Một thách thức khủng khiếp
Cú đổ bệnh đột ngột của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng ngay tại vùng ‘căn cứ địa cách mạng gia tộc Nguyễn Tấn Dũng’ vào ngày 14 tháng Tư 2019 (trùng với ngày sinh nhật) có thể được xem là một bước ngoặt lớn về thế tương quan quyền lực trong chính trường Việt Nam.
Ai sẽ thay Nguyễn Phú Trọng, vẫn là câu hỏi lớn trong chính trị Ba Đình. (Hình : Getty Images)
Trước cú đổ bệnh đúng quy trình ‘sinh lão bệnh tử’ trên, quyền lực không chỉ được phân bổ theo chế độ trung ương tập quyền vào tay Hà Nội mà còn là cá nhân độc tài – biểu hiện qua chủ trương ‘nhất thể hóa’ từ cấp trung ương xuống các địa phương được đảng cầm quyền rốt ráo triển khai từ năm 2017 mà đã mang lại quyền lực cho ‘đảng không làm thay mà đảng làm luôn.’
Nhưng đặc biệt, ngoạn mục và gây tai tiếng nhất là Nguyễn Phú Trọng đã tự biến ông ta thành nhân vật quyền lực nhất khi ‘nhất thể hóa’ cả hai ghế tổng bí thư và chủ tịch nước ngay sau khi Trần Đại Quang lìa đời.
Nhưng cho dù quyền lực có thể được kéo dài vĩnh viễn bằng cách sửa đổi hiến pháp, theo cái cách mà Tập Cận Bình đã áp đặt quốc vụ viện Trung Quốc ‘cải tạo’ hiến pháp để không giới hạn nhiệm kỳ của chủ tịch nước, mà về thực chất đã cho Tập cái quyền trở thành ‘hoàng đế suốt đời’, chẳng kẻ nào chống lại được quy luật lão hóa, bệnh tật và tử thần nhòm ngó.
Cơn bạo bệnh xảy đến với Nguyễn Phú Trọng, đúng vào lúc ông ta đang ở đỉnh cao quyền lực, xứng đáng là một thách thức khủng khiếp đối với ông Trọng là có nên hoặc có buộc phải rời bỏ quyền lực để giữ sinh mạng hay không ?
‘Lãnh đạo không được tham vọng quyền lực’
Từ tháng 10 năm 2018, khối lượng công việc của Nguyễn Phú Trọng đã tăng lên gần gấp đôi khi phải điều hành cả hai văn phòng tổng bí thư và văn phòng chủ tịch nước, chưa kể hàng núi vụ việc phát sinh hàng ngày hàng tuần từ chiến dịch ‘đốt lò’ do ông ta khởi tạo.
Nhưng trước đó ít tháng và trùng với khoảng thời gian hàng trăm ngàn người dân Sài Gòn đổ xuống đường phản đối ‘Luật bán nước’ (một tục danh mà dân gian đặt cho Luật Đặc khu), đã có những đồn đoán ngoài lề về việc sức khỏe của Tổng bí thư Trọng ‘không được tốt lắm’. Cụ thể hơn là hai bệnh huyết áp và tim mạch.
Một quan chức có ‘tham vọng quyền lực’ luôn có thể từ chối lời khuyên hay cảnh báo từ những người đồng nhiệm và giới cận thần về sự cần thiết phải tiết chế công việc nhằm bảo toàn những gì còn lại của thể trạng, nhưng không thể bỏ qua tâm trạng lo lắng và lời can gián từ những người thân ngay trong gia đình mình.
Một điều rõ ràng là sau cú bạo bệnh vào tháng Tư 2019, ông Trọng – người đã sáng tác ra khái niệm ‘lãnh đạo không được tham vọng quyền lực’ – sẽ được gia đình ông ta quyết liệt can ngăn để tránh bớt tình trạng ‘thân này ví xẻ làm đôi’ và không thể kéo dài nhiệm vụ ‘lo cho dân cho nước’. Việc, mà có thể khiến ông ta bị tái đột quỵ bất cứ lúc nào, chắc chắn nặng hơn nhiều và khiến ông ta gần với lòng đất hơn bao giờ hết.
Khi đó cũng là bối cảnh của bầu không khí ‘toàn đảng, toàn quân lập thành tích chào mừng đại hội 13’. Đại hội này sẽ diễn ra vào năm 2021, mà ngay vào lúc này đã bắt đầu âm thầm nhưng sôi sục một cuộc đua quyết liệt và cả máu lửa cho những chức vị tối cao.
‘Cán bộ cấp chiến lược’ – một khái niệm mới mà những Nguyễn Phú Trọng và Trưởng ban tổ chức trung ương Phạm Minh Chính nghĩ ra, đang là mục tiêu quyến rũ với biết bao ‘đồng chí’ khác.
‘Giả chết bắt quạ’ hay sắp ‘đi’ ?
Phạm Minh Chính lại là một trong những ứng cử viên cho chức tổng bí thư đảng tại đại hội 13, với điều kiện là Trọng chịu nghỉ. Từng là tướng công an và bí thư Quảng Ninh, Chính cũng được biết là tác giả rất nhiệt thành của ‘Luật bán nước’ từ lúc bản thảo của luật này còn phôi thai cho đến khi nó gây ra một phong trào biểu tình không lồ và căm phẫn của dân chúng.
Từ khoảng cuối năm 2018, bắt đầu xuất hiện một thông tin ngoài lề đầy gợi cảm và biến động : có một khả năng là Nguyễn Phú Trọng sẽ chuyển giao quyền lực tổng bí thư cho một người thân tín, chẳng hạn như Trần Quốc Vượng, mà chỉ ngồi ghế chủ tịch nước.
Và cùng với ‘nhân sự cấp chiến lược Trần Quốc Vượng’, còn một cái tên ‘chiến lược’ khác cũng được nêu ra như một phương án thay thế vị trí thủ tướng hiện thời : Vương Đình Huệ.
Nhưng dù gì, thông tin trên vẫn chỉ là một thứ tin đồn mà chẳng có gì bảo đảm là sẽ xảy ra. Cũng không loại trừ cái tin Nguyễn Phú Trọng ‘nghỉ tổng bí thư’ chỉ là một thủ thuật chính trị theo kiểu ‘giả chết bắt quạ’ và bắt chết những tay mơ non choẹt kinh nghiệm nhưng ham hố ghế và háu đá.
Còn giờ đây, ai cũng nhìn thấy ‘Cụ tổng’ không còn hồng hào như trước và khó còn có thể đi đây đi đó hô hào về ‘không biết đến cuối thế kỷ này có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện không’, thậm chí ngay cả thói quen tiếp xúc ‘cử tri trung thành’ cũng có thể bị vấn đề sức khỏe của ‘cụ’ khiến cho lơi lỏng không ít.
Và ai cũng nhìn thấy trước là ‘sinh lão bệnh tử’ sẽ chẳng chừa ai, cho dù có là ‘hoàng đế’ chăng nữa.
Bất cứ một chính trị gia nào một khi bị cơn đột quỵ quật ngã thì quyền lực sẽ tự nhiên biến mất. Thay vào đó là hình ảnh quyền lực bị phân ly, hoặc tản quyền, hoặc một cái tên mỹ miều nào đó nhưng thực chất phải là chia quyền cho những kẻ khác.
Hẳn nhiều người đang muốn được thừa kế một mảnh quyền lực, hoặc tham vọng hơn hẳn là thay thế ‘cụ’.
Trái tim nóng và cái đầu lạnh toát
Nếu đến một lúc nào đó Nguyễn Phú Trọng không chỉ có ý định mà còn buộc phải tự nguyện nhường lại cái ghế tổng bí thư cho người khác, hai ứng cử viên hàng đầu đã hoặc được sắp sẵn, hoặc cố ngoi lên vị trí sắp sẵn đó : Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng ba dấu hiệu mà Trọng phải dần chuyển giao quyền lực cho cấp dưới trong thời gian ông ta bị ‘đột quỵ’ – cho Trần Quốc Vượng điều hành về mặt đảng và tiếp đoàn thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, cho Đặng Thị Ngọc Thịnh để thay chủ tịch nước tiếp khách quốc tế, và cho Nguyễn Xuân Phúc thay Trọng đi dự Hội nghị BRI (hội nghị thượng đỉnh sáng kiến một vành đai, một con đường) ở Bắc Kinh – đã cho thấy dù muốn hay không, quyền lực của ‘Tổng tịch’ đang phải tự suy giảm như một quy luật tất yếu.
Không biết vô tình hay hữu ý, trong thời gian đó đã xuất hiện một biểu hiện rõ rệt về ‘tăng quyền cho thủ tướng’ – được đề xuất từ khối chính phủ. Cũng trong thời gian đó, phía Quốc hội của Nguyễn Thị Kim Ngân có vẻ vang vọng tiếng nói hơn là thói ‘gật’ trước đây theo ý chỉ của đảng. Một cách không tuyên bố, thế cục bàn cờ chính trị Việt Nam đang lặng lẽ chuyển sang ‘tam quyền phân lập’.
Nhưng không phải tam quyền phân lập theo cách của nền dân chủ và kỹ trị phương Tây, một sự phân công quyền lực và giám sát quyền lực lẫn nhau và khoa học giữa ba khối lập pháp, tư pháp và hành pháp. Mà cái được xem là ‘tâm quyền phân lập’ ở Việt Nam sẽ là khuynh hướng giãn cách hóa và khu biệt hóa giữa khối hành pháp, lập pháp với khối đảng.
Não trạng và thói hành xử ‘đảng quyết định tất cả’ và sau này là ‘đảng không làm thay mà làm luôn’ sẽ dần bị phản ứng từ kín đáo đến lộ liễu và quyết liệt.
Trong trường hợp căn bệnh ‘đột quỵ’ chỉ ở mức nhẹ nhàng và ‘được sự chăm sóc tận tình của đội ngũ bác sĩ y tá và gia đình,’ Nguyễn Phú Trọng vẫn phải mất tối thiểu vài ba tháng mới có thể quay trở lại điều hành tại vị trí ‘tổng tịch’.
Nhưng ngày càng lộ ra rõ hơn nguy cơ cảnh báo chứng xuất huyệt não rất có thể sẽ tái diễn một cách tàn tệ nếu Trọng phải động não quá mức. Có quá nhiều điều kiện tiếp xúc với Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương, hẳn các quan chức còn lại trong ‘tam trụ’ và những ủy viên bộ chính trị khác đều cảm nhận về thời của Nguyễn Phú Trọng đã sang bên kia núi.
Bên này núi, cuộc chạy đua máu lửa bắt đầu, cả bề nổi lẫn bề chìm…
Ngay cả khi Nguyễn Phú Trọng còn tập quyền cá nhân, vẫn diễn ra những trận sát phạt khá ác liệt cho vị trí ‘lãnh đạo chiến lược’. Còn khi Trọng bắt đầu có dấu hiệu ‘xuôi tay’, chẳng còn gì có thể kềm giữ những trái tim nóng nảy và cái đầu lạnh toát nữa.
Ngay trước mắt là thế ‘tam quyền phân lập’, hoặc còn có thể được xem là ‘tam quốc’, trước khi tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào thời loạn ly chính trị, cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương.
Phạm Chí Dũng
Người Việt, 02/05/2019
Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ đang đứng trước cơ hội lịch sử để không lặp lại lịch sử thất bại của người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng trong mưu đồ ‘tăng quyền cho thủ tướng’ mà sau đó đã phải ngậm ngùi ‘về làm người tử tế’.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại Bắc Kinh, 25/4/2019. Photo VTC via Chinhphu.vn
‘Khiêm tốn’ hơn Nguyễn Tấn Dũng
Chỉ ít ngày sau cú đổ bệnh thình lình như bị trời giáng của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng ngay tại vùng ‘căn cứ địa cách mạng gia tộc Nguyễn Tấn Dũng’ vào ngày 14/4/2019, không biết vô tình hay hữu ý, chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã làm tờ trình cho Ủy ban Thường vụ quốc hội về ‘tăng quyền cho thủ tướng’ dựa theo Luật Tổ chức cán bộ chính phủ.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân - được xem là ‘người tâm phúc’ của Nguyễn Xuân Phúc, đã phát ra tờ trình dự án luật của Chính phủ đề nghị bổ sung thêm một số quyền cho Thủ tướng : Thủ tướng có quyền quyết định tổng biên chế công vụ trong cơ quan, tổ chức hành chính từ T.Ư đến địa phương ; Thủ tướng cũng sẽ có quyền thực hiện phân cấp và ủy quyền về quản lý công chức, viên chức trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập đối với những nội dung thuộc thẩm quyền.
Ngoài ra, dự thảo đề nghị bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng trong việc quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Thủ tướng cũng sẽ có thêm quyền quyết định thực hiện thí điểm những mô hình mới về tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp huyện.
Khách quan mà nói, những nội dung ‘tăng quyền cho thủ tướng’ vào lần này do Thủ tướng Phúc đề nghị là ít hơn, khiêm tốn hơn và bớt ‘nhạy cảm’ hơn hẳn những gì Nguyễn Tấn Dũng đòi cũng về ‘tăng quyền cho thủ tướng’ - được đưa ra Quốc hội vào cuối năm 2014, đầu năm 2015.
