc mới rõ ràng và sáng tỏ hơn. Sự thật luôn có nhiều khía cạnh và đa dạng, và không hề có sự thật một chiều. Còn độc quyền sự thật và bịt mắt bịt tai và bịt miệng dân chúng thì chỉ chứng minh não trạng của lãnh đạo hoàn toàn cứng ngắt, khép kín. Họ chỉ nhìn người dân, nhất là những nhà đối kháng và vận động dân chủ, như là mối đe dọa thay vì sức mạnh.
Trong tư thế lãnh đạo như thế, họ chỉ tự cô lập trong khi sức ép trong lẫn ngoài ngày càng gia tăng. Và bài học lịch sử sẽ tái diễn cho những ai không chịu học, hay học không tới, hay quá đam mê quyền lực.
Úc Châu, 27/02/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 28/02/2019
Tài liệu tham khảo :
1. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2014 - 2015 , 24 September 2015 ; Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2015 - 2016 , 27 September 2016.
2. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2016 - 2017 , 27 September 2016. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2017 - 2018 , 27 September 2016.
3. Chris Uhlmann, "Domestic spy chief sounded alarm about donor links with China last year ", ABC News, 1 September 2016.
4. Parliamentary Hearing, "PJCIS inquiry on the National Security Legislation Amendment (Espionage and Foreign Interference) Bill 2017 ", Official Committee Hansard, PARLIAMENTARY JOINT COMMITTEE ON INTELLIGENCE AND SECURITY, 16 March 2018.
5. Bevan Shields, "ASIO chief Duncan Lewis sounds fresh alarm over foreign interference threat ", The Sydney Morning Herald, 24 May 2018.
6. Anthony Bergin, "Time for Australia to stop calling itself a 'middle power' ", Australian Strategic Policy Institute, 8 January 2019.
7. Australian Electoral Commission, "Funding, Disclosure and Political Parties ", Accessed on 23 February 2019.
8. Gareth Hutchens, "Sweeping foreign interference and spying laws pass Senate ", The Guardian, 29 June 2018.
9. James Elton-Pym, "Sweeping changes to espionage, treason and secrecy laws as foreign interference bills pass ", SBS News, 28 June 2018.
10. Media Release, "Foreign Influence Transparency Scheme to commence December 10 ", Attorney-General for Australia, 23 November 2018.
11. Kelsey Munro, "Australia’s new foreign-influence laws : Who is targeted ? ", The Interpreter, Lowy Institute, 5 December 2018.
12. Resources, "Foreign Influence Transparency Scheme ", Attorney-General for Australia, Accessed on 24 February 2019.
13. John Pomfret, "China’s meddling in Australia — and what the U.S. should learn from it ", The Washington Post, 14 June 2017.
14. Leigh Sales, "Hillary Clinton warns of Chinese influence on Australian politics ", ABC News, 14 May 2018.
Trước khi Trung Quốc được chấp thuận cho gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, lãnh đạo Trung Quốc ra vẻ hứa hẹn rằng vai trò của các công ty quốc doanh (SOEs) sẽ ngày càng gia giảm, các chính sách về kinh tế thị trường sẽ đến, tiền tệ Trung Quốc (đồng Nguyên) sẽ không bị thao túng, Trung Quốc sẽ không tích lũy thặng dư thương mại lớn, và các sáng chế và tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ tất nhiên sẽ được tôn trọng [1]. Bởi muốn làm thành viên của WTO thì các nước muốn gia nhập đều phải thoả mãn các điều kiện này.
Huawei là tâm điểm của vấn đề an ninh quốc gia trong lãnh vực công nghệ thông tin. Hình minh họa.
Trung Quốc hiểu rõ, và chuẩn bị đến 15 năm để được gia nhập vào WTO, nhưng rồi họ đều vi phạm tất cả các điều trên. Các công ty quốc doanh, chẳng hạn, vẫn phải tiếp tục phục vụ cho mục tiêu nhà nước hơn là các lực tác động của thị trường. Cũng nhờ luồn lách và bao che các chính sách này, nó đã giúp cho sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc ở tỷ lệ hai con số trở lên trong nhiều thập niên. Cách thức họ thao túng bằng chứng từ năm 1995 đến 2000 để thuyết phục Quốc hội Hoa Kỳ chấp nhận tư cách quan hệ thương mại bình thường và từ đó lót đường để được vào WTO đã được bà Lee, một người đào ngũ Bắc Kinh, trình bày với tiến sĩ Michael Pillsbury qua các tài liệu và họp mật mà bà đã chứng kiến và tham dự [2].
Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình không nằm trong văn hóa chính trị, ngoại giao hay nói chung cung cách hành xử của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Với cung cách hành xử như thế, các đối tác của Trung Quốc thường luôn dè dặt, đắn đo vì biết rằng Trung Quốc thường không tôn trọng những gì đã được ký kết. Các tiến trình lấy quyết định của họ thường đục ngầu. Ai là người lấy quyết định sau cùng, và chịu trách nhiệm, cho một vấn đề nào đó, thường rất kín đáo và bí mật.
Peter Varghese cho rằng cách xây dựng ảnh hưởng của Trung Quốc là đáng quan tâm sâu sắc, không phải chỉ vì nó là một nhà nước độc đảng độc tài với các tham vọng địa chính trị không thích ứng với quyền lợi của Úc [3]. Varghese là người từng đứng đầu Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT) từ năm 2012 đến 2016, và giữ vai trò Viện trưởng của Đại học Queensland từ đó đến nay. Varghese biện luận rằng chỉ khi nào các tiến trình xây dựng ảnh hưởng này càng rõ ràng thì Úc có thể đánh giá được cái gì bí mật và công khai, và cái gì có thể chấp nhận hay không chấp nhận được. Theo Varghese thì cơ quan tình báo Úc ASIO cần phải theo dõi chặt chẽ để biết được có những nỗ lực nào để xâm nhập và phá hoại hệ thống của Úc mà đi quá những gì luật pháp và quy định cho phép.
Ông Duncan Lewis, Tổng Giám đốc ASIO, cơ quan hữu trách tình báo của Úc, cảnh báo quốc hội Úc vào giữa năm 2018 rằng sựcan thiệp nước ngoàivào Úc đang xảy ra ở một mức độ chưa từng thấy, và "tình báo, can thiệp, phá hoại và hoạt động nội gián độc hại, có thể gây ra tác hại thảm khốc cho lợi ích của đất nước chúng ta" [4]. Trước đó, vào cuối năm 2017, sau cuộc kết hợp điều tra của hai cơ quan truyền thông ABC và Fairfax mà đã phơi bày những âm mưu tình báo và xâm nhập Trung Quốc lên chính trường và xã hội Úc, ông Lewis cũng cảnh báo chính phủ liên bang là cần phải rất ý thức về khả năng can thiệp của nước ngoài vào các trường đại học của Úc [5].
Can thiệp vào đại học Úc của Trung Quốc ở đây nên được hiểu ở nghĩa rộng, không chỉ là hoạt động của sinh viên hay giảng viên gốc Hoa trong các trường đại học tại Úc hay trên thế giới, mà còn là tín hiệu răng đe cảnh báo đối với các tiếng nói đối lập. Điển hình là trường hợp của giáo sư Chongyi Feng. Vào cuối tháng Ba năm 2017, Feng đã bị giam giữ tại Quảng Châu hơn một tuần, và bị thẩm phấn mỗi ngày, chỉ vì ông đã từng lên tiếng chỉ trích Bắc Kinh trên các cơ quan truyền thông Hoa ngữ về sự can thiệp của họ tại Úc và sự đàn áp đối với các nhà đối kháng [6]. Giáo sư Rory Medcalf, người đứng đầu Trường An ninh Quốc gia thuộc đại học ANU, nhận định rằng qua sự kiện bắt giam giáo sư Feng, tín hiệu rõ ràng mà Bắc Kinh muốn gửi đến người Úc gốc Hoa là "đừng chỉ trích sự can thiệp của đảng Cộng sản" vào các vấn đề nội bộ của Úc [7].
Ngược lại với cung cách làm việc tùy tiện và mờ ảo của các thể chế độc tài như Trung Quốc, trong các nền chính trị dân chủ đích thực, mọi hoạt động của các cơ quan công quyền, dù trực thuộc chính phủ hay độc lập, đều phải minh bạch và có trách nhiệm giải trình. Không một cơ quan hay cá nhân nào, kể cả những người đứng đầu các ngành tư pháp, hành pháp và lập pháp có quyền tuyệt đối. Tất cả đều có thời hạn phục vụ định kỳ, và có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm soát cân bằng quyền lực lẫn nhau. Nguyên tắc chi phối tổng quát là rằng bất cứ một tổ chức hay cơ quan nào nhận tài trợ từ nhà nước để hoạt động, nghĩa là đã sử dụng công quỹ, tiền thuế của công chúng, thì phải có trách nhiệm báo cáo hàng năm một cách minh bạch. Tất cả đều phải báo cáo định kỳ trước quốc hội hay các cơ quan liên quan trách nhiệm. Nguyên tắc này áp dụng cả các tổ chức tình báo trách nhiệm an ninh quốc phòng.
ASIO cũng không nằm ngoài quy định này. Như bản báo cáo thường niênnăm vừa qua [8]. Trong bản báo cáo này, Duncan Lewis cho biết năm 2017 – 2018 đánh dấu các thử thách đáng kể do các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài, nổi bật trong các tranh luận tại quốc hội cũng như công cộng. Lewis tiết lộ rằng các tác nhân nước ngoài đã hung hăng tìm kiếm thông tin bảo mật về các liên minh và đồng minh của Úc ; lập trường của Úc về vấn đề ngoại giao, kinh tế và quốc phòng ; nguồn lực năng lượng và khoáng sản ; và các sáng tạo trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Ngoài ra họ cũng đang cố gắng kín đáo ảnh hưởng lên quan điểm của các nhân vật công cộng và truyền thông của Úc, các viên chức chính quyền, và thành viên của các cộng đồng lưu vong có cơ sở tại Úc. Tuy bản báo cáo này không nêu đích danh thủ phạm, từ tên quốc gia cho đến danh tánh của những người liên hệ, người tìm hiểu vấn đề có thể suy luận và kết luận thủ phạm cũng như những thành phần can dự là ai.
