Thậm chí báo Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Việt Nam - còn không thèm đưa một mẩu tin nào ngay sau khi diễn ra sau cuộc gặp giữa thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc với Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Đức Peter Altmaier vào chiều ngày 25 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Văn phòng Chính phủ ở Hà Nội, trong lúc vẫn đưa bản tin "Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Hàn Quốc" mà về mặt ngoại giao và chính trị là không thể quan trọng bằng cuộc gặp Phúc - Altmaier.
Bộ trưởng Kinh tế Đức, Peter Altmaier, trong một cuộc phỏng vấn tại Berlin.
Trước đó ít ngày, hệ thống tuyên giáo và báo chí nhà nước đã mở một đợt tuyên truyền khấp khởi hy vọng về ‘làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Đức’, hay chân thật hơn thì hé môi về ‘phục hồi quan hệ đối tác chiến lược Việt - Đức’, đồng thời ra sức cổ vũ cho tín hiệu bật đèn xanh của Bộ trưởng Đức Peter Altmaier về ‘Đức thúc đẩy sớm ký kết và phê chuẩn EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam).
‘Ăn không được thì đạp đổ’
Chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức Peter Altmaier vào tháng Ba năm 2019 được phía Việt Nam kỳ vọng là một dấu mốc về sự khởi về ‘phục hồi quan hệ ngoại giao và kinh tế’ giữa Berlin và Hà Nội, kể từ khi bùng nổ vụ Nhà nước tố cáo mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào tháng 7 năm 2017 và kéo theo phản ứng phẫn nộ và mạnh mẽ hiếm thấy : Đức thẳng tay tạm ngừng Quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng 9 cùng năm đó, tiếp đến đình chỉ hiệp định miễn visa cho cán bộ ngoại giao Việt Nam đi công tác ở Đức, đồng thời hoãn hoặc hủy bỏ hàng loạt chương trình viện trợ kinh tế cho chính thể độc đảng ở Việt Nam.
Nhưng bây giờ thì chẳng còn gì trên mặt báo đảng và mặt mũi giới chóp bu Việt Nam. Tất cả vụt biến mất như một thế giới ảo ảnh được dựng nên bởi những động cơ băng hoại.
Sự im lặng tàn nhẫn và quay quắt của những tờ báo đảng Việt Nam sau cuộc gặp Nguyễn Xuân Phúc - Peter Altmaier càng làm lộ ra bằng chứng về não trạng và thói hành xử ‘ăn không được thì đạp đổ’ của giới quan chức cao cấp và thực dụng đến mức quắt quay ở Việt Nam.
Điều gì đã xảy ra ?
Trịnh Xuân Thanh và nhân quyền !
Trang Thoibao.de cho biết Bastian Hartig - phóng viên của đài Deutsche Welle tháp tùng phái đoàn Bộ trưởng Altmaier - đã viết trên Twitter :
"Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Kinh tế Đức Peter Altmaier nói, Chính phủ Đức hy vọng rằng các sự cố đã làm xấu đi mối quan hệ sẽ không lặp lại, đó là vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh".
Ngoài ra trong một bài tường thuật, phóng viên David Zajonz của đài phát thanh Đức MDR đưa tin, ngoài vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Bộ trưởng Altmaier còn đề cập đến vấn đề nhân quyền trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Trích dịch bài tường thuật (từ phút thứ 1:43) :
"Tham nhũng cũng là một đề tài lớn. Vấn đề quan trọng nhất trong quan hệ giữa hai nước không phải là kinh tế, mà là vụ bắt cóc ngoạn mục Trịnh Xuân Thanh trên nước Đức bởi mật vụ Việt Nam ở giữa đường phố Berlin. Trịnh Xuân Thanh ngồi tù ở Việt Nam gần 2 năm nay. Hậu quả là một thời kỳ băng giá trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tình hình nhân quyền ở Việt Nam nói chung là xấu".
Trước chuyến đi Việt Nam của Bộ trưởng Altmaier, các Nghị sĩ Quốc hội Liên bang Đức thuộc Đảng Xanh đã yêu cầu Bộ trưởng Altmaier nỗ lực cho nhân quyền. Tại Việt Nam ông Altmaier đã đề cập đến vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, nói về một giai đoạn khó khăn trong quan hệ giữa hai nước.
"Dĩ nhiên tôi cũng đã nói chuyện về những vấn đề giữa hai nước. Nhân quyền đóng một vai trò quyết định trong chính sách của nước Đức, bất kể là nhân quyền ở nước nào. Tôi đã nêu rõ điều đó với đối tác hội đàm", Bộ trưởng Altmaier nói"…
Lại sụp đổ ‘Đối tác chiến lược Việt - Đức’
Trịnh Xuân Thanh và nhân quyền lại là những khúc xương mà chính thể độc đảng ở Việt Nam hoàn toàn không muốn phải nuốt, ít ra cho tới thời điểm này.
Điều trơ trẽn đến sống sượng là trong khi Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh phải đi điều đình ở Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh vào tháng 2 năm 2019 và đoàn Việt Nam im như thóc tại cuộc đối thoại nhân quyền với EU (Liên Hiệp Châu Âu) vào tháng 3 năm 2019, chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục đàn áp những tiếng nói bất đồng, đàn áp người dân.
Còn việc chính quyền Việt Nam và dàn dồng ca báo đảng gần như im bặt sau cuộc gặp Nguyễn Xuân Phúc - Peter Altmaier đã cho thấy những hứa hẹn (nếu có) của Phạm Bình Minh khi sang Đức về ‘sẽ trả Trịnh Xuân Thanh’ vẫn chỉ là một thủ thuật ‘hứa cuội’ nhằm câu giờ - mục tiêu khiến cho người Đức mệt mỏi mà phải ‘buông’ vấn đề Trịnh Xuân Thanh và phục hồi quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Thêm một lần nữa Phạm Bình Minh bị mất mặt với Đức, sau khi Bộ Ngoại giao của ông ta đã ‘hứa cuội’ nhiều lần suốt từ những tháng cuối năm 2017 cho đến nay.
Việc Bộ trưởng Altmaier đề cập một cách thẳng thừng đến vấn đề Trịnh Xuân Thanh với Thủ tướng Phúc cũng cho thấy phía Đức vẫn kiên định và quyết liệt bảo lưu quan điểm đòi hỏi những kẻ bị tố cáo gây ra vụ bắt cóc Thanh phải tôn trọng tinh thần nhà nước pháp quyền của Đức, chứ không phải Đức tìm cách ‘bảo kê’ ; cho một quan chức đầy rẫy tì vết tham nhũng như Trịnh Xuân Thanh.
Nhưng đã thêm một lần nữa người Đức bị ‘lừa’ bởi những lời ngon ngọt nhưng chẳng có gì bảo chứng, và đã cử Bộ trưởng Altmaier đến Việt Nam, với kết quả không phải để bàn luận về ‘quan hệ hợp tác song phương’ mà chỉ thuần túy là người truyền đạt thông điệp của phía Đức mà chẳng nhận được phản hồi đáng tích cực nào từ phía Nguyễn Phú Trọng - nhân vật được xem là ‘tác giả’ vụ Trịnh Xuân Thanh.
Hẳn đó là lý do mà ngoài chương trình tham dự lễ khánh thành Ngôi nhà Đức ở Sài Gòn - một công trình mang tính biểu tượng ‘quan hệ hữu nghị Đức- Việt’, Bộ trưởng Altmaier đã không hề đả động gì đến tương lai phục hồi Quan hệ đối tác chiến lược Đức- Việt, phục hồi các chương trình viện trợ kinh tế cho Việt Nam, cũng không hứa hẹn một từ ngữ nào về ‘sẽ hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy nhanh tiến độ EVFTA’. Thái độ im lặng đầy chủ ý có qua có lại ấy đã một lần nữa mang đến nỗi thất vọng ngập ngụa cho Nguyễn Xuân Phúc nói riêng và Bộ Chính trị của ông ta nói chung.
‘Ăn không được thì đạp đổ’ - việc báo Nhân Dân không thèm đăng mẩu tin nào về cuộc gặp Phúc - Altmaier, cái thói xấu xa và sẵn sàng chơi bẩn ấy của quan chức Việt lại rất đồng điệu với sự ‘mất tích’ của Phạm Bình Minh tại lễ khánh thành Ngôi nhà Đức, dù thư mời được gửi từ vài tuần trước đã ghi rõ lễ khánh thành này sẽ diễn ra với sự hiện diện của Bộ trưởng Kinh tế Altmaier và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh.
Mịt mù EVFTA
Không chịu trả Trịnh Xuân Thanh, không chịu cam kết về cải thiện nhân quyền và không nhận được sự ủng hộ của Đức - quốc gia không chỉ là đầu tàu về chính trị và kinh tế của khối Liên Hiệp Châu Âu (EU) mà Chính phủ và Quốc hội Đức còn chiếm vai trò quyết định trong khối này khi xem xét quyết định có cho chính thể Việt Nam được hưởng EVFTA hay là không, chính thể độc đảng ở Việt Nam thực sự đang rơi vào tình thế cực kỳ bế tắc đối với bản hiệp định tưởng đâu thuộc loại ‘ăn sẵn’ này, mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng để cứu vãn nền kinh tế và ngân sách đang lao xuống đáy vực thâm thủng ngoại tệ trong khi vẫn phải trả nợ từ 10 - 12 tỷ USD nợ nước ngoài hàng năm.
Trong dĩ vãng rất gần, não trạng chủ quan duy ý chí và coi thường tinh thần nhà nước pháp quyền Châu Âu của giới chóp bu Việt Nam đã bị giáng một đòn choáng váng đến không thốt nên lời : sau khi đã tưởng nuốt trôi Hiệp định EVFTA và chỉ còn xoa tay chờ ngày ký kết và phê chuẩn chính thức, một cơn cay cú đến lồng lộn không thể diễn tả bằng những văn từ bình thường đã ập đến với Trọng và bộ sậu của ông ta, khi vào tháng 2 năm 2019 Hội đồng Châu Âu đã tuyên bố hoãn vô thời hạn việc ký kết và phê chuẩn EVFTA, với nguồn cơn thực chất được hiểu là vô số vi phạm nhân quyền trầm trọng của Việt Nam mà cho tới thời điểm đó, và cả tới lúc này, vẫn chưa có được bất kỳ một cải thiện nào có thể nhìn thấy, sờ thấy và chứng minh được.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 29/03/2019
***************
Đức sẽ không bỏ qua vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh dù cải thiện quan hệ kinh tế với Việt Nam (RFA, 26/03/2019)
Thông tin từ Đại sứ quán Đức tại Hà Nội cho biết, ông Peter Altmaier Bộ trưởng Bộ kinh tế cùng một phía đoàn kinh tế cấp cao và một số nghị sĩ Quốc hội liên bang Đức có chuyến thăm Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 24-26/3. Hai bên sẽ tiến hành nhiều cuộc trao đổi song phương với đại diện Chính phủ Việt Nam và tiếp kiến Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Bộ trưởng Kinh tế Đức, ông Peter Atlmaier. AFP
Ngay trước chuyến thăm, Bộ trưởng kinh tế Đức Peter Atlemaier được trích lời trong một thông cáo của Đại sứ quán Đức cho biết :
"Việt Nam là một đối tác kinh tế trung tâm của Đức tại Châu Á. Tôi sẽ bàn bạc với các đại diện Chính phủ Việt Nam để làm thế nào tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia".
Quan hệ Đức và Việt Nam đã gặp khủng hoảng sau khi Đức hồi năm 2017 lên tiếng cáo buộc Việt Nam cho mật vụ sang Berlin bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh, một cựu quan chức dầu khí của Việt Nam đang bị truy nã vì các cáo buộc liên quan đến tham nhũng. Ông Thanh lúc đó đang xin quy chế tị nạn tại Đức. Sau đó phía Đức đã tuyên bố tạm ngưng đối tác chiến lược với chính phủ Hà Nội và yêu cầu Hà Nội phải lên tiếng xin lỗi chính thức và trao trả Trịnh Xuân Thanh về cho phía Đức. Cho đến lúc này, Trịnh Xuân Thanh vẫn đang thụ án tù ở Việt Nam sau khi bị tòa án ở Việt Nam hồi đầu năm ngoái tuyên hai án chung thân về tội tham ô.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh xảy ra, có một chuyến công du Việt Nam cấp bộ trưởng và cũng là một dấu hiệu có thể cho thấy mối quan hệ đối tác chiến lược bị gián đoạn hơn 1 năm rưỡi này dần được nối lại.
Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hà Lan cho rằng, chuyến thăm lần này được xem rất quan trọng với Việt Nam sau một khoảng thời gian dài ngưng đọng và thụt lùi mà ai cũng biết rõ nguyên nhân từ đâu.
"Sau từng ấy thời gian thì ngay cả Việt Nam lẫn phía Đức thấy rằng giờ đây là lúc cả hai phía khôi phục lại mối quan hệ đối tác chiến lược. Đây là đòi hỏi khách quan trong bối cảnh cả Châu Âu lẫn Đông Nam Á đang có những chuyển động khá cấp tấp do tác động của cuộc thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc lẫn những rạn nứt trong mối quan hệ kinh tế nói chung và cấp độ khu vực toàn cầu. Tất nhiên ở đây chúng ta không biết được cụ thể đằng sau hậu trường hoặc trên các bàn đàm phán của cả hai phía và chắc chắn Việt Nam đã có những tương nhượng để bộ trưởng kinh tế Đức thừa nhận là Việt Nam là đối tác trung tâm của Đức tại Châu Á".
Đồng thời tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng còn nói thêm, Việt Nam luôn coi Đức và Pháp như hai đầu tàu không chỉ quan trọng trong khối Châu Âu mà cũng vô cùng thiết yếu với dòng hàng hóa từ Việt Nam sang EU và ngược lại.
Theo cơ quan thống kê Liên bang Đức, năm 2018 kim ngạch thương mại Việt Đức đạt lên tới 13,8 tỷ Euro, trong đó 9,7 tỷ Euro là nhập khẩu từ Việt Nam và 4,1 tỷ Euro là xuất khẩu sang Việt Nam
Chúng tôi liên lạc với nhà báo Lê Trung Khoa của tờ Thời Báo bằng Tiếng Việt tại Berlin để tìm hiểu thông tin về chuyến đi này và được anh cho biết, nhiệm vụ chính của ông Bộ trưởng kinh tế Đức trong chuyến thăm Việt Nam lần này là bàn về kinh tế và kết nối lại quan hệ giữa Việt Nam và Đức sau thời gian dài bị đóng băng.
