Một năm rưỡi sau vụ Nhà nước Đức tố cáo Trịnh Xuân Thanh bị mật vụ Việt Nam tổ chức bắt cóc ngay tại Berlin, vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ - nổ ra vào những ngày giáp tết nguyên đán năm 2019 - đang hứa hẹn sẽ trở thành một vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai.
Blogger Trương Duy Nhất
Vẫn là ‘kẻ tử thù của chế độ’
Điểm trùng hợp ngẫu nhiên và cứ như thể một thứ điềm báo dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam là trong khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc vào thời gian cuối tháng 4 năm 2017 và chưa đầy một tuần sau đó báo chí Việt ngữ ở Đức và cả báo chí Đức đã đưa tin về vụ này, thì vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ xảy ra vào những ngày cuối tháng 1 năm 2019 cũng được phát tin khoảng một tuần sau đó bởi báo chí quốc tế. Nhưng đặc biệt nhất là được phát tin một cách rất chi tiết bởi một blogger - người bị xem là ‘kẻ tử thù của chế độ cộng sản Việt Nam’ : Người Buôn Gió, tức Bùi Thanh Hiếu, hiện đang sống ở Đức.
Trong khi một số tờ báo nước ngoài, trong đó có báo Thái Lan, bắt đầu đề cập vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ một cách thận trọng và tỏ ý nghi ngờ có sự nhúng tay của phía Việt Nam, thì blogger Người Buôn Gió đã huỵch toẹt : blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc bởi Tổng cục 2 tình báo (thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam) theo chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, kèm theo nhiều chi tiết khá cụ thể về vụ bắt cóc này : lực lượng bắt cóc khoảng 10 người, trong đó có 2 người biết tiếng Thái, lên đường đến Thái Lan vào ngày 23/1 ; trước khi bị bắt, Trương Duy Nhất đã nhận số máy lạ có đuôi 6521 ; ngày Trương Duy Nhất bị bắt là 26/1 ; Trương Duy Nhất bị bắt tại siêu thị FuturePark ; khi bị bắt, Trương Duy Nhất còn xin thay áo ; một số hình ảnh về Trương Duy Nhất tại Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Bangkok…. Những chi tiết quá cụ thể này khiến độc giả không thể không nghĩ rằng tác giả Người Buôn Gió, nếu không phải do hoang tưởng, đã nhận được những nguồn tin cực mật từ chính nội bộ đảng CSVN, hay cụ thể hơn là từ nội bộ của giới công an Việt Nam, hoặc từ chính người nằm trong ‘lực lượng bắt cóc’.
Trong bài viết mô tả vụ bắt cóc Trương Duy Nhất, blogger Người Buôn Gió còn gửi đi một thông điệp vừa ẩn ý vừa lộ liễu : "Tôi biết nhiều hơn những gì tôi viết, những điều tôi biết là những bằng chứng chứ không phải là những suy đoán, trong vụ này cũng như trong nhiều vụ khác cũng vậy".
Đây là lần thứ hai Người Buôn Gió làm cho chính quyền Việt Nam điên đầu và có thể sẽ rơi vào trạng thái lúng túng cao độ như tình trạng hậu cuộc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Tuy nhiên, những thông tin mà blogger Người Buôn Gió cung cấp trong loạt bài viết về Trương Duy Nhất cho đến nay chỉ thuộc về tác giả mà chưa thể kiểm chứng được.
Nhưng khách quan mà xét, nếu nhìn lại vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc và loạt bài viết của Người Buôn Gió về vụ này, có thể nhận ra một số chi tiết mà Người Buôn Gió nêu ra là phù hợp với thực tế vụ bắt cóc này và kết quả điều tra đã được công bố của cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện Công tố Đức.
Nếu những cáo buộc chi tiết và như thể trong ruột mà Người Buôn Gió nhắm tới Tổng cục 2 quân đội là đúng, hoặc ít ra có một số cơ sở xác thực, vụ blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc tại Bangkok gần như chắc chắn sẽ trở thành vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Nhưng lần này, ‘tác giả’ không phải là Bộ Công an mà lại là Bộ Quốc phòng với vai trò Bí thư quân ủy trung ương là ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng.
Liệu có ‘thỏa thuận ngầm’ ?
Chính quyền Việt Nam đã im lặng trước tết nguyên đán khi xuất hiện tin tức Trương Duy nhất bị mất tích hay bị bắt cóc. Đó là khoảng thời gian mà có thể ‘thông cảm’ được : giới quan chức còn phải ăn tết.
https://youtu.be/7C7G3U5S4pY
Nhưng sau cái tết nguyên đán đầy cảnh ‘lót tay’, chúc tụng đãi bôi và ăn nhậu xả láng thì lại là chuyện khác : thông tin lan rộng và đầy tính nghi ngờ trên một số tờ báo quốc tế về vụ Trương Duy Nhất sẽ khiến chính quyền Việt Nam không thể nhắm mắt che tai. Do đó, nhiều khả năng là sau tết nguyên đán 2019, chính quyền Việt Nam sẽ phải có thông báo về vụ này, trong đó hoặc phủ nhận việc chính quyền này ra lệnh bắt cóc Trương Duy Nhất, hoặc chính thức xác nhận Trương Duy Nhất đã bị bắt nhưng là ‘tự nguyện về nước đầu thú’ do hành vi phạm pháp - tương tự cái cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đồng thanh tương ứng ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’ vào đầu tháng 8 năm 2017.
Điều an ủi mà có thể khiến chính quyền Việt Nam tạm thời yên tâm để đưa ra một thông báo theo kiểu trên là khác với lời tố cáo mạnh mẽ của nhà nước Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh, chính quyền Thái Lan sẽ khó mà lên án chính quyền Việt Nam tổ chức bắt cóc người một cách bất hợp pháp trên đất Thái do một ‘thỏa thuận ngầm’ nào đó (nếu có) giữa hai bên, cộng thêm mối quan hệ Việt - Thái được xem là ‘ngày càng tốt đẹp’, và chế độ của Thủ tướng Prayuth Chan-ocha chẳng ưa gì tự do báo chí. Củng cố cho khả năng này là động thái mới nhất của lãnh đạo Cục Di trú Thái Lan thông tin rằng họ đã không có hồ sơ về việc Trương Duy Nhất nhập cảnh vào Thái Lan - một vấn đề có thể được hiểu là ông Nhất đã vào đất Thái theo cách không hợp pháp và do vậy các cơ quan Thái có thể sẽ cho rằng họ không liên can đến vụ việc này.
Nhưng còn sức ép của các tổ chức nhân quyền quốc tế và truyền thông quốc tế đòi hỏi trách nhiệm của người Thái phải tìm ra tung tích của Trương Duy Nhất ? Chắc chắn chính quyền Thái Lan sẽ phải tiến hành một số động tác nào đó, dù chỉ cho có, để có cơ sở hồi âm cho quốc tế về vụ việc này. Nội dung hồi âm này lại có thể có độ chênh, thậm chí là chênh biệt đáng kể, với một thông báo mà phía Việt Nam phải nêu ra sau tết nguyên đán 2019 về vụ Trương Duy Nhất. Khi đó, sự thật sẽ lộ dần ra.
Song mối lo sợ và nguy hiểm lớn nhất của chính quyền Việt Nam, và của cả chính quyền Thái Lan, sẽ đến từ… Người Buôn Gió.
Sẽ có bằng chứng ?
Bởi khi Người Buôn Gió dám khẳng định là anh ta có những bằng chứng về vụ Trương Duy Nhất bị bắt cóc mà không phải là suy đoán, toàn bộ những ai quan tâm đến vụ này đều ngóng cổ trông chờ Người Buôn Gió tung ra những bằng chứng đó để xem tính xác thực đến đâu. Còn chính quyền Việt Nam, đặc biệt là thủ tướng Phúc và Tổng cục 2, có lẽ sẽ sống trong nỗi hồi hộp mòn mỏi.
Nếu Người Buôn Gió không thể cung cấp những bằng chứng trên ? Nhiều quan chức Việt Nam sẽ thở phào và tổ chức phản đòn để cho quốc tế thấy ‘chính nghĩa Việt Nam’.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu trong những ngày tới một số bằng chứng, và nếu đúng là bằng chứng có tính xác thực, được công bố theo đúng cái cách mà Người Buôn Gió thường làm là rỉ rả giết dần giết mòn sức chịu đựng của địch thủ ?
Chỉ có thể là những cơn đau tim, thống phong và… xơ gan cổ trướng. Hoặc cả ba.
Và nếu quả thực vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ sẽ nổ ra như một cuộc khủng hoảng ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’, đó sẽ là điềm báo ‘rông cả năm’ hoặc còn lâu hơn thế dành cho tương lai toàn màu tối của chính thể độc trị ở Việt Nam.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 11/02/2019
Vì sao Donald Trump - người mà cho đến nay đã nổi lên như một trong những tổng thống Mỹ chống chủ nghĩa xã hội cuồng nhiệt nhất, lại dễ dàng được Nguyễn Phú Trọng - một đồ đệ trung thành và thậm chí còn có phần cuồng tín của lý thuyết chủ nghĩa này - mời mọc đến Việt Nam mà nơi đó Trump sẽ có cuộc đàm phán lần thứ hai với nhân vật lãnh đạo số một của Bắc Triều Tiên là Kim Jong Un vào cuối tháng 2 năm 2019 ?
Thượng đỉnh lần đầu tại Singapore.
Và vì sao triết thuyết chống chủ nghĩa xã hội của Trump không chỉ là lời nói mà còn đang trở thành một hành động thực tế và ngày càng gần tính thực chất vào đầu năm 2019 - loại bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa của Maduro ở Venezuela, trong khi chính thể này lại được đảng của Nguyễn Phú Trọng xem là ‘sát cánh’ và ‘cùng nắm tay nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội’, lại không bị Trọng phản ứng theo đúng cái logic phải có của vấn đề này ?
Nhưng dấu hỏi trên chỉ là những bí mật của lịch sử quan hệ Việt - Mỹ hay sẽ được giải mật chỉ trong một sớm một chiều bằng vào lý lẽ đơn giản ‘ai cần ai hơn’ ?
Tiền đề để đi Mỹ ?
Ngày 5/2/2019, Trump đã chính thức thông báo cuộc gặp thượng đỉnh lần 2 giữa ông và Kim Jong Un sẽ diễn ra tại Việt Nam trong hai ngày 27 và 28/2 năm 2019. Thông báo này mang tính khẳng định và pháp lý khi được lồng trong thông điệp liên bang mà Trump đọc tại Quốc hội Hoa Kỳ. Hầu như ngay sau đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã họp báo và ‘hoan nghênh’ cuộc gặp này.
Bộ Ngoại giao Việt Nam lại là cơ quan tỏ ra nhiệt tình nhất trong một chiến dịch vận động quốc tế để cuộc gặp thượng định Trump - Kim lần một diễn ra ở Việt Nam, thay vì ở Singapore trong năm 2018. Từ trước giữa năm 2018, báo chí Việt Nam bất ngờ đánh tiếng việc Việt Nam sẵn sàng đứng ra đăng cai cho cuộc gặp thượng đỉnh này. Có vẻ khá kỳ lạ là sau đó sự vận động này vẫn được tiến hành miệt mài và đôn đáo mà không có dấu hiệu nào cho thấy nó bị chững lại bởi tình cảm bị tự ái hay bị xúc phạm, trùng với thời gian Trump kêu gọi chống chủ nghĩa xã hội tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc.
Cũng vào thời gian trên và đặc biệt ngay sau biến cố Trần Đại Quang chết đột ngột cùng việc Nguyễn Phú Trọng chính thức trở thành ‘tổng chủ’ ở Việt Nam, đã xuất hiện một số thông tin về một chuyến thăm Mỹ của ông Trọng vào cuối năm 2018 với tư cách là chủ tịch nước chứ không còn là tổng bí thư của một chính đảng mà giới nguyên thủ quốc gia trên thế giới, và nhất là Trump, chẳng mấy quan tâm đến vị thế ‘ngoài vòng pháp luật’ của đảng này tại Việt Nam.
Nếu chuyến công du trên trở nên hiện thực, Nguyễn Phú Trọng sẽ có thể một lần nữa thốt lên ‘Mình phải như thế nào người ta mới tiếp như thế chứ !’ - hàm ý khơi gợi lại lời tán thán quá sức thỏa mãn sau khi ông ta được Tổng thống Mỹ Barak Obama tiếp đón trọng thị ngay tại Phòng Bầu dục vào tháng 7 năm 2015 như một ngoại lệ và rất đặc cách.
Nhưng khoảng thời gian cuối năm 2018 đã chẳng diễn hình ảnh nào về chiếc chuyên cơ mang Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đáp xuống phi trường quân sự Andrews ở Washington DC. Có thể Trump đã quá bận rộn khi còn phải căng đầu đối phó với những cuộc tấn công của đảng Dân Chủ nhắm vào ông ta. Trong lúc đó, vẫn râm ran dư luận về việc Bộ Ngoại giao Việt Nam vẫn đang cố gắng vận động Bộ Ngoại giao Mỹ cho chuyến đi ấy, hoặc ít nhất là một tiền đề cực kỳ quan trọng của chuyến đi ấy - làm thế nào để Trump chấp nhận gặp Kim Jong Un ngay tại Việt Nam mà không phải nơi nào khác.
Còn bây giờ, tiền đề ấy đã trở thành hiện thực và có lẽ văn phòng chủ tịch nước của ông Trọng đang tràn ngập hy vọng là hiện thực sẽ được nối tiếp bởi tương lai gần, để Nguyễn Phú Trọng sẽ lần thứ hai được nhón chân vào Phòng Bầu dục với tư cách chính thức chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ai cần ai hơn ?