Cũng cần nhắc lại là vào cuối năm 2017, trước sự gia tăng tình báo và xâm nhập của Trung Quốc, cựu Tổng trưởng Tư pháp Úc ông George Brandis đã bày tỏ mối quan tâm sâu sắc [9]. Brandis gửi thư cho cơ quan truyền thông ABC xác định rằng ông đã được Thủ tướng Malcolm Turnbull giao trách nhiệm rà soát lại toàn bộ luật về tình báo và can thiệp của nước ngoài, cũng như duyệt lại Bộ luật Hình sự 1995 để xem xét việc gia tăng khả năng điều tra và truy tố các hành vi tình báo và can thiệp nước ngoài. Brandis dự tính sẽ hoàn tất việc này vào cuối năm 2017. Nhưng sau khi hoàn tất đề nghị tu chính này vào cuối năm 2017 và trình bày cho công chúng để tham khảo ý kiến trước khi thông qua quốc hội Úc, nhiều tổ chức đã bày tỏ quan ngại rằng các sửa đổi trong dự luật đề nghị đã can thiệp quá nhiều vào một số quyền tự do, nhất là tự do diễn đạt, và có khả năng đưa đến những nạn nhân bất đắc dĩ vì các điều luật còn mơ hồ, chưa rõ ràng. Do đó hệ lụy sẽ tiêu cực. Cũng vì như thế mà mãi đến giữa năm 2018 sau khi duyệt xét và tranh luận sôi nổi, thì hai bộ luật về tình báo và can thiệp nước ngoài mới được toàn quốc hội thông qua [10].
Trước khi được thông qua, Thượng viện Úc đã mời các chuyên gia, những người đứng đầu các cơ quan an ninh quốc gia cũng như các cơ quan hay chuyên gia độc lập đến trình bày quan điểm của mình vào tháng Ba năm 2018 [11]. Qua cuộc điều trần này, chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn các vấn đề này, bởi các bản tin và phân tích trên các cơ quan truyền thông chính mạch, kể cả các cơ quan uy tín hàng đầu, thường không có nhiều thì giờ và không thể đề cập đến nhiều khía cạnh phức tạp và sâu sắc.
Trong phạm vi ngắn ngủi của bài này, tôi muốn đề cập đến ba điều đáng nói nhất qua cuộc điều trần của ông Duncan Lewis.
Thứ nhất, ông Lewis xác định rằng hiện tại đang có vô số các thế lực thù nghịch vô cùng đa dạng muốn đi ngược lại quyền lợi của Úc hơn cả trước đây, ngay cả thời Chiến tranh Lạnh, và tầm vóc và mức độ tinh vi của các hoạt động này đã gia tăng đáng kể. Nền dân chủ mở rộng của Úc, bao gồm sự tự do di chuyển tiền, người và thông tin, điều đã làm giàu cho nước Úc và xã hội Úc, lại là các mũi nhọn mà các tình báo nước ngoài có thể sử dụng để tấn công Úc. Thay vì sử dụng tình báo, các tác nhân nước ngoài đã vận dụng các hoạt động rộng khắp qua chiến thuật can thiệp nước ngoài. Họ có thể sử dụng người Úc địa phương để quan sát và công kích cộng đồng lưu vong qua việc tuyển dụng và hợp tác với các tiếng nói ảnh hưởng và quyền lực để vận động những người có quyền lực quyết định. Nông nghiệp, công nghệ khai thác khoáng sản, nghiên cứu y tế, các lĩnh vực nghiên cứu và phát triển đại học, và tài chánh, đều bị ảnh hưởng. Tóm lại, khó có một lĩnh vực nào được miễn nhiễm từ các hoạt động này.
Thứ hai, ông Lewis nhấn mạnh để đối phó với tình hình phức tạp mới thì Úc phải thay đổi luật. Ông nói rằng "trong khi chúng ta ngồi đây tìm cách đóng các kẻ hở của luật thì những kẻ tìm cách phá hoại sẽ tìm lổ hỏng để khai thác". Các hoạt động tình báo và can thiệp ngày càng tinh vi đến độ ảnh hưởng của nó không dễ nhìn thấy cho đến nhiều năm về sau, khi mà hậu quả của nó không thể đảo ngược được. Nhưng luật hiện hành đã lỗi thời và thiếu sót, và trong trường hợp các hoạt động can thiệp nước ngoài thì không có hình phạt nào cả. Hệ quả của vấn đề này là quyền tự do quyết định và quyền lợi căn cốt của quốc gia này đã không được bảo vệ bởi pháp quyền. Nói cách khác, ASIO nắm rõ các hoạt động tình báo và xâm nhập nước ngoài nhưng luật hiện hành không ủy quyền cho ASIO làm việc với các cơ quan thi hành pháp luật khác để bảo đảm việc bắt giữ và truy tố những kẻ tham dự vào các hoạt động này. Theo Lewis thì luật lệ sẽ cung cấp các phương tiện cần thiết và mạnh mẽ để ngăn chặn và phá vỡ các hoạt động mà các cơ quan an ninh một mình không thể đạt được. Khi luật được thông qua và ban hành, các vụ truy tố tội phạm về các vi phạm tình báo, can thiệp nước ngoài, bí mật, phá hoại và tình báo kinh tế sẽ được trắc nghiệm tại các tòa án Úc và sẽ được truyền thông Úc đưa tin, qua đó những kẻ có âm mưu cũng phải suy nghĩ lại.
Thứ ba, ông Lewis biện luận luật nên áp dụng đồng đều và rộng khắp, không ngoại lệ. Ông Lewis không tán thành các đề nghị là có những địa hạt nên được miễn nhiễm về các luật này. Theo ông thì các miễn trừ (exemptions) trên căn bản có thể làm suy yếu/phá hoại luật này. Nếu giới truyền thông, hay các địa hạt khác, được ngoại lệ, thì sẽ làm cho luật ban hành không hiệu quả. Ông nhận xét rằng các ký giả truyền thông và các nhân viên tình báo, tuy có động cơ khác nhau, nhưng hoạt động không khác nhau bao nhiêu. Cả hai đều theo đuổi các thông tin và sự thẩm thấu vấn đề mà phần lớn nằm ngoài tầm của công chúng. Cũng vì như thế nên nghề ký giả có thể là sự bao bọc khá lý tưởng cho các thế lực nước ngoài để che đậy các hoạt động tình báo của họ, và các ký giả cũng vì như thế mà không có gì ngạc nhiên khi họ được các tình báo nước ngoài tiếp cận. Ông Lewis đã công nhận vai trò quan trọng của truyền thông trong việc đưa thông tin và phân tích để người dân hiểu rõ các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài trong thời gian qua, nhưng ông cũng cảnh giác rằng những thế lực nước ngoài sẽ khai dụng kẻ hở nếu ký giả/truyền thông nói chung được miễn nhiễm từ luật này.
Cuối năm 2017, ký giả Angus Grigg của báo The Australian Financial Review đã cho biết một tình báo Trung Quốc đã tìm cách tuyển mộ ông, và trong phần điều trần, ông Lewis cũng xác nhận rằng cách thức của trường hợp này có vẻ nhất quán một cách kinh ngạc với các trường hợp mà ASIO điều tra, dù ông không thể nêu tên bất cứ ai, cơ quan hay quốc gia nào [12]. Về vấn đề này, người Việt có lẽ cũng không lạ gì với trường hợp tình báo nổi tiếng Phạm Xuân Ẩn, nhất là qua tác phẩm Điệp Viên Hoàn Hảo của Larry Berman.
Tuy các đề nghị của ông Lewis nghe khá hợp lý, một nền dân chủ đề cao quyền và tự do là giá trị cao cả nhất của con người có chấp thuận các đề nghị này không khi truyền thông đóng vai trò quan trọng cho tự do thông tin và bày tỏ ?
Úc Châu, 20/02/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 22/02/2019
Tài liệu tham khảo :
1. Michael Pillsbury, "One Hundred Years Marathon", Henry Holt and Company, February 2015 ; Chương 8, trang 166.
2. Như trên, trang 167.
3. Nick McKenzie, Richard Baker, Sashka Koloff and Chris Uhlmann, "The Chinese Communist Party's power and influence in Australia ", Four Corners, ABC, 29 March 2018.
4. Bevan Shields, "ASIO chief Duncan Lewis sounds fresh alarm over foreign interference threat ", Sydney Morning Herald, 24 May 2018.
5. Stephen Dziedzic, "Government needs to be 'very conscious' of foreign interference in Australian universities, ASIO says ", ABC News, 25 October 2017.
6. Andrew Greene, "Chongyi Feng's detention in China a blunt warning to Chinese Australians ", ABC News, 2 April 2017.
7. Primrose Riordan and Rachel Baxendale, "Detention of Chinese professor ‘an attack on Australian freedom’ ", The Australian, 31 March 2017.
8. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2017 - 2018 , 25 September 2018.
9. George Brandis, "Statement to 4 Corners from Attorney-General ", ABC Four Corners, 2 June 2017.
10. Matthew Doran, "Senate rushes through foreign interference legislation before by-elections across the country ", ABC News, 28 June 2018.
11. Parliamentary Hearing, "PJCIS inquiry on the National Security Legislation Amendment (Espionage and Foreign Interference) Bill 2017 ", Official Committee Hansard, Parliamentary Joint Committee on Intelligence and Security, 16 March 2018.
12. Paul Karp, "Journalists would be recruited as foreign spies if exempted from new laws, Asio warns ", The Guardian, 16 March 2018.
Trong bang giao quốc tế nói riêng cũng như trong mọi quan hệ chuyên nghiệp nói chung, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình càng cao thì sự tin tưởng, tín nhiệm và hợp tác lâu dài sẽ gia tăng : và ngược lại. Thiếu sự minh bạch thì làm sao biết được đâu là sự thật, làm sao đánh giá được chính xác tại sao một vấn đề được công khai hay giấu kín, và làm sao lượng định được mục tiêu và động cơ của sự công khai hay giấu giếm đó là gì ?…
Nước Úc đang đối diện với cung cách hành xử không minh bạch của người Trung Quốc trên toàn lãnh thổ - Hình minh họa.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình không nằm trong văn hóa chính trị, ngoại giao hay nói chung cung cách hành xử của Trung Quốc.
Trước khi Trung Quốc được chấp thuận cho gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, lãnh đạo Trung Quốc ra vẻ hứa hẹn rằng vai trò của các công ty quốc doanh (SOEs) sẽ ngày càng gia giảm, các chính sách về kinh tế thị trường sẽ đến, tiền tệ Trung Quốc (CNY-đồng Nguyên) sẽ không bị thao túng, Trung Quốc sẽ không tích lũy thặng dư thương mại lớn, và các sáng chế và tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ tất nhiên sẽ được tôn trọng [1]. Bởi muốn làm thành viên của WTO thì các nước muốn gia nhập đều phải thoả mãn các điều kiện này.
