Chính thể độc đảng ở Việt Nam đã may mắn trải qua năm 2018 vì chưa bị chính sách ‘công bằng và đối ứng’ của Tổng thống Mỹ Donald Trump chế tài mạnh đối với hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Thậm chí, giá trị xuất siêu của Việt Nam vào thị trường ‘đa đảng’ này còn vượt hơn cả số xuất siêu của năm 2017.
Trump và Kim tản bộ sau cuộc gặp đầu tiên tại khách sạn Metropole, Hà Nội.
Nhưng năm 2019 liệu còn sự may mắn đó mà bất kể ‘uy tín Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế khi tổ chức cuộc gặp Trump - Kim’ ?
Đó là một câu hỏi đánh đố đối với nền kinh tế Việt Nam và thậm chí với cả sự tồn vong của Đảng cộng sản Việt Nam, trong khung cảnh hơn 10 FTA (hiệp định thương mại song phương) của Việt Nam với các quốc gia khác chỉ vừa ‘đủ ăn’, mà chỉ còn lại hai thị trường Hoa Kỳ và khối Liên minh Châu Âu là còn mang lại số xuất siêu lớn và do đó mang lại một nguồn ngoại tệ quý hơn máu để giúp ‘chúa chổm’ Việt Nam trả nợ nước ngoài bình quân 10 - 12 tỷ USD mỗi năm.
Vào đầu năm 2019, đã hiện ra dấu hiệu đầu tiên về thế khó khăn mà có thể tước đi cái may mắn của năm 2018.
Vì sao Phúc ‘tự lấy đá ghé chân mình’ ?
Chỉ vài tuần sau khi khoe thành tích của chính phủ kiến tạo đã xuất siêu đến 35 tỷ USD vào thị trường Hoa Kỳ trong năm 2018, cũng ‘tác giả’ Nguyễn Xuân Phúc đã đổi giọng khi trả lời phỏng vấn truyền hình Bloomberg ngày 17/1/2019 : "Chúng tôi nhắm mục tiêu đạt được sự cân bằng thương mại nhiều hơn với Mỹ".
Theo Phúc, Việt Nam đã mua 150 máy bay Boeing cũng như các sản phẩm của General Electric và của các công ty dầu không được nêu tên, và những thương vụ này sẽ giúp cân bằng hơn về thương mại và thúc đẩy phát triển giữa hai nước.
Vì sao Thủ tướng Phúc - quan chức đã trở nên trung tâm của rất nhiều bình phẩm mỉa mai, với tham vọng bất tận về thành tích ‘chỉ số tăng tưởng kinh tế GDP’ và ‘xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước’ mà đang ‘kiến tạo’ vinh lộ cho ông ta trên cung đường tranh giành cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13 của Đảng cộng sản Việt Nam - lại đột nhiên tự lấy đá ghè vào chân mình - một động tác khác hẳn với thói quen ‘được đằng chân lân đằng đầu’ của giới quan chức và các nhóm lợi ích Việt Nam ?
Hẳn đã xảy ra một tác động nào đó, mà phải là một tác động mang tính sức ép đủ lớn khiến ông Phúc phải xuất hiện trên một diễn đàn truyền thông về thương mại quốc tế để tự cam kết và đồng thời trấn an người Mỹ.
Rất có thể vào cuối năm 2018, Trump ‘kết sổ’ giao thương với Việt Nam và giật mình : thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam lên tới 35 tỷ USD khiến Việt Nam đứng thứ 6 trong danh sách những nước có tỷ lệ thâm hụt thương mại cao nhất của Mỹ, sau Trung Quốc, Mexico, Đức, Canada và Nhật.
Còn trước đó vào năm 2017, Việt Nam đã xuất sang Mỹ lượng hàng hóa tổng giá trị 41,6 tỷ USD nhưng chỉ nhập khẩu có 9,2 tỷ USD, nâng mức thặng dư thương mại lên con số 32,4 tỷ USD với Mỹ, gấp đến 160 lần so với giá trị xuất siêu chỉ 200 triệu USD vào năm 2001 - thời điểm mà Việt Nam mới ký với Mỹ Hiệp định thương mại song phương (BTA) đầu tiên.
Rất có thể, Trump đã phát đi một thông điệp nào đó và khá cứng rắn với Phúc, thông qua một quan chức cấp cao của Mỹ, ngay trước khi tổng thống Mỹ đến Hà Nội để gặp Kim Jong-un.
Thái độ đổi giọng của Thủ tướng Phúc vào đầu năm 2019 cũng khiến người ta nhớ lại chuyến công du đầy ẩn ý đến Hà Nội vào ngày 21/5/2018 của ông Jeffrey Gerrish - Phó Đại diện Thương mại Mỹ. Jeffrey Gerrish đã gặp một quan chức cao cấp phụ trách kinh tế của Việt Nam là Ủy viên bộ chính trị kiêm Phó thủ tướng Vương Đình Huệ.
Vào thời điểm trên, mặc dù báo đảng Việt Nam chỉ tường thuật sơ sài "ông Jeffrey Gerrish, Hoa Kỳ mong muốn đạt được các thoả thuận với Việt Nam liên quan tới các vướng mắc về nhập khẩu ô tô, thanh toán điện tử và quy định về đặt thiết bị quản lý dữ liệu người dùng Việt Nam tại Việt Nam trong dự thảo Luật An ninh mạng", nhưng một số nhà quan sát kinh tế cho rằng nội dung chính mà Jeffrey Gerrish làm việc với Việt Nam sẽ là "san bằng thâm hụt thương mại" theo yêu cầu của Tổng thống Trump, nhằm buộc Việt Nam phải hạ mức thâm hụt thương mại xuống mức dưới 8 tỷ USD/năm.
Có nghĩa là tròn một năm sau cuộc gặp với Nguyễn Xuân Phúc tại Washington, Donald Trump không quên trọng điểm mà ông ta đã cố ý nhấn mạnh và thậm chí còn không cho thời gian để Phúc giãi bày hay thanh minh.
Vào tháng Năm năm 2017 ấy, không những không đề cập gì đến "Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ", Trump lại xoáy vào một vấn đề cực kỳ khó chịu và khó khăn đối với phía Việt Nam : trong phần phát biểu ngắn gọn tại cuộc gặp song phương tại Nhà Trắng vào ngày 31/5/2017, Tổng thống Hoa Kỳ đã nhấn mạnh vấn đề giao thương và thâm hụt thương mại 'lớn' với Việt Nam, mà ông hy vọng sẽ 'sớm được cân bằng'. Ngay trước đó, Bộ trưởng thương mại Hoa Kỳ cũng không bỏ quên vấn đề này trong cuộc gặp với Thủ tướng Phúc.
Chẳng bao lâu sau đó, đúng vào ngày Lễ Tình Yêu 14 tháng Hai năm 2018 - tức tròn một năm sau thời điểm liệt Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia "gây hại" cho nền kinh tế Mỹ, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dường như muốn bày tỏ "tình yêu" đối với chính thể độc đảng ở Việt Nam bằng cử chỉ "siết nợ" thông qua nội dung "hai nhà lãnh đạo cũng thảo luận về các vấn đề thương mại và cam kết sẽ tăng cường, mở rộng mậu dịch song phương công bằng và đối ứng".
Cơn ác mộng
Giờ đây, ‘công bằng và đối ứng’ của Trump đang trở thành cơn ác mộng của giới chóp bu Việt Nam, thậm chí còn kinh khủng hơn nhiều so với những đòi hỏi của Chính phủ Mỹ về Việt Nam phải cải thiện nhân quyền một cách có thể chứng minh được.
Nếu đúng là đòi hỏi của Trump mà theo đó Việt Nam phải tự cắt giảm mức thâm hụt thương mại vào thị trường Mỹ trong thời gian tới đến 3/4 số xuất siêu năm 2017 và 2018 - tức phải giảm đến hơn hai chục tỷ USD, có thể bắt đầu ngay trong năm 2019 này và tiếp theo những năm sau, bi kịch xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ kéo theo bi kịch kinh tế và cũng là bi kịch ngân sách dành cho chế độ một đảng ở Việt Nam, đồng thời khiến cán cân nhập siêu của Việt Nam từ các thị trường khác, đặc biệt từ Trung Quốc, tăng mạnh.
Một hệ quả rất không mong đợi đối với Việt Nam là nếu Mỹ "siết" các điều kiện thương mại như đánh thuế xuyên biên giới, dựng đứng hàng rào kiểm nghiệm chất lượng đối với hàng hóa Việt Nam mà trước đó cá basa, tôm, gạo đã trở thành "nạn nhân", đồng thời ngưng trệ vô thời hạn Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ hoặc làm cho hiệp định này trở nên khó khăn hơn nhiều so với những năm trước, giá trị xuất siêu hàng năm của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tụt thê thảm.
Nếu năm 2017 và năm 2018 đã mở đầu bằng hàng loạt "điềm xấu" dành cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ như Bộ Thương mại Mỹ nâng tỷ lệ thuế đánh vào hai mặt hàng thép và tôm Việt Nam lần lượt là 53% và hơn 25%, thì vào năm 2019, rất nhiều khả năng là giá trị xuất siêu của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ giảm sút đáng kể so với kỷ lục xuất siêu 35 tỷ USD của năm 2018.
Ngay cả cuộc gặp thượng đỉnh Trump - Kim vào tháng 2 năm 2019 mà Hà Nội cố gắng đăng cai và ‘tự sướng’ theo cách mà Thanh Niên - một tờ báo ‘thân đảng’ giật tít về Việt Nam như ‘Trung tâm hòa giải xung đột quốc tế’ cũng không thể cứu vãn đà tụt giảm xuất siêu của hàng Việt vào thị trường Hoa Kỳ - một chủ đề nóng bỏng mà hẳn Trump sẽ quay trở lại với nó ngay sau khi rời phòng họp mượn tạm tại Việt Nam.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 28/02/2019
Thông báo mới nhất từ Ngoại trưởng Đức Heiko Maas vào ngày 20/2/2019 cho thấy cuộc đàm phán về vụ Trịnh Xuân Thanh giữa Việt Nam và Đức đã một lần nữa nhuốm chút hy vọng ‘phục hồi quan hệ đối tác chiến lược’ giữa hai nước - quan hệ mà Nhà nước Đức đã tuyên bố tạm ngừng vô thời hạn vào tháng 9 năm 2017 - 2 tháng sau khi ra thông báo phản đối Việt Nam cho mật vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin.
Ngày 20/11/2017 Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Bộ trưởng Ngoại giao Đức Sigmar Gabriel bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEM lần thứ 13 tại Myanmar - Ảnh Việt Nam và Thế Giới
Sẽ phải trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức ?
Sau khi kết thúc cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh, Bộ Ngoại giao Đức đã ra một bản tin và một Thông cáo báo chí, trong đó Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Heiko Maas đã nhấn mạnh mối quan tâm của ông đến một sự hợp tác chặt chẽ dựa trên sự tôn trọng các giá trị chung :
"Trong thời gian qua đã có những khác biệt có thể nhận thấy rõ rệt giữa Đức và Việt Nam – đặc biệt là vì vụ bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh ở Berlin. Hôm nay chúng tôi đã trao đổi với nhau về việc chúng tôi có thể điều chỉnh lại mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức như thế nào và làm sao có thực chất trở lại. Theo quan điểm của chúng tôi, một quan hệ đối tác chiến lược cũng bao gồm sự tôn trọng các giá trị chung, đặc biệt là tôn trọng nhân quyền phổ quát" (Thoibao.de).
Cách nói mở đường của Maas cho thấy nhiều khả năng Phạm Bình Minh đã hứa hẹn ‘Việt Nam sẽ trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức’.
Tuy nhiên theo thông tin từ phía Bộ Ngoại giao Đức và được giới truyền thông quốc tế đưa tin, trước đây Việt Nam cũng đã hứa hẹn không dưới một lần về ‘Việt Nam sẽ trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức’, nhưng sau đó bặt tăm.
Sẽ đặt nhân quyền ưu tiên trong quan hệ đối tác chiến lược ?
Vào tháng 11 năm 2017, lần đầu tiên phía Đức bắn tiếng ‘phục hồi quan hệ đối tác chiến lược’, cùng lúc với quá trình đàm phán vụ Trịnh Xuân Thanh tưởng đâu đã có lối ra. Nhưng sau đó phía Việt Nam lại ngậm miệng và tất cả chìm vào bóng tối.
Vào lần này - lần đầu tiên mà cấp bộ trưởng ngoại giao như Phạm Bình Minh công cán đến Đức kể từ vụ khủng hoảng Trịnh Xuân Thanh, những điều kiện cho triển vọng phục hồi đối tác chiến lược đã không còn dễ thở như năm 2017.
Một từ ngữ đặc biệt mà Ngoại trưởng Đức Heiko Maas dùng là ‘điều chỉnh’ trong quan hệ đối tác chiến lược, nếu quan hệ này được phục hồi. Điều đó có nghĩa là sẽ có những thay đổi, thậm chí là thay đổi đáng kể về nội dung quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
Một trong những thay đổi đó đã lộ diện ngay trong thông báo của ông Maas : "Theo quan điểm của chúng tôi, một quan hệ đối tác chiến lược cũng bao gồm sự tôn trọng các giá trị chung, đặc biệt là tôn trọng nhân quyền phổ quát".