Nguyễn Tấn Dũng đòi gì ?
"Một là, trong thời gian Quốc Hội không họp, trình chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của phó thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ tại khoản 3 Điều 24.
Hai là, giao quyền bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong trường hợp khuyết bộ trưởng hoặc thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong khi chờ Quốc Hội phê chuẩn và chủ tịch nước bổ nhiệm tại khoản 5 Điều 24.
Ba là, tạm thời giao quyền chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp chưa bầu được chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tại Khoản 6 Điều 24.
Bốn là, quyết định và chỉ đạo thực hiện các biện pháp cụ thể cần thiết để thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân tại Khoản 6 Điều 24. Bởi vì, trường hợp các biện pháp này hạn chế quyền con người, quyền công dân thì phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 14 Hiến Pháp mà không thể quy định chung thẩm quyền này cho thủ tướng chính phủ như quy định của dự thảo luật".
Đó là những nội dung mà tờ trình của chính phủ yêu cầu Quốc hội ‘gật’, khi Đại hội 12 của đảng cầm quyền chỉ còn hơn một năm nữa sẽ diễn ra.
Khi đó, Nguyễn Tấn Dũng có vẻ đã chuẩn bị tâm trạng cho một bước đại thắng nữa, sau khi Hội Nghị Trung Ương 10 vào tháng Giêng năm 2015 đã kết thúc với kết quả bỏ phiếu tín nhiệm thăm dò ‘uy tín tổng bí thư’ rất thuận lợi cho ông ta - Dũng đứng đầu bảng tổng sắp, trong khi Tổng bí thư Trọng chỉ lót chót thứ 8, theo nhiều nguồn tin không chính thức nhưng cho tới nay vẫn không bị bất kỳ cơ quan ‘có trách nhiệm’ nào của đảng và chính phủ cải chính hay bác bỏ.
Nhưng điều mà quan chức thủ tướng đang tự cổ súy cho mình bằng ngọn cờ ‘chính phủ kiến tạo hành động’ khi đó, dù chẳng có bất kỳ cơ sở lý thuyết lẫn thực tế nào chứng minh cho cái mô hình ngọn cờ đó là có tính thành tâm và thực chứng, đã vấp phải một cuộc lật đổ ngay tại nghị trường - nơi mà Dũng dường như vẫn thật chủ quan cho rằng Nguyễn Phú Trọng và chủ tịch quốc hội thời điểm đó là Nguyễn Sinh Hùng không thể có cơ hội để đảo ngược tình thế trước khi Đại hội 12 của đảng diễn ra vào đầu năm 2016.
Phiên họp đầu tiên của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội trong tháng Giêng năm 2015 đã tiếp biến bằng kết quả "Đề nghị cân nhắc 4 quyền hạn của thủ tướng chính phủ" - theo cách rút tít nhẹ nhàng nhất mà một số tờ báo trong nước đưa tin, hoặc có báo mô tả bộc trực hơn "không thêm quyền cho thủ tướng".
Người chủ trì đề nghị "cân nhắc" trên lại là Phan Trung Lý, chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật Quốc Hội, một nhân vật được cho là "cánh tay phải" của Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng và đã có ít nhất mối "duyên nợ" với Thủ Tướng Dũng từ phiên họp Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội lần trước.
Kết quả là đề xuất của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về ‘tăng 4 quyền cho thủ tướng’ đã chỉ nhận được tiếng vỗ tay rất thưa vắng của giới đại biểu quốc hội, mà trong thực tế là Dũng đã thất bại cay đắng.
Không những thế, liên minh Nguyễn Phú Trọng - Nguyễn Sinh Hùng còn chặt đứt ý đồ ‘thống lĩnh lực lượng vũ trang’ của Nguyễn Tấn Dũng.
Nguyễn Kim Khoa - chủ nhiệm Ủy Ban quốc phòng An Ninh của Quốc Hội dẫn ra Ðiều 17 trong dự thảo Luật Tổ Chức Chính Phủ (sửa đổi) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của chính phủ trong quản lý về quốc phòng và cho rằng phải thận trọng với quy định này, vì hiến pháp không nói chính phủ xây dựng quân đội nhân dân.
Nói cách khác, Thủ tướng Dũng không được quyền "nắm" hoặc chỉ đạo trực tiếp Bộ quốc phòng liên quan đến những nhiệm vụ đặc biệt của quốc gia, đặc biệt là "tình trạng khẩn cấp".
Không những không thành công với mưu đồ ‘độc lập với đảng’, ý đồ ‘vũ trang hóa’ của Nguyễn Tấn Dũng còn bị các đối thủ bên đảng nắm thóp và vô hiệu hóa. Thất bại nặng nề và bẽ mặt này mang tính báo trước về số phận của Nguyễn Tấn Dũng khi ông ta bị đá khỏi vũ đài chính trị chưa đầy một năm sau đó.
Còn bây giờ là Nguyễn Xuân Phúc ?
Khoảng trống quyền lực mà bệnh nhân Nguyễn Phú Trọng đang để lộ ra là quá lớn : có đến hai cái ghế không có người ngồi ở Văn phòng tổng bí thư và Văn phòng chủ tịch nước. Nhiều khả năng quyền lực của ông Trọng sẽ được chuyển giao theo cách về bên đảng, Trần Quốc Vượng - với vai trò là ‘phó tổng bí thư’ - sẽ dần đảm trách phần hành của tổng bí thư ; còn phó chủ tịch nước là Đặng Thị Ngọc Thịnh sẽ dần đảm trách việc tiếp khác quốc tế và những phần việc của chủ tịch nước để lại, trước khi tiến thêm một bước mới trên quan điểm ‘nước không thể một ngày thiếu vua’.
Nếu đến một lúc nào đó Nguyễn Phú Trọng không chỉ có ý định mà còn buộc phải tự nguyện nhường lại cái ghế tổng bí thư cho người khác, hai ứng cử viên hàng đầu đã hoặc được sắp sẵn, hoặc cố ngoi lên vị trí sắp sẵn đó : Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng ngay trước mắt, một kịch bản gần nhất và dễ xảy ra nhất là một khi Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương xác định bệnh tình của Nguyễn Phú Trọng không còn đủ khả năng ‘cống hiến lâu dài’, sẽ xuất hiện những động thái trong đảng về vận động cho quá trình chuyển giao quyền lực dần dần.
Không phải loại ngạo mạn đến mức chỉ nhìn xuống mà không thèm nhìn lên như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Xuân Phúc tỏ ra là người biết thân biết phận, biết nhìn ngó xung quanh và khôn khéo hơn, với bước chân nhích lên từng chút và chờ đợi những cơ hội mới.
Cơ hội ấy đang đến, thậm chí lộ ra bất thần và vượt quá mong đợi.
Nếu trong tương lai Nguyễn Phú Trọng không thể đủ sức khỏe để ‘cống hiến lâu dài cho cách mạng’, khuynh hướng chuyển giao quyền lực cho các khối đảng, lập pháp, hành pháp và gia tăng quyền lực trong từng khối sẽ hiện ra một cách tất yếu.
Phúc, cũng bởi thế, sẽ tràn đầy cơ hội ‘tăng quyền cho thủ tướng’ - nhưng không chỉ dừng ở mặt quyết định cơ cấu tổ chức mà còn phải đạt được quyền lực quyết định về nhân sự cấp bộ trưởng theo cách mà các nước phương Tây vẫn hành xử, cùng lúc hạn chế đến mức tối thiểu sự can thiệp của khối đảng về nhân sự chính phủ và ‘cái gì cũng phải có ý kiến đảng và do đảng quyết định’.
‘Tăng quyền cho thủ tướng’ đã từng là một bài tính khôn nhưng chưa đủ ngoan của Nguyễn Tấn Dũng, nhằm nắm gáy ít ra ba chục ủy viên trung ương cấp bộ trưởng, thứ trưởng để phục vụ cho mục tiêu lấy phiếu ủng hộ tại đại hội 12. Còn nếu Nguyễn Xuân Phúc chứng tỏ rằng ông ta sẽ thành công hơn kẻ tiền nhiệm, ‘tăng quyền cho thủ tướng’ về thực chất sẽ là cầu nối để Phúc vươn tới vị trí tổng bí thư, thay cho Trọng, và biết đâu đấy còn ngồi luôn cả ghế chủ tịch nước như lý tưởng ‘hai trong một’.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 02/05/2019
Ngay sau khi người dân Đồng Tâm kỷ niệm 2 năm ngày ‘giải phóng’ mảnh đất này khỏi tay bè lũ tham quan và nhóm lợi ích, đến cuối tháng Tư năm 2019 nhà cầm quyền cũng kỷ niệm 44 năm ngày ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’ bằng âm mưu - kế hoạch một lần nữa cướp sạch 59 ha đất đồng Sênh trên danh nghĩa ‘đất quốc phòng’.
Một cảnh sát viên lạy tạ dân làng Đồng Tâm sau khi được phóng thích ngày 22 tháng Tư, 2017.
Âm mưu ‘cướp sạch’ lần 2 !
Âm mưu trên hiện hình trong buổi công bố "kết luận rà soát thanh tra đất đai Đồng Tâm" vào chiều ngày 25/4 ở Hà Nội - việc mà đã lâu không cơ quan ‘có trách nhiệm’ nào nhắc tới, mà chỉ đùn đẩy trách nhiệm ‘phát ngôn’ cho nhau như tiếng tru ri rỉ trong xó bếp.
Nguyễn Mạnh Hà, quan chức Tổ trưởng Tổ rà soát, thuộc Thanh tra Chính phủ đã dọn đường dư luận khi cho rằng Kết luận Thanh tra về đất đai ở Đồng Tâm của Thanh tra Hà Nội công bố hồi tháng 7 năm 2017 là chính xác ; đồng thời xác định khiếu nại của ông Lê Đình Kình cùng người dân Đồng Tâm liên quan diện tích đất nông nghiệp 59 héc-ta ở đồng Sênh là không đúng.
Ngay sau đó, quan chức Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch UBND TP Hà Nội - đứng ra cam kết "tăng cường tuyên truyền để cho người dân hiểu rõ hơn về nguồn gốc và quá trình sử dụng, quản lý đất đai tại sân bay Miếu Môn. Huyện Mỹ Đức và xã Đồng Tâm được giao sớm hoàn thiện 14 phương án bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân đang ở khu vực này".
Đã rất rõ là những động tác móc ngoéo trước sau của ‘liên minh ma quỷ’ (cụm từ mà bà con Đồng Tâm trực chỉ giới quan tham và nhóm lợi ích) đã âm thầm chuẩn bị phương án ‘cướp sạch’ trong những tháng qua, để nay chính thức đưa lên truyền thông công bố và dọn đường dư luận. Một chiến dịch càn quét lớn sắp bắt đầu.
‘Có đảng là có tất cả’ ???
Cũng đã rất rõ là trên gương mặt viên cựu công an Nguyễn Đức Chung không còn sót lại chút nào tì vết liêm sỉ cuối cùng mà những người dân còn mơ màng về bản chất chính thể, bản chất quan chức, và cả những người dân có quá ít thông tin thực chất về vụ khủng hoảng Đồng Tâm có thể vin vào đó để ‘thắp sáng hy vọng có đảng là có tất cả’.
‘Có đảng là có tất cả’ đã khiến cho thủ lĩnh phong trào phản kháng Đồng Tâm là ông Lê Đình Kình bị những tên côn đồ mặc sắp phục và quân phục, mang hàm sỹ quan công an và quân đội đạp gãy xương chân, nhưng cho tới nay đã hơn hai năm mà chính quyền vẫn không truy cứu bất kỳ trách nhiệm, càng không phải là trách nhiệm hình sự nào của những kẻ gây tội ác.
Cho tới nay, những người mơ màng chính trị và theo thuyết cải lương nước đôi vụ Đồng Tâm chắc chắn đã phải nhận ra là trong bản cam kết viết tay mà Ủy viên trung ương đảng Nguyễn Đức Chung cắm mặt ký sống và lăn tay trước sự chứng kiến của hàng ngàn người dân Đồng Tâm vào tháng 4 năm 2017, có cam kết về ‘chỉ đạo điều tra xác minh kẻ bắt và gây thương tích cho cụ Lê Đình Kình’. Nhưng cũng như bao lần bọt liếm quanh môi, thói tráo trở đầu môi chót lưỡi luôn là một đặc thù riêng có của chế độ lấy bóc lột và đàn áp dân làm… gốc.
Vì sao Đồng Tâm phải ‘người đổi người’ ?