Trung Quốc hiểu rõ, và chuẩn bị đến 15 năm để được gia nhập vào WTO, nhưng rồi họ đều vi phạm tất cả các điều trên. Các công ty quốc doanh, chẳng hạn, vẫn phải tiếp tục phục vụ cho mục tiêu nhà nước hơn là các lực tác động của thị trường. Cũng nhờ luồn lách và bao che các chính sách này, nó đã giúp cho sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc ở tỷ lệ hai con số trở lên trong nhiều thập niên. Cách thức họ thao túng bằng chứng từ năm 1995 đến 2000 để thuyết phục Quốc hội Hoa Kỳ chấp nhận tư cách quan hệ thương mại bình thường và từ đó lót đường để được vào WTO đã được bà Lee, một người đào ngũ Bắc Kinh, trình bày với tiến sĩ Michael Pillsbury qua các tài liệu và họp mật mà bà đã chứng kiến và tham dự [2].
Với cung cách hành xử như thế, các đối tác của Trung Quốc thường luôn dè dặt, đắn đo vì hiểu rằng Trung Quốc thường không tôn trọng những gì đã được ký kết. Các tiến trình lấy quyết định của họ thường tối mù, đục ngầu. Ai là người lấy quyết định sau cùng, và chịu trách nhiệm, cho một vấn đề nào đó v.v… thường rất kín đáo và bí mật.
Peter Varghese cho rằng cách xây dựng ảnh hưởng của Trung Quốc là đáng quan tâm sâu sắc, không phải chỉ vì nó là một nhà nước độc đảng độc tài với các tham vọng địa chính trị không thích ứng với quyền lợi của Úc [3]. Varghese là người từng đứng đầu Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT) từ năm 2012 đến 2016, và giữ vai trò Viện trưởng của Đại học Queensland từ đó đến nay. Varghese biện luận rằng chỉ khi nào các tiến trình xây dựng ảnh hưởng này càng rõ ràng thì Úc có thể đánh giá được cái gì bí mật và công khai, và cái gì có thể chấp nhận hay không chấp nhận được. Theo Varghese thì cơ quan tình báo Úc ASIO cần phải theo dõi chặt chẽ để biết được có những nỗ lực nào để xâm nhập và phá hoại hệ thống của Úc mà đi quá những gì luật pháp và quy định cho phép.
Ông Duncan Lewis, Tổng Giám đốc ASIO, cơ quan hữu trách tình báo của Úc, cảnh báo quốc hội Úc vào giữa năm 2018 rằng sựcan thiệp nước ngoàivào Úc đang xảy ra ở một mức độ chưa từng thấy, và "tình báo, can thiệp, phá hoại và hoạt động nội gián độc hại, có thể gây ra tác hại thảm khốc cho lợi ích của đất nước chúng ta" [4]. Trước đó, vào cuối năm 2017, sau cuộc kết hợp điều tra của hai cơ quan truyền thông uy tín ABC và Fairfax mà đã phơi bày những âm mưu tình báo và xâm nhập Trung Quốc lên chính trường và xã hội Úc, ông Lewis cũng cảnh báo chính phủ liên bang là cần phải rất ý thức về khả năng can thiệp của nước ngoài vào các trường đại học của Úc [5].
Can thiệp của Trung Quốc ở đây nên được hiểu ở nghĩa rộng, không chỉ là hoạt động của sinh viên hay giảng viên gốc Hoa trong các trường đại học tại Úc hay trên thế giới, mà còn là tín hiệu răn đe cảnh báo đối với các tiếng nói đối lập. Điển hình là trường hợp của giáo sư Chongyi Feng. Feng đã bị giam giữ tại Quảng Châu hơn một tuần, bị thẩm phấn mỗi ngày, chỉ vì ông đã từng lên tiếng chỉ trích Bắc Kinh trên các cơ quan truyền thông Hoa ngữ về sự can thiệp của họ tại Úc và sự đàn áp đối với các nhà đối kháng [6]. Giáo sư Rory Medcalf, người đứng đầu Trường An ninh Quốc gia thuộc đại học ANU, nhận định rằng qua sự kiện bắt giam giáo sư Feng, tín hiệu rõ ràngmà Bắc Kinh muốn gửi đến người Úc gốc Hoa là "đừng chỉ trích sự can thiệp của đảng Cộng sản" vào các vấn đề nội bộ của Úc [7].
Ngược lại với cung cách làm việc tùy tiện và mờ ảo của các thể chế độc tài như Trung Quốc, trong các nền chính trị dân chủ đích thực, mọi hoạt động của các cơ quan công quyền, dù trực thuộc chính phủ hay độc lập, đều phải minh bạch và trách nhiệm giải trình. Không một cơ quan hay cá nhân nào, kể cả những người đứng đầu các ngành tư pháp, hành pháp và lập pháp có quyền tuyệt đối, tất cả đều có thời hạn phục vụ định kỳ, và có nhiệm vụ kiểm soát cân bằng quyền lực lẫn nhau. Nguyên tắc chi phối tổng quát là rằng bất cứ một tổ chức hay cơ quan nào nhận tài trợ từ nhà nước để hoạt động, nghĩa là đã sử dụng công quỹ, thì phải có trách nhiệm báo cáo hàng năm một cách minh bạch. Tất cả đều phải báo cáo định kỳ trước quốc hội hay các cơ quan liên quan trách nhiệm khác. Nguyên tắc này áp dụng cả các tổ chức tình báo lo về an ninh quốc phòng.
ASIO cũng không nằm ngoài quy định này. Như bản báo cáo thường niênnăm vừa qua [8]. Trong bản báo cáo này, Duncan Lewis, Tổng Giám đốc ASIO, cho biết năm 2017 – 2018 đánh dấu các thử thách đáng kể do các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài, nổi bật trong các tranh luận tại quốc hội cũng như công cộng. Lewis cho biết các tác nhân nước ngoài đã hung hăng tìm kiếm thông tin phân loại/bảo mật về các liên minh và đồng minh của Úc : lập trường của Úc về vấn đề ngoại giao, kinh tế và quốc phòng : nguồn lực năng lượng và khoáng sản : và các sáng tạo trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Ngoài ra họ cũng đang cố gắng kín đáo ảnh hưởng lên quan điểm của các nhân vật công cộng và truyền thông của Úc, các viên chức chính quyền, và thành viên của các cộng đồng lưu vong có cơ sở tại Úc. Tuy bản báo cáo này không nêu đích danh thủ phạm, từ tên quốc gia cho đến danh tánh của những người liên hệ trong bản báo cáo này, người tìm hiểu vấn đề có thể suy luận và kết luận thủ phạm cũng như những thành phần can dự là ai.
Cũng cần nhắc lại là vào cuối năm 2017, trước sự gia tăng tình báo và xâm nhập của Trung Quốc, điều mà các cơ quan truyền thông Úc đã điều tra và phổ biến rộng khắp, cựu Tổng trưởng Tư pháp Úc ông George Brandis đã bày tỏ mối quan tâm sâu sắc [9]. Brandis gửi thư cho cơ quan truyền thông ABC xác định rằng ông đã được Thủ tướng Malcolm Turnbull giao trách nhiệm rà soát lại toàn bộ luật về tình báo và can thiệp của nước ngoài, cũng như duyệt lại Bộ luật Hình sự 1995 để xem xét việc gia tăng khả năng điều tra và truy tố các hành vi tình báo và can thiệp nước ngoài. Brandis dự tính sẽ hoàn tất việc này vào cuối năm 2017. Nhưng sau khi hoàn tất đề nghị tu chính này vào cuối năm 2017 và trình bày cho công chúng để tham khảo ý kiến trước khi thông qua quốc hội Úc, nhiều tổ chức đã bày tỏ quan ngại rằng các sửa đổi trong dự luật đề nghị đã can thiệp quá nhiều vào một số quyền tự do, nhất là tư do diễn đạt, và có khả năng đưa đến những nạn nhân bất đắc dĩ vì các điều luật còn mơ hồ, chưa rõ ràng. Do đó hệ lụy sẽ tiêu cực. Cũng vì như thế mà mãi đến giữa năm 2018 sau khi duyệt xét và tranh luận sôi nổi, thì hai bộ luật về tình báo và can thiệp nước ngoài mới được toàn quốc hội thông qua [10].
Trước khi được thông qua, Thượng viện Úc đã mời các chuyên gia, những người đứng đầu các cơ quan an ninh quốc gia cũng như các cơ quan hay chuyên gia độc lập đến trình bày quan điểm của mình vào tháng Ba năm 2018 [11]. Qua cuộc điều trần này, chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn các vấn đề này, bởi các bản tin và phân tích trên các cơ quan truyền thông chính mạch, kể cả các cơ quan uy tín hàng đầu, thường không có nhiều thì giờ và không thể đề cập đến nhiều khía cạnh phức tạp và sâu sắc về vấn đề này.
Trong phạm vi ngắn ngủi của bài này, tôi muốn đề cập đến ba điều đáng nói nhất qua cuộc điều trần của ông Duncan Lewis.
Thứ nhất, ông Lewis xác định rằng hiện tại đang có vô số các thế lực thù nghịch vô cùng đa dạng muốn đi ngược lại quyền lợi của Úc hơn cả trước đây, ngay cả thời Chiến tranh Lạnh, và tầm vóc và mức độ tinh vi của các hoạt động này đã gia tăng đáng kể. Nền dân chủ mở rộng của Úc, bao gồm sự tự do di chuyển tiền, người và thông tin, điều đã làm giàu cho nước Úc và xã hội Úc, lại là các mũi nhọn mà các tình báo nước ngoài có thể sử dụng để tấn công Úc. Thay vì sử dụng tình báo, các tác nhân nước ngoài đã vận dụng các hoạt động rộng khắp qua chiến thuật can thiệp nước ngoài. Họ có thể sử dụng người Úc địa phương để quan sát và công kích cộng đồng lưu vong qua việc tuyển dụng và hợp tác với các tiếng nói ảnh hưởng và quyền lực để vận động những người có quyền lực quyết định. Nông nghiệp, công nghệ khai thác khoáng sản, nghiên cứu y tế, các lĩnh vực nghiên cứu và phát triển đại học, và tài chánh, đều bị ảnh hưởng. Tóm lại, khó có một lĩnh vực nào được miễn nhiễm từ các hoạt động này.
