Cú đổ bệnh đột ngột của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng ngay tại vùng ‘căn cứ địa cách mạng gia tộc Nguyễn Tấn’ vào ngày 14/4/2019 - trùng với ngày sinh nhật của Trọng - rất có thể đã phá vỡ một kế hoạch (nếu có) của ông Trọng đi Trung Quốc để dự Hội nghị Một vành đai, Một con đường (BRI - Belt and Roand Initiative) do Bắc Kinh tổ chức .
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.
Choáng, ổn hay tai biến ?
Không bao lâu sau cơn chấn động ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng bị đột ngột cấp cứu hồi sức ở Bệnh viện đa khoa Kiên Giang và liền sau đó được đưa về Bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn vào ngày 14/4/2019, một số trang facebook của những người ‘lề đảng’ và giới dư luận viên trấn an dư luận : "Sau khi kết thúc buổi làm việc trưa ngày 14/4, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã bị choáng, do thời tiết thay đổi, miền Tây Nam bộ nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng đang vào đợt nắng nóng kỷ lục… Trong đó riêng việc vừa đi thị sát ngoài trời không mũ nón dưới cái nhiệt độ 38 độ rồi lại vào thị sát trong xưởng chế biến tôm với nhiệt độ dưới 15 – 20 độ C… Tổng bí thư, Chủ tịch nước nay tuổi đã cao, việc nước gánh nặng trên vai nên chuyện bị choáng, ảnh hưởng sức khỏe là chuyện bình thường…", ‘Sức khỏe Cụ Tổng vẫn ổn’, thậm chí còn ‘Cụ Tổng đã xuất viện’, đồng thời lên án ‘các thế lực phản động và thù địch’ đã xuyên tạc về "Người lãnh đạo cao cấp kính yêu của Đảng và Nhà nước ta"…
Nhưng nếu Nguyễn Phú Trọng chỉ bị choáng thông thường, tại sao Bệnh viện Kiên Giang lại không xử lý được mà phải chuyển về Chợ Rẫy ở Sài Gòn - bệnh viện thuộc loại ‘tuyến trên’ mà chỉ đưa từ tỉnh về đây những trường hợp trầm trọng và nguy hiểm ?
Một khi đã phải chuyển Nguyễn Phú Trọng về Sài Gòn, tại sao không đưa về Bệnh viện Thống Nhất là nơi điều trị cho cán bộ trung cao cấp mà lại phải chuyển về Chợ Rẫy là bệnh viện ‘ngoài’ và có điều kiện đảm bảo an ninh cho giới chóp bu mỏng hơn nhiều so với Bệnh viện Thống Nhất ?
Và tại sao không chuyển thẳng Nguyễn Phú Trọng từ Bệnh viện Kiên Giang ra Bệnh viện 108 ở Hà Nội - nơi điều trị cán bộ cao cấp - mà lại để ở Chợ Rẫy ?
Cần chú ý, Chợ Rẫy là bệnh viện nổi tiếng về chuyên khoa điều trị chấn thương sọ não và thần kinh, trong khi Thống Nhất bị xem là yếu hơn nhiều, thậm chí còn xuất hiện giai thoại dân gian về ‘mổ khuyến mãi’ (phải mổ đi mổ lại) ở bệnh viện này.
Chính vì thế, việc Nguyễn Phú Trọng được chuyển thẳng từ Kiên Giang về Chợ Rẫy mà không phải Thống Nhất hay Bệnh viện 108 cho thấy bệnh tình của ông Trọng không phải là ‘choáng’, mà rất có thể ông ta đã bị đột quỵ dạng tai biến mạch máu não. Một trong những yêu cầu cao đối với loại bệnh này là cực kỳ hạn chế di chuyển bệnh nhân để tránh tổn thương và làm vỡ mạch máu não.
Về thực chất, một cơn bạo bệnh đến với Nguyễn Phú Trọng vào lúc này sẽ khiến xáo trộn toàn bộ chính trường Việt Nam và ảnh hưởng đến cả quan điểm và quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với Trung Quốc, Hoa Kỳ và cả Liên minh Châu Âu.
Trung Quốc hả hê…
Trước khi xảy ra vụ ‘Nguyễn Phú Trọng bị choáng’, một nguồn tin thường có tin nội bộ và khá đáng tin cậy đã cho biết Nguyễn Phú Trọng sẽ đi Trung Quốc từ ngày 24 đến 28 tháng 4 năm 2019 để dự hội nghị Sáng kiến Vòng đai Con đường (Belt and Road Initiative- BRI). Theo đó, Nguyễn Phú Trọng sẽ một lần nữa ‘đi Trung Quốc trước khi đi Mỹ’, mang lại một sự lặp lại đến u tối cái dĩ vãng ‘chầu thiên triều’.
Trước đó nữa, ‘đồng chí Nguyễn Phú Trọng sẽ có chuyến công du Hoa Kỳ’ - Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận.