Hoàn toàn có thể hiểu rằng kể từ nay trở đi và chỉ sau khi Trịnh Xuân Thanh được trao trả lại cho Đức, quan hệ đối tác chiến lược mới được đàm phán lại, nhưng sẽ được bổ sung vào đó ít nhất nội dung nhân quyền.
Cũng hoàn toàn có thể hiểu rằng với vai trò một quốc gia có tác động mạnh mẽ nhất tới Liên minh Châu Âu (EU) liên quan đến số phận EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam), Đức cũng như EU đều đang đặc biệt quan ngại về những vi phạm nhân quyền trầm trọng của chính quyền Việt Nam, và cả EU lẫn Đức đã chuyển quan điểm từ ‘EVFTA trước, nhân quyền sau’ sang ‘nhân quyền trước, EVFTA sau’. Có đến hai bằng chứng gần nhất và rõ nhất của quan điểm mới mẻ này : vào giữa tháng 11 năm 2019, lần đầu tiên nghị viện Châu Âu tung ra một bản nghị quyết lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền với nội dung rất rộng và sâu, lời lẽ rất cứng rắn ; và vào tháng 2 năm 2019, Hội đồng Châu Âu đã thẳng tay quyết định hoãn vô thời hạn việc phê chuẩn EVFTA khiến chính quyền Việt Nam ‘mất ăn’ khi tưởng như đã nuốt trôi mọi thứ.
Sẽ đàm phán lại EVFTA ?
Không chỉ đàm phán lại quan hệ đối tác chiến lược, mà "Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam có thể sẽ phải đàm phán trở lại. Chúng tôi cũng thúc đẩy cho việc kết thúc nhanh chóng các cuộc đàm phán về Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam" - Ngoại trưởng Đức Heiko Maas nói.
Đây là thông tin về lộ trình mới nhất cho EVFTA hiện ra sau khi hiệp định này bị hoãn và khiến cho hy vọng của giới chóp bu Việt Nam về một ‘EVFTA sắp được ký kết, phê chuẩn và thông qua’ mòn mỏi theo ngày tháng. Đức, với tư cách là đầu tàu kinh tế và chính trị ở Châu Âu, cũng như có quyền quyết định lớn nhất trong việc có thông qua EVFTA hay không, không còn nghi ngờ gì nữa, đang quyết định lộ trình cần phải có của hiệp định này cũng những điều kiện then chốt mà chính quyền Việt Nam bắt buộc phải tuân thủ. Thông điệp của Đức cũng là thông điệp của EU.
Hiệp định EVFTA đã được phía Việt Nam đàm phán từ những năm 2013 và đã được hoàn tất đàm phán vào cuối năm 2015. Tuy nhiên, hiệp định này đã phải trải qua đến hai năm rưỡi cho giai đoạn rà soát pháp lý, trong khi những hiệp định cùng loại chỉ mất từ 6 tháng đến 1 năm.
Vào tháng 10 năm 2018, tại trụ sở của EU ở Brusells đã diễn ra một cuộc điều trần EVFTA - nhân quyền, với kết quả là Ủy ban Châu Âu đã cho Việt Nam ‘qua cầu’ và làm tờ trình cho Hội đồng Châu Âu, để hội đồng này quyết định phê chuẩn EVFTA.
Theo lịch trình trước đây của EU, nếu EVFTA được Hội đồng Châu Âu phê chuẩn và nhận dược sự ủng hộ của Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu (một cơ quan tham mưu rất quan trọng của Nghị viện Châu Âu về các hiệp định thương mại), EVFTA sẽ được đưa ra Nghị viện Châu Âu để xem xét bỏ phiếu thông qua vào tháng 5 năm 2019. Tuy nhiên, giớp chóp bu Việt Nam chỉ muốn ăn sẵn và ăn ngay đã bị một cú sốc thình lình khi nhân quyền - yếu tố mà trước đây chỉ là một điều kiện không ưu tiên trong EVFTA và bị chính quyền Việt Nam xem thường, đã trở nên chính yếu và tạo ra cú knock-out hoãn EVFTA ngày vào lúc Hà Nội sắp mở tiệc ăn mừng ‘thoát nạn’.
Thông báo của Ngoại trưởng Đức Heiko Maas về khả năng ‘đàm phán lại’ EVFTA cũng có nghĩa là sẽ chẳng có cuộc họp nào của Hội đồng Châu Âu vào tháng 3 năm 2019 để phê chuẩn hiệp định này, và càng không có cuộc họp chuyên biệt nào của Nghị viện Châu Âu vào tháng 5 năm 2019 để bỏ phiếu thông qua EVFTA.
Mà phía Việt Nam sẽ phải quay lại gần như điểm xuất phát của nó : ngồi vào bàn đàm phán với EU, nhưng trước hết là với một số nước quan trọng trong khối EU, để chỉ nói về… nhân quyền.
Từ trước và sau cuộc điều trần EVFTA - nhân quyền tại Brusells vào tháng 10 năm 2019, chính quyền Việt Nam đã và vẫn chưa có bất kỳ cải thiện nhân quyền nào dù chỉ mang tính tượng trưng hay mang tính đối phó. Thậm chí chính quyền này vẫn tiếp tục bắt bớ những người bất đồng chính kiến và đàn áp các cuộc biểu thị lòng yêu nước của người dân phản đối Trung Quốc.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 27/02/2019
Có những điểm giống nhau ‘chết người’ giữa vụ cựu bộ trưởng Thông tin và truyền thông Trương Minh Tuấn ‘nhập kho’ vào tháng 2 năm 2019 với vụ hình ảnh cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng phải ngậm ngùi tra tay vào còng hơn một năm trước đó : cả hai đều còn giữ cương vị ủy viên trung ương khi bị khởi tố và bắt giam ; và cả hai đều có ‘độ trễ’ từ lần mất chức gần nhất đến lúc bị bắt là 7 tháng.
Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn.
Sau khi bị cách lột chức vụ ủy viên bộ chính trị vào tháng 5 năm 2017, Đinh La Thăng được Bộ Chính trị ‘phân công’ về làm phó trưởng ban kinh tế trung ương như một thủ thuật ‘nhốt quyền lực vào lồng’, sau đó đến tháng 12 năm 2017 thì bị bắt ; còn Tương Minh Tuấn sau khi bị cách chức bộ trưởng thông tin và truyền thông vào tháng 7 năm 2018, 7 tháng sau cũng bị bắt nốt.
Tại sao Tuấn ‘thoát’ tại Hội nghị trung ương 9 ?
Vụ hai cựu bộ trưởng thông tin truyền thông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn bị tống giam vào ngày 23/2 - hai tuần sau tết nguyên đán năm 2019 có thể xem là tương đương với sự kiện hai tướng Phan Văn Vĩnh - cựu Tổng cục trưởng cảnh sát nhân dân và Nguyễn Thanh Hóa - Cục trưởng Cục phòng chống tội phạm công nghệ cao - cả hai đều thuộc Bộ Công an - bị khởi tố và bắt giam sau tết nguyên đán năm 2018 vì bảo kê cho đường dây đánh bạc công nghệ cao.
Trong số các quan chức dính dáng đến vụ ăn chia ‘Mobifone mua AVG’ khiến ngân sách thất thoát ít nhất 7.000 tỷ đồng, Nguyễn Bắc Son bị dư luận xem là ‘ăn đậm’, với tỷ lệ dành cho Son có thể lên đến 10 - 15% trong số 7.000 tỷ.
Một dẫn chứng phát lộ gần nhất về ‘tỷ lệ ăn chia’ là Thiếu tướng Nguyễn Thanh Hóa được chính thức công bố đã ‘ăn’ 15% trong hợp đồng chia phần lợi nhuận của đường dây đánh bạc công nghệ cao.
Trong khi đó, Trương Minh Tuấn là quan chức bị nghi ngờ rất lớn về ‘âm mưu chia chác’ bởi nhân vật này đã trực tiếp ký phê duyệt hợp đồng ‘Mobifone mua AVG’ khi còn là cấp phó cho đàn anh Nguyễn Bắc Son, để Lê Nam Trà của Công ty Mobifone ký hợp đồng mua Công ty AVG.
Dường như ý chỉ của ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng là khá rõ ràng : cứ để cho ‘hai ông’ Son và Tuấn ăn tết nguyên đán Kỷ Hợi với gia đình lần cuối rồi mới bắt, theo đúng một tư tưởng mới nhen nhóm của ông Trọng : ‘chống tham nhũng phải nhân văn’.
Nhưng một dấu hỏi lớn vẫn chằn chặn là tại sao tại Hội nghị trung ương 9 vào tháng 12 năm 2018, ‘Tổng chủ’ lại không cách chức ủy viên trung ương của Trương Minh Tuấn mà chỉ làm động tác này đối với Nguyễn Bắc Son và một ‘chuột cống’ khác là Tất Thành Cang - khi đó giữ chức Phó bí thư thường trực thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và có nhiều dấu hiệu dính đậm tham nhũng trong hai vụ khu đô thị mới Thủ Thiêm và Nhà Bè ?
Trọng thực hành ‘công bằng và đối ứng’ hay sự biến khác ?
Từ giữa năm 2018 và đặc biệt sau vụ Trương Minh Tuấn bị mất chức bí thư ban cán sự đảng bộ thông tin và truyền thông cho đến thời điểm diễn ra Hội nghị trung ương 9, đã ồn ào tin tức về khả năng Tuấn sẽ bị bắt. Tuy nhiên sau đó bầu không khí hăm hở này lắng dần theo thời gian, chỉ còn loáng thoáng một ít tin tức ngoài lề về việc Son và Tuấn bị giám sát, câu lưu và hàng ngày phải ‘phục vụ ‘ cơ quan điều tra. Cũng có tin cho rằng cả Son và Tuấn đều ‘thoát’, hoặc Son bị bắt nhưng Tuấn vẫn được cho ‘hạ cánh an toàn’.
Trong năm 2018, Trương Minh Tuấn đã thoát hiểm đến hai lần. Đặc biệt lần thoát hiểm thứ hai của Tuấn trùng với thời điểm cơ quan điều tra Bộ Công an ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam, khám xét đối với Lê Nam Trà - cựu Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty MobiFone và Phạm Đình Trọng - Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp Bộ Thông tin và truyền thông vào ngày 10/0/2018. Vào lúc đó, đã không hiện ra cái tên Trương Minh Tuấn trong danh sách khởi tố bắt giam.
Nhưng hiện tượng Trương Minh Tuấn và Nguyễn Bắc Son ‘thoát’ mà chỉ có Lê Nam Trà và Phạm Đình Trọng bị khởi tố và bắt giam đã khiến dậy lên dư luận xã hội, giới cách mạng lão thành, cựu chiến binh và cả dư luận trong nội bộ đảng cho rằng Trà và Trọng chỉ là kẻ thừa hành, trong khi cựu bộ trưởng thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Son mới là kẻ chủ mưu, cùng một kẻ chủ mưu khác và thừa hành đắc lực là Trương Minh Tuấn thì vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, cho dù cả Son và Tuấn đã bị Ủy ban Kiểm tra trung ương kết luận vi phạm là ‘rất nghiêm trọng’.
Khi đó, cũng có nhiều dư luận cho rằng tình cảm ưu ái của Nguyễn Phú Trọng dành cho Trương Minh Tuấn là khá rõ, khác hẳn với trường hợp Đinh La Thăng.
Vậy phải chăng từ sau Hội nghị trung ương 9 đến nay đã xảy ra những động thái đủ lớn trong nội bộ mà đã khiến Trương Minh Tuấn cuối cùng đã không thể ‘thoát’ ?
Cho tới giờ thì đã rõ : dù được gấp rút và đặc cách chỉ định ngồi vào ghế Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương khi âm mưu ăn cắp tiền ‘MobiFone mua AVG’ còn chưa hoàn tất cái bi kịch lịch sử của nó, số phận của Trương Minh Tuấn không chỉ phụ thuộc vào ý chỉ của Nguyễn Phú Trọng mà vẫn rất bấp bênh.
Một yếu tố tâm lý quan trọng cần xét đến là sự thay đổi bất thường trong quan điểm Nguyễn Phú Trọng, trong trường hợp ông Trọng bị những cựu thần và tướng lĩnh lão thành - giới mà ông Trọng dành cho nhiều tình cảm về ý chủ nghĩa ý thức hệ cộng sản và nhiệm vụ bảo vệ đảng và do đó thường tham khảo ý kiến - chỉ trích nặng nề vì đã không xử nghiêm Trương Minh Tuấn để công bằng với các vụ xử ‘phe Nguyễn Tấn Dũng’, vô hình trung sẽ khiến ‘uy tín của tổng bí thư bị ảnh hưởng’, chưa kể ước mơ tái hiện hình ảnh cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với ‘Đổi Mới’ ba chục năm về trước và ‘lưu truyền sử xanh’ của Nguyễn Phú Trọng trong tương lai có thể bị tan vỡ như bong bóng xà phòng.
Vụ hai cựu bộ trưởng thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Son và đặc biệt là Trương Minh Tuấn bị tống giam vào cuối tháng 2 năm 2019 chỉ xảy ra ít ngày trước cuộc gặp thượng đỉnh Donald Trump - Kim Jong-un tại Hà Nội.
