"Hiện nay xã hội vẫn băn khoăn trước tình trạng một bộ phận công nhân, người lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, chỉ lo nhiều đến những vấn đề lợi ích kinh tế, đời sống cụ thể trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề cơ bản, lâu dài, có tính chiến lược như ý thức giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, vai trò, sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm của giai cấp công nhân... ; một số bị các thế lực xấu, thù địch tác động, lôi kéo, kích động, đã có những việc làm sai trái, gây mất ổn định an ninh, trật tự, an toàn xã hội".
Công đoàn tay sai : lãng phí tiền dân
Đó là lời hờn dỗi và trách móc nhưng lo âu không nhỏ của Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu ngày 25/09/2018 tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 12, nhiệm kỳ 2018- 2023, tổ chức tại Hà Nội ngày 25/09/2018.
Nhưng tại sao ông Trọng lại bất bình ngớ ngẩn như thế ? Làm gì có chuyện "xã hội băn khoăn". Chỉ có đảng lo lắng mất ăn mất ngủ khi thấy đội ngũ nồng cốt trong dân không còn muốn gắn bó xương máu gì với đảng nữa.
Ai cũng biết, và tất nhiên hơn cả ông Trọng , người lao động Việt Nam không thể cứ bảo trì cái gọi là "bản lĩnh chính trị" trơ rỗng theo đảng để húp nước lã mà sống hay sao ?
Nhu cầu trước mắt sống còn mỗi ngày của người công nhân, trong mọi thời đại là lo làm sao có cơm ăn áo mặc chứ không phải chuyện viển vông chính trị giả dối kiểu Cộng sản.
Nguyên nhân khác
Công nhân cũng cần được pháp luật và cán bộ của Công đoàn bảo vệ khi bị chủ nhân hành sử bất công hay đàn áp khi đình công đòi tăng lương hay cải thiện giờ làm, bữa ăn nhưng nhiều trường hợp đã chứng minh cán bộ Công đoàn đã "đi đêm" với chủ nhân, nhất là với chủ nhân người nước ngoài để hưởng lợi thay vì phải bênh vực và bảo vệ công nhân.
Công đoàn Việt Nam cũng đã bất lực không ngăn chặn được việc các Công ty Trung Quốc thu nhận hàng nghìn lao động Tầu Bắc Kinh, giả dạng du khách rồi ở lại chiếm mất việc làm của công nhân Việt Nam ở khắp nơi.
Theo Luật lao động và hợp đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc thì giấy phép làm việc chỉ được cấp cho chuyên viên và những việc công nhân Việt Nam không làm được. Tuy nhiên, nhiều ngàn công nhân Tầu làm việc tay chân như khuân vác, phu hồ, đào xớiđã hoặc đang làm việc ở 3 dự án quan trọng gồm : Bauxite Tây nguyên, Formosa Hà Tĩnh, và Cụm khí điện đạm Cà Mau ở xã Khánh An (U Minh, Cà Mau).
Ngoài ra, Công đoàn cũng cố tình đứng ngoài việc nhiều tập thể công nhân Trung Quốc đã tự động lập làng, dựng phố, như Đông đô Đại phố ở Bình Dương ; du khách Tầu mở nhà hàng, hãng du lịch để ở lại Việt Nam qua dạng thuê người Việt làm chủ hay hùn hạp.
Đáng chú ý là Bộ Lao động, thương binh và xã hội không biết có bao nhiêu công nhân Tầu bất hợp pháp đang làm việc tại Việt Nam. Cũng không ai biết Việt Nam đã trục xuất về Trung Quốc được bao nhiêu công nhân tay chân bất hợp pháp.
Tất cả những nguyên do nêu trên, công với dự Luật thành lập 3 Đặc khu kinh tế tại Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (Tỉnh Kiên Giang) mà người dân lo sẽ lọt vào tay Trung Quốc, là nguyên nhân của những cuộc biểu tình chống Đảng trong 2 ngày 10 và 11/06/2018 của hàng trăm ngàn người, thuộc mọi thành phần, trong đó có công nhân ở Bình Dương, Biên Hòa, Sài Gòn.
Cuộc biểu tình này đã làm ông Nguyễn Phú Trọng và đảng cộng sản Việt Nam choáng váng, bất ngờ khiến dự kiến đem Dự luật 3 Đặc khu trở lại thảo luận tại Quốc hội bị đình hoãn, chưa biết đến bao giờ hay chết luôn.
Vì vậy mà ông Nguyễn Phú Trọng đã tức tối lên án người Lao động trong phát biểu ngày 25/09/2018 rằng :
"Một số bị các thế lực xấu, thù địch tác động, lôi kéo, kích động, đã có những việc làm sai trái, gây mất ổn định an ninh, trật tự, an toàn xã hội".
Trước đó, ông Trọng cũng sống sượng vu khống người biểu tình rằng :
"Những phần tử kích động đó là ai, thì toàn là thành phần bất hảo, nghiện hút ma túy, trộm cắp, đủ các kiểu. Cho nên phải có luật để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi của chúng ta.
Xem những thành phần bị công an bắt là ai ? Toàn là bất hảo cả".
(VTCNews và Zing.vn, ngày 17/06/2018)
Nghe mãi ngứa lỗ tai
Nhưng khi ông Trọng trách móc người lao động đã thờ ơ với đảng hay chống đảng thì ông có biết rằng, đảng do ông lãnh đạo, đã để cho một số không nhỏ cán bộ đảng viên lãnh đạo tự do tham nhũng, bóc lột dân cho đầy túi cá nhân và phe nhóm trên sức lao động và mồ hôi, đôi khi cả nước mắt, của các tầng lớp lao động trong nhiều năm qua ?
Công nhân lao động Việt Nam thời nay cũng đã quay lưng với thứ chính trị tuyên truyền lòe bịp của đảng vì mọi người đã chán ngấy đến tận mang tai khi phải nghe mãi những mỹ từ "của dân, do dân và vì dân" hay " dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" , nhưng chưa bao giờ thấy đảng thực hiện.
Những chiếc bánh vẽ trơ trẽn này cũng đã đánh lừa tầng tầng lớp lớp nhân dân lao động trong suốt 30 chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng cộng sản Việt Nam chủ động kéo dài từ 1945 đến 1975.
Đó là lý do tại sao, khi người công nhân thấy đảng nói như trăm voi mà không được bát nước xáo nên đã tìm đường "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" xa đảng bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
Càng cứu càng nguy
Đó là lý do tại sao ông Trọng đã than phiền :
"Chất lượng đội ngũ công nhân nước ta đang có những dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Xu hướng phân hoá trong đội ngũ công nhân làm cho nhiệm vụ tập hợp lực lượng và nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn thể xã hội trở nên khó khăn".
Trước tình trạng rã đám này,Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ thị Công đoàn phải :
1. Chú trọng nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị cho công nhân, viên chức, người lao động. Tập trung tuyên truyền, giáo dục, giúp công nhân, viên chức, người lao động nhận thức sâu sắc hơn nữa về giai cấp, về Đảng, về tổ chức công đoàn…
2. Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn công tác. Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp tổ chức cho cán bộ, đoàn viên học tập, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị.
3. Đặc biệt, phải kiên trì, sáng tạo và thực chất trong việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm trước của cán bộ công đoàn các cấp, đồng thời coi trọng việc xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến…
4. Chú trọng giáo dục giữ vững bản lĩnh, có ý thức nhạy bén chính trị, tăng sức đề kháng trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động để kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
5. Các cấp công đoàn phải tích cực đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng ; thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ; góp ý với đảng viên, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ với hình thức phù hợp, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng Đảng".
Nhưng nội dung công tác không mới, không thay đổi từ 7 năm qua. Có mới chăng là ông Trọng phải nhắc lại để xác nhận đảng đã thất bại trong công tác xây dựng đảng. Quan trọng nhất là tình trạng nhiều cán bộ đảng viên, nhất là những lãnh đạo hàng đầu gọi là "cấp chiến lược", vẫn tiếp tục lửng lơ với chỉ thị phải tuyệt đối trung thành với đảng và phải kiên định Chủ nghĩa phá sản Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tổ chức tay sai
Riêng với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tổ chức lao động bao trùm của Công đoàn thì sự có mặt của tổ chức này trong hệ thống cầm quyền, chẳng qua chỉ là một bộ phận của đàng, do đảng và vì đảng mà hoạt động.
Ngân sách năm 2014 của tổ chức tay chân của đảng đã ăn mất 270 tỷ đồng tiến thuế của dân (báo Dân Trí, ngày 10/06/2016), nhưng hiệu năng lao động của công nhân Việt vẫn đứng thấp hơn nhiều nước trong khối ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á), may ra chỉ hơn Cao Miên và Ai Lao trong một số lĩnh vực.
Khả năng tay nghề của người Việt Nam cũng rất thấp, trong khi đồng lương bình quân của người Việt chỉ tới 2.200 dollars mỗi năm, đa phần làm thuê cho các công ty nước ngoài.
Như vậy thì các Tổ chức lao động của Việt Nam, đứng bao trùm là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã làm gì để nâng cao đời sống và trình độ lao động cho công nhân Việt Nam ?
Hay Việt Nam chỉ biết xuất khẩu lao động để kiếm tiền. Điển hình như năm 2017, đã có 134.751 lao động (trong đó, có 53.340 lao động nữ) ra nước ngoài làm việc, phần lớn đi Nam Hàn, Đài Loan, Nhật Bản và Mã Lai Á, theo Bộ Lao động, thương binh và xã hội.
Số tiền công nhân gửi về hàng năm ước tính 3 tỷ dollars, theo báo Lao Động ngày 18/06/2018.
Một lý do quan trọng nhiều thanh niên, thiếu nữ phải ra nước ngoài làm thuê vì con nhà nghèo, không có khả năng học lên cao và không phải là con ông cháu cha nên khó kiếm việc làm nuôi thân , chứ đừng nói đến chuyện phụ giúp gia đình.
Và với nghịch lý kinh tế phải lệ thuộc vào Trung Quốc để sống còn thì tương lai của đại đa số người lao động Việt sẽ chỉ mãi mãi là kẻ làm thuê, dù ở trong nước hay ra nước ngoài.
Vậy cho nên câu tuyên truyền "đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng" có nghĩa lý gì chăng, hay nó vẫn tối đen như mực ?
Phạm Trần
(28/09/2018)
Nhà nước cộng sản Việt Nam bầy trò ra lệnh cho trên 1.000 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị - Ban Bí thư quản lý và những người có chức có quyền kê khai tài sản, nhưng khai rồi giấu đi thì mị dân làm gì ?
Quan chức lộ tài sản lớn : Chính đáng hay bất minh ?
Bằng chứng chuyện khai báo này đã quy định trong Luật phòng chống tham nhũng mang số 55/2005/QH11 của Quốc hội khóa XI, ra ngày 29/11/2005. Đến nay, năm 2018, là 13 năm mà công tác này vẫn còn nhiễu nhương trăm mối tơ vò.
Đến nỗi Chủ tịch Quốc hội, bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã phải than van "đây là vấn đề phức tạp". Bà nói :
"Quyết tâm chính trị của chúng ta là phải minh bạch thu nhập tài sản, phòng, chống tham nhũng. Trong thực tiễn khi xử lý các trường hợp vi phạm nghĩa vụ kê khai tài sản và giải trình nguồn gốc tài sản thu nhập tăng thêm, rõ ràng có một số cán bộ, công viên chức có tài sản giá trị rất lớn nhưng không giải trình hợp lý nguồn gốc. Nhà nước cũng chưa có cơ sở nào để xử lý".
(VietNamNet, ngày 10/09/2018)
Như vậy là đầu hàng cả hai tay lẫn hai chân, hay đảng lại cố gắng chứng minh không bỏ cuộc ?
Căn cứ vào những việc làm trong quá khứ thì càng cố bao nhiêu, đảng càng thất bại bấy nhiêu. Bằng chứng tại phiên họp của Ủy ban Tư pháp quốc hội ngày 05/09/2018, Phó tổng Thanh tra Chính phủ Đặng Công Huẩn đã báo cáo trong năm 2017 có tổng số 1.113.422 người thuộc diện kê khai tài sản, thu nhập, nhưng chỉ xử lý 5 trường hợp vi phạm, trong đó có cả cán bộ cao cấp.
Vì vậy, tại kỳ họp 6 của Quốc hội, dự trù khai mạc ngày 22/10/2018 và bế mạc vào ngày 19/11/2018 sẽ thảo luận Luật phòng chống tham nhũng (sửa đổi) có nhiều chi tiết mới về kê khai tài sản và biện pháp chế tài.
Nhưng, trong các lần họp của Ủy ban Thường vụ quốc hội, cơ chế xem xét các dự luật trước khi đưa ra toàn thể Quốc hội thảo luận, nhiều Đại biểu quốc hội đòi phải nới rộng thành phần phải kê khai, thay vì chỉ giới hạn "vợ hoặc chồng và con chưa thành niên".
Theo Đại biểu Đinh Duy Vượt, Phó trưởng đoàn chuyên trách đoàn Gia Lai thì : "Nếu chỉ quy định phạm vi người thân phải kê khai như dự thảo thì chưa xoáy vào "tảng băng chìm" là những đối tượng mà dân hoài nghi… Cử tri muốn mở rộng đối tượng kê khai".
Ông nói : "Nhân dân đều biết nhiều ông bố, bà mẹ bỗng dưng sở hữu nhiều tài sản, đứng tên nhiều doanh nghiệp, biệt phủ, xe sang mà được coi là của cậu ấm cô chiêu dù tuổi còn ít nhưng có tài sản khủng, trơ trơ thách thức dư luận".
Ông dẫn chứng : "Qua nhiều vụ án tham nhũng đã và đang được xét xử cho thấy nhiều tài sản được tẩu tán cho bố, mẹ, người thân đứng tên như vụ Huyền Như, Giang Kim Đạt, Trịnh Xuân Thanh".
Đại biểu Vượt cũng lưu ý :
"Riêng "tài sản cho chân dài" là chưa bị lộ". Tài sản tham nhũng không tự nhiên mất đi mà biến hoá như ma trận, lòng vòng, nhưng cuối cùng vẫn đổ về túi cán bộ".
(ViệtNamNet, ngày 06/09/2018)
Cụm từ "chân dài" hay "bồ nhí" là để chỉ các "phòng nhì, phòng ba" của các quan chức cộng sản tham nhũng sử dụng để phân tán tài sản không chứng minh được.
Với bức tranh khai báo bôi bác như thế nên Đại biểu quốc hội Lưu Bình Nhưỡng của tỉnh Bến Tre đã nói ngày 31/05/2018 rằng : "Việc kê khai tài sản ta làm lâu nay hầu hết là 'kê chỉ để đó thôi'. Đọc hồ sơ kê khai của nhiều người, kể cả các cán bộ cấp cao, tôi nghĩ nếu đưa ra cho nhân dân đọc thì người ta sẽ nhất định không đồng tình vì vô lý lắm".
Ông Nhưỡng lưu ý : "Hầu hết cán bộ 'có vấn đề', "có dư luận' về vấn đề tài sản hiện nay đều viện dẫn là được cho, tặng, thừa kế".
Theo tường thuật của báo Dân Trí thì : "Ông Nhưỡng tỏ ra thất vọng vì việc kê khai tài sản đang được thực hiện lâu nay hầu hết là hình thức, 'kê chỉ để đó' vì không có quy định về việc xác minh tài sản".
Luật cho phép giấu
Đúng vậy, nhóm chữ "kê chỉ để đó" của Đại biểu Nhưỡng đã lột tả hết tính bịp bợm của Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi).
Trước hết nên biết những ai phải kê khai tài sản ?
Điều 35 của Luật phòng chống tham nhũng quy định "Đối tượng kê khai tài sản, thu nhập" gồm :
1. Cán bộ, công chức.
2. Sĩ quan Quân đội nhân dân, sĩ quan Công an nhân dân.
3. Người giữ chức vụ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên tại các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
4. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 36. Tài sản, thu nhập phải kê khai :
1. Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng.
2. Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và các loại động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên.
3. Tài sản, tài khoản ở nước ngoài.
4. Tổng thu nhập giữa hai lần kê khai.
Nhưng khai rồi trao cho ai, làm gì ?
Theo quy định trong Điều 40 về "Công khai bản kê khai tài sản, thu nhập", dự Luật viết :
1. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai phải được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.
2. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm.
3. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người ứng cử đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân phải được công khai theo quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
4. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải được công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trước khi bầu, phê chuẩn. Thời điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ quốc hội.
5. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến bầu giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại doanh nghiệp nhà nước được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm khi tiến hành bổ nhiệm hoặc tại cuộc họp của Hội đồng thành viên khi tiến hành bầu các chức vụ lãnh đạo, quản lý.
6. Chính phủ quy định chi tiết về thời điểm, hình thức công khai bản kê khai tài sản, thu nhập tại các khoản 1, 2 và 5 Điều này.
Như vậy thì dân được biết gì không ? Tại sao lại không minh bạch cho mọi người biết để dân thẩm định tính chân thật và sự ngay thẳng của cán bộ, đảng viên ? Nếu chỉ khai rồi trao cho Thủ trưởng hay cấp chỉ huy trực tiếp thì khai báo làm gì cho tốn tiền thuế của dân ?
Minh bạch hay bí mật ?
Cũng nên biết, song song với Luật Phòng chống tham nhũng, nhà nước cộng sản Việt Nam còn vẽ ra Nghị định về "minh bạch tài sản, thu nhập", Số : 78/2013/NĐ-CP, ban hành tại Hà Nội, ngày 17 tháng 07 năm 2013.
Người có nghĩa vụ kê khai được ghi trong Điều 7 gồm :
1. Đại biểu quốc hội chuyên trách, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, người ứng cử đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, người được dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
2. Cán bộ, công chức từ Phó trưởng phòng của Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
3. Sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó tiểu đoàn trưởng, người hưởng phụ cấp chức vụ tương đương phó tiểu đoàn trưởng trở lên trong Quân đội nhân dân ; sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó tiểu đoàn trưởng, Phó trưởng công an phường, thị trấn, Phó đội trưởng trở lên trong Công an nhân dân.
4. Người giữ chức vụ tương đương Phó trưởng phòng trở lên tại bệnh viện, viện nghiên cứu, cơ quan báo, tạp chí, ban quản lý dự án đầu tư xây dựng có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, ban quản lý dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA, official development assistance).
5. Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng trường mầm non, tiểu học, trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, người giữ chức vụ tương đương Phó trưởng phòng trở lên trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề của Nhà nước.
6. Thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên, thành viên ban kiểm soát, kiểm soát viên, người giữ chức danh quản lý tương đương từ Phó trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp nhà nước, người là đại diện phần vốn của Nhà nước, phần vốn của doanh nghiệp nhà nước và giữ chức danh quản lý từ Phó trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, của doanh nghiệp nhà nước.
7. Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ; Trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự, cán bộ địa chính, xây dựng, tài chính, tư pháp - hộ tịch xã, phường, thị trấn.
8. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm tra viên, thẩm phán, thư ký tòa án, kiểm toán viên nhà nước, thanh tra viên, chấp hành viên, công chứng viên nhà nước.
9. Người không giữ chức vụ quản lý trong các cơ quan nhà nước, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong các lĩnh vực quy định tại Danh mục ban hành kèm theo Nghị định này.( chú thích của người viết bài này : bao gồm những người làm việc có quan hệ đến tài chính và tài sản)
Vậy tài sản, thu nhập phải kê khai gồm những gì ? Điều 8 quy định :
1. Các loại nhà, công trình xây dựng :
a) Nhà, công trình xây dựng khác đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu ;
b) Nhà, công trình xây dựng khác chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu đứng tên người khác ;
c) Nhà, công trình xây dựng khác đang thuê hoặc đang sử dụng thuộc sở hữu của Nhà nước.
2. Các quyền sử dụng đất :
a) Quyền sử dụng đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng ;
b) Quyền sử dụng đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đứng tên người khác.
3. Tiền mặt, tiền cho vay, tiền gửi các cá nhân, tổ chức trong nước, nước ngoài mà giá trị mỗi loại từ 50 triệu đồng trở lên.
4. Tài sản ở nước ngoài.
5. Ô tô, mô tô, xe máy, tầu, thuyền và những động sản khác mà Nhà nước quản lý (theo quy định của pháp luật phải đăng ký sử dụng và được cấp giấy đăng ký) có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên.
6. Kim loại quý, đá quý, cổ phiếu, các loại giấy tờ có giá trị chuyển nhượng khác có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên.
7. Các khoản nợ phải trả có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên.
8. Tổng thu nhập trong năm.
Nội bộ biết với nhau
Giống y chang như Luật phòng chống tham nhũng, tiến trình kê khai trong Nghị định về "minh bạch tài sản, thu nhập" cũng là loại "mèo giấu phân".