Chuyến đi trên có thể diễn ra vào mùa hè năm 2019 và đặc biệt quan trọng với ngân sách của chính thể Việt Nam và với người vừa chạm ghế chủ tịch nước chưa được bao lâu.
Nếu sau cuộc cuộc gặp Trump - Trọng sắp tới tại Washington hiện ra một văn bản được ký giữa hai bên như kiểu’ Hiệp ước tương trợ quốc phòng’ mà Mỹ đã ký với Philippines, hoặc ít ra cũng là một bản ghi nhớ về việc sẽ tiến hành chuyện đó, và hơn nữa là sự chuẩn bị cho ‘quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Mỹ - Việt’, Bộ Chính trị ở Hà Nội sẽ có thể như ‘sống lại’ để nhảy vào khai thác mỏ Cá Voi Xanh mà không còn phải mắt trước mắt sau trước thói đe nẹt của ‘đồng chí bốn tốt’.
Trong bối cảnh ngân sách Việt Nam đang nhanh chóng cạn kiệt và đặc biệt đang quá thiếu ngoại tệ để trang trải nợ quốc tế – lên tới 10 - 12 tỷ USD/năm – và để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ các nước, đồng thời phải bảo đảm dự trữ ngoại hối, 60 tỷ USD dự kiến khai thác được từ dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam là Cá Voi Xanh (con số dự đoán mới nhất được nêu ra bởi chính quyền Việt Nam, gấp đến 3 lần con số dự đoán trước đây là 20 tỷ USD) - được xem là giá trị rất đáng để giới lãnh đạo Việt Nam tỏ một chút can đảm trước "đồng chí tốt" Trung Quốc.
Nhưng nhiều dấu hiệu cho thấy Nguyễn Phú Trọng có thể đang rơi vào tình cảnh bệnh nhân bất đắc dĩ vì chứng xuất huyết não và thậm chí còn có thể bị liệt nhẹ, đang đe dọa không chỉ chuyến đi Trung Quốc mà còn cả chuyến đi Mỹ của ông ta.
Nếu Trọng không kịp phục hồi sức khỏe trong những tháng tới thì đương nhiên ông ta không thể đi Washington gặp Trump với tư cách một nguyên thủ quốc gia - điều mà hẳn Trọng rất lấy làm tự hào vì ‘mình có như thế nào thì người ta mới đón tiếp như thế chứ’, đúng theo tâm trạng hồ hởi bột phát mà ông ta đã thể hiện sau khi được Tổng thống Mỹ Barak Obama đặc cách tiếp tại Phòng Bầu dục vào tháng 7 năm 2015.
Và nếu Trọng không thể đi Mỹ vào mùa hè này, chắc chắn Trung Quốc sẽ cảm thấy hả hê nhất, bởi Việt Nam sẽ không có cơ hội để bàn với Mỹ về việc hợp tác với Tập đoàn dầu khí Hoa Kỳ ExxonMobil về khai thác mỏ Cá Voi Xanh, cũng chưa thể bàn sâu hơn về những nội dung ‘quan hệ đối tác chiến lược’ với Mỹ mà từ đó Việt Nam có thể chính thức tham gia vào khối liên minh quân sự Đông Bắc Á - một khối gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc đối trọng với Trung Quốc tại Biển Đông.
Cần nhắc lại, ngay trước khi có tin về ‘Trọng đi Trung trước’, Trung Quốc đã tung ra động thái sẽ đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Dongfang 13-2 CEPB vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông vào ngày 10/04/2019.
Logic của những dự kiện lịch sử cận đại trong quan hệ Trung - Việt cho thấy chẳng cần hoài nghi rằng sự xuất hiện của Hải Dương 981 trước đây và Dongfang 13-2 CEPB vào năm 2019 là những động tác dằn mặt đối với giới lãnh đạo cao cấp của Việt Nam trong thế đu dây dễ lộn cổ giữa Trung Quốc và Mỹ.
Chiến thuật ép và lấn từng bước của Trung Quốc là quá dễ nhìn ra : trước chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng vào mùa hè năm 2019, tùy thuộc vào thái độ của Trọng với Tập ra sao mà Dongfang 13-2 CEPB sẽ nằm yên ở vùng chồng lấn biển hoặc lao thẳng vào hải phận Việt Nam theo đúng cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014.
Có từ bỏ quyền lực ?
Liệu Nguyễn Phú Trọng có giao phó cho một quan chức nào khác dẫn đầu đoàn Việt Nam đi Trung Quốc dự Hội nghị BRI và cả đi Mỹ ?
Với Hội nghị BRI, khả năng nhiều sẽ là nhân vật số 2 trong đảng - Thường trực ban bí thư Trần Quốc Vượng và là người được Trọng tin cậy nhất hiện thời - có thể thay thế Trọng đi Bắc Kinh. Nhưng chuyến đi này không quá quan trọng với Việt Nam.