"Tuy nhiên trước chuyến đi theo tôi được biết tại tổ chức phóng viên không biên giới của Đức đã nói với chúng tôi rằng, họ đã gặp bộ trưởng bộ kinh tế Đức để tham vấn và đưa những thông tin và mong rằng trong chuyến đi về Việt Nam ngoài việc hợp tác về kinh tế thì ông Atlmaier sẽ nói những công việc và câu chuyện về dân chủ nhân quyền, tự do báo chí và tự do biểu đạt cái mà Việt Nam đang rất thiếu và cái điều mà Châu Âu và Đức cũng sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam hội nhập quốc tế trong vấn đề đó".
Trước chuyến đi, hãng tin AFP vào ngày 23/3 có đưa tin khối Đảng Xanh trong Quốc hội Liên bang Đức đã gửi thư kêu gọi Bộ trưởng Kinh tế Atlmaier đề cập đến tình trạng nhân quyền tại Việt Nam nhân chuyến thăm nước này.
Nhà báo Lê Trung Khoa từ Đức cho biết :
"Theo thông tin mà tôi nắm được và theo trả lời phỏng vấn trên đài truyền hình nhà nước Đức cũng có nói về việc thúc dục Bộ trưởng kinh tế Đức có những cuộc gặp với những người trong nước tạm gọi là phản biện và bất đồng chính kiến ở trong nước và điều đó có diễn ra hay không thì chúng ta phải đợi xem như thế nào".
Nhà báo và nhà quan sát chính trị tại Việt Nam, tiến sĩ Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn cho hay, đây là chuyến thăm cấp bộ trưởng lần đầu tiên sau vụ Trịnh Xuân Thanh, đây là một dấu hiệu đáng chú ý. Tuy nhiên ông không chắc vấn đề Trịnh Xuân Thanh và nhân quyền trong chuyến đi lần này của Bộ trưởng Kinh tế Đức đến Việt Nam.
"Chưa biết là ông đến Hà Nội thì ông có nêu vấn đề nhân quyền hay việc Trịnh Xuân Thanh hay không nhưng có vẻ chuyến thăm trước đó của ông Phạm Bình Minh đã hứa hẹn là trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức và do đó Đức có vẻ cảm thấy nới ra và bớt căng thẳng hơn trong mối quan hệ ngoại giao và có thể phục hồi đối tác chiến lược".
Ngoài ra, nhà báo Phạm Chí Dũng còn cho biết thêm tính đến thời điểm này, anh không có bất kỳ thông tin nào về việc phía Đức sẽ gặp gỡ và muốn gặp các nhà hoạt động xã hội dân sự Việt Nam và anh tin chắc sẽ không có cuộc gặp nào được diễn ra.
Trong thư gửi Bộ trưởng kinh tế Đức phát ngôn về nhân quyền của khối Đảng Xanh trong Quốc hội liên bang Đức có chỉ ra rằng các tổ chức phi chính phủ luôn mô tả tình trạng nhân quyền ở Việt Nam là vô cùng đáng lo ngại, các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội bị giới hạn một cách có hệ thống và tùy tiện. Tổng cộng có 130 nhà hoạt động nhân quyền đang bị giam giữ trong tù.
Ông Trịnh Xuân Thanh bị dẫn ra tòa. AFP
Đức là nước luôn quan tâm đến tình trạng nhân quyền tại Việt Nam và thời gian qua đã tiếp nhận những nhà hoạt động vì nhân quyền bị cầm tù như Luật sư Nguyễn Văn Đài và cộng sự cô Lê Thu Hà.
Dư luận Việt Nam lên tiếng cho rằng, sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã làm mối quan hệ Việt Đức gặp rất nhiều rắc rối và Đức ngưng ban giao với Việt Nam nhưng sau một thời gian dài Đức lại lên tiếng khẳng định Việt Nam là đối tác kinh tế trung tâm chiến lược tại Châu Á. Liệu rằng vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã được phía Đức cho qua đi.
Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng nói với chúng tôi rằng, tuy không có bằng cớ xác thực nhưng bằng phép suy đoán thì chúng ta có thể giả định vụ Trịnh Xuân Thanh đã được phía Đức bỏ qua.
"Chúng ta nhớ lại là qua vụ Trịnh Xuân Thanh thì từng có những tuyên bố cứng rắn từ phía các chính khách Đức và chính phía Đức đã treo mối quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam trong ngần ấy thời gian và nay cũng chính phía Đức cũng nói rằng đã đến lúc khôi phục lại mối quan hệ song phương và tất nhiên họ nhấn mạnh về đối tác chiến lược về kinh tế trước nhưng rõ ràng ở đây có một sự trao đổi ít nhất tôi nghĩ phải ngang giá và một sự tương nhượng nào đó trên thực tế để hai phía có thể tái ngộ và đồng thuận như hiện nay".
Còn đối với nhà báo Phạm Chí Dũng thì cho rằng chắc chắn phía Đức sẽ không bỏ qua vụ bắt cóc này.
"Bởi vì Đức cần Việt Nam tôn trọng nhà nước pháp quyền của Đức đây không phải là Đức đang bảo vệ cho một kẻ tham nhũng như Trịnh Xuân Thanh, chúng ta điều biết Trịnh Xuân Thanh là một quan chức có rất là nhiều tham nhũng và việc Trịnh Xuân Thanh xin tị nạn chính trị ở Đức thì người Đức chỉ làm theo thủ tục mà thôi và việc Đức yêu cầu trả Trịnh Xuân Thanh đó cũng là theo thủ tục trả nguyên trạng để Đức làm thủ tục chứ không phải Đức bảo vệ một kẻ tham nhũng, nhưng muốn Việt Nam tôn trọng nhà nước pháp quyền đó là tiêu chí đầu tiên của Đức".
Đồng ý với điều này nhà báo Lê Trung Khoa cho biết, Đức là một nhà nước Tam quyền Phân lập cho nên bên Hành pháp là cơ quan mà Bộ kinh tế Đức sang làm việc với Việt Nam để kết nối kinh tế thì họ vẫn làm, còn phía Tư pháp họ độc lập nên vẫn tiếp tục điều tra và điều tra rất sâu về vụ bắt cóc này.
Ngoài ra, nhà báo Lê Trung Khoa còn cho biết thêm, hiện nay phía cảnh sát Đức đã cử cán bộ sang Slovakia để lấy cung những là nhân chứng của vụ bắt cóc đó.
Tại buổi họp báo quý I/2019 diễn ra chiều 25/3/2019, lần đầu tiên 0,5% trong tổng số 200 tướng công an Việt Nam đã ‘can đảm’ nêu tên Trương Duy Nhất. Đó là Trung tướng Trần Văn Vệ, Chánh văn phòng cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an.
Blogger trong cuộc phỏng vấn với đài Á Châu Tự Do hồi 2016.
Thập thò tướng công an…
Trương Duy Nhất là blogger đã bị mất tích tại Bangkok vào cuối tháng Giêng năm 2019 với nhiều nghi ngờ của dư luận về ‘Trương Duy Nhất bị mật vụ Việt Nam bắt cóc’. Tuy nhiên trong cuộc họp báo trên, tướng Vệ đã chỉ nói về mối liên đới của ông Nhất với vụ ‘Vũ ‘Nhôm’ chứ hoàn toàn không dám đề cập đến câu chuyện mà dư luận xôn xao : Trương Duy Nhất đã bị một cơ quan mật vụ nào đó bắt hoặc ở Thái Lan, hoặc ở Lào, hoặc bắt ở Thái Lan rồi sau đó ‘vận chuyển’ qua Lào về Việt Nam và ‘bàn giao’ cho Bộ Công an.
Cũng không thấy tướng Vệ đả động về việc Trương Duy Nhất đang bị giam giữ ở đâu, trong khi ngay trước đó một tin tức "từ trên trời rơi xuống" thình lình đến với người nhà của ông Nhất : Trương Thục Đoan, con gái của ông Trương Duy Nhất, hiện đang ở Canada cho báo chí nước ngoài biết rằng phía trại giam thông báo cho mẹ của cô là ông Nhất bị bắt vào ngày 28 tháng Giêng và bị đưa vào trại T16 ở Thanh Oai, Hà Nội trong cùng ngày.
Không rõ cách thức thông báo trên bằng cách nào, nhưng không có bất kỳ giấy tờ nào được chuyển cho gia đình ông Nhất.
Sau đó, bà Cao Thị Xuân Phượng - vợ của ông Trương Duy Nhất và là mẹ của Trương Thục Đoan - vào ngày 20 tháng Ba đã đến Trại giam T16 với mục đích được thăm gặp chồng ; nhưng cán bộ trại không cho gặp với lý do việc điều tra chưa xong. Tuy nhiên, việc Trại T16 chịu nhận một ít thực phẩm và áo quần do bà Cao Thị Xuân Phượng gửi vào cho chồng là một bằng chứng về "Trương Duy Nhất ở trong đó".
Bình luận về tin tức "từ trên trời rơi xuống", nhiều người cho rằng Bộ Công an đã không dám thông báo về tình trạng Trương Duy Nhất theo đường chính thống, mà đã phải cho một ai đó gọi điện nặc danh báo cho gia đình ông Nhất biết về Trại giam T16 đang giam giữ ông.
Vì sao lại hiện ra hành vi trên ? Vì sao Bộ Công an không ‘ém’ luôn thông tin về Trương Duy Nhất mà phải tìm cách gián tiếp báo cho gia đình ?
Theo quy định của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự, khi bắt người, trong vòng 24 giờ, cơ quan bắt giữ phải thông báo cho gia đình. Còn theo sổ thăm nuôi của Trại T16 mà vợ ông Nhất nhìn thấy, ngày Trương Duy Nhất bị bắt là 28/1/2019. Như vậy, rất có thể các cơ quan ‘có trách nhiệm’ của Bộ Công an lo sợ báo tin quá trễ sẽ vi phạm Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự mà về sau này có thể bị gia đình ông Nhất kiện cáo, nên đã ‘mở lòng’ thông báo lén cho gia đình về tình trạng Trương Duy Nhất.
Từ ‘á khẩu’ đến ‘cấm khẩu’
Tình thế Bộ Công an ‘á khẩu’ khi thông báo về Trương Duy Nhất nhưng không hề xác nhận ‘đã bắt’ và nơi giam giữ ông Nhất cho thấy dường như đã xảy ra một lo ngại nhìn trước ngó sau ghê gớm khi buộc phải phát ra thông báo này - trong bối cảnh không chỉ áp lực dư luận trong nước mà còn cả nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế, thậm chí cả Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng yêu cầu chính quyền Việt Nam và Thái Lan phải có trách nhiệm công bố việc có dính líu hay không đến vụ việc ‘Trương Duy Nhất mất tích/bị bắt cóc’ ở Bangkok.
Dù cách thức đơn giản nhất của Việt Nam là chối phắt ‘không bắt cóc Trương Duy Nhất’, hoặc cùng lắm thì tuyên bố ‘Trương Duy Nhất tự nguyện về nước đầu thú’ theo cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ‘đạo diễn’ cho Trịnh Xuân Thanh, sau khi Nhà nước Đức tố cáo rằng mật vụ việt Nam đã nhảy xổ vào Berlin để bắt cóc Thanh vào tháng 7 năm 2017…, nhưng hiện tượng các cơ quan "mật vụ" của Việt Nam như Bộ Công An (nhưng không còn Tổng Cục Tình Báo như thời "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh") bị ‘á khẩu’, còn Tổng Cục 2 (Tình báo quân đội) thuộc Bộ Quốc Phòng thì ‘cấm khẩu’ đã khiến cứ mỗi ngày trôi qua, tính ‘chính nghĩa’ và ‘chính danh’ của chính quyền Việt Nam trong vụ ‘Trương Duy Nhất bị mất tích ở Bangkok’ lại càng lu mờ, thay vào đó là nghi ngờ về ‘Trương Duy Nhất bị bắt cóc’ càng được xác thực.
Thậm chí vào lần này, tốc độ ‘phản ứng nhanh’ của chính quyền và công an Việt Nam về vụ Trương Duy Nhất còn tệ hơn nhiều so với vụ Trịnh Xuân Thanh.
Vào đầu tháng 8 năm 2017, chỉ vài ngày sau khi bị Nhà nước Đức phản ứng Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Bộ Công an Việt Nam ít ra còn thông báo ngược lại rằng ‘Trịnh Xuân Thanh đã đến trực ban Bộ Công an đầu thú’, dù chẳng đưa ra được bằng chứng nào để thuyết minh về việc Trịnh Xuân Thanh đã từ bỏ nước Đức an toàn và có mức sống cao nhất Châu Âu, không biết bằng cách nào vượt qua biên giới hàng chục quốc gia chỉ để về Hà Nội ‘đầu thú’, để cuối cùng được hưởng ‘lượng khoan hồng của đảng và nhà nước ta’ với hai cái án chung thân.
Còn với vụ Trương Duy Nhất, rất nhiều dư luận đã tin như đinh đóng cột rằng nếu trong khoảng thời gian hai tháng từ lúc Nhất bị ‘mất tích’ cho đến khi được Bộ Công an nêu tên, nếu Bộ Công an có được một tờ giấy tự khai ‘tự nguyện về nước đầu thú’ do Trương Duy Nhất ký tên hay điềm chỉ vào thì đó sẽ là một chiến công thuộc loại hiển hách của bộ này, để không chỉ Trung tướng Trần Văn Vệ mà có thể cả Bộ trưởng công an Tô Lâm sẽ đầy háo hức tổ chức một cuộc họp báo đình đám nhằm trưng ra tờ tự khai đó.
Hoặc nếu không có được lời chứng hoặc vật chứng như một bản tường trình theo cách "tự nguyện" của Nhất, Bộ Công an cũng ‘đạo diễn’ để ông Nhất xuất hiện trên truyền hình để thuyết phục công chúng và quốc tế rằng ông đã tự nguyện nộp mạng chứ không phải bị bắt cóc - rập khuôn với hình ảnh ngầy ngật như bị đánh thuốc mê của Trịnh Xuân Thanh trên truyền hình nhà nước vào tháng 8 năm 2017, sau khi đã ‘tự nguyện về nước đầu thú’.
Nhưng liệu Trương Duy Nhất có chịu nói ra điều đó, hoặc tối thiểu có chịu ký vào một bản tường trình "tự nguyện về nước đầu thú" để các cơ quan Việt Nam làm bằng chứng nhằm buộc báo chí quốc tế im miệng và "đập tan các luận điệu thù địch và xuyên tạc" ?
E rằng khó với một người cứng đầu như Trương Duy Nhất. Có vẻ Bộ Công an đã hoàn toàn thất bại nhằm làm cho cái đầu đó nhũn ra đôi chút.
Không bộ nào dám ‘phát ngôn’ ?