Nếu quả thật Nguyễn Phú Trọng muốn xử Son và Tuấn như một liệu pháp công bằng giữa ‘củi nhà’ với ‘củi rừng’, sẽ có một điểm tương ứng giữa ông ta với Donald Trump : vào đầu năm 2017 và chỉ vài tháng sau khi nhậm chức tổng thống nước Mỹ, Trump đã liệt kê Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia ‘gây hại’ cho Mỹ, trong đó Việt Nam đứng thứ 6 trong số các nước đầu bảng khiến Mỹ phải nhập siêu nặng nề. Không bao lâu sau đó, Trump đã đề ra nguyên tắc ‘công bằng và đối ứng’ đối với hàng hóa Việt Nam, nghĩa là bắt buộc Việt Nam phải giảm giá trị xất siêu hàng năm vào Mỹ và phải nhập khẩu nhiều hơn hàng hóa từ Mỹ.
Phải chăng Nguyễn Phú Trọng cũng đang thực hành nguyên tắc ‘công bằng và đối ứng’, có qua có lại đầy đủ giữa ‘phe ta’ và ‘phe đối phương’ ?
Nếu đúng thế, vụ tống giam hai người được xem là là ‘phe ta’ - Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn - đang phát đi thông điệp rằng ‘Minh quân’ có thể sẽ không nương tay với ‘củi rừng’ - chẳng hạn như nhóm lợi ích Lê Thanh Hải, Lê Hoàng Quân, Tất Thành Cang… và có thể còn ‘máu lửa’ hơn nữa trong năm 2019 này.
Nhưng cũng còn một dấu hỏi khác : vụ bắt Son - Tuấn xảy ra khi Nguyễn Phú Trọng có một chuyến công du đến Campuchia và Lào, tức có thể ông Trọng không hẳn là người trực tiếp chỉ đạo đối với vụ bắt bớ này, thậm chí ông ta ‘không biết’. Nếu giả thiết này là đúng, dù chỉ với xác suất nhỏ, chóp bu nào mới là người ra lệnh bắt Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn ? Liệu có xảy ra một sự biến gì trong nội bộ giới lãnh đạo cấp cao ở Việt Nam khi Trọng vắng mặt ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 26/02/2019
"Chưa bao giờ thấy báo chí và mấy ông nhà nước chửi Trung Quốc ác liệt như thế ! Có chuyện gì vậy ?" – một người dân ngơ ngác. Một số người dân khác xì xầm lo ngại "Sắp chiến tranh à ?"
Bảng gỗ khắc ghi tội ác của quân Trung Quốc ở bản Tổng Chúp (xã Hưng Đạo). (Hình : Vietnamnet)
Sắp chiến tranh à ?
Vào mùa Xuân năm 2019, một trong những lần hiếm hoi kể từ cuộc chiến tranh biên giới 1979, một chiến dịch tố cáo "giặc Trung Quốc xâm lược Việt Nam" đã được tổ chức ầm ĩ bất thường trên mặt báo chí nhà nước, được bật đèn xanh bởi Ban Tuyên giáo trung ương – cơ quan mà hẳn phải nhận được cái gật đầu mạnh mẽ bất thường không kém bởi Bộ Chính trị, đặc biệt là giới tướng lĩnh trong Bộ Quốc Phòng và có thể cả "Tổng chủ" Nguyễn Phú Trọng.
Không còn như những ẩn dụ về "tàu lạ", "nước lạ" mà vẫn còn được quán triệt từ cấp trung ương đến từng tờ báo từ năm 2018 trở về trước, vào lần này giới truyền thông nhà nước không chỉ gọi thẳng tên Trung Quốc mà còn dùng nhiều động từ và tính từ mạnh mẽ để tố cáo cuộc xâm lược "đốt hết, phá hết, giết hết" của hơn 60 vạn quân Đặng Tiểu Bình, cứ như thể quân dân cả nước đang sống lại bầu không khí chiến tranh biên giới bốn chục năm về trước.
Cái gì đã xảy ra, xảy ra đến mức đột biến mà đã khiến não trạng và quan điểm về quan hệ Việt – Trung đột ngột biến động đến thế ?
Chiến dịch truyền thông tố cáo đầy giận dữ ấy đã khiến cho giới quan sát chính trị quốc tế ngạc nhiên thật sự. Một số phóng viên quốc tế và thường trú tại Việt Nam đang cố gắng tìm hiểu xem điều gì đã thực sự xảy ra trong Bộ Chính trị ở Hà Nội.
"Tôi rất bất ngờ khi đọc báo. Chưa bao giờ thấy báo chí và mấy ông nhà nước chửi Trung Quốc ác liệt như thế ! Có chuyện gì vậy ?" – một người dân ngơ ngác. Một số người dân khác xì xầm lo ngại "Sắp chiến tranh à ?".
Không chỉ dân chúng mà cả nhiều quan chức bậc trung và thấp ở các tỉnh thành cũng ngạc nhiên một cách lo lắng về trạng thái "lên đồng" của giới tuyên giáo và báo chí nhà nước khi lên án Trung Quốc. Người ta lập tức nhớ lại một sự kiện lạ lùng xảy ra vào tháng Mười Hai năm 2018 : những ngư dân Phú Yên đã phát hiện ra một quả ngư lôi lớn trôi dạt vào bờ biển với những đặc điểm mà chỉ có thể của hải quân Trung Quốc. Dù sau đó khi các chuyên gia của Bộ Quốc Phòng Việt Nam tìm cách trấn an rằng "đó chỉ là ngư lôi giả để tập trận", chẳng có mấy người dân tin tưởng vào cung cách á khẩu như thế. Khả năng hải quân Trung Quốc tổ chức một cuộc tập trận đột kích Việt Nam và hoặc vô tình hoặc cố ý để tuột ra những quả ngư lôi hướng về phía bờ biển Việt Nam là hoàn toàn có thể xảy ra.
Ngư dân ở Phú Yên, và còn ở nhiều vùng biển khác như Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Nam… luôn là nạn nhân xấu số của những đợt tấn công liên hồi và tàn bạo từ các tàu hải cảnh và tàu cá được bọc sắt của Trung Quốc. Một thống kê của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vào năm 2016 cho biết có đến vài ba ngàn ngư dân đã trở thành nạn nhân của các vụ đâm va và bắn giết từ phía Trung Quốc trong những năn trước. Nhưng số lượng nạn nhân trong thực tế còn có thể cao hơn. Song về phía Việt Nam, lại có một thực tồn không kém tàn nhẫn : hầu hết những vụ đâm va và bắn giết của Trung Quốc đã không được các lực lượng biên phòng và cảnh sát biển điều tra hoặc điều tra đến nơi đến chốn ; hầu hết những vụ ngư dân Việt bị bắn chết đều chìm xuồng trong khi toàn bộ Bộ Chính trị Việt Nam gần như không dám mở miệng.
Vậy làm sao lại có một chiến dịch truyền thông ầm ĩ tố cáo "giặc Trung Quốc xâm lược" vào đầu năm 2019 ?
"Cho lu loa mới được quyền lu loa"
Để "kỷ niệm 40 năm chiến tranh biên giới phía Bắc ?". Nhưng nếu ý nghĩa này là đúng, tại sao đã không hiện ra những lời tố cáo mạnh mẽ tương tự vào những đợt kỷ niệm 30 năm và 20 năm chiến tranh biên giới ?
Hay Nhà nước Việt Nam đang muốn chứng tỏ với người dân rằng đó không phải là một nhà nước "thân Trung", không phải là một chế độ "hèn với giặc, ác với dân" như lời tố cáo của rất nhiều người dân và giới bất đồng chính kiến ?
Nhưng nếu thái độ chứng tỏ trên là có thực, làm thế nào nào để giải thích việc chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo cho xe cẩu cái lư hương trước tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo ở trung tâm Sài Gòn đi giấu ở chỗ khác – như một trong nhiều cách ngăn chặn thô bạo những trí thức và người dân đến đó thắp nhang tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc, hành động của một chính quyền cùng những quan chức điều hành nó mà chỉ có thể bị xem là hạ đẳng, ti tiện và dưới đáy văn hóa, xứng đáng bị lịch sử nguyền rủa đến muôn đời ?
Thực ra cho đến tận giờ này, chẳng có gì bảo chứng cho thái độ "thành tâm" hay tiết giảm chí khí "hèn với giặc, ác với dân" của chính quyền, cho dù có thể đến một lúc nào đó cái chính quyền đó sẽ buộc phải hồi tâm thật sự theo cách mà nếu không làm như thế thì nó sẽ bị tiêu diệt bởi dân chúng.
Báo mạng VnExpress nhân kỷ niệm 40 năm chiến tranh biên giới chống bọn Trung Quốc xâm lược. (Hình : Chụp lại từ màn hình VnExpress)
Tình trạng quá trống vắng tính bảo chứng như thế lại một lần nữa xảy ra trong sự kiện "kỷ niệm 40 năm chiến tranh biên giới phía Bắc" : Sau ít ngày được "cho mở mồm mới mở mồm, cho lu loa mới được quyền lu loa", báo chí nhà nước bất chợt lắng hẳn mà không còn ồ ạt công kích "giặc Trung Quốc". Thay vào đó, thậm chí có tờ báo còn sáng tác ra từ "đối phương" để chỉ quân Trung Quốc tấn công các tỉnh phía Bắc vào năm 1979. Nghe nói cũng là một bàn tay "cho sủa mới được sủa" của Ban Tuyên giáo trung ương, sau khi gặp phản ứng bởi đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội chạy đôn đáo các cơ quan để vừa chỉ trích vừa răn đe đối với chủ trương lên án "giặc Trung Quốc".
Thói tuyên truyền đầu voi đuôi chuột như trên khiến người ta lập tức liên tưởng với một sự kiện vừa được mở miệng đã phải câm miệng lại có lẽ chỉ tồn tại trong đời sống chính trị và nhung nhúc tham nhũng ở Việt Nam : nếu trong tuần đầu tiên của tháng Năm năm 2018 báo chí nhà nước được thả phanh đăng tin bài về vụ khiếu kiện ở khu đô thị mới Thủ Thiêm, cùng tiếng nức nở tràn ngập trên các diễn đàn về hoàn cảnh dân oan Thủ Thiêm màn trời chiếu đất và không tấc đất cắm dùi, thì sang tuần sau đó và như một hội chứng kỳ lạ – toàn bộ báo chí nhà nước thình lình câm bặt như thể bị ai đó bóp họng.
Sự thể trớ trêu và cay đắng tận cùng là trong khi giới quan chức Việt Nam bóp họng dân chúng thì chính những quan chức này lại bị Bắc Kinh tìm cách cắt cổ.
Đàm phán "hợp tác khai thác khai khí" đã thất bại ?
Gần một năm trước khi quả ngư lôi Trung Quốc hiện hình ở Phú Yên, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã đến Hà Nội với một đề nghị không tiền khóng hậu và hàm ý như một tối hậu thư : Việt Nam phải cho Trung Quốc "hợp tác khai thác dầu khí" ở Biển Đông.
Khi đó, Việt Nam vừa trải qua một năm 2017 chấn động tâm thần đến mức hình như đứt hẳn dây thần kinh nói : với cái cớ "đường lưỡi bò" được vẽ lại quét qua hầu hết các mỏ dầu của Việt Nam ở Biển Đông, Trung Quốc đã cho đến vài trăm tàu vây bọc mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ – dự án liên doanh giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và một hãng dầu khí của Tây Ban Nha là Repsol. Kết quả là Repsol đã phải bỏ của chạy lấy người, còn mỏ Cá Rồng Đỏ thì bị Trung Quốc gây sức ép một lần nữa vào tháng Ba năm 2018 nên phải đình trệ hoàn toàn việc khai thác cho đến nay.
Không những thế, Trung Quốc còn gây sức ép ở mỏ Lan Đỏ và Cá Voi Xanh mà đã khiến Bộ Chính trị Việt Nam mất ăn ngay trên "vùng biển chủ quyền không tranh cãi" của mình.
Rất có thể trong năm 2018 đã diễn ra một số cuộc đàm phán Trung – Việt liên quan đến yêu cầu "hợp tác khai thác dầu khí" của Vương Nghị mà phía sau đó là Tập Cận Bình. Trong khi không có bất cứ tin tức nào lộ ra trên mặt báo nhà nước Việt Nam, vài tờ báo thân đảng và cực đoan ở Trung Quốc tỏ ra hằn học vì Trung Quốc không có phần ở những mỏ dầu mà Việt Nam đang khai thác ở Biển Đông. Sau đó và rất có thể, quá trình đàm phán giữa hai "đảng cộng sản anh em" về tỷ lệ chia bôi dầu khí đã thất bại.
Nếu Trung Quốc đã từng áp đặt đề nghị với Philippines cũng về "hợp tác khai thác dầu khí" trên vùng biển Phi nhưng tỷ lệ mà Bắc Kinh được hưởng lên đến 50 – 60%, nghĩa là Trung Quốc xông vào nhà người khác như một tên cướp đòi chủ nhà phải chia tài sản cho hắn, thì có thể Bắc Kinh cũng dùng đúng cái cách đó để triệt đường sống của "đảng và nhà nước ta".
Hạ nhục
Tâm thế của giới chóp bu Việt Nam hiện thời là quá bĩ cực. Giờ thì chẳng còn gì để nhượng bộ như những năm trước, nhất là khi dầu khí là nguồn tài nguyên gần như cuối cùng để hô hấp đảng được ngày nào hay ngày nấy, còn quả ngư lôi Trung Quốc đã chình ình ở biển Phú Yên như một cú vỗ mặt và hạ nhục quân đội Việt Nam.