Chuyến đi quan trọng hơn hẳn sẽ là đi Washington gặp Trump. Trong trường hợp đến lúc đó mà Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa thể phục hồi sức khỏe, thậm chí bệnh tình của ông ta còn tồi tệ hơn, việc đi Mỹ sẽ không còn tùy thuộc vào việc Trọng phân công cho một ai đó trong Bộ Chính trị đảng Việt Nam, mà phụ thuộc vào việc Trump có đưa ra lời mời cho nhân vật thay thế hay không, hoặc Trump sẽ gác lại cuộc gặp với Trọng hoặc với nguyên thủ quốc gia mới của Việt Nam vào năm sau - 2020.
Kịch bản Trump vẫn mời một chóp bu Việt Nam mà không phải Trọng đến Washington vào mùa hè năm 2019 có thể chỉ xảy ra với điều kiện nhân vật chóp bu đó phải có thực quyền để quyết định ngay những chủ đề được thống nhất trong cuộc hội đàm Mỹ - Việt, đồng nghĩa với tình trạng bệnh tình của Nguyễn Phú Trọng suy yếu đến mức ông ta phải tạm ủy quyền cho một quan chức khác, hoặc Trọng ‘dũng cảm’ từ bỏ hẳn quyền lực của ghế chủ tịch nước và cả ghế tổng bí thư.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 17/04/2019
Trong nhiều năm qua, giới quan chức cộng sản ở Việt Nam không chỉ khai thác tối đa những điều kiện thuận lợi trong chương trình EB-5 (đầu tư tối thiểu 500.000 USD để có thẻ xanh) của Mỹ, mà gần đây còn bắt đầu xuất hiện hiện tượng một số quan chức tham nhũng "nhảy xổ" vào một phương thức đào thoát mới khỏi chế độ.
Vũ Đình Duy đã "ra đi tìm đường cứu nước" nhưng cho tới nay "công an Việt Nam giỏi nhất thế giới" vẫn không làm sao tìm ra và lôi về được.
Tị nạn chính trị !
Rất có thể, vụ Trịnh Xuân Thanh trốn sang Đức vào nửa cuối năm 2016 và sau đó làm hồ sơ xin tị nạn chính trị ở Đức khá "thành công", cùng một số vụ việc khác như Đỗ Đình Duy, Lê Chung Dũng, Phan Văn Anh Vũ… đã khơi nguồn cảm hứng lớn để nhiều quan chức tham nhũng khác đi theo con đường đó, thậm chí còn có thể tự biến thành… "nhà hoạt động nhân quyền bị đàn áp".
Tình hình trên diễn ra trong bối cảnh "lò" của Nguyễn Phú Trọng đang rừng rực cháy ở Việt Nam, đầy triển vọng biến năm 2019 và cả vài năm sau đó thành một chiến trường "truy sát tham nhũng" mà sẽ khiến không chỉ quan chức cấp trung ương mà cả nhiều quan chức cấp địa phương bị tống vào "lò".
Gần đây nhất vào tháng 3/2019, một thiếu tá quân đội Việt Nam là Lê Quang Hiếu Hùng đã gọi cho đài VOA Việt ngữ, cho biết ông ta hiện đang có quốc tịch Grenada ở vùng Caribe, nhưng bị chính phủ Việt Nam yêu cầu cảnh sát Cuba bắt và đang bị giam ở nhà tù La Condesa.
Trước đó, Lê Quang Hiếu Hùng là trưởng phòng kinh doanh của chi nhánh Đầu tư Xây dựng Miền Nam, thuộc Tổng công ty Lũng Lô, dưới trướng của Đại tá Trần Văn Đồng, cựu phó tổng giám đốc Tổng công ty Lũng Lô.
Vào tháng 6/2018 Đại tá Đồng bị Bộ Quốc phòng tiến hành thanh tra về những sai phạm với vai trò phó tổng giám đốc Tổng công ty Lũng Lô. Sau đó, Lê Quang Hiếu Hùng đã bị Cơ quan Điều tra hình sự các tổ chức sự nghiệp, Bộ Quốc phòng, ra lệnh truy nã theo một quyết định đề ngày 22/10/2018, với tội danh "Sản xuất, buôn bán hàng giả, quy định tại Điều 192 Bộ luật hình sự".
Nhưng trong cuộc gọi điện cho đài VOA, Thiếu tá Lê Quang Hiếu Hùng đã không hề chứng minh rằng vụ việc của anh ta là "việc chính trị", trong khi lại có khá nhiều dấu hiệu cho thấy Hùng dính vào một vụ làm ăn phi pháp vốn đầy rẫy ở Việt Nam.