Cuối cùng, thông tin duy nhất mà Bộ Công an dám đề cập về Trương Duy Nhất chỉ là mối liên đới với vụ Vũ ‘Nhôm’ - vụ án đã được khởi tố hình sự và quá đủ lý do để tiến hành điều tra đối với ông Nhất.
Thông tin trên là rất logic và có thể dễ dàng đoán trước, khi trước đó đã xuất hiện trên mạng xã hội một số bài viết của giới dư luận viên tập trung mổ xẻ mối quan hệ giữa Trương Duy Nhất với Vũ "Nhôm", khi Nhất làm Trưởng đại diện báo Đại đoàn kết tại Đà Nẵng đã lợi dụng giấy tờ của báo để mua nhà đất không qua đấu giá, gây thất thoát lãng phí, và cả những hoạt động thuộc về "phe cánh chính trị" của ông Nhất - hàm ý rằng nếu trong thời gian tới Trương Duy Nhất có bị công an và tòa án truy tố và xử tù về tội danh kinh tế thì cũng chẳng có gì là oan sai, càng chẳng đáng để các tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng về ông Nhất.
Thông tin trên cũng có lẽ là cái duy nhất mà Bộ Công an nói ra được trong tình hình ngổn ngang, xáo trộn và đầy rủi ro chính trị hiện thời, trong bối cảnh mà nhiều dư luận cho rằng bộ này không phải là ‘tác giả’ vụ ‘bắt cóc Trương Duy Nhất’, nhưng buộc phải ‘nhận bàn giao’.
Và cũng có lẽ ‘rút kinh nghiệm sâu sắc từ vụ Trịnh Xuân Thanh’, mãi cho đến nay mới xuất hiện một quan chức công an không hẳn là cao cấp - Trần Văn Vệ - nói bóng gió về vụ Trương Duy Nhất, trong lúc người ta có thể thoải mái hình dung ra cảnh đùn đẩy né tránh đầy bi hài và như đỉa phải vôi giữa các cơ quan ‘có trách nhiệm’ - từ Bộ Quốc phòng đến Bộ Ngoại giao và đặc biệt vào lần này là Bộ Công an - cứ mỗi khi được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hay cả ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng giao nhiệm vụ ‘phát ngôn’ vụ Trương Duy Nhất.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 28/03/2019
Chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức Peter Altmaier - trong hai ngày 25 và 26 tháng Ba năm 2019 - có thể được xem là một dấu mốc, nhưng chỉ là sự tái khởi đầu về ‘phục hồi quan hệ ngoại giao và kinh tế’ giữa Berlin và Hà Nội, kể từ khi bùng nổ vụ Nhà nước tố cáo mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào tháng 7 năm 2017 và kéo theo phản ứng phẫn nộ và mạnh mẽ hiếm thấy : Đức thẳng tay tạm ngừng Quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng 9 cùng năm đó, đồng thời hoãn hoặc hủy bỏ hàng loạt chương trình viện trợ kinh tế cho chính thể độc đảng ở đất nước vẫn thường bị người dân lên án ‘có vô số luật nhưng chỉ có luật rừng’ này.
Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức Peter Altmaier.
Vì sao là Đức ?
Những động cơ và mục tiêu của Bộ Chính trị Việt Nam - được phơi ra suốt từ giữa năm 2018 đến nay - đã tập trung chiến dịch vận động vào nước Đức và chẳng có gì là khó hiểu : không chỉ là đầu tàu về chính trị và kinh tế của khối Liên minh Châu Âu (EU), Chính phủ và Quốc hội Đức còn chiếm vai trò quyết định trong khối này khi xem xét quyết định có cho chính thể Việt Nam được hưởng EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) hay là không.
Ngay trước chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng Kinh tế Đức Peter Altmaier là chuyến xuất cảnh nửa kín nửa hở của Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, thân là ủy viên bộ chính trị nhưng vẫn phải xin visa vào Đức như một thường dân do Hiệp định miễn visa ngoại giao Đức - Việt vẫn bị Berlin tạm đình chỉ sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Xuất hiện ở Đức vào tháng 2 năm 2019, Phạm Bình Minh đã có một cuộc gặp với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Heiko Maas. Sau cuộc hội đàm này, Maas đã nói một cách nhấn mạnh với báo giới quốc tế :
"Trong thời gian qua đã có những khác biệt có thể nhận thấy rõ rệt giữa Đức và Việt Nam – đặc biệt là vì vụ bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh ở Berlin. Hôm nay chúng tôi đã trao đổi với nhau về việc chúng tôi có thể điều chỉnh lại mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức như thế nào và làm sao có thực chất trở lại. Theo quan điểm của chúng tôi, một quan hệ đối tác chiến lược cũng bao gồm sự tôn trọng các giá trị chung, đặc biệt là tôn trọng nhân quyền phổ quát". (Thoibao.de)
Cách nói mở đường của Maas cho thấy nhiều khả năng Phạm Bình Minh đã hứa hẹn ‘Việt Nam sẽ trả Trịnh Xuân Thanh nguyên trạng cho Đức’.
Suốt từ tháng 8 năm 2017 - thời điểm ra thông báo phản đối quyết liệt vụ bắt cóc - cho tới nay, ‘trả Trịnh Xuân Thanh’ là một trong những điều kiện tiên quyết của Đức đối với Việt Nam - không phải là Đức bao che cho một kẻ tham nhũng mà có ý nghĩa như một đòi hỏi phải tôn trọng nhà nước pháp quyền Đức một khi Hà Nội còn muốn Quan hệ đối tác chiến lược và những quan hệ khác được khôi phục, cho dù cái giá của sự khôi phục tương lai ấy sẽ phải là sự điều chỉnh của người Đức về nhiều vấn đề, trong đó có Quan hệ đối tác chiến lược với một nội dung mới và sốc cho chóp bu Việt Nam : nâng cấp nhân quyền.
Dù trước đây Việt Nam cũng đã hứa hẹn không dưới một lần về ‘Việt Nam sẽ trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức’, nhưng sau đó bặt tăm, vào lần này và trong tình thế Nguyễn Phú Trọng - quan chức được xem là ‘tác giả’ của vụ Trịnh Xuân Thanh - đã quá khát EVFTA, việc trả tù nhân đang chịu án chung thân cho Đức xem là đang dần được hiện thực hóa.
Chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng Kinh tế Đức Peter Altmaier rất có thể là một bằng chứng về tinh thần nhà nước pháp quyền của Đức đang được hiện thực hóa trong não trạng của Trọng và Bộ Chính trị Việt Nam, gắn liền với tương lai quan hệ Việt - Đức và còn có thể kéo theo tương lai cho EVFTA.
Chỉ trả Trịnh Xuân Thanh vẫn chưa đủ
Trong dĩ vãng rất gần, não trạng chủ quan duy ý chí và coi thường tinh thần nhà nước pháp quyền Châu Âu của giới chóp bu Việt Nam đã bị giáng một đòn choáng váng đến không thốt nên lời : sau khi đã tưởng nuốt trôi Hiệp định EVFTA và chỉ còn xoa tay chờ ngày ký kết và phê chuẩn chính thức, một cơn cay cú đến lồng lộn không thể diễn tả bằng những văn từ bình thường đã ập đến với Trọng và bộ sậu của ông ta, khi vào tháng 2 năm 2019 Hội đồng Châu Âu đã tuyên bố hoãn vô thời hạn việc ký kết và phê chuẩn EVFTA, với nguồn cơn thực chất được hiểu là vô số vi phạm nhân quyền trầm trọng của Việt Nam mà cho tới thời điểm đó, và cả tới lúc này, vẫn chưa có được bất kỳ một cải thiện nào có thể nhìn thấy, sờ thấy và chứng minh được.
Thậm chí điều cực kỳ trơ trẽn là trong khi Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh phải đi điều đình ở Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh vào tháng 2 năm 2019 còn đoàn Việt Nam im như thóc tại cuộc đối thoại nhân quyền với EU vào tháng 3 năm 2019, chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục đàn áp những tiếng nói bất đồng, đàn áp và bắt bớ những người dân dám ra mặt phản kháng các chính sách bất công và chỉ làm lợi cho tài phiệt đỏ.
Ngay sau cuộc đối thoại nhân quyền EU – Việt Nam, một quan chức có trách nhiệm của EU là ông Umberto Gambini đã khiến Bộ Chính trị Hà Nội phải nhận thêm một cú sốc điếng người nữa : EVFTA phải chờ nghị viện mới của Châu Âu – sẽ tổ chức bầu lại vào tháng 5 năm 2019. Nhưng đến khi đó, nếu không có bất kỳ bảo chứng nào hay chữ ký nào của những người tiền nhiệm, các thành viên mới của Nghị Viện Châu Âu mới sẽ thật khó để tìm ra lý lẽ dù thuyết phục khiến họ mau chóng gật đầu với EVFTA, để khi đó chủ đề ‘đàm phán EVFTA’ sẽ phải nhai lại từ đầu.
Khẳng định trên của Umberto Gambini là dấu chấm hết cho hy vọng của Thủ tướng Phúc, Bộ Chính trị và chính thể độc đảng chỉ muốn ‘ăn sẵn’ khi ‘mong EU linh hoạt ký kết và phê chuẩn EVFTA trong quý 1 năm 2019’.
Đã rõ mồn một, nếu vẫn không chịu cải thiện nhân quyền, tương lai của EVFTA sẽ chính là kịch bản tồi tệ nhất, đen tối nhất cho nền chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam mà đang quá cần ngoại tệ để trả nợ nước ngoài.
Tình trạng đàn áp nhân quyền vô tội vạ của chính thể công an trị còn khiến ngay cả Bernd Lange – Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế của Quốc hội EU – tuy là người được xem là ôn hòa, đã phản ứng cứng rắn hiếm thấy : "Nếu không có tiến bộ nào về nhân quyền, và đặc biệt là quyền của người lao động, thì sẽ không có bất cứ hiệp định nào được Quốc Hội Châu Âu thông qua hết", bất chấp thái độ nôn nóng muốn thúc đẩy nhanh thủ tục hiệp định này của một số nghị sĩ và doanh nghiệp Châu Âu, cùng sự vận động ráo riết của giới quan chức Việt Nam.
Vậy Bộ trưởng kinh tế Đức Altmaier có nói gì về nhân quyền trong những ngày tháng Ba ông làm việc tại Việt Nam ?
Theo Thoibao.de, trong chuyến công du đến Kairo vào đầu tháng 2 năm nay để đàm phán thương mại với Ai Cập, Bộ trưởng kinh tế Đức Altmaier đã phát biểu rằng nhân quyền và ổn định xã hội là 2 mục tiêu song song, và có giá trị ngang nhau. "Chúng tôi không chọn cái này hay cái kia, nhưng chúng tôi theo đuổi cả 2 mục tiêu song song", Bộ trưởng Altmaier nói. Không chỉ bằng lời nói, quả thật Bộ trưởng Altmaier đã gặp các nhà hoạt động nhân quyền Ai Cập trong chuyến đi của ông.
Từ năm 2018 đến nay, chiến thuật ‘đánh lẻ’ của chính thể Việt Nam vào người Đức dù sao đã đạt được một chút hiệu quả bằng thái độ bớt căng thẳng của Đức. Nhưng chỉ trả Trịnh Xuân Thanh vẫn chưa đủ, mà điều giới quan chức xôi thịt ở Việt Nam cần và phải đóng đinh vào óc là vụ Trịnh Xuân Thanh vô hình trung đã làm cho người Đức và cả Châu Âu ‘mở mắt’ về ‘nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam’, mà bằng chứng gần nhất và có tính thuyết phục cao nhất là vào giữa tháng 11 năm 2018 Nghị viện EU đã công bố một bản nghị quyết về nhân quyền Việt Nam với nội dung rộng và sâu cùng lời lẽ lên án đanh thép chưa từng có. Nghị quyết này chính là một tối hậu thư mà Việt Nam phải thỏa mãn, nếu không sẽ không thể có được EVFTA.
Sau EU và cùng với EU, người Đức cũng thế. Giờ đây, không phải Trịnh Xuân Thanh mà nhân quyền mới là trên hết.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 27/03/2019
Dường như toàn bộ chính thể độc đảng ở Việt Nam đã quyết tâm chọn thái độ im lặng vì không cơ quan nào chịu lên tiếng và dám lên tiếng vụ "bắt cóc Trương Duy Nhất"…
Blogger Trương Duy Nhất trong lần đến California. (Hình : Facebook Trương Duy Nhất)
Tin tức "từ trên trời rơi xuống"
Phải gần hai tháng sau vụ "Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok," một tin tức "từ trên trời rơi xuống" mới đến với người nhà của ông Nhất : Trương Thục Đoan, con gái của ông Trương Duy Nhất, hiện đang ở Canada cho báo chí nước ngoài biết rằng phía trại giam thông báo cho mẹ của cô là ông Nhất bị bắt vào ngày 28 Tháng Giêng và bị đưa vào trại T16 ở Thanh Oai, Hà Nội trong cùng ngày.
Không rõ cách thức thông báo bằng cách nào, nhưng không có bất kỳ giấy tờ nào được chuyển cho gia đình ông Nhất – điều hoàn toàn sai nếu đối chiếu với Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (khi bắt người, trong vòng 24 giờ, cơ quan bắt giữ phải thông báo cho gia đình).
Bà Cao Thị Xuân Phượng, vợ của ông Trương Duy Nhất và là mẹ của Trương Thục Đoan, vào ngày 20 Tháng Ba đến Trại T16 với mục đích được thăm gặp chồng ; nhưng cán bộ trại không cho gặp với lý do việc điều tra chưa xong. Tuy nhiên, việc Trại T16 chịu nhận một ít thực phẩm và áo quần do bà Cao Thị Xuân Phượng gửi vào cho chồng là một bằng chứng về "Trương Duy Nhất ở trong đó."
Việc trại giam T16 của Bộ Công An "bắn tin" về tình hình giam giữ Trương Duy Nhất xảy ra cùng lúc với việc một facebooker mang tính "tín hiệu" lần thứ hai liên tiếp phát tin về "Trương Duy Nhất đã "có mặt" ở Việt Nam" (vào Tháng Chín, 2018 cũng facebooker này phát tin đầu tiên về Trần Bắc Hà bị bắt ở nước ngoài và đưa về Việt Nam và tin này sau đó được xác nhận là đúng). Cũng đồng thời diễn ra một đợt bắt bớ tiếp theo của Bộ Công An đối với một số lãnh đạo Đà Nẵng liên quan đến những tài sản công được bán như cho cho Vũ "Nhôm."
Làm sao chứng minh Nhất "tự nguyện về nước đầu thú ?"