Vào năm 2014, chính quyền Việt Nam đã từng bị Trung Quốc hạ nhục đến mức không ngóc đầu lên được. Sau vụ giàn khoan HD 981 của Trung Quốc lao vào Biển Đông như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam, đã xuất hiện những dư luận về việc Tổng bí thư Trọng đã tìm cách liên lạc với Tập Cận Bình để xoa dịu tình hình, nhưng họ Tập vênh mặt không thèm nghe điện thoại dù phía Việt Nam đã gọi qua Bắc Kinh đến hai chục lần.
Với tính khí đặc thù sĩ diện và xem nặng thể diện của Nguyễn Phú Trọng, lối hạ nhục trên quả là khó tiêu hóa. Rất có thể trong tình thế "con giun xéo lắm cũng quằn", ông Trọng cùng Bộ Chính trị của ông ta đã phải tìm cách phản ứng truyền thông nhân dịp "kỷ niệm 40 năm chiến tranh biên giới phía Bắc" như một lối trả đũa giận dỗi, nửa vời và "vừa chửi vừa run".
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 24/02/2019
Sau khi vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ xảy ra được hai tuần và từ đó đến nay, đã hiện ra những dấu hiệu mà qua đó có thể gián tiếp xác nhận chính quyền Việt Nam liên đới vụ này.
Trương Duy Nhất trong một cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do, 31 tháng Năm, 2016. (Hình : RFA Vietnamese)
Thanh minh cho ‘đảng ta’
"Đi tìm chân dung Trương Duy Nhất, kẻ cơ hội !" là tựa đề loạt bài viết của tác giả Hồng Hà gửi cho một số trang mạng xã hội. Trong bài viết này, tác giả tập trung mổ xẻ mối quan hệ giữa Trương Duy Nhất và Vũ ‘Nhôm’, cùng hoạt động của ông Nhất thời còn là đại diện thường trú của báo Đại Đoàn Kết tại Đà Nẵng và yếu tố phe phái chính trị của Trương Duy Nhất, đặc biệt nhấn mạnh ông Nhất là ‘đệ’ của bí thư thành ủy thời đó là Nguyễn Bá Thanh.
Cùng thời điểm bài viết của Hồng Hà, đã lan truyền một luồng dư luận cho rằng Trương Duy Nhất ‘dính’ với ông Đinh Đức Lập - cựu tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết và Vũ ‘Nhôm’ trong vụ Vũ ‘Nhôm’ ‘gom’ đất vàng từ trụ sở của tờ báo này, và sau tết nguyên đán 2019 sẽ có một chiến dịch bắt bớ đối với ‘một số nhà báo lớn’. Không có nhiều dấu hiệu cho thấy luồng dư luận này là do suy đoán hay được khẳng định bởi mạng xã hội, trong khi khá nhiều ý kiến lại cho rằng luồng dư luận này - với khá nhiều chi tiết cụ thể và mang tính điều tra về mối quan hệ Trương Duy Nhất - Vũ ‘Nhôm’- hẳn phải xuất phát từ nội bộ đảng ; và thậm chí, đây là một luồng dư luận được cố ý tung ra vào thời điểm này, khi Trương Duy Nhất ‘mất tích’, nhấn mạnh việc ông Nhất nếu có bị bắt thì cũng chẳng có gì oan sai bởi Nhất bị liên đới trách nhiệm hình sự trong vụ án Vũ ‘Nhôm’.
Cách đặt vấn đề, dẫn dắt của tác giả Hồng Hà là khá giống với nhiều bài viết của những tác giả được xem là dư luận viên phe ‘lề đảng’ và phe ‘Ba X’ về chủ đề nội bộ và đấu đá nội bộ, được đăng tải trên một số trang mạng xã hội mà không phải là báo nhà nước. Và cũng như một số tác giả ‘nội bộ’ khác, Hồng Hà rất có thể chỉ là một bút danh của một người muốn ẩn danh, muốn lợi dụng mạng xã hội để dư luận được ‘rộng đường tham khảo’, hoặc thực tế hơn muốn hướng lái dư luận vào tính ‘chính nghĩa’ của một phe cánh chính trị nào đó nhằm triệt cho được một phe khác trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam.
Bài "Đi tìm chân dung Trương Duy Nhất, kẻ cơ hội !" của tác giả Hồng Hà là có thể đoán trước được, và đó là một bài viết - như một dấu hiệu - cần được chờ đợi xuất hiện. Bởi đơn giản là nếu chính quyền Việt Nam không dính líu đến vụ Trương Duy Nhất - có thể bị ‘mất tích’ hoặc bị bắt cóc tại Bangkok hay ở một nơi nào đó ngoài biên giới Việt Nam, đã chẳng hiện ra bài viết nào của tác giả Hồng Hà nhằm thanh minh cho ‘đảng ta’ như một loại phản ứng nhanh nằm trong chủ trương ‘chủ động thông tin đối ngoại’, mà hẳn là Bộ Chính trị đảng cùng các cơ quan giúp việc cho nó đã ‘rút kinh nghiệm sâu sắc’ từ vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’ ở Berlin vào tháng 7 năm 2017, để làm sao trong lúc vẫn giữ được quan điểm ‘hy sinh đối ngoại để xử lý đối nội’ thì vẫn làm cho ‘uy tín Việt Nam không ngừng nâng cao trên trường quốc tế’.
Nhưng tàn tích thời ‘hậu Quang’
Cho tới nay, Thượng tá tình báo công an Phan Văn Anh Vũ vẫn chưa đi hết ‘mười tám tầng địa ngục’. Những phiên tòa nối tiếp nhau được mở ra, với những mối dính líu mới về tham nhũng và những tội danh mới vẫn tiếp tục bắt ‘của thiên trả địa’ đối với đại gia từng làm mưa làm gió dải đất miền Trung và cả Sài Gòn.
Những ‘tầng địa ngục’ mới, sâu thẳm hơn và thể hiện ‘tình đồng chí’ ở mức độ thê thảm hơn, tiếp tục hiện ra sau khi một quan chức cao cấp được đồn đoán là ‘chú của Trần Đại Vũ’ (hàm ý Vũ ‘Nhôm’) là Chủ tịch nước Trần Đại Quang bị đột tử đầy nghi vấn vào tháng 9 năm 2018. Ít tháng sau, hai viên tướng thứ trưởng Bộ Công an có dính líu tới Vũ ‘Nhôm’ là Bùi Văn Thành và Trần Việt Tân đều phải ra tòa, tuy mức án bị dư luận xem là ‘nhẹ hều’ và khiến cho cái gọi là ‘cán cân công lý xã hội chủ nghĩa’ càng thêm sụp gãy.
Nhưng Bùi Văn Thành và Trần Việt Tân có phải là những cái đuôi cuối cùng thời ‘hậu Quang’ bị chiến dịch hồi tố của Nguyễn Phú Trọng chặt đứt ? Liệu sau đó còn những kẻ nào khác ?
Cái gì đã được dự đoán thì đã và sẽ xảy ra trong một sớm một chiều. Cái thực tế tàn nhẫn ‘cá lớn nuốt cá bé’ hay trần trụi hơn nữa là ‘đánh rắn phải đánh dập đầu’ - như chính một số cảm tình viên của Nguyễn Phú Trọng đã từng hô hào thẳng tuột và hiếu thắng như thế - đã và sẽ còn xảy ra với ‘phe cánh chính trị’ của kẻ đã trở thành người thiên cổ. Không chỉ ‘thay máu’ Bộ Công an bằng đề án ‘tái cơ cấu’ vào đầu năm 2018, trong đó xóa bỏ toàn bộ các tổng cục của bộ này trong khi vẫn giữ nguyên các tổng cục của Bộ Quốc phòng, chẳng có gì chắc chắn là tân chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ không chặt nốt những cái đuôi còn lại của một thời ăn uống xả láng, lộng hành và kiêu binh.
Trong khi đó, xảy ra vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’…
Cứ nhìn vào cái cách mà blogger Người Buôn Gió đột nhiên sôi sục và còn có vẻ như hằn học trên diễn đàn mạng xã hội với hàng loại bài viết về vụ Trương Duy Nhất, có thể hình dung ra vụ việc này không hề đơn giản như cái cách mà một số dư luận ‘định hướng’ rằng Trương Duy Nhất có thể bị áp vào tội danh kinh tế trong vụ án Vũ ‘Nhôm’.
Mà phải là cái gì đó lớn hơn thế, hơn nhiều hoặc hơn thế rất nhiều.
Một bí mật ghê gớm ?
Đang xuất hiện những nghi ngờ về việc Trương Duy Nhất, nếu quả thực bị bắt cóc bởi Tổng cục 2 (tình báo quân đội) như một cáo buộc (chưa được kiểm chứng) của Người Buôn Gió, thì rất khó có thể chỉ do việc ông Nhất nắm giữ những bí mật kinh doanh của Vũ ‘Nhôm’ mà bị bắc cóc, bởi cơ quan điều tra Việt Nam sau khi bắt được Vũ ‘Nhôm’ đã khai thác tình báo viên này đến mức khó mà còn bí mật nào.
Mà hẳn Trương Duy Nhất phải nắm giữ một bí mật ghê gớm nào đó và đụng chạm đến quyền lực chính trị hoặc lợi ích kinh tế của một phe cánh chính trị nào đó trong đảng, cái bí mật mà nếu Trương Duy Nhất tung ra công khai thì có thể giết chết tươi một số quan chức nào đó… Và suy cho cùng, đó phải là một bí mật mang tính sinh tử khiến cho nhóm quan chức này phải một lần nữa, bất chấp vụ bắc cóc Trịnh Xuân Thanh mà đã gây ra cơn địa chấn an ninh - tình báo và kéo theo cuộc khủng hoảng ngoại giao lan rộng từ Đức sang Slovakia và cả một phần khối Liên minh châu Âu, ‘liều mình như chẳng có’ để tổ chức thêm một vụ bắt cóc nữa, lần này trên đất Thái.
Bí mật ghê gớm đó, nếu có, là gì ?
Cần nhắc lại, lệnh truy nã đầu tiên của Bộ Công an đối với Vũ ‘Nhôm’ vào cuối tháng 12 năm 2017 không phải là tội danh kinh tế, mà ‘cố ý làm lộ tài liệu bí mật nhà nước’.
Có một lối suy đoán, hoặc có thể được hiểu như lối dẫn dắt rất thiếu thuyết phục của blogger Người Buôn Gió : trong loạt bài viết của mình, blogger này cho rằng sở dĩ Thủ tướng Phúc phải chỉ đạo cho Tổng cục 2 cử hẳn một đội đặc nhiệm 10 người sang Thái Lan để bắt cóc Trương Duy Nhất là do Nhất nắm được những vụ bê bối của Nguyễn Xuân Phúc vào thời ông Phúc còn làm việc ở tỉnh Quảng Nam. Vì nếu quả thực vào thời đó mà Nguyễn Xuân Phúc ‘có vấn đề’, thì mức độ bê bối của nó chẳng ăn thua gì so với rất nhiều dư luận đồn đãi về tai tiếng của ông Phúc khi ông ta là phó thủ tướng và từ sau đó đến nay trở thành thủ tướng.
Dường như cả Người Buôn Gió, tác giả Hồng Hà và một luồng dư luận cho rằng Trương Duy Nhất ‘dính’ Vũ ‘Nhôm’ đều chủ ý né tránh cái bí mật ghê gớm mà có thể đã khiến Trương Duy Nhất phải ‘mất tích’ ở Bangkok.
Ba tuần sau vụ ông Nhất bị mất tích ở Bangkok, bắt đầu xuất hiện vài tin tức mơ hồ về ‘Trương Duy Nhất đã có mặt ở Việt Nam’, nhưng không phải từ các cơ quan ‘có trách nhiệm’ hay báo chí của Việt Nam, mà chỉ từ những facebooker ‘lề đảng’ và có mối quan hệ gần gũi với công an.
Vụ Trương Duy Nhất cũng vì thế đã không còn mang phạm vi cá nhân của blogger này mà đang trở nên ‘quốc tế hóa’ - theo nghĩa đen và theo cả nghĩa bóng, tức đang lôi kéo sự tham gia và xung đột của ít nhất hai phe phái trong nội bộ đảng, chẳng khác gì hậu vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Nguồn tin hay gián điệp ?
Sau cáo buộc của Người Buôn Gió về ‘Tổng cục 2 bắt cóc Trương Duy Nhất’, người ta vẫn đang chờ đợi blogger này có trưng ra được bằng chứng nào đủ sức thuyết phục hay không.
Trong khi đó, phe ‘bảo vệ đảng’ cũng đang ráo riết công bố thông tin và dẫn dắt dư luận về mối quan hệ tay ba Vũ ‘Nhôm’ - Người Buôn Gió - Trương Duy Nhất, và rằng Người Buôn Gió thực chất là người thuộc về một phe cánh trong nội bộ đảng…
Không phải chỉ vào lúc này mà trước đây nhiều tháng, hẳn phe ‘bảo vệ đảng’ đã rất muốn truy xét một chủ đề cực kỳ nhạy cảm : nguồn tin. Hay còn mang một khái niệm khác : gián điệp.