Theo Điều 13 duy định "Hình thức, thời điểm công khai Bản kê khai", viết như sau :
1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quyết định công khai Bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức bằng một trong hai hình thức sau : Niêm yết tại trụ sở cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc công bố tại cuộc họp với phạm vi như quy định tại Điều 14 Nghị định này vào thời điểm sau tổng kết hàng năm.
2. Vị trí niêm yết phải đảm bảo an toàn, đủ điều kiện để mọi người trong cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể xem các Bản kê khai ; thời gian niêm yết tối thiểu là 30 ngày liên tục.
3. Việc công khai Bản kê khai phải được thực hiện sau khi đơn vị, bộ phận phụ trách công tác tổ chức cán bộ hoàn thành việc kiểm tra Bản kê khai theo quy định tại Khoản 3 Điều 9 Nghị định này và phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 3 năm sau.
Điều 14. Phạm vi công khai Bản kê khai tại cuộc họp
1. Ở Trung ương :
a) Cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Bộ trưởng và tương đương trở lên thì công khai trước đối tượng ghi phiếu tín nhiệm để lấy phiếu tín nhiệm hàng năm.
b) Cán bộ, công chức giữ chức vụ Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Phó Tổng cục trưởng và tương đương trở lên công khai trước lãnh đạo từ cấp cục, vụ và tương đương trở lên của cơ quan mình.
c) Cán bộ, công chức giữ chức vụ Cục trưởng, Phó cục trưởng, Vụ trưởng, Phó vụ trưởng và tương đương công khai trước lãnh đạo cấp phòng và tương đương trở lên trong đơn vị mình ; trường hợp không tổ chức cấp phòng thì công khai trước toàn thể công chức, viên chức trong đơn vị mình.
d) Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc diện quy định tại điểm a, b, c trên đây thì công khai trước toàn thể công chức, viên chức thuộc phòng, ban, đơn vị mình. Nếu biên chế của phòng, ban, đơn vị có từ 50 người trở lên và có tổ, đội, nhóm thì công khai trước tổ, đội, nhóm trực thuộc phòng, ban, đơn vị đó.
2. Ở địa phương :
a) Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, trưởng các ban của Hội đồng nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công khai trước đối tượng ghi phiếu tín nhiệm để lấy phiếu tín nhiệm hàng năm, gồm lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, ngành, trưởng các cơ quan, đơn vị trực thuộc Hội đồng dân nhân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
b) Giám đốc, Phó giám đốc sở, ngành và tương đương, trưởng các cơ quan, đơn vị trực thuộc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công khai trước lãnh đạo cán bộ cấp phòng và tương đương trở lên trực thuộc sở, ngành, cơ quan, đơn vị đó.
c) Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, trưởng các ban của Hội đồng nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã công khai trước đối tượng ghi phiếu tín nhiệm hàng năm, gồm lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã, trưởng phòng, ban, cơ quan, đơn vị trực thuộc Hội đồng dân nhân, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.
d) Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc diện quy định tại Điểm a, b, c trên đây thì công khai trước toàn thể công chức, viên chức thuộc phòng, ban, đơn vị. Nếu biên chế của phòng, ban, đơn vị có từ 50 người trở lên và có tổ, đội, nhóm thì công khai trước tổ, đội, nhóm trực thuộc phòng, ban, đơn vị đó.
3. Ở doanh nghiệp :
a) Chủ tịch Hội đồng thành viên (quản trị), Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Trưởng ban kiểm soát, kiểm soát viên, Kế toán trưởng các Tập đoàn, Tổng công ty (công ty) nhà nước công khai trước Ủy viên Hội đồng thành viên (quản trị), Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Trưởng ban kiểm soát, kiểm soát viên, Kế toán trưởng, Trưởng các đơn vị trực thuộc Tập đoàn, Tổng công ty, Chủ tịch Hội đồng thành viên (quản trị), Tổng giám đốc (giám đốc), các Tổng công ty (công ty) trực thuộc Tập đoàn, Tổng công ty, Trưởng các đoàn thể trong Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước.
b) Người đại diện phần vốn của Nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước và giữ chức danh từ Phó Trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước thì công khai Bản kê khai tại Tập đoàn, Tổng công ty (công ty) nơi cử mình làm đại diện phần vốn trước Ủy viên hội đồng thành viên (quản trị), Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, ban kiểm soát (kiểm soát viên), Kế toán trưởng. Trường hợp người đại diện phần vốn của Nhà nước là cán bộ, công chức, viên chức thì công khai Bản kê khai theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này.
c) Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc diện quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản này thì công khai trước tập thể phòng, ban, đơn vị đó. Nếu biên chế của phòng, ban, đơn vị có từ 50 người trở lên và có tổ, đội, nhóm thì công khai ở tổ, đội, nhóm trực thuộc phòng, ban, đơn vị đó.
Như thế thì chống cái gì và chọi với ai ? Toàn là chuyện nói cho nhau nghe trong phòng kín để ăn vụng.
Nhưng để mị thêm dân, ngày 23/05/2017, Bộ Chính trị, cơ chế thống trị toàn hệ thống chính trị đã ra Quy định số 85/QĐ/TW "về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ chính trị, Ban Bí thư qủan lý", tổng số chừng hơn 1.000 người.
Mục đích của việc làm này là nhằm : "Kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản nhằm bảo đảm việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Đảng, Nhà nước về kê khai tài sản ; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý các khuyết điểm, vi phạm trong việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý ; góp phần phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng".
Minh thị thành phần phải kê khai tài sản, cũng giống như trong Dự luật Luật phòng chống tham nhũng và Nghị định "minh bạch tài sản thu nhập", thì : "Việc thực hiện các quy định về kê khai tài sản, biến động tài sản hằng năm thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của cán bộ thuộc đối tượng kiểm tra, giám sát, của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên".
Nhưng khác với luật Luật phòng chống tham nhũng và minh bạch tài sản thu nhập, Quy định Bộ Chính trị không cho phép "công khai hồ sơ khai báo", dù chỉ giới hạn trong nội bộ để ăn chia với nhau.
Vì vậy dù công tác này đã thi hành hơn 1 năm mà tứ phương vẫn yên lặng như tờ, chả ai dám hé răng thắc mắc.
Riêng cá nhân Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng thì ông vẫn nhìn nhận : "Công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những tồn tại, hạn chế… ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", nể nang, né tránh, ngại va chạm ; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu ; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu.
Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn gây bức xúc trong người dân, doanh nghiệp.
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế là do nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức sâu sắc mức độ nghiêm trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, lĩnh vực mình quản lý ; chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả những người là lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng".
Ông Trọng đã nói như thế tại Hội nghị toàn quốc về phòng, chống tham nhũng ngày 25/06/2018 tại Hà Nội.
Ông kêu gọi mọi người : "Tiếp tục làm tốt công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ; đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ vụ lợi, "lợi ích nhóm"…phải ngăn ngừa tận gốc những sai phạm, khuyết điểm một cách căn cơ, bài bản bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nói một cách hình ảnh là phải "nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế".
Đáng chú ý là Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam còn chỉ thị : "Phải tăng cường giám sát việc sử dụng quyền lực của cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, tăng cường giám sát trong nội bộ tập thể lãnh đạo ; công khai quy trình sử dụng quyền lực theo pháp luật để cán bộ, nhân dân giám sát".
Ông Trọng nói hăng như sợ ma đuổi, nhưng đảng lại giấu nhân dân hồ sơ kê khai tài sản và thu nhập của chính cá nhân ông và của cả hệ thống lãnh đạo thì có khác nào ông chửi vào mặt đảng và nhà nước đã làm gương mù rồi không ?
Phạm Trần
(20/09/2018)
Ít lâu nay ở Việt Nam nẩy sinh phong trào thi đua nói về "dân chủ" và "đa nguyên đa đảng" đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ độc quyền lãnh đạo và trả lại quyền làm chủ đất nước cho dân qua bầu cử tự do... Để rồi quay ngược lại sau đó đả phá những lý luận đó nhằm bảo vệ và củng cố chế độ độc tài và vai trò độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi những người biểu tình xuống đường chống Dự luật Đặc khu và Luật an ninh mạng là "thành phần bất hảo, nghiện hút ma túy, trộm cắp, đủ các kiểu"…
Người đâu tiên phải kể là ông Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng. Ông nói cách nay hai năm rằng :
"Đứng đầu mà độc đoán, chuyên quyền thì hỏi liệu có dân chủ được không ? Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, bởi một đất nước mà không kỷ cương thì không thể phát huy được dân chủ".
(Tuyên bố trong cuộc họp báo ngày 28/01/2016 tại Trung tâm Báo chí, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình, Hà Nội).
Khi ấy, ông Trọng vừa tái đắc cử chức Tổng bí thư tại phiên họp đầu tiên của Khóa đảng XII, và đó là đáp số của câu hỏi do Thông tín viên Pháp, AFP (Agence France Press) đặt ra :
"Thưa Tổng bí thư, ông có nghĩ rằng dưới sự lãnh đạo của ông, Việt Nam sẽ phát triển giàu mạnh và dân chủ hơn không ?".
Hơn hai năm sau, chứng độc đoán của ông Trọng đã vạ vào miệng ông ngày 17/06/2018, khi ông gọi hàng trăm ngàn người dân biểu tình chống Luật An ninh mạng và Dự luật Đặc khu trong hai ngày 10 và 11 tháng 06/2018 từ Sài Gòn ra Hà Nội và tại nhiều thành phố khác, là : "thành phần bất hảo, nghiện hút ma túy, trộm cắp, đủ các kiểu. Cho nên phải có luật để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi của chúng ta".
"Xem những thành phần bị công an bắt là ai ? Toàn là bất hảo cả".
(theo VTCNews và Zing.vn, ngày 17/06/2018)
Trong số những người xuống đường biểu tình có cả trẻ em, phụ nữ chân quê, dân lao động, người già, tu sĩ và nhiều trí thức giỏi và chân chính hơn ông Trọng mà ông cả gan gọi họ là "bất hảo cả" thì ông Trọng có "độc đoán" và "chuyên quyền" không ?
Cũng trong lần họp báo ngày 18/01/2016, ông Trọng còn khoe về kết quả bầu cử Ban Chấp hành Trung ương Khóa đảng XII :
"Quy trình bầu cử thực hiện đúng theo quy chế ; trong đó phát huy tinh thần dân chủ khi bỏ phiếu kín biểu quyết đối với những trường hợp xin rút khỏi danh sách đề cử".
Ông nói :
"Có sự kết hợp giữa danh sách giới thiệu của khóa trước với danh sách đề cử, ứng cử tại Đại hội XII. Cũng có trường hợp do Trung ương giới thiệu nhưng không trúng cử ; lại có trường hợp Đại hội giới thiệu và trúng cử. Như vậy, Đại hội dân chủ đến thế là cùng, không có dân chủ nào hơn. Đại hội đã biểu thị rõ tinh thần dân chủ, đoàn kết, kỷ cương, trí tuệ".
Đó là thứ "dân chủ trong đảng" với nhau. Nhân dân không can dự vào việc này nên khoe cũng bằng thừa.
Cũng như trước đây, khi ông Hồ Chí Minh, người lập ra đảng cộng sản Việt Nam hô hoán rằng : "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân" là ông muốn cho dân nghe khoái lỗi tai thôi. Thực chất, như lịch sử đã chứng minh cho đến tận khóa đảng XII thời ông Nguyễn Phú Trọng, dân chưa được làm chủ đất nước bao giờ mà chỉ được ăn những chiếc bánh vẽ trên giấy.
Nhưng đảng đã thẳng tay giành quyền của dân cho bản thân lãnh đạo. Chẳng hạn như đảng chưa hề được dân bỏ phiếu bầu cầm quyền, hay ủy thác chọn lựa thể chế bao giờ mà cứ viết "tự nhiên như người Hà Nội" trong Điều 4 Hiến pháp 2013 rằng :
"Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Hay, như trong Điều 53 khi nói về quyền làm chủ đất đai, đảng cũng hớt tay trên ngay trước mắt người dân. Điều này viết :
"Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý".
Như vậy thì dân chủ ở đâu, người dân là chủ nhân của đất nước hay là nô lệ của đảng ?
Ăn gì - nói bừa ?
Ấy thế mà mới cách nay 8 năm thôi, mọi người đã phải thất kinh khi đọc bài viết rất hồ hởi để tự ca dân chủ ở Việt Nam của bà tiến sĩ Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch nước.
Khi ấy, bà viết trên báo Nhân Dân ngày 05/11/2011 :
"Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các nhà nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản, nhưng chưa tuyên truyền, giáo dục cho người dân hiểu đúng về dân chủ đi liền với kỷ cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ làm tác động xấu đến trật tự, an toàn xã hội".
Giờ dây, mọi người lại phải nghe ông phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Xuân Tú lý luận kiểu giở người rẳng :
"Chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan phi khoa học, trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị duy nhất tồn tại, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở Việt Nam không cần sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng".
Như cá gặp nước, ông này còn vung tay quá trán khi nịnh đảng :
"Thứ hai, trên phương diện thực tiễn : Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử ; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam".
(Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 7/2018)
Nhưng lịch sử nào đã chọn Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước hay nhân dân Việt Nam đã bị phong trào Việt Minh, do ông Hồ lãnh đạo, đánh lừa trong cuộc kháng chiền chống Pháp giành độc lập rồi sau đó cướp chính quyền hợp pháp từ tay Thủ tướng Trần Trọng Kim năm 1945 ?
Có giỏi, các nhà viết lịch sử cộng sản hay đội ngũ tuyên truyền tuyên giáo hãy chứng minh "ý nguyện của nhân dân Việt Nam" khi ấy là nhân dân nào đã trao quyền cho ông Hồ Chí Minh, vào lúc chính phủ Trần Trọng Kim và triều đình Huế của Vua Bảo Đại không có vũ khí và quân lính bảo vệ.
Chỉ sợ mất quyền
Ngoài lập luận trên, Tuyên giáo đảng tiếp tục loan truyền các bài viết bảo vệ quyền cai trị độc tôn cho đảng và chống phá tư tưởng đòi thiết lập nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân, thay cho chính phủ dân chủ trá hình cộng sản Việt Nam.
Bằng chứng như bài viết của phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hưởng trên báo của Đài Tiếng Nói Việt Nam (TNVN) ngày 18/01/2011.
Ông Hưởng đã lu loa rằng :
"Toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam và hoạt động của nhà nước Việt Nam mới là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính trị nhất nguyên. Chế độ chính trị đó là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam, nhân dân ta thực sự được làm chủ cuộc sống của mình, được sống cuộc đời tự do, hạnh phúc".
Ăn nói như thế mà ngửi được à ? Nhân dân nào chọn Đảng lãnh đạo và Chủ nghĩa cộng sản ? Quyền tự do của dân ở đâu và hạnh phúc ở chỗ nào trong hoàn cảnh kinh tế hay chính trị hiện nay ?
Ai cũng biết dân Việt Nam không có tự do báo chí và tự do tư tưởng, không có quyền lập hội, hội họp hay biểu tình như Hiến pháp quy định. Mọi sinh hoạt của dân bị kiểm soát, kể cả tín ngường, tôn giáo. Họ bị đàn áp khi biểu tình bầy tỏ nguyện vọng hay khiếu kiện đòi công bằng.
Thậm chí dân còn bị đàn áp dã man khi xuống đường biểu tình chống Tầu xâm lược hay lên án lính Tầu bắn giết, đánh đập hay ngăn chặn, đâm chìm tầu dánh cá của ngư dân Việt Nam hành nghề ở Biển Đông.
Về kinh tế, thu nhập đồng niên của người Việt Nam chưa tới 3.000 dollars/năm, đứng áp chót trong số các nước Đông Nam Á. Trong khi các quan chức cộng sản lại giầu to nhờ tham nhũng và mánh mung quyền lực. Có khoảng 23.000 du học sinh Việt Nam theo học tại Mỹ, nhưng đa số là con ông cháu cha. Hàng ngàn tư bản đỏ cộng sản đã mua tài sản ở nước ngoài, phần lớn tại Mỹ, bẳng tiền mặt, có nhà giá cả triệu dollars.
Nhu vậy thì thái độ "hèn với giặc, ác với dân" của nhà nước cộng sản Việt Nam đã rõ như ban ngày mà tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng vẫn nhắm mắt bệnh vực cho chế độ độc tài, phản dân chủ và bất lực trước kẻ thù phương Bắc của đảng để chống nhân dân đòi dân chủ chế độ.
Ông xuyên tạc rằng :
"Luận điểm "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập" là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, dễ gây nên sự ngộ nhận mơ hồ, lẫn lộn về nhận thức, sự dao động về tư tưởng trong một bộ phận cán bộ và nhân dân. Nếu không thực hiện được ý đồ thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng thì cũng dễ gây nên sự chia rẽ trong xã hội và sự thiếu thống nhất về chính trị tư tưởng trong xã hội ; sự hoài nghi, dao động, thiếu niềm tự tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, thực chất luận điểm đó là nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội, xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, "lái" nền dân chủ nước ta sang nền dân chủ khác, phi xã hội chủ nghĩa. Dù chúng không trực tiếp nói đến chúng ta phải thực hiện dân chủ tư sản, nhưng cái cách "khuyên" chúng ta thực hiện đa đảng, học tập theo các nước phương Tây, đã cho thấy thực chất đó là hướng nền dân chủ nước ta sang dân chủ tư sản".
Hậu quả, theo hù họa phản độngcủa ông Hưởng thì :
"Điều dẫn đến sẽ là : đất nước diễn ra cảnh hỗn loạn, mất ổn định, làm đổ vỡ nền kinh tế, rơi vào thảm họa như đã từng xảy ra ở một số nước. Thảm họa đó chắc chắn sẽ giáng cả lên đầu nhân dân, nhân dân chỉ là cái cớ cho sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Rút cục, Việt Nam không còn là đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa ; đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo xã hội ; mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta bị tiêu tan".
Như vậy, chỉ vì sợ đảng tan và mất độc quyền lãnh đạo, và tất nhiên có khối kẻ Tuyên giáo mất bổng lộc nên ông Hưởng đã dọa tiếp rằng :
"Cần nhớ lại một bài học đau xót và thấm thía về thực thi dân chủ sai nguyên tắc ở Liên Xô trong thời gian cải tổ. Những đơn thuốc "công khai hóa", "dân chủ hóa", "đa nguyên chính trị" đưa ra nhằm cải tổ chủ nghĩa xã hội, lại tạo "thời cơ", điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong mưu đồ chống phá và dẫn đến làm tan rã, đổ vỡ chế độ Xô Viết".
Huyênh hoang như thế rồi ông Hưởng lại phân bua :
"Ở Việt Nam không thực hiện chế độ đa đảng không phải vì chúng ta bảo thủ, mất dân chủ như các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, mà đó là yêu cầu khách quan, là vì sự ổn định và phát triển của đất nước, vì sự phát triển của nền dân chủ và hạnh phúc của nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh...
Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nếu đã ăn chắc như thế thì liệu ông Hưởng và những cái loa Tuyên giáo có dám xúi đảng thực hiện cuộc trưng cầu ý dân, có Quốc tế và Liên hợp quốc kiểm soát, xem có mấy phần trăm dân còn muốn cho đảng tiếp tục cai trị và áp dặt chủ nghĩa cộng sản ngoại lai Mác-Lênin ở Việt Nam.
Phạm Trần
(13/09/2018)
Lần đầu tiên trong 73 năm, đảng duy nhất cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã bị nghi vấn,trong lo sợ bị lật đổ,về ngày gọi là "độc lập" 2/9.
Để đối phó, Tuyên giáo đảng tung ra nhiều bài viết bảo vệ Tuyên ngôn độc lập do ông Hồ Chí Minh, người thành lập đảng, đọc ngày 02/09/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Tuyên ngôn độc lập do ông Hồ Chí Minh, người thành lập đảng, đọc ngày 02/09/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Những người viết hô hoán "không thể xuyên tạc giá trị lịch sử", hay "ý nghĩa thời đại của Bản Tuyên ngôn Độc lập".
Song song với tuyên truyền, cũng là lần đầu tiên, đảng phải huy động một lực lượng lớn võ trang gồm Công an, Cảnh sát, Quân đội và Dân quân sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ an ninh, bảo vệ đảng cầm quyền. Lệnh này được thi hành sau khi có lời hô hào từ nước ngoài phóng về Việt Nam kêu gọi biểu tình phản đối tổ chức kỷ niệm ngày 2/9/2018.
Không khí ngột ngạt đến khó thở
Mặc dù không có dấu hiệu biểu tình sẽ xẩy ra, như hàng trăm ngàn người dân đã bất ngờ biểu tình khắp nước phản đối "Luật An ninh mạng" và "Dự luật Đặc khu "trong hai ngày 10 và 11 tháng 06 (2018), nhưng nhiều đơn vị quân đội và dân quân đã được lệnh ở thế sẵn sàng. Trong khi nhiều ngàn Cảnh sát và Công an đã được huy động canh gác khắp các "điểm nóng", đặc biệt tại Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ v.v… Nhiều hàng rào, chướng ngại vật ngăn chặn lưu thông đã được dựng lên khắp nơi khắp chốn.