Vào năm 2017, bất chấp nhiều phản ứng và bằng chứng được cung cấp bởi người dân Đồng Tâm, cơ quan thanh tra Hà Nội vẫn tung ra bản kết luận thanh tra về "toàn bộ là đất quốc phòng, không có đất nông nghiệp". Chính bản kết luận thanh tra này đã trở thành cái cớ chủ yếu để một cơ quan "anh em" khác – Cơ quan điều tra của Công an Hà Nội – cấp tập và hung hãn tổ chức một chiến dịch triệu tập, răn đe và cả "khủng bố" đe dọa bắt bớ đối với ít nhất 70 người dân Đồng Tâm, với mục tiêu cuối cùng là người dân nơi đây phải "buông" mục đích đòi lại phần đất chính đáng của họ.
Ở vào thế cùng kiệt về kế sinh nhai lẫn sinh mạng, nông dân chỉ còn biết hành động "người đổi người" : bắt giữ cả một trung đội cảnh sát cơ động cùng một số quan chức vừa công an vừa chính quyền.
Nhưng đừng bao giờ cho rằng những nông dân hiền hòa ở xã Đồng Tâm ấy chỉ chực chờ nổi loạn chống chính quyền, theo cách mà bộ máy tuyên truyền của công an, tuyên giáo và giới dư luận viên mất sạch liêm sỉ luôn chực chờ tung ra.
Thử hỏi khi vùng đất Đồng Tâm đang yên lành, nếu không có chuyện Đỗ Mười - Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng - ký một quyết định thu hồi hơn 47 ha đất nông nghiệp của nông dân Đồng Tâm từ năm 1980 để "phục vụ dự án an ninh quốc phòng và sân bay Miếu Môn", làm sao có thể phát sinh hậu quả ghê gớm như ngày hôm nay ?
Thử hỏi, nếu không có chuyện chính quyền huyện Mỹ Đức, sau khi nhận lại số đất nông nghiệp trên từ Lữ đoàn 28 của Quân chủng Phòng không - không quân do sân bay Miếu Môn không làm được, nhưng lại nhập nhèm suốt 10 năm từ 2007 đến nay mà không làm quyết định giao đất cho bà con nông dân, trong khi lại xảy ra hàng loạt vụ việc một số quan chức địa phương bảo kê cho người thân chiếm dụng đất và giờ đây còn định để cho Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) "cướp" đất của dân, làm sao bà con nông dân lại phải rồng rắn kéo đoàn khiếu kiện đông người trong ròng rã nhiều năm trời ?
Và thử hỏi, nếu không có chuyện giới công an trị sử dụng "biện pháp nghiệp vụ", mà thực chất là thủ đoạn "điệu hổ ly sơn", để bắt giữ trái phép một số đại diện của dân xã Đồng Tâm, làm sao người dân xã này lại phải nghĩ đến việc bắt giữ lại các cảnh sát cơ động và quan chức công an để "trao đổi tù binh" ?
Bản chất tráo trở, thù vặt và lưu manh
Tháng Tư năm 2017 và như một cách xét lại tháng Tư ‘thống nhất đất nước’ năm 1975, người dân Đồng Tâm đã giành thắng lợi đầu tiên và được xem là chưa từng có trên bình diện chống nạn cướp đất ở Việt Nam.
Sau vụ giáo dân Hà Tĩnh chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân huyện Lộc Hà vào tháng 3/2017, vụ nông dân Đồng Tâm đặt dấu ấn trong lịch sử phản kháng chế độ bằng hành động bắt giữ cả một trung đội cảnh sát cơ động cùng một số quan chức vừa công an vừa chính quyền đã chính thức chấm dứt thời hoàng kim công an trị. Khác hẳn với cảnh trước đây công an gần như muốn bắt ai thì bắt và không hề nương tay với dân oan đất đai, bây giờ hầu như toàn miền Bắc, một phần miền Trung và có thể cả một số địa phương ở miền Nam, đều tràn ngập "điểm nóng đất đai" mà có thể phát sinh việc bắt giữ cá nhân công an hay đơn vị công an vào bất kỳ lúc nào nếu bị đàn áp.
Vào ngày thứ 8 của cuộc khủng hoảng mang tên Đồng Tâm – 22 tháng Tư năm 2017, 6 ngàn người dân thượng tôn tinh thần đồng tâm cùng kỷ luật tổ chức cao đến mức kinh ngạc trong đấu tranh phản kháng đã giành được thắng lợi lớn chưa từng có trong lịch sử tranh đấu của dân oan Việt Nam : chính quyền phải cam kết sẽ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với toàn thể nhân dân xã Đồng Tâm vì tội "bắt giữ người trái pháp luật".
Nhưng một chính quyền bị xem tráo trở và lưu manh có hệ thống vẫn luôn sở hữu lòng tham vô đáy và nạn thù vặt ti tiện.
Tháng Tư năm 2019, nhà cầm quyền một lần nữa âm mưu cướp sạch 59 ha đất đồng Sênh trên danh nghĩa ‘đất quốc phòng’. Cuộc chiến đấu với cái ác lại bắt đầu sôi sục. Một lần nữa, Đồng Tâm lại tràn ngập mối nguy biến vỗ mặt Bộ Chính trị đảng cho một cơn khủng hoảng, nhưng còn có thể biến thành ‘khủng hoảng máu’ giữa những người dân quyết tử giữ đất trước một chính quyền tham tàn.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/05/2019
Bồi thêm một phát đại bác vào bức thành loang lổ rệu mục của ngân sách Việt Nam, Hội thảo "Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2018 : Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng" có một đánh giá rất quan trọng : "Quy mô thu ngân sách của Việt Nam hiện đã ở mức cao và khó có thể gia tăng thêm".
Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên bộ chính trị kiêm bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - là quan chức được xem là cúc cung với những ‘người Bắc có lý luận'.
"Thu ngân sách khó có thể gia tăng thêm" !
Trong khi ấy, ở hướng ngược lại, chi tiêu cho quản lý hành chính và chi trả nợ bị cho là đang tăng dần theo các năm và có thể ảnh hưởng tới tính bền vững của ngân sách Nhà nước.
Hội thảo trên được tổ chức ngày 25/03/2019 tại Hà Nội, với ấn phẩm do giáo sư, tiến sỹ Trần Thọ Đạt, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân ; phó giáo sư, tiến sĩ Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý khoa học, Đại học Kinh tế Quốc dân đồng chủ biên và nhóm tác giả.
Bản nghiên cứu trên đã gián tiếp cảnh báo về nạn ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’ của đảng Cộng sản và chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ : nếu xem tiền trong túi dân chúng là một nguồn tài nguyên vô tận thì đó là một não trạng áp đặt rất chủ quan duy ý chí, cả tham lẫn ngu và cực kỳ sai lầm. Cho dù "Bộ Thắt Cổ" (một tục danh mà người dân biệt đãi cho Bộ Tài chính) vẫn còn treo đó thuế VAT (thuế giá trị gia tăng) mà chưa dám tăng từ 10% lên 12% do phản ứng dữ dội của doanh nghiệp, người dân và còn bởi cơ chế tăng thuế VAT rất nhiều khả năng sẽ nhấn thêm nền kinh tế vào nạn suy thoái, sự thật hiển nhiên và trần trụi là trong hai năm 2017 và 2018, Tổng cục Thuế đã phải chịu cảnh thất thu ở nhiều địa phương, kể cả Sài Gòn - nơi được Hà Nội ví là ‘Con bò sữa’.
‘Con bò sữa’ và Nguyễn Thiện Nhân
Ít nhất 1/3 trong số 63 tỉnh thành thu ngân sách không đạt kế hoạch năm 2018 là một bằng chứng sống động về thực tế ‘trong dân chẳng còn tiền để thu’. Thậm chí ngay cả ‘Con bò sữa’ cũng chỉ đạt kế hoạch thu ngân sách 2018 khoảng 98%.
Sài Gòn cũng là thành phố có nguồn thu bất động sản lớn nhất và thị trường nhà đất nơi đây đã được các nhóm đầu cơ cá mập ‘đánh lên’ suốt từ năm 2017 đến gần đây, nhưng trong 3 tháng qua có số thu thuế bất động sản chỉ ước 1.308 tỷ đồng, đạt 13,08% dự toán và giảm đến 74,85% so cùng kỳ. Những con số cực kỳ đáng báo động cho tương lai thu ngân sách của chế độ ‘ăn của dân không chừa thứ gì’.
Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên bộ chính trị kiêm bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - là quan chức được xem là cúc cung với những ‘người Bắc có lý luận’ để tìm cách ‘móc túi’ dân Sài Gòn càng nhiều càng tốt, kể cả âm thầm cho chìm xuồng vụ khiếu tố khổng lồ tại khu đô thị mới Thủ Thiêm và cho quân ‘cướp sạch’ 5 ha đất của dân ở khu Vườn Rau Lộc Hưng, đang phải đối mặt với một bài toán quá khó nhằn so với bằng cấp giáo sư tiến sĩ của ông ta : nếu không hoàn thành chỉ tiêu thu thuế hơn một ngàn tỷ đồng/ngày do ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng và chính phủ ‘kiến tạo’ giao, cái ghế bí thư thành ủy của Nhân sẽ lung lay mạnh ; nhưng nếu cố đấm ăn xôi lao theo vào vết xe đổ ‘chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy’ như bản cáo trạng của Nguyễn Ái Quốc tố cáo thực dân Pháp, chẳng có gì bảo đảm là dân Sài Gòn sẽ không ‘bùng’.
Tăng giá và thuế má là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt. Một đảng cộng sản ‘của dân, do dân và vì dân’ nhưng đang đẩy dân chúng vào cảnh tàn mạt bởi chế độ ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’.
Các mưu đồ tăng thuế từ dân xảy ra trong bối cảnh dân tình Việt ngày càng khốn khó trong một nền kinh tế đã rơi vào thảm trạng suy thoái đến năm thứ 11 liên tiếp, một xã hội bị acid đậm đặc bởi căn bệnh tham nhũng không còn cách gì cứu chữa. Thuế chồng thuế, chồng lên đôi vai gày guộc của người nghèo. Hàng triệu bệnh nhân, vốn đã bị các bệnh viện "bóp cổ bóp họng" và "không có tiền thì chỉ có chết," sẽ phải nuốt nước mắt vào lòng với biểu viện phí chất cao như núi…
Nhiều người dân ở các tỉnh đói nghèo ấy thốt lên : "Túi chẳng còn gì để nộp thuế nữa. Nếu nhà nước cứ tróc nã thì dân chỉ còn cách hoặc trốn đóng hoặc phản ứng tự vệ thôi."
Có bao nhiêu nguồn thu ‘không ổn định’ ?
Trong khi đó, kết quả thu ngân sách năm 2018 đối với khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đã bị giảm thu từ hơn 2% đến gần 3% so với dự toán, còn khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài - thành phần kinh tế dù không được xem là ‘chủ đạo’ như kinh tế quốc doanh nhưng lại đóng góp phần lớn tiền của cho GDP và nuôi sống bộ máy gần 3 triệu công chức viên chức mà trong đó có đến 30% ăn không ngồi rồi - còn tồi tệ hơn nhiều : giảm thu đến 15% so với dự toán.
Thêm vào đó, năm 2018 đã chứng kiến tỷ lệ doanh nghiệp phải phá sản và tạm ngừng hoạt động tăng vọt so với năm 2017 và tăng hơn hẳn so với tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới, năm 2019 cũng rất có thể chứng kiến nền kinh tế Việt Nam tiếp tục lọt thỏm vào chu kỳ suy thoái năm thứ 11 liên tiếp kể từ năm 2008, khiến sức sản xuất và khu vực lưu thông hàng hóa càng thêm trì trệ, càng làm rỗng túi doanh nghiệp mà do đó càng khiến khả năng ‘cống hiến’ cho ngân sách tồi tệ đi nhiều.
Bồi thêm vào tình trạng giảm thu thuế từ khối doanh nghiệp là hai nguồn thu từ dầu khí và nhà đất ngày càng lộ rõ dấu hệu ‘thu không bền vững’hay ‘thu không ổn định’.
3 tháng đầu năm 2019 dù trôi qua với kết quả tạm thời yên tâm dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam về thu ngân sách vẫn tăng so với cùng kỳ năm 2018, nhưng một ‘tin mừng’ bắt buộc phải xảy ra cũng kèm theo : nguồn thu từ tiền sử dụng đất liên tục giảm sâu.
Nếu quả bom bất động sản nổ, hoặc không nổ đột ngột thì sẽ phải xì hơi dần, chắc chắn mật độ thương vụ mua bán đất đai sẽ giảm dần hoặc giảm mạnh, kéo theo số thu thuế từ giao dịch đất đai sẽ giảm đáng kể trong những năm sau. Khi đó, ngân sách sẽ khó còn có nguồn thu tăng thêm từ tiền đất lên đến 60.000 – 70.000 tỷ đồng/năm, trong khi nguồn thu từ 3 khối kinh tế đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn không có gì khả quan hơn trong thời buổi kinh tế ngập ngụa suy thoái.
Từ tham đến ngu" : đào đâu ra tiền ?
Ngân sách nhà nước và ngân sách đảng sẽ tìm đâu ra nguồn mới để bù đắp cho cái miệng rộng ngoác như hàm cá mập của quốc nạn bội chi ngân sách, chi xài lãng phí vô tội vạ cùng quốc nạn tham nhũng mà đang nhấn chìm xã hội Việt Nam xuống tầng dưới cùng của địa ngục thời hiện đại ?