Với quá nhiều thông tin cực mật của nội bộ giới quan chức, cộng thêm cách mô tả chi tiết về cuộc bắt cóc Trương Duy Nhất của Tổng cục 2 cứ như thể người trong ruột của Người Buôn Gió, không chỉ phe ‘bảo vệ đảng’ mà rất nhiều người khác đã tò mò về việc Người Buôn Gió, nếu không phải bởi trí tưởng tượng quá sức phong phú, lấy đâu ra những tin tức đó ?
Bức tranh một vụ án ‘truy bắt gián điệp nội bộ’ đang dần hiện hình trên bình diện ‘an ninh quốc gia’ trong nội tình Đảng cộng sản Việt Nam…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 19/02/2019
Cơn sốt báo chí
Trong khi chính quyền Việt Nam vẫn cố thủ trong lô cốt cấm khẩu sau quá nhiều đồn đoán về "Trương Duy Nhất bị tổng cục 2 bắt cóc" tại Thái Lan vào ngày 26 tháng Giêng, 2019, tình hình đang diễn biến không khác mấy diễn biến hậu vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh khi nhiều tờ báo quốc tế đang "tham chiến" vụ "Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok", tạo nên một làn sóng truyền thông xôn xao rộng lớn mà khiến chính quyền Thái Lan có thể phải điều tra một cách có trách nhiệm hơn chứ không thể qua loa hay "nể bạn Việt Nam" về vụ này.
Blogger Trương Duy Nhất trong phiên tòa xét xử tháng Ba, 2014 ở Đà Nẵng và bị kêu án hai năm tù vì các bài viết được cho là "chỉ trích chính quyền và lãnh đạo cộng sản". (Hình : Getty Images)
Một số tờ báo Thái Lan đang săn tìm thông tin về vụ Trương Duy Nhất mất tích, trong đó quan tâm đến "Trương Duy Nhất thực chất là người thế nào". Một số phóng viên người Thái thậm chí đã nghi ngờ về việc ông Nhất đã bị mật vụ Việt Nam (công an hoặc quân đội) bắt cóc. Mối nghi ngờ này càng được củng cố khi đã có khá nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế như Ân Xá Quốc Tế, Theo Dõi Nhân Quyền, Phóng Viên Không Biên Giới, Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả và Liên Minh Báo Chí Đông Nam Á lên tiếng yêu cầu chính phủ Thái Lan phải làm rõ vụ Trương Duy Nhất mất tích ra sao, số phận của Nhất thế nào,… đồng thời những tổ chức này nhắc lại "bài học kinh nghiệm" từ vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc ở Đức. Trong khi đó, có tin cho biết nhà nước Đức rất quan tâm đến vụ Trương Duy Nhất vì vụ này có nhiều chi tiết giống với vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Báo Thái lại có thể dẫn đến sự cộng hưởng của giới truyền thông quốc tế, đặc biệt những tờ báo đã nắm rõ về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và cơn địa chấn phát sinh từ vụ này lan từ Đức sang một số quốc gia khác như Slovakia, Pháp, Czech, Nga…
Báo chí thời Trịnh Xuân Thanh
Vào năm 2017, một tuần sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc tại Berlin, Bộ Ngoại giao Đức đã ra thông báo phản đối Việt Nam một cách mạnh mẽ, sau đó là những tờ báo và truyền hình của Đức tham gia vào một chiến dịch mổ xẻ vụ bắt cóc này, kéo dài đến phiên tòa của Tòa Thượng Thẩm Berlin xử Nguyễn Hải Long – một mắt xích tham gia vào đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, và còn kéo dài đến gần cuối năm 2018.
Từ hai tờ báo TAZ, Frankfurter Allgemeine của Đức và sau này là Dennik N của Slovakia, một làn sóng tin tức vụ Trịnh Xuân Thanh đã lan ra khá nhiều tờ báo lớn trên thế giới và khiến cái tên Trịnh Xuân Thanh được đặc cách nằm trong từ điển bất thành văn về hồ sơ tình báo Châu Âu liên quan đến các vụ khủng bố và bắt cóc.
Rõ là từ sau vụ Trịnh Xuân Thanh, chính thể Việt Nam đã nổi tiếng tới mức khiến phần lớn, nếu không nói là tất cả, các nước trong Khối Liên Hiệp Châu Âu giương cao ngọn cờ cảnh giác với giới quan chức và công an Việt Nam, đồng thời khiến "uy tín Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế" (một cách tuyên rao không biết chán của Bộ Ngoại giao Việt Nam) lao dốc hơn bao giờ hết.
Nhưng cho tới nay, vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vẫn hầu như chưa được phía Việt Nam giải quyết với Đức, khiến cho mối quan hệ Đức-Việt vẫn đóng băng, quan hệ đối tác chiến lược giữa Đức và Việt Nam vẫn bị tạm ngừng, các chương trình viện trợ của Đức cho Việt Nam bị tạm hoãn và kéo theo rất nhiều khó khăn cho giới doanh nhân Việt Nam sang Đức làm ăn và với giới Việt kiều sinh sống tại Đức.
Công tâm mà nói, kể từ sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, phía Việt Nam đã có một số động tác làm êm dịu tình hình và lấy lòng các nước ở Châu Âu, đặc biệt là không thiếu hứa hẹn với người Đức mà vào một vài thời điểm đã tưởng như xoa dịu sự phẫn nộ của quốc tế. Tuy thế, chính những chiến dịch đàn áp nhân quyền liên tu bất tận và ngày càng khốc liệt tàn bạo của chính quyền Việt Nam đối với giới bất đồng chính kiến trong nước đã mang lại hiệu ứng ngược hoàn toàn : Liên Hiệp Châu Âu vốn dĩ hòa vi quý, đã phải thẳng tay hoãn vô thời hạn EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Châu Âu – Việt Nam) vào tháng Giêng, 2019, mà nguồn cơn sâu xa không nói ra chính là việc chính quyền Việt Nam đã chẳng hề làm bất cứ điều gì để cải thiện nhân quyền theo những đòi hỏi chi tiết của EU trong bản nghị quyết nhân quyền ban hành vào giữa tháng Mười Một, 2018.
Thái sẽ phải điều tra kỹ ?
Một năm rưỡi sau vụ nhà nước Đức tố cáo Trịnh Xuân Thanh bị mật vụ Việt Nam tổ chức bắt cóc ngay tại Berlin, vụ "Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok" – nổ ra vào những ngày giáp Tết Nguyên Đán năm 2019 – đang hứa hẹn sẽ trở thành một vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Nhưng cứ mỗi ngày trôi qua, vụ việc này lại dần biến thành "Trương Duy Nhất bị bắt cóc ở Bangkok".
Ngày 8 tháng Hai, 2019, Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia đầu tiên lên tiếng về vụ "Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok". "Chúng tôi biết các báo cáo về việc blogger Trương Duy Nhất của Đài Á Châu Tự Do bị mất tích ở Thái Lan. Chúng tôi đang theo dõi sát sao tình hình và hoan nghênh chính phủ Thái Lan điều tra về vụ mất tích của ông Nhất" – đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết khi nêu quan điểm về thông tin chính phủ Thái Lan mở cuộc điều tra mặc dù không có dữ liệu về việc ông Nhất đã nhập cảnh hợp pháp vào nước này.
Cho dù có thể không mấy quan tâm đến sức nặng đòi hỏi của các tổ chức nhân quyền quốc tế, nhưng chính phủ Thái Lan không thể bỏ qua lời yêu cầu của chính phủ Hoa Kỳ.
Một phiên tòa của Tòa Thượng Thẩm Berlin xử Nguyễn Hải Long (bìa trái), một mắt xích tham gia vào đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, vào cuối tháng Tư, 2018. (Hình : Getty Images)
Trước đó, một số dư luận lo ngại rằng chính quyền Thái Lan sẽ khó mà lên án chính quyền Việt Nam tổ chức bắt cóc người một cách bất hợp pháp trên đất Thái do một "thỏa thuận ngầm" nào đó (nếu có) giữa hai bên, cộng thêm mối quan hệ Việt-Thái được xem là "ngày càng tốt đẹp". Củng cố cho khả năng này là cách phát ngôn của lãnh đạo Cục Di Trú Thái Lan rằng họ đã không có hồ sơ về việc Trương Duy Nhất nhập cảnh vào Thái Lan – một vấn đề có thể được hiểu là ông Nhất đã vào đất Thái theo cách không hợp pháp và do vậy các cơ quan Thái có thể sẽ cho rằng họ không liên can đến vụ việc này.
Nhưng áp lực từ các tổ chức nhân quyền quốc tế và động thái "hoan nghênh" của Hoa Kỳ đang đặt chính phủ Thái vào một tình thế tế nhị và khó khăn : hoặc họ sẽ không điều tra gì cả hay chỉ làm cho có và sẽ phải hứng chịu búa rìu từ dư luận và những chính phủ dân chủ về một chế độ quân phiệt và thiếu tôn trọng tự do báo chí ở Thái Lan ; hoặc họ sẽ phải điều tra làm rõ Trương Duy Nhất mất tích như thế nào, vì sao mất tích, và liệu có đúng như nhiều dư luận là đã có một cuộc bắt cóc đối với Nhất hay không – đồng nghĩa với việc phải làm sáng tỏ thủ phạm của vụ bắt cóc này là ai hoặc cơ quan nào…
Trong khi đó, chính quyền Việt Nam vẫn giữ im lặng – một thái độ im lặng như thể cố tình và chây ì mà họ đã thể hiện sau khi bị nhà nước Đức cáo buộc mật vụ Việt Nam đã sang tận Berlin để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Bằng chứng gián tiếp đã lộ diện
Cho tới nay, dấu hiệu duy nhất cho thấy chính quyền Việt Nam "mở miệng" chỉ là một số bài viết của giới dư luận viên được tung ra, tập trung mổ xẻ mối quan hệ giữa Trương Duy Nhất với Vũ "Nhôm" và cả những hoạt động thuộc về "phe cánh chính trị" của ông Nhất – hàm ý rằng nếu trong thời gian tới Trương Duy Nhất có bị công an và tòa án truy tố và xử tù về tội danh kinh tế thì cũng chẳng có gì là oan sai, càng chẳng đáng để các tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng về ông Nhất.
Ba tuần sau vụ ông Nhất bị mất tích ở Bangkok, bắt đầu xuất hiện vài tin tức mơ hồ về "Trương Duy Nhất đã có mặt ở Việt Nam", nhưng không phải từ các cơ quan "có trách nhiệm" hay báo chí của Việt Nam, mà chỉ từ những facebooker "lề đảng" và có mối quan hệ gần gũi với công an.
Tuy thế, cái cách mà giới dư luận viên đặt vấn đề như trên lại khiến lộ ra một tín hiệu : nếu chính quyền Việt Nam không dính dáng gì đến vụ Trương Duy Nhất và không lo ngại phải chịu trách nhiệm về vụ này, nó sẽ chẳng bao giờ thèm quan tâm đến việc chỉ đạo dư luận viên viết bài bao biện, thanh minh và dọn đường dư luận cho đảng như thế. Nói cách khác, bắt đầu hiện ra những bằng chứng gián tiếp về việc Trương Duy Nhất có thể đã bị bắt (hoặc bắt cóc), đưa về Việt Nam và đang bị giam giữ ở một nơi nào đó.
Nếu mối nghi ngờ của báo chí và dư luận về Trương Duy Nhất bị bắt cóc được xác thực, người ta sẽ khó có thể tưởng tượng một "nhà nước bắt cóc" đã không rút được kinh nghiệm xương máu nào sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh mà vẫn "ăn vặt quen mồm".
Vào lúc này đây, dường như cuộc đời đang trở nên quá cám cảnh với giới chóp bu Việt Nam. Sau vụ Trịnh Xuân Thanh, hẳn Bộ Ngoại giao của Ủy Viên Bộ Chính Trị Phạm Bình Minh và cả Ban Tuyên giáo trung ương của Ủy viên bộ chính trị Võ Văn Thưởng đã "rút kinh nghiệm sâu sắc" để không còn phải làm cái việc "đổ vỏ" cho kẻ khác. Có lẽ sẽ quá miễn cưỡng để những cơ quan này chịu hé môi về vụ Trương Duy Nhất, theo đúng tinh thần "thân ai người đó lo, hồn ai người đó giữ" đang trở nên rất phổ cập trong tâm não giới chóp bu Việt Nam.
Phạm Chí Dũng
Lần đầu tiên trong lịch sử mối quan hệ Liên Hiệp Châu Âu (EU) với chính quyền Việt Nam nói chung và với giới xã hội dân sự độc lập - bao gồm những người đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam - nói riêng, một văn bản hành chính của Văn phòng Chủ tịch Hội đồng Châu Âu (cơ quan chính trị cao nhất EU) đã được gửi đến 17 tổ chức xã hội dân sự độc lập Việt Nam, phúc đáp bản kiến nghị ngày 18/1/2019 của khối xã hội dân sự độc lập về phản ứng tình trạng chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng và đề nghị hoãn phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA).