Trong khi đó, vẫn chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho thấy các cơ quan "có trách nhiệm" của Việt Nam muốn mở miệng về vụ Trương Duy Nhất, dù rằng cách thức đơn giản nhất của Việt Nam là chối phắt "không bắt cóc Trương Duy Nhất," hoặc cùng lắm thì tuyên bố "Trương Duy Nhất tự nguyện về nước đầu thú" theo cách mà Bộ Công An và Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã "đạo diễn" cho Trịnh Xuân Thanh, sau khi Nhà Nước Đức tố cáo rằng mật vụ Việt Nam đã nhảy xổ vào Berlin để bắt cóc Thanh vào Tháng Bảy năm 2017.
Nhưng nếu là "Trương Duy Nhất tự nguyện về nước đầu thú," chắc chắn chính quyền Việt Nam sẽ phải trưng ra lời chứng của Nhất, hoặc vật chứng như một bản tường trình theo cách "tự nguyện" của Nhất, hoặc tốt hơn cả là chính ông Nhất xuất hiện trên truyền hình để thuyết phục công chúng và quốc tế rằng ông đã tự nguyện nộp mạng chứ không phải bị bắt cóc.
Nhưng liệu Trương Duy Nhất có chịu nói ra điều đó, hoặc tối thiểu có chịu ký vào một bản tường trình "tự nguyện về nước đầu thú" để các cơ quan Việt Nam làm bằng chứng nhằm làm im miệng báo chí quốc tế và "đập tan các luận điệu thù địch và xuyên tạc" ?
E rằng khó với một người cứng đầu như Trương Duy Nhất…
Thậm chí vào lần này, tốc độ "phản ứng nhanh" của chính quyền Việt Nam về vụ Trương Duy Nhất còn tệ hơn nhiều so với vụ Trịnh Xuân Thanh.
Vào đầu Tháng Tám, 2017, chỉ vài ngày sau khi bị nhà nước Đức phản ứng Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Bộ Công An Việt Nam ít ra còn thông báo ngược lại rằng "Trịnh Xuân Thanh đã đến trực ban Bộ Công An đầu thú."
Cho tới nay, dấu hiệu duy nhất cho thấy chính quyền Việt Nam "công bố" chỉ là một số bài viết của giới dư luận viên được tung ra, tập trung mổ xẻ mối quan hệ giữa Trương Duy Nhất với Vũ "Nhôm" và cả những hoạt động thuộc về "phe cánh chính trị" của ông Nhất – hàm ý rằng nếu trong thời gian tới Trương Duy Nhất có bị công an và tòa án truy tố và xử tù về tội danh kinh tế thì cũng chẳng có gì là oan sai, càng chẳng đáng để các tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng về ông Nhất.
Cơ quan nào là "tác giả bắt cóc ?"
Vì sao vào lần này Bộ Công An – cơ quan chủ quản của Trại giam T16 đang giam giữ Trương Duy Nhất – lại quá chậm chạp trong phản ứng nhanh vụ Trương Duy Nhất ?
Hay "đặc thù" của vụ Trương Duy Nhất khác với vụ Trịnh Xuân Thanh, tức không "dính" Bộ Công An hoặc có "dính" thì Bộ Công An chỉ đóng vai trò phụ và "thủ tục," nên bộ này chẳng có gì phải sốt ruột hay xáo động ?
Mà nếu diễn viên chính trên sân khấu vào lần này không phải là Bộ Công An, đó có thể là ai, hoặc cơ quan nào ?
Có lẽ đó mới là vấn đề nhức đầu và khó xử lý nhất, thậm chí còn khó hơn nhiều việc "bắt cóc Trương Duy Nhất" mà đã bị dư luận xã hội xôn xao và cả cộng đồng quốc tế quan ngại suối từ Tháng Giêng 2019 đến nay.
Một chi tiết cũng đáng mổ xẻ là bất chấp khá nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế như Ân Xá Quốc Tế, theo dõi nhân quyền, phóng viên không biên giới, Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả và Liên Minh Báo Chí Đông Nam Á lên tiếng yêu cầu chính phủ Thái Lan phải làm rõ vụ Trương Duy Nhất mất tích ra sao, số phận của Nhất thế nào…, đồng thời yêu cầu chính phủ Việt Nam phải có trách nhiệm giải thích về việc này, Bộ Ngoại Giao Việt Nam của Ủy Viên Bộ Chính Trị Phạm Bình Minh vẫn một mực im lặng.
Vào Tháng Hai, 2019, Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh đã phải thực hiện một chuyến công du, có lẽ đầy miễn cưỡng theo chỉ đạo của "Tổng chủ" Nguyễn Phú Trọng, sang Đức để đàm phán và có thể đã tiếp tục hứa hẹn "sẽ trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức," đổi lấy việc Đức cho phục hồi quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam dù sẽ phải điều chỉnh khá nhiều nội dung trong đó, đặc biệt là nâng cấp vai trò của nhân quyền.
Trong tâm thức và tâm thế của mình, có lẽ Phạm Bình Minh đã quá ngán ngẩm tâm trạng phải chạy đôn chạy đáo "đổ vỏ" cho kẻ "ăn ốc."
Đã từng bị chê bai và chỉ trích quá nhiều bởi cộng đồng quốc tế và mạng xã hội về cái cách người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam dang tay về phía trước tuyên bố "Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú," bất chấp những văn bản của nhà nước Đức khẳng định mạnh mẽ và phẫn nộ về việc Thanh đã bị mật vụ Việt Nam bắt cóc ngay tại Berlin, Phạm Bình Minh hẳn đã rút ra bài học kinh nghiệm xương máu trong vụ "bắt cóc Trương Duy Nhất" : Im lặng là vàng.
Cùng lúc, các cơ quan "mật vụ" của Việt Nam như Bộ Công An (nhưng không còn Tổng Cục Tình Báo như thời "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh") và Tổng Cục 2 (Tình báo quân đội) thuộc Bộ Quốc Phòng cũng một mực giữ "sự im lặng đáng sợ."
Gần như chắc chắn là trong những tháng tới vụ Trương Duy Nhất sẽ được công bố, nhưng không phải theo cách "tự nguyện về nước đầu thú" hay tất cả những gì liên quan đến việc bằng cách nào Nhất lại có mặt trong trại giam T16 sau khi đã có hiện diện trong một trại giam khác, mà chỉ đề cập đến vụ việc Trương Duy Nhất "dính" vụ Vũ "Nhôm" ra sao.
Dường như toàn bộ chính thể độc đảng ở Việt Nam đã quyết tâm chọn thái độ im lặng vì không cơ quan nào chịu lên tiếng và dám lên tiếng, bất chấp thái độ đó sẽ khiến uy tín trên trường quốc tế của "đảng và nhà nước ta" sẽ càng lao dốc thê thảm hơn dù vẫn chưa mò thấy đáy.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 24/03/2019
Tròn một năm sau hai phiên tòa xử ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng với tổng cộng 31 năm tù giam nhưng lại không dẫn ra được chứng cứ nào đủ thuyết phục về tội trạng của Thăng, cũng không làm hé lộ được cung đường nào dẫn thẳng tới cửa nhà Nguyễn Tấn Dũng, vào tháng Ba sau tết nguyên đán 2019 đã ồn ào bùng lên vụ Junin 2.
Junin 2 là một trong những dự án dầu khí lớn nhất của PVN tại nước ngoài, có tầm quan trọng trong việc bảo đảm chiến lược phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025. Nguồn: PVN
Phát pháo lệnh ‘đánh’ vụ Junin 2 - theo truyền thống - vẫn được bắn ra bởi Thanh Niên - tờ báo mà vào tháng 3 năm 2017 đã phát pháo hiệu về ‘đánh’ ngành dầu khí - vụ Đinh La Thăng và cho tới nay đã hoàn thành những chuẩn mực của một tờ báo ‘thân đảng’.
Lại là Mạnh ‘Mượt’ và ‘Ba X’
Chẵn một con giáp trước đó, vào năm 2007 Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) do Đinh La Thăng khi đó là chủ tịch hội đồng thành viên đã có một phi vụ đầu tư vào một công ty khai thác dầu khí tại Venezuela - chế độ được xem là ‘người anh em xã hội chủ nghĩa’ của Việt Nam với sự chứng kiến của Nông Đức Mạnh - tổng bí thư thời đó mà còn những biệt danh khác như ‘Gã Răng Chắc’, ‘Mạnh Mượt’... Phi vụ này cũng được cho phép bởi thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng, đồng thời được ‘tập thể Bộ Chính trị’ gật đầu nhưng không thèm hỏi ý kiến Quốc hội - cơ quan mà về mặt luật là có thẩm quyền xem xét những dự án đầu tư tỷ đô như Junin 2.
Tiếp đến, một tổ hợp liên doanh ra đời giữa PVN và Công ty Dầu khí quốc gia Venezuela với cái tên "Dự án khai thác và nâng cấp dầu nặng lô Junin 2", có tổng vốn đầu tư 12,4 tỷ USD, trong đó liên doanh vay 60%, tương ứng 5,8 tỉ USD ; 40% còn lại do các bên đóng góp, tương ứng 3,1 tỉ USD. Phía Việt Nam tham gia 40% với số vốn góp là 1,241 tỉ USD.
Lẽ ra sự việc trên đã hoàn toàn bình thường như nhiều dự án đầu tư ra nước ngoài khác, nếu Junin 2 không mang về một giọt dầu nào cho tới nay và không bị phát hiện một khoản chi quái lạ : "phí tham gia hợp đồng" (bonus), lên đến 584 triệu USD, khiến tổng vốn của phía VN phải bỏ ra lên đến 1,825 tỉ USD.
Con số 584 triệu USD bonus trên chi cho ai ? Phải chăng PVN đã dùng nó để hối lộ những quan chức cao cấp của Venezuela ?
Cộng hưởng với hậu quả Junin 2 trở thành dự án mà PVN đốt tiền ngân sách quốc gia và trơ khung trùm mền cho đến nay, số tiền ‘lại quả’ khủng khiếp trên đang khiến dự án này trở thành đầu đề nóng hổi trên mặt báo chí nhà nước vào những ngày này, lồng trong bầu không khí cực kỳ căng thẳng khi tổng giám đốc của PVN là Nguyễn Vũ Trường Sơn thình lình làm đơn xin từ chức, còn Bộ Công an thì đang ‘vào cuộc làm rõ’.
Trong khi đó, mạng xã hội vừa tung hứng vừa tung tóe nhiều thông tin và bình phẩm về vụ Junin 2. Nhưng những tin tức và bình luận này không chỉ xuất phát từ những cây bút độc lập mà còn hiện ra trên những trang facebook cá nhân của một số cây bút mang màu sắc ‘phe cánh chính trị’.
Nguyễn Phú Trọng ‘vô can’ ?
Vào thời Junin 2, ‘tứ trụ’ trong chính thể độc đảng ở Việt Nam gồm Nông Đức Mạnh - tổng bí thư, Nguyễn Minh Triết - chủ tịch nước, Nguyễn Tấn Dũng - thủ tướng và Nguyễn Phú Trọng - chủ tịch quốc hội.
Vậy là đề tài chủ yếu của giới viết lách ‘phe cánh’ vào thời gian này là bóc tách bằng được những ai trong Bộ Chính trị thời đó đã bỏ phiếu chống Junin 2 và những kẻ nào phải chịu trách nhiệm đốt tiền ngân sách.
Có người cho rằng "hai vị không tán thành là cụ Nguyễn Phú Trọng, lúc đó là Chủ tịch Quốc hội và cụ Trương Tấn Sang, lúc đó là Thường trực Ban Bí thư. Hai cụ đều đề nghị phải thông qua Quốc hội, nhưng hai cụ chỉ là thiểu số".
Nhưng ở một chiều kích khá trái ngược, có người lại cho rằng chính Nguyễn Minh Triết mới là người bỏ phiếu chống, còn Nguyễn Phú Trọng cũng phải chịu trách nhiệm liên đới vì ông ta nằm trong ‘tập thể Bộ Chính trị’.
Trong lúc hầu hết ý kiến của giới ‘phe cánh chính trị’ và cả những cây bút độc lập đều nhất trí về khả năng cao là ‘Mạnh Mượt’ (tức Nông Đức Mạnh) phải chịu một phần trách nhiệm trong vụ đốt tiền Junin 2, thêm vào đó dường như chẳng ai chia buồn thương tiếc cái đầu bóng mượt mới lấy vợ gần đây ấy - một điểm đồng nhất thú vị hiếm hoi, khía cạnh tiếp theo được tranh luận ngày càng căng thẳng là liệu ‘Anh Ba X’ (tức Nguyễn Tấn Dũng) với tư cách là thủ tướng và là người cầm chịch cao nhất về dự án này khi đó có cố ý làm trái hay không, và có phải là cái đích cuối cùng và quan yếu nhất mà nhiều khả năng Junin 2 đang được đẩy thành một vụ án nhắm tới hay không ; và liệu Nguyễn Phú Trọng - dù chỉ phụ trách một cơ quan bị xem là ‘bù nhìn’ khi đó - có phải chịu trách nhiệm gì không khi ông ta chẳng có được một phản ứng nào ra hồn khi Quốc hội bị PVN và Chính phủ qua mặt một cách không thương xót như thế ; và ngoài ra, một nhân vật khác đóng vai trò quan trọng trong tiến trình đốt tiền của Junin 2 là Hoàng Trung Hải - hiện thời là Ủy viên bộ chính trị, Bí thư thành ủy Hà Nội và còn được một số dư luận xem là ‘cục cưng’ của Bắc Kinh, có liên quan trách nhiệm vụ này và có chịu chung số phận ‘cẩu đầu trảm’ với Nguyễn Tấn Dũng hay không…
Trong khi đó, đã có ít nhất một chỉ dấu lộ diện và dễ đoán cho thấy vụ Junin 2 đang đi theo chiều hướng nào và theo sự chỉ đạo của ai : hiện tượng báo chí nhà nước đồng loạt ‘đấu tố’ Junin 2 hẳn phải nhận được tín hiệu bật đèn xanh của Ban Tuyên giáo trung ương - cơ quan có truyền thống thuộc ‘phe đảng’ và từ sau đại hội 12 đến nay vẫn tỏ rõ lòng trung thành tương đối với Nguyễn Phú Trọng, nhân vật đang nắm quyền uy gần như tuyệt đối trong Bộ Chính trị đảng với vai trò không chỉ là tổng bí thư mà còn lèn thêm ghế chủ tịch nước.
Lời giải cho ẩn số ‘những ai trong Bộ Chính trị bỏ phiếu chống Junin 2’ hầu như đã lộ ra : chỉ khi Nguyễn Phú Trọng nằm trong số những người may mắn bỏ phiếu chống ấy, ông ta mới đủ tự tin để ‘khơi lò’ vụ Junin 2.