Chỉ 5 ngày sau cuộc điện đàm trên, Thiếu tá Lê Quang Hiếu Hùng đã bị phía Cuba cho dẫn độ về Việt Nam để bàn giao cho Cơ quan Điều tra hình sự thuộc Bộ Quốc phòng.
Chi tiết đáng chú ý là vụ việc được coi là "dẫn độ thành công" trên đã được công bố trên mặt báo chí nhà nước Việt Nam, trở thành một trong số hiếm hoi vụ dẫn độ được công khai, nhưng khác hẳn vụ "Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú" khi vụ này đã bị nhà nước Đức thẳng thừng tố cáo là do mật vụ Việt Nam bắt cóc Thanh ngay tại Berlin vào tháng 7/2017.
Lê Quang Hiếu Hùng đang biến thành một trong những vật thí nghiệm đầu tiên cho chiến dịch "Săn Cáo" của "Tổng Chủ" Nguyễn Phú Trọng – nếu có thể tạm gọi cái tên của chiến dịch này là như thế.
Vậy "Săn Cáo" của ông Trọng đã được ấp ủ và hình thành như thế nào ?
Rập khuôn Trung Quốc
Có lẽ từ tháng 6/2016, khi lần đầu tiên phát lệnh "việc cần làm ngay" – như một động tác nhái lại "Những việc cần làm ngay" của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh ba chục năm trước đó, Nguyễn Phú Trọng (khi đó còn là tổng bí thư) đã ấp ủ một mưu đồ lớn : bắt đám quan chức tham nhũng phải "ói ra" để thu hồi tài sản tham nhũng mà do đó có thể giúp bù trám phần nào cho ngân sách đảng đang bị hội chứng hộc rỗng do nạn tham nhũng vô giới hạn và chi tiêu hoang tàng quá độ.
Khi đó, báo đảng đặc biệt mô tả chủ trương "thu hồi tài sản tham nhũng", bởi thực tế là cho đến nay tỷ lệ thu hồi tài sản qua các vụ án tham nhũng mới chỉ đạt được từ 8-10%, quá thấp so với mức mà Trọng cần có để duy trì chế độ đảng trị của ông ta.
Một năm sau đó, Trọng khởi xướng chủ trương "kiểm tra tài sản quan chức", với số lượng quan chức bị kiểm tra lên tới 1.000 người, bao gồm các ủy viên Bộ Chính Trị, 200 ủy viên Trung ương và khoảng 800 ủy viên Thường vụ cấp tỉnh và thành phố.
Khi đó, chủ trương này đã khiến rất nhiều biệt thự, tài khoản ngân hàng và vàng bạc kim cương chôn giấu của giới quan chức giàu nứt vách đổ tường ở Việt Nam phải chịu cảnh mất ngủ.
Tuy nhiên sau một thời gian thử nghiệm, chủ trương trên có nguy cơ lặng lẽ chết yểu vì vấp phải phản ứng của quá nhiều quan chức nổi chìm tài sản đang trụ vững ngay trong bộ máy đảng của Trọng.
Một năm tiếp theo, Tổng bí thư Trọng dò dẫm thêm một bước : "Trung ương dự kiến tăng thẩm quyền cho ủy ban kiểm tra các cấp, nhất là cấp huyện trở lên, có thể đề nghị cơ quan chức năng cấm xuất cảnh, phong tỏa tài sản nếu đảng viên có dấu hiệu tham nhũng để phục vụ điều tra, ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản".
Cơ quan chức năng này lại là một thẩm quyền quan trọng của Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương của Đảng cộng sản Trung Quốc, được Tập Cập Bình giao cho Vương Kỳ Sơn mà do đó đã đưa cơ quan kiểm tra kỷ luật này vượt mặt Bộ Công an để trở thành cơ quan có quyền uy thuộc loại ghê gớm nhất Trung Hoa đương đại. Thậm chí, một số nguồn tin của báo chí quốc tế cho biết Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương còn có nhà tù riêng.
Đến lúc đó, Nguyễn Phú Trọng và nhân vật quyền lực thứ hai sau ông ta là Trần Quốc Vượng có vẻ muốn "làm thật", muốn triển khai một chiến dịch "nhốt cáo" thực sự, thay cho chiến dịch "săn cáo" vẫn chẳng có kết quả gì đáng tự hào cho tới khi đó.
"Săn Cáo" là biệt danh của chiến dịch truy tìm và dẫn độ quan chức tham nhũng Trung Quốc lẩn trốn ở nước ngoài, do Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn trực tiếp phụ trách. Một đội chuyên gia săn lùng hàng trăm người hoặc hơn có kinh nghiệm điều tra, am hiểu luật pháp cơ bản của quốc tế, giỏi võ thuật và ngoại ngữ đã được tổ chức để hoạt động tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Úc…
Cho tới nay, Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương của Trung Quốc đã tổ chức khá thành công chiến dịch "Săn Cáo" và lôi về hàng trăm quan chức, đại gia tham nhũng lẩn trốn ở nước ngoài. Đầu năm 2017, Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương lần đầu tiên công bố danh sách khoảng 1.000 quan chức mà trong đó chính quyền Trung Quốc biết rõ 30% trong số đó đang ở nước nào và làm gì.