Liên tiếp trong nhiều năm qua, dự toán thu ngân sách năm sau đều được ‘quyết’ tăng hơn nhiều so với năm trước – từ 10 đến 12% vào thời kỳ kinh tế còn chưa rơi hẳn vào cơn suy thoái nhưng vẫn vống đến 8 đến 9% trong những năm gần đây, bất chấp phản ứng gay gắt của dư luận xã hội và tiếng kêu than oán ‘doanh nghiệp và sức dân đã cạn’, mà bằng chứng thảm thiết nhất là tỷ lệ doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và phá sản cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới.
Vào cuối năm 2018, Quốc hội đã cắm mặt gật đầu với dự toán thu ngân sách năm 2019 với số thu lên đến 1.411 ngàn tỷ đồng để phục vụ cho số chi ngân sách, trong đó có hơn 70% chi thường xuyên cho đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức chỉ tăng không giảm với 30% trong số đó ‘sáng cắp ô đi tối cắp ô về’ - lên đến 1.633 ngàn tỷ đồng.
Nhưng nếu số thu ngân sách năm 2018 vẫn cố ép thu và vẫn vượt dự toán khoảng 3%, thì số thu ngân sách năm 2019 đầy tham lam và duy ý chí sẽ rất có thể va phải bức tường kiên cố của tình trạng ‘thu không bền vững’ từ bất động sản, dầu khí và khối doanh nghiệp.
Ngay trước mắt, ngân sách nhà nước sẽ lấy đâu ra tiền để hô hấp cho đảng sau cái năm 2019 ‘thu đụng trần’ này ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 29/04/2019
Động thái Bộ Ngoại giao Việt Nam ‘bạch hóa’ về tình trạng sức khỏe của ‘đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng’ vào chiều ngày 25/05/2019 cho thấy điều gì ?
Ông Trọng tiếp ngoại trưởng Hoa Kỳ, Mike Pompeo, tại Hà Nội, hồi tháng Bảy, 2018.
Thừa nhận ‘đột quỵ’ ?
"Do cường độ làm việc cao, thời tiết thay đổi đã ảnh hưởng đến sức khỏe của đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ sớm trở lại làm việc bình thường" - người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng thông báo.
Cách thức ‘đọc bài’ trên hiện ra khi bà Hằng phải trả lời câu hỏi của hãng AFP về việc "một số nguồn tin cho biết Tổng bí thư bị đột quỵ trong chuyến công tác tại Kiên Giang vừa qua, tình trạng hiện nay và đang được điều trị ở đâu".
Đáng chú ý, bà Hằng đã không hề lên tiếng phủ nhận hay bác bỏ khả năng ‘đột quỵ’ mà phóng viên hãng AFP nêu ra.
‘Nguyễn Phú Trọng bị đột quỵ’ là một trong những đồn đoán nổ ra ngay từ chiều 14/4 tại Sài Gòn và sau đó lan như tên bắn ra cả nước. Còn khi ông Trọng được chuyên cơ đưa từ Kiên Giang - địa bàn xem là ‘căn cứ địa cách mạng gia tộc Nguyễn Tấn Dũng’ mà Trọng đến ‘làm việc’ đúng vào ngày sinh nhật của ông ta - lên Sài Gòn để vào thẳng Bệnh viện Chợ Rẫy, nghi vấn về đột quỵ đã chuyển thành cụ thể hơn : xuất huyết não. Thậm chí đến ngày 15/04/2049 còn xuất hiện thông tin cho biết ông Trọng bị liệt một cánh tay.
Trước khi Bộ Ngoại giao Việt Nam buộc phải lên tiếng về vấn đề của Trọng, tình hình dư luận đã đi quá xa khỏi tầm kiểm soát của đảng trong việc ‘bảo mật’ tin tức về Nguyễn Phú Trọng. Báo chí quốc tế bắt đầu chú tâm đặc biệt đến vấn đề sức khỏe và sự ‘mất tích’ của Trọng.
Vào gần cuối năm 2017, Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng có thời gian ‘mất tích’ khoảng 10 ngày. Nếu đối chiếu với thời gian hai tháng Mười và Mười Một năm 2017 khi mật độ xuất hiện của Tổng bí thư Trọng trên mặt báo đảng là bình quân từ 2 – 4 ngày/sự kiện và giữa hai sự kiện thường không cách nhau quá 5 ngày, thì việc ông Trọng "vắng mặt" đến gần 10 ngày xứng đáng là một dấu hỏi. Thậm chí là dấu hỏi lớn… Khi đó, đã xuất hiện những đồn đoán về tình trạng huyết áp và tim mạch của Trọng là ‘không tốt’.
Và lần này, giới quan sát chính trị quốc tế đang đặc biệt chú ý vấn đề sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng. Ngày càng xuất hiện nhiều bài viết, bài bình luận nước ngoài đặt dấu hỏi ‘Trọng ra sao rồi ?’. ‘Bị liệt một cánh tay’ cũng là tin tức mà Carl Thayer - giáo sư thuộc Học viện quốc phòng Australia và là một trong những chuyên gia am hiểu về tình hình chính trị Việt Nam - nhắc lại trong một bình luận mới đây.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ sớm quay lại làm việc - Thanh Niên (26/04/2019)
Không thể tránh thoát áp lực dư luận xã hội, quốc tế và cả áp lực đang mạnh dần lên trong nội bộ đảng - một nội bộ hỗn tương không chỉ với thành phần cán bộ cách mạng lão thành lo lắng cho sức khỏe của ‘minh quân’, mà cả những thế lực đối thủ chính trị của Trọng với ngoài mặt là lo lắng cho ‘lãnh tụ kính yêu’ nhưng bên trong hẳn chỉ muốn ông ta ‘nhắm mắt xuôi tay’ càng sớm càng tốt, rốt cuộc Ban Bí thư của nhân vật ‘Phó tổng bí thư đảng’ Trần Quốc Vượng đã phải quyết định cho Nguyễn Phú Trọng ‘tái xuất’ qua kênh ngoại giao, dù thông tin qua kênh này là mù mờ và trí trá hơn rất nhiều cái hiện thực ông Trọng đã phải nằm ‘điều trị tích cực’ suốt từ Kiên Giang về Hà Nội.
Một cách tối thiểu, chính thể độc đảng và luôn độc tôn bảo mật những tin tức nhạy cảm chính trị đã buộc phải thừa nhận tình trạng sức khỏe của ông Trọng là ‘có vấn đề’ mà đã khiến ông ta ‘mất tích’ hơn mười ngày qua.
Nhưng động thái ‘bạch hóa’ trên còn cho thấy gì khác ?
Ai làm trưởng ban quốc tang Lê Đức Anh ?
"Trưởng Ban Lễ tang nhà nước là Tổng Bí thư hoặc Chủ tịch nước" là một nội dung then chốt theo Nghị định 105/2012/NĐ-CP. Nguyễn Phú Trọng liệu có hiện ra với tư cách trưởng ban lễ tang cho quốc tang của cố chủ tịch nước Lê Đức Anh ?
Viên tướng từng ra lệnh ‘không được nổ súng’ trong trận bộ đội Việt Nam chống trả lại đợt xâm lược đảo Gạc Ma mà đã khiến toàn bộ binh lính Việt phải chịu một trận thảm sát tức tưởi, đã chính thức chết vào ngày 22/4/2019.
Nhưng thực ra, Lê Đức Anh đã làm dậy lên dư luận về cái chết của ông ta vào tháng 9 năm 2018, trùng thời gian với cái chết của kẻ hậu bối là chủ tịch nước Trần Đại Quang. Dấu hỏi rất lớn là vì sao từ đó đến nay Lê Đức Anh chưa chết mà chỉ mới đây - trùng với thời gian Nguyễn Phú Trọng ‘mất tích’ - mới ‘được quyền chết’ ?
Trong khi đó, có vẻ đã xảy ra một điều gì đó mà người ta có thể cho rằng đó là thuyết âm mưu hoặc không : có dư luận đặt nghi vấn về việc ‘ai đã ra lệnh rút ống thở Lê Đức Anh để buộc Nguyễn Phú Trọng phải xuất hiện ?’.
Trong lúc báo đảng vẫn kiên định thông tin về hoạt động của ‘Người’ gửi thư điện chức mừng giới chóp bu của chế độ độc tài Bắc Triều Tiên và vài nước khác, chi tiết rất đáng chú ý và mổ xẻ là thậm chí một bức ảnh về Nguyễn Phú Trọng ngồi chủ trì họp hoặc tối thiểu cũng có thể ngồi thẳng lưng trên giường (bệnh) cũng không thể có. Tình trạng trống vắng của cái chi tiết tối thiểu phải có ấy đang gợi ra một tình huống khủng khiếp : ‘Tổng tịch’ không những không ‘sức khỏe ổn định’ mà còn có thể rơi vào trạng thái trầm kha đến mức không thể tỉnh táo và ngồi dậy để có thể chụp một tấm hình cho ra ‘Tổng bí thư, chủ tịch nước đang làm việc’.
Chỉ đến lúc này mới hiện ra khuôn mặt xanh xao của Bộ Ngoại giao khi ‘bạch hóa’ về tình trạng sức khỏe của Trọng. Điều đó cũng có thể mang hàm ý là với lý do đầy thuyết phục là ‘ốm’, ‘tổng tịch’ có thể sẽ không cần phải xuất hiện trong đám quốc tang của ‘nguyên tịch’ Lê Đức Anh, mà vai trò trưởng ban lễ tang có thể giao cho một người khác - khả năng là Trần Quốc Vượng.
Tuy nhiên, thách thức lớn hơn nhiều so với đám tang Lê Đức Anh là một sự kiện khác sẽ xảy ra vào đầu hoặc khoảng trung tuần tháng 5 năm 2019 : Hội nghị trung ương 10, được tổ chức ngay trước kỳ họp quốc hội cùng tháng - rất thường là không thể vắng mặt Nguyễn Phú Trọng.
‘Deadline’ Hội nghị 10
Sự có mặt của Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị 10 là đặc biệt cần thiết vì những lý do cũ như tính cần kíp phải duy trì chiến dịch ‘đốt lò’, tiếp tục tăng tốc ‘cơ cấu cán bộ cấp chiến lược’ để chuẩn bị cho Đại hội 13, và những lý do mới hơn là cần có ý kiến chính thức của Trọng về một số dự luật như 3 công ước quốc tế còn lại về lao động, Bộ Luật Lao động, Luật về Hội… liên quan đến quan điểm của chính thể Việt Nam buộc phải nhượng bộ trước Liên Hiệp Châu Âu (EU) trước khi EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) được ký kết và phê chuẩn trong nửa cuối năm 2019 ; nhưng có lẽ đặc biệt hơn cả là bàn về nội dung và công tác sắp xếp ‘bầu đoàn thê tử’ cho chuyến đi Mỹ dự kiến sắp tới của Trọng theo lời mời chính thức của Donald Trump.
Nhưng cơn bạo bệnh xảy đến với Nguyễn Phú Trọng - đúng vào lúc ông ta đang ở đỉnh cao quyền lực - xứng đáng là một thách thức khủng khiếp đối với Trọng : có nên hoặc có buộc phải rời bỏ quyền lực để giữ sinh mạng hay là không ?
Nếu Trọng không thể xuất hiện, khi đó không chỉ dân chúng mà cả giới cách mạng lão thành và các quan chức trong nội bộ đảng hoàn toàn có thể nghi ngờ về Trọng không thể đảm bảo sức khỏe để ông ta có thể ‘ngồi’ từ đây cho đến khi Đại hội 13 diễn ra vào năm 2021. Từ đó, sẽ xuất hiện những đòi hỏi cần phải minh bạch hóa tin tức về Trọng, và chính Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương là cơ quan phải làm nhiệm vụ này, để nếu Trọng không còn đủ tỉnh táo để ‘lèo lái con thuyền của đảng và dân tộc’ thì phải bàn đến phương án ‘nước không thể một ngày thiếu vua’.
Hội nghị trung ương 10 là ‘deadline’ quan trọng đầu tiên mà Nguyễn Phú Trọng phải hiện ra và vượt qua, nếu ông ta còn muốn ‘ngồi’ đến cuối Đại hội 12.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 26/04/2019
Chưa đầy chục ngày sau cú đổ bệnh thình lình như bị trời giáng của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng ngay tại vùng ‘căn cứ địa cách mạng gia tộc Nguyễn Tấn Dũng’, vào ngày 13/04/2019 đã có thông tin chính thức từ cơ quan tuyên giáo trung ương và báo đảng về việc Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ đi Trung Quốc để dự Hội nghị BRI (hội nghị thượng đỉnh về sáng kiến Một vành đai, Một con đường do Bắc Kinh tổ chức) lần thứ hai từ ngày 25 - 27 tháng 4 năm 2019.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bắt tay Tập Cận Bình. (Twitter photo via GovtOfficeMedia)
Những dấu hiệu đầu tiên về chuyển giao quyền lực
Có thể cho đây là dấu hiệu chuyển giao quyền lực thứ hai từ bệnh nhân Nguyễn Phú Trọng cho những quan chức cấp dưới còn chưa bị bệnh.