Không có gì khó hình dung rằng Nguyễn Phú Trọng chính là tác giả của vụ việc đang lao nhanh đến hồ sơ vụ án này.
Nhưng một dấu hỏi lớn lại bật ra : vì sao vào thời gian cuối năm 2017 và đầu năm 2018 khi đã cho bắt và khai thác điều tra Đinh La Thăng, những vụ xử Thăng lại khá tầm phào mà không hiện ra vụ Junin 2 ? Và tại sao trong suốt năm 2018, mặc dù những người thân của Nguyễn Tấn Dũng như con gái Nguyễn Thanh Phượng, con trai Nguyễn Thanh Nghị có nhiều dấu hiệu bị đưa vào tầm ngắm của Ủy ban Kiểm tra trung ương và Bộ Công an, thế đứng của ‘đồng chí X’ vẫn không mấy nghiêng ngả ?
‘Bất cứ ai, trừ Dũng’ ?
Có vẻ Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa mạnh đến mức như một số người tưởng tượng. Ngay trước mắt và đập ngay vào mắt ông ta vẫn là một lực lượng ngầm trong nội bộ đảng kình chống lại chiến dịch ‘đốt lò’.
Hãy tưởng tượng ra tương lai gần : bởi một nguyên do bất khả kháng nào đó, chẳng hạn vấn đề sức khỏe không cho phép Nguyễn Phú Trọng ‘tiếp tục cống hiến’ mà sẽ khiến ông ta phải buông rơi quyền lực trong lúc ‘lò’ thậm chí vẫn chưa thể lọt qua được cánh cửa nhà Nguyễn Tấn Dũng và bộ sậu của của Dũng, triển vọng đen tối cùng hậu quả ghê gớm nào sẽ xảy đến với Trọng nếu đối phương có cơ hội hồi sức và quyết tâm hồi tố ông ta ?
Từ sau vụ chỉ đạo bắt Đinh La Thăng - một thủ hạ thân tín của Nguyễn Tấn Dũng - vào cuối năm 2017, Nguyễn Phú Trọng đã chính thức leo lên lưng cọp và ở vào thế ‘được ăn cả ngã về không’. Hẳn đó là nguồn cơn mà sẽ khiến ông Trọng phải cố gắng hoàn tất nhiệm vụ lịch sử như cái cách của đại hội 12 ‘bất cứ ai, trừ Dũng’, trong năm 2019 này hoặc chậm lắm sang năm 2020, trước khi đại hội 13 diễn ra vào năm 2021 mà rất có thể sẽ biến diễn một biến động nhân sự cấp cao không thể lường được và không an toàn cho bất kỳ kẻ nào.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 25/03/2019
Không phải Trưởng ban tổ chức trung ương Phạm Minh Chính hay Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân - những đối tượng quan chức bị dư luận mặc định là tác giả kiêm đạo diễn chính của Luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt (còn gọi là luật Đặc khu, hoặc ‘Luật bán nước’ như một tục danh mà nhân dân đặt cho dự luật Đặc khu) quá tai tiếng và gây nguy biến cho đất nước, mà vào lần này lại là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đứng ra thông báo :
"Về Luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, Chính phủ cho biết : Thực hiện Nghị quyết số 64/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội về Kỳ họp thứ 5, tại Thông báo số 116/TB-VPCP ngày 30/7/2018 của Văn phòng Chính phủ về kết luận tại buổi họp lần thứ 2 của Ban Chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ - Trưởng ban Chỉ đạo đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội xây dựng phương án chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật theo hướng xây dựng một luật chung".
Việt Nam bỏ tù thêm 30 người biểu tình phản đối dự luật Đặc khu.
‘Thây ma’ sống lại !
Về thực chất, thông báo trên đã mở đường cho luật Đặc khu - bị hoãn vô thời hạn vào tháng Mười năm 2018 - nảy nòi trở lại. Ngay trước mắt, một chiến dịch ‘đánh’ giá đất đang bùng nổ ở các khu vực dự kiến ‘lên đặc khu’ là Vân Đồn (Quảng Ninh), Phú Quốc (Kiên Giang) và có thể cả ở Vân Phong (Khánh Hòa). Vô số đất mà giới quan chức đã ‘tậu giá rẻ’ ở những nơi này sẽ có cơ hội bằng vàng để ‘thoát hàng’ với giá trên trời.
Khái niệm ‘luật chung’ mà thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ thông báo lại khiến người ta càng nghi ngờ về việc đã từng tồn tại một thứ ‘luật riêng’ - luật Đặc khu mà nhiều nội dung của nó chứa đựng quá nhiều ưu ái cho Trung Quốc và cứ như thể đó là một hình thức trá hình mà chính thể độc đảng ở Việt Nam luồn lách nhượng địa hoặc nói trắng ra là bán đất cho kẻ ‘ngàn năm Bắc thuộc’.
Tại kỳ họp quốc hội tháng Mười năm 2018, bản dự luật Đặc khu - đối tượng đã tạo địa chấn biểu tình khổng lồ và gây sóng gió trong chính trường Việt Nam - đã bị Ủy ban Thường vụ quốc hội ‘quyết’ không mang ra bàn mà để ‘lùi lại’ nhưng không xác định thời hạn
Trước đó vào đầu tháng Bảy năm 2018, tức khoảng một tháng sau khi nổ ra cuộc biểu tình phản đối ‘Luật bán nước’ ở Sài Gòn với nhân số lên đến hàng trăm ngàn người và lan rộng trên 50% tỉnh thành trong cả nước, Nguyễn Phú Trọng - khi đó còn là tổng bí thư mà chưa ngồi hẳn vào ghế chủ tịch nước của kẻ quá cố là Trần Đại Quang - có gặp một ai đó và thốt lên ‘Nó lừa mình !’.
‘Nó’ là ai ?
‘Tứ trụ’ Huynh, Chính, Ngân, Phúc ?
Trước khi dự luật Đặc khu trên được tung ra vào giữa năm 2018, quan chức Thường trực Ban bí thư Đinh Thế Huynh đã ký một thông báo thay mặt Bộ Chính trị kết luận về chủ trương ‘làm’ các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, chính thức mở đường cho một khung pháp lý mà sau này bị dư luận xã hội phản ứng quyết liệt vì cho đó là ‘luật bán nước’.
Đáng chú ý, bản thông báo do Đinh Thế Huynh ký được dựa trên đề xuất của bí thư tỉnh Quảng Ninh - một địa phương giáp biên giới với Trung Quốc - vào thời đó là Phạm Minh Chính.
Lại có một mẩu chuyện rất đáng mổ xẻ và cần thiết thì ‘hồi tố’ kể cả về sau này : sau những cuộc làm việc đầy ‘tình hữu nghị’ với trợ lý của Tập Cận Bình về đặc khu, Phạm Minh Chính đã nêu ra đề xuất cho thuê đất đặc khu đến 120 năm, chứ không chỉ là 99 năm !
Không biết có phải do ‘thành tích’ đề xuất ý tưởng và cả kế hoạch về xây dựng đặc khu Vân Đồn dành nhiều ưu ái cho nhà đầu tư cùng giới tài phiệt Trung Quốc và lại khá tương thích với ý đồ lấn dần lãnh thổ Việt Nam của Bắc Kinh, Phạm Minh Chính đã được Tổng bí thư Trọng tưởng thưởng và đưa quan chức này vào Bộ Chính trị kiêm Trưởng ban Tổ chức trung ương tại đại hội 12 của đảng cầm quyền vào đầu năm 2016.
Chỉ đến sát kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2018, ‘luật bán nước’ mới được công bố một cách chính thức như sự đã rồi. Trước đó, đã không có bất kỳ một động tác nào, dù là nhỏ nhất hoặc chỉ mang tính mị dân, nhắm đến việc thông báo cho dân hoặc lấy ý kiến của dân về dự luật đặc khu.
Nhưng ngay sau khi dự luật Đặc khu dược công bố, rất nhiều người dân và trí thức đã dậy lên một làn sóng phản kháng phẫn nộ, so sánh Dự luật về đặc khu kinh tế với hình thức nhượng địa mà chỉ đất nước nào nghèo đói lạc hậu mới cần đến, mặt khác họ cảnh báo nó có thể bị nước láng giềng Trung Quốc lợi dụng để di dân.
Chỉ đến khi không khí và tâm trạng bức xúc của dân chúng lên cao độ, Thủ tướng Phúc mới lộ hình để thanh minh : ‘Giao đất 99 năm không phải mấu chốt của luật đặc khu".
Ngay sau khi dự luật Đặc khu dược công bố, rất nhiều người dân và trí thức đã dậy lên một làn sóng phản kháng phẫn nộ.
Nhưng khi không khí bức xúc của dân chúng và trí thức không còn là mỉa mai hay chỉ trích đối với dự luật đặc khu mà đã bùng nổ thành rất nhiều văn thư, bài viết phản bác và phản kháng, đồng thời manh nha một làn sóng biểu tình phản đối dự luật này, ông Phúc lại ‘tự diễn biến’ khi tự thay đổi quan điểm trước đó của mình sang ‘Sẽ điều chỉnh cho thuê đất đặc khu xuống dưới 99 năm’.
Như một dàn đồng ca, giới dư luận viên của đảng và công an hô hào : "đừng để câu chuyện "đặc khu" bị các thế lực thù địch lợi dụng, với cái gọi là "hành vi bán nước", "xây dựng thuộc địa kiểu mới"…phản đối dự thảo luật với những lời lẽ kích động, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân ; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân ; phá hoại sự nghiệp đổi mới đất nước".
Việc lần đầu tiên Thủ tướng Phúc nhắc đến từ ‘dân’ lại giống như một sự xúc phạm tột cùng đến Hiến pháp.
Bởi là người đại diện cho một chế độ được xem là ‘chính danh’ và cho một đảng chưa có luật về đảng mà do đó hoàn toàn có thể bị xem là ‘hoạt động ngoài vòng pháp luật’, Nguyễn Xuân Phúc hay những quan chức trong đảng của ông ta đã không thèm đếm xỉa đến quan điểm, ý kiến và tinh thần dân tộc, ý chí thoát Trung của hàng chục triệu người dân khi âm thầm xây dựng dự thảo Luật đặc khu mà không hề trưng cầu ý dân.
Trong khi đó, Quốc hội Việt Nam một lần nữa chứng tỏ cái năng lực nổi bật của nó : không chỉ hùa theo các nhóm lợi ích để tăng vọt thuế và ‘bóc lột dân ta đến tận xương tủy’, ‘cơ quan dân cử’ này còn tiến xa hơn một bước bằng một kỳ họp châu đầu vào ‘luật bán nước’.
Trừ một số rất hiếm hoi dân biểu phát tiếng nói phản biện, tuyệt đại đa số còn lại trong số gần 500 đại biểu quốc hội vẫn tiếp tục thói ‘ngủ ngày’ trong cơn mộng du vong bản và vong dân.
Sau khi dự luật Đặc khu bị phản ứng dữ dội, người dân đã phát hiện ra nguồn cơn vì sao Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân lại nhấn mạnh theo lối áp đặt ‘Bộ Chính trị đã quyết định về luật đặc khu rồi…’ : vào thời gian hội thảo về chủ trương đặc khu Vân Đồn ở Quảng Ninh, Nguyễn Thị Kim Ngân nằm trong số quan chức VIP tham dự hội thảo này và đã ‘nhiệt tình vỗ tay’ dành cho ‘luật bán nước’ !
Lại quên dân và gạt dân !
Trong lịch sử ‘làm luật’ ở Việt Nam, ‘luật bán nước’ là một minh chứng hùng hồn nhất về não trạng quên dân và gạt dân. Cho đến tận giờ đây, một trong những quyền dân đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1992 là ‘trưng cầu dân ý’ vẫn chưa hề được luật hóa.
Bất chấp phong trào người dân, trí thức và cả nội bộ trong đảng phản ứng dữ dội về nhiều điều khoản rất bất lợi trong dự thảo luật này, cho tới nay dự thảo luật Đặc khu có thể vẫn chưa được chỉnh sửa một cách cầu thị thật sự, mà thậm chí chỉ được gia cố hết sức sơ sài và mang tính đối phó mà vẫn giữ nguyên quan điểm và quy định chi tiết về ‘cho thuê đất đến 99 năm’ hoặc gần như thế ; ‘kiến tạo’ những điều kiện cực kỳ dễ dãi để người Trung Quốc có thể ồ ạt di cư vào các đặc khu, đặc biệt là đặc khu kinh tế Vân Đồn ở Quảng Ninh, một khi luật Đặc khu đực chính thức thông qua ; vẫn giữ nguyên quyền tài phán nếu có tranh chấp và xử lý người di cư hoặc doanh nghiệp của Trung Quốc không thuộc về Việt Nam mà thuộc về ‘quốc tế’ ; vẫn không có những điều kiện chặt chẽ để loại trừ tương lai các đặc khu, nhất là đặc khu Vân Đồn, sẽ trở thành bãi thải công nghiệp khổng lồ của rác từ Trung Quốc đổ vào ; và vẫn không có quy định chặt chẽ để lại trừ tương lai một số doanh nghiệp cá mập Việt Nam (chẳng hạn như Tập đoàn FLC của Trịnh Văn Quyết - nhân vật không biết là tỷ phú đô la thực hay giả) trở thành con nợ khổng lồ khi sẵn sàng đi vay của các ngân hàng Trung Quốc để đầu tư vào đặc khu nhưng lại không thể bảo đảm năng lực thanh toán, để cũng như nhiều phi vụ vay ODA nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam đẩy toàn bộ hậu quả mất khả năng thanh toán cho chính phủ…
Thủ tướng Phúc sẽ xử lý những khúc xương quá khó nuốt trên như thế nào khi tìm cách cho ‘thây ma’ hồi sinh ?
Sau ‘luật riêng’ của Phạm Minh Chính và Nguyễn Thị Kim Ngân, vai trò ‘luật chung’ của Nguyễn Xuân Phúc có thể được hiểu ra sao ? Liệu ông Phúc có lợi ích gì trong các phi vụ đầu cơ tài chính và chính trị của ‘luật bán nước’ ?
Ngay trước mắt, một nguy cơ rất hiển hiện đối với chế độ cầm quyền là nếu các nhóm lợi ích trong nội bộ đảng - với tư chất cố đấm ăn xôi - vẫn bằng mọi cách ‘đi đêm’ để thông qua luật Đặc khu, sẽ khiến làn sóng biểu tình chống ‘luật bán nước’ này trong dân chúng tiếp tục diễn ra sôi sục hơn, có thể biến thành một phong trào rất lớn trên mạng xã hội và cả trên đường phố trong năm 2019 và cả những năm sau đó.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 23/03/2019
Khác rất nhiều với chuyến công du của Tổng bí thư Trọng đến Washington vào tháng 7 năm 2015 được thông báo bởi đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là Ted Osius, vào năm 2019 này giới ngoại giao Việt Nam đã ‘chủ động thông tin đối ngoại’ khi cho viên đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ là Hà Kim Ngọc, và sau đó là Bộ Ngoại giao Việt Nam chính thức thông báo cho báo chí nhà nước về chuyến công du Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, tuy chưa rõ vào thời điểm nào trong năm.