Triển khai chủ trương "Săn Cáo" với độ trễ sau Trung Quốc khoảng 5 năm, cho tới nay Việt Nam mới chỉ đạt được thành tích "Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú" (trong khi nhà nước Đức thẳng thừng cáo buộc mật vụ Việt Nam đã bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin, và hiện nay Đức đang mở một phiên tòa lớn xử vụ bắt cóc này).
Trong khi đó, những nhân vật cùng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với Trịnh Xuân Thanh là Lê Chung Dũng, Vũ Đình Duy đều đã "ra đi tìm đường cứu nước" nhưng cho tới nay "công an Việt Nam giỏi nhất thế giới" vẫn không làm sao tìm ra và lôi về được. Thậm chí cả một quan chức phụ trách một chi nhánh Ngân hàng EximBank (Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam) chiếm đoạt hơn 200 tỷ đồng của khách hàng và trốn ra nước ngoài, bị công an Việt Nam truy nã quốc tế nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy tung tích nào.
Giới quan tham có dám… "bất đồng chính kiến" ?
Sau khi Hoa Kỳ thông báo tạm ngừng cấp thị thực EB-5 cho người Việt Nam từ tháng 3/2018, đã xuất hiện thông tin nhiều quan chức giàu sụ ở Việt Nam phải tính toán một phương cách khác : thay vì tìm mọi cách "nhập khẩu" vào Mỹ như trước đây, họ chuyển sang "địa bàn Tây Âu", cho dù số phận của họ ở Châu Âu sẽ rủi ro hơn ở Mỹ nếu "tổng tịch" của họ quyết định mở một chiến dịch "Săn Cáo" như Tập Cận Bình đã tổ chức để lôi cổ những kẻ tham nhũng về nước quy án.
Dự liệu là sau trường hợp đào tẩu và xin tị nạn chính trị không thành công của thiếu tá quân đội Lê Quang Hiếu Hùng, sẽ có thêm những quan chức Việt "ra đi tìm đường cứu nước" ở xứ "tư bản giãy chết", mà nếu phương thức lo thẻ xanh không thật an toàn thì chắc chắn họ sẽ không ngần ngại đào bới một lý do chính trị nào đó để tị nạn chính trị.
Nhưng muốn được các quốc gia phương Tây hoặc Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc chấp nhận tư cách tị nạn chính trị, những quan chức Việt này lại phải chứng minh được là họ có những hoạt động bất đồng hoặc đối lập với chính quyền cộng sản ở Việt Nam và đã bị đàn áp. Làm thế nào để họ có thể "kiến tạo" được một hồ sơ đắt giá đến thế ? Đó là điều quá khó đối với giới quan chức đã quen phá tàn, ăn mạt.
Hoặc nếu không thể làm giả được hồ sơ "bất đồng chính kiến", liệu những quan chức tham nhũng có dám đứng lên đối kháng với chính quyền như giới đấu tranh dân chủ nhân quyền vẫn cương cường ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 14/04/2019
Nhân tố ‘trở cờ’ với Đảng
Chẳng có gì là vĩnh viễn. Thành tích thu thuế cũng thế. Thuế bất động sản - từng là niềm tự hào của nền ngân sách độc đảng ở Việt Nam vào giai đoạn 2007 - 2011 và 2017 - 2018, lại đang biến thành nhân tố ‘trở cờ’ mà khiến ngân sách này buộc phải căng thẳng tính toán về cơ may còn lại cho chân đứng chính trị đang rã dần của nó.
Khu dân cư tại đô thị mới Thủ Thiêm trong tương lai. Ảnh: CAO THĂNG
3 tháng đầu năm 2019 dù trôi qua với kết quả tạm thời yên tâm dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam về thu ngân sách vẫn ‘tăng cao’ so với cùng kỳ năm 2018, nhưng một ‘tin mừng’ bắt buộc phải xảy ra cũng kèm theo : nguồn thu từ tiền sử dụng đất liên tục giảm sâu.
Một quy luật biến thiên đã lộ ra : cho dù cố gắng ‘thu cùng diệt tận giai đoạn cuối’ đối với dân chúng và doanh nghiệp, nhưng một số nguồn thu đã mang tính bất ổn định và đang gần với sự thật trần trụi thu được chăng hay chớ.