Như một quy luật cuộc đời và muôn đời, lợi ích của một chế độ và những quan chức cao cấp trong chế độ đó luôn cao vượt hơn mọi tình bạn quốc tế được tuyên bố là keo sơn hai môi răng của nó. Rất có thể, đó là nguồn cơn mà ngay vào thời điểm Trump hùng hổ sắp tuyên bố về can thiệp quân sự vào Venezuela là một trong những phương án, trong khi một lực lượng quân đội Mỹ đã có mặt ở Colombia sát biên giới với Venezuela, cái cách đọc bài "Việt Nam luôn quan tâm, theo dõi và mong muốn Venezuela hòa bình, ổn định" của Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã cho thấy một cách sống động, thậm chí còn là một bằng chứng hùng hồn về việc ông Trọng và Bộ Chính trị của ông ta có thể đang nung nấu ý chí ‘bán họ hàng xa, mua láng giềng gần’ như cái cách mà tục ngữ Việt Nam dạy dỗ.
Nếu ý chí trên được xảy ra trọn vẹn, không phải Venezuela mà chính là Mỹ mới là ‘láng giềng gần’ của Việt Nam. Dù rằng Việt Nam đã đầu tư vài tỷ USD vào Venezuela thông qua Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) và đã gặt hái kết quả từ lỗ đến lỗ.
Cách tuyên bố nước đôi hoặc ‘đi hàng hai’ của Bộ Ngoại giao Việt Nam về cuộc khủng hoảng chính trị Venezuela không còn giống như cách đu dây của Việt Nam giữa Mỹ và Trung Quốc liên quan đến Biển Đông hay những va chạm quốc tế khác. Phản ứng quá sức chung chung và như thể ‘nói cho nó lành’ của Bộ Ngoại giao Việt Nam gần như là một biểu hiện của tâm thế bối rối, hơn thế nữa là hoang mang cao độ của Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị đảng của ông ta trước tương lai chủ nghĩa xã hội chỉ còn là ốc đảo hoang dại trên đại dương bao la.
Bỏ qua người đồng chí dầu mỏ đã từng một thời thân thiết là Venezuela, lợi ích sống còn trước mắt của chính thể độc trị ở Việt Nam là những mỏ dầu mà Bắc Kinh - như một kẻ cướp hung hãn - nhảy xổ vào nhà và đòi chia bôi với chủ nhà đến 60% tài sản của cái nhà đó : cái đường lưỡi bò ‘chết tiệt’ của Trung Quốc vừa được vẽ lại vào năm 2018 đã liếm qua toàn bộ các mỏ dầu khí đang khai thác và sẽ khai thác của Việt Nam ở Biển Đông, bao gồm mỏ Cá Rồng Đỏ liên doanh với Repsol của Tây Ban Nha, mỏ Lan Đỏ liên doanh với Rosneft của Nga và mỏ Cá Voi Xanh liên doanh với Exxonmobil của Mỹ.
Sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, từ năm 2014 đến nay Việt Nam đã phải tìm cách dựa vào Mỹ.
Biểu cảm gần như lấy lòng Mỹ trong chiến dịch vận động để cuộc gặp Trump - Kim diễn ra ở Việt Nam còn giúp giải quyết một vấn đề sống còn ngay trước mắt : làm thế nào để Trump, trong một trạng thái vui vẻ và dễ dãi, gật đầu cho Việt Nam’ qua đò’ tiếp một năm 2019 với giá trị xuất siêu vào thị trường Mỹ duy trì được con số 35 tỷ USD như năm 2018, mà không bị vị tổng thống Mỹ này xem là ‘kẻ thù kinh tế’ và tìm cách áp dụng nguyên tắc ‘công bằng và đối ứng’ để giảm thiểu số xuất siêu của Việt Nam.
Gần như chắc chắn, một chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, nếu có xảy ra sau khi Trump gặp Kim tại Việt Nam, sẽ là một biểu cảm ‘năn nỉ’ về cán cân đối ứng thương mại giữa hai nước, song song với vấn đề Biển Đông và việc liệu cái chính thể quá quỵ lụy với ‘bạn vàng’ Trung Quốc còn muốn duy trì chính sách ‘ba không’ không còn hợp thời hợp thế hay không.
Nhưng vẫn chưa phải hết. Cuộc gặp Trump - Kim tại Việt Nam sẽ mang lại ‘uy tín Việt Nam không ngừng nâng cao trên trường quốc tế’ theo cách tuyên truyền một chiều chẳng bao giờ biết liêm sỉ của Hà Nội, nhất là trong bối cảnh ‘vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’ đã làm cho cả châu Âu phải giương mục kỉnh vào nhất cử nhất động của giới công an nói riêng và quan chức Việt Nam nói chung, lồng trong bầu không khí uy tín của ‘đảng và nhà nước ta’ lao dốc hơn bao giờ hết trên trường thế giới.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 09/02/2019
2019 rất có thể là năm tái hiện 2014.
Vì EVFTA.
Nhà hoạt động Hoàng Đức Bình bị tuyên án 14 năm tù, ngày 6/2/2018 (Báo Nghệ An)
Tái hiện qua 5 năm ?
2014 là năm đầu tiên chứng kiến một sự nhượng bộ đáng kể của chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam trong cuộc mặc cả trả tự do trước thời hạn cho tù nhân lương tâm (còn gọi là tù nhân chính trị) để đánh đổi lấy TPP (Hiệp định đối tác kinh tế Xuyên Thái Bình ương). Tổng cộng 12 người bất đồng chính kiến đã được phóng thích khỏi nhà lao trong năm đó - một con số kỷ lục, dù nhiều người đã bị chính quyền tống xuất ra nước ngoài.
Nhưng đến 2019, TPP đã trở thành dĩ vãng, mà chỉ còn lại CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) - thỏa thuận thương mại đã thành hình, đi vào triển khai mà chính quyền Việt Nam đã phải đánh đổi nó bằng việc chấp nhận định chế công đoàn độc lập khi trước đó chính quyền này lo sợ ‘diễn biến hòa bình’ của hoạt động này hơn bất kỳ tổ chức xã hội dân sự nào.
Song CPTPP vẫn chưa đủ. Chưa đủ cho cái miệng tham ăn tục uống của ngân sách và chưa thể thỏa mãn tham vọng trở thành ‘nước hưởng lợi lớn nhất’ của Việt Nam, mà tính thực dụng và thực chất đang trở nên một đòi hỏi cấp bách đối với chân đứng kinh tế đang rệu mục cùng núi nợ nước ngoài ít nhất 105 tỷ USD của chính thể còn đang cầm quyền này. Không chỉ làm mọi cách để duy trì được số xuất siêu hơn 30 tỷ USD vào thị trường Hoa Kỳ hàng năm, Bộ Chính trị Hà Nội còn phải giành được EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu) nhằm bỏ túi số xuất siêu mỗi năm đến ba chục tỷ USD, củng cố được nguồn máu cực kỳ quý giá để ngân sách có tiền trả nợ nước ngoài lên đến 10 - 12 tỷ USD/năm và dung dưỡng cái cơ thể gần 3 triệu công chức viên chức cùng hàng triệu nhân sự trong lực lượng vũ trang.
Đó chính là lúc mà hàng loạt điều kiện nhân quyền trong EVFTA sẽ phát huy tác dụng.
Cơ hội nhân quyền từ EU
Khác hẳn với TPP hay CPTPP, trong EVFTA là tiêu chí ‘nhân quyền trên hết’. Quyền làm người và những yêu sách đòi hỏi chính quyền Việt Nam phải gấp rút cải thiện. Nhân quyền đã không còn là một loại điều kiện phụ được chăng hay chớ, mà đang trở nên điều kiện cần đầu tiên và bắt buộc mà chính quyền Việt Nam, không còn cách nào khác, phải thỏa mãn để có được hiệp định này.
Cú ra đòn hoãn phê chuẩn EVFTA của Liên minh Châu Âu (EU) vào tháng Giêng năm 2019, bất chấp một chiến dịch vận động ráo riết của chính quyền Việt Nam và sự thôi thúc của một số doanh nghiệp và nghị sĩ Châu Âu trên quan điểm thuần túy lợi ích thương mại mà không có nhân quyền hoặc chỉ ‘nhân quyền cho có’, đã trở thành một bằng chứng hùng hồn nhất về hiện thực và cả tương lai mà trong đó Nghị viện Châu Âu sẽ thẳng tay bác bỏ việc thông qua EVFTA bởi chính thể Việt Nam đã chỉ thể hiện như một kẻ chỉ biết ăn không chịu làm, không có bất kỳ cải thiện nhân quyền nào có thể chứng minh hay nhìn thấy được.
Càng về sau này, EU càng trở nên cứng rắn với thái độ bị xem là ‘lươn lẹo’ của nhà cầm quyền Việt Nam. Khi những cuộc đối thoại nhân quyền EU - Việt Nam hầu hết đã đi vào bế tắc, những lời hứa hẹn ngon ngọt hay cam kết nửa vời của những quan chức thật ra chẳng có thẩm quyền gì của Việt Nam đã chẳng còn ma mị được các quan chức EU. Ngay cả việc đoàn Việt Nam đã tưởng như vượt qua được cuộc điều trần EVFTA- nhân quyền vào tháng 10 năm 2018 tại Brusells, Bỉ, Nghị viện Châu Âu đã chặn EVFTA lại bằng một bản nghị quyết nhân quyền lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng và đưa ra một ‘tối hậu thư’ về nhân quyền trên hết, để nếu không cải thiện nhân quyền thì Việt Nam sẽ không thể nào có được EVFTA.
Cơ hội được tự do khỏi nhà tù tối tăm tàn ác của một số tù nhân lương tâm cũng vì thế bắt đầu le lói.
Chỉ ít ngày sau cú ra đòn hoãn EVFTA khiến giới chóp bu Việt Nam bị sốc nặng, 9 dân biểu Nghị viện Châu Âu đã gửi một bức thư vào ngày 1/2/2019 tới Nguyễn Phú Trọng - quan chức vừa là Chủ tịch nước vừa kiêm tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, kêu gọi việc trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Hoàng Đức Bình.
Các nghị sĩ Châu Âu xác quyết rằng việc Việt Nam bắt giam và xử án tù nhà hoạt động Hoàng Đức Bình đã đi ngược lại các quy định trong Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã tham gia ký kết từ năm 1982.
Ngoài việc kêu gọi trả tự do cho Hoàng Đức Bình, các nghị sĩ còn yêu cầu chính phủ Việt Nam phải đảm bảo chắc chắn và trả bồi thường đầy đủ theo luật quốc tế, điều tra những quan chức công an, toà án, và nhà tù chịu trách nhiệm về những đối xử tàn tệ đối với ông Hoàng Đức Bình. Và đặc biệt, các nghị sĩ cũng yêu cầu phải để ông Hoàng Đức Bình được ở trong nước, không trục xuất ông ra nước ngoài như điều kiện để được trả tự do.
Hoàng Đức Bình bị bắt giữ vào tháng 5/2017 và bị kết án tù 14 năm vào tháng 2/2018 theo các điều 330 và 331 của Bộ luật Hình sự về cái gọi là "chống người thi hành công vụ, và lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước".
Bất chấp việc công an Việt Nam gia tăng đợt bắt bớ giới bất đồng chính kiến ngay vào những ngày sát tết nguyên đán 2019, nhà hoạt động về môi trường và quyền của người lao động Hoàng Đức Bình và một số tù nhân lương tâm khác vẫn có thể tự do trong năm 2019.
Càng về sau này, mức án tù giam đối với các nhà hoạt động nhân quyền càng chỉ tồn tại như một con số chẳng có ý nghĩa gì. Trước và ngay sau cuộc điều trần nhân quyền - EVFTA vào tháng 10 năm 2018 tại Bỉ, hai nhà hoạt động nhân quyền nổi bật là Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được quốc tế gây áp lực đã được tự do khỏi nhà tù Việt Nam, bất chấp mức án tù giam của hai người này lên đến hàng chục năm và hơn thế.
Nhưng nếu cả Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hay một số tù nhân lương tâm trước đó như Điếu cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần… bị tống xuất ra nước ngoài chứ không được ở lại Việt Nam, hy vọng với những tù nhân lương tâm sau này còn lớn hơn : chính quyền Việt Nam, trước áp lực và đòi hỏi như một điều kiện cần của EU, sẽ buộc phải để họ ở lại quê hương để tiếp tục đấu tranh.
Lối thoát duy nhất
Về thực chất, nhà cầm quyền Việt Nam không còn lối thoát khả dĩ nào với EVFTA ngoài việc phải bắt buộc thực hiện những hành động cải thiện nhân quyền như trả tự do cho một số tù nhân lương tâm, ký kết 3 công ước quốc tế còn lại của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đặc biệt là phải triển khai công ước về quyền tự do lập hội của công nhân, cùng những điều kiện nhân quyền khác mà bản nghị quyết nhân quyền của EU đòi hỏi một cách không thể né tránh.
Một nguồn tin cho biết sau khi EVFTA bị EU hoãn vô thời hạn, ‘đảng và nhà nước ta’ đã buộc phải cử một số đặc sứ đi thương thuyết trở lại với EU, với chủ đề đàm phán chuyên về cải thiện nhân quyền. Nhưng vào lần này, yêu sách của EU không còn là một khung hoạt động nhân quyền chung chung trong EVFTA, mà EVFTA phải được chi tiết hóa về một lộ trình theo thời gian và cụ thể hóa những việc mà Việt Nam phải thực hiện để cải thiện nhân quyền.
Kỳ bầu cử mới vào tháng 5 năm 2019 đang đến rất gần. Nếu không chứng minh được ‘năng lực cải thiện nhân quyền’ với một số lượng hành động đủ nhiều và đủ thực chất, chính quyền Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội EVFTA được phê chuẩn trước kỳ bầu cử này. Thậm chí cơ hội đó sẽ có thể chìm nghỉm trong vũng nước tù nếu một nghị viện Châu Âu mới được hình thành và do quá bận rộn với nhiều vấn đề nhức đầu của Lục Địa Già, sẽ chẳng còn mấy thời gian và tâm trí để lưu tâm đến một EVFTA nhỏ nhoi nhưng lại chẳng mang chút hương sắc nhân quyền nào.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 07/02/2019
Con số 47.500 tỷ đồng mà Ngân hàng Nhà nước ‘tống’ vào thị trường trong khoảng thời gian cận tết nguyên đán 2019 đã khiến dấy lên dư luận về tốc độ in tiền phi mã của cơ quan này - một nguồn cơn rất hữu hình và trực tiếp phục vụ cho cơ chế đẩy vọt tỷ lệ lạm phát thực tế, chứ không phải là tỷ lệ lạm phát báo cáo ‘chỉ 4%’, có thể lên đến vài ba chục phần trăm.