Cả nước tràn ngập căng thẳng, ngột ngạt, lo sợ như sắp có biến cố không lành. Người dân thì ngỡ ngàng, bâng khuâng, lặng câm như con hến. Công an thì con mắt đảo điên, cái mặt thì đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống ai đó.
Một lực lượng công an thường phục, mật vụ chìm và nổi đã bám sát một số nhân vật mà họ tình nghi sẽ chủ động các cuộc biểu tình đột biến. Nơi cư ngụ của những người năng động, hay từng nhiều lần biểu tình trước đây đã bị canh gác từ mấy ngày trước.
Nhà văn, cựu đại tá quân đội Phạm Đình Trọng, người đã tuyên bố ra khỏi đảng "sau 40 năm là người Cộng sản", từ 19/05/1970 đến 20/11/2009, đã viết từ nơi cự ngụ Sài Gòn của ông :
"Ngày 2 tháng chín, 2018, công an bủa vây bịt bùng trước nhà nhiều người dân trên khắp mọi miền đất nước. Hai trung tâm chính trị văn hóa, xã hội, hai không gian tiêu biểu cho đời sống dân sự đất nước, tiêu biểu cho bộ mặt xã hội Việt Nam là Hà Nội và Sài Gòn không những là hai nơi số người dân bị công an nhà nước cộng sản bủa vây, ngăn chặn không cho ra khỏi nhà nhiều nhất mà trên khắp đường phố Hà Nội, Sài Gòn còn rải đầy sắc áo công an, dân phòng trang bị roi điện, dùi cui, trang bị cả bộ mặt thú săn hầm hầm sát khí. Khắp các ngả đường trung tâm hai thành phố lớn nhất nước giăng trùng trùng lớp lớp rào sắt, kẽm gai.
Ngày 2 tháng chín, 2018, Hà Nội, Sài Gòn như hai thành phố bị chiếm đóng, hai thành phố bị bạo lực nhà nước cộng sản phong tỏa".
Một người Sài Gòn khác, tác giả Trương Minh Ẩn phản ảnh :
"Sài Gòn ngày 2/9 vắng vẻ, đường xá ít người, chứ không ngồn ngộn như ngày thường. Có 3 ngày nghỉ nên khá đông người về quê, đi chơi xa… Tôi chỉ gọi là ngày nghỉ, bởi với riêng tôi nó chỉ có vậy. Không là gì nữa cả, chẳng phải ngày Quốc Khánh gì cả. Bởi độc lập này chỉ giành cho một số người, một tầng lớp người theo Cộng sản…".
Từ Hà Nội, nhà văn, nhà báo độc lập Nguyễn Tường Thụy viết trên trang báo cá nhân :
"Đặc điểm nổi bật của việc kỷ niệm 73 năm Tuyên ngôn độc lập năm nay là tình hình siết chặt an ninh trên toàn quốc, ráo riết hơn rất nhiều so với mọi năm.
Trước đó xuất hiện những lời kêu gọi tổng biểu tình vào ngày 2/9 trên các trang mạng. Về phía nhà nước thì kêu gọi mọi người "cảnh giác", "không mắc bẫy kẻ xấu", cho đó là "những lời kêu gọi kéo mây đen về giữa trời quang".
Lực lượng công an được huy động tối đa để ngăn chặn biểu tình. Trên các đường phố, tràn ngập cảnh sát trong các mầu áo.
Nhiều người được cho là ngòi nổ của các cuộc biểu tình ở Sài Gòn, Hà Nội bị canh giữ, hoặc bám sát khi đi chợ hay đi làm một việc gì đó… Nói chung, những ai đã từng xuống đường, bị bắt về đồn công an đều bị theo dõi canh giữ chặt chẽ".
Từ ba nhân chứng cho thấy ngày 2/9 năm 2018 không bình thường. Đã thấy thiếu những hân hoan, nụ cười đã tắt và hạnh phúc phai tàn của một dân tộc đã phải gánh chịu qúa nhiều đau thương sau 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng cộng sản Việt Nam chủ động và độc tôn, độc tài cầm quyền.
Và giờ đây, sau 30 gọi là "đổi mới" và phải tái cơ cấu kinh tế đến 2 lần, thu nhập hàng năm của công nhân Việt Nam vẫn tụt hậu rất xa so với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á, chỉ hơn có Lào và Cao Miên. Nhưng mỗi người Việt Nam phải gánh món "nợ công" bao nhiêu ?
Một Báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư về vay vốn ODA (official development assistance) cho thấy :
"Năm 2018 nợ công dự kiến lên con số 3,5 triệu tỷ đồng, cao hơn con số 3,1 triệu tỷ đồng của năm 2017.
Như vậy, từ chỗ mỗi người dân chỉ "gánh" 31 triệu đồng nợ công vào năm 2017, thì đến 2018 dự kiến con số này sẽ tăng thêm 4 triệu đồng, lên 35 triệu đồng. Nhưng, con số đó có thể chưa dừng lại.
Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và đầu tư, nợ công trong xu hướng tăng dần đều, mỗi năm khoảng 360.000-380.000 tỷ đồng. Cụ thể, năm 2019 dự kiến tăng lên mức hơn 3,9 triệu tỷ đồng và gần 4,3 triệu tỷ đồng vào năm 2020".
(VietnamNet, ngày 19/08/2018)
Với tình hình kinh tế chưa ra khỏi qũy đạo gọi là "trung bình thấp", người dân Việt Nam còn phải gánh chịu thảm họa của quốc nạn tham nhũng và tệ nạn các nhóm lợi ích không ngừng phá hoại ngân sách nằm trong các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ.
Như vậy, nếu đọc lại lời mở đầu của Tuyên ngôn ngày 2/9/1945 thì thấy ngay đảng cầm quyền cộng sản Việt Nam đã thất bại ê chề. Ngày ấy, ông Hồ đọc :
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Nhưng đối với đại đa số nhân dân Việt Nam sống dưới chê độc độc tài và độc đảng cộng sản thì chỉ có những người của đảng hay làm theo lệnh đảng thì mới có "quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Tình trạng chênh lệch giầu nghèo và không bình đẳng trong xã hội Việt Nam ngày nay là một bằng chứng.
Độc lập nào ?
Vì vậy mà lần kỷ niệm lần thứ 73 năm nay (2018), ngày gọi là "độc lập 2/9" đã bị đặt nghi vấn bởi nhiều tầng lớp nhân dân.
Giáo sư ngành xây dựng nổi tiếng Nguyễn Đình Cống, 81 tuổi, người đã chính thức tuyên bố "Tôi thông báo từ bỏ Đảng cộng sản Việt Nam từ ngày 03 tháng 02 năm 2016. Yêu cầu tổ chức Đảng xóa tên tôi khỏi danh sách", đã phê bình ngày 01/09/2018 về một đoạn trong Tuyên ngôn của ông Hồ, viết rằng :
"Về việc giành chính quyền, Tuyên ngôn viết : "Sự thật là từ đầu mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt-nam dân chủ cộng hòa. Sự thật thì dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp".
Giáo sư Cống nói thêm :
"Cái sự thật nêu ở đây chỉ mới là một phần. Phần quan trọng hơn đã được giấu kín. Đó là việc cướp chính quyền từ Chính phủ Trần Trọng Kim chứ không phải giành từ tay Nhật (vì Nhật đã đầu hàng rồi), là nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập từ tháng 3/1945. Câu "dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật" là không đúng với sự thật".
Nên biết, theo tài liệu của giáo sư Cống phổ biến thì Vua Bảo Đại đã chính thức công bố độc vào ngày 11 tháng 3 tại Huế. Nội dung như sau :
"Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, Chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung.
Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên".
Bản tuyên ngôn được nhà vua và 6 thượng thư cùng ký tên, nó khá ngắn gọn, nhưng đã nêu lên được các điểm chính sau :
1. Bãi bỏ điều ước bảo hộ của Pháp (chứ không tuyệt giao với Pháp, không lên án chế độ cai trị của Pháp).
2. Nước Nam khôi phục quyền độc lập và cố xứng đáng quốc gia độc lập.
3. Nước Việt Nam tin cậy và hợp tác với Nhật (tin cậy và hợp tác chứ không nhận sự đô hộ hoặc bảo hộ như đối với Pháp trước đây).
Khi thảo luận về Tuyên ngôn độc lập, Bảo Đại phát biểu trước Triều đình :
"Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong Hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ Thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập Chính phủ để đối phó mọi việc".
Trong khi đó, giáo sư tiến sĩ lịch sử Phạm Cao Dương cũng minh định : "Việt Minh cướp chính quyền : cả nước bị lừa". Ông viết :
"Không có lực lượng võ trang đáng kể, Việt Minh chỉ lợi dụng Thanh Niên Tiền Phong làm lực lượng xung kích, qua sự lừa đảo tập thể những người trẻ chỉ biết yêu nước và phụng sự quốc gia của Miền Nam này và họ đã thành công, giống hệt như ở Hà Nội, họ đã lợi dụng và cướp ngang cuộc biểu tình ngày 17 tháng Tám của Tổng Hội Công Chức, được tổ chức để mừng độc lập và ủng hộ Chính Phủ Trần Trọng Kim, không phải để ủng hộ Việt Minh".
Như vậy thì việc ông Hồ Chí Minh tuyên bố Độc lập ngày 02/09/1945 chỉ đến sau Tuyên bố của Vua Bảo Đại. Do đó mà ngày nay, 73 năm sau, nhiều sử gia và người dân Việt Nam vẫn còn đặt câu hỏi :
Việc Việt Minh cướp chính quyền từ tay Chính phủ hợp pháp Trần Trọng Kim có nên được coi là có công giành độc lập hay không ?
Phạm Trần
(06/09/2018)
Tổ tiên người Việt có câu : "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng", có thể là tiếng "tốt" hay tiếng "xấu" tùy theo cách sống và hành động khi chưa lìa đời. Nhưng đối với Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain của Tiểu bang Arizona, người qua đời ngày 25/08/2018 ở tuổi thọ 81, sau một năm điều trị bất thành chứng ung thư não, thì sự ra đi của ông, đã để lại một di sản chính trị không thay thế được của nước Mỹ.
Riêng đối với người Việt Nam, cả trong và ngoài nước, thì ông John McCain đã chiếm trọn trái tim yêu thương và kính phục của cả thù lẫn bạn ở cả hai bờ chiến tuyến.
John McCain đã chiếm trọn trái tim yêu thương và kính phục của cả thù lẫn bạn ở cả hai bờ chiến tuyến.
Dòng dõi binh nghiệp
Tiểu sử phổ biến cho thấy ông John Sidney McCain III sinh ngày 29/08/1936 tại căn cứ không vận Coco Solo, vùng kinh đào Panama khi còn thuộc quyền qủan trị của Mỹ. Cha ông khi ấy là sĩ quan Hải quân John S. McCain Jr. Ông nội của ông, John S. McCain Sr cũng xuất thân từ Viện Hải quân (Naval Academy), Annapolis, Maryland. Cả hai vị, về sau đều là Tướng 4 sao, Tự lệnh Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương.
Sự nghiệp chính trị của Nghị sĩ McCain có chiều dài 36 năm, bắt đầu với chức vụ Dân biểu 2 nhiệm kỳ từ 1983 đến 1987, và sau đó đắc cử Nghị sĩ liên tiếp 6 lần, từ năm 1987 cho đến ngày qua đời.
Ông cũng 2 lần ra ứng cử Tổng thống. Lần đầu vào năm 2000 khi ông tranh cử, nhưng thất bại trước Thống đốc George W. Bush của Tiểu bang Texas để đại diện đảng Cộng hòa chống ứng cử viên Dân chủ Al Gore, khi ấy là Phó Tổng thống. Ông Bush sau đó đã đánh bại ông Gore để trở thành Tổng thống thứ 43 của Hiệp Chủng Quốc.
Lần thứ nhì, năm 2008, ông chính thức được đảng Cộng hòa đề cử tranh chức tổng thống với đối thủ của đảng Dân chủ, Thượng nghị sĩ da mầu Barack Obama của tiểu bang Illinois. Tuy nhiên, ông McCain, người chọn bà Sarah Palin, Thống đốc Tiểu bang Alaska, làm ứng viên Phó Tổng thống đã thất bại, chỉ thu được 173 phiếu Cử tri đoàn, trong khi liên danh Barack Obama-Joe Biden chiếm được 365 phiếu với gần 53% phiếu đại chúng.
Sau cuộc bầu cử, Nghị sĩ John McCain thừa nhận ông đã có quyết định chính trị sai lầm khi chọn bà Palin, một người thiếu kinh nghiệm chính trị tầm cỡ quốc gia và ít kiến thức ngoại giao hơn đối thủ của bà, Nghị sĩ Joe Biden của tiểu bang Delaware, đương kim Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thượng viện.
Tuy nhiên, dù thất bại tranh cử tổng thống đến hai lần nhưng ông McCain vẫn không rời chính trường Mỹ. Ông tiếp tục củng cố vị trí chính trị của một Nghị sĩ Cộng hòa cấp tiến nhưng không bảo thủ quá khích như nhiều đồng viện khác.
Vào năm 2014, sau khi phe Cộng hòa chiếm đa số ở Thượng viện, Nghị sĩ McCain được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban quân sự có nhiều uy quyền (Chairman of the Senate Armed Services Committee), sau khi từng làm Chủ tịch các ủy ban người Mỹ bản địa (Senate Indian Affairs Committee, đặc trách những vấn đế liên quan đến các sắc dân Native American, Native Hawaiian and Alaska Native) và Ủy ban Thương mại (Senate Commerce Committee).
Tại nghị trường, ông nổi tiếng là nghị sĩ cương nghị, thẳng thắn và luôn luôn giữ vững lập trường về những quyết định lập pháp mà ông cho là đúng và có lợi cho người dân và đất nước Hoa Kỳ. Nhà lập pháp McCain cũng không ngần ngại chỉ trích gay gắt những sai lầm của các viên chức cầm quyền Cộng hòa, kể cả tổng thống. Ông cũng đã nhiều lần bỏ phiếu ngược lại với ý muốn của lãnh tụ đảng mình tại Quốc hội, nhưng lại sẵn sàng thỏa hiệp với phe Dân chủ đối lập khi thấy tương nhượng sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn cho đất nước.
Bằng chứng
Điển hình như vào năm 1983, thời Tổng thống Cộng hòa Ronald Reagan cầm quyền, ông đã yêu cầu rút Thủy quân lục chiến Mỹ khỏi chiến trường Li-Băng (Lebanon) vì thấy không có lý do gì lại để mạng sống của lính Mỹ bị đe dọa bởi các phe trong cuộc nội chiến ở Lebanon.
Ông cũng chỉ trích chính quyền Reagan đã vi phạm luật cấm vận của Quốc hội khi bí mật bán vũ khí cho Ba Tư (Iran) để, thứ nhất nhờ Iran cứu 7 con tin Mỹ bị phe Hồi giáo quá khích Hezbollah, đồng minh của Iran, bắt giữ ở Lebanon. Thứ hai, dùng tiền bán vũ khí để giúp phe đối lập ở Nicaragua (Nam Mỹ) chống Chính quyền theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa thân Cuba cộng sản của Daniel Ortega.
Sang thời Tổng thống Cộng hòa Gorge W. Bush, Nghị sĩ McCain công khai chỉ trích đường lối theo đuổi chiến tranh ở Iraq, bắt đầu từ năm 2003, mà không tăng quân để chiến thắng. Ông gây kinh ngạc trong dư luận và gây xáo trộn trong đảng Cộng hòa khi tuyên bố "bất tín nhiệm" Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld, người do chính Tổng thống Bush lựa chọn.
Đến năm 2004, khi ông Bush ra tái tranh cử tổng thống chống lại ứng viên Dân chủ, Nghị sĩ John Kerry, tiểu bang Massachusetts, một cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam và là bạn của ông thì Nghị sĩ McCain đã bênh vực thành tích tham chiến và lập trường của ông Kerry khi ông ta bị tấn công trong cuộc vận động tranh cử.
Nhưng quyết định lịch sử sẽ lưu truyền mãi tại Thượng viện, đồng thời phản chiếu tính cương quyết không thế lực nào có thể lay chuyển được ông McCain, đã xẩy ra vào sáng sớm ngày 28/07/2017. Đó là khi ông một mình rời ghế tiến lên trước mặt Phó Tổng thống Michael Pence, các lãnh tụ hai đảng và toàn thể Thượng viện để "thumb down", nghĩa là bỏ phiếu "không tán thành" Dự luật của phe Cộng hòa nhằm xóa bỏ Đạo luật bảo hiểm Y tế của Tổng thống Dân chủ Barack Obama, còn được gọi là Obama Care.
Vì quyết định bỏ hàng ngũ của 3 nghị sĩ Cộng hòa John McCain, Susan Collins và Lisa Murkowski mà dự luật đã bị bác với số phiếu 49-51.
Lý do Nghị sĩ John McCain và hai đồng viện không đồng ý vì Dự luật chỉ bác bỏ Obamacare mà không có luật mới thay thế để bảo đảm người dân được liên tục bảo vệ.
McCain-Trump
Hành động cuối đời của Nghị sĩ McCain đã khiến Tổng thống Cộng hòa Donald Trump tức giận vì ông đã hứa với cử tri trước cuộc bầu cử năm 2016 rằng việc làm đầu tiên của ông sau đắc cử là xóa bỏ Obama Care.
Từ thất bại này, quan hệ giữa ông Trump và Nghị sĩ MacCain càng xa nhau hơn, nhất là khi ông Trump bị ông McCain chỉ trích có hành động thân thiện quá mức với người đứng đầu chính quyền Nga, Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin, cựu Giám đốc cơ quan tình báo KGB của Nga.
Tình báo Mỹ đã cáo buộc ông Putin ra lệnh và chỉ huy KGB phá hoại cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2016 với kế hoạch đánh bại ứng cử viên Dân chủ, bà Hilarry Clinton bằng chiến dịch tin giả và bịa đặt để giúp ông Trump đặc cử.
Mặc dù ông Putin phủ nhận và Tổng thống Trump cũng bác bỏ tin nói ông và Ban tranh cử của ông đã toa rập với Nga để giành thắng lợi trong cuộc bầu cử năm 2016, nhưng cuộc điều tra của Ủy viên đặc nhiệm Robert Mueller vẫn tiếp tục để tìm ta manh mối.
Khi còn sinh thời, Nghị sĩ McCain ủng hộ việc làm của ông Mueller và tuyên bố chống lại bất cứ quyết định nào nhằm ngăn cản, hay chấm dứt giữa đường cuộc điều tra. Ông cũng ủng hộ việc làm của các cơ quan tình báo Mỹ trong việc thẩm định hành động phá hoại của Nga nhằm vào sinh hoạt chính trị ở Hoa Kỳ.
Nhưng không phải liên lạc giữa ông Trump và Nghị sĩ McCain chỉ rắc rối từ sau khi ông Trump bước vào Tòa Bạch Ốc mà đã có từ trước ngày bầu cử. Khi quan sát cuộc tranh cử của ông Trump, nghị sĩ McCain nói rằng ông Trump đã tạo ra những chuyện khùng điên trong đảng Cộng hòa (fired up the crazies). Ngay lập tức, ứng cử viên Donald Trump phản pháo chê bai danh hiệu "anh hùng" (hero) của ông McCain.
Danh hiệu này đã được báo chí, người dân Mỹ và nhiều đời chính khách của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa trao tặng để ca tụng hành động can trường của ông trong chiến tranh khi ông là phi công lái máy bay oanh tạc, trong một phi vụ ném bom miền Bắc Việt Nam năm 1967, bị bắn rơi : ông bị bắt làm tù binh và bị tra tấn cực hình nhiều lần trong 5 năm rưỡi (từ 1967 đến 1973).
Nghị sĩ McCain cũng đã nhiều lần từ chối được trả tự do sớm để hồi hương, sau khi phía Cộng sản Việt Nam ở Hà Nội biết cha ông, tướng 4 sao John S. McCain Jr được Tổng thống dân chủ Lyndon Johnson bổ nhiệm làm Tư lệnh lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương vào năm 1968. Tướng McCain Jr. cũng có nhiệm vụ chỉ huy các hoạt động của Hải quân trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Theo hồi ký của ông McCain viết về thời gian bị bắt làm tù binh, ít nhất là hơn 2 năm ông đã bị biệt giam, bị đánh đập dã man, bị ngược đãi và không được chăm sóc sức khỏe theo đúng quy ước quốc tế về tù binh chiến tranh. Lý do vì ông không chịu khai báo hay nhìn nhận tội của mình mỗi khi bị hỏi cung dài giờ và bị bỏ đói.