Dấu hiệu đầu tiên về sự chuyển giao quyền lực trên đã xuất hiện ứng với cái tên Trần Quốc Vượng.
4 ngày sau biến cố ở Kiên Giang, đoàn Thượng viện Hoa Kỳ làm việc tại Việt Nam gồm 9 Thượng nghị sĩ của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, đại diện cho nhiều tiểu bang khác nhau của Hoa Kỳ do Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, Phó Chủ tịch Ủy ban Chuẩn chi làm Trưởng Đoàn, đã được tiếp bởi Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, chứ không phải bởi Tổng bí thư Trọng, tại Trụ sở Trung ương Đảng vào chiều ngày 18/4.
Thượng nghị sĩ Patrick Leahy là một trong những quan chức Mỹ mà Nguyễn Phú Trọng đã gặp khi ông Trọng đến Washington vào tháng 7 năm 2015 theo lời mời đặc cách dành cho ‘nguyên thủ quốc gia’ của Tổng thống Mỹ Barack Obama.
Chuyến thăm Việt Nam của đoàn Thượng viện Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2019 là khá quan trọng - tiền đề cho chuỗi mở rộng quan hệ quốc phòng Mỹ - Việt, cho khả năng một hàng không mẫu hạm của Mỹ sẽ hiện diện ngay tại quân cảng Cam Ranh vào tháng 9 năm 2019, phát triển các hợp đồng mua bán vũ khí và cho chuyến thăm Hoa Kỳ dự kiến của Nguyễn Phú Trọng vào mùa hè năm nay, nếu Trọng kịp hồi phục sức khỏe.
Tuy nhiên tình trạng vắng mặt của ông Trọng tại cuộc gặp với đoàn Thượng viện Hoa Kỳ, cùng với thông tin ngoài lề về tình trạng sức khỏe của ông ta ‘diễn biến xấu’ trong những ngày gần đây, thậm chí một chuyên gia nghiên cứu về chính trị Việt Nam là giáo sư Carl Thayer của Học viện quốc phòng Australia còn dẫn lại những thông tin đồn đoán về ông Trọng ‘bị liệt nửa người’, đang khiến cho chuyến thăm Hoa Kỳ dự kiến của Trọng có thể bị đình hoãn.
Không những thế, một hội nghị trung ương của đảng cầm quyền - Hội nghị 10 - dự kiến được tổ chức vào tháng 5 năm 2019 ngay trước kỳ họp quốc hội cùng tháng, cũng có thể hoặc không thể diễn ra, hoặc có diễn ra nhưng sẽ vắng Trọng.
Lồ lộ khoảng trống quyền lực
Ngay trước mắt, một kịch bản gần nhất và dễ xảy ra nhất là một khi Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương xác định bệnh tình của Nguyễn Phú Trọng không còn đủ khả năng ‘cống hiến lâu dài cho cách mạng’, sẽ xuất hiện những động thái trong đảng về vận động cho quá trình chuyển giao quyền lực dần dần.
Khoảng trống quyền lực mà Nguyễn Phú Trọng đang để lộ ra là quá lớn : có đến hai cái ghế không có người ngồi ở Văn phòng tổng bí thư và Văn phòng chủ tịch nước. Nhiều khả năng quyền lực của ông Trọng sẽ được chuyển gia theo cách về bên đảng, Trần Quốc Vượng - với vai trò là ‘phó tổng bí thư’ - sẽ dần đảm trách phần hành của tổng bí thư ; còn phó chủ tịch nước là Đặng Thị Ngọc Thịnh sẽ dần đảm trách việc tiếp khách quốc tế và những phần việc của chủ tịch nước để lại, trước khi tiến thêm một bước mới trên quan điểm ‘nước không thể một ngày thiếu vua’.
Trong những ngày báo đảng tích cực tuyên truyền về Tổng bí thư, chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vẫn liên tiếp tục gửi thư và điện chúc mừng giới chóp bu Bắc Triều Tiên và vài nước khác, nhưng lại không trưng ra nổi bất cứ hình ảnh hay video nào về ‘Tổng tịch’ đang chủ trì họp hoặc chí ít cũng đang ngồi trên giường (bệnh), bà Đặng Thị Ngọc Thịnh đã ‘tiếp khách nước ngoài thay’ vài ba cuộc cho đương kim chủ tịch nước. Đây là lần thứ hai trong vòng 6 tháng bà Thịnh phải làm ‘chân gỗ’ cho chủ tịch nước. Lần ‘chân gỗ’ đầu tiên xảy ra vào tháng 9 năm 2018 ngay sau khi cái chết đột ngột và rất đáng nghi vấn của Trần Đại Quang. Tuy nhiên vào lần đó, Đặng Thị Ngọc Thịnh đã chỉ ngồi ghế ‘quyền chủ tịch nước’ được vài ngày, bởi ngay sau đó là Hội nghị trung ương 8 đã ‘100% nhất trí’ cho Nguyễn Phú Trọng ‘nhất thể hóa’ cả hai ghế tổng bí thư và nguyên thủ quốc gia.
Tuy thế, vẫn còn một cái ghế mà hẳn là lúc chưa lâm vào cơn bạo bệnh, ông Trọng đã có ít nhất vài lần hoặc muốn ngồi luôn vào, hoặc tìm cách xoay hướng cái ghế đó về phía mình.
Đó là hai lần vào cuối năm 2017 và cuối năm 2018 khi Trọng chủ động dự hội nghị giao ban chính phủ với vai trò như thể chủ trì, cùng những chỉ đạo mang tính định hướng chung chung nhưng khiến nhiều người hiểu rằng đó là một thông điệp rất cụ thể về ‘quyền lực thực chất thuộc về ai’. Thậm chí khi đó đã dậy lên dư luận về khả năng Nguyễn Phú Trọng có thể ‘nhất thể hóa’ cả ba ghế tổng bí thư, chủ tịch nước và thủ tướng.
Vì sao là Phúc đi BRI ?
Thủ tướng Phúc là nhân vật duy nhất trong Bộ Chính trị không túc trực bên giường của bệnh nhân Nguyễn Phú Trọng sau biến cố Kiên Giang, vì khi đó Phúc còn phải lo công du Czech và Romania để vận động cho EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu – Việt Nam) - một hiệp định đang rước phải số phận chuông treo mành chỉ vì vô số vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của chính thể độc đảng ở Việt Nam.
Không bao lâu sau khi từ Đông Âu trở về nước, Thủ tướng Phúc đã được ‘Bộ Chính trị phân công’ dự Hội nghị BRI ở Trung Quốc - một hội nghị mà bằng thủ đoạn có cái tên thơ mộng ‘Một vành đai, Một con đường’, Bắc Kinh muốn lùa nhiều quốc gia trên thế giới vào cái chuồng bành trướng của nó.
Trước sự biến Kiên Giang, đã có thông tin chính ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sẽ dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam dự BRI, cũng có nghĩa là giới chóp bu Việt Nam một lần nữa phải lóp móp ‘chầu thiên triều’ và ‘đi Trung trước, đi Mỹ sau’.
Nhưng trong cái rủi cũng có cái may. Cú bạo bệnh đột ngột xảy đến với Nguyễn Phú Trọng vô tình đã khiến ông ta tránh được chuyến đi ‘chầu thiên triều’ mà chắc chắn sẽ bị người dân chửi bới và còn có thể phải đối mặt với đủ thứ rủi ro độc tố từ phía ‘đồng chí tốt’.
Hẳn tất cả ủy viên bộ chính trị Việt Nam đều ý thức như thể một cộng một bằng hai về những rủi ro ghê gớm mà họ rất có thể phải rước họa vào thân nếu đi Trung Quốc, nhất là khi đã xảy ra hai bài học nhãn tiền nghiệt ngã - một Nguyễn Bá Thanh Trưởng ban Nội chính trung ương bị cho là đã nhiễm căn bệnh lạ sau chuyến đi Trung Quốc vào năm 2014 và có thể đã dẫn tới cái chết đau đớn của ông ta vào đầu năm 2015 dù đã phải sang tận Mỹ chữa trị ; và bài học gần nhất là Trần Đại Quang cũng bị một căn bệnh lạ không kém sau khi dự Hội nghị BRI lần thứ nhất ở Bắc Kinh, khiến Quang phải đi Nhật điều trị ngay sau đó, nhưng cuối cùng cũng… chết.
Vì sao đi Bắc Kinh lần này không phải là Trần Quốc Vượng - ‘Phó tổng bí thư đảng’ và là nhân vật được xem là thân tín số một của Nguyễn Phú Trọng, hay Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch quốc hội, mà lại là Nguyễn Xuân Phúc ?
Lẽ nào Nguyễn Xuân Phúc xem thường những cái chết nhãn tiền trên ? Hay vào lần này Phúc thích đi Bắc Kinh và thích đưa hình ảnh của ông ta ‘nâng lên một tầm cao mới’ - chẳng hạn cách nào đó ông ta được xem như ‘nguyên thủ quốc gia’ trong hoàn cảnh mà nguyên thủ thật đang bị xem là ‘sống không bằng chết’ ?
Hay trong một tình thế quá tế nhị và quá khó nói ra, Nguyễn Xuân Phúc đã bị các đồng chí của ông ta trong Bộ Chính trị ‘đẩy’ đi Bắc Kinh - nơi mà khách đến đó chỉ có thể tạm an tâm sống sót bằng thực phẩm và nước uống mang theo, thậm chí bằng chính cái giường ngủ của mình ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 25/04/2019
Đạo luật Nhân quyền Việt Nam (HR 1383) có một số phận đầy long đong. Các phiên bản của đạo luật này đã được Hạ viện Mỹ thông qua ba lần vào các năm 2004, 2008 và 2012 với số phiếu ủng hộ áp đảo, tuy nhiên sau đó đã bị chặn tại Thượng viện.
Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)
Vào cuối tháng 2 năm 2019, Đạo luật Nhân quyền Việt Nam một lần nữa được đưa ra quốc hội Mỹ để trừng phạt Việt Nam về những vụ vi phạm nhân quyền ở trong nước. Đạo luật này cũng nhằm mục đích ưu tiên hóa tự do tôn giáo, tự do internet và các quyền của người lao động. Tác giả đưa ra đạo luật này, không ai khác vẫn là Dân biểu Chris Smith, thành viên cấp cao của Tiểu ban Nhân quyền Toàn cầu của Hạ viện.
Cùng với Chris Smith là hai dân biểu Dân chủ Alan Lowenthal – người được biết tiếng về những phát biểu ủng hộ nhân quyền Việt Nam, và dân biểu Dân chủ Zoe Lofgren, đại diện bang California.
Còn dự luật về chế tài nhân quyền Việt Nam ?
Vào năm 2015, một Thượng nghị sĩ Mỹ là Ed Royce đã phải đệ trình ra Quốc hội dự luật về chế tài nhân quyền Việt Nam, mang số hiệu HR. 4254. Theo dự luật này, vấn đề chính yếu không chỉ là hạn chế những khoản tín dụng và viện trợ có tính cách ưu đãi từ phương Tây, mà cả thực hiện những biện pháp chế tài đối với những trường hợp quan chức Việt Nam vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Cũng trong năm 2015 và lan sang năm 2016, nhiều thượng nghị sĩ Mỹ đã đòi Hoa Kỳ phải đưa Việt Nam trở lại Danh sách CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo). Nếu Việt Nam đã được Mỹ nhấc khỏi Danh sách này vào năm 2006, thì nay lại đang khá gần với triển vọng "tái hòa nhập" CPC. Nếu bị đưa vào CPC một lần nữa, có nhiều khả năng Việt Nam sẽ bị áp dụng cơ chế cấm vận từng phần về kinh tế và cả quốc phòng. Khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn đã chênh vênh bên bờ vực thẳm, sẽ càng dễ sa chân sụp đổ.
Việc áp đặt những biện pháp trừng phạt đối với những quan chức chính phủ Việt Nam "đồng lõa trong những vụ vi phạm nhân quyền nhắm vào người dân Việt Nam" là tinh thần sắt son trong bản Dự Luật Chế Tài Nhân Quyền Việt Nam mà những nghị sĩ cứng rắn như Ed Royce tiếp bước "Lộ trình Miến Điện".
Là một dự luật lưỡng đảng, HR. 4254 nhắm vào những quan chức chính phủ, công an và những người khác vi phạm nhân quyền đối với những nhà bất đồng chính kiến ôn hòa. Những biện pháp được kiến nghị bao gồm những hạn chế du hành và trừng phạt về tài chính.