Tiền đồng Việt Nam tại một ngân hàng ở Hà Nội. Hình minh họa.
Lại in tiền mới ?
Nhưng chưa hết, và còn lâu mới hết. Câu chuyện Ngân hàng Nhà nước đẩy hàng núi tiền và thị trường không chỉ xảy ra vào những ngày cận tết nguyên đán là lúc mà ‘kiều bào ta’ thường gửi đô la về Việt Nam với tần suất dày đặc và ‘béo bở’ hơn hẳn, mà còn diễn ra đều đặn vào một số thời điểm trong năm và trong hàng chục năm trở lại đây, đặc biệt từ năm 2011 khi ngân sách trung ương bắt đầu phải thắt lưng buộc bụng và tìm kế thu gom ngoại tệ trôi nổi ở thị trường tự do và các ngân hàng thương mại để trả nợ nước ngoài - lên đến hàng chục tỷ USD hoặc hơn mỗi năm.
Hiện nay, con số nợ nước ngoài của Việt Nam (chỉ tính riêng nợ của chính phủ và do chính phủ bảo lãnh mà chưa tính đến số tự vay tự trả của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) đã lên đến 105 tỷ USD, xấp xỉ 50% GDP.
Vào dịp tết nguyên đán 2018, Ngân hàng Nhà nước cũng ‘tống’ một núi tiền ra thị trường, nhưng lên đến 93.000 tỷ đồng - nhiều một cách bất thường so với nhu cầu ‘bình ổn giá’ thông thường cần khoảng vài chục ngàn tỷ. Đó cũng là thời gian mà một chiến dịch thu vét đô la trôi nổi được cơ quan này âm thầm tiến hành, để đến gần giữa năm 2018 thì cả Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng lẫn Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc đều hào hứng khoe rằng quỹ dự trữ ngoại hối đã tăng vọt đến 63 tỷ USD.
Những lời có cánh trên lại hiện ra trong bối cảnh mà chỉ mới qua nửa đầu năm 2018, nhà máy In Tiền Quốc Gia ở Việt Nam đã đạt mức lợi nhuận sau thuế gần 60,4 tỷ đồng, tăng gần gấp rưỡi so với con số 41,8 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái và đã hoàn thành kế hoạch lợi nhuận cả năm 2018.
Khẩn cấp gom đô trả nợ nước ngoài
Ít nhất từ năm 2016 đến nay đã xảy đến một trùng hợp mà khó có thể xem là ngẫu nhiên : cùng với kế hoạch vay trả nợ được chính phủ phê duyệt hàng năm, trong đó phần trả nợ lại ít hơn nhiều phần đi vay để "bù đắp khó khăn ngân sách", mà có thể hiểu là một hình thức ‘vay đảo nợ’ - lấy nợ mới trả nợ cũ và làm cho nợ chồng nợ, luôn hiện ra thông tin Ngân hàng Nhà nước đã mua từ thị trường trong nước nhiều tỷ USD để "tăng quỹ dự trữ ngoại hối".
Cũng từ đầu năm 2016 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã phải tung ra thị trường một lượng tiền đồng khá lớn - lên đến nhiều trăm ngàn tỷ đồng - để mua vào ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại và từ các nguồn trôi nổi tự do.
Chính núi tiền đồng mà Ngân hàng Nhà nước đổ ra đã khiến trong những năm qua đã khiến xuất hiện tình trạng dư thừa tạm thời tiền đồng của các ngân hàng thương mại, do vậy nhiều ngân hàng đã phải tìm cách "đẩy" tiền ra kênh cho vay, kể cả cho vay để đầu cơ chứng khoán và bất động sản có độ rủi ro rất cao, và bất kể rủi ro thường trực khó hoặc không thể thu hồi vốn.
Nhưng sau lần khoe thành tích ‘quỹ dự trữ ngoại hối đạt đến 63 tỷ USD’ vào gần giữa năm 2018, trong nửa cuối năm đó lại có hiện tượng Ngân hàng Nhà nước bị giảm số mua đô la từ các ngân hàng thương mại cổ phần và thị trường tự do. Hiện tượng này, cộng hưởng hiện tượng giới quan chức nhà nước không dám nêu cụ thể lượng ngoại tệ của quỹ dự trữ ngoại hối, đã cho thấy lượng đô la trôi nổi không còn nhiều như trước và đang có khuynh hướng xuống thấp hơn cứ sau mỗi năm.
Vào đầu năm 2019, có thêm một hiện tượng lạ là trong cả hai báo cáo phô trương thành tích kinh tế và hoạt động ngành ngân hàng năm 2018 của Thủ tướng Phúc và Thống đốc Hưng đã không hề phát ra con số cụ thể nào về quỹ dự trữ ngoại hối.
Dấu hỏi rất lớn bật ra là thực chất quỹ dự trữ ngoại hối hiện thời là bao nhiêu ? Hoặc còn lại bao nhiêu sau khi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã phải dùng một phần của quỹ này để đảo nợ nước ngoài, trả nợ nước ngoài, tiêu xài cho ngân sách chi thường xuyên của một đội ngũ công chức viên chức mà có đến "30% không làm gì cả nhưng vẫn lãnh lương", hoặc cho những nhu cầu khẩn thiết khác, kể cả chi phí quốc phòng mua vũ khí của Ấn Độ, Israel, Mỹ… để đối phó với nguy cơ Trung Quốc ?
Xét theo logic bắt buộc phải trả nợ nước ngoài hàng năm của chính phủ Việt Nam, quỹ dự trữ ngoại hối hiện thời không thể là 63 tỷ USD mà có thể chỉ vào khoảng 30 tỷ USD như cái thời bị giảm nghiêm trọng vào năm 2015 do Việt Nam phải trả nợ nước ngoài đến 20 tỷ USD cho năm đó.
Rồi đến đầu năm 2019 lại xuất hiện một hiện tượng đáng mổ xẻ khác…
Tăng vọt tỷ giá trung tâm !
Sau một thời gian bình lặng, từ đầu năm 2019 đến nay tỷ giá trung tâm bất thần tăng nhanh, tăng vọt và tăng không ngừng nghỉ, bất chấp thị trường ngoại hối trong nước và quốc tế vẫn khá ổn định và trong thực tế là chẳng có ý do xác đáng nào đẻ giải thích cho cú tăng này.
Cơ chế tỷ giá trung tâm được Ngân hàng Nhà nước chuyển sang áp dụng từ đầu 2016 để thay cho cơ chế tỷ giá liên ngân hàng. Tỷ giá trung tâm được xem là thước đo tham chiếu cho tỷ giá của các ngân hàng và của cả.. chợ đen.
Đến ngày 21/1/2019, tỷ giá trung tâm của VND với USD do Ngân hàng Nhà nước công bố đã lên mốc 22.870 VND, cao nhất kể từ đầu 2016 - thời điểm tỷ giá này ra đời.
Diễn biến trên xảy ra trong bối cảnh tỷ giá USD/VND thực trên các kênh giao dịch liên ngân hàng, giữa ngân hàng với các tổ chức và dân cư, trên thị trường tự do giảm mạnh vào cuối 2018 và ổn định từ đầu 2019, chứ không hề biến động mạnh.
Diễn biến trên cũng có nét tương đồng với khoảng thời gian đầu năm 2018, khi Ngân hàng Nhà nước cũng từng bước đều đặn nâng tỷ giá trung tâm trong bối cảnh thị trường và tỷ giá USD/VND ổn định, và đặc biệt là trong điều kiện cung ngoại tệ dồi dào và nhà điều hành mua vào lượng lớn.
Diễn biến tăng vọt tỷ giá trung tâm lại trùng với một thông tin rất đáng chú ý và so sánh : vào đầu năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào lượng khá lớn ngoại tệ, ước tính đã lên tới 4 tỷ USD từ đầu tháng 1/2019.
Đã rất rõ là chính sách cho tăng vọt tỷ giá trung tâm là nhằm vét đô, trong bối cảnh dù một lượng tiền đồng lớn đã được Ngân hàng Nhà nước tung ra nhưng vẫn khó mua USD do giá mua đô vẫn chưa hấp dẫn người bán.
Song cái gì cũng có giá của nó.
Tiền đề lạm phát của Venezuela ?
Cơ chế in tiền ồ ạt tất yếu sẽ kéo theo một danh nghĩa mới : "kiến tạo lạm phát", dẫn đến lạm phát thực tế và cơn bão giá cả trên thị trường và khiến nền kinh tế mất thăng bằng nghiêm trọng.
Tại nhiều chợ đầu mối ở Sài Gòn và Hà Nội, giá thịt thà và rau củ cứ tăng đều đặn 30-40% mỗi năm, chưa kể tăng gấp đôi vào những sự kiện tăng lương, tăng giá xăng dầu, tăng giá điện tăng giá vàng… Người nghèo và công nhân ngày càng ăn uống kham khổ, trong lúc số tỷ phú đô la và số quan chức có tài sản trên 100 triệu USD ở Việt Nam vẫn tăng tiến không ngừng và thuộc nhóm tăng mạnh nhất trên thế giới.
Một khi chủ đích của chính quyền là in tiền ồ ạt và dùng loại tiền giấy có nội lực yếu ớt ấy đổi lấy ngoại tệ mạnh là đồng đô la, sẽ chẳng mấy chốc lượng đô la trong dân và tại các ngân hàng giảm mạnh, đẩy nhanh tình trạng khan hiếm và tất yếu làm tăng mạnh lạm phát. Đó chính là tình trạng mà Venezuela đang phải đối mặt. Tuy nhiên, tại đất nước Nam Mỹ này còn tệ hơn so với Việt Nam : Thậm chí không còn tiền để in tiền và đang phải bán vàng để trả nợ.
Khúc quanh bi thảm của những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa thị trường cũng vì thế đang hiện rõ. Không chỉ là khủng hoảng kinh tế, mà sẽ là vực thẳm xã hội !
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 05/02/2019
Sau năm 2017 im thít mà không dám công bố số tổng kiều hối về Việt Nam bị lao dốc thê thảm từ mức đỉnh 13,2 tỷ USD của năm 2015, có lẽ giới chóp bu Việt Nam đã ‘rút kinh nghiệm sâu sắc’ khi năm 2018 chấm dứt một chu kỳ lê lết mỏi mệt trong nỗi căng thẳng thường trực phải đào bới bằng được những nguồn ngoại tệ còn lại để trả nợ cho nước ngoài.
Trong hai năm 2017 và 2018, số kiều hối về Việt Nam rất có thể đã giảm thê thảm, chỉ còn khoảng 7-8 tỷ USD. Hình minh họa.
Nguyễn Phú Trọng nói theo… Ngân hàng Thế giới
Lần này, đích thân ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng xuất đầu lộ diện. Trong một bài phát biểu tại sự kiện có tên "Xuân quê hương 2019" ở Hà Nội, ông Trọng thông báo rằng người gốc Việt sinh sống tại các nước trên thế giới gửi về Việt Nam gần 16 tỷ đôla trong năm 2018 và không quên nhấn mạnh rằng con số đó "tăng gấp hơn 100 lần so với năm 1993".
Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên Nguyễn Phú Trọng thông tin công khai về số kiều hối tổng - sát với thời điểm lần đầu tiên ông Trọng hào hứng khoe thành tích của đội tuyển bóng đá Việt Nam tại Cúp bóng đá Châu Á.
Tuy nhiên, sự thể tréo ngoe là trong khi ‘Tổng chủ’ nói về số kiều hối quốc gia gần 16 tỷ USD của năm 2018 thì lại chẳng có bất kỳ cơ quan quản lý kinh tế nào của chính phủ như Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà nước… chịu công bố số kiều hối này cho đến nay.
Trong lúc đó, con số kiều hối ‘gần 16 tỷ USD’ từ miệng ông Trọng chỉ đến từ… Ngân hàng Thế giới.
Không hiểu vì lý do hay động cơ nào mà trong hai năm 2017 và 2018, trong lúc các cơ quan ‘có trách nhiệm’ của Việt Nam vẫn như cấm khẩu thì Ngân hàng Thế giới lại đều đặn công bố "Năm 2017, kiều hối gửi về Việt Nam đạt 13,8 tỷ đô la, tăng 16% so với năm 2016 và cũng đã là mức cao kỷ lục của đất nước" và "Việt Nam đã nhận tổng cộng 15,9 tỷ đô la kiều hối trong năm 2018".
Ngay lập tức, các tờ báo đảng và ‘thân đảng’ ở Việt Nam dẫn tin từ Ngân hàng thế giới để khoa trương thành tích nhờ có nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và các chính sách nhân văn nhân bản của đảng và nhà nước ta mà Việt Nam đã thu hút được ngày càng nhiều kiều hối từ ‘khúc ruột ngàn dặm’ hay từ ‘kiều bào ta’.
Khi cơ quan ‘ăn bám’ lên tiếng
Trong lúc con số kiều hối 15,9 tỷ USD về Việt Nam năm 2018 do Ngân hàng Thế giới công bố còn đang gây nghi ngờ rất lớn về tính sai sót thống kê và cả tính trung thực lẫn động cơ chính trị của nó, thì một cơ quan của Việt Nam lại phóng vọt kết quả kiều hối năm 2018 lên tới… 18,9 tỷ USD !
Nhưng vẫn không phải những cơ quan chuyên trách hoặc có lên quan phần hành thống kê kiều hối như Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà nước…, mà cơ quan phát ra con số 18,9 tỷ USD trên lại là Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (1).
Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan bị nhiều Việt kiều đánh giá là ‘vô tích sự’ và ‘ăn bám’ vì chỉ biết nói theo đảng mà không có nổi một chính kiến về chính thể Việt Nam Cộng Hòa và những hỗ trợ mang tính thực tế cho ‘trí thức kiều bào ta’ dụng võ ở Việt Nam.
Song cũng tương tự như Ngân hàng Thế giới khi công bố số kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài chỉ phát ra con số duy nhất về lượng kiều hối về Việt Nam năm 2018 mà không trưng ra được một liệt kê chi tiết nào cần có về cơ cấu khu vực và quốc gia trên thế giới gửi kiều hối về Việt Nam, cơ cấu khu vực và ngành nghề ở Việt Nam nhận kiều hối, phương pháp tính kiều hối của Ngân hàng Thế giới…
Độ chênh giữa hai con số của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài và Ngân hàng Thế giới và ‘Tổng chủ’ Trọng lên tới 3 tỷ USD. Trong khi đó, các cơ quan quản lý kinh tế Việt Nam vẫn ‘câm như thóc’.
Kiều hối thực chất là bao nhiêu ?
Mới đây, một thống kê của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM đã công bố trong năm 2018, Sài Gòn nhận được 5 tỷ USD kiều hối, thấp hơn con số năm 2017 là 5,2 tỷ USD. Cơ quan này cũng xác định về cơ cấu địa phương tiếp nhận kiều hối năm 2018 : Sài Gòn nhận khoảng 50% trong tổng số kiều hối về Việt Nam.
Sự thừa nhận trên cho thấy ngay cả Sài Gòn - bị giới chóp bu Hà Nội xem là ‘con bò sữa’ để tha hồ vắt kiệt sức dân và doanh nghiệp - cũng đã lần đầu tiên bị giảm kiều hối sau nhiều năm.
Như vậy nếu căn cứ vào con số 5 tỷ USD của Sài Gòn và tỷ lệ 50% mà Sài Gòn thường chiếm trong tổng lượng kiều hối của cả Việt Nam, con số tổng kiều hối về Việt Nam trong năm 2018 chỉ vào khoảng 10 tỷ USD chứ không thể lên đến 15,9 tỷ USD như Ngân hàng Thế giới công bố hay 18,9 tỷ USD như Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài ‘vẽ’.
Nhưng con số 10 tỷ USD trên vẫn có thể là lạc quan, bởi phản ánh chung của báo chí và giới chuyên gia tài chính là trong những năm gần đây, kiều hối đổ về Việt Nam có khuynh hướng ngày càng tập trung về Sài Gòn - nơi có hàng triệu gia đình có thân nhân ở nước ngoài, chủ yếu từ thị trường Hoa Kỳ (chiếm 55-60% tổng kiều hối từ các nước gửi về Việt Nam), trong khi giảm mạnh ở tỉnh thành khác. Nếu tỷ lệ kiều hối về Sài Gòn vượt trên 50 - 60% nhưng vẫn giữ giá trị tuyệt đối là khoảng 5 tỷ USD thì dĩ nhiên con số tổng kiều hối quốc gia sẽ phải giảm dưới mức 10 tỷ USD.
Cho đến nay, ngay cả một số tờ báo nhà nước cũng nghi ngờ rằng nếu Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước cho rằng kiều hối về Sài Gòn chiếm khoảng 50% tổng lượng kiều hối cả nước, con số kiều hối tối đa mà Việt Nam nhận được trong năm 2018 chỉ khoảng 10 tỷ USD chứ làm sao được ‘vẽ’ đến 15,9 tỷ USD như công bố của Ngân hàng Thế giới ?
Nói cách khác, giữa Ngân hàng Thế giới và chính quyền Việt Nam liệu có tồn tại âm thầm một thỏa hiệp chính trị nào để tô hồng cho chế độ độc đảng này ? Liệu Ngân hàng Thế giới có tiếp tay, hoặc đã có một hành động hoàn toàn không khách quan và trung thực, cho chính thể độc trị ở Việt Nam khi nêu ra con số thống kê lượng kiều hối về Việt Nam năm 2018 lên đến 15,9 tỷ USD ?
‘Nghề của chàng’
Sau hơn hai chục năm duy trì xu hướng tăng liên tục, hiện tượng rất đáng chú ý là vào năm 2016, lần đầu tiên dòng kiều hối bị khựng lại, suy giảm rất mạnh và báo hiệu về dòng kiều hối này sẽ đảo chiều trong những năm tới.
Trong hai năm 2017 và 2018, số kiều hối về Việt Nam rất có thể đã giảm thê thảm, chỉ còn khoảng 7-8 tỷ USD.
Nhưng ở Việt Nam, dối trá lại là ‘nghề của chàng’. Một chế độ mà toàn ‘chế’ ra những con số tô hồng và đánh bóng nhưng chẳng có gì xác thực thì cái chân đứng của chế độ đó coi như là ‘xong’.
Cho tới nay, khả năng rõ ràng hơn cả là để bảo vệ thành tích ‘năm sau cao hơn năm trước’ của chế độ độc đảng độc trị, các cơ quan quản lý kinh tế của chính phủ đã đùn đẩy nhau để rốt cuộc không cơ quan nào dám chịu trách nhiệm công bố con số kiều hối tổng của hai năm 2017 và 2018 vì sợ khi công bố sẽ bị báo chí và dư luận xã hội truy vấn về nguồn gốc con số và cách thống kê, mà đẩy trách nhiệm công bố cho một cơ quan bị coi là vô tích sự là Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài.
Một trạng thái hỗn loạn về công bố và trấn an số liệu kiều hối đang bùng nổ trong giới chóp bu Việt Nam. Độ chênh về số liệu kiều hối giữa Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài và ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng lên đến 3 tỷ USD không chỉ phản ánh tình trạng ‘loạn số liệu’ trong công tác quản lý điều hành đất nước, mà còn là một bằng chứng hỗn quân hỗn quan về tình trạng bất khả tin cậy về uy tín của giới lãnh đạo đương thời cùng cái sự thật ngân sách đang cạn kiệt ngoại tệ mà có thể vỡ nợ nước ngoài trong không bao lâu nữa.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 04/02/2019
(1) https://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/gan-19-ti-usd-kieu-hoi-do-vao-dau-3327429/
Việc công khai hóa "Trung đoàn không quân Sao Đỏ chốt giữ miền Tây Bắc của tổ quốc," một số hành động cảnh sát biển Việt Nam tăng cường bắt giữ "tàu cá nước ngoài" ở Biển Đông theo luật cảnh sát biển Việt Nam mới thông qua, lần đầu tiên báo đảng đồng loạt hé môi về "Trung Quốc cưỡng chiếm Trường Sa của Việt Nam," và việc Bộ Ngoại giao Việt Nam tiếp tục "tôn trọng tự do hàng hải" trước hành động tàu chiến Mỹ áp sát quần đảo Hoàng Sa là những chỉ dấu lộ diện cho thấy sau nhiều năm "Bốn tốt, mười sáu chữ vàng," chính sách "Ba không" cùng thế đu dây quốc tế luôn suýt té lộn nhào, chính thể độc đảng ở Việt Nam bắt đầu dò dẫm bước chân qua một ranh giới mới : "can đảm bám Mỹ" và phát ra tín hiệu thách thức quyền lực của Trung Quốc, dù có thể còn lâu nữa điều này mới trở thành chính sách "thoát Trung" theo đúng nghĩa của nó.
Công trình dân sự và quân sự do Trung Quốc xây dựng phi pháp trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa của Việt Nam (Hình : Báo Thanh Niên)
Động thái trên xuất hiện vào khoảng thời gian cuối năm 2018, đầu năm 2019.
Hoàng Sa và Sao Đỏ
"Kỷ niệm" 45 năm ngày mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc (1974 – 2019), tờ báo Thanh Niên đã làm nên một hiện tượng chính trị hiếm hoi khi lần đầu tiên tung bài "45 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam". Sau Thanh Niên là một loạt tờ báo nhà nước khác cũng "lên tiếng" về món nợ lịch sử này – không chỉ Trung Quốc nợ chính quyền Việt Nam mà còn là món nợ của chính quyền công sản Việt Nam với người dân Việt và với cả chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên hệ thống báo chí quốc doanh tố cáo Trung Quốc mạnh mẽ như thế – phản ánh quan điểm của cơ quan tuyên giáo trung ương và cao hơn thế là của Bộ Chính trị Việt nam, trong khi những năm trước thường im như hến, thậm chí chính quyền và công an còn tổ chức đàn áp các cuộc biểu tình phản kháng Trung Quốc của người dân theo đúng tôn chỉ "hèn với giặc, ác với dân" mà rất nhiều người dân đã cáo buộc chính quyền này.
Trước khi xảy ra hiện tượng báo Thanh Niên và Hoàng Sa, vào cuối tháng Mười Một năm 2018 cũng đã có một hiện tượng lạ : một trong những lần thật hiếm hoi, vài tờ báo nhà nước ở Việt Nam công khai hoạt động "Trung Đoàn 921 về Yên Bái : Su-22 đoàn Không quân Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc" – theo Soha.vn.
Theo bản tin còn hơn cả đặc biệt trên, toàn bộ lực lượng máy bay Su-22, phi công, thợ máy và vũ khí, trang bị của Trung đoàn 921 đã chuyển sân từ Nội Bài về Yên Bái làm nhiệm vụ canh trời Tây Bắc của tổ quốc. Sân bay Yên Bái trước đây là căn cứ của Trung đoàn Không quân 931 (nay đã giải thể) sử dụng tiêm kích MiG-21. Để đón các máy bay Su-22 của Trung đoàn Không quân 921, sân bay Yên Bái đã được đầu tư lớn để nâng cấp, kéo dài đường băng, xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm phục vụ đơn vị đóng quân lâu dài…
Vì sao báo chí nhà nước lại dám công bố sự kiện trên khi việc bố trí lực lượng quân sự và các kế hoạch chuyển quân, dù vào thời bình, vẫn thuộc loại bí mật quân sự và được xếp trong danh mục bảo vệ bí mật của Bộ Quốc phòng ? Vì sao những tờ báo này lại không sợ bị truy tố vì "cố ý làm lộ bí mật nhà nước ?"
Tàu hải cảnh Trung Quốc ngang ngược rượt đuổi tàu kiểm ngư Việt Nam trên Biển Đông. (Hình : Báo Thanh Niên)
Khách quan mà xét, có thể cho rằng cuộc chuyển quân của đoàn không quân Sao Đỏ là hết sức bình thường và bản tin của Soha.vn cũng là chẳng có gì đặc biệt, nếu không vướng vào yếu tố… Trung Quốc.
Cho tới hôm nay, bản tin "Trung đoàn 921 về Yên Bái : Su-22 đoàn Không quân Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc" của trang Soha.vn đã tồn tại được nhiều ngày, trong khi rất nhiều trường hợp báo nhà nước phải gỡ những bài "nhạy cảm" chỉ sau vài giờ đồng hồ đăng tải trên mạng do lệnh miệng của Ban Tuyên giáo Trung ương – một thứ vòng kim cô tư tưởng như một đặc thù không thể thiếu của "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" ở Việt Nam.
Do vậy, chỉ có thể cho rằng bản tin trên của Soha.vn được bật đèn xanh của không chỉ Ban Tuyên giáo Trung ương mà còn cả từ cấp cao hơn – Bộ Quốc phòng, Thường trực Ban Bí thư và thậm chí cả Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng.
Rất có thể, mối quan hệ "mười sáu chữ vàng" Việt-Trung và cả vài cuộc giao lưu quốc phòng vừa diễn ra giữa quân đội "hai nước anh em xã hội chủ nghĩa" đã chỉ có ý nghĩa như một bức tranh che đậy cái vùng phía sau của nó đang đen dần, như một cơn giông tố đang hình thành và lừ lừ trùm lên vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, nhất là vùng Tây Bắc – nơi mà "đoàn không quân Sao Đỏ anh hùng" vừa được chuyển đến để "làm nhiệm vụ canh trời Tây Bắc của tổ quốc".
Cũng rất có thể, Bộ Quốc phòng Việt Nam cùng quân ủy trung ương của ông Nguyễn Phú Trọng – bằng chỉ đạo cho công khai cuộc chuyển quân của đoàn không quân Sao Đỏ lên vùng Tây Bắc – đang muốn lặp lại chiến thuật "răn đe Trung Quốc" khi Việt Nam mời cả một hàng không mẫu hạm của quân đội Hoa Kỳ – USS Carl Vinson – đến "giao lưu quân sự" tại cảng Đà Nẵng vào tháng Ba, 2018.
"Chiến tranh dầu khí"
Trong khi đó, những biểu hiện về "chiến tranh dầu khí" giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông là ngày càng rõ ràng. Những mỏ dầu khí mà Việt Nam dự kiến khai thác như Cá Rồng Đỏ (liên doanh với công ty Repsol của Tây Ban Nha) và Lan Đỏ (liên doanh với tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga) đều bị Trung Quốc đặt vào tầm ngắm và chuẩn bị đe dọa. Sang năm 2017, Repsol đã chính thức thất thủ và phải cuốn cờ tháo chạy khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ bởi có đến vài trăm tàu Trung Quốc bao vây mỏ dầu khí này. Thậm chí hải quân Trung Quốc còn đe dọa sẽ tấn công quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam khai thác Cá Rồng Đỏ.
Năm 2018, Việt Nam lại âm thầm định cùng Repsol khai thác Cá Rồng Đỏ. Nhưng một lần nữa, kế hoạch này lại thất bại thê thảm bởi "đồng chí tốt" Trung Quốc.
Cho tới nay, toàn bộ các mỏ Cá Rồng Đỏ, Lan Đỏ và kể cả mỏ Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi đều đang bị đình hoãn khai thác.