Và cứ mỗi lần ông McCain nói với quản giáo trại tù rằng ông không muốn được thả trước những quân nhân vào tù trước ông thì ông lại bị biệt giam trong phòng tối oi bức, ẩm thấp, không có vệ sinh hay tắm rửa cá nhân mà còn bị đánh đập
Nhưng đối với ông Trump thì khác. Ông ta chưa hề vào quân ngũ sau 4 lần được tạm hoãn để tiếp tục học vấn. Lần thứ 5 vào năm 1968, khi ông Trump 24 tuổi thì ông nhận được 1-Y medical deferment, sau khi bác sĩ ông đi khám chứng minh không đủ sức khỏe để nhập ngũ. Bác sĩ chứng nhận cho ông bị "bone spurs in his heels", chứng đau xương ở gót chân (theoSteve Eder and Dave Philipps, The New York Times, ngày 01/08/2016).
Trong thời gian tranh cử tổng thống, báo chí cũng đã thảo luận và nghi vấn nhiều về trường hợp ông Trump, một con nhà triệu phú trong ngành xây cất ở New York thời bấy giờ, không phải nhập ngũ để tham chiến ở Việt Nam. Vì vậy, nhiều người, kể cả báo chí và các viên chức đảng Cộng hòa đã bất bình và phản đối khi nghe ông Trump coi thường người anh hùng John McCain.
Ông Trump nói với báo chí : "He was a war hero because he was captured… I like people who weren’t captured" (Ông ta -McCain- là một anh hùng chiến tranh vì ông ta bị bắt… Tôi thích những người không bị bắt).
Mặc dù bị xúc phạm nhưng Nghị sĩ John McCain vẫn trung thành với đảng Cộng hòa để lên tiếng ủng hộ ứng cử viên Donald Trump. Ông chỉ rút lại quyết định chính trị này sau khi cuốn băng ghi âm lời nói của ông Trump vào năm 2005 được phơi bầy trên báo Washington Post, trong đó ông Trump đã có những lời lẽ coi thường phụ nữ và mô tả những hành động hôn hít và sờ mó lộ liễu thiếu đạo lý và vô nhân phẩm của chính ông.
McCain và Việt Nam
Đới với chính quyền cộng sản Việt Nam và người Việt trong nước thì nhân vật John McCain đã có một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử hòa giải và bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc ngày 30/04/1975.
Đối với người Việt tị nạn ở nước ngoài, đặc biệt ở Hoa Kỳ thì ông McCain không những chỉ được kính trọng về nhân cách của một Chính trị gia, một Nhà lập pháp lỗi lạc của nước Mỹ mà ông còn là một Ân nhân đã giúp cư dân Việt Nam rất nhiều.
Trước hết hãy nói về máy bay ném bom của ông McCain bị bắn rơi ờ Hà Nội và tiến trình thiết lập bang giao giữa Hoa Thịnh Đồn và Hà Nội.
Chuyện của ông ở tù bắt đầu từ ngày 26 tháng 10 năm 1967 và kéo dài cho đến ngày 14/03/1973 thì ông được thả. Chuyện này diễn ra sau Hiệp định Paris kết thúc chiến tranh và trao trả tù binh được ký giữa 4 phe, một bên là Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa và bên kia là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (miền Bắc) và Chình phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hay Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Chuyện tù ở Hỏa Lò, hay "Hanoi Hilton" của ông McCain thì dài, nhắc lại chỉ thấy hổ thẹn trong tư cách là một người Việt Nam. Chỉ xin vắn tắt vài đoạn.
Sau khi cánh dù kéo ông rơi xuống hồ Trúc Bạch, theo lời ông kể trong Hồi ký, thì :
"Vài cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi vào bờ và ngay lập tức họ bắt đầu lột đồ tôi ra, theo như thủ tục chung của họ. Tất nhiên vì đây là ngay trung tâm thành phố nên có đông người tụ tập, và tất cả bọn họ đã hò reo, gào hét, chửi rủa, phun nước miếng và đá tôi túi bụi. Khi họ đã cởi gần hết quần áo của tôi ra, tôi mới bắt đầu thấy đau nhói nơi đầu gối phải. Tôi gượng dậy và nhìn xuống nó. Bàn chân phải nằm xéo lên đầu gối trái của tôi, gần như vuông góc. Tôi thốt lên, "Chúa ơi ! Chân tôi". Dường như điều này làm họ điên tiết dù tôi không biết lý do tại sao. Một kẻ trong số họ dộng báng súng trường xuống vai tôi một cú khá nặng. Một kẻ khác đâm lưỡi lê vào chân tôi. Đám đông này thực sự đang nổi cuồng…
Vài cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi vào bờ…
…Trong ba hay bốn ngày sau, tôi tỉnh lại vài lần giữa cơn mê man bất tỉnh. Dù vậy tôi cũng bị đưa ra khảo cung nhiều lần – điều mà chúng tôi gọi là một cuộc "kiểm tra vấn đáp". Đó là những lúc tôi bị đánh với đủ gán ghép về tội phạm chiến tranh. Bắt đầu bị đánh ngay ngày đầu tiên. Tôi không thèm khai bất cứ điều gì ngoại trừ họ tên, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh. Họ đánh tôi dập vùi, đánh tôi bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa, "Mày sẽ không nhận được bất kỳ chữa trị thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng". Tôi không tin lắm. Tôi nghĩ rằng nếu ráng cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh viện. Tôi được tên lính canh cho ăn một tí thức ăn và uống chút nước. Nước thì tôi còn nuốt được, nhưng đồ ăn vẫn tiếp tục bị ói ra. Lúc đó, bọn họ chỉ muốn khảo tin tức quân sự chứ không phải tin tức chính trị. Nhưng mỗi khi họ hỏi tôi một cái gì đó, thì tôi cũng chỉ khai tên họ, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh chừng đó.
Tôi nghĩ rằng nếu ráng cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh viện.
…Người canh tôi là thằng bé 16 tuổi, chắc vừa ra khỏi ruộng lúa. Trò tiêu khiển ưa thích của thằng bé là ngồi cạnh giường tôi và đọc một cuốn truyện có vẽ hình một ông già cầm khẩu súng trường trong tay, đang ngồi trên thân máy bay một chiếc F-105 bị bắn hạ. Thằng bé chỉ trỏ gì đó vào mình, rồi tát và đánh tôi. Nó làm điều đó một cách đầy khoái trá. Nó đút tôi ăn vì cả hai cánh tay của tôi đã bị gãy. Nó bưng vào chén mì gói có chút xương sụn, rồi đút tôi. Các xương sụn rất khó nhai. Tôi ngậm đầy miệng đâu ba bốn muỗng gì đó rồi nuốt trộng. Tôi chẳng ăn thêm được nữa, thế là thằng bé bưng ăn hết. Mỗi ngày hai lần tôi ăn khoảng ba hoặc bốn muỗng thức ăn như vậy.
(theo bản dịch cùa Đinh Yên Thảo, Văn Việt, Việt Nam)
Ông John McCain đã nhiều lần được cai tù cho biết thượng cấp của anh ta muốn cho ông về nước sớm, sau khi họ biết cha ông, tướng 4 sao John S. McCain Jr, là Tư lệnh lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương từ năm 1968. Nhưng ông McCain từ chối và muốn Bắc Việt thả những người bị bắt tù trước ông. Tất nhiên phía Chính quyền Việt Nam không đồng ý, nhưng cứ mỗi lần ông McCain từ khước yêu cầu thì liền bị hành hạ, bị bỏ vào phòng tối biệt giam khe khắt.
Ông kể tiếp :
"Tôi bị biệt giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời. Tôi không được phép gặp mặt, nói chuyện hay giao tiếp với bất kỳ tù nhân đồng ngũ nào. Phòng giam của tôi tạm vừa phải - khoảng 10×10 inch, có cửa ra vào chắc chắn mà không có cửa sổ. Hệ thống thông gió là hai lỗ nhỏ ở trên trần nhà, khoảng 6×4 inch. Mái nhà bằng thiếc nên phòng nóng như thiêu. Phòng mờ mờ đêm cũng như ngày, nhưng họ luôn bật một bóng đèn nhỏ để có thể quan sát tôi. Tôi bị nhốt trong đó suốt hai năm…".
Tôi bị biệt giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời.
Về một đồng đội can đảm, ông McCain kể :
"Bây giờ để tôi kể với bạn câu chuyện của đại úy Dick Stratton. Anh bị bắn rơi vào tháng Năm 1967, lúc vài nhóm phản chiến Mỹ đã nhao nhao la làng rằng Hoa Kỳ ném bom Hà Nội dù chúng tôi chưa làm vào thời điểm đó. Dick bị bắn rơi phía ngoài Hà Nội, nhưng họ muốn có một lời thú tội nhân lúc một ký giả Mỹ đang có mặt. Đó là vào mùa Xuân và mùa Hè năm 67 – chắc mọi người còn nhớ những câu chuyện rất giật gân về những thiệt hại do bom Mỹ ? "Thỏ" và những tên khác thẩm vấn Dick Stratton rất tàn bạo. Tay Dick đầy các vết hằn dây thừng đã bị nhiễm trùng. Chúng thực sự bóp dẹp anh để có được một lời thú nhận rằng, anh đã ném bom Hà Nội như một bằng chứng sống. Chúng rút móng tay và dí tàn thuốc lá vào người anh. Dick bị dồn đến mức không thể nói "không". Nhưng khi chúng đưa anh đến buổi họp báo, anh làm một hành động cúi chào – anh cúi chào 90 độ theo hướng này, anh cúi chào 90 độ theo hướng khác, đủ bốn góc. Với đám "gooks" thì không phải điều gì quá lạ lẫm vì chúng quen với việc cúi chào vậy. Nhưng bất kỳ người Mỹ nào nhìn thấy hình ảnh của một người Mỹ gập mình đến thắt lưng để cúi chào vậy cũng biết rằng có điều gì đó không ổn, có điều gì đó đã xảy ra với anh ta. Đó là lý do tại sao Dick làm những gì anh đã làm. Sau đó chúng tiếp tục tạo áp lực để anh ta nói rằng anh ta không bị tra tấn. Chúng tra tấn anh để buộc phải nói rằng anh không bị tra tấn. Dick vừa ra tuyên bố mạnh mẽ tại cuộc họp báo một vài tuần trước ở đây rằng anh muốn thấy Bắc Việt bị buộc tội là tội phạm chiến tranh. Anh ấy là một người cao quý…".
(Đinh Yên Thảo, Văn Việt, Việt Nam)
Người tù John McCain đã bị đưa đi chỗ này chỗ kia nhưng điều kiện ăn ở và bị hành hạ, hầu như mỗi ngày, cũng không thay đổi
Sau dịp quay lại thăm nhà tù Hỏa Lò, hay còn được gọi là Hanoi Hilton năm 2000, cựu tù binh John McCain đã nói với báo New York Times rằng chính phủ Việt Nam đã cố tình xóa đi những gì đã xẩy ra cho tù bình Mỹ trong nhà tù, trong đó có việc tra tấn mỗi ngày và bị nhồi sọ tuyên truyền.
Ông nói :
"I still bear them ill will, he said of the prison guards, not because of what they did to me, but because of what they did to some of my friends - including killing some of them".
(Tạm dịch : Tôi vẫn buộc những kẻ canh tù là vô nhân đạo, không phải vì những gì họ đối xử với tôi mà những gì họ đã làm đối với một số trong các bạn tôi - kể cả hành động giết một số tù binh").
McCain và nhân quyền
Với tình cảnh như thế, và với thời gian dài 5 năm rưỡi bị hành hạ trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh thì chỉ một người có lòng vị tha cao thượng và ý chí muốn quên đi quá khứ đau buồn của chiến tranh như Nghị sĩ John McCain mới có thể tình nguyện đưa hai nước thù địch Mỹ-Việt xích lại gần nhau.
Ông John McCain đã làm việc này từ chuyến thăm Hà Nội đầu tiên năm 1985, nhân dịp kỷ niệm 10 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ông đã cùng với hai Nghị sĩ John Kerry và Bob Kerry, cũng là các cựu chiến binh Việt Nam, thực hiện nhiều chuyến đi Việt Nam sau đó để đặt nền tảng cho thiết lập bang giao Việt-Mỹ vào năm 1995, dưới thời Tổng thống dân chủ Bill Clinton.
Nhưng sau hành động ngoại giao là nỗ lực tìm kiếm những đồng đội của họ còn mất tích trong cuộc chiến, vì nếu chưa có bang giao thì công tác tìm kiếm còn nhiều khó khăn, nhất là khi Việt Nam không coi đó là nhiệm vụ của mình.
Riêng cá nhân ông McCain đối với Việt Nam không dừng ở đây. Trong nhiều dịp đến Hà Nội hay gặp các viên chức cộng sản Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn, ông đã thẳng thắn yều cầu Việt Nam tôn trọng nhân quyền, dân chủ, tự do và thả hết tù nhân chính trị.
Bằng chứng này đã được Thượng tướng Võ Tiến Trung, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng nói với báo Dân Việt ở Việt Nam ngày 27/08/2018. Ông Trung tiết lộ :
"Khi tôi sang Hoa Kỳ, ông John McCain đã mời tôi tới Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Tại cuộc gặp gỡ này ông có nói mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cần được nâng lên tầm đối tác chiến lược nhưng ông cũng đưa ra bốn vấn đề mà ông cho rằng Việt Nam phải làm".
Đó là, ông Trung nói với Dân Việt :
"Yêu cầu đầu tiên họ nói chúng ta phải bỏ kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa để theo kinh tế tự do ;
Thứ hai là Việt Nam phải thả ngay tù nhân chính trị hay còn gọi là tù nhân lương tâm. Việc này tôi nói lại với họ, đây không phải là tù nhân chính trị mà là những người vi phạm pháp luật Việt Nam ;
Điều thứ ba họ nói Đảng cộng sản Việt Nam bỏ vai trò lãnh đạo quân đội, quân đội phải phi chính trị, tôi nói chính trị Việt Nam là như vậy, không thể phi chính trị hóa quân đội được ;
Thứ tư họ nói Việt Nam phải có tự do báo chí, việc này tôi đã nói với họ : Việt Nam rất tự do báo chí, không có gì ngăn cấm báo chí cả, còn báo chí kích động bạo lực, kích động lật đổ chính quyền, xâm phạm quyền bí mật cá nhân thì mới ngăn cấm… Báo chí Việt Nam kể cả phản ánh những vấn đề tiêu cực, tham nhũng kể cả đối với cán bộ trung, cao cấp thì Đảng và Nhà nước Việt Nam đều được ủng hộ chứ không bị ngăn cản. Tôi nói thẳng với họ chúng tôi chẳng có gì là không tự do báo chí cả".
Quan điểm và điều kiện thiết lập quan hệ "chiến lược" giữa Hoa Kỳ và Việt Nam của Nghị sĩ John McCain là bằng chứng lúc nào ông cũng muốn nhân dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền con người, điều mà Hà Nội vẫn từ chối để tiếp tục độc quyền lãnh đạo và cai trị dân theo điều kiện của đảng cầm quyền.
Còn những điều biện bạch và bao biện của ông Võ Tiến Trung không xóa được những đòi hỏi của ông McCain mà chỉ lột ra rõ hơn dự dối trá về dân chủ, nhân quyền và thiếu các quyền tự do ở Việt Nam.
Đối với người Việt ở hải ngoại, nhất là ở Mỹ, ông McCain đã có công rất lớn khi ông hoạt động không ngưng nghỉ để cứu các cựu tù nhân của Việt Nam Cộng Hòa từng bị chính quyền cộng sản giam cầm và cưỡng bách lao động trong các trại được gọi là "cải tạo".
Có khoảng 500.000 ngàn người tị nạn Việt Nam đã được đưa vào Mỹ qua chương trình Orderly Departure Program (ODP). Và qua tu chính án John McCain, hàng nghìn con cái của cựu tù nhân "lao động cải tạo" đã được đi theo cha mẹ sang Hoa Kỳ cho đến tháng 9/2009.
Ngoài ra Nghị sĩ John McCain còn có công trong việc thông qua luật The Amerasian Homecoming Act, cho phép từ 23 đến 25 ngàn con lai và từ 60 đến 70 ngàn thân nhân nhập cư vào Hoa Kỳ.
Tóm lại, dù đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, người Việt Nam nào cũng phải biết ơn John McCain, Nhà lập pháp lỗi lạc đã có lòng thương người cao cả. Ông đã đóng góp cho Việt Nam có được cuộc sống hôm nay, và cũng nhờ ông mà hàng ngàn gia đình các chiến hữu người Việt đồng minh của ông ở miền Nam Việt Nam được đến Mỹ và có cuộc sống tự do và dân chủ ở Hoa Kỳ.
Xin vĩnh biệt, tạ ơn và kính phục nhân cách lỗi lạc của Ngài John McCain.
Phạm Trần
(30/08/2018)
Ít lâu nay, đội ngũ dư luận viên của Tuyên giáo cộng sản Việt Nam được lệnh chống chế Việt Nam "không cần và không chấp nhận đa đảng" nên đảng viên phải "ngăn chặn và đẩy lùi biểu hiện đòi thực hiện "đa nguyên, đảng". Đảng cũng loạn ngôn cho rằng "không thể có một nền dân chủ "hòa tan" ở Việt Nam".
Dân chủ khóa mồm, tự do còng tay
Nguyên nhân đảng phải phân bua, phản công và đề phòng vì bị tứ phía tấn công như : "không dám đa nguyên chính trị để độc quyền lãnh đạo" ; "không dám tổ chức trưng cầu ý dân về Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng cộng sản Hồ Chí Minh vì sợ thất bại" ; "không dám phi chính trị hóa quân đội và công an vì sợ mất chỗ tựa lưng" ; và "không dám bỏ Điều 4 Hiến pháp vì sợ mất quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối".
(Điều 4 : Khoản 1 : "Đảng cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội").
Nhưng tại sao Tuyên giáo đảng lại bấn loạn với công tác phản biện vào lúc khóa đảng XII làm tổng kết giữa nhiệm kỳ 5 năm (2016-2021), còn được gọi là năm "bản lề", và chuẩn bị tài liệu tổ chức 2 Hội nghị Trung ương 8 và 9 trước khi bắt tay vào việc tổ chức Đại hội đảng XIII đầu tháng 1/2021 ?
Suy thoái, biến chất
Lý do vì sau 4 hội nghị trung ương từ 4 đến 7, nhiều vấn đề quan trọng đã được biểu quyết thi hành nhưng vẫn còn tình trạng trên nóng dưới lạnh, trên bảo dưới không nghe, hay trung ương đã quyết mà địa phươnglại không thèm nhúc nhích, hoặc nói một đàng làm một nẻo.
Quan trọng nhất là bệnh lười học các Nghị quyết đãlan tràn trong cán bộ đảng viên.
Bằng chứng như báo Quân đội Nhân dân viết :
"Nhìn nhận một cách thẳng thắn, nghiêm túc, việc học tập lý luận chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên thời gian qua còn có nhiều bất cập, hạn chế… Biểu hiện lười học tập chính trị của cán bộ, đảng viên thông qua một số triệu chứng cụ thể như : Chỉ quan tâm học tập nghị quyết, lý luận chính trị khi chuẩn bị được kết nạp Đảng, chuẩn bị được giới thiệu quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm chức vụ mới, chứ không coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, là nhu cầu tự thân của bản thân ; khi cơ quan, đơn vị tổ chức học tập chính trị, nghị quyết thì tìm cách né tránh, viện lý do "này nọ" để không tham gia, hoặc nếu đi học thì tâm lý không thoải mái, đến lớp học theo kiểu "đánh trống ghi tên" cho đủ quân số, không chú ý lắng nghe, không tiếp thu bài giảng, tự ý làm việc riêng".
(QĐND, 15/08/2018)
Đáng chú ý là đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ đã công khai chán học Nghị quết. Báo QĐND cho biết thêm :
"Có một thực tế rất đáng suy ngẫm là một số cán bộ, đảng viên (nhất là người trẻ) hằng ngày chỉ thích lướt "web", chịu khó mày mò tìm kiếm các thông tin giật gân, câu khách trên các trang báo điện tử, say sưa sống "ảo" trên facebook, nhưng chẳng mấy khi cầm đọc một tờ báo, tạp chí của Đảng hay đọc những cuốn sách, tài liệu về khoa học lý luận chính trị và khoa học xã hội và nhân văn.Cá biệt, có những đảng viên nhiều năm đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng do lười học, lười suy nghĩ, lười cập nhật kiến thức nên nắm rất lơ mơ, thậm chí không hiểu biết cơ cấu tổ chức của Đảng, không phân biệt được vị trí, vai trò các cơ quan lãnh đạo của Đảng, không hiểu thế nào là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức…".
Cá biệt, công tác quán triệt và thi hành Nghị quyết Trung ương 4/XII (NQ-4/XII) năm 2016 nhằm : "tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" vẫn còn nhiều bất cập.
Bằng chứng sau 2 năm, việc thi hành chỉ riêng tại "15 tổ chức đảng trực thuộc Trung ương, gồm 10 tỉnh và 5 cơ quan Trung ương", Ban Bí thư đảng và 5 đoàn kiểm tra đã tìm ra vô số những nhiệm vụ chưa hoàn thành, hay chỉ làm hình thức.