Căn cứ vào HR. 4254, những người Việt Nam có tên trong danh sách vi phạm nhân quyền sẽ không được nhập cảnh hay quá cảnh ở Hoa Kỳ, không được cấp bất kỳ quy chế di trú hợp pháp nào, và cũng không được phép nộp đơn hay thỉnh nguyện liên quan đến những việc này. Về mặt tài chính, những cá nhân này sẽ bị phong tỏa tài sản, bị hạn chế hoặc bị cấm giao dịch tài chính và đưa tài sản vào hay ra khỏi Hoa Kỳ :
"Tổng thống sẽ đóng băng và cấm chỉ tất cả các giao dịch liên quan đến tất cả các tài sản và lợi ích của một cá nhân trong danh sách được quy định ở điểm (c)(1) nếu những tài sản và lợi tức đó nằm ở Hoa Kỳ, rơi vào Hoa Kỳ, hoặc nằm ở hoặc rơi vào quyền sở hữu hoặc kiểm soát của một người Mỹ".
Và "Sau không quá 90 ngày từ ngày ban hành đạo luật này, tổng thống sẽ đệ trình lên những Ủy Ban Quốc Hội thích hợp danh sách của các cá nhân, là công dân Việt Nam, mà tổng thống xác định là dính líu đến những vụ vi phạm nhân quyền chống lại nhân dân Việt Nam hoặc thân nhân của họ, bất kể việc những vụ vi phạm đó có xảy ra ở Việt Nam hay không... Danh sách được quy định trong đoạn (1) sẽ được công khai cho công chúng và được đăng trên các trang web của Bộ Ngân Khố và Bộ Ngoại Giao".
Và Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu
Đến năm 2016, sau một thời gian dài do dự vì điều được cho là thái độ mềm mỏng hơi thái quá của chính quyền Obama đối với vấn đề nhân quyền quốc tế, ngày 8/12 Quốc hội Mỹ đã chính thức thông qua một dự luật nhân quyền - Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu (Global Magnitsky Human Rights Accountability Act) - nhắm vào những cá nhân vi phạm nhân quyền và những giới chức tham nhũng trên toàn cầu. Dự luật này - do hai Thượng nghị sĩ John McCain và Ben Cardin giới thiệu tại Thượng viện - được thông qua chưa tới một tuần sau khi một dự luật tương tự do hai Dân biểu Chris Smith và Jim McGovern đệ trình tại Hạ viện được chuẩn thuận với tỷ lệ áp đảo đến 2/3.
Vào đúng dịp lễ Giáng sinh năm 2016, hai dự luật trừng trị các cá nhân vi phạm nhân quyền trên thế giới đã được Tổng thống Obama đặt bút ký ban hành.
Theo Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu, những quan chức vi phạm nhân quyền sẽ bị chế tài theo hai cách. Thứ nhất, cấm nhập cảnh Hoa Kỳ kể cả đi công vụ. Nếu muốn được miễn trừ lệnh cấm này thì Tổng thống phải có sự miễn trừ đặc biệt và phải giải thích với Quốc hội. Thứ hai, chính phủ Mỹ đóng băng tất cả các tài sản của những cá nhân vi phạm nhân quyền, cho dù họ che giấu bằng bất kỳ hình thức nào hay gửi gắm ai đứng tên.
Tại rất nhiều các nước độc tài, kẻ vi phạm nhân quyền cũng chính là những tay tham nhũng lớn, giấu của cải ở các nước phương Tây. Quan trọng hơn, luật áp dụng với tất cả các loại nhân quyền được quốc tế công nhận. Theo luật này, những người cưỡng đoạt tài sản của nhân dân cũng bị xem là những kẻ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Tình trạng dân oan bị mất đất ở Việt Nam lại rất phổ biến. Những giới chức tham nhũng mà trừng trị những người tố cáo tham nhũng cũng bị xem là vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Còn vào lần này, tương lai của Đạo luật Nhân quyền Việt Nam sẽ ra sao ? Vẫn sẽ bị thượng viện Mỹ chặn hay sẽ có một số phận tươi sáng hơn ba lần trước ?
Sẽ vượt qua Thượng viện ?
Dân biểu Chris Smith, người đã chủ tọa 11 cuộc điều trần về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam, viết : "nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục tìm cách trấn dẹp xã hội dân sự, đàn áp tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, Hà nội tiếp tục bỏ tù các blogger và các nhà hoạt động nhân quyền". Ông cũng bổ sung : "Năm vừa rồi là một năm tồi tệ cho nhân quyền Việt Nam. Công dân Mỹ Michael Nguyễn, một người cha có bốn con cư ngụ ở Los Angeles, tiếp tục bị giam giữ mà không qua quy trình pháp lý nào, ông ấy không phải là người Mỹ duy nhất bị bắt và bị ngược đãi ở Việt Nam trong năm qua".
Có hy vọng là Thượng viện Hoa Kỳ sẽ xem xét với một con mắt khác về Đạo luật Nhân quyền Việt Nam, bởi bối cảnh hiện thời là khác khá nhiều so với những năm 2015 và 2016. Từ năm 2016, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã gia tăng đàn áp nhân quyền và những tiếng nói bất đồng chính kiến, phát động một chiến dịch bắt bớ liên tục với số đông những người hoạt động nhân quyền suốt từ đó đến nay. Và đặc biệt, vụ Việt Nam bị Nhà nước Đức tố cáo đã bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã ‘chuyển lửa’ sang cả khối Liên minh châu Âu, khiến cả phương Tây giờ đây đều như chống lại chính thể độc trị Việt Nam sở hữu vô số vi phạm nhân quyền.
Đó cũng là nguồn cơn khiến vào tháng 11 năm 2018, Nghị viện châu Âu đã phải ban hành một nghị quyết nhân quyền Việt Nam với nội dung rất rộng và lời lẽ lên án cứng rắn chưa từng có. Sang tháng 2 năm 2019, Hội đồng châu Âu đã phải thông báo hoãn vô thời hạn EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam) với lý do thực chất là Việt Nam vi phạm nhân quyền.
Hẳn những động thái của Nghị viện châu Âu có thể tác động một cách trực tiếp đến quan điểm và hành động của Quốc hội Hoa Kỳ, để Thượng viện của quốc hội này sẽ phải bày tỏ ý kiến một cách không nương nhẹ về Đạo luật Nhân quyền Việt Nam trong thời gian tới.
Những kẻ nào muốn mất trắng ?
Dường như "Lộ trình Miến Điện" đang tái hiện những nút thắt cùng uy lực bọc đồng của nó đối với trường hợp Việt Nam : Từ lên án vi phạm nhân quyền đến chế tài những chủ thể sinh đẻ các vi phạm đó.
Nhiều thông tin cho biết vào năm 2011, Mỹ và phương Tây đã phải tiến hành chế tài về nhập cảnh và phong tỏa tài sản đến 5.000 nhân vật chính khách, quân đội và công an ở Miến Điện - một liều thuốc đặc trị cho căn bệnh đàn áp dân chúng và đối lập thật khó có thuốc chữa tại quốc gia đã từng dìm trong bể máu cuộc "Cách Mạng Áo Cà Sa".
Không phải và chẳng bao giờ, tự do và dân chủ là món quà trên trời rơi xuống. Cũng không hẳn chuyện quốc tế đổ tiền sẽ làm nguội lạnh những cái đầu tham lam lẫn sắt máu. Dĩ nhiên Miến Điện được như ngày nay là nhờ cú đi roi song hành với tiến trình xóa nợ quốc gia.
Nếu cả hai Dự luật nhân quyền Việt Nam và Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam được Quốc Hội Mỹ thông qua, đó sẽ là một đòn giáng mạnh vào giới quan chức Việt Nam "ăn của dân không chừa thứ gì" đã và đang tẩu tán tài sản ra nước ngoài.
Lẽ nào tương lai của "một bộ phận không nhỏ" giới quan chức, công an Việt Nam cùng vợ con họ - những người đã có đủ thời gian khiến tổ quốc bị loang máu ngoại tệ sang tận Úc, Mỹ, Anh, Canada hay các nước Bắc Âu, những người nồng nàn tình yêu tổ quốc đến mức sẵn sàng nhảy lên máy bay vù ra ngoại quốc vào bất kỳ thời điểm nào xảy ra "biến cố" với chế độ, sẽ cam chịu thúc thủ và tự khép mình vào thế "triệt buộc", bị mất trắng "tổ quốc", tài sản và có khi tính mạng như triều đại đã lâm chung ở Libya năm 2011, Ukraine 2014 và có thể sẽ là Venezuela năm 2019 ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 26/04/2019
Từ năm tài khóa 2016, Chính phủ và Bộ Tài chính đã quyết định "ém" mà không đưa phần chi trả nợ gốc vào mục bội chi ngân sách, cố ép tỷ lệ bội chi/GDP giảm xuống để làm đẹp báo cáo.
Thành tích mới thời ‘cướp đường đoạt ghế’
Chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ và ‘mỗi tỉnh là một đầu tàu kinh tế’ lại vừa đạt được một thắng lợi chính trị trong nội bộ đảng đang cướp đường đoạt ghế đến đại hội 13 : kết thúc quý 1, chi ngân sách quốc gia thấp hơn thu ngân sách quốc gia 6.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 250 triệu USD.
Nếu những con số trên được phản ánh trung thực và có thể tin cậy được, đây là quý hiếm hoi mà ngân sách Việt Nam không những không bị bội chi mà còn có được một chút dôi dư - điều trở nên kỳ diệu khi so sánh với mức bội chi ngân sách thời sếp của Nguyễn Xuân Phúc là Nguyễn Tấn Dũng, bình quân 5 - 6% GDP, tức luôn vượt hơn mức 5% mà Liên hiệp quốc quy định là ‘mức nguy hiểm’. Nạn tham nhũng và chi xài lãng phí vô giới hạn là hai đặc trưng trên bản mặt của thủ tướng thời đó.
Nguyễn Xuân Phúc có những quyết tâm riêng của ông ta. Sau khi chính thức thay thế ‘anh Ba X’ bị rớt đài với một trong những nguyên do chính là thành tích điều hành kinh tế vừa yếu kém vừa ‘chẳng biết gì’ về tài chính khiến bội chi ngân sách năm nào cũng như năm nào đều đội mồ sống dậy, thời của Phúc đã siết lại được phần nào kỷ luật thu chi ngân sách bằng chủ trương tiết kiệm chi thường xuyên (phần chi lương và phụ cấp cho đội ngũ công chức gần 3 triệu người), tiết giảm chi đầu tư phát triển, giảm biên chế…
Mức bội chi ngân sách được ‘quyết tâm’ kéo giảm’ xuống còn dưới 5% GDP, thậm chí lạc quan hơn thì dưới 3% GDP, tức vào khoảng 200.000 tỷ đồng.
Nhưng làm thế nào để kéo giảm tỷ lệ bội chi trong khi tỷ lệ chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách vẫn chiếm đến 70 - 80 % mà không hề thuyên giảm, bất kể số thu ngân sách đang có chiều hướng đụng trần và sụt giảm mà đã khiến đảng cầm quyền lẫn chính phủ cuống quýt tìm cách đè đầu dân tăng nhiều loại thuế như VAT (giá trị gia tăng), thuế sử dụng đất và đủ các sắc thuế mang tính ‘kiến tạo’ khác mà bị người dân chửi rủa ‘chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy’… ?
Trong khi đó, đội ngũ công chức không những không giảm mà còn phình to hơn đến gần 100 ngàn người từ thời ông Phúc trở thành thủ tướng. Còn phần chi đầu tư phát triển, mà về thực chất là chi cho các công trình hạ tầng cơ sở như giao thông, xây dựng cơ bản, trụ sở hành chính, bảo tàng, tượng đài… có bị cắt giảm phần nào, nhưng không phải là do "thành ý" của chính phủ mà bởi ngân sách đã khốn đốn đến mức chính giới quan chức chính phủ và quốc hội đã phải thừa nhận không còn biết tìm đâu ra tiền cho đầu tư phát triển nữa, hoặc do thực tế chậm giải ngân vốn đầu tư phát triển.
Vậy là như dân gian đương đại truyền khẩu ‘trong cái khó ló cái… khôn vặt’. Một trong những đặc trưng nổi bật của Thủ tướng Phúc mà đã không có ở thủ tướng Dũng là thiên bẩm về… số học.
Thủ thuật mới : ‘đá’ nợ gốc khỏi cơ cấu bội chi
Từ năm 2016, Nguyễn Xuân Phúc đã bắt đầu quan tâm đến GDP và cách làm sao để chỉ số giá trị tổng sản lượng quốc gia này chỉ có tăng khá đến tăng mạnh mà không thể tụt dốc. Hẳn đó là nguồn cơn vì sao trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam, theo nhiều đánh giá độc lập, vẫn ậm ạch và thực chất đã lao vào chu kỳ suy thoái kinh tế năm thứ 11 liên tiếp kể từ năm 2008, GDP vẫn được báo cáo quá sức hồng hào với tỷ lệ gần 7% và trên cả 7%. Tổng cục Thống kê đã trở thành một công cụ đầu sai ‘ngoan hiền dễ bảo’ cho những tính toán số học quá khó tin như thế.