Trang đầu của lá thư thay mặt ông Donald Tusk gởi các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam. (Hình : Phạm Chí Dũng cung cấp)
Ủng hộ các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam
Văn bản trên mang số SGS19/001167, ký ngày 12 tháng 2 năm 2019 bởi một viên chức có trách nhiệm, truyền đạt ý kiến của Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Donald Tusk, trong đó nhấn mạnh : "Các vấn đề nhân quyền vẫn liên tục được EU nêu ra với Việt Nam, kể cả ở cấp cao nhất. Đối thoại Nhân quyền EU-Việt Nam tới đây cũng là một dịp để chúng tôi tiếp tục việc này, và sẽ đề cập đến khuôn khổ pháp lý của Việt Nam đối với quyền tự do biểu đạt, tự do hiệp hội, tự do tụ tập, tự do tôn giáo tín ngưỡng, và trường hợp của cá nhân những nhà hoạt động nhân quyền".
Chủ tịch Hội đồng Châu Âu cũng cho biết nhà nước Việt Nam "đã nhiều lần nhắc lại cam kết thúc đẩy tiến bộ nhanh chóng" trong lĩnh vực liên quan đến quyền lao động, và "EU chắc chắn sẽ theo dõi sát sao bất kỳ diễn tiến nào trong lĩnh vực này".
Cuối thư, Hội đồng Châu Âu xác quyết việc họ ủng hộ các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam tiếp tục nỗ lực đấu tranh để bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong nước.
Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Jean-Claude Juncker (phải), Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Donald Tusk (trái) và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị Cấp cao Á-Âu, Brussels. (Hình: AFP)
Văn bản của Văn phòng Chủ tịch Hội đồng Châu Âu gửi cho Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế và 17 tổ chức xã hội dân sự độc lập, trong đó có những tổ chức trong nước như Hội Bầu Bí Tương Thân, Hội Cựu Tù nhân Lương tâm, Hội Nhà báo Độc lập, Defend the Defenders, Văn phòng Công lý và Hòa bình, Luật Khoa tạp chí, Hội đồng Liên tôn và một số tổ chức tôn giáo khác.
Sự công nhận mặc nhiên
Nguyễn Anh Tuấn - một nhà hoạt động nhân quyền có nhiều kinh nghiệm quốc tế vận cho biết trước đây EU thường chỉ trả lời thư kiến nghị của những tổ chức xã hội dân sự bằng hình thức thư ghi nhận ý kiến và cám ơn. Nhưng văn bản của EU gửi các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam vào ngày 12/2/2019 là một trường hợp đặc biệt vì đó không phải là một bức thư cám ơn, mà là một công văn mang tính thông báo tình hình và thể hiện thái độ tôn trọng hơn hẳn với giới hoạt động nhân quyền ở Việt Nam. EU thường sử dụng văn bản hành chính để làm việc với các đối tác, và trong trường hợp này, đó là sự công nhận mặc nhiên của EU đối với vị thế chính trị - xã hội của các tổ chức xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam, bất chấp chính quyền Việt Nam chưa từng thừa nhận cũng như đã cố tình quên lãng quyền tự do lập hội được quy định bởi hiến pháp 1992.
Rõ ràng vào đầu năm 2019, vai trò và vị thế của giới tổ chức xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam đã vươn lên một tầm cao mới trong con mắt cộng đồng quốc tế.
Vào trung tuần tháng 1 năm 2019 khi Hội đồng Châu Âu chuẩn bị một cuộc họp để bỏ phiếu về khả năng có phê chuẩn EVFTA và sau đó trình cho Nghị viện Châu Âu hay không, một bản kiến nghị khẩn cấp của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế (Human Right Watch) cùng 17 tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài Việt Nam gửi đến Nghị viện Châu Âu, Hội đồng Châu Âu và các cơ quan liên quan, yêu cầu EU hoãn thông qua EVFTA vì chính quyền Việt Nam đã không làm bất cứ điều gì để cải thiện nhân quyền, và ‘nhân quyền trên hết’ - điều kiện cần của Nghị viện Châu Âu - cho tới nay đã hoàn toàn bị chính thể độc trị ở Việt Nam phớt lờ.
Ngay sau đó, cuộc họp của Hội đồng Châu Âu đã quyết định hoãn phê chuẩn EVFTA, tạo nên một cú số lớn đối với chính thể Việt Nam - giới chóp bu mà cho tới gần thời điểm đó vẫn tự tin với kết quả ‘EVFTA sẽ sớm được ký kết và phê chuẩn’ cùng một luồng dư luận trong nội bộ đảng về ‘Châu Âu cần Việt Nam hơn Việt Nam cần Châu Âu’, đặc biệt sau cuộc điều trần EVFTA tại Brussels của Bỉ vào tháng 10 năm 2018 mà sau đó Ủy ban Châu Âu đã chuẩn thuận EVFTA và gửi tờ trình cho Hội đồng Châu Âu để xem xét phê chuẩn, khiến Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng hệ thống tuyên giáo và báo đảng đồng ca về ‘thắng lợi EVFTA’.
Nhưng thái độ chủ quan thái quá đã phải trả giá. Những tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài Việt Nam - giới mà chính quyền luôn coi thường ‘chỉ có một nhúm người’ và hoàn toàn không phải là đối trọng chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam, đã làm nên một chiến thắng ngoạn mục nhưng được tích lũy bởi chiều sâu hệ thống : bản kiến nghị yêu cầu hoãn EVFTA đã có tác động đáng kể đến EU và dẫn đến quyết định hoãn EVFTA.
Thắng lợi này đã dẫn ra một định đề ‘sáng mắt sáng lòng’ đối với Đảng cộng sản Việt Nam : nếu ở trong nước, đảng có thể huy động hàng trăm ngàn công an để bóp nghẹt quyền làm người của người dân, đàn áp dã man các cuộc biểu tình và đình công, bắt bớ giới đấu tranh dân chủ nhân quyền, thì khi ra sân chơi quốc tế lại là một câu chuyện khác hẳn. Dù chỉ là ‘một nhúm người’, nhưng giới tổ chức xã hội dân sự với hành động đấu tranh cho quyền lợi của người dân lại có sức ảnh hưởng quốc tế và hiệu quả quốc tế vận cao hơn rất nhiều so với Bộ Ngoại giao và các tổ chức ‘cánh tay nối dài của đảng’ chỉ biết mị dân và dối trá về nhân quyền.
Quyết định hoãn EVFTA của Hội đồng Châu Âu là bằng chứng rõ ràng nhất cho tới nay về việc Liên Hiệp Châu Âu không còn đáng bị xem là yếu thế và nhu nhược trong con mắt của chính quyền Hà Nội, và quyết định này là sự tuân thủ một cách triệt để và kiên định tinh thần bản nghị quyết nhân quyền của Nghị viện Châu Âu ban hành vào tháng 11 năm 2018.
Quyết định hoãn EVFTA cũng là một cảnh báo gián tiếp đối với chính quyền Việt Nam : không chịu cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, thực chất và mang tính chứng minh được, sẽ chẳng có EVFTA nào tự động chui vào dạ dày của những kẻ chỉ biết ăn không biết làm.
Và nếu những kẻ đó vẫn chỉ biết ăn mà không biết làm, thậm chí quốc hội mới của Châu Âu sau tháng 5 năm 2019 cũng sẽ không tái xem xét hiệp định này cho những kẻ chỉ biết đàn áp đồng bào của mình.
Vận hành cơ chế tham vấn xã hội dân sự
Sau vụ EVFTA bị hoãn, có lẽ giới chóp bu Việt Nam đã phải nhìn nhận Xã hội dân sự không chỉ là một thực thể, mà còn là một thực thể không hề yếu ớt trong cuộc chiến nhân quyền với chính quyền.
Văn bản của EU thông báo tình hình nhân quyền - EVFTA cho các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam không những là một sự công nhận thực thể trên, mà còn là sự thể hiện công khai một phương châm và phương pháp làm việc của EU : nhấn mạnh vai trò tham vấn của các tổ chức xã hội dân sự như một quy định nằm trong khuôn khổ Hiệp định EVFTA mà phía Việt Nam đã ký. Không cần chờ đến khi EVFTA được triển khai (chưa biết khi nào), ngay vào lúc này đây EU đang vận hành cơ chế tham vấn ấy với tiêu chí ‘nhân quyền trên hết’.
Cơ chế vận hành mang tính hành chính và tôn trọng trên cũng có nghĩa là nếu trong thời gian tới EVFTA được ký kết, phê chuẩn, bỏ phiếu thông qua và đi vào triển khai, những cuộc họp của EU với các cơ quan của chính phủ Việt Nam về các dự án thành phần và tiểu thành phần trong hiệp định này sẽ có thể có mặt những tổ chức xã hội dân sự về lao động, môi trường và nhân quyền - như một yếu tố thúc đẩy và đảm bảo tính minh bạch hóa các chương trình và dự án, gia tăng phản biện của cộng đồng và nhân dân và tăng cường tính hiệu quả của hiệp định để hạn chế đến mức tối thiểu hành vi lạm dụng, lợi dụng, lũng đoạn và tham nhũng của giới quan chức Việt Nam trong quá trình thực hiện Hiệp định EVFTA.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 15/02/2019
Không có gì là quá muộn để người Đức quên lãng vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh khi phía Việt Nam vẫn cho rằng còn quá sớm để trao trả nhân vật này cho Berlin.
Thủ tướng Đức, Angela Merkel.
Chưa có gì gọi là ‘đóng hồ sơ’
Tròn một năm rưỡi sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã một lần nữa đề cập đến vụ này trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Slovakia Peter Pellegrini, khi bà Merkel đến thăm và tham dự cuộc họp của nguyên thủ quốc gia của 4 nước Đông Âu là Hungary, Slovakia, Cộng hòa Czech và Ba Lan tại Bratislava - thủ đô Slovakia - vào tháng 1 năm 2019.
Thêm một dấu hiệu chẳng tốt lành gì, nếu không muốn nói là ‘rông nguyên năm’, cho Nguyễn Phú Trọng và bộ sậu Bộ Chính trị của ông ta.
Nếu trong cuộc gặp với Thủ tướng Đức Angela Merkel tại Berlin vào tháng 5 năm 2018, Thủ tướng Peter Pellegrini còn cười rất ngoại giao mà đã không trả lời thẳng câu hỏi của bà Merkel về dấu hỏi ‘Chính phủ Slovakia đã đóng vai trò gì trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh từ Berlin đưa về nước hồi mùa hè năm ngoái ?’, đồng thời mạnh miệng khẳng định với đám đông các nhà báo vây quanh là Chính phủ Slovakia không dính dáng gì đến vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, thì từ sau đó đến nay Peter Pellegrini đã không còn lảng tránh trách nhiệm của người đứng đầu một nội các mà có thể bị tan vỡ bởi cơn địa chấn bắt cóc đang quốc tế hóa với tốc độ tên lửa này.
Không chỉ Thủ tướng Peter Pellegrini mà cả Tổng thống Slovakia Andrej Kiska đã phải xuất hiện vào tháng 8 năm 2018 để làm dịu sóng phun trào của ngọn núi lửa mang tên ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’ chỉ chực chờ bùng tóe cả bầu trời xanh sẫm của đất nước Slovakia tươi đẹp, đặc biệt sau phản ứng quyết liệt từ các đảng đối lập ở Slovakia. Cáo buộc về sự dính líu của chính phủ Slovakia đã gây căng thẳng trong liên minh cầm quyền gồm ba đảng của nước này. Một đối tác phụ trong liên minh là Đảng Most-Hid thậm chí còn tuyên bố rằng họ sẽ không thể ở lại trong liên minh nếu tin tức mà báo chí loan tải được xác nhận là có thật.
Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung của Đức và báo Dennik N của Slovakia cùng ‘song kiếm hợp bích’ vào thời điểm tháng 8 năm 2018. Frankfurter Allgemeine Zeitung là tờ báo đã theo dõi và viết khá nhiều bài về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh từ nửa cuối năm 2017 đến nay, và vào năm 2018 đã tiết lộ thông tin Nhà nước Việt Nam sẽ trả lại Trịnh Xuân Thanh cho Đức để làm dịu khủng hoảng ngoại giao và cũng nhằm đạt được Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu (EVFTA) được Nghị viện Châu Âu thông qua sớm.
Khủng hoảng Slovakia - Việt đã chính thức bắt đầu vào năm 2018 và còn vượt trên khủng hoảng Đức - Việt một bậc : trong khủng hoảng Đức - Việt, các cơ quan tư pháp Đức chỉ làm rõ chứng cứ vụ bắt cóc đến Nguyễn Hải Long và một quan chức công an bậc trung là Đường Minh Hưng trong bối cảnh chuyến đi Đức của tướng Hưng là lén lút chứ không công khai và càng không chính thức, thì chuyến đi của Bộ trưởng công an Tô Lâm đến Slovakia ngay sau khi xảy ra vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức, cùng cuộc gặp chính thức của Tô Lâm với bộ trưởng nội vụ Slovakia khi đó là Robert Kaliňák đã xác nhận rằng Tô Lâm là một đại diện chính thức của Chính phủ Việt Nam, là tiền đề kéo theo mức độ xung đột ngoại giao giữa Slovakia và Việt Nam là xung đột cấp nhà nước.
‘Những người Châu Á’ là ai ?
"Thưa bà Thủ tướng ! Trong năm gần đây, người ta biết rằng một doanh nhân người Việt Nam bị bắt cóc tại Berlin. Sau đó cũng có sự tham gia của cơ quan chính phủ Slovakia vào vụ bắt cóc này. Bà nhận thấy như thế nào, liệu lòng tin và sự hợp tác giữa hai nước có bị ảnh hưởng hay không và bà đánh giá cuộc điều tra của Slovakia đã tiến triển làm sáng tỏ đầy đủ chưa ?" - phóng viên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung (FAZ), đặt câu hỏi.