Thứ hai, các hoạt động tình báo và can thiệp ngày càng tinh vi đến độ ảnh hưởng của nó không dễ nhìn thấy cho đến nhiều năm về sau, khi mà hậu quả của nó không thể đảo ngược được. Nhưng luật hiện hành đã lỗi thời và thiếu sót, và trong trường hợp các hoạt động can thiệp nước ngoài thì không có hình phạt nào cả. Hệ quả của vấn đề này là quyền tự do quyết định và quyền lợi căn cốt của quốc gia này đã không được bảo vệ bởi pháp quyền. Nói cách khác, ASIO nắm rõ các hoạt động tình báo và xâm nhập nước ngoài nhưng luật hiện hành không ủy quyền cho ASIO làm việc với các cơ quan thi hành pháp luật khác để bảo đảm việc bắt giữ và truy tố những kẻ tham dự vào các hoạt động này. Theo Lewis thì luật lệ sẽ cung cấp các phương tiện cần thiết và mạnh mẽ để ngăn chặn và phá vỡ các hoạt động mà các cơ quan an ninh một mình không thể đạt được. Khi luật được thông qua và ban hành, các vụ truy tố tội phạm về các vi phạm tình báo, can thiệp nước ngoài, bí mật, phá hoại và tình báo kinh tế sẽ được trắc nghiệm tại các tòa án Úc và sẽ được truyền thông Úc đưa tin, qua đó những kẻ có âm mưu cũng phải suy nghĩ lại. Ông Lewis cho rằng trong khi chúng ta ngồi đây tìm cách đóng các kẻ hở của luật thì những kẻ tìm cách phá hoại sẽ tìm lỗ hỏng để khai thác.
Thứ ba, ông Lewis không tán thành các đề nghị là có những địa hạt nên được miễn nhiễm về các luật này. Theo ông thì các miễn trừ (exemptions) trên căn bản có thể làm suy yếu/phá hoại luật này. Nếu giới truyền thông, hay các địa hạt khác, được ngoại lệ, thì sẽ làm cho luật ban hành không hiệu quả. Ông Lewis nhận xét rằng các ký giả truyền thông và các nhân viên tình báo, tuy có động cơ khác nhau, nhưng hoạt động không khác nhau bao nhiêu. Cả hai đều theo đuổi các thông tin và sự thẩm thấu vấn đề mà phần lớn nằm ngoài tầm của công chúng. Cũng vì như thế nên nghề ký giả có thể là sự che đậy lý tưởng cho các thế lực nước ngoài để che đậy các hoạt động tình báo của họ, và các ký giả cũng vì như thế mà không có gì ngạc nhiên khi họ được các tình báo nước ngoài tiếp cận. Ông Lewis đã công nhận vai trò quan trọng của truyền thông trong việc đưa thông tin và phân tích để người dân hiểu rõ các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài trong thời gian qua, nhưng ông cũng cảnh giác rằng những thế lực nước ngoài sẽ khai dụng kẻ hở nếu ký giả/truyền thông nói chung được miễn nhiễm từ luật này.
Ký giả Angus Grigg của báo The Australian Financial Review đã cho biết một tình báo viên Trung Quốc đã tìm cách tuyển mộ ông, và trong phần điều trần của ông Lewis, ông cũng xác nhận rằng cách thức của trường hợp này có vẻ nhất quán một cách kinh ngạc với các trường hợp mà ASIO điều tra, dù ông không thể nêu tên bất cứ ai, cơ quan hay quốc gia nào [12]. Về vấn đề này, người Việt có lẽ cũng không lạ gì với trường hợp tình báo nổi tiếng Phạm Xuân Ẩn qua tác phẩm Điệp Viên Hoàn Hảo của Larry Berman.
Tuy các đề nghị của ông Lewis nghe rất hợp lý, một nền dân chủ đề cao quyền và tự do là giá trị cao cả nhất của con người có chấp thuận tất cả các đề nghị này không khi truyền thông đóng vai trò quan trọng cho tự do thông tin ?
Úc Châu, 19/02/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 21/02/2019
Tài liệu tham khảo :
1. Michael Pillsbury, "One Hundred Years Marathon", Henry Holt and Company, February 2015 : Chương 8, trang 166.
2. Như trên, trang 167.
3. Nick McKenzie, Richard Baker, Sashka Koloff and Chris Uhlmann, "The Chinese Communist Party's power and influence in Australia ", Four Corners, ABC, 29 March 2018.
4. Bevan Shields, "ASIO chief Duncan Lewis sounds fresh alarm over foreign interference threat ", Sydney Morning Herald, 24 May 2018.
5. Stephen Dziedzic, "Government needs to be 'very conscious' of foreign interference in Australian universities, ASIO says ", ABC News, 25 October 2017.
6. Andrew Greene, "Chongyi Feng's detention in China a blunt warning to Chinese Australians ", ABC News, 2 April 2017.
7. Primrose Riordan and Rachel Baxendale, "Detention of Chinese professor ‘an attack on Australian freedom’ ", The Australian, 31 March 2017.
8. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2017 - 2018 , 25 September 2018.
9. George Brandis, "Statement to 4 Corners from Attorney-General ", ABC Four Corners, 2 June 2017.
10. Matthew Doran, "Senate rushes through foreign interference legislation before by-elections across the country ", ABC News, 28 June 2018.
11. Parliamentary Hearing, "PJCIS inquiry on the National Security Legislation Amendment (Espionage and Foreign Interference) Bill 2017 ", Official Committee Hansard, PARLIAMENTARY JOINT COMMITTEE ON INTELLIGENCE AND SECURITY, 16 March 2018.
12. Paul Karp, "Journalists would be recruited as foreign spies if exempted from new laws, Asio warns ", The Guardian, 16 March 2018.
Hôm nay là Valentine’s Day. Có người gọi là Ngày Tình nhân. Nghĩa rộng là tình yêu giữa con người với nhau. Nghĩa hẹp là giữa hai người với nhau.
Valentine's Day.
Lịch sử của Ngày Tình nhân có nhiều điều thú vị và tranh cãi. Điều đáng nói là vào đầu thế kỷ 18, người Mỹ đã bắt đầu trao cho nhau các món quà Valentine làm bằng tay, thư tình hay các kỹ vật biểu lộ tình cảm. Khi kỹ nghệ in ấn hiện hành vào thế kỷ 20, người ta bắt đầu gửi nhau thiệp in thay vì thư từ như trước. Tại Mỹ ước đoán khoảng 145 thiệp Valentine gửi cho nhau mỗi năm, số lượng này chỉ sau số thiệp Giáng Sinh (bây giờ có lẽ số lượng này đã giảm hẳn và thay vào đó là điện tin và điện thư).
Sáng nay tôi đi làm sớm, đến nơi lúc 7 giờ 30 sáng. Ngồi không lâu thì có bốn đồng nghiệp cũng đến. Đều là phái nữ. Một người nói lớn Chúc mừng Ngày Valentine (Happy Valentine’s Day). Tất cả, kể cả tôi, đều lập lại lời chúc này cho nhau, và cùng cười ồ lên.
Hẳn nhiên sau nụ cười của mỗi người đều có lý do riêng, tâm trạng riêng. Cả bốn cô bạn đồng nghiệp đều đã có đời chồng. Nhưng tất cả đều ly dị. Chỉ có hai người là đã có một cuộc hôn nhân mới, hai người còn lại tiếp tục độc thân. Cuộc sống ở đây vốn cá nhân và vì thế khá cô đơn, do đó Valentine’s Day không hẳn là một ngày vui đối với mọi người.
Theo cơ quan thống kê chính thức của Úc vào năm 2016 thì tuổi ly dị trung bình của người đàn ông là 45,5 và đàn bà là 42,9. Có 46,9 phần trăm ly dị có liên quan đến con cái. Tổng cộng có 40.202 trẻ con trong các trường hợp ly dị năm 2016 (dân số Úc khoảng 25 triệu). Tính ra trung bình có 1,8 trẻ con cho mỗi trường hợp ly dị. Thời gian trung bình từ lúc cưới nhau đến lúc ly dị là 12 năm theo thống kê năm 2016. So với năm 2006 thì khoảng thời gian là 12.5 năm. Nghĩa là thời gian sống chung với nhau trước khi chia tay ngày càng giảm bớt.
Theo nghiên cứu thì có đến 69 phần trăm các vấn đề/xung khắc giữa các mối quan hệ không bao giờ biến mất. Những vấn đề này là kết quả của bao sự khác biệt về cá tính, nhu cầu đời sống và sự mong đợi giữa các đôi tình nhân. Có những vấn đề cãi đi cãi lại bao nhiêu năm mà vẫn không giải quyết ổn thoả. Nhưng cũng có những vấn đề mới. Đã là bạn đời thì chúng ta sẽ vật lộn với các vấn đề như thế trong mười, hai chục hay ngay cả năm sáu chục năm, mà chưa chắc gì giải quyết được, trừ phi chia tay. Nếu quyết định sống với nhau trọn đời, thì khi đối diện với các vấn đề như thế - những thói quen tưởng chừng như không thể chịu nỗi, những suy nghĩ tưởng chừng như không còn gì vô lý hơn - thì chúng ta dễ cảm thấy bế tắc. Dễ cảm thấy đổ vỡ. Càng muốn giải quyết thì lại càng dễ đưa đến đổ vỡ.
Theo các chuyên gia vềquan hệ hôn nhân thì ý tưởng rằng các cặp hôn nhân phải giải quyết mọi vấn đề của họ là chuyện hoang đường. Bất đồng hay bất hoà trong quan hệ là điều bình thường, tự nhiên, và chính nó có những khía cạnh tích cực. Khi gây gỗ hay cãi nhau, nó dạy cho chúng ta làm sao thương yêu nhau hơn, làm sao để lùi lại một bước từ vấn đề đó để hiểu người bạn đời của mình hơn. Nó cũng dạy cho chúng ta cách thích ứng với những thay đổi trong mối quan hệ khi nó chuyển hoá.
Tóm lại, chuyện gây gỗ nhau là không bao giờ hết trong quan hệ hôn nhân. Những bế tắc trong cách giải quyết dễ đưa đến sự mất tin tưởng nhau. Nhưng những cặp hôn nhân hạnh phúc lâu dài là người có thể nói chuyện, trao đổi về các vấn đề đó với nhiều cảm xúc tích cực, với tiếng cười, lòng thương và sự trân qúy nhau. Nếu không nói chuyện được với nhau thì phần lớn là vì không cảm thấy an toàn khi chia sẻ cảm nghĩ của mình. Có thể là vì những kinh nghiệm tiêu cực từng xảy ra cho một người, ngay cả khi còn rất nhỏ, và cũng có thể vì một người trong quan hệ đó cảm thấy bị bỏ mặc, trong khi người kia không còn quan tâm nữa. Điều đó dễ làm cho một người cảm thấy dễ bị tổn thương khi thổ lộ tâm tình hay ý nghĩ của mình. Cho nên mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ hai người cảm thấy an toàn để nói chuyện, chia sẻ cảm nghĩ để hiểu nhau hơn, chứ không nhất thiết lúc nào cũng phải tìm giải pháp cho các xung khắc.