Tiếp theo năm 2018 "chẳng ra gì" khi hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam bị Trung Quốc gây sức ép mà đã khiến Bộ Chính trị Việt Nam mất ăn ngay trên "vùng biển chủ quyền không tranh cãi" của mình, năm 2019 đang hiện ra với sắc màu tê tái dành cho nền ngân sách rỗng ruột ngoại tệ của Việt Nam.
Vào những ngày đầu năm mới 2019, Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PetroVietnam – PVN) đã mang lại một thất vọng tím tái cho các cấp trên của nó khi thông báo rằng căng thẳng ở Biển Đông sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam trong năm nay. Cụ thể, PetroVietnam dự tính sẽ khai thác 12,37 tấn dầu thô trong năm nay, giảm 11,45% so với năm ngoái..
Tỷ lệ 11,45% thậm chí còn thấp hơn mức tiết giảm dự kiến 10% mỗi năm của PetroVietnam vào năm 2018.
Vào tháng Mười Một, 2018, PetroVietnam lần đầu tiên cho biết với trữ lượng gia tăng quá thấp khiến từ nay đến năm 2025, sản lượng khai thác dầu sẽ giảm đều đặn mỗi năm 10% – tương đương với hơn 2 triệu tấn.
Ngay cả mỏ Bạch Hổ – cung cấp sản lượng lớn nhất, chiếm hơn 60% sản lượng của PVN từ xưa đến nay – đã vào giai đoạn suy kiệt.
Vào năm 2021 hoặc 2022 khi mỏ Bạch Hổ trở thành "mỏ chết," PVN sẽ phải dựa hoàn toàn vào 40% sản lượng còn lại, với điều kiện trữ lượng của những mỏ dầu còn lại vẫn còn mà không suy kiệt hẳn như Bạch Hổ.
Những năm tới sẽ là một thách thức khủng khiếp : làm sao đảng và PVN tìm ra được nguồn trữ lượng dầu khí mới ở Biển Đông để thay thế cho những mỏ sắp biến thành dĩ vãng và để ngân sách của đảng lẫn đảng khỏi chết theo ?
Với tình trạng trữ lượng dầu cạn kiệt nhanh trong khi quá khó để tìm ra nguồn trữ lượng mới, có thể hình dung là vào năm 2021, ngân sách chế độ sẽ mất hẳn số thu 70.000-80.000 tỷ đồng từ PVN mà do đó sẽ "kiến tạo" một lỗ thủng toang hoác không lấy gì bù trám được.
Tương lai đen tối trên đang hiển hiện trong bối cảnh hiện thời các nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và cả nguồn kiều hối của "khúc ruột ngàn dặm" đều khá bi đát. Từ năm 2014, chính thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi. Trong khi đó, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vào năm 2017 và 2018 có thể sụt giảm đến phân nửa so với mức đỉnh 13,5 tỷ USD vào năm 2015…
Chọn Trung Quốc hay Mỹ ?
Vào đầu năm 2019, thêm một lần nữa và hầu như đã mang tính hệ thống và logic, Bộ Ngoại giao và đứng phía sau là Bộ Chính trị Việt Nam đã không phản đối, nếu không muốn nói là có thể hiện thái độ cổ vũ, trước hoạt động áp sát quần đảo Hoàng Sa của một tàu khu trục Mỹ trang bị tên lửa dẫn đường có tên là USS McCampbell.
"Việt Nam tôn trọng quyền tự do hàng hải, và kêu gọi các nước đóng góp cho hòa bình, ổn định ở Biển Đông" – ngày 9 tháng Giêng, 2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng "can đảm" dang cánh tay phát ngôn như thế và nói thêm rằng "Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế". Ngay trước đó, tàu USS McCampbell của hải quân Mỹ đã thực hiện hoạt động "tự do hàng hải" trong phạm vi 12 hải lý thuộc quần đảo Hoàng Sa "để thách thức các tuyên bố chủ quyền hàng hải quá mức".
Khu trục hạm USS McCampbell. (Hình : Getty Images)
Như vậy, từ đầu năm 2016 đến nay, có ít nhất 4 lần thể chế một đảng ở Việt Nam "ngó lơ" chuyện chiến hạm Mỹ áp sát quần đảo Hoàng Sa như một động tác thách thức Trung Quốc, trong đó có hai lần Bộ Ngoại giao Việt Nam bất thần tỏ ra "can đảm" khi đưa ra tuyên bố hoặc "tàu Mỹ đi qua vô hại" hoặc "tàu Mỹ tự do giao thông ở Biển Đông".
Giờ đây, hy vọng mỏng manh còn lại cho nhu cầu ăn dầu và trám rỗng ngân sách của Việt Nam chỉ còn là Mỹ – đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông. Cùng với những dấu hiệu gia tăng xung đột quân sự Mỹ-Trung ở khu vực Biển Đông, Việt Nam cũng không thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ chiến dịch, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong "đường lưỡi bò" mới được Trung Quốc vẽ bổ sung.
Nhưng thậm chí chiến dịch tấn công của Trung Quốc còn có thể nổ ra ở những tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam. Những dấu hiệu về tập trung vài ba tập đoàn quân của Trung Quốc ở khu vực này vào hai năm 2017 và 2018 có vẻ để chuẩn bị cho cuộc cưỡng chiếm ấy.
Nguy cơ bị tấn công đang hiển thị dần sau một tháng và mỗi quý. Đến giờ phút này, giới chóp bu Việt Nam phải quyết định cho chính số phận tồn vong của nó : thêm một lần đánh đu với người anh em cộng sản Bắc Kinh sẽ rất dễ khiến lục phủ ngũ tạng của dân tộc Việt Nam bị kẻ thù phanh thây – theo đúng cái cách mà chính quyền Trung Quốc đã làm để mổ sống nội tạng các tín đồ Pháp Luân Công.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 03/02/2019
Một cách cầm chắc như niềm tin vào chủ nghĩa xã hội của ‘Tổng Chủ’ Nguyễn Phú Trọng không suy xuyển và ‘đất nước ta có bao giờ được như thế này không’ của cùng tác giả, Quốc hội đã cắm mặt gật đầu với dự toán thu ngân sách năm 2019 với số thu lên đến 1.411 ngàn tỷ đồng để phục vụ cho số chi ngân sách, trong đó có hơn 70% chi thường xuyên cho đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức chỉ tăng không giảm với 30% trong số đó ‘sáng cắp ô đi tối cắp ô về’ - lên đến 1.633 ngàn tỷ đồng.
Kho bạc Nhà nước vừa có văn bản số 159/KBNN-KSC hướng dẫn chi Ngân sách Nhà nước trong những tháng đầu năm 2019 (baochinhphu.vn, 15/01/2019)
Được đằng chân lân đằng đầu
Liên tiếp trong nhiều năm qua, dự toán thu ngân sách năm sau đều được ‘quyết’ tăng hơn nhiều so với năm trước – từ 10 đến 12% vào thời kỳ kinh tế còn chưa rơi hẳn vào cơn suy thoái nhưng vẫn vống đến 8 đến 9% trong những năm gần đây, bất chấp phản ứng gay gắt của dư luận xã hội và tiếng kêu than oán ‘doanh nghiệp và sức dân đã cạn’, mà bằng chứng thảm thiết nhất là tỷ lệ doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và phá sản cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới.
Nhưng nếu số thu ngân sách năm 2018 vẫn cố ép thu và vẫn vượt dự toán khoảng 3%, thì số thu ngân sách năm 2019 đầy tham lam và duy ý chí sẽ rất có thể va phải bức tường kiên cố của tình trạng ‘thu không bền vững’ từ bất động sản, dầu khí và khối doanh nghiệp.
Nguy biến từ ‘nguồn thu không ổn định’
Kết quả thu ngân sách năm 2018 đối với khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đã bị giảm thu từ hơn 2% đến gần 3% so với dự toán, trong khi khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài - một trong những niềm tự hào lớn nhất của ngành thuế Việt Nam trong nhiều năm qua - còn tồi tệ hơn nhiều : giảm thu đến 15% so với dự toán.
Trong khi đó, một bản báo cáo của cơ quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam được công bố vào tháng Mười năm 2018 đã phải thừa nhận rằng số thu vượt dự toán năm 2018 chủ yếu từ các nguồn thu về nhà, đất và dầu thô, trong đó nhà, đất tăng 35,9%, dầu thô tăng 53,2%. Tuy nhiên, thu từ đất không ổn định còn thu từ dầu thô chủ yếu do giá dầu lập dự toán thấp hơn thực tế (73,5 USD/50 USD/thùng) và sản lượng ước tăng 450 nghìn tấn.
Nỗi lo lắng của cơ quan Kiểm Toán Nhà Nước về nguồn thu từ nhà đất và dầu thô "không ổn định" (hay còn được xem là "cấu trúc thu không bền vững") cũng chính là tâm trạng lo sợ không nguôi của chính thể độc đảng ở Việt Nam : nếu trong năm 2019 và những năm sau đó mà hai nguồn thu này vẫn "không ổn định" theo chiều hướng suy giảm chứ không tăng vọt ồn ào như năm 2017 và 2018 - đặc biệt đối với thu thuế buôn bán nhà đất, ngân sách nhà nước và ngân sách đảng sẽ tìm đâu ra nguồn mới để bù đắp cho cái miệng rộng ngoác như hàm cá mập của quốc nạn bội chi ngân sách, chi xài lãng phí vô tội vạ cùng quốc nạn tham nhũng mà đang nhấn chìm xã hội Việt Nam xuống tầng dưới cùng của địa ngục thời hiện đại ?
Và nếu quả bom bất động sản nổ, hoặc không nổ đột ngột thì sẽ phải xì hơi dần, chắc chắn mật độ thương vụ mua bán đất đai sẽ giảm dần hoặc giảm mạnh, kéo theo số thu thuế từ giao dịch đất đai sẽ giảm đáng kể trong những năm sau. Khi đó, ngân sách sẽ khó còn có nguồn thu tăng thêm từ tiền đất lên đến 60.000 – 70.000 tỷ đồng/năm, trong khi nguồn thu từ 3 khối kinh tế đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn không có gì khả quan hơn trong thời buổi kinh tế ngập ngụa suy thoái.
Thế tiến công ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’ của đảng và quốc hội Việt Nam còn bị giáng cho một cú thất thần : vào cuối năm 2018, giá dầu thô thế giới lao dốc thảm hại từ mức hơn 73 USD/thùng xuống chỉ còn chưa đầy 50 USD/thùng, tức sụt đến 30%. Dự toán thu ngân sách năm 2019 về dầu thô của Việt Nam cũng bởi thế rất có thể sẽ ‘trật đường rày’ và mất đi một khoản tiền lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng.
Trong lúc đó, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) cho biết nhu cầu dầu thế giới vẫn được dự báo sẽ vượt hơn 100 triệu thùng/ngày vào năm 2019. Trong lúc triển vọng nhu cầu yếu hơn, OPEC và Nga vẫn tăng sản lượng, và nguồn cung tại Mỹ cũng nhảy vọt.
Vào năm 2014 khi giá dầu thô thế giới còn ngất ngưởng ở vùng trên 100 USD/thùng, các cơ quan Việt Nam đã mạnh tay dự báo giá dầu sẽ còn tăng hơn nữa, hoặc có giảm cũng không đáng kể. Tuy nhiên sau khi lập đỉnh, giá xầu thô thế giớ đã lao dốc không phanh, giá đến hơn 50% và rơi về vùng 45 - 50 USD/thùng, khiến ngân sách Việt Nam bị ‘hụt thu’ đến 50.000 - 60.000 tỷ đồng/năm.
Rất có thể là khi dự báo giá dầu thế giới vào năm 2017, các cơ quan Việt Nam đã căn cứ vào tình hình thực tế khi đó là giá dầu chưa tăng mạnh mà vẫn chỉ quanh quẩn ở vùng 50 USD/thùng. Nhưng họ không ngờ là vào cuối năm 2017 và sang đầu năm 2018, giá dầu thô thế giới bắt đầu tăng rồi tăng mạnh, lên đến hơn 70 USD/thùng.
Còn giờ đây, dự báo về giá dầu thô của chính phủ Việt Nam lại một lần nữa phải… xuống theo thế giới. Giới quan chức ‘còn dầu còn đảng’ và ‘còn đảng còn mình’ chỉ mong ngóng giá dầu tăng để tăng thu ngân sách và do đó tiếp tục duy trì chính đảng độc trị được ngày nào hay ngày đó… có lẽ đang tràn trề thất vọng vì mất tiền.
Vậy ngân sách nhà nước năm 2019 sẽ lấy đâu ra tiền để nuôi đội ngũ gần 3 triệu công chức viên chức "còn đảng còn mình" mà có ít nhất 30% trong số đó ăn không ngồi rồi ?
Lại in tiền ồ ạt ?
Nhưng vào lúc này, ngay cả thao tác in tiền để "bù đắp khó khăn ngân sách" đang trở nên quá nguy hiểm trong bối cảnh lạm phát thực tế đã lên tới vài ba chục phần trăm mỗi năm chứ tuyệt đối không phải "được kềm chế dưới 5%/năm" như các báo cáo chính phủ bất cần biết dân chúng và dân sinh. Chỉ so sánh con số tổng dư nợ tín dụng cho vay vào thời điểm năm 2008 là 2,3 triệu tỷ đồng và vào năm 2017 lên đến khoảng 7 triệu tỷ đồng - tức gấp đến 3 lần, thì trong gần một chục năm qua Bộ Chính Trị đảng và Ngân Hàng Nhà Nước rất có thể đã phải cho in tiền từ 400.000 - 500.000 tỷ đồng/năm, đặc biệt vào thời Nguyễn Tấn Dũng "tiền ra như nước Sông Đà".
Chỉ còn cách tăng thuế.
Thuế, thuế và thuế !
"Việt Nam cần thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững về các nguồn thu Chính phủ và bảo đảm rằng các nguồn lực được đầu tư một cách có hiệu lực và được sử dụng có hiệu quả. Về vấn đề này, báo cáo nghiên cứu khuyến nghị Chính phủ tiếp tục mở rộng nguồn thu trong nước từ thuế như là một nguồn thu bền vững hơn và đáng tin cậy hơn" - theo một khuyến cáo được các chuyên gia đưa ra tại Báo cáo đánh giá tình hình tài chính cho phát triển bền vững tại Việt Nam, được công bố vào chiều 11/9/2018 tại Hà Nội.