"Vâng, chúng tôi đã bàn thảo ngắn về vấn đề này, vì tất nhiên chúng tôi quan tâm đến việc làm sáng tỏ vụ việc. Nhưng tôi không nghi ngờ gì về việc Slovakia đang làm tất cả những điều cần thiết để làm rõ vụ bắt cóc" - Thủ tướng Đức Merkel trả lời trong cuộc họp báo sau hội đàm giữa 2 nước Đức và Slovakia vào tháng 1 năm 2019.
Ngay sau khi báo chí Đức và Slovakia đăng tải loại bài điều tra về vụ ‘vận chuyển Trịnh Xuân Thanh’ ở sân bay Bratislava và bị đưa ra khỏi khu vực Schengen bằng bằng chuyên cơ của chính phủ Slovakia Chính phủ Slovakia đã chính thức mở cuộc điều tra về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh từ ngày 3/8/2018.
Theo Thoibao.de, hiện nay Tòa án Liên bang Đức vẫn đang thụ lý hồ sơ kháng nghị phúc thẩm của bị cáo Nguyễn Hải Long đã tiếp tay cho vụ bắt cóc. Dự kiến Tòa án Liên bang sẽ ra phán quyết cuối cùng trong ít tuần tới.
Điểm cần lưu ý là cuộc điều tra của Tổng Công tố Liên bang Đức cho đến nay vẫn chưa kết thúc, hiện nay vẫn đang tiếp tục tiến hành điều tra vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Về phía Slovakia cũng vậy, vẫn tiếp tục điều tra vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Công tố viên Sona Juřičková nói rằng, các thanh tra viên sẽ chỉ tập trung vào việc điều tra "những người Châu Á - mà có nhiều khả năng nhất là các công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam", tức những người đã đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi Berlin.
Những diễn biến liên đới
Không phải ngẫu nhiên mà Thủ tướng Đức Angela Merkel lại nhắc lại một cách công khai với báo chí về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh trong một hội nghị quốc tế hoàn toàn không liên quan gì đến vụ này.
Thông điệp tối thiểu mà bà Merkel muốn gửi đến chính quyền Việt Nam là người Đức vẫn kiên định nguyên tắc nhà nước pháp quyền và những đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng pháp luật Đức và trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức dù Thanh rất có thể là một quan chức tham nhũng, phải xin lỗi và cam kết không tái phạm, bất chấp phía Việt Nam đã tìm cách ‘câu giờ’ hoặc đánh bài lờ trong suốt một năm rưỡi qua.
Một thông điệp khác của bà Merkel mà có thể ngầm được hiểu là chiến dịch phối hợp giữa các cơ quan cảnh sát và công tố của Đức và Slovakia để điều tra vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc có thể đang đến hồi kết thúc, với những bằng chứng xác thực và đủ tính thuyết phục, để nếu Bộ Chính trị Việt Nam vẫn không chịu đáp ứng những đòi hỏi của Đức và Slovakia thì rất có thể sẽ là một cuộc họp báo liên quốc gia Đức - Slovakia để công bố những bằng chứng ấy cho toàn thế giới biết.
Cho tới nay, vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vẫn hầu như chưa được phía Việt Nam giải quyết với Đức, khiến cho mối quan hệ Đức - Việt vẫn đóng băng, quan hệ đối tác chiến lược giữa Đức và Việt Nam vẫn bị tạm ngừng, các chương trình viện trợ của Đức cho Việt Nam bị tạm hoãn và kéo theo rất nhiều khó khăn cho giới doanh nhân Việt Nam sang Đức làm ăn và với giới Việt kiều sinh sống tại Đức.
Trong khi đó, tương lai của những tháng tiếp tới trong quan hệ Slovakia - Việt Nam là cực kỳ khó đoán định. Sẽ không loại trừ khả năng do phải chịu áp lực từ dư luận đủ lớn tại Slovakia, từ Chính phủ Đức và từ giới báo chí quốc tế, phản ứng tối thiểu của Chính phủ Slovakia đối với Việt Nam sẽ là hạ cấp mối quan hệ ngoại giao và thương mại mà được xem là ‘tốt đẹp’ trước đây.
Trong một diễn biến khác, Bộ trưởng công an Việt Nam là Tô Lâm - nhân vật bị Đức và Slovakia nghi ngờ là đã dẫn đầu ‘đoàn đại biểu Việt Nam’ quá cảnh ở sân bay Bratislava để ‘vận chuyển’ Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam - đã được đích thân ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng thăng cấp hàm đại tướng vào tháng Giêng năm 2019.
Cũng vào tháng Giêng năm 2019 lại nổ ra một vụ việc mà đang được dư luận đánh giá là có thể phát triển thành vụ ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’ : một blogger được xem là bất đồng chính kiến - ông Trương Duy Nhất - khi đang làm thủ tục tị nạn chính trị tại Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Bangkok, đã bị mất tích. Ngay sau đó đã bùng nổ nhiều đồn đoán về khả năng blogger này đã bị một cơ quan an ninh (công an hoặc quân đội) của Việt Nam tổ chức bắt cóc ngay trên đất Thái. Đồng thời, có tin cho biết Nhà nước Đức rất quan tâm đến vụ Trương Duy Nhất vì vụ này có nhiều chi tiết giống với vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 13/02/2019
Lần đầu tiên kể từ năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’, Đảng cộng sản Việt Nam bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, đồng nghĩa với cơ chế mặc nhiên chấp nhận nhiều ca khúc mà trước đó bị xem là ‘nhạc vàng’, ‘nhạc ngụy’ và ‘ca khúc phản động’, cũng đồng nghĩa với tương lai Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) mất mát một giấy phép con chủ chốt và do đó ‘mất ăn’.
Hình minh họa. (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Cục Nghệ thuật biểu diễn tự ‘bỏ ăn’ ?
Vào ngày đầu tiên sau tết nguyên đán 2019, báo chí nhà nước đưa tin "Chính phủ đã đồng ý với một số đề xuất xây dựng dự thảo nghị định mới thay thế nghị định 79, như bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, chỉ đưa ra quy định những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức, đi ngược lại lợi ích quần chúng thì sẽ bị cấm".
Theo Quyền cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Nguyễn Quang Vinh : "Bỏ cấp phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau 1975 đều như nhau".
Một động thái ‘lạ’. Lại ‘hòa hợp hòa giải’ chăng ?
Trong lịch sử tồn tại của mình, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã nhiều lần ‘quản không được thì cấm’ và ‘vẽ’ ra nhiều thủ tục bắt các doanh nghiệp phát hành ca khúc trước 1975 phải xin phép cục này. Quá nhiều dư luận đã phát sinh đầy bức bối về cách ‘làm tiền’ lộ liễu và trơ trẽn của cơ quan này nhân danh công cuộc bảo vệ ý thức hệ cộng sản và ‘bài trừ tàn dư văn hóa Mỹ - ngụy’.
Vào đầu năm 2017, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã gây ra một scandal thuộc loại rất vớ vẩn và tạp nham khi ra thông báo tạm thời dừng lưu hành 5 bài hát sáng tác trước 1975 "để xem xét, xác minh, thẩm định trên cơ sở đối chiếu về ca từ với bản nhạc gốc". Đó là các ca khúc : Cánh thiệp đầu xuân của tác giả Lê Dinh - Minh Kỳ, Rừng xưa và Chuyện buồn ngày xuân của tác giả Lam Phương, Đừng gọi anh bằng chú của tác giả Diên An, và Con đường xưa em đi của tác giả Châu Kỳ - Hồ Đình Phương. Lý do : vi phạm tác quyền, thay đổi nội dung so với bản gốc, nhầm tên tác giả. Nhưng đến tháng 4/2017, vì sức ép từ dư luận và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn lúc đó là ông Nguyễn Đăng Chương đã phải ký văn bản thu hồi quyết định tạm dừng 5 ca khúc trên.
Bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975
Còn giờ đây, kế hoạch ‘bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975’ của chính quyền Việt Nam lại đang gây ra mối nghi ngờ lớn về tính thành thật của nó. Vì sao Cục Nghệ thuật biểu diễn lại tự ‘bỏ ăn’, trong khi cấp phép ca khúc là một thủ tục hành chính đầy ‘màu’ mà đã giúp nuôi sống nhiều quan chức ? Liệu đây chỉ là động tác ‘đơn giản hóa thủ tục hành chính’ nằm trong chủ trương tiết giảm giấy phép con của chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của Thủ tướng Phúc, hay còn nhắm đến một ý đồ nào khác - đặc biệt là ý đồ chính trị ? Liệu chủ trương hay ý đồ này có được Cục Nghệ thuật biểu diễn thực hiện nghiêm, hay cơ quan này vẫn tiếp tục dựa vào quy định "những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức" sẽ bị cấm để tiếp tục trò ‘hành là chính’ và ‘làm tiền’ đối với các công ty phát hành băng đĩa ?
Vắt chanh bỏ vỏ
Vào tết nguyên đán năm 2019, người ta vẫn thấy giới chóp bu Việt Nam phân công nhau đi chúc tụng Ủy ban người Việt ở nước ngoài và những Việt kiều được xem là ‘đại diện’ cho cộng đồng hơn 4 triệu người Việt hải ngoại, vẫn một lần nữa ‘đồng ca’ không mỏi miệng về ‘nghị quyết 36’ của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và những lợi ích mà nghị quyết này đã làm được cho ‘khúc ruột ngàn dặm’.
Nhưng gặp ‘kiều bào’ xong thì đâu vẫn vào đó. Cho tới nay chính quyền Việt Nam vẫn chẳng chứng minh được một trường hợp ‘trí thức kiều bào’ nào đã được đảng tạo điều kiện làm việc một cách thực chất, đặc biệt là nhiều trí thức hải ngoại ở Mỹ về nước đã bị các cơ quan và giới quan chức chính quyền từ trung ương xuống các địa phương - nhẹ nhàng thì tiếp đón đãi bôi rồi gạt sang một bên, nặng nề hơn thì soi mói về gốc gác ‘Việt Nam Cộng Hòa’, còn trầm trọng nhất thì chỉ thị cho công an gọi hỏi, triệu tập và răn đe về ‘hành vi chống phá’…
Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu - một trường hợp hiếm hoi được chính quyền tặng căn hộ và bố trí cho ông Châu phụ trách một viện đào tạo toán học, chỉ vì lấp ló tư tưởng và hành động phản biện về bản hiến pháp Việt Nam mà đã bị giới dư luận viên vô giáo dục của chính quyền lồng lộn chửi bới bằng đủ các từ tục tĩu và xúc phạm nhân phẩm.
Tình trạng trên cũng chính là nguồn cơn sâu cay khiến ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ bị phá sản đến hai lần vào năm 2017.
Vì sao ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ thất bại ?
Kế hoạch tổ chức ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ được đề xuất bởi nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và là quan chức được xem làm ‘ngoan hiền dễ bảo’ của đảng cầm quyền nên đã được đảng cho ngồi yên ấm trên ghế chủ tịch này đến 4 khóa, bất chấp ông Thỉnh đã gần tám chục tuổi.
Vào đầu năm 2017, Hữu Thỉnh đã bất ngờ công bố một kế hoạch chưa từng có tiền lệ trong lịch sử tồn tại của đảng : Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người từng cầm bút phục vụ chế độ cũ (Việt Nam Cộng Hòa), về dự "Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học".
Nhưng ngay sau khi ông Hữu Thỉnh phát ra tuyên bố về "Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học", khắp các diễn đàn trong nước và đặc biệt ở hải ngoại đã phản ứng như sóng lừng. Rất nhiều ý kiến của nhà văn, nhà báo hải ngoại cho rằng sự kiện này về thực chất chỉ mang tính "cuội". Họ tung ra một câu hỏi quá khó để trả lời rằng Nghị quyết 36 của Bộ Chính Trị về "công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài" đã ra đời mười mấy năm trước mà hầu như chưa làm được gì cả, nhưng tại sao đến nay mới sinh ra mới cái cử chỉ như thể "chiêu dụ người Việt hải ngoại" như thế ?
Nhiều ý kiến từ hải ngoại cũng thấu tim gan "đảng quang vinh" về chuyện suốt từ năm 1975 đến nay, đảng chỉ quan tâm đến "khúc ruột ngàn dặm" nhằm hút đô la "làm giàu cho đất nước" càng nhiều càng tốt, nhưng ai cũng hiểu là không có đô la thì chế độ không thể nào tồn tại.
Nhưng lại quá hiếm trường hợp trí thức của "khúc ruột ngàn dặm" được đảng ưu ái tạo cho đất dụng võ ở quê nhà. Sau hơn bốn chục năm "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", vẫn còn quá nhiều cảnh kỳ thị của nhà cầm quyền Việt Nam đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ hải ngoại. Nhiều trí thức hải ngoại ôm mộng trở về Việt Nam để "cống hiến", nhưng cuối cùng đã phải chua chát biệt ly khỏi "vòng tay của đảng". Về thực chất, nếu chính quyền Việt Nam không quá ‘nô lệ’ cho nhu cầu kiều hối đô la, "khúc ruột ngàn dặm" đã chẳng có gì khác hơn là "ruột dư"
Làm sao để đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’ ?