Báo cáo đưa ra trong phiên họp ngày 10/4/2018 tại Trụ sở Trung ương Đảng viết :
"Kết quả kiểm tra cũng cho thấy, nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ chưa đầy đủ.Việc tổ chức quán triệt, học tập Nghị quyết và Chỉ thị còn hình thức, chưa đổi mới, chưa đồng đều ở các cấp, các địa phương, đơn vị ; chương trình hành động, kế hoạch triển khai thực hiện chưa cụ thể…
Công tác đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hòa bình", nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa chưa thật sắc bén.Có nơi, việc nhận diện những biểu hiện suy thoái trong cán bộ, đảng viên còn đơn giản, né tránh, chưa chỉ rõ được địa chỉ cụ thể….Việc thực hiện tự phê bình và phê bình ở một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên chưa nghiêm túc, còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm".
Ngoài ra báo cáo cũng cho biết :
"Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn chậm, hiệu quả thấp, tổ chức bộ máy còn cồng kềnh gây lãng phí nguồn lực ; công tác cải cách hành chính còn hạn chế ; việc kê khai, công khai tài sản, thu nhập, kiểm soát, xác minh kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm thực hiện, còn hình thức.
Lên tiếng tại cuộc họp, Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng nhìn nhận :
"Việc học tập Nghị quyết, Chỉ thị còn qua loa hình thức, việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình còn sơ sài. Công tác tự kiểm tra còn yếu, tự phê bình và phê bình còn nể nang, né tránh ; kiểm soát quyền lực chưa tốt… Nội hàm tự diễn biến, tự chuyển hóa về tư tưởng chính trị chưa được chú ý, mà mới nặng về đạo đức lối sống, xử lý các sai phạm kinh tế. Cái sâu xa là trung thành tuyệt đối với Đảng, kiên định với chế độ. Cần chú ý ngăn chặn những biểu suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cả về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống…é.
Với tình hình nội bộ rệu rã như thế, nhất là khi 2 vấn đề chí tử "trung thành tuyệt đối với Đảng, kiên định với chế độ" của cán bộ và đảng viên đã "tự diễn biến và "tự chuyển hóa" thì có phải đảng viên đã mất hết niềm tin vào đảng rồi không ?
Từ quáng gà đến thông manh
Nếu thế thì tại sao khi có những chỉ trích các khuyết tật của đảng và tình trạng suy thoái đạo đức lên cao của đảng viên, nhất là những kẻ có chức có quyền thì lập tức các Dư luận viên của Tuyên giáo lại gân cổ lên để xuyên tạc, chụp mũ coi đó là hoạt động chống phá đảng, hạ thấp uy tín lãnh đạo của các thế lực thù địch và "diễn biến hoà bình" nhằm phá hoại cách mạng Việt Nam đểloại bỏ vai trò lãnh đạo của đảng.
Một đoạn trong bài viết kém văn hóa của ông Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Tú, đăng trong Tạp chí Tuyên giáo số 7/2018 là một bằng chứng của bệnh quáng gà. Ông ta đã gom chung những người chống chính sách cai trị hà khắc và phi dân chủ của đảng cộng sản Việt Nam vào hàng ngũ "các thế lực thù địch" và dùng danh xưng "chúng" để ám chỉ, dù từ xưa tới nay, đảng cộng sản Việt Nam chưa chứng minh được lực lượng này có thật, do ai lãnh đạo và thực lực ra sao.
Ông này viết :
"Đẩy mạnh hoạt động "diễn biến hoà bình" và tuyên truyền phá hoại cách mạng Việt Nam, trong những năm qua, các thế lực thù địch tập trung tung ra nhiều luận điệu đòi thực hiện đa đảng đối lập. Chúng phê phán Đảng cộng sản Việt Nam không chịu đổi mới về chính trị, "không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo"…Chúng ra sức khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái biến chất, tham ô, tham nhũng, kích động nhằm tạo sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân. Chúng hô hào, khuyến khích cải tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trắng trợn hơn, chúng đã ra sức xây dựng, nhen nhóm các tổ chức đảng đối lập phản động, như cái gọi là "Đảng Dân chủ", "Đảng Dân chủ xã hội", "Đảng Dân chủ tự do Thiên chúa giáo", "Đảng Dân chủ tự do Phật giáo"...
Ăn nói vung vít như thế, nhưng cái loa Nguyễn Xuân Tú không đưa ra được bằng chứng nào về các tổ chức bị nêu tên trong toàn bài viết chỉ có mục đích duy nhất là ca tụng chế độ một đảng duy nhất cộng sản cầm quyền ở Việt Nam.
Ông Tú tự biên tự diễn như pháo nổ rằng :
"Trong cuộc trường chinh 30 năm (1945-1975) kháng chiến giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam".
Trước hết, chẳng có nhân dân nào đã tự ý lựa chọn đảng cộng sản Việt Nam phát động, lãnh đạo và theo đuổi 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn để tàn phá đất nước và sát hại hàng chục triệu người dân vô tội.
Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, cũng chẳng có người dân Việt Nam nào đã bỏ phiếu cho đàng tiếp tục cai trị cả nước để chia rẽ dân tộc và tiếp tục gây hận thù Nam-Bắc.
Hàng trăm ngàn người dân và trí thức miền Nam Việt Nam đã liều chết vượt biên và vượt biển đi tìm tự do, sau ngày quân cộng sản chiếm Sài Gòn tháng 4/1975 là bằng chứng người dân đã sợ cộng sản đến chừng nào.
Do đó, khi ngụy biện rằng Việt Nam không cần có nhiều đảng chính trị và không cần có bầu cử tự do, dân chủ để toàn dân có thể đóng góp xây dựng đất nước là lý sự cùn, chũi đấu xuống cát của những con người bảo thủ, giáo điều, lạc hậu chỉ biết đội độc tài lên đầu và mê muội Chủ nghĩa cộng sản đã bị buộc tội sát hại 100 triệu người trên thế giới .
Tác giả Nguễn Xuân Tú đã chứng minh tính u mê ấy khi viết rằng :
"Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan : Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng… Chính thực tiễn này đã khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng : "Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ".
Ngăn chặn, hòa tan cái gì ?
Tuy ông Trọng và cả hệ thống đảng đã tận lực chống chèo, nhưng con thuyền độc tài, độc đảng và Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng cộng sản Hô Chí Minh đã xiêu vẹo lâm nguy trước cơn hồng thủy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đảng.
Bài viết trong báo Quân đội Nhân dân ngày 13/07/2017 đã chứng minh tình trạng này :
"Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ ra những biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, trong đó có biểu hiện "đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
Việc chỉ rõ thực chất, tác hại, sự cần thiết phải đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện "đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng" và khẳng định vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là một trong những vấn đề cấp thiết nhằm góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ; đồng thời, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự diễn biến’, "tự chuyển hóa" ở nước ta hiện nay".
Với lập luận phản dân chủ như thế, bài viết ngụy ngôn rằng :
"Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người nhận thức có phần còn hạn chế, từ đó có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, có thể dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam ; gây nên sự phân tâm trong xã hội ; làm suy giảm và có thể đi đến mất dần niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam".
Sự thật thì không cần đợi đến khi đảng viên "tự chán đảng" để "tự xa đảng" thì nhân dân mới lìa đảng mà chuyện này đã có từ 30 năm qua, từ khi đảng chỉ muốn "đổi mới kinh tế" cho dân bớt lo cái dạ dầy để tiếp tục bịt miệng và còng tay dân và tiếp tục cai trị độc tài một đảng.
Đó là lý do tại saoBắc Hà, một cái loa Tuyên giáo đã hô hoán rằng "Không thể có một nền dân chủ "hòa tan" ở Việt Nam".
Bắc Hà viết trên báo Quân đội Nhân dân ngày 06/0/2018 :
"Việc người ta lấy một mô hình chế độ dân chủ nào đó, chẳng hạn như mô hình dân chủ Hoa Kỳ với chế độ "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" và thể chế "tam quyền phân lập" làm "chuẩn" để phủ nhận chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền là một cách nhìn hạn hẹp, nếu không nói là vì động cơ chính trị, muốn xóa bỏ chế độ hiện hữu và thành quả cách mạng hơn 70 năm của dân tộc Việt Nam".
Tác giả biện bạch rằng :
"Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam bắt nguồn từ lịch sử, bản chất chính trị và từ những quy định về pháp lý. Thực tiễn cách mạng Việt Nam minh chứng : Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945-cuộc cách mạng do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Chế độ xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã phải chống chọi với các thế lực xâm lược hùng hậu trong các cuộc kháng chiến anh dũng bảo vệ Tổ quốc kéo dài hơn 30 năm (1945-1975) với không biết bao nhiêu hy sinh xương máu của đồng bào và chiến sĩ. Đó là thành quả đấu tranh của cả dân tộc, là nguyện vọng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Với thực tiễn nêu trên, khẳng định không thể có một nền dân chủ "hòa tan" ở Việt Nam".
(QĐND, 06/08/2018)
Toàn là luận điệu tuyên truyền giả dối. Làm gì có dân chủ ở Việt Nam khi quyền làm chủ đất nước của dân phải do "nhà nước quản lý" và đảng "lãnh đạo toàn diện" và "tuyệt đối" ?
Và khi đã không có thì lấy gì để "hòa tan", hỡi những anh dở người ?
Như vậy, khi người dân không có quyền được nói, quyền tự do tư tưởng bị kiếm soát, báo chí phải viết theo lệnh đảng và mọi thứ quyền con người phải theo chế độ "xin cho" thì có phải là thứ "dân chủ khóa mồm" và "tự do còng tay" không ?
Phạm Trần
(24/08/2018)
Đã xuất hiện những khác biệt nghiêm trọng giữa người đứng đầu đảng cộng sản Nguyễn Phú Trọng và Bộ Ngoại giao Việt Nam về thái độ và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị. Ảnh : Nguyễn Hồng (baoquocte.vn)
Bằng chứng này đã diễn ra trước mặt các lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ và trên 500 đại biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 từ ngày 13 đến 17/8/2018 tại Hà Nội.
Trong số những người chứng kiến sự "bắng mặt mà không bằng lòng" giữa hai bên có cả cựu lãnh đạo đảng, nhà nước, bộ ngoại giao và gần 100 trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, các cán bộ chủ chốt từ các đơn vị của Bộ Ngoại giao và cán bộ làm công tác ngoại vụ của 63 tỉnh thành trong cả nước.
Vậy những khác biệt nằm ở đâu trong diễn văn chỉ đạo của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và trong phát biểu khai mạc của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh ?
Ngoài phát biểu khác với ông Nguyễn Phú Trọng, hai ông Phạm Bình Minh Minh và Lê Hoài Trung, Thứ trưởng Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia còn viết bài lên án các hoạt động của Trung Quốc, dù không nêu tên, trong dịp tổ chức Hội nghị với chủ đề "Ngoại giao Việt Nam : Chủ động, sáng tạo, hiệu quả, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII".
Lời Nguyễn Phú Trọng
Trước hết, ông Trọng không dám nói chữ "Biển Đông" mỗi khi đề cập đến tình hình "khu vực" hay "chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ".
Ông nói khơi khơi và khoe khoang rằng :
"Công tác đối ngoại đã đóng góp rất quan trọng vào việc duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước những biến động nhiều mặt rất phức tạp trên thế giới và khu vực, những diễn biến không thuận của môi trường an ninh xung quanh, những tác động tiêu cực từ bên ngoài, chúng ta đã tiếp tục có những quyết sách đúng đắn, bước đi phù hợp để phục vụ phát triển kinh tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.Ta đã chủ động, tích cực vận động, thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những bất đồng và vấn đề tồn tại liên quan đến việc phân định ranh giới biển, vừa bảo vệ được quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta, đồng thời cùng các nước khác tiến hành công tác cắm mốc giới, mở các cửa khẩu mới quản lý đường biên giới và các hoạt động hợp tác xuyên biên giới, làm cho các đường biên giới trên bộ vừa là đường biên giới hòa bình, hữu nghị vừa là đường biên giới phát triển".
Nói như nước chảy, nhưng ông Trọng không dám chỉ ra "biến động nhiều mặt" ở khu vực do nước nào gây ra ? Liệu Trung Quốc, nước duy nhất đã và đang có những hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông và trực tiếp đe dọa mạng sống và đánh cướp tài sản của ngư dân Việt Nam có phải là thủ phạm gây ra "những diễn biến không thuận của môi trường an ninh xung quanh" hay không ?
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không chứng minh được Việt Nam "đã chủ động, tích cực vận động, thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những bất đồng và vấn đề tồn tại liên quan đến việc phân định ranh giới biển, vừa bảo vệ được quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta" gì. Bởi vì, sau 9 vòng đàm phán phân chia vùng ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, hai nước Việt-Trung vẫn bế tắc tại phiên họp hai ngày 15-16/03/2018 tại Đà Nẵng. Tại kỳ họp này, vòng 6 Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng không có tiến triển.
Theo tin phổ biến trên báo Dân Trí ngày 18/03/2018 thì :
"Hai bên nhất trí sớm tổ chức đàm phán vòng 10 Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và vòng 7 Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Trung Quốc".
Tuy phía Việt Nam không nói ra, nhưng tại các cuộc thảo luận trước, lý do bế tắc chính ở chỗ phía Trung Quốc nhất quyết đòi phần hơn tại những khu vực có thềm lục địa chồng lấn giữa hai nước.
Tài liệu của Việt Nam cho biết :
"Vịnh Bắc Bộ là vùng biển nằm giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vịnh có diện tích mặt nước khoảng 126.250 km2 với 2 cửa biển.
Cửa chính của Vịnh Bắc Bộ được xác định từ đảo Cồn Cỏ, Quảng Trị, Việt Nam đến mũi Oanh Ca, đảo Hải Nam (Trung Quốc) với chiều rộng khoảng 200 km. Cửa thứ hai là eo biển Quỳnh Châu rộng khoảng 32,5 km nằm giữa bán đảo Lôi Châu đảo Hải Nam của Trung Quốc.
Ngày 25/12/2000, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ nhằm xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của hai nước trên Vịnh Bắc Bộ".
Tài liệu của Việt Nam cũng xác nhận :
"Đến nay, Việt Nam đã ký một số Thỏa thuận và Hiệp định về phân định và hợp tác trên biển với các nước láng giềng, cụ thể là : Hiệp định về vùng nước lịch sử với Cam-pu-chia năm 1982 ; Hiệp định phân định ranh giới biển với Thái Lan năm 1997 ; Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Hiệp định hợp tác nghề cá với Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ năm 2000 ; Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa với In-đô-nê-xia năm 2003 ; Thỏa thuận hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng lấn với Ma-lai-xia năm 1992".
(Infonet, 05/12/2014)
Tuy không trưng ra bằng cớ, nhưng ông Trọng vẫn cảnh giác cán bộ ngoại giao :
"Môi trường đối ngoại trong những năm tới sẽ còn phức tạp, khó lường. Các đối tác lớn của ta đang trong quá trình điều chỉnh chiến lược, bối cảnh thế giới thường xuyên biến động, môi trường chính trị, an ninh, kinh tế khu vực và thế giới đang trở nên bất ổn với các tác động nhanh, mạnh và bất ngờ hơn. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ quyết liệt, chính trị cường quyền quay trở lại mạnh hơn, nhất là trong khu vực. Việc thực hiện nhiệm vụ bao trùm là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định do đó sẽ gặp nhiều thách thức".
Nhưng nước nào, trong số 3 đối tác lớn của Việt Nam gồm Trung Quốc, Nga và Mỹ sẽ đem điều gọi là "chính trị cường quyền" trở lại mạnh hơn trong khu vực với mục đích gì ?
Không cần phải đợi ông Trọng nói trắng ra, vì có bao giờ ông dám nói thẳng cái nước mà ông vẫn ca tụng "vừa là đồng chí vừa là anh em" 16 vàng, 4 tốt ("láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt"), mang tên Trung Quốc, đã và đang chủ trương "chính trị cường quyền" đối với Việt Nam và các nước có tranh chấp với họ ở Biển Đông.
Vì vậy, dù cứ ú ớ mãi trong họng không phát ra thành chữ mà ai cũng hiểu ông Trọng muốn ám chỉ nước nào khi rào đón rằng :
"Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia trên biển sẽ đứng trước một số thách thức mới. Đó là do sự biến động phức tạp của tình hình, sự thay đổi so sánh lực lượng, sự tính toán của các nước có liên quan, sự nổi lên của chủ nghĩa đơn phương, thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế. Các cơ chế kiểm soát bất đồng, khủng hoảng trong khu vực chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả ; các thể chế đa phương khó đạt được lập trường chung đủ mạnh. Tình hình trên thực địa tiếp tục phức tạp, nguy cơ va chạm, đụng độ chưa được đẩy lùi".
Tất nhiên ở trong khu vục Châu Á-Thái Bình Dương, chỉ có nhà nước cường quyền Trung Quốc mới tôn sùng và mê muội "chủ nghĩa đơn phương" và không "tôn trọng luật pháp quốc tế" để đánh chiếm quần đào Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa tháng 1/1974. Sau đó, đến năm 1979 lại đem 600 ngàn lính vượt biên giới đánh phá 6 tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái), Lai Châu. Có từ 40.000 đến 45.000 bộ đội và thường dân Việt Nam đã bị thiệt mạng hay mất tích trong cuộc chiền 2 giai đoạn kéo dài từ 1979 đến 1984 và từ 1985 đến 1990.
Biết nhưng vẫn cúi đầu
Từ chiến tranh biên giới Việt-Trung, quân Trung Quốc đánh chiếm 7 bãi đá chiến lược của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa ngày 14/03/1988 gồm : Subi, Gaven, Chữ Thập, Gạc Ma,Châu Viên,Tư Nghĩa (còn có tên là Huy Cơ) và Vành Khăn.
Tất cả những vị trí này đã được Trung Quốc cải tạo và xây dựng thành đảo kiên cố để đồn trú quân, thiết lập căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng và đài viễn thông để kiểm soát Biển Đông.
Ông Trọng biết hết, kể cả chuyện :
"Theo báo cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi, trong gần 6 tháng qua có 20 tàu cá với 138 ngư dân ở các địa phương trong tỉnh bị tàu Trung Quốc ngăn cản, khống chế lấy tài sản khi đang khai thác thủy sản tại ngư trường truyền thống vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Trong đó có tàu của ngư dân Lê Hơn (52 tuổi, ở huyện đảo Lý Sơn) bị tàu cảnh sát biển Trung Quốc số hiệu 31102 tông chìm khi đang khai thác rong biển ở khu vực đảo Bạch Quy (quần đảo Hoàng Sa) hôm 25/05/2018".
(Thanh Niên, 14/06/2018)
Hay chuyện :
"Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, trong một cuộc họp báo bên lề Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 51 tại Singapore, hôm 4/8 vừa qua đã phát biểu rằng, Trung Quốc buộc phải quân sự hóa Biển Đông nhằm tự vệ trước sức ép an ninh từ Mỹ và các nước khác ngoài khu vực".
Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công khai xác nhận đã "quân sự hóa Biển Đông", nhưng trong quá khứ đã có nhiều viên chức Trung Quốc, kể cả Tập Cận Bình, Tổng bí thư, Chủ tịch nhà nước, bô bô cái miệng ở Tân Gia Ba ngày 07/11/2015 rằng :
"Xin hãy để tôi nói rõ : những hòn đảo trên Biển Đông là thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời xa xưa. Chính quyền Trung Quốc có nhiệm vụ phải bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chính đáng của Trung Quốc".
(Thông tấn Pháp, AFP)
Có 64 người lính công binh của Hải quân cộng sản Việt Nam đã hy sinh oan uổng tại Gạc Ma vì họ được Lê Đức Anh, khi ấy là Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng, ra lệnh không được nổ súng.
Chuyện bí mật lịch sử này được facebooker Phan Trí Đỉnh tiết lộ trên trang báo cá nhân của ông ngày 30/07/2018.
Ông Đỉnh viết :
"Sáng 28/7 (2018) tôi được mời tham gia một cuộc gặp mặt, gồm một số lão làng như anh Thang văn Phúc, nguyên thứ trưởng Bộ Nội vụ. Anh Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế trung ương, anh Vũ Quốc Tuấn nguyên trợ lý của cụ Kiệt, anh Nguyễn Vi Khải, Anh hùng lực lượng vũ trang Lê Mã Lương… và nhiều vị tiền bối khác.
Thảo luận nhiều vấn đề nhưng tôi chỉ muốn kể một chút về chuyện Gạc Ma 1988 và cuốn sách đang gây bão dư luận (cuốn Gạc Ma - Vòng Tròn Bất Tử, do Thiếu tướng Lê Mã Lương làm Chủ biên).
Vấn đề không làm rõ được là mệnh lệnh "Không bắn" hay là "Không bắn trước" – Có lệnh không ? Có thì ai ra lệnh ?