Báo chí nhà nước cho biết ‘báo cáo này được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam đặt hàng và do một nhóm chuyên gia biên soạn, với mục tiêu tổng quát là hỗ trợ Việt Nam trong nỗ lực cải cách việc huy động, sử dụng và quản lý tài chính cho phát triển, nhằm thực hiện Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030’.
Nhưng ai có thể tưởng tượng rằng tổ chức Liên Hợp Quốc - lấy giá trị căn bản tồn tại là phát triển bền vững và công bằng giữa các giai tầng - lại khuyến khích chính thể độc đảng ở Việt Nam đè thuế lên đầu dân càng nhiều càng tốt để bảo vệ cho chế độ chỉ còn hơi thở lụi tàn ấy ?
Hoặc chính là ‘các chuyên gia’ của chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam đã lợi dụng nguồn kinh phí được tài trợ từ UNDP để ‘nghiên cứu’ theo phương châm ‘lấy mỡ nó rán nó’ : mở rộng diện thu thuế để tăng thu ngân sách trên danh nghĩa UNDP đứng phía sau khuyến nghị này.
Các mưu đồ tăng thuế lại xảy ra trong bối cảnh dân tình Việt ngày càng khốn khó trong một nền kinh tế đã rơi vào thảm trạng suy thoái đến năm thứ 10 liên tiếp, một xã hội bị acid đậm đặc bởi căn bệnh tham nhũng không còn cách gì cứu chữa. Thuế chồng thuế, chồng lên đôi vai gày guộc của người nghèo. Hàng triệu bệnh nhân, vốn đã bị các bệnh viện "bóp cổ bóp họng" và "không có tiền thì chỉ có chết", sẽ phải nuốt nước mắt vào lòng với biểu viện phí chất cao như núi…
Thói vô tâm, vô cảm và vô trách nhiệm của giới quan chức chính quyền đã tích tụ từ nhiều năm qua và mang tính hệ thống.
Tăng giá và thuế má là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt. Một đảng Cộng sản ‘của dân, do dân và vì dân’ nhưng đang đẩy dân chúng vào cảnh tàn mạt bởi chế độ ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’.
Nhiều người dân ở các tỉnh đói nghèo ấy thốt lên : "Túi chẳng còn gì để nộp thuế nữa. Nếu nhà nước cứ tróc nã thì dân chỉ còn cách hoặc trốn đóng hoặc phản ứng tự vệ thôi".
Thực tế ít nhất 1/3 trong số 63 tỉnh thành thu ngân sách không đạt kế hoạch năm 2018 là một bằng chứng sống động về thực tế ‘trong dân chẳng còn tiền để thu’. Thậm chí ngay cả ‘con bò sữa’ Sài Gòn cũng chỉ đạt kế hoạch thu ngân sách 2018 khoảng 98%.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 02/02/2019
Đã hơn ba năm kể từ khoảng thời gian cuối năm 2015 là lúc các nhóm lợi ích Bộ Giao thông và vận tải và đại gia rầm rộ PR chính sách để xây dựng sân bay Long thành, nhưng cho đến nay vùng đất này vẫn chỉ là… dự án.
Quốc hội bỏ phiếu xây sân bay Long Thành, 2015.
Cũng đã gần một thập kỷ kể từ năm 2009 là lúc các nhóm đầu cơ ‘đánh lên’ một cơn sốt đất tại khu vực Long Thành và nhiều quan chức từ cấp trung ương đến địa phương đã bị mắc kẹt một lượng tiền đầu tư khổng lồ tại khu vực này, cho đến nay vẫn chẳng có dấu hiệu gì cho thấy giới này đã ‘thoát hàng’ được, hay nói cách khác là đã bán được đất thu gom giá rẻ trước đó cho những người ‘trâu chậm uống nước đục’ với giá cắt cổ.
Hết thời ‘ăn miễn phí’ ODA
Vào năm 2015, dự án sân bay Long Thành đã được ‘vẽ’ với một con số đầu tư khổng lồ : 18 tỷ USD !
Trong thâm ý lẫn tham ý của các nhóm lợi ích, dự án sân bay Long Thành không chỉ nhằm "nuốt gọn" 18 tỷ USD đầu tư với phần lớn trong số đó dự kiến là vốn vay ODA, mà còn được khuếch trương tính tầm cỡ "khu vực Châu Á" của nó để giúp giới quan chức đang "kẹt hàng" có điều kiện bán đất giá cao.
Long Thành - thuộc khu vực tỉnh Đồng Nai - đã từng có những đợt sốt đất vào những năm 2008-2009. Đây chính là giai đoạn tích tụ đất đai của nhiều "ông lớn" địa ốc. Cũng là giai đoạn mà nhiều đại gia và quan chức từ trung ương xuống địa phương vung tiền quá trán mà khi cơn sốt bất động sản trôi qua, toàn bộ khu vực Long Thành đều chìm trong băng giá, toàn bộ đất đai đều trở thành "hàng tồn", chỉ thấy rao mà chẳng ai mua.
Trong 3 năm qua, từ khi có quy hoạch của dự án sân bay quốc tế Long Thành, khu vực này bất thần được không ít tờ báo nhà nước PR như một thỏi nam châm có sức hút lớn đối với các dự án bất động sản vây quanh.
Vây quanh sân bay Long Thành là hàng trăm dự án bất động sản lớn nhỏ, được sở hữu bởi nhiều đại gia địa ốc. Nổi bật trong số đó là Sonadezi, Tổng Công ty Tín Nghĩa, Dic Corp, Khang Điền, Công ty Đình Thuận, DonaCorp…
Vào cuối năm 2015 trước khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính thức "trở về làm người tử tế’, đất khu vực sân bay Long Thành đã được "đánh lên" một đợt. Tình trạng sốt đất bùng lên nhộn nhịp ở khu vực các xã nằm sát dự án sân bay quốc tế Long Thành. Đi đâu cũng nghe người dân bàn tán chuyện mua bán đất và hoa hồng cho người môi giới bao nhiêu phần trăm…
Hiển nhiên dự án sân bay Long Thành, với nguồn vốn vay chồng chất ODA, là một cơ hội để các nhóm lợi ích tìm đường thoái vốn, trút hàng tồn cho những người ngờ nghệch "trâu chậm uống nước đục".
Tuy nhiên sau Đại hội 12 với sự thất bại của Nguyễn Tấn Dũng, dự án sân bay Long Thành chợt lâm vào tình thế không biết kiếm đâu ra tiền để thực hiện.
Trước đây, trong mọi tính toán khôn lanh và khá trót lọt của mình, nhóm lợi ích "ODA Long Thành" đã "lobby" được các bộ ngành, lãnh đạo chính phủ và gần hết trong số 500 mái đầu gục gặc nghị sĩ. Nhưng có lẽ vẫn có một li sai lệch mà đã tới thảm cảnh sai lầm chiến lược về tài chính như ngày hôm nay.
Đó chính là sai lệch trong tính toán về bối cảnh và thời điểm đi vay.
Theo "truyền thống", các dự án "khủng" như Sân bay Long Thành, Cao tốc đường bộ Bắc-Nam, Điện hạt nhân Ninh Thuận… đều phải đi vay quốc tế tới 80% tổng dự toán. Trong dĩ vãng, đã có nhiều dự án vay ODA đầu xuôi đuôi lọt, "vẽ" được và vay được, làm giàu khủng khiếp cho các nhóm lợi ích, để từ đó những nhân vật này cứ tưởng sẽ mãi "nhân điển hình tiên tiến".
Thời điểm chốt con số cuối cùng cho dự án sân bay Long Thành là vào cuối năm 2015, tức cuối đời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vào lúc đó, những nguồn vốn ODA "gối đầu" từ năm trước và cả năm trước nữa vẫn còn, do vậy nhóm lợi ích ODA không thể tránh khỏi ảo tưởng tình hình vẫn tiếp tục triển vọng vào những năm sau đó.
Nhưng đến tháng 12/2015, Trưởng đại diện Ngân hàng thế giới ở Việt Nam là bà Victoria Kwa Kwa bất ngờ thông báo với Chính phủ Việt Nam biết là kể từ tháng 7/2017, Việt Nam sẽ không còn được vay vốn ưu đãi nữa. Quả thật, sau đó Việt Nam phải vay vốn ODA của quốc tế với mặt bằng lãi suất tăng gấp ba lần trong lúc thời gian ân hạn giảm đi một nửa.
Cánh cửa ODA dành cho các dự án "khủng" bỗng dưng sập lại. Đã quen ‘ăn ODA miễn phí’, đám quan chức Việt bắt đầu cảm thấy ‘ăn phải trả tiền’ có cái gì đó ‘kỳ kỳ’. Hơn nữa, trong bối cảnh nợ công ngập đầu mà đã vọt đến tỷ lệ 210% GDP, chứ chẳng hề ‘dưới 65% GDP’ như báo cáo của chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của Nguyễn Xuân Phúc, bây giờ mà đâm đầu vay ODA với lãi suất cao là tự sát.
Rốt cuộc, không chỉ không dám vay mà ‘kẻ đổ vỏ vĩ đại’ - Thủ tướng Phúc - còn không dám ký bảo lãnh vay vốn ODA cho các doanh nghiệp quen ‘ăn bẫm’.
Một trong những "nạn nhân" đầu tiên của chế độ thắt lưng buộc bụng ODA là dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận - với số "vẽ" lên đến 20 tỷ USD, rốt cuộc đã bị Chính phủ của tân thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc "dũng cảm" tuyên bố ngừng thực hiện.
Dự án sân bay Long Thành dĩ nhiên cũng không thoát khỏi số kiếp hẩm hiu…
Bi kịch ‘thoát hàng’
"Dự án Cảng hàng không sân bay Long Thành phải thực hiện đúng lộ trình đặt ra, tuyệt đối không lùi tiến độ. Tháng 3/2019, phải phê duyệt xong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Tháng 6 phải phê duyệt xong báo cáo khả thi..." - Bộ trưởng Giao thông và vận tải Nguyễn Văn Thể - quan chức kế thừa cái ghế của người tiền nhiệm và cũng là tác giả của vụ ‘sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất’, Trương Quang Nghĩa - chỉ đạo như vậy tại cuộc họp kiểm điểm tiến độ triển khai lập báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 1 dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành và dự án mở rộng, nâng cấp đồng bộ các hạng mục công trình tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, diễn ra ngày 7/1/2019.
Cứ cho là tiến độ phê duyệt sẽ đúng như ông Thể chỉ đạo, nhưng dấu hỏi cực lớn là bộ này và các nhóm lợi ích đào đâu ra tiền để làm sân bay ?
Giờ đây, ngân sách vô vọng đã khiến ngay cả 18 ngàn tỷ dùng cho giải phóng mặt bằng ở dự án sân bay Long Thành mà còn phải ‘vận động’ mãi mới tìm ra, sau khi cả một ủy viên bộ chính trị là Trưởng ban Tổ chức trung ương Phạm Minh Chính đã phải lộ hình để PR cho số 18 ngàn tỷ đồng này. Mà 18 ngàn tỷ đồng còn khó tìm thì đào đâu ra 18 tỷ USD - nhiều gấp hơn hai chục lần - để xây dựng "một trong những sân bay hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á" ?
Cho tới nay và cả trong trung hạn vài ba năm tới, vẫn không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy dự án sân bay Long Thành có thể chạm vào một cái mỏ vay ODA ưu đãi nào.
Hẳn cơn bĩ cực trên đã khiến các nhóm kim tiền - chính sách phải tính đến việc cứ vài tháng một lần lại tung ra tin "sân bay Long Thành sắp hoàn thành dự án khả thi", "sân bay Long Thành sắp khởi công", hay đại gia Vũ Văn Tiền còn tung tin mời một nhà đầu tư lớn của Trung Quốc vào dự án sân bay Long Thành.. Theo đó, đất đai ở khu vực này lại có được một đợt lao xao.
Báo nhà nước PR đất Long Thành, Đồng Nai ngày càng phát triển hơn nhờ có dự án sân bay quốc tế Long Thành - Ảnh minh họa (bandatnenlongthanh.vn, 21/11/2017)
Nhưng rốt cuộc, lao xao vẫn chỉ là lao xao. Thậm chí trong cơn sốt đất nền khá dữ dội ở Sài Gòn kéo dài từ đầu năm 2017 đến nay, khu vực Long Thành cũng không thể ‘ăn theo’, bất chấp rất nhiều bài báo nhà nước đã quảng cáo cho nó.
Cũng như những cơn sóng bất động sản vào những năm 2000 và giai đoạn 2007-2011 đều có điểm kết thúc bi kịch của nó, phong trào đầu cơ bất động sản từ năm 2016 kéo dài đến nay đã đẩy mặt bằng giá đất quá cao so với giá trị thực và tạo nên một quả bom khổng lồ chỉ chực chờ phát nổ vào năm 2019 và năm 2020.
Vận cảnh quá sức bi đát đang hiện ra như một bóng ma dưới bóng mặt trời buổi xế tà : trong lúc dự án sân bay Long Thành vẫn gần như giậm chân tại chỗ, ODA vẫn tuyệt vọng, thì vô số đất đai của giới đại gia và quan chức vẫn không cách nào hóa phép thành tiền hay ngoại tệ để tẩu tán ra nước ngoài…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/02/2019
EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu) đã chính thức bị Liên minh Châu Âu (EU) hoãn vô thời hạn vào tháng Giêng năm 2019 do chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam đã tuyệt đối không làm gì, nếu không muốn nói là làm ngược lại, để cải thiện tình trạng đàn áp nhân quyền trầm trọng tại dải đất hình chữ S quằn quại này.
Một biểu ngữ có nội dung "không trao đổi mậu dịch tự do với những chế độ thiếu tự do".