Ông Trump và ông Trọng tại Hà Nội, tháng Hai, 2019.
‘Mình phải như thế nào người ta mới tiếp như thế chứ’
Rõ là hai trạng thái đi Mỹ trên xuất phát từ tâm thế và tư thế của Trọng : nếu vào năm 2015 ông ta đến Mỹ với vị thế chỉ là tổng bí thư đảng, lại là đảng Cộng sản, mà đã bị giới chính khách phương Tây xét nét về chức danh ‘không chính danh’ khi xem xét các nghi thức ngoại giao để đón tiếp, thì nay Nguyễn Phú Trọng đã đương nhiên trở thành chủ tịch nước và suy ra là nguyên thủ quốc gia…, theo đúng não trạng ‘mình phải như thế nào người ta mới tiếp như thế chứ’ của ông Trọng.
Điệu cười mơn trớn và hể hả như thể ‘địa chủ được mùa’ chưa có tiền lệ của Nguyễn Phú Trọng dành cho một tổng thống Mỹ khi hai nhân vật này gặp nhau ở Hà Nội bên lề thượng đỉnh Trump - Kim ở Hà Nội là rất logic với một luồng dư luận cho rằng phía Hoa Kỳ đã phát ra tín hiệu ưng thuận cho Trọng đến Washington vào mùa hè năm 2019.
Nhưng còn hơn thế, Trọng có vẻ đang tự tin bởi hành trang mà ông ta mang đến Phòng Bầu Dục. Với vai trò là nước chủ nhà đăng cai tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Triều vào tháng 2 năm 2019, cho dù kết quả sau đó gần như là con số 0 và thậm chí còn bị xem là một thất bại mang tính sụp đổ, Việt Nam vẫn ghi được một điểm nhỏ trong cặp mắt của Trump về không khí bảo đảm an ninh và đặc biệt là triển vọng Hà Nội không chỉ xem ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ mà còn ‘máy bay Mỹ bay qua vô hại ở Biển Đông’ - hai động thái song trùng và gắn liền mà đang phát ra chỉ dấu thuận lợi để toàn bộ Hạm đội 7 của Mỹ tiến từ Thái Bình Dương vào Biển Đông, không còn e ngại sự va chạm nào về pháp lý với Việt Nam, nhằm áp sát các đảo đang tranh chấp ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà về thực chất là chuẩn bị cho một cuộc đối đầu về quân sự với Trung Quốc có thể xảy ra trong tương lai không quá xa.
Cũng về thực chất, chuyến công du Washington sắp tới của ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng có thể được xem là một cử chỉ không còn thuần túy là cái cách ngả ngớn của một người đàn bà trước một người đàn ông, mà sẽ là lao thẳng vào vòng tay của người đàn ông đó.
Cá Voi Xanh và ‘hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ’
Một điểm khác biệt nữa là nếu chuyến công du Mỹ của Nguyễn Phú Trọng vào năm 2015 lồng trong bối cảnh Trọng phải ‘gồng mình’ chấp nhận điều kiện phải có công đoàn độc lập trong Hiệp định TPP mà tổng thống Mỹ khi đó là Barak Obama đòi hỏi, thì không cần hoài nghi rằng chuyến đi Mỹ sắp tới của Nguyễn Phú Trọng sẽ bàn sâu về một trong những nội dung trọng tâm là ‘làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc phòng’ và làm thế nào để Mỹ - Việt cùng khai thác triệt để mỏ Cá Voi Xanh ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi, có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối, được liên doanh giữa Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, mà không để ‘kẻ cướp Bắc Kinh’ dây phần.
Trong bối cảnh ngân sách Việt Nam đang nhanh chóng cạn kiệt và đặc biệt đang quá thiếu ngoại tệ để trang trải nợ quốc tế – lên tới 10 - 12 tỷ USD/năm – và để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ các nước, đồng thời phải bảo đảm dự trữ ngoại hối, 60 tỷ USD dự kiến khai thác được từ dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam là Cá Voi Xanh (con số dự đoán mới nhất được nêu ra bởi chính quyền Việt Nam, gấp đến 3 lần con số dự đoán trước đây là 20 tỷ USD) - được xem là giá trị rất đáng để giới lãnh đạo Việt Nam tỏ một chút can đảm trước "đồng chí tốt" Trung Quốc.
Đó là hệ quả của bầu không khí từ ‘cầu viện’ biến thành nồng ấm hơn và hơn hẳn trong quan hệ Việt - Mỹ kể từ tháng 7 năm 2017 khi Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch vội vã sang Hoa Kỳ, ngay sau vụ Trung Quốc đe dọa tấn công mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ - liên doanh giữa Việt Nam với hãng dầu khí Tây Ban Nha là Repsol và khiến Repsol phải ‘bỏ của chạy lấy người’, để sau đó Bộ trưởng quốc phòng Mỹ James Mattis đã lần đầu tiên điều động hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson đến hiện diện tại cảng Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2018, phục vụ cho một nhu cầu cần thiết với Mỹ và tối cần thiết với Bộ Chính trị Việt Nam là dự án khai thác mỏ dầu khí Cá Voi Xanh.
Nếu mọi chuyện thuận buồm xuôi gió và sau cuộc cuộc gặp Trump - Trọng sắp tới tại Washington sẽ hiện ra một văn bản được ký giữa hai bên như kiểu’ Hiệp ước tương trợ quốc phòng’ mà Mỹ đã ký với Philippines, hoặc ít ra cũng là một bản ghi nhớ về việc sẽ tiến hành chuyện đó, và hơn nữa là sự chuẩn bị cho ‘quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Mỹ - Việt’, Bộ Chính trị ở Hà Nội sẽ có thể như ‘sống lại’ để nhảy vào khai thác mỏ Cá Voi Xanh mà không còn phải mắt trước mắt sau trước thói đe nẹt của ‘đồng chí bốn tốt’.
Còn nhớ ngay sau chuyến thăm Việt Nam một cách bất thường của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Jamne Mattis vào tháng 11 năm 2018, cùng tuyên bố đầy thách thức "Mỹ sẽ hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông dù có Trung Quốc hay không" của Cố vấn An ninh Mỹ John Bolton, ExxonMobil đã một lần nữa quay lại nhà máy Lọc dầu Bình Sơn để triển khai hợp đồng FEED (tư vấn lập thiết kế tổng thể) trong dự án Cá Voi Xanh.
Còn với Trump - là một nhà kinh doanh thực dụng trước khi bước chân vào chính trường - 60 tỷ USD quả là con số hấp dẫn.
Nhưng ngoài Cá Voi Xanh, Trọng vẫn còn một hành trang khác - như một món quà - để phòng hờ trong cuộc gặp với Trump nếu bị gây áp lực về chính trị, kinh tế và ngoại thương.
‘Cải cách’
Vào cuối tháng Sáu năm 2018, một cấp dưới được xem là ‘gà’ của Nguyễn Phú Trọng là Phó thủ tướng Vương Đình Huệ đã có một chuyến đi tiền trạm tới Mỹ.
Khi tường thuật nội dung làm việc của ở Washington của Huệ, báo chí Việt Nam cho biết "Phó Cố vấn an ninh quốc gia Mira Ricardel khẳng định coi trọng quan hệ Đối tác toàn diện với Việt Nam, nước đóng vai trò quan trọng trong triển khai chính sách của Hoa Kỳ ở Châu Á-Thái Bình dương ; ủng hộ chia sẻ của Phó Thủ tướng về việc một Việt Nam mạnh, độc lập, cải cách sẽ mang lại lợi ích chung cho khu vực, trong đó có Hoa Kỳ".
Đã khá rõ là khi đó, Vương Đình Huệ muốn chuyển thông điệp của Nguyễn Phú Trọng có thể mang đến cho Donald Trump món quà là ‘cải cách’.
Cùng lúc và như một sự cố ý, báo đảng Việt Nam đã đánh tiếng ‘Việt Nam cải cách sẽ có lợi cho Mỹ’…
Vào năm 2015, Nguyễn Phú Trọng phải lần đầu tiên ‘xuất tướng’ sang Mỹ nhằm tìm kiếm cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam, mà kẻ hưởng lợi phía sau đương nhiên là ngân sách đảng cầm quyền của ông ta trong bối cảnh sắp hết tiền, được tham gia và Hiệp định TPP. Còn vào năm 2019 này, ngân sách nuôi đảng của Nguyễn Phú Trọng đã bộc lộ nhiều dấu hiệu cạn kiệt và có thể lao xuống vực xoáy nguy hiểm của nạn vỡ nợ. Cần phải gấp rút tìm ra lối thoát cứu đảng và cứu vãn chế độ mà hơi thở của nó có lẽ chỉ còn kéo dài từng năm này.
Chỉ có điều, rất đồng điệu với vô số hứa hẹn và cả cam kết về ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ của chính thể Việt Nam luôn lặn không sủi tăm sau đó, vẫn chưa có bất kỳ động tác nào được xem là "cải cách thể chế" cho tới nay, và cũng chẳng có bất kỳ cơ sở đáng tin cậy nào, dù chỉ một chút, cho thấy ông Trọng và thể chế đảng trị kèm công an trị của ông ta sẽ chịu cải cách.
Làm thế nào để cứu vãn tình hình kinh tế và chân đứng chính trị rệu rã chỉ trong một vài năm, khi vài ba chục năm trước đó đảng Cộng sản đã không hề cải cách, hoặc có tuyên bố cải cách cũng chỉ là thói đầu môi chót lưỡi như một cách để kéo dài thời gian và ‘thu gom’ viện trợ quốc tế phục vụ cho giới quan chức túi tham không đáy ?
Liệu với gợi ý ‘sẽ cải cách’ và hứa hẹn ‘Việt Nam cải cách sẽ có lợi cho Mỹ’ mà chẳng có bất kỳ bản thuyết minh chi tiết nào kèm theo, Nguyễn Phú Trọng có dễ dẫn dụ Donald Trump mở hầu bao viện trợ và đối ứng thương mại ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 20/03/2019
Cả hai đều "vận động" ?
Ông Nguyễn Phú Trọng đang có cơ hội lặp lại lịch sử được đón tiếp tại Phòng Bầu Dục ở Tòa Bạch Ốc năm 2015 trong năm 2019 này.
Trước, trong và sau cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Bắc Hàn tại Hà Nội vào cuối tháng Hai, năm 2019, một số nguồn tin từ truyền thông quốc tế và giới quan sát chính trị ở Việt Nam cho biết Bộ công an Việt Nam đã "vận động" giới chức an ninh Mỹ để Bộ trưởng công an Tô Lâm có một chuyến công du Hoa Kỳ vào tháng Tư, năm 2019, cùng lúc có thông tin về một chuyến thăm Hoa Kỳ của Nguyễn Phú Trọng vào giữa năm 2019.
Bộ trưởng Tô Lâm tặng hoa Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng dịp hội nghị công an toàn quốc lần thứ 73 tại Hà Nội ngày 15/01/2018
John Bolton, cố vấn an ninh Mỹ, người đã có mặt cùng với Tổng Thống Trump trong cuộc gặp với Kim Jong-un, đã nhận được "gợi ý" từ phía Bộ công an Việt Nam.
Vào cuối năm 2018, một nguồn tin ngoại giao cho biết Tô Lâm đã "vận động đi Mỹ", tuy nhiên khi đó phía Mỹ chưa thể sắp xếp được cho chuyến đi này, cũng như chưa rõ mục đích chuyến đi của Tô Lâm nhằm vào điều gì.
Vào ba tháng cuối năm 2018 cũng đã lao xao đôi chút đồn đoán về việc Bộ Ngoại Giao Việt Nam đôn đáo vận động cho một chuyến "thăm và làm việc" của Nguyễn Phú Trọng – người mà khi đó đã chính thức trở thành nguyên thủ quốc gia sau khi trám vào cái ghế chủ tịch nước của nhân vật vừa chết là Trần Đại Quang. Tuy nhiên những nguồn tin ngoại giao khi đó cho biết "Mỹ chưa thể tiếp Trọng" do Trump còn bận nhiều việc và còn phải căng mình đối phó với những đợt tấn công dữ dội của đảng Dân Chủ.
Chỉ đến cuối tháng Hai, năm 2019, khi tổ chức "thành công" sự kiện cuộc gặp Trump-Kim tại Hà Nội, dường như Nguyễn Phú Trọng và một số cấp dưới của ông ta như Bộ trưởng công an Tô Lâm, Bộ trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh và cả Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc mới có thể tự tin và mạnh miệng hơn để "gợi ý" Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về những chuyến "thăm và làm việc" của lãnh đạo Việt Nam tại Mỹ trong năm 2019.
Theo đó, quốc gia mạnh nhất thế giới là Hoa Kỳ cần có một cuộc đón tiếp chính thức và cực kỳ tôn trọng dành cho Nguyễn Phú Trọng – người mà giờ đây khác xưa rất nhiều khi không chỉ là tổng bí thư mà dễ bị giới chính khách phương Tây xét nét về vị thế "không chính danh" khi xem xét các nghi thức ngoại giao để đón tiếp, mà đã trở thành chủ tịch nước và suy ra là nguyên thủ quốc gia… Điều này theo đúng não trạng "mình phải như thế nào người ta mới tiếp như thế chứ" của ông Trọng sau khi ông ta được Tổng Thống Mỹ Barak Obama trải thảm đỏ tại Phòng Bầu Dục vào tháng Bảy, năm 2015.
Điệu cười mơn trớn và hể hả như thể "địa chủ được mùa" chưa có tiền lệ của Nguyễn Phú Trọng dành cho một tổng thống Mỹ khi hai nhân vật này gặp nhau ở Hà Nội bên lề thượng đỉnh Trump-Kim là logic với một luồng dư luận cho rằng phía Hoa Kỳ đã phát ra tín hiệu ưng thuận cho Trọng đến Washington vào mùa Hè năm 2019.
60 tỷ USD !
Đến gần giữa tháng Ba, 2019, viên đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ là Hà Kim Ngọc đã chính thức thông báo cho báo chí nhà nước về chuyến công du Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, tuy chưa rõ và thời điểm nào năm.