Đó là khúc mắc của nhiều người, nhiều năm, và khi tôi hỏi thì Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm nói rằng : "Bắn trước hay bắn sau không quan trọng mà là tinh thần giữ đảo của chiến sỹ ta là tuyệt vời"… Chuyện tiếp ở cuộc họp, khi đến đoạn này thì một ông dân sự nói to : "Tôi biết người ra lệnh Không bắn" làm cả hội trường sững sờ. Nhìn lại thì đó là ông Lê Đăng Doanh.
Tôi may ngồi gần nên tôi quay sang nói : "Bác kể xem nào".
Ông Doanh kể :
"Hôm ấy tôi với vai trò là người giúp việc Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh – ngồi ngay sau Tổng bí thư nên tôi theo dõi hết.
Ông Nguyễn Cơ Thạch đập bàn, như là gầm lên rung cả cửa kính : Ai ra lệnh không bắn thì ông Lê Đức Anh trả lời "Tôi". Ông Thạch quay sang ông Linh thì ông Linh ngồi im – không có ý kiến gì.
Có một ai đó chen vào : Họ đã chuẩn bị cho Thành đô 1990 từ lúc này".
Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên bên Tầu được chọn làm nơi họp mật của Hội nghị thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990.
Bách khoa Toàn thư mở viết :
"Cuộc họp mặt này nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai đảng. Cho đến nay, nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố, tuy nhiên trên trang thông tin chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho đăng hình ảnh chụp trong hội nghị, trong những cột mốc ngoại giao quan trọng.
Thành phần tham dự :
- Phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương đảng Phạm Văn Đồng,
- Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.
Kết quả của hội nghị là một loạt các thay đổi trong đối nội và đối ngoại, không chỉ giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà còn giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và các nước ASEAN".
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh là một trong số chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Ông không những có uy tín cao ở Việt Nam mà còn được trọng nể ở nhiều nước về những kiến thức kinh tế và chính trị của ông. Ông Doanh đã không cải chính những gì do ông Phan Trí Đỉnh công bố về chuyện nổ súng ở Gạc Ma.
Vậy chẳng nhẽ ông Trọng, người nằm trong hệ thống lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong nhiều năm không biết những chuyện vừa kể, hay biết mà vẫn cúi đầu trước Bắc Kinh ?
Phạm Bình Minh đến Lê Hoài Trung
Thái độ và hành động của ông Trọng tại Hội nghị Ngoại giao ngày 13/08/2018, lạ thay, lại không đồng hành cùng nhân viên dưới quyền, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trường Ngoại giao Phạm Bình Minh về Biển Đông.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu khai mạc hội nghị. Ảnh : Tuấn Anh
Ông Minh phát biểu :
"Nhìn lại từ Hội nghị Ngoại giao 29 đến nay, tình hình thế giới và khu vực đang chuyển động hết sức nhanh chóng, phức tạp, có nhiều diễn biến mang tính bước ngoặt.
Tình hình chính trị - an ninh thế giới và khu vực đang có nhiều biến động. Sự điều chỉnh chính sách và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chủ nghĩa dân túy, thực dụng tăng cao khiến cục diện an ninh ngày càng bấp bênh hơn. Sự vận động, đấu tranh giữa các trào lưu, xu thế cũ và mới diễn ra hết sức gay gắt. Tình hình Biển Đông vẫn diễn biến ngày càng phức tạp, đe dọa an ninh và ổn định ở khu vực cũng như quyền và lợi ích chính đáng của nhiều nước, trong đó có Việt Nam".
Thêm vào đó, trong bài viết phổ biến trên tờ báo đảng Nhân Dân, ông Phạm Bình Minh (con trai cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, tên thật là Phạm Văn Cương) nhận định :
"Những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, đặc biệt là việc tôn tạo quy mô lớn và quân sự hóa trên các cấu trúc đang đe dọa hòa bình an ninh và ổn định ở khu vực cũng như quyền và lợi ích chính đáng của nhiều nước, trong đó có Việt Nam…
Trong vấn đề Biển Đông, mặc dù vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường, được dư luận quốc tế hết sức quan tâm, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì và triển khai nhiều biện pháp đấu tranh hiệu quả với các vi phạm, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển, thềm lục địa và các hải đảo phù hợp luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982".
(Nhân Dân, 13/08/2018)
Tiếp theo, người dưới quyền ông Minh là Thứ trưởng ngoại giao Lê Hoài Trung, Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia cũng viết :
"Tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ và thách thức khó lường. Trong bối cảnh đó, chúng ta đã kiên trì đấu tranh trên mọi mặt trận, bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, thềm lục địa được xác lập bởi luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982)".
(Quân đội Nhân dân, 14/08/2018)
Mặc dù những lời nói và bài viết về Biển Đông của hai ông Minh và Trung không có gì mới hơn là lập lại lập trường và quan điểm của Việt Nam về giải quyết xung đột với Trung Quốc và các nước cùng tranh chấp chủ quyền, nhưng ít ra ông Minh đã dám công khai chỉ trích các hành động của Trung Quốc ("tôn tạo quy mô lớn và quân sự hóa trên các cấu trúc đang đe dọa hòa bình an ninh và ổn định ở khu vực cũng như quyền và lợi ích chính đáng của nhiều nước, trong đó có Việt Nam").
Trong trường hợp Thứ trưởng Lê Hoài Trung thì ông cũng đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đáng chú ý là những lời phát biêu về Biển Đông của ông Phạm Bình Minh đã diễn ra trước mặt ông Trọng và trên 500 viên chức cao cấp của đảng, quốc hội, chính phủ và cán bộ ngoại giao.
Sự khác biệt giữa ông Trọng, một lãnh tụ đảng bảo thủ nổi tiếng thân Bắc Kinh với ông Minh, một nhà ngoại giao chỉ nằm gọn ở chữ "Biển Đông" mà thôi.
Phạm Trần
(16/08/2018)
****************
Đọc thêm :
Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 : Bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, lãnh thổ
Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 13-17/8/2018. Nhân dịp này, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung đã có bài viết: "Bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, lãnh thổ".
Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung. Ảnh : TTXVN
Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài gần 5.000 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào ở phía Tây và Campuchia ở phía Tây Nam, đi qua 25 tỉnh biên giới của Việt Nam và 21 tỉnh của các nước láng giềng. Nước ta có 28 tỉnh, thành ven biển với bờ biển dài khoảng 3260 km, hơn 3000 hòn đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Biên giới được coi là "phên dậu", là "hàng rào" ngoại vi phân định chủ quyền giữa các quốc gia liên quan. Phên dậu, hàng rào vững chắc góp phần quan trọng vào việc bảo đảm chủ quyền lãnh thổ, an ninh đất nước. Biên giới lãnh thổ vừa là điều kiện, cơ sở quan trọng hàng đầu cho hợp tác giữa các quốc gia những cũng lại là một trong những nguyên nhân hàng đầu của xung đột, chiến tranh. Các vấn đề về chủ quyền biên giới, lãnh thổ cũng nhạy cảm đối với người dân mỗi nước.
Công tác biên giới, lãnh thổ rất đa dạng, từ việc đi khảo sát, đo đạc thực tế (thường là ở những nơi xa xôi, địa hình hiểm trở, khó tiếp cận), việc xây dựng bản đồ, cắm mốc giới đến các cuộc đàm phán, thảo luận dài ngày, phần lớn là thầm lặng nhưng đòi hỏi ý chí, quyết tâm cao độ cùng với những nỗ lực không ngừng nghỉ. Nhiệm vụ chính của những người làm công tác biên giới, lãnh thổ là góp phần xây dựng, bảo vệ các đường biên giới, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, các quyền và lợi ích của quốc gia gắn với các đường biên giới, chủ quyền lãnh thổ, đồng thời qua đó góp phần giữ vững hòa bình và ổn định, tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng trên bộ, trên biển, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước.
Góp phần bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm hòa bình, ổn định, thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc duy trì và phát triển ổn định, bền vững quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng, xác định đây là chủ trương nhất quán, lâu dài và là sự lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến việc triển khai công tác về biên giới, lãnh thổ. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao và quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, về cơ bản chúng ta đã hoàn tất việc phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền với các nước láng giềng; cùng các bên liên quan phối hợp quản lý đường biên giới, mốc quốc giới một cách hiệu quả, bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Những kết quả nổi bật chúng ta đã đạt được trong công tác biên giới trên đất liền kể từ Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 năm 2016 có thể kể đến là :
(i) công tác quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc được Lãnh đạo cấp cao hai nước đánh giá là điểm sáng trong tổng thể mối quan hệ Việt - Trung, đường biên giới và hệ thống mốc giới được bảo vệ vững chắc; tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội ở khu vực biên giới được bảo đảm, công tác phối hợp mở và nâng cấp cửa khẩu từng bước đi vào nề nếp, bảo đảm nguyên tắc thiết thực, hiệu quả ;
(ii) Việt Nam và Lào đã hoàn thành thắng lợi công tác tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước, ký kết và triển khai thực hiện hai văn kiện pháp lý mới về biên giới, công tác phối hợp mở, nâng cấp cửa khẩu tiến triển tích cực ;
(iii) công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia có nhiều chuyển biến tích cực với việc Lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất hai bên sẽ ký kết 2 văn kiện pháp lý nhằm ghi nhận thành quả 84% công tác phân giới cắm mốc giữa hai nước. Những kết quả này đã tạo cho Việt Nam và các nước láng giềng một đường biên giới có giá trị pháp lý quốc tế cao, là tiền đề quan trọng cho công tác quản lý biên giới, góp phần xây dựng đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và các nước láng giềng thực sự là đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Từ năm 2016 đến nay, tình hình Biển Đông tuy không xảy ra những sự việc nghiêm trọng song có những diễn biến phức tạp mới đáng chú ý, tiềm ẩn những nguy cơ và thách thức khó lường. Trong bối cảnh đó, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì đấu tranh trên mọi mặt trận, bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, thềm lục địa được xác lập bởi luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Với việc giữ vững nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, kiên trì phấn đấu nhằm đạt được giải pháp cơ bản, lâu dài trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển 1982, chúng ta đã duy trì và thúc đẩy nhiều cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển với các nước liên quan, trong đó có Trung Quốc, Indonesia, Malaysia.Việt Nam đã đồng hành cùng các nước ASEAN và Trung Quốc thúc đẩy việc triển khai hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thông qua Khung Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và hiện đang trao đổi, xây dựng nội dung của COC.
Bên cạnh đó, với việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hình thức tuyên truyền về các vấn đề biên giới, biển đảo, đến nay đông đảo nhân dân trong và ngoài nước đã hiểu rõ về chủ quyền, các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về biên giới, lãnh thổ. Chúng ta đã tranh thủ được ngày càng nhiều sự ủng hộ, đồng tình không chỉ của các tầng lớp nhân dân trong nước, kiều bào ở nước ngoài mà của cả cộng đồng quốc tế, cũng như nâng cao vai trò và tiếng nói của Việt Nam tại các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Phát triển kinh tế biên giới, tăng cường hợp tác quốc tế
Với đặc điểm trên 2/3 số địa phương trong cả nước là các tỉnh, thành biên giới và ven biển, thương mại biên giới và kinh tế biển đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước ta. Chính vì vậy, phát huy tinh thần "nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII" được đề ra tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, bên cạnh việc nỗ lực giải quyết các vấn đề biên giới, ngành Ngoại giao cũng tích cực phối hợp với các cơ quan trong nước và các đối tác nước ngoài đề ra các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng biên giới, biển đảo.
Việt Nam đã và đang cùng các nước láng giềng tích cực triển khai các Hiệp định, Đề án về quy hoạch, phát triển cửa khẩu, hợp tác kinh tế, thương mại, du lịch qua biên giới và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, hứa hẹn mở ra nhiều cơ hội hợp tác, phát triển kinh tế, xã hội tại các địa phương biên giới nói riêng, cả nước nói chung. Các hoạt động này đã tạo thuận lợi cho việc kết nối giữa các địa phương, thúc đẩy giao lưu hợp tác, trao đổi hàng hóa, khám chữa bệnh, học tập giữa nhân dân các địa phương hai bên đường biên giới; qua đó thắt chặt thêm mối quan hệ hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và các nước láng giềng.
Qua 10 năm thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 cho thấy, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế biển. Không chỉ khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân các địa phương vươn khơi bám biển, nâng cao đời sống, chúng ta đã tích cực, chủ động trao đổi và mở rộng hợp tác biển với các nước trong và ngoài khu vực như Philippines, Malaysia, Trung Quốc, Australia, Ấn Độ, Hoa Kỳ... trên nhiều lĩnh vực, trong đó có đánh bắt cá, tuần tra chung, tìm kiếm cứu nạn, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển... Các hoạt động này không chỉ giúp Việt Nam và các đối tác trao đổi kinh nghiệm, thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn đạt được tiếng nói chung trong các vấn đề trên biển, củng cố hơn nữa quan hệ hữu nghị, tăng cường xây dựng lòng tin, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước.
Củng cố bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác biên giới, lãnh thổ
Để đáp ứng nhu cầu công tác biên giới, lãnh thổ, thời gian qua, chúng ta đã nỗ lực củng cố các cơ quan chuyên trách cấp Chính phủ, cấp Bộ, ngành và địa phương theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tăng cường trách nhiệm, lực lượng tham gia giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ. Đồng thời, ta cũng không ngừng củng cố, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan ở Trung ương, giữa Trung ương và địa phương nhằm đạt được hiệu quả cao trong công tác này. Bên cạnh đó, ta cũng xây dựng nhiều cơ chế hợp tác với các nước liên quan trong khu vực và trên thế giới để thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề còn tồn đọng, tạo điều kiện phát triển đất nước.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, đội ngũ cán bộ làm công tác biên giới, lãnh thổ luôn phấn đấu không ngừng nhằm hoàn thiện, nâng cao năng lực, chất lượng, tăng cường tính nhạy bén và khả năng đánh giá, dự báo tình hình để kịp thời tham mưu cho Đảng và Nhà nước xử lý thỏa đáng các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, bảo đảm vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của Việt Nam. Với những nỗ lực đó, nhiều cá nhân, tập thể tham gia làm công tác biên giới, lãnh thổ đã được các cấp Lãnh đạo ghi nhận thông qua nhiều hình thức biểu dương, khen thưởng. Đây cũng là động lực để các cán bộ tiếp tục phấn đấu, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Phương hướng thời gian tới
Tình hình biên giới, lãnh thổ sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp với nhiều thách thức. Chúng ta cần tiếp tục nỗ lực quản lý và bảo vệ tốt đường biên, mốc giới; tăng cường hợp tác với các nước láng giềng xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định; tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới, phát triển đất nước. Đồng thời, chúng ta cũng cần nỗ lực cùng các nước liên quan giải quyết các vấn đề biên giới còn tồn đọng cũng như mới nảy sinh. Trên biển, chúng ta tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước trong việc kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta như đã được xác định bởi luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển 1982; phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam tại các diễn đàn, nỗ lực cùng các bên liên quan giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982. Ta cần tích cực, chủ động, sáng tạo nhằm xây dựng và thúc đẩy hợp tác trên biển với các nước liên quan, vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và thế giới; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về các vấn đề biên giới, lãnh thổ, từ đó có thể phát huy hơn nữa sức mạnh dân tộc và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục phối hợp nhịp nhàng hơn để giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
TTXVN/Báo Tin tức
Có tín hiệu từ Việt Nam cho thấy dự Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, hay 3 Đặc khu Vân Đồn (tỉnh Qủang Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) đã âm thầm tự chết.
Khu Kinh tế Vân Phong - Ảnh minh họa
Sau đây là những chỉ dấu :
Thứ nhất, dự Luật này không có trong chương trình nghị sự của kỳ họp thứ 26 của Ban Thường vụ Quốc hội từ ngày 8/8 đến ngày 13/08/2018. Thường vụ Quốc hội cũng không có kế hoạch tái xét trong hai kỳ họp tháng 9 và tháng 10 (Sài Gòn Giải phóng, ngày 04/08/2018).
Theo Văn phòng Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ thảo luận và cho ý kiến tại phiên họp này các luật : Luật Giáo dục (sửa đổi) ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ; Luật Chăn nuôi ; Luật Trồng trọt ; Luật Công an nhân dân (sửa đổi) ; Luật Đặc xá (sửa đổi) ; Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) ; Luật Kiến trúc.
Báo SGGP viết :
"Được hỏi về vấn đề này, người phát ngôn của Quốc hội - Tổng thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt "đang được cân nhắc lại". Việc tiếp tục xem xét dự án luật này, theo Tổng thư ký Quốc hội, còn chờ vào kết quả quá trình tiếp thu ý kiến nhân dân thế nào, tiếp thu ý kiến cử tri một cách rất thận trọng".
Khi quyết định hoãn bỏ phiếu, Quốc hội nói là :
"Để có thêm thời gian nghiên cứu, tiếp thu tối đa các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm, xác đáng của các vị đại biểu Quốc hội, các cán bộ lão thành, chuyên gia, nhà khoa học và nhân dân, hoàn thiện dự thảo luật cho thật sự chất lượng".
Nhưng từ khi Quốc hội chấp thuận đề nghị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc xin lùi thảo luận và bỏ phiếu Luật Đặc khu, dự trù ngày 15/06/2018 tại kỳ họp 5 đến kỳ họp 6 tháng 10/2018, thì chưa thấy Chính phủ hay Quốc hội tổ chức bất kỳ cuộc Hội thảo hay thăm dò ý dân nào về Luật Đặc khu. Nếu có cũng chỉ trao đổi lẻ tẻ giữa cử tri và Đại biểu Quốc hội tại các buổi tiếp xúc hạn chế ở địa phương.
Do đó, thật khó biết điều mà ông Nguyễn Hạnh Phúc nói phải chờ có "kết quả quá trình tiếp thu ý kiến nhân dân" rồi mới có quyết định là căn cứ vào cách tiếp thu nào, hoặc đến bao giờ thì có quyết định mới về Luật Đặc khu ?
Đáng chú ý là quyêt định không thảo luận Luật Đặc khu tại Ban Thường vụ Quốc hội kỳ này (26) xẩy ra chỉ vài ngày sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phút đã quy định vào ngày 2/8/2018, chỉ thị cho Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu Tư "phối hợp chuẩn bị Báo cáo về một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt" (Đặc khu).
Như vậy, nếu trong liên tiếp 3 tháng (8, 9 và 10) mà Thường vụ Quốc hội vẫn không có nghị trình thảo luận thì xem như Luật Đặc khu đã bị ngâm tôm đến hết năm 2018 để tự chết.
Thứ hai, dư luận trong dân, báo chí và cả Quốc hội đã nguội dần về chuyện Đặc khu. Thảng hoặc đó đây cũng có những lời của giới chuyên gia khuyên Chính phủ nên bỏ Dự luật đặc khu vì lỗi thời, tốn phí và và không bảo đảm thành công. Tuy nhiên, ai cũng quan ngại đến tham vọng chính trị của láng giềng khó tin Trung Quốc luôn luôn muốn nhảy vào chiếm ưu thế tại 3 Đặc khu.
Thứ ba, tuy bây giờ nhà nước tạmđược hưởng những giây phút gió lặng, biển êm để xử phạt, hay trừng phạt những người dân biểu tình chống Đặc khu mà nghĩ mình sẽ mãi mãi ở thế thượng phong. Ảnh hưởng của các cuộc biểu tình bất bạo động và bạo động ở Bình Thuận vẫn còn âm ỷ trong nhân dân. Một làn sóng bất mãn ngầm đã xuất hiện trong quần chúng, nhưng đám Giặc Cờ Đỏ Có tên chính thức là "Liên Minh Cờ Đỏ", do Công an tổ chức chống phá và khủng bố dân chống đảng đàn áp, đã tàn lụi.
Chúng đã bị nhân dân nhận diện từ sau buổi ra mắt ngày 29/10/2017 ở xã Sơn Hải, gần Giáo Họ Văn Thai, thuộc Giáo xứ Song Ngọc, thuộc huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Với chiêu bài "Bảo vệ an ninh Tổ quốc", cuộc phô trương lực lượng của lối 700 người, đa phần là thanh niên, thanh nữ là nhằm chống lại các cuộc tuần hành đòi bồi thường và đòi tống cổ Formosa ra khỏi Việt Nam của người dân, đa phần là giáo dân Công giáo ở Nghệ An. Họ là một bộ phận nạn nhân của thảm họa cá chết và làm biển ô nhiễm do Nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh gây ra cho 4 tỉnh miền Trung gồm Hà Tĩnh, Qủang Bình, Qủang Trị và Thừa Thiên-Huế hồi tháng 4/2016.
Do đó, bất cứ động thái nào mới của đảng nhằm làm sống lại Luật Đặc khu có lợi cho Trung Quốc cũng chỉ làm cháy bùng lên ngọn lửa tranh đấu của nhân dân.