Lúc mới yêu nhau, chúng ta hẳn nhiên cảm giác rất khác. Rất yêu đời và lạc quan.
Vào cái thưở ban đầu của tình yêu thắm thiết đó, cái gì chúng ta cũng muốn biết về người yêu của mình. Nhu cầu, sở thích, thang giá trị, gánh nặng/khó khăn, quan điểm về con người/thế giới v.v… Chúng ta muốn tâm sự, muốn trải hết lòng mình. Nói cách khác, chúng ta muốn làm người du hành vào thế giới của người mình yêu để tìm hiểu và khám phá không ngừng mọi suy nghĩ, mọi ưu tư, mọi nỗi niềm và hạnh phúc của người yêu. Chúng ta đều là những người du hành đầy nhiệt thành. Có những cặp tình nhân tâm sự cả đêm, nhiều khi đến sáng, kể cho nhau nghe về những gì rất riêng tư mà hiếm thổ lộ với ai, mà vẫn không biết mệt ngay cả khi phải dậy sớm để đi làm hôm đó. Lúc đó họ chỉ muốn thời gian ngừng lại. Tình yêu là sức mạnh vô biên.
Khi cưới nhau xong, sau vài năm, sau khi có con, hay sau khi gặp khó khăn về cuộc sống, phần lớn nhiều cặp vợ chồng đã không còn hàn huyên tâm sự với nhau như thưở trước khi cưới. Đại đa số, nếu vẫn còn với nhau, thì không còn là những người du hành nhiệt huyết như trước nữa. Có người vợ bảo : "Tôi cảm thấy bị cách ly khỏi anh ấy. Anh ấy không còn quan tâm gì đến những cảm xúc của tôi". Còn người chồng thì : "Cô ấy không bao giờ hỏi tôi về những gì tôi quan tâm nữa. Những gì cô ấy nói với tôi toàn là những việc tôi cần phải làm trong nhà".
Rất nhiều cặp vợ chồng không còn thấy gắn bó nữa vì họ đã đánh mất nghệ thuật du hành vào không gian tình yêu của người bạn đời mình. Họ đã không còn ưu tiên hóa việc này, không để tâm dành thời gian cho nhau tìm hiểu nhau. Nhưng còn một lý do quan yếu khác là họ nghĩ họ quá biết nhau rồi, nhất cử nhất động đều biết, thì đâu cần lý do để tìm hiểu nhau nữa.
Có thật là mình hiểu hết người bạn đời mình không ? Hay trong những năm qua tuy khoảng cách không gian vẫn gần nhau nhưng khoảng cách "yêu thương" càng xa dần, mà không nhận ra !
Nhà trị liệu gia đình nổi tiếng Esther Perel nhắc nhở rằng "điều bí ẩn không phải là đi đến những nơi mới lạ, mà là nhìn bằng lăng kính mới" (mystery is not about traveling to new places, it is about looking with new eyes). Nhà tâm lý Dan Gilbert thì cho rằng "sự bất biến duy nhất trong cuộc sống của chúng ta là sự thay đổi" (the only constant in life is change).
Cho nên vấn đề chính không phải là người bạn đời của mình, mà chủ yếu là vì thái độ của chính mình và kiến thức giới hạn của mình trong việc khám phá ra cái thế giới nội tâm của người bạn đời, bằng niềm vui và sự tự phát như thưở ban đầu mới yêu nhau.
Do đó muốn duy trì hạnh phúc gia đình thì mỗi người cần nỗ lực dành thời gian cho nhau, tâm sự và khám phá cái thế giới nội tâm của nhau.
Tình nhân là tình yêu thương giữa hai người với nhau. Rộng hơn, là tình yêu thương giữa con người với nhau. Muốn duy trì mái ấm gia đình, muốn gia tăng sự gắn bó và hòa đồng trong một tập thể, và rộng hơn nữa, giữa người dân trong một quốc gia, tình yêu thương, truyền thông và/để cảm thông, là điều không thể thiếu được. Yêu nước là gì nếu không phải là yêu người. Còn rêu rao yêu nước nhưng chỉ giết nhau, hãm hại, đầy đọa hoặc (gây) thù hận nhau thì đó là nguỵ biện. Đó chỉ là chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hoặc tệ hơn, là son phấn tô điểm cho những toan tính ích kỷ vì quyền lợi và quyền lực của cá nhân và bè phái.
Ngày Tình nhân năm nay, xin mọi người đừng quên bày tỏ tình yêu thương của mình dành cho người mình thương yêu. Chúng ta có rất nhiều cách để bày tỏ tình thương yêu cho người yêu, người bạn hay những ai mình muốn họ cảm thấy đặc biệt trong ngày này. Đừng để quá trễ, để cơ hội đi qua. Nhiều người ở giai đoạn cuối cuộc đời cho biết rằng hai trong năm điều hối tiếc nhất trong cuộc đời mà họ chưa làm được là "Tôi ước gì tôi có sự can đảm để bày tỏ cảm xúc của mình" và "Tôi ước gì tôi để cho mình được hạnh phúc hơn". Chỉ khi nào một người chánh niệm rõ điều này thì mới thực hiện được mong ước của mình.
Cuộc đời vốn ngắn ngủi. Ai trong chúng ta cũng mong muốn được hạnh phúc. Những người cho nhiều, thương yêu nhiều, thường hạnh phúc hơn người khác. Cho mà không cần nhận, không có điều kiện đi kèm, thì quả là phúc lớn. Dẫu không cần nhận, người cho rồi cũng sẽ được cho lại. Luật nhân quả khoa học là vậy.
Úc Châu, 14/02/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 14/02/2019
Cách đây không lâu, Huang Xiangmo là một trong hai người Trung Quốc có ảnh hưởng mạnh mẽ lên chính giới và hai đảng chính trị lớn nhất của Úc, đảng Lao động và đảng Cấp tiến. Người kia là Chau Chak Wing. Cả hai được tuyên dương vì các đóng góp từ thiện đáng kể cũng như hỗ trợ tài chánh cho các hoạt động của chính đảng.
Lãnh đạo đảng đối lập, Bill Shorten, cầm bức hình có ngoại trưởng Úc, Julie Bishop, và doanh gia Trung Quốc, Huang Xiangmo, trong phần chất vấn tại Quốc hội Úc, 14 tháng Sáu, 2017.
Giờ đây âm mưu đằng sau hai nhân vật này đã được vạch trần trên phương tiện truyền thông Úc. Cả hai ông Huang và Chau bị tố cáo làm cánh tay dài của Bắc Kinh. Ông Chau (biệt danh CC3) cũng bị dân biểu Andrew Hastie tố cáo tại Quốc hội Úc về hành vi lũng đoạn Liên Hiệp Quốc qua vụ hối lộ cố Chủ tịch Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc John Ashe. Còn hồ sơ xin gia nhập công dân của ông Huang thì mới đây đã bị từ chối, và tư cách thường trú nhân của ông cũng bị hủy bỏ. Tuy có biệt thự trị giá 13 triệu đô la tại Sydney, ông Huang hiện đang ở ngoài Úc (có nguồn tin cho rằng ông đang ở Bắc Kinh, nguồn khác thì nói Hồng Kông) nên có xác xuất là ông không bao giờ được quay về lại ngôi nhà này của mình. Quyết định của chính phủ Úc đối với hồ sơ di trú của ông Huang đã gửi một thông điệp mạnh mẽ nhất đến các chính quyền nước ngoài, đặc biệt là Bắc Kinh, rằng nếu có ý đồ sử dụng tiền để lũng đoạn chính trị tại đây thì nên nghĩ lại.
Ông Huang là ai và đã làm gì để gây ảnh hưởng tại Úc ?
Đến Úc năm 2011, ông Huang đã tìm cách tạo ảnh hưởng lên xã hội và chính trị Úc trong một thời gian ngắn. Trong vòng 5 năm, ông Huang đã ủng hộ các chính đảng số tiền lên đến 2,7 triệu đô la, bảo trợ3,5 triệu đô la cho trường đại học Western Sydney để thành lập viện Nghệ thuật và Văn hóa Úc-Trung, và 1,8 triệu đô la để thành lập Viện Nghiên cứu Quan hệ Úc-Trung tại trường đại học UTS (xếp đặt cựu Thủ hiến Sydney và Ngoại trưởng Úc Bob Carr làm chủ tịch). Không lâu sau đó, ông trở thành Chủ tịch của Hội đồng Úc Châu để Thúc đẩy sự Thống nhất Hòa bình của Trung Quốc (CPPRC). Đây là một nhóm hoạt động mang tính cộng đồng của Trung Quốc ở hải ngoại mà về sau được phát giác là có nhiệm vụ phát triển mạng lưới ảnh hưởng của Bắc Kinh. Sau này nhiều người mới biết rằng CPPRC là một trong nhiều nhóm mang danh nghĩa xã hội dân sự được Bắc Kinh quản lý, tuyển dụng bởi giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, bề ngoài ra vẻ độc lập nhưng chủ yếu phục vụ cho các chính sách của đảng.
Nhờ các việc làm trên, ông Huang đã gặp gỡ được hầu hết các lãnh đạo hàng đầu của đảng cầm quyền lẫn đối lập tại Úc, và chụp hình chung với tất cả các lãnh đạo này. Ảnh hưởng và tên tuổi của ông Huang ngày càng gia tăng vào năm 2016, cho đến khi các biến cố tại Biển Đông nổi lên. Vào ngày 12 tháng Bảy năm 2016 Tòa Trọng tài Thường trực The Hague quyết định Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Philippines, và đường lưỡi bò mà Trung Quốc đòi chủ quyền toàn bộ là không có cơ sở pháp lý. Liền sau đó, chính quyền Úc, đặc biệt bà Julie Bishop người đứng đầu Bộ Ngoại giao, đã kêu gọi Trung Quốc cũng như các bên tranh chấp tôn trọng phán quyết sau cùng này, và khẳng định rằng Úc cũng như mọi quốc gia khác đều có quyền sử dụng hải phận và đường bay theo luật quốc tế. Bắc Kinh đã nổi giận về lập trường của Úc, và tỏ vẻ muốn dạy cho Úc một bài học, như thái độ trịch thượng của họ trước đây với các nước láng giềng khác, mà Việt Nam đã có quá nhiều kinh nghiệm.