Tình hình trên đang có vẻ "hợp lý" với bầu không khí từ "cầu viện" biến thành nồng ấm hơn trong quan hệ Việt-Mỹ kể từ tháng Bảy, năm 2017, khi Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch vội vã sang Hoa Kỳ, ngay sau vụ Trung Quốc đe dọa tấn công mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ – liên doanh giữa Việt Nam với hãng dầu khí Tây Ban Nha là Repsol và khiến Repsol phải "bỏ của chạy lấy người". Sau đó Bộ trưởng quốc phòng Mỹ James Mattis đã lần đầu tiên điều động hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson đến hiện diện tại cảng Đà Nẵng vào tháng Ba, năm 2018. Việc làm này phục vụ cho một nhu cầu cần thiết với Mỹ và tối cần thiết với Bộ Chính trị Việt Nam : dự án khai thác mỏ dầu khí Cá Voi Xanh ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi, có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối, được liên doanh giữa Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ với Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam, sẽ không còn phải mắt trước mắt sau trước thói đe nẹt của "đồng chí bốn tốt".
Bằng chứng là ngay sau chuyến thăm Việt Nam một cách bất thường của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ James Mattis vào tháng Mười Một, năm 2018, cùng tuyên bố đầy thách thức "Mỹ sẽ hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông dù có Trung Quốc hay không" của Cố vấn an ninh Mỹ John Bolton, ExxonMobil đã một lần nữa quay lại nhà máy lọc dầu Bình Sơn để tiến hành hợp đồng FEED (tư vấn lập thiết kế tổng thể) trong dự án Cá Voi Xanh.
Trong bối cảnh ngân sách Việt Nam đang nhanh chóng cạn kiệt và đặc biệt đang quá thiếu ngoại tệ để trang trải nợ quốc tế – lên tới 10 -12 tỷ USD/năm – và để phục vụ cho nhu cầu nhập cảng hàng hóa từ các nước, đồng thời phải bảo đảm dự trữ ngoại hối, $60 tỷ dự kiến khai thác được từ dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam là Cá Voi Xanh (con số dự đoán mới nhất được nêu ra bởi chính quyền Việt Nam, gấp đến 3 lần con số dự đoán trước đây là 20 tỷ USD) – được xem là giá trị rất đáng để giới lãnh đạo Việt Nam tỏ một chút can đảm trước "đồng chí tốt" Trung Quốc.
Còn với Trump, là một nhà kinh doanh thực dụng trước khi bước chân vào chính trường, $60 tỷ quả là con số hấp dẫn.
Không hoài nghi rằng chuyến đi Mỹ sắp tới của Nguyễn Phú Trọng, nếu diễn ra, sẽ bàn sâu về một trong những nội dung trọng tâm là "làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc phòng" và làm thế nào để Mỹ-Việt cùng khai thác triệt để mỏ Cá Voi Xanh mà không để "kẻ cướp" dây phần.
Còn Tô Lâm đóng vai trò gì cho chuyến đi trên ?
Nhìn lại Trần Đại Quang
Bốn tháng sau khi chính thức trở thành "tổng chủ", Nguyễn Phú Trọng đã chính thức thăng hàm đại tướng cho Bộ trưởng công an Tô Lâm, hàm mà trước đó chỉ đặc cách cho phái quân đội và nghe nói Tô Lâm đã phải chờ đợi đủ lâu mới có được cầu vai mới này.
Vụ phong hàm đại tướng trên xảy đến trong bối cảnh vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Tnanh" vẫn còn nguyên một núi hậu quả mà chưa giải quyết được một vấn đề nào, còn Thủ Tướng Đức Angela Merkel hối thúc các cơ quan điều tra và công tố Đức lẫn phía Slovakia tăng tốc điều tra vụ "vận chuyển" Trịnh Xuân Thanh từ Berlin sang Bratislava và từ đó về Việt Nam – bằng cách nào và nhờ vào bàn tay đạo diễn của những người Việt nào.
Cũng một cách chính thức, có thể hiểu rằng Tô Lâm đã trở thành "người của Trọng" – một hình ảnh mà dễ khiến người ta ngay lập tức liên tưởng với một hình ảnh khác : Trần Đại Quang, vào năm 2015 còn là bộ trưởng công an, cũng đã được xem là "người của bác Cả" và đã có một chuyến đi tiền trạm Hoa Kỳ cho Trọng vào tháng Ba, năm 2015, trong đó có những cuộc gặp không chỉ giới giới chức an ninh mà cả với Bộ quốc phòng Mỹ. Bốn tháng sau, Nguyễn Phú Trọng được Tổng thống Obama tiếp tại Washington và được báo đảng Việt Nam ca ngợi như "một thắng lợi ngoại giao chưa từng có".
Một dấu hỏi đang hiện ra là liệu chuyến đi Mỹ của Tô Lâm vào tháng Tư, năm 2019, nếu xảy ra, có liên quan và có phải chuyến đi tiền trạm cho chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng vào giữa năm 2019 hay không ? Hoặc những chuyến đi Mỹ của hai nhân vật này chỉ là "đánh lẻ" ?
Dù gì đi nữa, 2019 có thể là năm sẽ chứng kiến một phong trào "đi Mỹ" khá ồ ạt của giới quan chức cao cấp Việt Nam như đã từng diễn ra vào năm 2015, bao gồm cả giới quan chức bên khối chính phủ, Quốc hộii và thậm chí… dân vận.
Nếu Tô Lâm đi Mỹ tiền trạm cho Nguyễn Phú Trọng, đó sẽ là hiện tượng một bộ trưởng công an "làm phông" cho tổng bí thư hai lần liên tiếp cách nhau 4 năm.
Cần nhắc lại, sau chuyến tiền trạm Mỹ cho Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang đã được ông Trọng xếp vào danh sách ứng cử viên hàng đầu cho ghế chủ tịch nước. Tuy nhiên từ sau khi trở thành chủ tịch nước, mối quan hệ giữa Quang và Trọng đã không còn "cơm lành canh ngọt" nữa – theo rất nhiều dư luận và cả bình luận của truyền thông quốc tế.
Đến tháng Chín, năm 2018, khi mới ngồi ghế nguyên thủ quốc gia chưa đầy nửa nhiệm kỳ, Trần Đại Quang chết.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 15/03/2019
Quyền biểu tình của người dân Việt Nam đã mang trên mình một món nợ thời gian khủng khiếp : hơn một phần tư thế kỷ ma mị kể từ Hiến pháp 1992 mà không lộ hình một chút thiện tâm nào, dù chỉ là loại thiện tâm ảo ảnh.
Người biểu tình chống hai dự luật an ninh mạng và đặc khu kinh tế bị trấn áp.
Lại mồi nhử nhân quyền để mặc cả thương mại
Tháng 3 năm 2019, chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc một lần nữa lấp ló : "Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ, Bộ Công an đang tiếp tục phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu lý luận, cơ sở pháp lý và tổ chức khảo sát thực tế tại các đơn vị, địa phương để nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Biểu tình bảo đảm thực thi quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tránh các thế lực thù địch lợi dụng biểu tình để gây rối mất trật tự, chống phá Đảng, Nhà nước ta".
Một lần nữa trong quá nhiều lần bộ luật quyền dân này bị chính phủ từ thời ‘nắm chắc ngọn cờ dân chủ’ của Nguyễn Tấn Dũng đến ‘liêm chính, kiến tạo, hành động’ của Nguyễn Xuân Phúc, cùng ‘cơ quan dân cử tối cao’ là Quốc hội lợi dụng như một thứ mồi nhử nhân quyền để mặc cả thương mại với Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu - liên quan đến TPP (Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương) vào những năm 2014 - 2016, và EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) đang trong giai đoạn ‘chuẩn bị ký kết’ vào những năm 2018 - 2019.
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên hay vì thành ý mà chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Bộ Công an tái hiện hình dự án Luật Biểu tình vào lần này.
Một dấu hiệu xuống thang
Nếu yêu cầu của TPP và Hoa Kỳ trong những năm trước về Việt Nam cần có Luật Biểu tình chỉ có vai trò phụ và thứ yếu trong TPP và do đó chính thể độc đảng ở Việt Nam đã chẳng phải làm gì ngoài những lời ‘hứa cuội’, thì vào lần này con đường dẫn tới EVFTA là chông gai và khốn khổ hơn hẳn đối với chính thể đang khốn quẫn này : vào giữa tháng 11 năm 2018, lần đầu tiên Nghị viện Châu Âu tung ra một bản nghị quyết lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền với nội dung rất rộng và sâu, lời lẽ rất cứng rắn, với một trong những đòi hỏi dứt khoát là Việt Nam phải có Luật Biểu tình ; và vào tháng 2 năm 2019, Hội đồng Châu Âu đã thẳng tay quyết định hoãn vô thời hạn việc phê chuẩn EVFTA, với nguồn cơn thực chất là tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam quá trầm trọng và chẳng có gì được cải thiện, khiến chính quyền Việt Nam ‘mất ăn’ khi tưởng như đã nuốt trôi mọi thứ.
Cùng thời gian trên, Việt Nam còn phải đối mặt với cuộc đối thoại nhân quyền EU - Việt Nam vào đầu tháng 3 năm 2019 và hai cuộc điều trần nhân quyền - một do Ủy ban Chống tra tấn của Liên hiệp quốc, và một do Ủy ban Nhân quyền của Liên hiệp quốc tổ chức. Toàn bộ các cuộc đối thoại và điều trần đều nhắm vào tình trạng vi phạm nhân quyền quá tồi tệ ở Việt Nam.
Hơn bao giờ hết, nhân quyền đã trở nên điều kiện cần và là điều kiện số 1 trong EVFTA - điều mà giới chóp bu Việt Nam không hề mong muốn nhưng cuối cùng đã xảy ra. Không phải ngẫu nhiên mà việc hoãn vô thời hạn EVFTA theo quyết định của Hội đồng Châu Âu dựa vào một trong những căn cứ chính là bản kiến nghị yêu cầu hoãn EVFTA của 18 tổ chức xã hội dân sự độc lập ở nước ngoài và tại Việt Nam.
Vào tháng Giêng năm 2019, bất chấp thái độ nôn nóng muốn thúc đẩy nhanh thủ tục hiệp định này của một số nghị sĩ, Phòng Thương mại Châu Âu (Eurocharm) và doanh nghiệp Châu Âu, cùng sự vận động ráo riết của giới quan chức Việt Nam, Bernd Lange - Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế của Quốc hội EU - tuy là người được xem là ôn hòa, đã phản ứng cứng rắn hiếm thấy : "Nếu không có tiến bộ nào về nhân quyền, và đặc biệt là quyền của người lao động, thì sẽ không có bất cứ hiệp định nào được Quốc hội Châu Âu thông qua hết".
Và ngay sau cuộc đối thoại nhân quyền EU - Việt Nam, ông Umberto Gambini - một quan chức quan trọng của EU - đã xác nhận chính thức về việc EVFTA phải chờ nghị viện mới của Châu Âu khi nghị viện này được bầu lại vào tháng 5 năm 2019. Xác nhận này đã đóng dấu chấm hết cho hy vọng của Thủ tướng Phúc, Bộ Chính trị và chính thể độc đảng chỉ muốn ‘ăn sẵn’ khi ‘mong EU linh hoạt ký kết và phê chuẩn EVFTA trong quý 1 năm 2019’.
Bây giờ thì đã rõ mồn một, nếu vẫn không chịu cải thiện nhân quyền, tương lai của EVFTA sẽ chính là kịch bản tồi tệ nhất, đen tối nhất cho nền chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam mà đang quá cần ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Không có bất kỳ bảo chứng nào hay chữ ký nào của những người tiền nhiệm, các thành viên mới của Nghị Viện Châu Âu mới sẽ thật khó để tìm ra lý lẽ dù thuyết phục khiến họ mau chóng gật đầu với EVFTA, để khi đó chủ đề ‘đàm phán EVFTA’ sẽ phải nhai lại từ đầu.
Thông tin chính phủ giao "Bộ Công an nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Biểu tình" ló ra vào tháng 3 năm 2019 có thể được xem là phản ứng xuống thang đầu tiên của ‘đảng và nhà nước ta’ trước EU kể từ cuối năm 2016 đến nay, sau sự kiện tiếp đón Tổng thống Mỹ Barak Obama tại Hà Nội vào giữa năm 2016 và nhận được món quà Mỹ gỡ bỏ toàn phần lệnh cấm bám vũ khí cho Việt Nam mà Hà Nội chẳng phải làm gì về cải thiện nhân quyền để có qua có lại.
Nhưng ‘cải thiện nhân quyền’ như thế nào với một chính thể công an trị ?
Bộ Công an ‘làm luật’ theo cách nào ?
Có một sự thật hết sức trớ trêu ở Việt Nam là vào năm 2011, thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng đã giao cho Bộ Công an - cơ quan bị xem là ‘công an trị’ và chuyên trấn áp, đàn áp những cuộc xuống đường vì môi sinh môi trường của người dân, ‘chịu trách nhiệm soạn thảo Luật Biểu tình’.
Kể từ đó đến nay, đã quá nhiều lần Bộ Công an thập thò bộ luật này vào mỗi lúc mà chế độ độc trị phát hiện ra triển vọng một hiệp định thương mại quốc tế - hoặc TPP, hoặc Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, hoặc EVFTA. Nhưng sau khi đã ‘ăn đủ’ hoặc cám cảnh vì ‘mất ăn’, đã quá nhiều lần cơ quan bộ này yêu cầu hoãn Luật Biểu tình khi nại ra lý do : "Trong quá trình soạn thảo có một số nội dung phát sinh cần tiếp tục đầu tư thời gian, công sức nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo, khảo sát thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm quốc tế như khái niệm "biểu tình", "quyền tự do biểu tình", "nơi công cộng", "tụ tập đông người"… ; phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật (có bao gồm cả việc tổ chức mít-tinh, biểu tình do Đảng, Nhà Nước, các tổ chức chính trị xã hội tổ chức ; việc khiếu kiện đông người, đình công, bãi công, bãi thị, bãi khóa hay không) ; vấn đề áp dụng các biện pháp trấn áp tương xứng, có hiệu quả đối với hành vi lợi dụng biểu tình vi phạm pháp luật ; trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình biểu tình…".
Một luật gia cho rằng đã có đủ căn cứ để thấy rằng việc cố tình kéo dài thời gian soạn thảo dự luật biểu tình của Bộ Công an là hành vi tắc trách công vụ, vi phạm vào Điều 4 của nghị quyết điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 do chủ tịch Quốc hội ký ban hành tại kỳ họp thứ 7, tháng Sáu, 2014.