Những quan tâm
Vì vậy mà chuyên gia Kinh tế bà Phạm Chi Lan đã nói với BBC tiếng Việt ngày 03/08/2018 : "Tốt nhất là nên bỏ Luật Đặc khu". Bà cũng "hy vọng vẫn còn có những tiếng nói thuyết phục nhà nước về việc không cần thiết phải có đặc khu kinh tế".
Trong khi đó Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nói rằng :
"Xét từ góc độ thí điểm thể chế thì việc thiết kế trong dự luật đã không thành công. Xét từ góc độ kinh tế, luật đặc khu là một lựa chọn chính sách sai lầm. Vậy thì chúng ta vội thông qua dự luật về các đặc khu để làm gì ?".
Ông Dũng đặt câu hỏi :
"Luật về đặc khu để làm gì ? Nếu để thúc đẩy kinh tế phát triển thì các nguồn lực khan hiếm của đất nước cần phải đầu tư vào đâu để thúc đẩy kinh tế phát triển và tạo hiệu ứng lan tỏa nhanh nhất ? Câu trả lời không thể tranh cãi là phải đầu tư vào Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Chắc chắn không phải là vào những nơi nằm xa các trung tâm kinh tế, cơ sở hạ tầng vật chất, nơi kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội chưa phát triển như Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Xét từ góc độ kinh tế, luật đặc khu là một lựa chọn chính sách sai lầm" (Một Thế Giới, ngày 08/06/2018).
Vốn đâu ra ?
Ngoài quan tâm về chính trị-kinh tế và quốc phòng trước nguy cơ rơi vào tay Trung Quốc, nhiều bài báo trong nước còn đặt vấn đề tìm đâu ra vốn đầu tư. Theo một bài viết trên VOV (Voice of Vietnam, Tiếng nói Việt Nam, ngày 11/05/2018) thì :
"Theo Đề án thành lập đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, nguồn vốn huy động để xây dựng 3 đặc khu lên tới hơn 1,5 triệu tỷ đồng.
Cụ thể, cơ cấu của 1.570.000 tỷ đồng để làm đặc khu như sau : 270.000 tỷ dành cho đặc khu Vân Đồn trong giai đoạn 2018 - 2030, trong đó tỷ lệ vốn trong nước và nước ngoài là 50 - 50 ; 400.000 tỷ dành cho đặc khu Bắc Vân Phong trong giai đoạn 2019 - 2025 ; 900.000 tỷ trong giai đoạn 2016 - 2030 để đưa đảo Phú Quốc trở thành một đặc khu sầm uất, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 59%, vốn nước ngoài khoảng 41%".
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho hay, con số hơn 1 triệu tỷ đồng nói trên là tổng nhu cầu đầu tư toàn xã hội của cả 3 đặc khu và ngân sách chỉ hỗ trợ một phần không nhiều trong số này. Hiện tại, Vân Đồn đề xuất ngân sách hỗ trợ 10%, Phú Quốc 19%, Bắc Vân Phong hơn 30% và các đề xuất này vẫn đang trong quá trình xem xét, chứ chưa "chốt".
"Trước con số này", VOV viết tiếp, "Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân băn khoăn : Vốn đầu tư công trung hạn 5 năm chỉ đạt hơn 2 triệu tỷ đồng. Vậy ngân sách lấy ở đâu ra số tiền lớn để làm 3 đặc khu ? Thành lập 3 đặc khu kinh tế là để thu hút nguồn lực, tạo động lực hình thành 3 đầu tàu, lôi kéo nền kinh tế đất nước chứ không phải để tiêu tiền".
Cần ba Đặc khu để làm gì ?
Nhưng tại sao Bộ Chính trị lại ráo riết thúc đẩy thành lập 3 Đặc khu làm gì trong khi Việt Nam đã có tới 362 khu kinh tế ? Thắc mắc này chưa ai trả lời được, nhưng khi 3 vị trí chiến lược quốc phòng xuất hiện trong đề nghị gồm Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc thì nhiều chuyên gia, trí thức và cựu tướng lãnh trong quân đội bắt đầu quan ngại cho an ninh quôc gia.
Tiêu biểu như Thượng tướng Nguyễn Văn Được — Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã nói tại Quốc hội :
"Làm kinh tế dứt khoát phải làm nhưng không phải bằng mọi giá, nhất là trong điều kiện của ta thì cả ba khu này đều nhạy cảm. Vân Đồn giáp với phía Bắc ; Bắc Vân Phong giáp biển Đông và Phú Quốc là sát với Campuchia nhưng hiện vùng này Trung Quốc đã nhảy vào rồi".
Do đó, tướng Được nghi vấn :
"70 năm, 99 năm họ vào đó làm gì ? Ta đâu thể biết hết vì đã lọt vào rồi. Đà Nẵng, Ninh Thuận chưa có đặc khu kinh tế nhưng Trung Quốc đã đưa tiền cho người dân để dân mua đất cho họ. Nếu biển Đông có phức tạp và phía Tây cũng phức tạp thì tình hình rất nguy" (Một Thế Giới, 08/06/2018).
Bộ Chính trị cộng sản Việt Nam, do Tổng bí thư thân Tầu, ông Nguyễn Phú Trọng cầm đầu, đã hối thúc thành lập 3 Đặc khu tại phiên họp ngày 17/03/2017. Sau đó Kết luận số 21-TB/TW gồm 6 điểm được Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh ký tên ban hành ngày 22/03/2017, quy định "về các đề án xây dựng các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệtVân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang)".
Nguyên văn 3 điểm quan trọng gồm :
1. Đề án xây dựng các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt là đề án lớn, có nhiều vấn đề mới và khó, nhưng đã được trình bày cụ thể, rõ ràng, Bộ Chính trị đánh giá cao việc chuẩn bị đề án. Đây là chủ trướng lớn của Đảng đã được thông qua nhiều kỳ đại hội, do vậy cần quyết tâm triển khai thực hiện, làm từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
2. Đồng ý cho thành lập ba đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt : Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) trực thuộc cấp tỉnh, nhắm khai thác tốt nhất các tiềm năng khu vực có lợi thế vượt trội, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư, công nghệ cao, phương thức quản lý mới tiên tiến, hình thành khu vực tăng trưởng cao, tạo thêm nguồn lực và động lực, góp phần thúc đầy nhanh phát triển và tái cơ cấu kinh tế cho tỉnh, vùng và cả nước. Cơ cấu, mô hình tổ chức chính quyền đơn vị hành chính – kinnh tế đặc biệt do Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt quy định.
3. Đồng ý thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ; giao Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban Chỉ đạo, thành viên là đại diện các bộ, ngành, các địa phương có đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt và các chuyên gia tham gia.
Nhưng Việt Nam đã từng thất bại khi làm Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo là "đặc khu" đầu tiên ra đời năm 1979 nhằm phục vụ phát triển ngành công nghiệp dầu mỏ và khí đốt.
Sau đó, trong giai đoạn Đổi Mới thì Việt Nam lại ra đời các khu gọi là "kinh tế mở" ở các tỉnh miền Trung như Dung Quất, Chu Lai, Nghi Sơn, Vũng Áng nhưng cũng vẫn không tạo được sức đột phá cần thiết.
Cho đến nay, theo tài liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì Việt Nam :
"Có 18 khu kinh tế ven biển, 26 khu kinh tế cửa khẩu, cả nước có 328 khu công nghiệp được thành lập. Các khu kinh tế đã thu hút được 153 tỷ USD, chiếm 52% đăng ký đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, giá trị sản xuất công nghiệp khoảng 42%, xuất khẩu bằng 52%, thu hút khoảng 3 triệu lao động ; đồng thời, khi triển khai các dự án trong các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất cũng tạo điều kiện để quản lý tốt hơn về môi trường và công nghệ".
Tuy nhiên, theo tài liệu phổ biến trên Internet thì :
"Việc phát triển các khu kinh tế vẫn còn một số hạn chế như ít có sự khác nhau giữa mục tiêu và hướng phát triển ngành, thể chế đặt ra cho các khu khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có nhiều vượt trội, thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp, nhiều đầu mối".
Văn kiện này kết luận :
"Việt Nam hiện đã có nhiều khu kinh tế nhưng các đặc khu kinh tế vẫn chưa thực sự được triển khai áp dụng đúng nghĩa, nơi mà các thể chế được mở rộng, thông thoáng, nâng cấp cao hơn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, tối ưu nhất cho đầu tư.
Để các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt trở thành các vùng động lực tăng trưởng cho đất nước, điều tiên quyết là phải có mô hình và cơ chế đột phá".
Lý do chống
Nhưng người dân và các chuyên gia kinh tế không nhìn cùng hướng với Bộ Chính trị. Họ yêu cầu nhà nước phải rà soát lại các khu kinh tế, khu công nghiệp và khu chế xuất xem làm ăn ra sao, xấu, tốt chỗ nào để trả lời cho người dân biết tại sao phải có thêm 3 Đặc khu, mà lại ở 3 vị trí sống còn của đất nước ?
Dân cũng muốn Bộ Chính trị trả lời tại sao :
"Báo cáo giám sát hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cho thấy trong giai đoạn 2011-2016, nợ của doanh nghiệp đã gia tăng lên tới 1,6 triệu tỷ đồng (gần 73 tỷ USD) ?" (Zing.vn, ngày 28/05/2018).
Zing.Việt Nam viết tiếp :
"Theo báo cáo, tính đến 31/12/2016, cả nước còn 583 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, bao gồm 7 tập đoàn kinh tế, 67 tổng công ty Nhà nước, 17 công ty TNHH MTV hoạt động theo mô hình công ty mẹ, công ty con, 492 doanh nghiệp độc lập thuộc các bộ, ngành, địa phương".
Các doanh nghiệp nhà nước do các Bộ quản lý điều hành gồm : Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nộng nghiệp và Bộ Thông tin&Truyền thông (TTTT).
Ngoài ra dân cũng thắc mắc tại sao Bộ Quốc phòng lại có riêng một Cục Kinh tế để "thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội nhân dân Việt Nam " ?
Theo tài liệu chính thức thì Cục này được " thành lập ngày 24 tháng 12 năm 1998" có nhiệm vụ :
- Chỉ đạo các loại hình sản xuất kinh tế của Quân đội gồm : Các khu kinh tế quốc phòng, các chương trình, mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo do Quân đội đảm nhiệm, chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp và các đơn vị thường trực tham gia hoạt động sản xuất kinh tế.
Nghiên cứu, vận dụng các chính sách, chế độ, quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế với các doanh nghiệp và các đơn vị sản xuất kinh tế trong Quân đội ; tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước và Bộ Quốc phòng liên quan đến công tác quản lý, chế độ chính sách, quy hoạch, kế hoạch sản xuất kinh tế của Quân đội.
Phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thẩm định và trực tiếp quản lý các dự án đầu tư của Nhà nước, của các nguồn tài chính khác trong và ngoài nước cho các khu kinh tế quốc phòng, các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, các hoạt động sản xuất kinh tế của các doanh nghệp trong Quân đội thuộc lĩnh vực kinh tế.
Quản lý, chỉ đạo xây dựng và thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh tế dài hạn, trung hạn, ngắn hạn và hàng năm của các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng, doanh nghiệp kinh tế, phần nhiệm vụ làm kinh tế của các doanh nghiệp quốc phòng. Các chương trình kinh tế xã hội tại các khu kinh tế quốc phòng, các kế hoạch xoá đói giảm nghèo và tổng hợp kết quả làm kinh tế trong Quân đội hàng năm.
Quản lý và chỉ đạo hoạt động kinh tế đối ngoại, xúc tiến thương mại của Quân đội, hỗ trợ các doanh nghiệp quân đội hội nhập kinh tế quốc tế.
Tham gia quản lý vốn và tài sản của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chưa bao giờ thấy Quốc hội hay Cơ quan thanh tra của đảng hoặc nhà nước công bố việc thanh tra, hoặc giám sát việc làm ăn của Cục Kinh tế, Bộ Quốc phòng.
Công ty lớn nhất của Quân đội Cộng sản Việt Nam là Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội, tên tiếng Anh là Viettel Group, thành lập năm 2004. Tính đến năm 2017, tổng cộng có 70.000 nhân viên trong và ngoài nước. Trị giá tài sản là 11 tỷ USD vào năm 2015, lợi tức hàng năm khoảng 2 tỷ USD.
Luật đặc khu
Cần nhắc lại rằng, dự luật Đặc khu gồm 6 Chương, 85 Điều, nếu được thông qua sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2019. Nội dung Luật đã gây bất bình tại Quốc hội và trong người dân trong và ngoài nước, nhất là giới trí thức và chuyên gia kinh tế, nhà khoa học, cựu Đại biều Quốc hội và các cựu đảng viên cao cấp, vì Luật đã dành qúa nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài.
Rất nhiều người đã quan ngại và quyết liệt chống nếu những ưu đãi về đất đai, đầu tư du lịch, nhà ở, cửa biển, hải cảng, sân bay và kinh tế như quy hoạch trong dự luật, lọt vào tay các nhà đầu tư Trung Quốc, những người lúc nào cũng nuôi tham vọng chiếm cứ lãnh thổ Việt Nam như họ đã làm tại Bauxite Tây Nguyên và gang thép Formosa Hà Tĩnh.
Riêng về thuế và các dịch vụ tài chính, các ưu đãi đó bao gồm :
"Miễn thuế thu nhập cá nhân trong 5 năm và giảm một nửa trong các năm tiếp theo. Thậm chí, nếu là nhà quản lý, nhà khoa học, hay chuyên gia được miễn thuế tới 10 năm đầu, nhưng không quá 2030. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo. Nhà đầu tư được thuê đất tối đa 99 năm so với mức tối đa 70 năm hiện tại.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư cũng được hưởng những ưu đãi thuế xuất nhập khẩu tại khu phi thuế quan, được lưu hành tự do ngoại tệ và có thể làm visa ngay tại đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt" (VoV.vn, Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 22/04/2018).
Điểm quan trọng nhất gây bất bình trong nhân dân là, trong dự luật Đặc khu nguyên thủy của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã viết nguyên văn tại Khoản 1, Điều 32 nói về "Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất tại đặc khu :
"Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu không quá 70 năm ; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định".
Đó là lý do tại sao đã có hàng chục ngàn người dân đủ mọi thành phần đã bất ngờ tự phát biểu tình chống Đặc khu và Luật an ninh mạng (Quốc hội chấp thuận ngày 12/06/2018) từ Nam ra Bắc. Họ đã giương cao các các biểu ngữ cầm tay và băng rôn (band-role) chống Đặc khu, chống Trung Quốc và thề không cho Trung Quốc thuê đất, dù chỉ 1 ngày.
Các biểu ngữ khác còn có nội dung :
- "Get out, China !", "KHÔNG đặc khu, KHÔNG an ninh mạng !", "Cho thuê đất là bán nước !"…
- "Đả đảo cộng sản bán nước", "Đả đảo Việt gian".
- " Đả đảo Luật An Ninh Mạng, Luật Bịt Miệng dân".
- "Bài học từ Formosa : Một ngày cũng không cho thuê đất".
"Thà đất nước nghèo mà bình yên-Ham giàu mà mất nước".
- "Vì độc lập, phản đối đặc khu" !
- "Vì tự do, phản đối luật an ninh mạng" !
Đây là lần đầu tiên trong 43 năm, hàng ngàn người dân đã tràn ngập nhiều ngả đường phố suốt ngày và đêm 10/06/2018 tại Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai và nhiều thành phố khác để chống Luật thành lập 3 Đặc khu Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang).
Trước ngày dân biểu tình và trước sức ép của dư luận, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp đến 3 giờ sáng ngày 09/6/2018 để quyết định lùi thời gian thông qua Luật Đặc khu đến kỳ họp 6 của Quốc hội vào tháng 10/2018.
Sau đó, Quốc hội đã đồng ý với đề nghị của Chính phủ không quy định trường hợp đặc biệt thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu có thể được kéo dài không quá 99 năm.
Lý do dân chống vì ai cũng lo ngại Luật này sẽ mở đường cho Trung Quốc vào cướp đất di dân để chiếm đóng 3 vị trí chiến lược quốc phòng quan trọng của Việt Nam :
- Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh) , cửa ngõ ra Vịnh Bắc Bộ, là chặng dừng chân đầu tiên của tầu bè Trung Hoa đi xuống Việt Nam, nhưng cũng là tuyến phòng ngự ở vùng biển Đông Bắc của Việt Nam từ thời các Vua chúa Việt. Hơn nữa Vân Đồn chỉ cách đảo Hải Nam, căn cứ Tầu ngầm của Trung Hoa, chừng 200 hải lý (mỗi hải lý dài 1,852 mét).
- Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa), nhìn thẳng ra Trường Sa, trực diện với các vị trí đóng quân của Trung Hoa trên các bãi đá, nay đã biến thành đảo mà Bắc Kinh chiếm của Việt Nam từ 1988 gồm Subi, Gaven, Chữ Thập, Gạc Ma và Châu Viên. Ngoài ra Bắc Vân Phong cũng chỉ cách vịnh chiến lược nổi tiếng Cam Ranh trên 60 cây số. Khánh Hòa cũng là nơi phát xuất các tầu Hải quân Việt Nam tiếp vận lương thực và luân chuyển quân lính ra vào 21 vị trí đóng quân của Việt Nam ở Trường Sa.
- Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang), nằm trong vịnh Thái Lan là vị trí phòng thủ chiến lược cực nam của Việt Nam. Từ Phú Quốc, tầu bè và máy bay có thể đi khắp Châu Á-Thái Bình Dương, sang Ấn Độ Dương để đi qua Trung Đông.
Theo tài liệu của nhà nước cộng sản Việt Nam thì :
"Chủ trương phát triển đặc khu kinh tế xuất hiện ngay từ sau Đổi mới ra đời, và được văn bản hoá ở Nghị quyết trung ương 4 khóa VIII (1997), Văn kiện Đại hội X năm 2006. Đến năm 2017, trên cơ sở Thông báo kết luận số 21-TB/TW ngày 22/3/2017 của Bộ Chính trị, Dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, được chuẩn bị từ năm 2014 mới chính thức được Chính phủ trình ra Kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khóa XIV (tháng 10-11/2017)".
Như vậy, sau khi bị nhân dân phản đối để phải lùi thêm từ kỳ họp 5 tháng 6/2018 đến kỳ họp 6 tháng 10/2018 rồi bây giờ Thường vụ Quốc hội lại bỏ lửng cho đến cuối năm thì Luật Đặc khu không chết cũng ngấp ngoái.
Phạm Trần
(09/08/2018)
Lãnh đạo Việt Nam hô hào đổi mới nhiều bao nhiêu cán bộ đi giật lùi bấy nhiêu. Đảng chỉ đạo phải tuyệt đối kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và trung thành với đảng thì càng có nhiều đảng viên “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” bỏ đảng, đòi bầu cử tự do và dân chủ nhân quyền.
Đảng chỉ đạo phải tuyệt đối kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
Và khi đảng phát động phong trào toàn dân, toàn đảng phải “học tập và làm việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh” thì nhiều người đứng đầu chỉ muốn “tổ chức thực hiện Chỉ thị hình thức, chiếu lệ”, theo lời Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng.
(Quân đội Nhân dân, 16/05/2018).
Người chịu trách nhiệm trực tiếp việc học theo “Bác”, Trưởng ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng thì xác nhận :
“Vẫn còn tình trạng làm qua loa, đối phó, chưa thực sự cầu thị, bệnh “thành tích”, bệnh “hình thức” ở nhiều nơi; Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu, thậm chí có cả cán bộ, đảng viên nắm giữ chức vụ cao trong cơ quan Đảng, Nhà nước còn thiếu tự giác, chưa thường xuyên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu trong công tác và trong sinh hoạt, vi phạm các quy định của Đảng và pháp luật...”.
(VietnamNet, 16/05/2018).
Sinh viên, học sinh từ trường đạo đến trường nhà nước đều chán đền tận mang tai môn học lịch sử đảng và Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng “Bác” Hồ. Lý do chán vì nội dung toàn nói hay cho đảng và sặc mùi tuyên truyền nhưng vẫn phải học vì là môn bắt buộc. Nếu không học thì không cho tốt nghiệp dù có giỏi đầu lớp hay đầu trường.
Mơ hồ-viển vông
Nhưng tại sao lại lung tung xòe như thế vào lúc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức trung ương và Hội đồng Lý luận trung ương họp bàn các văn kiện sẽ trình ra 2 Hội nghị trung ương 8 và 9 và chuẩn bị tài liệu tổ chức Đại hội đảng XIII dự trù vào đầu năm 2021?
Lý do vì khi phải học lời “Bác” dặn : “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” thì lãnh đạo lại tham lam, độc tài và coi đó là chuyện của người khác và của kẻ thừa hành nên cả nước không thèm nghe theo.
Thứ đến là khi phải nghe đảng khoan hò mãi chuyện “quá độ lên chủ nghĩa xã hội” mà chẳng biết bao giờ mới tới để xem mặt mũi nó ra sao nên ai cũng nản. Bằng chứng là ông Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã nói : “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”.