Sài Gòn - nơi được xem là bò sữa’ về thu thuế của Bộ Chính trị, cũng là thành phố có nguồn thu bất động sản lớn nhất bởi thị trường nhà đất nơi đây đã được các nhóm đầu cơ cá mập ‘đánh lên’ suốt từ năm 2017 đến gần đây, trong 3 tháng qua có số thu thuế bất động sản ước 1.308 tỷ đồng, chỉ đạt 13,08% dự toán và giảm đến 74,85% so cùng kỳ. Đó là những con số cực kỳ đáng báo động cho tương lai thu ngân sách của chế độ ‘ăn của dân không chừa thứ gì’.
Thật ra, câu chuyện ‘giảm thu ổn định’ trên đã hình thành cái logic của nó từ vài năm trước nhưng chính phủ cùng các cơ quan tuyên giáo đã cố ém nhẹm không cho dư luận biết.
Thành tích của ‘Bộ Thắt Cổ’
Trong một cuộc báo cáo cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào trung tuần tháng Năm năm 2018, chính bộ trưởng "Bộ Thắt Cổ" (một tục danh mà người dân biệt đãi cho Bộ Tài chính) – ông Đinh Tiến Dũng – đã phải thừa nhận một sự thật trần trụi và tàn nhẫn trong cơ cấu thu ngân sách của chính thể độc đảng ở Việt Nam vào năm 2017 : dù tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2017 vượt 49,16 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội, vượt 76,48 nghìn tỷ so với dự toán, nhưng số tăng thu đạt được chủ yếu không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà là nhờ tăng thu từ tiền sử dụng đất (61,58 nghìn tỷ đồng so với dự toán), và một phần khác từ thu cổ tức và lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp nhà nước (15,19 nghìn tỷ đồng), tăng thu từ dầu thô (11,28 nghìn tỷ đồng so với dự toán).
Thành tích của ‘Bộ Thắt Cổ’ là trên cả tàn nhẫn : vào năm 2017 chính bộ này đã tham mưu cho chính quyền âm thầm, hoặc lén lút tăng thuế sử dụng đất phi nông nghiệp gấp 3-4 lần mà không thông báo trước cho dân. Thu nghiến một lần và bất chấp tiếng kêu trong họng của những người phải cắn răng đóng thuế.
Cũng bởi trong cơ cấu thu ngân sách quốc gia, tiền thuế sử dụng đất chiếm khoảng 9%, tương đương khoảng 100 ngàn tỷ đồng. Khi đồng loạt tăng thuế sử dụng đất ở các tỉnh thành, ngân sách đã "móc túi" dân gấp ít ra vài ba lần con số trăm ngàn tỷ đó.
Nhưng đến tháng Mười năm 2018, một bản báo cáo của cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được công bố đã bổ sung cho lo ngại của Đinh Tiến Dũng khi phải thừa nhận rằng phần thu cân đối ngân sách nhà nước 2018 tuy có thể đạt 1.358,4 nghìn tỷ đồng – tức tăng 3% so với dự toán, nhưng đó là số tăng thấp nhất so với kết quả thực hiện dự toán trong 4 năm trở lại đây.
Báo cáo này cũng cho biết số thu vượt dự toán chủ yếu từ các nguồn thu về nhà, đất không ổn định (hay còn được xem là "cấu trúc thu không bền vững").
Nỗi lo lắng trên của cơ quan Kiểm toán Nhà nước cũng chính là tâm trạng lo sợ khôn nguôi của chính thể độc đảng ở Việt Nam : nếu trong năm 2019 và những năm sau đó mà hai nguồn thu này vẫn "không ổn định" theo chiều hướng suy giảm chứ không tăng vọt ồn ào như năm 2017 và 2018 – đặc biệt đối với thu thuế buôn bán nhà đất, ngân sách nhà nước và ngân sách đảng sẽ tìm đâu ra nguồn mới để bù đắp cho cái miệng rộng ngoác như hàm cá mập của quốc nạn bội chi ngân sách, chi thường xuyên ‘ổn định’ đến trên 70% tổng chi ngân sách cho đội ngũ 3 triệu công chức viên chức mà trong đó có đến 30% ăn không ngồi rồi, chi xài lãng phí vô tội vạ cùng quốc nạn tham nhũng mà đang nhấn chìm xã hội Việt Nam xuống tầng dưới cùng của địa ngục thời hiện đại ?
Ngày 25/03/2019, đã có thêm một xác nhận từ giới nghiên cứu khoa học về triển vọng thâm hụt nguồn thu bất động sản, tại hội thảo khoa học và công bố ấn phẩm "Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2018 : Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng".