Trong khi đó và chẳng cần đến luật biểu tình chưa biết khi nào mới được 500 đại biểu Quốc hội đồng gật, từ năm 2007 đã diễn ra nhiều cuộc tuần hành và tọa kháng của dân oan đất đai. Năm 2011 đã làm nên dấu mốc lịch sử bởi hàng ngàn trí thức, nhân sĩ và người dân đã tổ chức hàng chục cuộc xuống đường để phản đối Trung Quốc, cùng truy vấn thái độ im lặng đầy khuất tất của đảng cầm quyền và chính phủ trước một bí mật bắt đầu bị hé lộ : Hội nghị Thành Đô năm 1990.
Ở Sài Gòn, hai cuộc biểu tình mang tính "kinh điển" vào tháng Năm 2014 phản đối giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã lên đến hàng chục ngàn người, và cuộc tổng biểu tình lên đến hàng trăm ngàn người phản đối hai dự luật Đặc khu và An ninh mạng vào tháng Sáu năm 2018 mà đã khiến toàn bộ lực lượng công an, dân phòng, quân đội bất động.
Những năm gần đây, phong trào bất tuân dân sự đang lớn mạnh và khởi sắc hẳn. Cuộc trước là nguồn cảm hứng cho cuộc sau. Từ các cuộc biểu tình phản đối chặt hạ cây xanh và tổng đình công của công nhân một số tỉnh Nam Bộ vào năm 2015 đến phong trào biểu tình phản đối Formosa của người dân miền Trung vào năm 2016 và 2017, cánh lái xe liên tiếp phản đối các trạm BOT thu phí và phản kháng dân sự đối với chính quyền suốt từ năm 2017 đến nay.
Đói quá lâu sẽ hết đói. Cuối cùng, bánh vẽ Luật Biểu tình đã công nhiên trở thành một thứ phế thải. Cuối cùng, người dân Việt Nam đã tự động xuống đường mà bất cần một khung luật nào cho phép. Trong cơn phẫn nộ và bế tắc tận cùng, trong nỗi thất vọng vượt quá giới hạn trước một chế độ đặc trưng quá tham nhũng, độc đoán và khiến phát sinh đủ thứ hậu quả xã hội trầm kha, ngày càng có thêm nhiều người dân vượt qua nỗi sợ của mình để bước ra đường, mở miệng và thét to những gì họ muốn.
Đến lúc này, mọi chuyện đã quá muộn đối với chính thể. Quá muộn để "lấy lại lòng tin của nhân dân".
Cũng quá muộn để ‘nghiên cứu xây dựng’ và ban hành Luật Biểu tình.
Tại sao không phải Bộ Nội vụ ?
Về thực chất, đằng sau động thái chính phủ giao Bộ Công an nghiên cứu xây dựng Luật Biểu tình chỉ là sự tiếp nối của một chuỗi động tác đối phó và ma mị nhằm đạt được mục tiêu ký kết và phê chuẩn EVFTA ngay trong năm 2019. Mà chưa có gì được xem là ‘thành tâm’.
Nhưng thủ đoạn trí trá, giảo hoạt và lươn lẹo ấy lại luôn là một sai lầm về sách lược của ‘đảng và nhà nước ta’.
Bởi lẽ đơn giản là với một Bộ Công an - còn được biệt danh là ‘bộ đàn áp nhân quyền’, quá tai tiếng về đàn áp biểu tình và vô số vấn nạn tra tấn người dân - việc giao cho bộ này làm Luật Biểu tình, trong khi đúng ra phải giao cho Bộ Nội vụ, là quá bất hợp lý, chẳng khác nào ‘giao trứng cho ác’ và tiếp thêm một mồi lửa thách thức EU và các chính phủ tiến bộ trên thế giới.
Hoặc cho dù Luật Biểu tình có được thông qua trong năm 2019 hoặc năm 2020, thì với những nội dung dự thảo luật chỉ siết không mở của Bộ Công an, thậm chí còn có thể hợp thức hóa cho hành vi của các ‘lực lượng công quyền’ đánh đập tra tấn người dân một cách côn đồ và lưu manh, sẽ chẳng có bất kỳ ích lợi nào cho người biểu tình ở Việt Nam, nếu không muốn nói là những cuộc biểu tình dân sinh có thể sẽ bị chế độ công an trị dìm trong biển máu.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VNTB, 18/03/2019
Sau rất nhiều năm chỉ có ít ỏi thông tin và không chính thức về hiện tượng giới thương nhân và quan chức Việt Nam ‘ra đi tìm đường cứu nước’ ở Hoa Kỳ, vào đầu tháng 3 năm 2019 đã có một xác nhận đầy thuyết phục về thực trạng những người ‘ngày tụng ca chủ nghĩa xã hội, đêm chuồn sang chủ nghĩa tư bản’ này.
Đầu tư bất động sản Mỹ đang nhắm tới nguồn vốn nguồn đầu tư từ Việt Nam thông qua thị thực EB-5
Khái niệm mới : "EB-5 Việt Nam"
Tờ Wall Street Journal ngày 5/3/2019 cho biết các nhà đầu tư bất động sản Mỹ đang nhắm tới nguồn vốn nguồn đầu tư từ Việt Nam thông qua thị thực EB-5, vừa mới, vừa rẻ, vừa phát triển rất nhanh, trong bối cảnh lượng đầu tư từ Trung Quốc theo sáng kiến thu hút đầu tư vào Mỹ EB-5, đang sụt giảm (VOA).
Chương trình thị thực EB-5 ra đời vào năm 1990 để khuyến khích đầu tư nước ngoài và tạo công ăn việc làm cho người Mỹ. Chương trình này quy định một nhà đầu tư nước ngoài phải đầu tư vào Hoa Kỳ tối thiểu 1 triệu đôla, hoặc 500.000 đôla ở vùng nông thôn, và tạo việc làm cho 10 người lao động trở lên trong mỗi dự án ở Mỹ.
Theo chương trình này, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực bất động sản hoặc vào những ngành nghề có thể tạo công ăn việc làm ở Mỹ sẽ được nhận thẻ xanh để lưu trú dài hạn. Có tới 10.000 thị thực thuộc diện EB-5 có thể được cấp cho công dân nước ngoài mỗi năm.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết Việt Nam đang trở thành một trong 5 quốc gia có đơn xin chiếu khán EB-5 cao nhất thế giới, bên cạnh Trung Quốc, Hàn Quốc, Brazil và Ấn Ðộ.
Số thị thực cấp cho người Việt Nam theo chương trình EB-5 trong năm tài khóa 2018 là 693 thị thực, tăng lên nhiều so với con số 471 vào năm 2017. Bốn năm trước, người Việt Nam chỉ chiếm 1% số thị thực cấp cho chương trình EB-5, tương đương 121 thị thực.
Hiện nay, khoảng 20% vốn đầu tư vào bất động sản ở Hoa Kỳ theo chương trình EB-5 đến từ Việt Nam, chỉ sau Ấn Độ, 25% và Trung Quốc, 30%, theo thống kê của Quỹ Nhập cư Mỹ (U.S. Immigration Fund).
Một số công ty đầu tư bất động sản lớn tại thành phố New York đang trực tiếp mời chào giới đầu tư Việt Nam tham gia các dự án thông qua các đại lý của họ ở Hoa Kỳ. Điển hình như dự án giai đoạn ba khu Hudson Yards của tập đoàn Related Companies, hiện cần vốn lên tới khoảng 380 triệu đôla từ các nhà đầu tư qua chương trình EB-5, hay dự án Hard Rock Hotel của tập đoàn Extell Development ở khu vực Times Square ở trung tâm thành phố New York.
Vì sức hút chính của chương trình đầu tư này là chiếc thẻ xanh, cho nên các nhà đầu tư Việt Nam sẵn sàng chấp nhận lợi nhuận ít hơn và chính vì thế nguồn vốn của họ trở nên rẻ hơn trong đầu tư.
Theo trang Imidaily, thời gian chờ đợi để được chấp thuận visa EB-5 đối với các nhà đầu tư Việt Nam, tính đến tháng 11/2018, là từ hơn 5 năm đến 7,2 năm, so với Trung Quốc là 14 năm.
Có thể cho rằng thông tin trên của tờ Wall Street Journal là một xác nhận chính thức về dòng tiền và chạy theo dòng tiền đó là dòng quan chức Việt Nam ‘đầu tư’ vào Mỹ, trong khi chưa có bất cứ cơ quan nào của Việt Nam dám thống kê và công bố về câu chuyện đầu tư bất kể lỗ lã và khiến suy mòn chân đứng chế độ ấy.
‘Đặt vé chưa’ : Có biến là chuồn thẳng !
Trong khoảng 6 năm qua, một số đại gia và quan chức khi gặp nhau trên bàn nhậu thường nháy mắt đầy ngụ ý "Đặt vé chưa ?". Trước đó là một câu hỏi khác "Có thẻ xanh chưa ?".
Trong giới đại gia và quan chức, đặc biệt ở khu vực Hà Nội, cũng đã khá phổ biến kinh nghiệm cần một khoản chi phí 500.000 đô la để được nhập tịch Canada và Mỹ. Ngay trước Đại hội XII của đảng cầm quyền, một đơn thư gửi đến Bộ Chính trị đã tố cáo bà Nguyễn Thị Thanh Phượng, con gái thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng, có quốc tịch Mỹ…
Dù chẳng ai dám nói trắng ra, nhưng nhiều quan chức và thương gia đều ngầm hiểu với nhau là việc có thêm một quốc tịch nước ngoài mà do đó vi phạm luật Việt Nam là "chẳng có gì xấu trong tình hình hiện nay". Mà tình hình hiện nay lại là một núi lửa đang chực chờ phun trào, bao gồm những biến động chính trị nội bộ không thể lường trước, làn sóng phản kháng xã hội của các tầng lớp nhân dân ngày càng dữ dội, trong đó phải kể đến tâm lý "hồi tố tài sản tham nhũng" và sự trả thù của người dân một khi chế độ không còn nằm trong tay lớp quan lại nhũng nhiễu.
Nhiều thông tin không chính thức cho biết nhiều quan chức trung cấp, trong đó có cả những cái tên cụ thể, đang làm việc cho có và dường như chỉ chờ cơ hội thuận lợi là xin nghỉ việc để cùng gia đình đến một nước nào đó định cư, kể cả việc phải trả lại thẻ đảng hoặc giấu biến gốc gác đảng viên đảng cộng sản. Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Canada… là những điểm đến đầy hấp dẫn.
Với quan chức cao cấp (từ bộ trưởng trở lên), tin tức về tài sản, tâm trạng và đường đi nước bước của họ kín đáo hơn. Tuy nhiên thỉnh thoảng cũng xuất hiện một cái tên nào đó đang nhấp nhổm "hưu non" và "chờ vé bay".
Nhưng tình trạng vợ con của một số trong giới quan chức trung – cao cấp từ lâu đã ung dung ở các nước phương Tây thì không thể che mắt thiên hạ. Không thiếu gì bằng chứng về các công tử "ăn chơi nhảy múa" và sắm xe xịn, mua nhà không cần trả giá bên trời tây bằng tiền của cha mẹ.
Trong những năm gần đây, làn sóng "ra đi tìm đường cứu nước" của giới quan chức và người giàu Việt Nam có nhiều dấu hiệu tăng vọt. Theo hồ sơ Panama, chỉ riêng trong năm 2015, lượng ngoại tệ từ Việt Nam chuyển ra nước ngoài đã lên tới 19 tỷ USD.
Vào tháng 7/2016, ngay trước thời điểm thông qua lần cuối tư cách của gần 500 đại biểu Quốc hội, Việt Nam mới "bỗng dưng" phát hiện một chuyện cười ra nước mắt : nữ đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Nguyệt Hường có quốc tịch ở… Cộng hòa Malta – một quốc gia chỉ rộng có 300 cây số vuông, nằm ở một xó của Châu Âu, tạo ấn tượng nổi bật nhất nhờ vào hai việc : trở thành rổ đựng bóng trong các trận cầu quốc tế, và dễ tránh thuế đánh vào tài sản cá nhân.
Tình hình trên diễn ra trong bối cảnh "lò" của Nguyễn Phú Trọng đang rừng rực cháy ở Việt Nam, đầy triển vọng biến cố trong năm 2019 và cả vài năm sau đó thành một chiến trường "truy sát tham nhũng" mà sẽ khiến không chỉ quan chức cấp trung ương mà cả nhiều quan chức cấp địa phương bị tống vào "lò".
Sốc : Mỹ tạm dừng cấp thị thực !
Trong khi làn sóng thương nhân và quan chức Việt đang sôi nổi ‘ra đi tìm đường cứu nước’ như thế, đã thình lình xuất hiện một thông tin chấn động đối với giới này : Mỹ tạm dừng cấp các thị thực I5, R5 và SR cho công dân Việt Nam từ ngày 23/3/2018.
SR là thị thực định cư dành cho những cá nhân nộp hồ sơ đi Mỹ làm việc trong lĩnh vực tôn giáo. Còn I5 và R5 là hai trong số bốn hạng mục thị thực thuộc chương trình đầu tư tạo việc làm ở Mỹ EB-5 có thể dẫn đến quyền định cư lâu dài ở Mỹ.
Thông tin trên không làm tuyệt đại đa số người Việt trong nước quan tâm, nhưng đã khiến phần lớn "giới tinh hoa đất nước" - gồm nhiều quan chức giàu sụ đang "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" vào danh sách giới có tài sản hàng trăm triệu hoặc hàng tỷ USD - phải choáng váng đến mất ngủ.
Sau khi Canada siết chặt các điều kiện nhập cư đối với người Trung Quốc, đến lượt Mỹ siết chặt thủ tục nhập cư. Thông điệp phát ra với giới quan chức Trung Quốc và Việt Nam là rất rõ : tiền không thể là tất cả.
Bây giờ thì cho dù một quan chức Việt muốn "ra đi tìm đường cứu nước" có đổ vào Mỹ cả chục triệu USD thì cũng chẳng còn tìm ra triết lý đương đại của Việt Nam "cái gì không thể mua bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền" nữa.
Cũng bởi thế, đang xuất hiện thông tin nhiều quan chức giàu sụ ở Việt Nam phải tính toán một phương án khác : thay vì tìm mọi cách "nhập khẩu" vào Mỹ như trước đây, họ chuyển sang "địa bàn Tây Âu", cho dù số phận của họ ở Châu Âu sẽ rủi ro hơn ở Mỹ nếu ‘tổng chủ’ của họ quyết định mở một chiến dịch "Săn Cáo" như Tập Cận Bình đã tổ chức để lôi cổ những kẻ tham nhũng về nước quy án.
Và nếu Nguyễn Phú Trọng quyết định tổ chức một chiến dịch ‘Săn Cáo’ trong tương lai gần, chắc chắn ông ta sẽ phải đặc biệt ghé mắt tới khung cảnh EB-5 cùng dòng thác tiền của mà quan chức Việt rùng rùng di tản sang Mỹ.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 15/03/2019