Sau đó, thậm chí Thủ tướng Phúc còn manh dạn yêu cầu Tổng cục Thống kê ‘dưa kinh tế ngầm vào GDP’. Nguyên tắc là quá đơn giản của học sinh cấp 1 : chỉ cần ước tính ‘kinh tế ngầm’ (nền kinh tế phi chính thức, bao gồm cả buôn lậu) khoảng 20- 30% GDP hiện hữu là sẽ có GDP tương lai vọt đến gần 300 tỷ USD, thừa sức đưa việt Nam trở thành ‘một trong những trung tâm kinh tế mới nổi trên thế giới’.
Cũng từ năm 2016, Thủ tướng Phúc đã quan tâm và chỉ đạo một vấn đề mà có lẽ vào thời Nguyễn Tấn Dũng đã chẳng nghĩ ra : không tính chi trả nợ gốc vào bội chi ngân sách nhà nước từ năm tài khóa 2016.
Đó là lý do tại sao từ năm tài khóa 2016, Chính phủ và Bộ Tài chính đã quyết định "ém" mà không đưa phần chi trả nợ gốc vào mục bội chi ngân sách, cố ép tỷ lệ bội chi/GDP giảm xuống để làm đẹp báo cáo, cùng với sự toa rập của một quốc hội mà chắc chắn thừa biết cái nguyên tắc đương nhiên phải tính nợ gốc vào cơ cấu bội chi, nhưng chỉ biết ‘gật’. Đó cũng là một bí mật riêng có của một chính thể độc đảng và độc quyền về công bố báo cáo thu chi ngân sách, bất chấp yêu cầu về minh bạch tài chính ngân sách của Liên hiệp quốc và các tiêu chuẩn hướng tới một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa - điều mà chính thể này đang rất thèm muốn có được để được vay các nguồn tài chính ưu đãi từ quốc tế.
Đến năm tiếp theo - 2017, tỷ lệ bội chi ngân sách lập tức được kéo giảm đầy bất ngờ và kỳ lạ.
Cần nhắc lại, kế hoạch của chính phủ chi trả nợ gốc và lãi năm 2017 là khoảng 260 ngàn tỷ đồng, trong đó phần nợ gốc có thể chiếm khoảng 2/3 trong số đó, tức khoảng 170 ngàn tỷ đồng.
Với dự toán bội chi ngân sách năm 2017 là khoảng 250 ngàn tỷ đồng, nếu tính cả phần chi trả nợ gốc vào bội chi ngân sách năm 2017, con số bội chi thực sự sẽ lên đến khoảng 420 ngàn tỷ đồng, chiếm đến khoảng 8-9% GDP (so với GDP năm 2017 khoảng 210 - 220 tỷ USD) tức còn cao hơn hẳn mức bội chi kỷ lục "thời Nguyễn Tấn Dũng" vào năm 2013 là 6,6% GDP.
Cũng với thủ thuật ‘ém nợ gốc’như thế, năm 2018 đã được hệ thống tuyên giáo và báo đảng tung hô ‘lần đầu tiên sau 13 năm, ngân sách thặng dư 400 tỷ đồng’.
Còn năm 2019 thì sao ?
Vẫn trên 5% ?
2019 lại là năm ‘bản lề’ của công cuộc ‘xác định cán bộ cấp chiến lược cho đại hội 13’ - một đại hội của đảng cầm quyền mà nếu còn xảy ra thì sẽ vào năm 2021. Cuộc đua đến đại hội này ngày càng trở nên quyết liệt và sắc máu, mà ngoài truyền thống tung hê đơn thư tố cáo nội bộ trên mạng xã hội cùng hiệu ứng đáng sợ của chiến dịch ‘đốt lò’, thì bất cứ kết quả nào được xem là khả quan về thành tích điều hành kinh tế - ngân sách cũng ghi điểm cho quan chức cao nhất trong Bộ Chính trị có cơ hội điều hành kinh tế là Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng vào quý 1 năm 2019, ngân sách Việt Nam phải trả nợ 4 tỷ USD, tương đương khoảng hơn 90.000 tỷ đồng. Nếu tỷ lệ nợ gốc/tổng nợ phải trả vẫn khoảng 2/3, con số nợ gốc mà ngân sách Việt Nam phải trả vào quý 1 năm 2019 là 60.000 tỷ đồng. Mà như vậy, không thể có chuyện ngân sách ‘có thặng dư 6.000 tỷ đồng’, mà đã bội chi gấp 10 lần con số đó trong quý 1 năm 2019, biến ‘thành tích’ của Thủ tướng Phúc thành nỗi bất hạnh cho cá nhân ông ta, nhưng trên hết là cả một dân tộc bị đè đầu bóp họng để có tiền trả nợ.
Để nếu mức bội chi ngân sách 60.000 tỷ đồng của quý 1 được mặc định cho nguyên năm 2019, tỷ lệ bội chi ngân sách 2019 sẽ vẫn là một bản sao trung thành của thời Nguyễn Tấn Dũng : trên 5%.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 24/04/2019
Năm 2019 đang chứng kiến lần đầu tiên nhà cầm quyền Việt Nam buộc phải chuyển dần từ cơ chế độc tài sang "mị dân chủ" – một giai đoạn bắt buộc phải xảy ra trước khi tiến đến thời kỳ "bán dân chủ" để hướng tới tương lai dân chủ hoàn toàn cho dải đất hình chữ S quằn quại áp bức – đó là buộc phải "lấp ló" Luật lập Hội sau 6 năm.
Công nhân tại một khu công nghiệp ở Bình Dương trong một lần đình công đòi tăng lương nhưng không được tổ chức công đoàn của nhà nước bảo vệ. (Hình : Getty Images)
EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Châu Âu-Việt Nam) là chất xúc tác chính yếu cho giai đoạn chuyển đổi từ độc tài toàn trị sang "mị dân chủ", theo cách không thể nào cưỡng lại.
Không còn cách nào khác
"Luật về Hội" (tên gọi sau này của Luật lập Hội) là một trong những nhân tố kích thích dân chủ hóa, dù ngay vào lúc này và trong năm 2020 vẫn rất có thể chỉ là sắc thái mị dân mà nhà cầm quyền Việt Nam "kiến tạo" để đối phó với EU (Liên Hiệp Châu Âu), liên quan đến số phận còn đang chuông treo mành chỉ của EVFTA.
"Dự án Luật về hội đã được Ban Cán Sự Đảng chính phủ báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính Trị" – được thông báo bởi Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long tại phiên họp thứ 33, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 10/04/2019 – là nhượng bộ tiếp theo của chính thể độc đảng Việt Nam trước EU.
Ngay trước đó, lần đầu tiên giới chóp bu Việt Nam chịu xuống thang trước yêu cầu của EU về việc ký kết 3 công ước quốc tế còn lại về lao động, liên quan đến Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó đặc biệt là công ước quốc tế về quyền tự do thành lập công đoàn độc lập của người lao động (cách gọi của chính quyền Việt Nam là "công đoàn cơ sở").
Những dấu hiệu nhượng bộ trên xuất hiện trong và ngay sau chuyến đi Châu Âu vào cuối tháng Ba, năm 2019, của bà Nguyễn Thị Kim Ngân – Chủ tịch quốc hội Việt Nam, sau cuộc gặp với Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế của Liên Hiệp Châu Âu (EU) là Bernd Lange – một cơ quan tham mưu rất quan trọng về các hiệp định thương mại quốc tế và có vai trò quan trọng không kém Hội Đồng Châu Âu.
Việc Luật về Hội đã được Ban cán sự chính phủ làm tờ trình xin ý kiến Bộ Chính trị cho thấy nhiều khả năng dự luật này, cùng 3 công ước quốc tế còn lại về lao động, sẽ được "đảng quyết định tất cả" để sau đó đưa ra kỳ họp Quốc hội, tháng 5/2019, cho các đại biểu Quốc hội đồng loạt "gật".
"Gật giả"
Vào cuối năm 2013, sau cuộc hội đàm của ông Trương Tấn Sang (chủ tịch nước) với Tổng thống Obama tại Tòa Bạch Ốc với chủ đề chính về triển vọng người Mỹ chấp thuận cho Việt Nam tham gia vào hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), chính quyền Việt Nam bắt đầu lấp ló trả tự do cho một ít tù nhân lương tâm và đưa dự thảo "Luật lập Hội" (tên của dự luật này vào thời điểm đó) ra hội thảo để "chuẩn bị thông qua và ban hành".
Nhưng hứa hẹn và cam kết luôn là động tác đầu môi chót lưỡi của giới quan chức cao cấp Việt Nam. Có vẻ như ngay cả Tổng thống Obama cũng không biết rõ cách hứa hẹn như vậy thật ra chẳng có giá trị gì.
Trong thực tế, chính quyền Việt Nam chỉ thả hạn chế tù nhân lương tâm, trong số đó có những người bị tống xuất đi Mỹ mà không cho ở lại Việt Nam, còn Luật lập Hội thì chỉ làm vài động tác "hội thảo", "lấy ý kiến", "chuẩn bị thông qua", nhưng đã chẳng có gì thực chất mà chỉ như một thể thống trí trá, giả dối và lưu manh.
Từ năm 2013 đến năm 2016, cứ mỗi cuối năm dự thảo Luật lập Hội lại được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và một số hội đoàn nhà nước mang ra "xào lại" theo ý chỉ của đảng.
Vào quý 4 năm 2016, dự thảo Luật lập Hội được đổi thành dự thảo "Luật về Hội" và tiến gần nhất đến ranh giới thông qua vào đầu kỳ họp Quốc hội vào cuối tháng 10/2016.
Nhưng ngay sau cuộc gặp giữa Đinh Thế Huynh – Thường trực Ban Bí thư – và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry tại Washington, DC vào buổi sáng ngày 25/10/2016, Dự Luật về Hội mới bất ngờ bị Quốc hội Việt Nam hoãn lại.
Đó cũng là bối cảnh Thượng Viện Mỹ đã tuyên bố thẳng thừng sẽ không họp hành gì về TPP trong năm 2016. Điều đó cũng có nghĩa là TPP, nếu còn đôi chút tương lai để được xem xét và thông qua, sẽ phải bị treo lại thêm ít nhất một năm nữa. Ngay lập tức, tác động tiêu cực trên đã khiến chẳng cần đảng phải chỉ đạo, Quốc hội Việt Nam cũng mau mắn "hoãn bỏ phiếu thông qua TPP".
Chỉ đến cuối năm 2017 khi CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, thay thế cho Hiệp định TPP) được các nước chính thức thông qua, trong đó có nội dung bắt buộc về công đoàn độc lập và quyền tự do lập công đoàn tự do của người lao động, chính quyền Việt Nam mới một lần nữa lấp ló Luật về Hội, nhưng cũng chỉ treo ở đó để chờ tín hiệu từ cuộc mặc cả về EVFTA và cả "thẻ vàng hải sản" từ phía EU.
Có còn là "luật phản động" ?
Dự thảo Luật về Hội của chính quyền Việt Nam – được "kế thừa" từ nghị định số 45 của chính phủ Việt Nam về quản lý hội đoàn – thực chất là thế nào ?
Vào tháng 10/2016, một số nghiên cứu và phân tích từ xã hội dân sự đã cho thấy nghị định số 45 có nhiều vết tích được cho là lấy từ nguồn gốc những văn bản pháp quy về cùng đối tượng quản lý ở Trung Quốc. Sau đó, một bàn tay bí mật nào đó ở Việt Nam đã cố tình sao chép các quy định của Trung Quốc vào dự thảo mới nhất của luật về Hội để trình cho Quốc hội.
Khi đó, nhiều người nghĩ ngay bàn tay bí mật trên chính là Bộ Công an, cơ quan chưa bao giờ có một chút thiện chí với những quyền căn bản của người dân. Hầu như chắc chắn là như thế.
Nhiều thông tin cho biết bộ này, mặc dù không có vai trò chủ trì soạn thảo Dự luật về Hội như Bộ Nội vụ, nhưng lại là tổng đạo diễn đối với những kịch bản phân loại các tổ chức xã hội dân sự độc lập vào loại "đối kháng" hay "đối lập ôn hòa", cùng những bổ sung vào luật mang màu sắc đặc trưng của áp chế độc tài.
Dự luật về Hội cũng bởi thế tựa như một loại quả táo tẩm thuốc độc. Dự luật này được tung ra với nhiều điều khoản không chỉ quá thiên về hoạt động quản lý nhà nước mà còn để lộ quá rõ ràng ý đồ "siết" đối với xã hội dân sự, trong đó có những quy định "Không được nhận tài trợ, liên kết với tổ chức nước ngoài", "Người nước ngoài ở Việt Nam không được lập hội", "Lãnh đạo hội phải được nhà nước phê chuẩn". Điều 4 dự thảo này còn quy định mọi hội đoàn phải "được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập, công nhận điều lệ và người đứng đầu".
Thậm chí quy định về việc không cho người nước ngoài được lập hội lại khá giống với quy định tương tự ở Trung Quốc và gần giống với nước Nga thời Putin.
Trong một cuộc tọa đàm về Dự luật về Hội tại Liên hiệp các tổ chức khoa học và kỹ thuật ở Hà Nội, một luật sư nhân quyền đã phải tố cáo Dự Luật về Hội là "luật phản động".
Sẽ "gật thật" ?