Những chóp bu nào của Việt Nam ‘mất ăn’ với kết quả hoãn EVFTA ?
Quan chức đầu tiên phải kể đến là Nguyễn Phú Trọng.
Lưu truyền sử xanh ?
Là người ‘mê hiệp định’, vào năm 2015 thậm chí Trọng đã chấp nhận luôn cả định chế công đoàn độc lập để đánh đổi Hiệp định kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) khi ông ta được Tổng thống Mỹ Barak Obama mời đến Washington, cho dù công đoàn độc lập luôn bị chính quyền Việt Nam quy chụp như ‘một thủ đoạn của diễn biến hòa bình’ và đánh đồng với Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan lật đổ chế độ cộng sản vào những năm 80 của thế kỷ XX.
2015 cũng là khoảng thời gian mà cuộc chạy đua quyết liệt và không kém tiểu xảo lẫn thủ đoạn giữa hai họ Nguyễn - Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng - diễn ra đầy kịch tính. Ai mang về được TPP sẽ ghi điểm trước Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương và đương nhiên sẽ nhận được tỷ lệ phiếu bầu cao hơn.
Nhưng do TPP bị Mỹ rút ra vào đầu năm 2016 và khiến kinh tế Việt Nam, dù có tham gia vào CPTPP (hiệp định thay thế cho TPP), cũng chỉ có tiếng không có miếng, Nguyễn Phú Trọng lại theo đuổi một mục tiêu mới : EVFTA.
Luôn khoe thành tích Việt Nam đã ký kết và triển khai các FTA (hiệp định thương mại song phương) với nhiều nước, Nguyễn Phú Trọng hẳn mong mỏi EVFTA sẽ giúp cho chế độ của ông ta cứu vãn tình trạng cạn kiệt ngoại tệ, bội chi ngân sách và suy sụp chân đứng kinh tế để có thể kéo dài tuổi thọ được năm nào hay năm đó. Với Trọng, duy trì được sự sống của đảng và cũng là cái ghế của ông ta, dù chỉ là lây lất, là nhiệm vụ tối thượng.
Sau khi ngồi ngay vào ghế của ‘cố chủ tịch nước Trần Đại Quang’ và chính thức trở thành ‘Tổng chủ’ với quyền uy gần như tuyệt đối, chẳng có gì bảo đảm là Nguyễn Phú Trọng sẽ không nối gót Tập Cận Bình ở Trung Quốc - sửa hiến pháp, ‘tư tưởng Tập Cận Bình’, bỏ giới hạn hai nhiệm kỳ chủ tịch nước và về thực chất là ‘hoàng đế suốt đời’. Chỉ còn gần hai năm nữa là đại hội 13 của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ tiếp biến, một khoảng thời gian không nhiều để Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị tư thế ‘cán bộ cấp chiến lược’ và có thể được ghi tên ‘lưu truyền sử xanh’, nếu ông ta thực sự quyết tâm thu xếp câu chuyện công - tư ấy. EVFTA nếu thành công sẽ một đòn bẩy Ácsimét để đưa tên Trọng vào lịch sử, như cách mà chí ít thì giới văn nhân cận thần của ông ta cũng nghĩ thế.
Nhưng còn một quan chức không kém thèm khát các hiệp định thương mại với nước ngoài, dù lòng mong mỏi này có vẻ hào nhoáng hơn Nguyễn Phú Trọng. Đó là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Nghiêng nghiêng ngoẹo ngoẹo
Với Phúc, Tổng sản lượng quốc gia GDP là tiêu chí quan trọng nhất, không chỉ phản ánh ‘nội lực’ của nền kinh tế mà ông ta điều hành, mà còn chứng minh cho thành tích của chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của ông ta. Trong rất nhiều cuộc thăm viếng các địa phương ở Việt Nam, Phúc cứ luôn nghiêng nghiêng ngoẹo ngoẹo tô điểm cho GDP. Thậm chí ông ta còn bộc lộ ý đồ chỉ đạo Tổng cục Thống kê tìm cách, hoặc thay đổi cách thống kê làm sao để gộp cả phần ‘kinh tế ngầm’ nhằm làm tăng GDP và làm đẹp những con số trong các báo cáo của chính phủ.
Các FTA và đặc biệt là EVFTA có một phần ‘cống hiến’ lớn cho GDP. Chỉ cần ký được EVFTA, kinh tế Việt Nam sẽ có hy vọng ít nhất duy trì được số xuất siêu khoảng 30 tỷ USD hàng năm vào thị trường Châu Âu, chưa kể triển vọng gia tăng giá trị xuất khẩu mà Thủ tướng Phúc đặc biệt cần để bổ sung vào báo cáo ngoại thương toàn số đẹp của ông ta.
Vào năm ngoái, Nguyễn Xuân Phúc đã đích thân thực hiện một chuyến công du đến 3 nước Châu Âu để ‘quốc tế vận’ cho EVFTA. Tại đó, ông ta hùng hồn nói về ‘Việt Nam là một nước dân chủ’, bất chấp thực tồn đàn áp nhân quyền khốc liệt của chế độ ông ta đối với người dân và giới bất đồng chính kiến - nguồn cơn sâu xa và trực tiếp nhất mà đã khiến Liên minh Châu Âu (EU) vào tháng Giêng năm 2019 phải quyết định hoãn vô thời hạn việc phê chuẩn EVFTA.
Giờ đây, Nguyễn Xuân Phúc có lẽ đang hối tiếc những tuyên bố của ông ta trước quốc tế về ‘Việt Nam dân chủ’ và chỉ trích một cách hằn học của ông ta đối với ‘thế lực thù địch trong nước’. Những lời nói hớ đó không chỉ bị quốc tế coi thường bản lĩnh chính trị và cả nhân cách một thủ tướng Việt Nam, mà còn khiến Phúc không còn nhiều cơ hội chường mặt ra thế giới để ‘lập thành tích chào mừng đại hội đảng lần thứ 13’.
Đại hội 13 sắp mang lại một cơ hội đầy thách thức cho Nguyễn Xuân Phúc. Một đại hội mà cứ với cái đà Nguyễn Phú Trọng hoặc đang có những dấu hiệu mệt mỏi của tuổi già, hoặc không còn đủ sức ngồi cả hai ghế mà do đó sẽ phải ‘nhường’ bớt một ghế (có thể là ghế tổng bí thư) cho người khác, cái tên Nguyễn Xuân Phúc sẽ trở nên khó cạnh tranh trong cuộc chạy đua ngày càng tăng tốc và bứt tốc để thay thế cho một Nguyễn Phú Trọng già cỗi về tuổi tác và có thể cả về tâm hồn.
Thiệt thòi hơn Phúc, những chóp bu được xem là ứng cử viên khác cho chức tổng bí thư - Thường trực Ban bí thư Trần Quốc Vượng, Trưởng ban Tổ chức trung ương Phạm Minh Chính - đều chỉ thuần túy làm phần hành bên đảng mà không có cơ hội nắm được khối hiệp định thương mại và cường điệu thành tích loại này. Còn Còn Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân điệu đàng lại bị xem là yếu ‘bản lĩnh chính trị’ nhất, chỉ biết ‘gật’ với bất kỳ hiệp định thương mại nào mà phía chính phủ chuyển qua quốc hội, và trong thực tế chỉ biết chờ ngóng ‘buồn ngủ gặp chiếu manh’.
Trong bối cảnh thật tế nhị và sôi sục trên, không thể xem là ngẫu nhiên với một cuộc thăm viếng của Thủ tướng Phúc đến Tổng cục 2 vào đầu năm 2019, được tiếp bằng thảm đỏ và hàng tiêu binh danh dự. Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên Phúc hiện ra một cách chính thức tại cơ quan tình báo quân đội còn lại và duy nhất ở Việt Nam (sau khi Tổng cục Tình báo của Bộ Công an bị giải tán vào đầu năm 2018 chủ yếu bởi ‘thành tích Vũ Nhôm’). Sự hiện diện đầy ẩn ý và không thiếu hàm ý chính trị ấy ít nhất cũng phát đi thông điệp rằng ông Phúc không chỉ là lãnh đạo thuần túy điều hành kinh tế - xã hội mà còn có thể lấn sân qua những hoạt động mang tính đặc thù và thuộc loại ‘hàng hiếm’ hơn.
Chỉ có điều nếu không giành giật được EVFTA, trong khi Trọng khó bề tìm ra tiền để nuôi đảng thì Phúc cũng chẳng giành đoạt được thành tích đáng kể nào để chứng minh rằng ông ta hoàn toàn xứng đáng với chức vụ tân tổng bí thư tại đại hội 13, nếu quả còn xảy ra đại hội này.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 29/01/2019
**********************
Các chuyên gia : ‘EVFTA vẫn cực kỳ quan trọng với Việt Nam’ (VOA, 29/01/2019)
Sau khi một số thành viên Nghị viện Châu Âu hồi tuần trước thông báo việc hoãn phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA), một số nhà quan sát trong nước cho rằng không có hiệp định này cũng không "gây thay đổi gì nhiều" đối với tốc độ phát triển và độ mở của kinh tế Việt Nam.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A phát biểu tại buổi điều trần của INTA và EVFTA ở Brussels, 10/10/2018
Tuy nhiên, hai nhà kinh tế giàu kinh nghiệm phản bác các nhận định kể trên. Chuyên gia Phạm Chi Lan và tiến sĩ Nguyễn Quang A nói với VOA hôm 28/1 rằng Việt Nam vẫn rất cần EVFTA vì "các lợi ích được hưởng rất lớn" và những lợi ích đó "không chỉ là về mặt kinh tế".
Cuối tuần qua, một số nhà quan sát Việt Nam không muốn nêu danh tính bày tỏ quan điểm với VOA rằng đất nước này đã có độ mở cửa của nền kinh tế "quá lớn rồi, không còn dư địa nhiều để mở nữa", vì vậy, khi hiệp định thương mại với EU bị hoãn, dẫn đến việc Việt Nam chậm "nới thêm độ mở", điều đó cũng không phải là "quá dở".
Việt Nam được đánh giá "là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn trên thế giới" với tổng kim ngạch thương mại tương đương 200% [tổng sản phẩm quốc nội] GDP, theo lời phát biểu của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tại một diễn đàn về hợp tác kinh tế Châu Á ở thành phố Bình Dương hồi cuối tháng 11/2018.
Tuy nhiên, bà Phạm Chi Lan, nữ chuyên gia kinh tế 77 tuổi, đưa ra ý kiến với VOA rằng tầm quan trọng của EVFTA không chỉ giới hạn ở vấn đề độ mở kinh tế của Việt Nam. Ngược lại, bà nói rằng cần chú ý đến việc hiệp định sẽ giúp mở cửa các nước đối tác ở Châu Âu cho Việt Nam, nhờ đó Việt Nam sẽ có những điều kiện thuận lợi hơn để "thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường của họ, cũng như nhập khẩu các thiết bị, các công nghệ cần thiết cho sự cải thiện kinh tế của Việt Nam".
Bên cạnh mối lợi về mua công nghệ từ các nước EU, bà Lan lưu ý đến việc Việt Nam muốn cử người giao lưu, học hỏi từ EU để phục vụ mục tiêu phát triển dài hạn, một khía cạnh khác về lợi ích từ EVFTA. Bà nói thêm :
"Việt Nam muốn trao đổi con người nhiều hơn để những người trẻ Việt Nam có điều kiện học hành và tiếp nhận những công nghệ, kỹ năng quản trị các mặt tốt hơn từ các nước này. Nên tôi cho rằng lợi ích Việt Nam được hưởng từ các nước này cũng rất lớn với Việt Nam. Hoàn toàn không có chuyện là có hay không có [EVFTA] cũng không ảnh hưởng đến nến kinh tế Việt Nam".
Ghi nhận Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới nếu đo bằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP, nhưng tiến sĩ Nguyễn Quang A nói với VOA rằng điều đó không có nghĩa rằng EVFTA không còn cần thiết với Việt Nam. Ông nêu ra những lý do Việt Nam vẫn "rất cần" hiệp định :
"EVFTA sẽ làm cho xuất khẩu của Việt Nam hiệu quả hơn, rồi tạo công ăn việc làm, quan hệ giữa Việt Nam và EU sẽ tốt lên, và một điểm rất quan trọng là với hiệp định này, Việt Nam có thể tạo thế quân bình hay là cân bằng giữa các khối lớn với nhau trên thế giới, như Mỹ, EU, TQ, Nhật Bản, Hàn Quốc…"
Một nhận định khác được một số nhà quan sát đưa ra trong cuối tuần qua là trước khi có hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đã được Việt Nam phê chuẩn hổi tháng 11/2018, và hiệp định EVFTA mới bị hoãn, kinh tế Việt Nam vẫn đã tăng trưởng xấp xỉ 7%/năm, trong 4 năm gần đây, do đó, giờ đây việc hoãn EVFTA "có thể không gây ra thay đổi gì nhiều về tăng trường kinh của Việt Nam".
Đáp lại ý kiến này, tiến sĩ Nguyễn Quang A xem nó là một loại "ngụy biện nguy hiểm". Ông cảnh báo rằng sẽ "rất khó" để Việt Nam tiếp tục đạt mức tăng trưởng như trong quá khứ do thế giới trong tương lai biến động "khôn lường" và Việt Nam phải "đa dạng hóa" mối quan hệ kinh tế. Ông giải thích :
"Không nên nghĩ rằng năm ngoái được 7% thì sang năm cũng được 7%. Nếu mà nền kinh tế Trung Quốc chậm lại, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng đến cả thế giới. Muốn duy trì tăng trưởng cao, tôi nghĩ Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và EU là rất quan trọng".
Việt Nam cần phải đạt được tỉ lệ tăng trưởng khoảng 7% trong liên tục ba thập niên tới mới có thể trở thành nền kinh tế trung bình của thế giới với GDP là 1.000 tỷ đô la, theo ông Quang A.