Về cơ cấu ngân sách, một chuyên gia là phó giáo sư, tiến sỹ Tô Trung Thành chỉ ra trong thu nội địa, có nhóm khoản thu giữ vai trò quan trọng là thu từ nhà đất. Nguồn thu này chỉ chiếm tỷ lệ trung bình là 9,6% tổng thu nội địa giai đoạn 2006-2011 đã tăng lên trung bình 11,6% giai đoạn 2012-2014. Tới giai đoạn 2016-2018, tỷ lệ trên đã lên tới 13,8%. Tuy nhiên, vấn đề là, chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm này là khoản thu có tính chất một lần là thu từ giao quyền sử dụng đất (chiếm trung bình 8,15% tổng thu ngân sách giai đoạn 2015-2018). Trong khi ấy, thuế từ nhà đất chỉ chiếm 0,2% tổng thu ngân sách Nhà nước. Việc phụ thuộc lớn và các khoản thu không bền vững như thu từ giao đất nói trên theo nhóm tác giả là một lý do khiến ngân sách ngay lập tức bị ảnh hưởng nếu thị trường bất động sản ảm đạm.
Độc đảng sẽ sống ra sao ?
Thị trường bất động sản đã từng có những thời hoàng kim mang lại tỷ suất lợi nhuận gấp từ 2 - 3 lần cho giới đầu cơ cá mập và nhỏ lẻ, và cũng ‘kiến tạo’ tiền vào như nước cho con cá mập khổng lồ và mang tính đầu cơ chính trị cao nhất : ngân sách.
Từ năm 2017, thị trường bất động sản ở Việt Nam được giới đầu cơ cá mập lẫn đầu cơ nhỏ lẻ "đánh lên" ở nhiều tỉnh thành. Ở miền Nam như Sài Gòn, Đồng Nai, Long An, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu. Ở miền Trung như Đà Nẵng. Ở miền Bắc như Hà Nội, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hải Phòng. Đặc biệt là "đánh lên" dữ dội ở ba đặc khu kinh tế tương lai là Vân Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang)...
Từ đầu năm 2017 đến nay, mặt bằng giá đất ở một số nơi, đặc biệt là những ‘đặc khu tương lai’, được đẩy lên cao đến mức hoang tưởng – hàng chục lần, thậm chí hàng trăm lần.
Đó cũng là bối cảnh mà có đến 80-90% kẻ mua người bán đất là nhằm mục đích đầu cơ chứ không phải để ở. Hồ sơ mua bán đất chồng chất như núi ở các văn phòng đăng ký đất đai và cơ quan thuế, mà do đó đã giúp cho Tổng Cục Thuế hai năm bội thu.
Nhưng niềm vui thu thuế không phải cứ kéo dài mãi mãi. Cũng như những cơn sóng bất động sản vào những năm 2000 và giai đoạn 2007-2011 đều có điểm kết thúc bi kịch của nó, phong trào đầu cơ bất động sản từ năm 2017 kéo dài đến nay đã đẩy mặt bằng giá đất quá cao so với giá trị thực và tạo nên một quả bom khổng lồ chỉ chực chờ phát nổ vào năm 2019 và những năm sau đó.
Bây giờ thì dự báo ‘nếu thị trường bất động sản ảm đạm’ của giới nghiên cứu khoa học thậm chí còn thua xa hiện thực trần trụi : từ quý cuối cùng của năm 2018 đến nay, bất chấp một chiến dịch dùng báo chí nhà nước để PR cho đất nền và căn hộ cao cấp ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Phú Quốc, Vân Đồn…, thị trường nhà đất những nơi này vẫn không thể ngóc đầu lên nổi. Nguồn cơn thực sự của tình trạng ủ ê này là trước đó giá đã đội lên quá cao và chỉ còn chờ những kẻ ‘trâu chậm uống nước đục’ biến thành tuẫn tiết lao vào ‘ôm bom’.
Giờ đây, một dấu hỏi quá khốn quẫn đối với nền ngân sách ăn bám của nhà nước Cộng Sản đang hiện hình như một bóng ma : Nếu quả bom bất động sản nổ, hoặc không nổ đột ngột thì sẽ phải xì hơi dần, chắc chắn mật độ thương vụ mua bán đất đai sẽ giảm dần hoặc giảm mạnh, kéo theo số thu thuế từ giao dịch đất đai sẽ giảm đáng kể trong những năm sau. Khi đó, ngân sách sẽ khó còn có nguồn thu tăng thêm từ tiền đất lên đến 60.000 – 70.000 tỷ đồng/năm, trong khi nguồn thu từ 3 khối kinh tế đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn ngày càng tệ trong thời buổi kinh tế ngập ngụa suy thoái.
‘Còn bò sữa’ Sài Gòn đang là một minh chứng rất cụ thể và mất ngủ cho chính thể độc đảng, khi nguồn thu nhà đất trong 3 tháng đầu năm 2019 lao dốc quá mạnh so với cùng kỳ năm trước. Giá được tuyên giáo là ‘tăng từng ngày’, nhưng thanh khoản thì… mất hút.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 13/04/2019
Vì sao Trung Quốc vừa tung ra động thái sẽ đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Dongfang 13-2 CEPB vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông vào ngày 10/4/2019 trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ - chuyến đi có thể diễn ra vào mùa hè năm 2019?