(Tuổi Trẻ, 23/10/2013).
Như vậy thì hèn chi mà rất nhiều đảng viên và người dân không còn muốn “liên hệ máu thịt” gì với đảng nữa. Họ đã “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” để thoát ly khỏi sai lầm của lãnh đạo cứ muốn tiếp tục duy trì chế độ cộng sản, dù nó đã bị nhân dân nước Nga, thủ phủ của thế giới cộng sản và nhân dân các nước Đông Âu vứt vào thùng rác từ 1989 đến 1991.
Ngày nay trên toàn thế giới chỉ còn lại 4 nước độc tài duy trì Chủ nghĩa cộng sản gồm Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn, trong khi tuyệt đại đa số nhân loại của 7,6 tỷ người đã xa lánh nó như tránh thứ vi trùng độc hại. Một đài tưởng niệm 100 triệu nạn nhân của Chủ nghĩa cộng sản, kể cả ở Việt Nam, đã được Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush khánh thành tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn vào ngày 12 tháng 6 năm 2007 là bằng chứng khác của sự lầm lạc của Đảng cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, chiêu bài “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”, hay “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” với chủ trương đổi mới từ 1986 chẳng qua chỉ là những tấm bình phong che đậy của những nhà nước độc tài và những chế độc độc đảng phản dân chủ. Do đó, những nhà tư tưởng cộng sản giáo điều và bảo thủ của Việt Nam đã từ lâu đề cao chủ trương “đổi mới nhưng không đổi màu”, và “hội nhập mà không hòa tan”.
Những ai đòi đảng “đổi mới kinh tế” thì phải “đổi mới chính trị” để dân thật sự làm chủ đất nước, tự quyết định tương lai chính trị của mình ; phải có bầu cử tự do, dân chủ và tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp và tư pháp) thì liền bị lên án “phản động, phản cách mạng”, hay còn bị chụp mũ là tay sai của “các thế lực thù địch” và “diễn biến hòa bình” do Mỹ giật giây.
Những lập luận viển vông như “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và “dân chủ xã hội chủ nghĩa” ghi trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Chủ nghĩa xã hội” (bổ sung và phát triển năm 2011) của Đảng cộng sản Việt Nam cũng là những thứ không có trong thực tế và sai lầm từ cơ bản.
Bằng chứng cho tới nay, sau 32 năm Đổi mới từ 1986, đảng vẫn chưa giải thích được ý nghĩa đích thực của lập luận giở trăng giở đèn làm kinh tế thị trường của tư bản chủ nghĩa mà lại phải theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” là định hướng như thế nào ? Kinh tế thị trường tự do, không cần ai xỏ mũi kéo đi như kinh tế cộng sản chỉ huy.
Vì vậy, đã có nhiều chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam phê bình đảng đã ỡm ờ đánh lận con đen khi nói như thế để che đậy chủ trương làm kinh tế phải do đảng lãnh đạo và nhà nước quản lý độc tài.
Khoản 1 của Điều 51 Hiến pháp năm 2013 đã nói rõ âm mưu này :
“Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế ; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Khi nói về “dân chủ xã hội chủ nghĩa” thì miệng lưỡi tuyên truyền của đảng luôn luôn rêu rao “dân chủ phải đi đôi với kỷ cương” để bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Nhưng khi quyền này lại do “nhà nước quản lý” thì cũng như không có. Cũng giống như chuyện bầu cử Hội đồng nhân dân và Quốc hội thì luôn luôn là “đảng cử dân bầu” thì có phải cử tri là bù nhìn không ?
Tiêu biểu như câu nói độc tài của ông Nguyễn Phú Trọng mới đây tại Hội nghị toàn quốc về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ngày 16/07/2018 tại Hà Nội. Ông nói :
“Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải đặt trong tổng thể cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ...”. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự ; quyền hạn gắn liền với trách nhiệm ; lợi ích đi đôi với nghĩa vụ ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật”.
Nói như ông Trọng thì quyền làm chủ của nhân dân ở các nước tự do có cần phải do đảng cầm quyền lãnh đạo và nhà nước quản lý không mà họ vẫn thượng tôn pháp luật khi thực hiện quyền ông dân của mình.
Lối lập luận nhập nhằng của thứ dân chủ trá hình ở Việt Nam còn được trắng trợn viết trong Điều 53 Hiến pháp năm 2013, theo đó : "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý."
Ai cho phép nhà nước cho mình quyền “đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” đất đai và tài sản của toàn dân ? Từ xưa tới nay, chưa có bất cứ cuộc trưng cầu ý dân nào được tổ chức để ủy quyền cho nhà nước chiếm cứ tài sản của dân trắng trợn như vậy.
Do đó khi Cương lĩnh năm 2011 viết rằng "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta" là đảng đã tự ý nhét chữ vào miệng dân. Không tin đảng thử tổ chức trưng cầu dân ý có quốc tế kiểm soát tự do và dân chủ xem có mấy phần trăm người Việt Nam muốn duy trì thứ chủ nghĩa cộng sản trá hình này ?
Ấy vậy mà Cương lĩnh dám viết hão huyền rằng "Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".
Tất cả những lập luận và kết luận kiêu căng và không chứng minh được của hàng ngũ lãnh đạo và tư tưởng của Việt Nam phần nhiều nói ra chỉ để sướng miệng vì không phản ảnh được sự thật của những việc đang xẩy ra trong cuộc sống của dân. Vì vậy tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” để “diễn biến hòa bình” theo Chủ nghĩa Tư bản đang diễn ra phức tạp trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam.
Đe dọa đảng tan
Bằng chứng đảng viết trong Nghị quyết 04/NQ-TW ngày 30/10/2016 :
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là một vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Nghị quyết viết tiếp :
“Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" ; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.
Để ngăn chặn, ngày 07/12/2017, Ủy viên Bộ Chính trị, thành viên Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Trần Quốc Vượng thay mặt Bộ Chính trị vừa ký ban hành Quy định 102-QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
Trong số những vi phạm về chính trị và nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng thì những vi phạm dưới đây sẽ bị phạt tùy theo mức độ và lần vi phạm từ khiến trách, cảnh cáo, cách chức đến khai trừ:
1. Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau gây hậu quả ít nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách :
a) Bị người khác xúi giục, lôi kéo, mua chuộc mà có hành vi nói, viết, lưu trữ, tán phát, xuất bản, cung cấp thông tin, tài liệu, hiện vật có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
b) Phụ họa, a dua theo những quan điểm trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thiếu trách nhiệm trong đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, chống diễn biến hòa bình.
c) Có biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng.
d) Không trung thực trong khai lý lịch, lịch sử bản thân và bổ sung lý lịch đảng viên.
2. Trường hợp đã bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ) :
a) Bị xúi giục, dụ dỗ hoặc do nhận thức không đúng mà nói, viết, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước; làm những việc mà pháp luật không cho phép.
b) Xúi giục, kích động, ép buộc người khác nói, viết, lưu giữ, tán phát, xuất bản, cung cấp những thông tin, tài liệu, hiện vật có nội dung trái Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
c) Bị dụ dỗ, lôi kéo hoặc bị cưỡng ép tham gia các đảng phái, tổ chức chính trị hoạt động trái phép.
3. Trường hợp vi phạm quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ :
a) Cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc.
b) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng".
c) Cố ý đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ; bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ; truyền thống của dân tộc, của Đảng và Nhà nước.
d) Lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hoạt động gây nguy hại đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
đ) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
e) Hoạt động trong các đảng phái, tổ chức chính trị phản động.
g) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.
h) Tác động, lôi kéo, định hướng dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng.
i) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
k) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Những hình phạt này tuy nhiều, nhưng nội dung không mới vì các chứng bệnh không làm theo lệnh đảng, lười học tập Nghị quyết, nói không đi đôi với làm, công khai chỉ trích lãnh đạo, tình trạng đồng chí nhưng không đồng lòng, phê bình dè bỉu chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi dân chủ, đa nguyên đa đảng đã râm ran trong nội bộ từ khóa đảng VII thời ông Đỗ Mười làm Tổng bí thư (tháng 6 năm 1991 đến tháng 12 năm 1997).
Đảng cộng sản Việt Nam càng loay hoay bao nhiêu thì càng đứng ì một chỗ bấy nhiêu
Tình trạng tham nhũng, chạy chức chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy chỗ ngồi mát ăn bát vàng và chạy tội không còn là chuyện bất thường hay năm thì mười họa trong đảng. Ông Nguyễn Túc, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nói :
“Hiện giờ lấy mục tiêu đầu tiên của một số người là “tiền đâu” ? lên chức là “lên tiền” nên có tình trạng chạy chức chạy quyền. Điều đó dẫn đến chuẩn mực của tự phê bình và phê bình của hai giai đoạn rất khác nhau. Cho nên một bộ phận không nhỏ thoái hóa biến chất đưa lợi ích vật chất lên trên. Điều đó khiến nhiều nơi không khí đấu tranh nội bộ trong Đảng không sôi động như trước đây.”
(Đại Đoàn Kết, ngày 16/12/2017)
Từ thời ông Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư khóa VIII, sang hai khóa IX và X thời ông Nông Đức Mạnh rồi chuyển qua hai khóa XI và XII thời Nguyễn Phú Trọng thì thấy càng về sau, gần 30 năm dài, từ 1991 đến 2018, những chứng hư tật xấu và khuyết tật của cán bộ đảng viên không bớt mà chỉ thấy tăng cao đến mức đe dọa cả sự sống còn của đảng.
Như vậy thì rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam càng loay hoay bao nhiêu thì chứng ì một chỗ của cán bộ, đảng viên càng dài ra bấy nhiêu.
Phạm Trần
(31/07/2018)
“Đảng không áp đặt, ép buộc, gán cho văn học, nghệ thuật một nhiệm vụ "chính trị" khô khan, giản đơn, nhất thời nào, mà hiểu nó như một sứ mệnh, một sức mạnh vốn có của văn học, nghệ thuật chân chính, đặc biệt trong cuộc đấu tranh ngày hôm nay”.
Đó là phân bua của Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phu Trọng tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam diễn ra ngày 25/07/2018 tại Hà Nội.
Một số thành viên trong ban vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam ngày 17/12/2015 - Ảnh Văn Việt
Nhưng thế nào là “chân chính” và “không chân chính” ? Có phải “viết” và “làm theo chỉ đạo” của đảng mới là đúng , nhưng đòi được tự do sáng tác và độc lập tư tưởng trong sáng tạo là không phục vụ quyền lợi của nhân dân, chống lại đảng, chống lại tổ quốc ?
Và khi ông Trọng rêu rao đảng “không áp đặt, ép buộc”, hay “gán cho văn học, nghệ thuật một nhiệm vụ chính trị" là ông không thành thật với chính mình.
Bằng chứng cách nay 10 năm, vào ngày 16/06/2008, Ban Chấp hành Trung ương khóa đảng X thời ông Nông Đức Mạnh làm Tổng bí thư, đã ban hành Nghị quyêt 23-NQ/TW “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.
Đảng chỉ thị phải :
- Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, bảo đảm yêu cầu phát triển của lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Vậy khi “văn học” và “nghệ thuật” phải do đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và văn nghệ sĩ cũng phải do đảng nắm đầu và chỉ đường thì đó không phải là nền văn nghệ bị chỉ huy có đội ngũ văn công làm theo lệnh đảng hay sao ?
Nhưng do ai và vì ai mà văn nghệ phải có nhiệm vụ “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” ? Lẽ đơn giản là một nền văn học, nghệ thuật có tự do là những sáng tác của nghệ sĩ không bị trói tay và viết hay nói theo mệnh lệnh của lãnh đạo.
Nền tảng mácxít – hồ chí minh
Nghị quyêt 23-NQ/TW, ngày 16/06/2008 còn chỉ thị văn nghệ sĩ phải tuần hành:” Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch”.
Đảng nói thế nhưng lại không sao ngăn chặn được cuộc xâm lăng văn hóa của Trung Quốc đang hoành hành xã hội Việt Nam từ sau ngày đổi mới năm 1986.
Nhà nước cộng sản Việt Nam hãy sờ lên gáy xem phim ảnh và sách báo của Trung Quốc đã thấm nhập vào tim óc giới trẻ Việt Nam điến mức nào, đến nỗi ngày nay, trẻ em Việt Nam hiểu lịch sử Trung Hoa hơn lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Bằng chứng đã kê khai trên báo Gíao dục Việt Nam ngày 13/07/2018 :
“Kết quả kỳ thi trung học phổ thông quốc gia vừa qua, tại Đà Nẵng chỉ có hơn 10 % học sinh thi môn Lịch sử đạt từ điểm 5 trở lên, còn lại 90 % học sinh không đủ điểm trung bình.
Tương tự tại thành phố Hồ Chí Minh môn học này cũng chỉ có 19,1% học sinh đạt từ điểm 5 trở lên, còn lại 80,9% học sinh không đủ điểm trung bình”.
Như vậy thì các văn nghệ sĩ cộng sản có trách nhiệm gì không, hay chuyện xấu hổ này là trách nhiệm riêng của ngành Gíao dục và phụ huynh học sinh ?
Thế mà ông Trọng vẫn tự khoe :
“Đảng ta tiếp tục khẳng định : "Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người ; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam" trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển đất nước”.
Nhưng nếu phát triển văn học và nghệ thuật mà phải dựa trên “nền tảng mỹ học mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh”, như Nghị quyết 23-NQ/TW (16-06-2008) đòi hỏi thì làm sao đảng có thể “khuyến khích văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại” ?
Bởi vì văn nghệ mác-xít và tư tưởng Hồ Chí Minh là thứ văn hóa nô bộc của chủ nghĩa cộng sản. Chỉ có những văn nghệ sĩ vì miếng cơm manh áo mới cam tâm làm tay sai và chịu làm theo những điều đảng muốn.
Quản lý được không ?
Để đạt yêu cầu nắm gọn trong tay văn nghệ sĩ, Nghị quyết năm 2008 quyết định :
“Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn học, nghệ thuật. Hoàn thành cơ bản việc thể chế hóa các quan điểm, đường lối, định hướng của Đảng về văn học, nghệ thuật. Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn học, nghệ thuật; rà soát, bổ sung và xây dựng mới các chế độ, chính sách đối với hoạt động văn học, nghệ thuật, như chế độ lương, nhuận bút, đãi ngộ tài năng, bồi dưỡng lao động nghề nghiệp, chế độ hưu…”.
Nhưng sau 10 năm thi hành Nghị quyết, dù đảng và nhà nước đã tiêu phí bao nhiêu tiền mồ hôi nước mắt của dân, văn học và nghệ thuật của đảng vẫn ì ra đấy, hoặc còn tệ hại hơn xưa.
Vì vậy, ông Nguyễn Phú Trọng mới nói với ngót 500 Đại biểu tại lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam rằng :
“Tôi đề nghị các anh, các chị, các đồng chí bàn bạc, trao đổi thẳng thắn với tinh thần tự phê bình và phê bình sâu sắc nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém nảy sinh trong sáng tác, lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật những năm gần đây, như : Có hay không biểu hiện xa rời những vấn đề lớn lao của đất nước, chạy theo đề tài nhỏ nhặt, chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng ; nhấn mạnh một chiều chức năng giải trí, hạ thấp chức năng giáo dục, nhận thức ; nặng về tô đậm mặt tiêu cực, đen tối của cuộc sống, thậm chí xuyên tạc, bóp méo lịch sử ; tiếp thu thiếu chọn lọc sáng tác, lý luận văn nghệ nước ngoài dẫn đến biểu hiện lai căng, chuộng ngoại, bắt chước, chạy theo thời thượng ?”.
Nói thế rồi ông Trọng hỏi mọi người :
“Có phải những hạn chế đó đã dẫn tới tình trạng số lượng tác phẩm, tác giả thì nhiều, nhưng còn ít những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, làm suy giảm sức hấp dẫn và sự ham say của quần chúng đối với văn học, nghệ thuật ? Cần có biện pháp gì để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó ?”.
Biện pháp mà ông Trọng và đảng cộng sản Việt Nam có thể làm dễ dàng và ngay lập tức đem lại kết quả là hãy cởi trói cho văn nghệ sĩ để họ sáng tác tự do theo con tim và khối óc của mình.
Văn đoàn độc lập
Đó là lý do tại sao nhà văn Nguyên Ngọc và trên 60 nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình văn học nổi tiếng của Việt Nam đã tuyên bố thành lập Văn đoàn độc lập ngày 03/03/2014, ly khai khỏi Đảng cộng sản và Hội Nhà văn Việt Nam do đảng lãnh đạo.
Ngoài ông Nguyên Ngọc còn có các nhà thơ Bùi Chát, Bùi Minh Quốc, Đỗ Trung Quân, và các nhà văn Bùi Ngọc Tấn, Dương Tường, Đặng Tiến, Đỗ Lai Thúy, Giáng Vân, Hoàng Hưng, Nguyễn Duy, Nguyễn Huệ Chi, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh Giang,Nguyễn Quang Lập, Phạm Đình Trọng, Phạm Xuân Nguyên, Lưu Trọng Văn (con nhà thơ Lưu Trọng Lư), Võ Thị Hảo, Vũ Thư Hiên, Lê Phú Khải, Ý Nhi, v.v… Họ tuyên bố :
“Sau năm 1975, kết thúc một thời kỳ lịch sử kéo dài hơn trăm năm, đất nước cần một cuộc phục hưng dân tộc căn bản, mà nền tảng là phục hưng văn hóa. Tiếc thay công cuộc cần thiết và nghiêm trang ấy đã không diễn ra như mong đợi. Trái lại văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc.
Những người viết văn tiếng Việt không thể nói rằng mình hoàn toàn không có phần trách nhiệm về thực trạng đó. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội. Trong bước ngoặt lớn này của lịch sử, văn học Việt Nam đã không làm đúng được vai trò của mình.
Văn chương Việt Nam yếu kém có nguyên nhân chủ quan trước tiên thuộc chính người cầm bút là sự thờ ơ đối với trách nhiệm xã hội, vô cảm trước thời cuộc, quan trọng hơn nữa là thiếu độc lập tư duy, từ đó mà tự hạn chế năng lực sáng tạo”.
Những văn nghệ sĩ này nói tiếp :
“Về mặt khách quan, một xã hội như chúng ta đang có, trong đó các quyền tự do cơ bản của con người thực tế bị vi phạm trầm trọng, đương nhiên đè nặng lên tâm lý sáng tạo của người cầm bút, làm mờ nhạt và tắt lụi các tài năng. Quyền tự do sáng tác và tự do công bố tác phẩm đang là đòi hỏi sống còn của từng nhà văn và của cả nền văn học. Không có những quyền tự do tối thiểu đó thì không thể có một nền văn học đàng hoàng.
Một thể chế tổ chức đời sống văn học nặng tính quan liêu và bao cấp càng làm nặng nề thêm tình hình, đồng thời lại không tạo được mối liên kết lành mạnh giữa những người viết để nâng đỡ và thúc đẩy nhau trong công việc, hỗ trợ nhau trong khó khăn. Trước tình cảnh kéo dài và nay đã trở nên cấp bách đó, chúng tôi, những người cầm bút ký tên dưới đây, quyết định vận động thành lập một tổ chức độc lập của các nhà văn viết bằng tiếng Việt ở trong nước và ngoài nước, lấy tên là Văn đoàn độc lập Việt Nam, với mong muốn góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi”.
Sau khi khẳng định như vậy, họ đồng thanh khẳng định :
“Hoạt động của Văn đoàn độc lập Việt Nam nhằm vào những nhiệm vụ cụ thể sau đây :
- Đoàn kết tương trợ giữa những người viết văn tiếng Việt trong và ngoài nước ;
- Tạo điều kiện nâng cao về nghề nghiệp, thúc đẩy sáng tạo cá nhân, khuyến khích đổi mới trong sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học và ngôn ngữ ;
- Bảo vệ mọi quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng, hợp pháp của hội viên, đặc biệt là quyền tự do sáng tác và công bố tác phẩm, cũng như quyền tự do tiếp cận tác phẩm văn học của mọi người.
Văn đoàn độc lập Việt Nam là một tổ chức của xã hội dân sự, ái hữu nghề nghiệp, hoàn toàn độc lập đối với mọi hệ thống tổ chức và thiết chế trong và ngoài nước”.
Để trả thù Văn đoàn độc lập, Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Phuông, vào tháng 3 năm 2018, đã ký văn thư yêu cầu Bộ Giáo dục cho “rút toàn bộ tác phẩm của các tác giả tham gia Tổ chức ‘Văn Đoàn Độc lập’ ra khỏi Chương trình sách giáo khoa”.
Như vậy rõ ràng ông Nguyễn Phú Trọng và các nghị quyết của đảng, không chỉ nói sai về tình hình Văn học và Nghệ thuật ngày nay ở Việt Nam mà còn xác nhận họ đã thất bại không làm chủ được tình hình.
Phạm Trần
(26/07/2018)