Liền sau phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực, Bắc Kinh đã sử dụng mọi phương tiện và biện pháp có thể để tạo áp lực tối đa lên nước Úc. Đầu tiên là bật đèn xanh cho các nhóm cộng đồng người Hoa mà đã bị họ ảnh hưởng bấy lâu nay (không phải cộng đồng người Hoa tự do), xuống đường biểu tình trên đường phố Melbourne yêu cầu chính quyền Úc không can thiệp vào chuyện nội bộ của Trung Quốc. Kế đến là các áp lực về kinh tế và thương mại. Nên nhớ nền kinh tế của Úc phụ thuộc khá nhiều vào kinh tế của Trung Quốc, trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 33,7 phần trăm, nhập khẩu 22,5 phần trăm, tổng cộng là 28,2 phần trăm, đứng đầu danh sách giao thương giữa Úc và một nước khác. Bắc Kinh hiểu rõ và lợi dụng ưu thế này để gây khó khăn về thương mại giữa hai nước, điều mà họ thường làm với các quốc gia khác. Họ đã ngâm tôm các sản phẩm nhập cảng từ Úc, Mỹ và nhiều nơi khác, đến mức hư hại, khi có thái độ hay lời nói tiêu cực về phía họ.
Ông Huang cũng đã nhập cuộc sau đó. Biết rằng chính sách ngoại giao của chính quyền Úc lẫn đối lập đã rõ ràng về Biển Đông, ông Huang đe dọa rút lại số tiền đã hứa ủng hộ cho đảng Lao động là 400 ngàn đô la khi người phát ngôn về quốc phòng của đảng này, Thượng nghị sĩ Stephen Conroy, đã ví quan điểm của Bắc Kinh về Biển Đông là "cực kỳ vô lý". Và hình như không còn sự chọn lựa nào khác nên lá bài cuối cùng của Huang là vận động một thượng nghị Lao động Sam Dastyari để nhái lại các quan điểm của Bắc Kinh về Biển Đông. Chỉ vì một vài ngàn đô la mà Thượng nghị sĩ Dastyari đã phát biểu ngược lại với quan điểm của đảng Lao động. Khi vụ này bị truyền thông Úc phanh phui thì tương lai chính trị đang sáng lạn của Dastyari kể từ đó lao xuống vực thẳm. Nhưng chưa hết. Trong lần gặp gỡ vào cuối tháng Mười năm 2016 tại biệt thự của Huang, Dastyari cảnh báo cho Huang nên cẩn thận vì điện thoại của Huang có thể bị các cơ quan chính quyền, kể cả chính quyền Mỹ, nghe lén. Chắc là có nghe lén thật nên sự kiện này gần một năm sau bị phơi bày. Và đây là giọt nước làm tràn ly vì Dastyari chứng tỏ chẳng quan tâm bao nhiêu đến quyền lợi và an ninh quốc gia của Úc. Trước bao áp lực ngày càng gia tăng, Thượng nghị sĩ Dastyari đã phải chính thức từ nhiệm và từ dã chính trường vào cuối năm qua.
Sau phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực về Biển Đông, các cơ quan truyền thông Úc, dẫn đầu là sự kết hợp tài tình giữa các phóng viên chuyên nghiệp của Fairfax và ABC, đã điều tra và phanh phui quan hệ giữa các tỷ phú người Trung Quốc tại Úc với các lãnh đạo chính trị và quân sự tại Bắc Kinh và Đảng Cộng sản Trung Quốc, và các ảnh hưởng mà họ muốn đạt được với chính giới Úc. Cuộc điều tra mang tên "Quyền lực và ảnh hưởng" gồm ba phần (1, 2 và 3) đã được trình chiếu vào giữa năm 2017, phanh phui bao nhiêu sự kiện mà ít ai được biết trước đây, làm chấn động nước Úc. Thật ra cơ quan tình báo của Úc là ASIO đã biết rất rõ các vấn đề này và đã từng cảnh báo các chính đảng về âm mưu xâm nhập ảnh hưởng từ bên ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc. Nhưng vì cần tiền hoạt động, hay vì coi nhẹ hay coi thường các âm mưu từ Trung Quốc, nên không đảng nào tích cực tìm biện pháp thích hợp để đối phó cho đến khi các cơ quan truyền thông nỗ lực điều tra và đưa thông tin đến người dân. Đến lúc đó các chính đảng và chính trị gia đã phải chứng tỏ khả năng lãnh đạo của mình trong việc đối phó với sự xâm nhập của ngoại bang (điều mà đã xẩy ra cho Hoa Kỳ qua sự can thiệp của Nga ; đối với Úc thì đối tượng chính là Trung Quốc).
Sau vụ điều tra giữa năm 2017 nói trên, đến cuối năm 2017 chính giới Úc đã nhanh chóng thảo luận về dự luật can thiệp từ nước ngoài (foreign interference) và tình báo/gián điệp để có biện pháp tối hảo trong việc ngăn chặn, ngăn ngừa, và trừng phạt những ai vi phạm. Sau một thời gian tranh luận gắt gao, hai bộ luật được thông qua vào giữa năm 2018 và bắt đầu có hiệu lực vào cuối năm 2018. Bộ luật này sẽ có những tác động lên các hoạt động của các bộ phận tay, chân, mắt, tai của Bắc Kinh tại Úc, nhưng cụ thể ra sao, chẳng hạn như tác động lên Viện Khổng Tử, CPPRC hay các cơ quan truyền thông của Trung Quốc tại Úc, thì chưa rõ.
Bắc Kinh và chiến lược đổ bộ âm thầm vào nước Úc
Trong thời gian qua, Bắc Kinh rất bất bình với Úc vì họ cho rằng bộ luật này được làm ra để nhắm vào họ. Vì thế mà các cuộc gặp gỡ giữa các quan chức cao cấp chính quyền của hai bên bị đình trệ nhiều lần. Việc xin visa để các phóng viên Úc vào Trung Quốc vào giữa năm 2018 do chính Bob Carr thực hiện, người đứng đầu Viện Quan hệ Úc-Trung mà chính ông Huang đã tài trợ, như đề cập trên, cũng gặp sự thinh lặng khó hiểu. Trong khi đó, một phóng viên nhà bình luận có quốc tịch Úc là Yang Hengjun, bay từ New York sang Trung Quốc vào tháng Giêng vừa qua, đã bị bắt giữ tại Quảng Đông khi đang chờ chuyến bay sang Thượng Hải vì bị tình nghi "làm nguy hiểm an ninh quốc gia". Đây là một trong các hàng loạt bắt vớ và kết tội của Trung Quốc đối với các công dân nước ngoài sau khi Hoa Kỳ yêu cầu Canada dẫn độ bà Mạnh Vãn Chu, giám đốc tài chính của Huawei. Ngược lại, sau một thời gian dài xem xét trường hợp xin nhập tịch của ông Huang, Úc đã không những từ chối hồ sơ nhập tịch mà còn hủy bỏ tư cách thường trú nhân của ông Huang lúc ông đang ngoài Úc. Đây là một thông điệp mạnh mẽ từ chính quyền Úc, mặc dầu không công khai bởi sự ràng buộc của luật bảo vệquyền riêng tư.
Tình hình Biển Đông cũng như Ấn Độ - Thái Bình Dương, tuy có vẻ yên tĩnh trên bề mặt phần nào đó, nhưng những đợt sóng ngầm và các thế cờ vây dường như đang bủa tới. Trên mặt trận này, Trung Quốc tuy bỏ ra bao nhiêu tiền để mua ảnh hưởng nhưng dường như vẫn cô đơn và đồng minh thì hiếm hoi. Úc, trong khi đó, có vô số đồng minh và liên minh, trong đó có Bộ Tứ (Úc, Mỹ, Nhật và Ấn), mặt dầu đây không phải là liên minh giống kiểu NATO tại Châu Âu. Nếu Úc không bày tỏ thái độ cứng rắn với một tên bully thì không chỉ thiệt thòi về nhiều mặt mà xác xuất tái diễn cũng sẽ rất cao. Việc Úc từ chối và hủy bỏ visa của ông Huang mới đây là trường hợp đầu tiên áp dụng luật can thiệp nước ngoài được ban hành năm ngoái. Nó cũng cho thấy lãnh đạo của Úc có bản lãnh và đã chuẩn bị chiến lược để âm thầm lẫn công khai để đối phó với thách thức và hiểm họa của sự trổi dậy của Trung Quốc trong những năm trước mặt.
Điều đáng nói trong các sự kiện nêu trong bài này là vai trò không thể thay thế của truyền thông tại Úc. Nhờ tính chuyên môn và hoàn toàn độc lập của các cơ quan truyền thông cũng như các chuyên gia về chính trị học như Clive Hamilton, tác giả cuộc Xâm lược Âm thầm (Silent Invasion), nên người Úc đã biết rõ được các vấn đề phức tạp và chuyên môn về hoạt động tình báo của Trung Quốc. Qua đó, mọi công dân có thể thảo luận và tranh luận tích cực về nguyên nhân, hậu quả cũng như các biện pháp cho những vấn đề phức tạp đối diện với quyền lợi và an ninh quốc gia của mình.
Úc Châu, 07/02/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 08/02/2019
Trước năm 1975, gia đình tôi ăn Tết như thế nào thì tôi không rõ. Tôi còn quá nhỏ để nhớ. Nhưng truyền thống ăn Tết của gia đình tôi sau năm 1975 có những khác biệt, và có thể được tóm gọn như sau.
Làm nhang ở ngoại thành Hà Nội. Hình minh họa.
Đầu tiên là mọi người được ba mẹ gửi đến các thợ may trước Tết vài tuần để may bộ độ mới. Thường là may rộng hơn kích thước đo đạt để có thể còn mặt vừa trong năm. Chúng tôi cũng được gửi đến thợ giày, nếu đôi giày năm cũ không còn dùng được nữa. Trước Giao thừa hai tuần, tất cả mọi thành viên trong nhà đều tham gia dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, chà sạch những nơi còn dơ bẩn, rong reo, và mỗi người, nhỏ đến lớn, đều có vai trò và bổn phận của mình, tùy theo khả năng của từng người lúc đó. Đối với ba tôi, đối xử bình đẳng, nhất là không phân biệt nam nữ, là một trong các nguyên tắc quan trọng nhất của ông.