Từ đầu năm 2017, trong khi TPP vẫn ngổn ngang mà không có Mỹ, EVFTA đã xuất hiện trong bối cảnh "thế nước đang lên" – điều được giới tuyên giáo Việt Nam ca tụng, nhưng cũng là bối cảnh một nền ngân sách đang nhanh chóng vì cạn kiệt, một nền kinh tế đang lao vào năm suy thoái thứ 10 liên tiếp kể từ năm 2008, một xã hội nhiều mầm mống phản kháng và khủng hoảng, một nền chính trị xung đột tứ bề và nạn sứ quân hoành hành khắp nơi, chưa kể hàng năm Việt Nam phải trả hàng chục tỷ đô la nợ nước ngoài…
Giờ đây chưa có gì để hy vọng vào TPP, chính thể Việt Nam chỉ còn EVFTA là hiệp định thương mại mang lại lợi lộc nhiều nhất ứng với đà xuất siêu của Việt Nam sang Châu Âu lên đến 25 tỷ USD mỗi năm – gần bằng giá trị nhập siêu lên đến 30 tỷ USD hàng năm (chỉ tính theo đường chính ngạch, chưa kể khoảng 20 tỷ USD nhập siêu theo đường tiểu ngạch) của Việt Nam từ Trung Quốc.
Cũng như TPP, việc ban hành Luật về Hội, ký 3 công ước quốc tế còn lại về lao động, công nhận Công đoàn độc lập và công nhận Xã Hội Dân Sự là những điều kiện quan trọng của EU mà chính quyền Việt Nam phải đáp ứng để được tham gia vào EVFTA.
Bởi thế sẽ khác khá nhiều với quá khứ "gật giả", vào lần này có thể là "gật thật".
Vào năm 2019, việc giới quan chức Việt Nam phải cam kết với EU về những điều kiện cải thiện nhân quyền liên quan EVFTA, cùng lúc ở trong nước đảng chỉ đạo cho tái hiện Luật về Hội phát ra ít nhất 2 chỉ dấu quan trọng.
- Thế và lực hiện nay của chính quyền Việt Nam là yếu hơn khá nhiều so với 6 năm trước.
- Trong bối cảnh "vận nước đang lên" như thế, một lực đẩy bình thường của EU vẫn có thể khiến tảng đá bảo thủ phải dịch chuyển.
Vấn đề còn lại là lực đẩy trên sẽ được duy trì trong bao lâu, hoặc gia tăng đến mức độ nào để có thể bẩy hẳn tảng đá bảo thủ khỏi sức ì không còn quá lớn của nó, mang lại chí ít kết quả về một Luật về Hội cởi mở, tiến bộ, công nhận xã hội dân sự và công đoàn độc lập chứ không bị xem là "luật phản động" !
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 22/04/2019
Dấu hiệu nhượng bộ thứ hai
"Nhận thức về một số vấn đề về lao động giữa hai Bên có thể còn có những khác biệt nhất định, nhưng Quốc hội Việt Nam sẽ nghiêm túc, xem xét kỹ lưỡng các quy định có liên quan đến 3 Công ước của Tổ chức ILO theo khuyến nghị của EU, EP. Hiện nay, việc sửa đổi Bộ luật Lao động cũng đã được khởi động và theo lịch trình, tại kỳ họp tháng 5 tới, Quốc hội Việt Nam sẽ cho ý kiến về việc sửa đổi này" là dấu hiệu nhượng bộ thứ hai, được phát ra bởi Đài Tiếng nói Việt Nam về chuyến đi Châu Âu vào cuối tháng 3 năm 2019 của Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch quốc hội Việt Nam, khi bà Ngân gặp Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế của Liên minh Châu Âu (EU) là Bernd Lange - một cơ quan tham mưu rất quan trọng về các hiệp định thương mại quốc tế và có vai trò quan trong không kém Hội đồng Châu Âu.
Rất có thể là vào kỳ họp tháng 5 năm 2019, Quốc hội Việt Nam sẽ đưa vấn đề 3 công ước quốc tế để bỏ phiếu thông qua.
Rất có thể là vào kỳ họp tháng 5 năm 2019, Quốc hội Việt Nam sẽ đưa vấn đề 3 công ước quốc tế này để bỏ phiếu thông qua.
Dấu hiệu xuống thang đầu tiên của ‘đảng và nhà nước ta’ trước EU là thông tin chính phủ giao "Bộ Công an nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Biểu tình" ló ra vào tháng 3 năm 2019, sau khi Hội đồng Châu Âu đã thẳng tay quyết định hoãn vô thời hạn việc phê chuẩn EVFTA (Hiệp- định Thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) vào tháng 2 năm 2019, với nguồn cơn thực chất là tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam quá trầm trọng và chẳng có gì được cải thiện, khiến chính quyền Việt Nam ‘mất ăn’ khi tưởng như đã nuốt trôi mọi thứ.
Toàn ‘hứa suông’ và ‘hứa cuội’
Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất về quan điểm đánh bài lờ về các điều kiện nhân quyền của chính thể độc đảng ở Việt Nam là từ sau cuộc điều trần về chủ đề EVFTA - nhân quyền do Ủy ban Thương mại quốc tế Châu Âu tổ chức vào ngày 10 tháng Mười năm 2018 tại Brussels, Bỉ, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa chịu ký 3 công ước quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tự do lập hội, quyền tổ chức và thương lượng tập thể và việc bãi bỏ lao động cưỡng bức, dù chính thể này đã cam kết ‘sẽ ký’ tại cuộc điều trần đó.
Tại cuộc điều trần trên, các nghị sỹ muốn biết là Việt Nam sẽ làm gì để cải thiện nhân quyền ; kế hoạch cụ thể để cải thiện nhân quyền là gì ; Việt Nam cần thể hiện bằng hành động để chứng minh sẽ và có thể thực hiện các cam kết. Ngoài ra cũng yêu cầu rằng 3 công ước còn lại của ILO cần phải được Việt Nam ký chính thức trước khi EU bỏ phiếu chấp thuận EVFTA.
3 công ước còn lại của Công ước Quốc tế về Quyền lao động nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động Việt Nam một khi có công đoàn độc lập.
Bà Granwander Hainz đã chỉ thẳng ra rằng những lời hứa về ILO của Việt Nam chỉ là lời hứa suông từ trước giờ vì chưa có gì được thực hiện, cũng như các cam kết về nhân quyền chỉ toàn có tiêu đề mà không có nội dung cụ thể.
Còn bà Maria Arena thuộc đảng Xã Hội của Vương quốc Bỉ, là thành viên của Nghị Viện Liên Âu cho biết không thấy nhiều tiến triển về phía Việt Nam : "từ năm 2012-2018 chúng tôi nhận thấy các tiêu chí về quyền Nghiệp đoàn và nhân Quyền của Việt Nam vẫn chưa tiến bộ một cách đầy đủ. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chờ thêm 6 tháng nữa để Việt Nam thực hiện lời hứa. Nhưng không chỉ là lời hứa mà là sự đảm bảo, ngay cả trước khi Nghị Viện Liên Âu phê chuẩn hiệp định này. Nghị viện Liên Âu cần Việt Nam có những chỉ dấu tích cực chứ không chỉ là lời hứa. Chúng tôi có thể cho thêm thời gian, nhưng thời gian đó phải được Việt Nam sử dụng để có những hành động cho thấy được sự nổ lực của họ".
Bản nghị quyết về nhân quyền của Nghị viện Châu Âu được ban hành vào giữa tháng 11 năm 2108 cũng đề cập đến việc Việt Nam phải ký 3 công ước quốc tế về lao động.
Khỏi phải nói là 3 công ước lao động còn lại thể hiện mối ‘an nguy’ đến thế nào đối với chế độ cầm quyền ở Việt Nam, vì những công ước này, đặc biệt là công ước về quyền tự do lập hội, liên quan mật thiết đến công đoàn độc lập - một định chế mà từ lâu chính quyền Việt Nam đã luôn gán ghép nó với tổ chức Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan vào những năm 80 của thế kỷ XX, để từ đó quy kết cho công đoàn độc lập là nhằm thu hút, tập hợp số đông công nhân để lật đổ chính quyền.
Chiến thuật ‘câu giờ’ của chính quyền Việt Nam liên quan đến việc ký 3 công ước quốc tế về lao động là rất rõ. Hứa hẹn ‘sẽ ký’ từ trước cuộc điều trần ở Bỉ cho tới nay vẫn chỉ là một lời hứa chẳng có giá trị gì. Trong khi đó, Việt Nam vừa âm thầm vừa công khai vận động một số nước Châu Âu nhằm tác động đến Nghị viện Châu Âu để sớm thông qua EVFTA, với toan tính rằng nếu việc thông qua này diễn ra sớm trong nửa đầu năm 2019 thì Việt Nam sẽ có luôn EVFTA trong tay mà chẳng phải ký thêm bất kỳ một công ước quốc tế lao động nào.
EU cần chế tài cụ thể và nghiêm khắc
John Sifton, Giám đốc Vận động, Ban Á Châu của Human Rights Watch, đã hoàn toàn đúng khi nhận định :
"Vội vàng thông qua hiệp định thương mại với Việt Nam sẽ là một sai lầm lớn. Làm như vậy là tưởng thưởng cho Việt Nam trong khi nước này chẳng làm gì cả, thông qua EVFTA là đánh đi một thông điệp tệ hại cho thấy những cam kết mà Liên minh Châu Âu đã đưa ra trước đây là dùng thương mại như một công cụ để quảng bá nhân quyền trên toàn cầu không còn đáng tin".
"Hội đồng Châu Âu và Nghị viện Châu Âu cần gửi đi một thông điệp rõ ràng rằng không thể phê chuẩn hiệp định EVFTA cho tới khi nào nhà nước Việt Nam có thái độ nghiêm túc muốn giải quyết những lo ngại về nhân quyền", ông Sifton nói. "Việt Nam nên hiểu rằng nếu Châu Âu trì hoãn hiệp định này thì đó là do lỗi của Hà Nội, chứ không phải của Brussels".
Sự lên tiếng của John Sifton xuất hiện trong bối cảnh do áp lực của cộng đồng doanh nghiệp Châu Âu, một số thành viên trong Nghị viện Châu Âu đang tìm cách đẩy nhanh việc phê chuẩn EVFTA bất chấp Việt Nam đã lờ đi những lời kêu gọi liên tiếp đòi Hà Nội cải thiện hồ sơ nhân quyền.
Một trong những điều khoản của Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU - được Ủy ban Châu Âu thông qua tại Brussels, đưa ra yêu cầu về thúc đẩy dân chủ và tôn trọng nhân quyền. Điều 6 của hiệp định này nhấn mạnh : "Có một sự liên kết thể chế và pháp lý giữa Hiệp định Thương mại Tự do và Hiệp định Đối tác và Hợp tác EU-Việt Nam. Liên kết này cho phép các biện pháp được coi là phù hợp trong trường hợp vi phạm nhân quyền, bao gồm cảbiện pháp đình chỉ Hiệp định Thương mại".
Đã từ quá lâu, chẳng có gì bảo chứng cho lời cam kết ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam. Bằng chứng về thái độ hai mặt đó đã tích tụ quá nhiều kể từ năm 2013 khi Việt Nam được chấp nhận là thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc : nhà cầm quyền Việt Nam vẫn liên tiếp truy bắt, bỏ tù hàng trăm nhà hoạt động nhân quyền bằng những điều luật cực kỳ mơ hồ và ngụy tạo.
Chính quyền Việt Nam còn thoải mái ký kết Công ước quốc tế về chống tra tấn, để ngay sau đó hàng năm cứ liên tiếp xảy ra quá nhiều cảnh công an đánh đập dã man người hoạt động nhân quyền và người dân biểu tình, quá nhiều cảnh công dân phải ‘tự chết’ trong đồn công an, trong đó số trường hợp các nhân viên công an bị phát hiện đã tra tấn đến chết người dân lại quá hiếm hoi…
Về thực chất, đằng sau động thái chính phủ giao Bộ Công an nghiên cứu xây dựng Luật Biểu tình chỉ là sự tiếp nối của một chuỗi động tác đối phó và ma mị nhằm đạt được mục tiêu ký kết và phê chuẩn EVFTA ngay trong năm 2019. Còn Bộ Công an lại được biệt danh là ‘bộ đàn áp nhân quyền’, quá tai tiếng về đàn áp biểu tình và vô số vấn nạn tra tấn người dân. Việc giao cho bộ này làm Luật Biểu tình, trong khi đúng ra phải giao cho những cơ quan chuyên môn là Bộ Nội vụ hoặc Bộ Tư pháp, là chẳng khác nào ‘giao trứng cho ác’ và tiếp thêm một mồi lửa thách thức EU và các chính phủ tiến bộ trên thế giới.
EVFTA cũng thế. Nếu không có những quy định chế tài hết sức cụ thể và nghiêm khắc trong Hiệp định EVFTA, khả năng chính thể Việt Nam nuốt lời và không làm gì cả cho dù có chịu ký 3 công ước quốc tế về lao động, là rất lớn.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : 19/04/2019