Cũng nói về mục tiêu tương lai của Việt Nam, bà Phạm Chi Lan nhắc đến "khát vọng 2035", do chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới công bố hồi năm 2016, theo đó mục tiêu được đặt ra là sau hai thập niên nữa, Việt Nam trở thành nước có "thu nhập trung bình cao".
Để Việt Nam đạt được khát vọng đó, nữ chuyên gia kinh tế có chung quan điểm với tiến sĩ Quang A rằng EVFTA là một thành tố "vô cùng quan trọng", cùng với các hiệp định thương mại tự do với các đối tác khác.
Trong bối cảnh EVFTA mới bị hoãn lại, mà theo lời một số nghị sĩ Châu Âu thông báo qua các trang web của EU là do "trở ngại về nhân quyền" ở Việt Nam, bà Lan đưa ra lời tư vấn rằng Việt Nam nên nghiêm túc xem xét các khuyến nghị của EU ngõ hầu thúc đẩy việc phê chuẩn hiệp định.
Bà nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên xem những vấn đề về quyền của người lao động và nhân quyền do EU đặt ra là sức ép của ngoại quốc, ngược lại, họ nên coi đó là những nhu cầu tự thân, vì lợi ích của chính đất nước. Bà nói với VOA :
"Trước hết, đây là [những vấn đề] phù hợp với lợi ích lâu dài của toàn thể người dân Việt Nam. Vì mình mà cải cách, và nó cũng mang lại những lợi ích cơ bản cho người dân của mình. Nếu đặt vấn đề như vậy, sẽ thấy những yêu cầu cải cách là yêu cầu tự thân của Việt Nam. Và Việt Nam dù có sức ép hay đòi hỏi từ bên ngoài hay không thì cũng tự mình phải cố gắng để mà làm".
Từ vị trí còn là một nhà hoạt động vì tiến bộ, tiến sĩ Quang A, người từng điều trần trước ủy ban chuyên trách thương mại quốc tế của EU về EVFTA, cho rằng Việt Nam cần phải cải thiện nhân quyền.
Ông nói trong ngắn hạn, điều đó không ảnh hưởng đến "ghế của các lãnh đạo", trái lại, nếu cải thiện nhân quyền giúp thúc đẩy phát triển kinh tế, tính chính đáng của chính quyền Việt Nam càng được củng cố và sẽ có lợi cho họ.
Về dài hạn, tiến sĩ Quang A dự báo rằng nếu Việt Nam thực hiện các cam kết về các quyền lập hội, lập công đoàn độc lập, v.v… nêu trong các hiệp định EVFTA và CPTPP, việc "giữ ghế" của giới lãnh đạo Việt Nam có thể bị "thách thức" theo hướng có lợi cho toàn dân. Ông nói :
"Lúc đó họ [giới cầm quyền] phải tự thay đổi để cạnh tranh với những thế lực chính trị khác. Nếu đi theo con đường như thế là con đường đẹp nhất cho dân tộc, cho đất nước. Còn họ cứ cố gắng chỉ đặt quyền lợi, quyền lực của họ lên trên hết, và tìm mọi cách để trấn áp, để đàn áp thì sẽ mất cả".
Thời gian qua, chính phủ Việt Nam đã ra sức vận động và đặt nhiều hy vọng vào việc EVFTA sẽ được Hội đồng Châu Âu phê chuẩn vào tháng 2 và Nghị viện Châu Âu phê chuẩn vào tháng 3 để có thể có hiệu lực vào giữa năm 2019.
Nhưng trong tuần thứ tư của tháng 1, hai nghị sĩ EU đã đăng lên mạng đoạn video trong đó họ nói có "những lý do kỹ thuật" để hoãn thông qua EVFTA, đồng thời cũng đặt ra câu hỏi đầy ẩn ý rằng "Liệu điều đó có xảy ra không nếu [Việt Nam] có nhiều nỗ lực hơn trong việc cải thiện nhân quyền ?"
Trang web của Nghị viện Châu Âu hồi tháng 2/2018 dẫn kết quả một nghiên cứu đánh giá tác động của EVFTA, cho thấy Việt Nam là quốc gia hưởng lợi lớn nhất trong các nước ASEAN với mức tăng 35% về xuất khẩu, 15% về GDP và 13% về lương bổng cho người lao động, so với kịch bản không có EVFTA.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, tổng trị giá trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Liên hiệp Châu Âu (EU28) trong năm 2017 đạt 50,46 tỷ đô la, trong đó tổng lượng hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU đạt 38,27 tỷ đô la, chiếm gần 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Hiện tượng lạ
Có một hiện tượng lạ là trong cả hai báo cáo phô trương thành tích kinh tế và hoạt động ngành ngân hàng năm 2018 của Thủ tướng "Cờ Lờ Mờ Vờ" và Thống đốc Lê Minh Hưng, đã không hề phát ra con số cụ thể nào về quỹ dự trữ ngoại hối, dù vào giữa năm 2018 quỹ này còn được khoa trương là đã đạt đến mức kỷ lục khoảng 63 tỷ USD.
Dự trữ ngoại hối thực của Việt Nam còn bao nhiêu ? (Hình minh họa : Getty Images)
Vậy thực chất quỹ dự trữ ngoại hối hiện thời là bao nhiêu ? Hoặc còn lại bao nhiêu sau khi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã phải dùng một phần của quỹ này để đảo nợ nước ngoài, trả nợ nước ngoài, tiêu xài cho ngân sách chi thường xuyên của một đội ngũ công chức viên chức mà có đến "30% không làm gì cả nhưng vẫn lãnh lương", hoặc cho những nhu cầu khẩn thiết khác, kể cả chi phí quốc phòng mua vũ khí của Ấn Độ, Israel, Mỹ… để đối phó với nguy cơ Trung Quốc ?
Tại tổ chức Hội nghị Triển khai Nhiệm vụ Ngân hàng năm 2019 được tổ chức vào ngày 9 tháng Giêng, 2019, ông Lê Minh Hưng cho biết trong năm 2018 Ngân hàng Nhà nước đã mua ròng trên 6 tỷ USD để tăng dự trữ ngoại hối.
Như vậy, số đô la mua ròng của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2018 là thấp hơn đáng kể so với lượng mua ròng được Ngân hàng Nhà nước báo cáo trong hai năm trước – 2017 và 2016, với khoảng từ 10 đến 12 tỷ USD mỗi năm.
Hiện tượng Ngân hàng Nhà nước bị giảm số mua đô la trong năm 2018 từ các ngân hàng thương mại cổ phần và thị trường tự do, cộng hưởng hiện tượng giới quan chức nhà nước không dám nêu cụ thể lượng ngoại tệ của quỹ dự trữ ngoại hối cho thấy lượng đô la trôi nổi không còn nhiều như trước và đang có khuynh hướng xuống thấp hơn cứ sau mỗi năm.
Thành tích gần nhất và lớn nhất của Quỹ Dự trữ Ngoại hối – được công bố bởi Ngân hàng Nhà Nước vào giữa năm 2018 – là đã tích góp được hơn 60 tỷ USD, một con số lớn chưa từng thấy trong lịch sử quỹ này.
Nhưng lại chẳng có gì đáng khoe khoang thành tích "dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã trên 60 tỷ USD". Bởi cho tới nay, con số tổng này chẳng mang một ý nghĩa gì về thực chất khi Ngân Hàng Nhà Nước vẫn bưng bít hoàn toàn các phần cấu thành của nó gồm tiền mặt bằng đô la và các ngoại tệ mạnh khác, vàng, trái phiếu mua của chính phủ Mỹ…
Trong khi đó, thông tin từ Mỹ cho biết có đến 1/3 trong kho dự trữ ngoại hối của Việt Nam nằm dưới dạng trái phiếu mà chính phủ Việt Nam mua của chính phủ Mỹ, tức dự trữ ngoại hối thực của Việt Nam – ngay cả nếu đúng là con số hơn 60 tỷ USD như Ngân hàng Nhà nước công bố – chỉ còn 2/3 của con số đó.
Nhưng cho dù dự trữ ngoại hối thực của Việt Nam có đạt đến 60 tỷ USD tiền mặt chăng nữa, con số này mới chỉ đáp ứng cho khoảng 3 tháng nhập khẩu – mức tối thiểu phải thỏa mãn theo quy định quốc tế, trong khi Việt Nam còn phải dùng dự trữ ngoại hối để trả nợ nước ngoài và cho ngân sách vay mượn nhằm bù đắp "khó khăn túi thủng…".
Những đồng đô la cuối cùng
Vào thời kỳ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, nạn bội chi và vung tiền vô tội vạ đã khiến kho dự trữ ngoại hối cạn đi nhanh chóng, chỉ còn khoảng 30 tỷ USD theo báo cáo.
Đến thời thủ tướng mới là Nguyễn Xuân Phúc và thống đốc mới là Lê Minh Hưng, Ngân hàng Nhà nước đã có một chiến dịch âm thầm, miệt mài và đầy thủ đoạn để tung ra một núi tiền đồng nhằm gom tích đô la từ hệ thống ngân hàng và đô la trôi nổi ở chợ đen lẫn từ khu vực dân cư, khiến chỉ trong vài năm, kho dự trữ ngoại hối của nhà nước đã được báo cáo tăng gấp đôi và được xem là "thành tích kiến tạo" của chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng rất có thể, đó là những đồng đô la cuối cùng mà Ngân hàng Nhà nước có thể vét dễ dàng từ thị trường tự do. Từ tháng Năm và Sáu năm 2018, tình hình vét đô cho Quỹ Dự trữ Ngoại hối đã chậm hẳn lại, để cho đến nay không còn nghe báo cáo thành tích dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng phi mã.
Một hiện tượng đồng pha khác củng cố cho kịch bản lượng ngoại tệ trôi nổi giảm sút khá nhiều là lượng kiều hối của "khúc ruột ngàn dặm" chuyển về Việt Nam trong năm 2018 rất có thể đã không thỏa mãn nguyện vọng của Bộ Chính trị đảng muốn "kiều bào ta" gửi đô la về để cống hiến và cầm hơi cho chế độ.
500 tấn vàng trong dân vẫn giống như mỡ treo miệng mèo mà còn lâu hoặc chẳng bao giờ chính quyền "hốt" được". (Hình minh họa : Getty Images)
Kết thúc năm 2018 và rất tương đồng với cái kết của năm 2017, vẫn không có một con số thống kê tổng hợp nào về kiều hối quốc gia được phát hành bởi Tổng cục Thống kê và các cơ quan liên quan, mà chỉ có ước tính khu vực Sài Gòn nhận được khoảng 5 tỷ USD. Nếu tính theo tỷ lệ thông thường là Sài Gòn chiếm khoảng 60% tổng lượng kiều hối về Việt Nam thì số kiều hối thực về Việt Nam trong năm 2018 chỉ vào khoảng từ 8 đến 8,5 tỷ USD – giảm sút nghiêm trọng so với mức kỷ lục 13,2 tỷ USD vào năm 2015.
Dự trữ ngoại hối thực còn bao nhiêu ?
Một lần nữa, trong nhiều lần kể từ năm 2011 đến nay, Chính Phủ Nguyễn Xuân Phúc và hai cơ quan tham mưu là Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phải tính đến việc gom 500 tấn vàng trong dân, mà rất có thể sẽ được quy đổi sang đô la để trả nợ nước ngoài. Cùng lúc, một chuyên gia Ngân hàng Thế giới, không biết lấy thông tin từ đâu, đã "chỉ điểm" cho chính phủ Việt Nam rằng trong dân Việt còn tới 60 tỷ USD nhàn rỗi – hàm ý tha hồ mà vét…
Và một lần nữa, chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và hẳn phải nhận được sự đồng thuận rất cao trong "tập thể Bộ Chính trị" có thể đã phải tính đến kế vét đô bằng cách ép dân phải bán đô la cho ngân hàng chứ không được giao dịch trên thị trường tự do, để sau đó các ngân hàng phải bán lại đô la cho Ngân hàng Nhà nước theo "giá nội bộ", để Quỹ Dự trữ Ngoại hối có tiền trả nợ cho nước ngoài vào năm 2018 và những năm sau – có thể lên tới từ 10 đến 15 tỷ USD nợ phải trả mỗi năm.
Hiện nay, con số nợ nước ngoài của Việt Nam (chỉ tính riêng nợ của chính phủ và do chính phủ bảo lãnh mà chưa tính đến số tự vay tự trả của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) đã lên đến $105 tỷ, xấp xỉ 50% GDP…
Hai động thái "vét" vàng và ngoại tệ trên xảy ra trong bối cảnh các nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và kiều hối của "khúc ruột ngàn dặm" đều khá bi đát. Từ năm 2014, chính thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi.
Trong khi đó, 500 tấn vàng trong dân vẫn giống như mỡ treo miệng mèo mà còn lâu hoặc chẳng bao giờ "hốt" được". Bởi cho tới nay, vẫn chưa thấy bất kỳ một dấu hiệu nào từ phía Ngân hàng Nhà nước trưng ra sự bảo đảm về việc Ngân hàng Nhà nước phải có những giải pháp thật sự an toàn cho người gửi vàng. Hàng loạt vụ đổ bể ở nhiều ngân hàng và hiện tượng "tiền tiết kiệm bốc hơi" xảy ra trong những năm gần đây đã khiến cho dân chúng mất đi đáng kể niềm tin vào giới ngân hàng. Trong tình thế đó, nhiều người dân thà chôn giấu vàng dưới gầm giường, thay vì gửi vào ngân hàng mà không thể chắc chắn là vàng của mình sẽ "không cánh mà bay".
Xét theo logic bắt buộc phải trả nợ nước ngoài hàng năm của chính phủ Việt Nam, quỹ dự trữ ngoại hối hiện thời không thể "đạt kỷ lục hơn 60 tỷ USD", mà có thể chỉ vào khoảng 30 tỷ USD như cái thời bị giảm nghiêm trọng vào năm 2015 do Việt Nam phải trả nợ nước ngoài đến 20 tỷ USD cho năm đó.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 27/01/2019