Đêm Giao thừa và mồng Một Tết là quan trọng nhất của gia đình tôi.
Tôi còn nhớ hồi còn bé, tôi cứ ao ước được ba mẹ cho thức khuya để đón Giao thừa, nhưng ba tôi lúc nào cũng bắt đi ngủ sớm. Nằm trên giường mà cứ ấm ức xen lẫn thao thức rộn ràng. Lớn hơn chút, tôi kiếm cách làm cho mình hữu dụng để ba tôi cho phép được thức khuya. Trước hết là học thuộc lòng một bộ kinh Phật. Ba tôi treo giải thưởng cho mười anh em trong nhà ai học thuộc lòng bộ kinh. Tôi còn nhớ lúc đó chỉ sáu bảy tuổi, nhỏ nhất, mà phải thi đấu với các anh chị còn lại. Cũng may không phải tất cả đều tham gia, nên cơ hội thắng của tôi cao hơn (Tôi tưởng mình hay lúc đó nhưng sau này lớn lên tôi mới biết được lý do vì sao tôi thắng tương đối dễ dàng !). Tôi lại trở thành người đọc kinh cầu nguyện cho cả gia đình trong các dịp lễ, kể cả Tết Nguyên Đán, kể từ đó. Ngoài ra, tôi xin phép ba tôi cho tôi được đi thắp hương khắp nhà với ông, kể cả những nơi tối tăm nhất trong ngôi nhà lớn mà lúc bé rất sợ vì người lớn thường hay nhát ma trẻ con. Một hai năm về sau, tôi tự làm một mình vì ba tôi không thấy cần phải hướng dẫn nữa. Cầm hương trong tay, tôi đi thắp chung quanh nhà mà vẫn thấy bình an trong lòng. Qua các câu chuyện ba tôi kể lúc nhỏ, nhất là trí tưởng tượng về ma quỷ chứ ông chưa hề thấy, và qua chính sự trãi nghiệm của mình, tôi chinh phục được nỗi sợ hãi ma quỷ và các thứ khác từ đó.
Sau Giao thừa thì gia đình tôi cũng có năm đốt pháo, lúc đó thì chưa bị cấm. Nói về đốt pháo thì ba tôi không chủ trương khoe khoang, nhất là dưới chế độ cộng sản. Có năm gia đình tôi đốt pháo, phong pháo chỉ dài một hai mét, nhưng có năm không đốt. Vào thời đó, đốt pháo càng dài càng được nhìn nhận về sự giàu có hay sự hào phóng. Nhưng ba tôi cho rằng đốt pháo, nhất là đốt pháo càng nhiều, càng thu hút sự chú ý và soi mói của chế độ (1).
Sáng sớm mồng Một, tất cả mười người con mặt đồ mới, tươm tất, đứng xếp hàng để chúc Tết ba mẹ và để được ba mẹ lì xì. Anh đầu tôi rồi lần lược tất cả chúng tôi chúc Tết. Tôi còn nhớ có những lúc ba má tôi giận nhau, nhưng vào ngày xuân năm mới chúng tôi làm đủ mọi cách để ba má bỏ qua, hôn nhau rồi làm hòa. Trong những khoảnh khắc đầu năm như thế, nước mắt xen lẫn những nụ cười như pháo nổ trong chúng tôi vì thấy ba mẹ hòa thuận lại.
Sau đó cả gia đình đi bộ đến ngôi chùa gần nhà để hái lộc và cúng dường. Về lại nhà, chúng tôi ăn bữa ăn gia đình đầu tiên trong năm, với các món ăn đặc sắc mà cả năm trời chờ đợi. Thế nhưng miếng ăn lúc đó chẳng còn quan trọng. Cái không khí nhộn nhịp của Tết lấn át mọi khẩu vị ẩm thực của tôi vào lúc đó.
Ba tôi cấm tất cả anh chị em tôi chơi cờ bạc. Đối với ông, cờ bạc, rượu chè, thuốc lá, văng tục v.v… đều rất tai hại và bằng mọi giá phải tránh. Ông luôn nêu cao các giá trị về học hành, chăm chỉ, cố gắng v.v... "Biển học vô bờ", ông bảo. Điều duy nhất mà ông dặn đi dặn lại chúng tôi trong các lần đi vượt biên là "qua đó cố gắng học nhe các con, học là tương lai, là tất cả". Có thể nói sự khao khát tri thức của ông cũng chính là của tôi về sau này. Trở lại chuyện cờ bạc, tuy cấm nhưng ông vẫn biết rằng khó mà cấm tuyệt đối trong những ngày Tết. Do đó ông đặt ra các nguyên tắc như là chỉ được chơi trong ba ngày Tết, chơi một cách lành mạnh, không đam mê, và ông khuyến khích anh chị em chúng tôi chơi với nhau trong nhà, mặc dầu ông không cấm cản chúng tôi chơi ở bên ngoài trong ba ngày Tết. Ông mở sòng bài trong nhà để "thử thời vận" với nhau, chơi bài 21 với cả nhà hoặc sì tẩy với các anh chị lớn. Ông cầm cái cho bài 21, và hầu như lúc nào cũng may mắn, nên cứ ăn tiền của chúng tôi. Anh chị em chúng tôi cũng trổ máu "ăn gian", đổi bài nhau khi có thể. Những lúc ông được 21, hay xì lát (con xì con mười), hay ngồi bàn (hai con xì), thì ông nặn bài thật lâu, làm cho chúng tôi hồi họp muốn đứng thở. Ông giả bộ không để ý để chúng tôi đổi bài thỏa mái, nhưng liền sau đó hỏi ai có 21, xì lát hay ngồi bàn không, rồi gom hết tiền đặt của chúng tôi. Không phải mọi lần đều như thế, nên có khi ông gom hết tiền rồi sau đó trả lại và trả bù cho chúng tôi. Đứng tim. Cả nhà được dịp ăn mừng chiến thắng và cười như pháo nổ.
Trò chơi Bầu cua cá cọp trong gia đình vào dịp Tết - Ảnh minh họa
Những kỷ niệm này vẫn còn ở trong tôi sau bao nhiêu năm xa cách Việt Nam.
Gia đình tôi bây giờ không còn ai ở Việt Nam cả. Hơn một phần tư thế kỷ, tôi chưa có dịp về lại thăm quê nhà. Trong mỗi gia đình nhỏ của chúng tôi ở đây thì có tập tục, truyền thống riêng. Truyền thống chung của gia đình trước đây thì chúng tôi cũng cố duy trì mỗi năm. Mỗi Tết đến, chúng tôi lại tụ tập vào đêm Giao thừa để thắp hương cúng ba và ông bà, để chúng tôi chúc tuổi thọ của má và các cháu chúc Tết ba mẹ mình, và để má tôi lì xì cho mấy chục cháu của bà. Chúng tôi ngồi chơi bài với nhau một hai tiếng để hâm lại không khí Tết. Bây giờ ai cũng khá giả nên tố nhau bài sì tẩy mạnh bạo hơn. Xong rồi mỗi gia đình tự về nhà mình với các sinh hoạt riêng biệt. Gia đình lớn của tôi bây giờ giống như một cộng đồng thu hẹp : đa sắc tộc ; đa tôn giáo ; đa quan điểm chính trị ; đa nguyên phái tính (LGBTI). Chúng tôi có vô vàn khác biệt, nhưng chúng tôi tôn trọng sự khác biệt đó, quyền riêng tư của mỗi người, và tìm các điểm chung để gắn bó thương yêu nhau.
Trên hết, tôi nghĩ rằng vì tình thương vô điều kiện mà má tôi đã dành cho tất cả chúng tôi cũng như những người bên ngoài nên chúng tôi vẫn còn gắn bó nhau, nhất là qua các dịp Tết, Giáng sinh hay các sinh hoạt truyền thống trong gia đình. Và nhờ các giá trị mà ba tôi, lúc còn sống, đã luôn nhắc nhở và truyền đạt cho chúng tôi. Trong bao nhiêu điều ông dạy, tôi nghĩ rằng "không hận thù" là giá trị quan trọng mà ông để lại. Hận thù không có trong tôi, có thể là vì cuộc đời tôi may mắn hơn người khác. Mỗi khi thấy bực bội hay khó chịu về lời nói hay hành động một người khác, tôi ý thức ngay và không để mình rơi vào tâm trạng này. Nhưng tôi thấy phục ba tôi khi bà nội tôi, tức mẹ ông, bị cộng sản giết hại bằng chôn sống. Nỗi đau đó đối với ông chắc không bao giờ nguôi ngoa. Về sau bên quốc gia bắt được người giết bà nội và hỏi ba tôi muốn làm gì với người đó. Ông hỏi tôi, lúc đó còn rất bé, là nên làm gì, theo tôi ? Tôi không nhớ tôi trả lời ra sao, có lẽ "trả thù" ở lứa tuổi đó. Nhưng ông khuyên nhủ tôi rằng có trả thù người đó đi nữa thì cũng đâu có làm cho bà nội tôi sống lại. Ông chỉ cần chi tiết về chỗ chôn sống bà để mang xác bà về chôn cạnh mộ ông nội tôi. Nhưng khi đến đó đào xuống thì xác bà không còn nữa. Bà bị chôn sống bên một bờ sông, và bờ sông đã bị đất lở nên đã cuốn trôi.
Mỗi dịp xuân đến, tôi nghĩ đến ba tôi, đến đất nước Việt Nam, và đến những người chỉ mong muốn thấy được mùa xuân của dân tộc : thanh bình, ấm no, tự do, nhân bản, hòa giải, tha thứ, và không hận thù. Không hận thù thì rất khó. Tôi hiểu được điều đó, nhất là khi bao nhiêu nỗi bất công oan ức và tội lỗi vẫn cứ tiếp diễn trên đất nước này. Tha thứ còn khó hơn. Người ta có thể không hận thù, hay quên được hận thù, nhưng để tha thứ thật sự là điều mà không mấy ai có thể làm được, trừ phi người ta đã hoàn toàn vượt qua được quá khứ và chấp nhận hiện tại.
Việt Nam không còn là đất nước của tôi nữa. Nhưng tôi vẫn mãi suy nghĩ về Việt Nam. Tôi cũng không hiểu vì sao. Cuộc sống gia đình nhỏ của tôi không liên hệ gì đến Việt Nam nhiều. Rất nhiều những tập tục truyền thống cũ tôi đã không còn giữ nữa. Đi làm thì nói tiếng Anh, về nhà phần lớn cũng thế, khi tiếng Việt các con còn đơn sơ quá. Có thời gian tôi đã quên được Việt Nam hoàn toàn. Lúc đó tôi cảm thấy lòng mình thanh thản, không lo âu, không vướng bận gì cả. Gần đây Việt Nam lại trở thành từng hơi thở và suy nghĩ của mình. Thành thật mà nói tôi chẳng cần gì từ Việt Nam cả. Nhưng những gì xẩy ra trên mảnh đất này vẫn cứ mãi ám ảnh tôi. Những đêm trằn trọc không ngủ được vì muốn làm gì cho Việt Nam.