Hẳn nhiên, kiều hối là một nguồn quan trọng đã giúp duy trì "máu" để chính quyền Việt Nam vẫn có thể tạm ung dung về "đà tăng trưởng kinh tế không ngừng", đồng thời khi cần thiết có thể gia tăng in tiền mặt để "gom" USD trôi nổi từ dân chúng, đặc biệt từ các gia đình ở Sài Gòn được thân nhân ở nước ngoài gửi ngoại tệ về, giúp bổ sung kho dự trữ ngoại hối và có thêm ngoại tệ để dễ bề trả số nợ nước ngoài đang lên đến hàng chục tỷ USD hoặc hơn mỗi năm.
Chính vào thời gian này, tình trạng chính trị và kinh tế của đảng cầm quyền là khó khăn hơn bao giờ hết.
Sau mức đỉnh 13,2 tỷ USD của năm 2015, số kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 rất có thể đã giảm thê thảm, chỉ còn khoảng 7-8 tỷ USD, bổ túc thêm nỗi căng thẳng thường trực của giới chóp bu Việt Nam phải đào bới bằng được những nguồn ngoại tệ còn lại để trả nợ cho nước ngoài và chi xài cho bộ máy khổng lồ nhưng đậm đặc chất ăn bám của đảng và chính quyền.
Khi kiều hối về Việt Nam tiếp tục sụt giảm trong vài ba năm tới, ngân sách sẽ không biết tìm đâu ra ngoại tệ mạnh để thanh toán các khoản đến hạn với quốc tế, trong bối cảnh dải đất hình chữ S đã chìm trong cơn suy thoái kinh tế năm thứ 10 liên tiếp, tràn ngập bất ổn xã hội và bất ổn chính trị, và nhiều nguy cơ sắp rơi vào cuộc khủng hoảng không lối thoát.
Một nguồn giấu tên cho biết ngân sách Việt Nam sẽ sớm rơi vào cạn kiệt ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Thời điểm cạn kiệt gần nhất là vào cuối năm 2019.
Sự bế tắc gần như toàn diện như thế đã khiến đang manh nha phát sinh một luồng tư tưởng cùng một số quan chức buộc phải nghiêng dần theo xu hướng "cải cách". Trong những "cải cách" đó, lần đầu tiên từ sau năm 1975 đã bộc lộ tín hiệu có vẻ đôi chút thực chất về "lấy lòng người Việt hải ngoại" - mà "bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975" là một minh họa mang tính nửa vời và còn quá ít ỏi để khiến những đồng đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’ - theo cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã bày đặt trường hợp Trịnh Xuân Thanh ‘không bị bắt cóc’.
Phạm Chí Dũng
Khó nuốt hơn hẳn
Mặc dù đã kết thúc đàm phán từ cuối năm 2015, nhưng quá trình rà soát pháp lý đối với EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Châu Âu) đã kéo dài đến hai năm rưỡi, thay vì chỉ từ sáu tháng đến một năm đối với các hiệp định thương mại khác. Trong thời gian đó, chính quyền Việt Nam vẫn vừa "nhai lại" không chán đề nghị "EU thúc đẩy sớm thủ tục để EVFTA được ký kết và phê chuẩn", vừa tha hồ đàn áp nhân quyền trong nước. Thậm chí vào năm 2017 là năm rộn rã các đoàn công du Châu Âu của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Thủ Tướng Vương Đình Huệ, và quan chức còn chưa chết đột ngột gây nghi ngờ là Chủ tịch nước Trần Đại Quang, đã nổ ra vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" như một trái bom tàn phá toàn bộ hệ thống nhà nước pháp quyền của nước Đức và EU.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc gặp Chủ tịch Nghị Viện Châu Âu Antonio Tajani vào tháng Mười, 2018. (Hình : Tạp chí Luật Khoa)
Chẳng quá đáng để cho rằng kể từ vụ Trịnh Xuân Thanh, không chỉ người Đức mà một phần lớn các nước Châu Âu đã thực sự được "mở mắt" về bản chất của lời tuyên rao "Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm quyền con người". Cũng kể từ đó, EVFTA trở nên khó nhai nuốt hơn hẳn.
Đến tháng Mười Hai, 2017 khi chính quyền Việt Nam hùng hổ khoe khoang bản thành tích đã tóm cổ được hơn ba chục tên phản động (chỉ những người bất đồng chính kiến và hoạt động nhân quyền) trong năm đó, một cuộc đối thoại nhân quyền giữa EU với Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội mà không mang lại kết quả khả quan nào ngoài những hứa hẹn bất tận bao giờ cũng thế của Việt Nam, cộng thêm việc vài khách mời của Phái đoàn EU tại Việt Nam bị công an trơ tráo bắt cóc.
Rốt cuộc, việc gì phải đến đã đến. Hai tháng sau đó, vào tháng Hai, 2018, một cuộc họp của EU tại Brussels, Bỉ đã thông qua một loạt điều kiện chưa từng có : muốn vào EVFTA, Việt Nam phải ký kết 3 công ước còn lại trong tổng số 8 công ước quốc tế về lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó đặc biệt là công ước quốc tế về quyền tự do lập hội (dành cho công đoàn độc lập), phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm cùng liên quan đến một số đòi hỏi về nhân quyền và cả vụ Trịnh Xuân Thanh.
Cùng lúc, ngành kinh tế thủy sản Việt Nam bị EU giơ "thẻ vàng" – một hình thức chế tài và trừng phạt thương mại nghiêm khắc mà nếu không tìm cách thoát khỏi sự trầm luân đó, tôm cua cá Việt Nam sẽ còn phải nhận "thẻ đỏ" và có thể hết đường vào thị trường Châu Âu.
Trong lúc đó, giới chóp bu Việt Nam vẫn như thiêu thân trong cuộc chiến nội bộ thời hậu Nguyễn Tấn Dũng và say sưa đàn áp nhân quyền mà không đếm xỉa gì đến cánh tay đưa ra với những cử chỉ biểu cảm cuối cùng của EU. Thậm chí khi Bernd Lange – Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế Châu Âu, cơ quan có thẩm quyền rất quan trọng trong việc tham mưu EVFTA cho nghị viện Châu Âu – lặn lội đến Hà Nội vào tháng Tám, 2018 để thuyết phục các quan chức cao cấp Việt Nam cải thiện nhân quyền, trong đó có cả cuộc gặp với Tô Lâm Bộ Trưởng Công An, ông đã chẳng nhận được bất kỳ tín hiệu hồi âm nào ngoài những lời xã giao mọc rễ đằng miệng mà một nhà ngoại giao phương Tây phải lắc đầu ngao ngán khi ẩn dụ hình ảnh "đánh đĩ cả mười phương".
Đó cũng là cái cách mà một số quan chức cao cấp Việt ngoe nguẩy đi Châu Âu để "quốc tế vận" vào thời điểm Ủy Ban Châu Âu – cơ quan cấp dưới của Hội Đồng Châu Âu – mở một cuộc điều trần về EVFTA – nhân quyền vào tháng Mười, 2018 tại Brussels. Nhưng bất chấp không ít ý kiến của giới nghị sĩ Châu Âu về sự cấp thiết hoãn lại việc ký kết và phê chuẩn EVFTA để Việt Nam phải có những hành động cải thiện nhân quyền một cách rõ rệt chứ không phải chỉ hứa suông, Ủy Ban Châu Âu vẫn làm tờ trình cho Hội Đồng Châu Âu để xem xét phê chuẩn EVFTA – một kết quả khá mỹ mãn mà đã khiến chuyến công du ba nước châu Âu vào thời điểm đó của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc trở thành bảng vàng chói lọi ghi nhận thành tích của ông ta, cũng như đã ghi thêm một điểm cho Phúc trên cung đường chạy đua vào cái ghế tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam tại đại hội 13 vào năm 2021.
Nhưng người tính cuối cùng lại không bằng… người khác tính.
Gieo gió ắt gặt bão
Vào giữa tháng Mười Một, 2018 khi mọi việc đã tưởng chừng xong xuôi và giới chóp bu Việt Nam chỉ còn xoa tay chờ đón kết quả Hội Đồng Châu Âu chính thức phê chuẩn EVFTA và trình hiệp định này cho Nghị Viện Châu Âu để bỏ phiếu thông qua lần chót, chính nghị viện này đã tung ra một bản nghị quyết cứng rắn chưa từng có về dòi hỏi Việt Nam phải thỏa mãn nhiều cải thiện nhân quyền về tự do tôn giáo tự do báo chí, tự do Internet, hủy bỏ hay hoãn Luật An ninh mạng, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, phải ký kết 3 công ước quốc tế còn lại về lao động…
Sau bản nghị quyết nhân quyền trên là một thời gian mặt hồ lặng ngắt không sủi tăm. Cả hai phía đều chờ đợi, chờ lẫn nhau. Hình thể vận động quốc tế của Việt Nam như tạm ngừng thở và giới chóp bu Hà Nội giương mắt nhìn về phía châu Âu để chờ, nhưng lại không chịu làm bất cứ hành đông nào về cải thiện nhân quyền, dù chỉ là hành động nhỏ nhất hay chỉ mang tính tượng trưng.
Ngày 1 tháng Giêng, 2019, Luật An ninh mạng vẫn chính thức giương nanh múa vuốt theo lịch trình mà "Tổng Chủ" Nguyễn Phú Trọng đã sắp xếp, bất chấp phản ứng của cộng đồng quốc tế và chính phủ nhiều nước phương Tây.
Trong vài tháng cuối năm 2018 đã chẳng có bất kỳ thứ gì thay đổi trên nhân dạng xấu xí của "Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người".
Cao ủy Thương mại EU Cecilia Malmstrom (giữa) và Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh (trái) tại Manila tháng Mười, 2017. (Hình : RFA)
Đã quá rõ là từ cuộc điều trần ở Bỉ vào tháng Mười, 2018 cho đến nay, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã chẳng chịu làm một điều gì để cải thiện nhân quyền. Trong não trạng chủ quan cùng căn bệnh duy ý chí của chế độ chuyên quyền và một chiều này, hẳn họ vẫn cho rằng bản nghị quyết về nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu chỉ là một thứ văn bản cho có lệ, để cuối cùng chính thể Việt Nam vẫn bỏ túi EVFTA mà chẳng phải trả cái giá đáng kể nào.
Nhưng cũng đã quá rõ là chính vì nguyên do rất chính yếu trên mà Cộng Đồng Châu Âu đã không cho phép Ủy Ban Châu Âu ký EVFTA với Việt Nam, cho dù bản thảo của hiệp định này đã khá đầy đủ và nằm sẵn trên bàn chỉ chờ ký.
Ngay cả chuyến công du của nữ phó Chủ tịch Nghị Viện Châu Âu – bà Heidi Hautala – đến Hà Nội vào tuần đầu tiên của năm 2019 cũng chẳng hé ra chút hy vọng nào cho chính thể Việt Nam : trong lúc Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân lại một lần nữa "mong muốn trên cương vị của mình, phó chủ tịch sẽ ủng hộ và thúc đẩy EP sớm phê chuẩn EVFTA khi được ký kết", bà Heidi Hautala đã chẳng hé môi bất cứ từ nào về bản hiệp định phải được đánh đổi bằng quyền con người này.
Trong khung cảnh lặng như tờ đó, một chút hy vọng mà Hà Nội ngầm ngấm xúc tiến chỉ còn là thúc đẩy giới doanh nghiệp châu Âu có văn phòng ở Việt Nam tác động vào nghị trường Châu Âu để Hội Đồng Châu Âu sớm mở một cuộc họp thông qua EVFTA.
Cuộc họp đó cuối cùng đã tới vào tháng Giêng, 2019, trễ gần hai tháng so với dự liệu của cả hai bên.
Nhưng một lần nữa, việc gì phải đến đã đến. Ngay sau khi tin tức về EVFTA bị EU quyết định hoãn lại việc phê chuẩn lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội và trong dư luận (trừ mặt báo nhà nước) vào ngày 24 tháng Giêng, 2019, một số nguồn tin từ nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam đã xác nhận tâm trạng chung của giới lãnh đạo cao cấp là bị bất ngờ và thất vọng đến mức "mặt cứ thượt ra" mà không biết phải nói gì.
Quyết định hoãn EVFTA của Hội Đồng Châu Âu là bằng chứng rõ ràng nhất cho tới nay về việc Liên Minh Châu Âu không còn đáng bị xem là yếu thế và nhu nhược trong con mắt của chính quyền Hà Nội, và quyết định này là sự tuân thủ một cách triệt để và kiên định tinh thần bản nghị quyết nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu ban hành vào giữa tháng Mười Một, 2018.
Ngay cả Bernd Lange – Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế của Quốc hội EU và là người được xem là hiền hòa, giờ đây cũng phải quyết liệt : "Nếu không có tiến bộ nào về nhân quyền, và đặc biệt là quyền của người lao động, thì sẽ không có bất cứ hiệp định nào được Quốc hội Châu Âu thông qua hết".
Hẳn là đến lúc này, giới chóp bu Việt Nam đã phải "sáng mắt sáng lòng" : rõ là EVFTA cũng có luật nhân quả. Kẻ nào gieo gió ắt phải gặt bão.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 10/02/2019