Chưa biết có làm được gì hay không ! Nhưng trước mắt tôi cầu chúc cho quý bạn đọc và mọi người Việt Nam một mùa xuân may mắn, đầm ấm và thành đạt. Cầu chúc cho những người Việt quan tâm khắp nơi chấp nhận khác biệt để cùng nhau hợp tác góp phần lan truyền các suy nghĩ tích cực ; xem Việt Nam như là ngôi nhà chung để sửa chữa, xây dựng và phát triển ; cùng nhau xây dựng một hệ thống giá trị mang tính miên viễn, nhất là các hệ thống và giá trị về chính trị và văn hóa, để người Việt khắp nơi có thể tự hào về nguồn gốc của mình thay vì tự ti, mặc cảm. Người Việt không thua kém ai về năng lực, đó là điều chắc chắn. Nhưng cái mặc cảm mà nhiều người hiện đang có là do sự thất bại và bất tài toàn diện của lãnh đạo quốc gia trong nhiều thập niên qua.
Mỗi một mùa xuân đến, chúng ta cần chúc nhau niềm tin và hy vọng, và nên nhắc nhở với lòng mình rằng lãnh đạo quốc gia hiện nay không đại diện mình, và chúng ta có thể góp phần, dù nhỏ nhoi đến mấy, để thật sự thay đổi hiện trạng, và để cùng nhau mang lại mùa xuân tươi sáng và hạnh phúc cho Việt Nam.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 29/01/2019
------------------
(1) Đã từng hoạt động với Việt Minh trong thời kháng chiến chống Pháp, như bao nhiêu người Việt khác, ông rất rành về họ. Sau một thời gian ngắn ông bỏ về thành phố và tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng. Vì thế mà sau này ông đã bị "học tập cải tạo" dù chỉ thuần túy làm việc trong ngành giáo dục. Dù rành chế độ cộng sản bao nhiêu đi nữa, ba tôi vẫn không lường được những hậu quả đến với ông sau ngày 30 tháng Tư. Phần lớn tài sản của ông bị chế độ tịch thu, kể cả các căn nhà mà ông dự trù cho mỗi chúng tôi mỗi căn để lập gia đình về sau.
Melbourne được bầu chọn là thành phốđáng sống nhất trên thế giới trong bảy năm qua, ngoại trừ năm 2018 vừa qua.
Cô Aiia Maasarwe, một thiếu nữ 21 tuổi luôn tươi cười - Ảnh chụp trước một bồn phun nước. Photo: Aiia Maasarwe ...
Mới đây nhất là vụ hãm hiếp cô Aiia Maasarwe, 21 tuổi, vào thứ Tư 16 tháng Giêng vừa qua. Xác cô đã được tìm thấy gần trạm xe tram tuyến đường 86, Bắc Melbourne. Cô Maasarwe là một sinh viên Do Thái gốc Ả Rập, đang học nửa chừng của một năm chương trình trao đổi, tại đại học La Trobe. 21 tuổi, đầy sức sống, lý tưởng, và hy vọng. Nhưng cô đã bị tấn công và giết hại trên đường về nhà một mình trên chuyến xe tram sau khi đi xem buổi hài kịch trực thoại tại thành phố Melbourne. Aiia đang nói chuyện điện thoại có hình ảnh (FaceTime) với em gái mình tên Ruba, người đang ở thành phố Baqa Al Gharbiyye tại Do Thái, thì vụ hãm hại xảy ra. Ruba cho biết bất thình lình cô nghe chị gái mình kêu thét lên, điện thoại bị vứt đi nơi khác, tiếng ồn của xe cộ chạy qua lại ở đằng sau, và sau đó điện thoại bị tắt.
Aiia Maasarwe không còn trên thế gian này, nên có lẽ không còn cảm nhận nỗi đau buồn của trần đời. Nhưng những người còn sống, nhất là cha mẹ cô, chị Noor và hai em gái Lena, nhất là Ruba, người đang nói chuyện thì chứng kiến vụ hành hung xẩy ra nhưng không thể làm được gì cho chị mình, có lẽ sẽ đau khổ, tổn thương và bị ám ảnh suốt đời.
Ông Saeed Maasarwe, cha cô Aiia Maasarwe, đã bay liền sang Úc sau đó để nhận diện con gái mình. Nỗi đau mất mát người thân nào cũng khó phôi pha, nhưng nỗi đau mất con có lẽ là chấn thương tâm lý sâu đậm nhất trong tâm khảm của bậc làm cha mẹ. Ông Saeed diễn tả Aiia là người con gái có nhiều ý kiến/tưởng lớn, đầu óc luôn mở mang để cầu tiến, học hỏi và tìm hiểu các văn hóa khác, các sắc tộc khác, với tinh thần tôn kính. Aiia Maasarwe từng vẽ bức tranh "dám mơ" (dare to dream) vào năm 2014 và đã sống với ước mơ của mình cho đến khi bị cắt ngắn.
Người Melbourne đã thương tiếc và hiệp thông với gia đình cô Aiia Maasarwe. Hàng trăm bó hoa được đặt tại nơi cô Aiia Maasarwe lìa trần. Hàng trăm bó hoa khác được đặt tại các trạm xe tram trên tuyến đường 86 mà Aiia Maasarwe đã bao lần đi qua. Một xe tram thuộc tuyến đường 86 chở đầy hoa của người dân Melbourne để tưởng niệm cô. Hàng ngàn người tụ về trước tiền đình quốc hội tiểu bang Victoria để bày tỏ sự hiệp thông với nỗi mất mát to lớn của gia đình cô. Thủ hiến Victoria Daniel Andrews và Thủ tướng Úc Scott Morrison đều đến tận nơi cô tử nạn, nói chuyện trực tiếp với người cha của cô để chia buồn, và lên án sự hèn hạ vô lương của kẻ gây ra cái chết của cô. Thủ tướng Morrison chia sẻ rằng không có lời nào có thể xoa dịu nỗi đau tận cùng này.
Ông Saeed nói ông có rất nhiều ước mơ để được cùng với con gái của mình, nhưng bây giờ thì ông không thể nữa. Ông nói : "Tôi ao ước, tôi hy vọng, tôi cầu chuyện rằng con bây giờ đang ở một nơi dễ thương hơn nơi này và thiên đường này".
Bạo hành xảy ra ở mọi nơi, mọi văn hóa, từ trong nhà ra ngoài đường. Nạn nhân của bạo hành sau đó lại trở thành thủ phạm (tuy không phải tất cả). Đại đa số là do đàn ông gây ra (tuy không phải tất cả). Một vòng luẩn quẩn như không có lối thoát. Nhưng người ta có thể giảm thiểu tình trạng này nếu ý thức, cam kết và quyết tâm. Xã hội này sẽ văn minh hơn nếu con người nói không với bạo lực và tìm cách đối thoại nhau. Ai cũng có quyền sống trong an toàn thay vì sợ hãi hoặc đe dọa. Ai cũng có quyền trở về nhà mình an toàn sau một ngày đi học, đi làm, đi chơi hay vì bất cứ lý do gì. Chị của Aiia, cô Noor, viết rằng "Bạo lực đối với phụ nữ không phải là vấn đề của nữ giới, mà là vấn đề của nam giới".
Tất cả chúng ta đều có chị, có em gái, chị em họ, có cô, có gì, có cháu gái, và có con gái. Chúng ta cũng đều có mẹ. Họ là một phần máu thịt của mình. Thấy bạo lực diễn ra cho phái nữ mà không lên tiếng thì một ngày nào đó nó cũng có thể xảy ra với những người thân thương nhất của mình. Chúng ta cần hiệp thông và can đảm lên tiếng để đề cao sự tôn trọng đối với phụ nữ và chấm dứt bạo hành với phái nữ.
Thành phố Melbourne chắc chắn không phải là nơi an toàn nhất, hiền hòa nhất, hay không bạo lực. Nhưng tinh thần của người dân Melbourne đối với bạo hành nói chung và với gia đình cô Aiia Maasarwe nói riêng, hay với các trường hợp bạo hành khác trước đây, làm cho tôi cảm nhận rằng tình người là thông lệ, còn vụ hãm hại Aiia là trường hợp ngoại lệ. Nó là sự bất toàn của sản phẩm con người. Người Melbourne nói riêng, dân Úc nói chung, không kêu gọi hận thù. Họ đến với nhau để có một tiếng nói chung : nói không với hành hung phụ nữ. Xảy ra cho một người là có khả năng xảy ra cho bất cứ một người khác. Không cùng nhau lên tiếng thì cái ác cái xấu vẫn tiếp diễn. Do đó họ liên tục lên tiếng và tiếp tục đề cao các giá trị nhân bản và tương kính đối với phụ nữ cũng như tôn trọng những người thuộc văn hóa hay chủng tộc khác để cùng xây dựng một xã hội văn minh và đa văn hóa.
Người cha Saeed Maasarwe đã cảm nhận được tình người đó tại Melbourne. Ông cảm ơn cảnh sát Victoria đã nhanh chóng bắt giữ thủ phạm bị tình nghi. Trước phiên tòa diễn ra hôm thứ Hai, ông Saeed cầu nguyện rằng thế giới tập trung vào hy vọng, không phải phẫn nộ. Ông nói "Tôi ước mong được tiếp tục ánh sáng với ba con gái của tôi và hướng dẫn các con yêu thương, suy nghĩ tích cực, và với đêm tối trời này thì hãy nhìn tới các vì sao để thấy được thấy ánh sáng trong đêm tối". Ông nói ông học được điều này từ Aiia, đó là lời của Aiia chứ không phải của ông, và ông mong mọi người thấy được ánh sáng, tìm tới ánh sáng chứ đừng ở trong bóng tối.
Hôm nay cô Aiia Maasarwe sẽ được đưa về Do Thái, về nơi an nghỉ cuối cùng.
Melbourne không vẹn toàn. Có lúc có những tiếng nấc, oan ức và nghẹn ngào. Nhưng cũng nhân bản và đầy tình người.
(Úc Châu, 22/01/2019)
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 24/01/2019