Một dàn khoan Trung Quốc gần tỉnh Sơn Đông. Hình minh họa.
Cú khiêu khích mới
Thông tin về Dongfang 13-2 CEPB được phát bởi Tân Hoa Xã ngày 7/4/2019 - địa chỉ đã tung tin về cuộc xâm lấn Biển Đông của giàn khoan Hải Dương 981 vào năm 2017.
Giàn nổi Dongfang 13-2 CEPB nặng 17.247 tấn, tương đương với 10 nghìn chiếc xe ôtô thông thường và rộng bằng một sân bóng đá. Còn lưu vực Yinggehai, nơi dự kiến sẽ đặt giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai của Trung Quốc, nằm ở phía tây bắc Biển Đông, giữa Đảo Hải Nam và bờ biển phía Bắc của Việt Nam.
Liệu sự kiện Dongfang 13-2 CEPB năm 2019 có tái diễn vụ Hải Dương 981 năm 2014?
‘Đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ (!?)
Tháng 5 năm 2014, giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã lần đầu tiên tấn công vào Biển Đông, chen lấn vào vùng hải phận của Việt Nam và như một cú tát tai nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị ở Hà Nội, nhất là với những quan chức Việt vẫn còn mộng mị ngủ ngày mà đã biến thành cơn mê sảng bi kịch trong thói đu dây quốc tế giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, đã xuất hiện những kế hoạch khai thác dầu khí ở giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) với những đối tác nước ngoài là Repsol (Tây Ban Nha) tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở vùng biển Đông Nam, với Tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga tại mỏ Lan Đỏ, cũng như bắt đầu có kế hoạch thăm dò khai thác với tập đoàn dầu khí khổng lồ ExxonMobil của Mỹ tại mỏ Cá Voi Xanh ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Từ năm 2014, Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật cho giàn khoan vào biển Đông để khủng bố tâm lý rệu rã của chính thể bị cộng đồng lên án là ‘hèn với giặc, ác với dân’.
Biến cố Hải Dương 981 đã kéo dài suốt vài tháng và gây ra một cơn chấn động lớn trong nội bộ đảng CSVN. Nhưng trong lúc toàn bộ đảng này không hề dám có một phản ứng ra mặt nào mà chỉ im thin thít, còn quốc hội cũng không phát ra nổi một nghị quyết về Biển Đông mà chỉ nói như vẹt về từ ngữ ‘tàu lạ’, hàng chục ngàn người dân Việt Nam đã rùng rùng phẫn nộ xuống đường biểu tình để phản kháng cú khiêu khích của Trung Quốc thông qua Hải Dương 981. Khi đó, một lần nữa châm ngôn ‘hèn với giặc, ác với dân’ đã ứng nghiệm: làn sóng biểu tình này đã bị chính quyền và công an Việt Nam đàn áp thô bạo và dã man.
Nhưng cũng chính vào lúc đó, Bắc Kinh đã sai lầm cơ bản khi biếu không cho người Việt món quà Hải Dương 981, khiến dân tộc có nguy cơ vô cảm chính trị này trở nên đồng thuận hơn, cùng lúc phần lớn thế giới trở nên đối lập rõ ràng với Trung Quốc.
Chỉ sau khi Hà Nội và Bắc Kinh đạt được một ‘thỏa thuận ngầm’ nào đó, Hải Dương 981 mới rút đi. Nhưng trong toàn bộ thời gian nổ ra biến cố này, tất cả các quốc gia có ‘quan hệ đối tác chiến lược’ với Việt Nam, kể cả Nga, đều không một lời hoặc có một hành động nào hỗ trợ cho chính thể mà từ năm 2001 đã ‘quơ quào đối tác chiến lược’. Bỉ bôi nhất là thủ phạm gây ra vụ Hải Dương 981 lại là Trung Quốc - được giới chóp bu Việt Nam xem là ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’. Thể diện của chính thể Việt Nam đã thêm một lần lao dốc khi có tin về việc Nguyễn Phú Trọng, khi đó còn là tổng bí thư chứ chưa phải ‘tổng tịch’, đã gọi điện đến hai chục lần cho Tập Cận Bình để điều đình vụ Hải Dương 981 nhưng họ Tập không thèm nghe máy.
Đến năm 2015, giàn khoan Hải Dương 981 lại hiện hình một lần nữa. Ngày 6/5/2015, website của Cục Hải sự Trung Quốc đăng tải thông báo về hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 tại giếng Lăng Thủy 25-1S-1 ở Biển Đông. Hoạt động này là đáng được chú ý, dù khi đó Hải Dương 981 vẫn nằm ngoài vùng lãnh hải Việt Nam. Một tuần sau thông báo trên của Cục Hải sự Trung Quốc, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius bất ngờ thông báo "Chúng tôi sẽ tiếp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với nghi thức cấp cao nhất". Đến tháng 7 năm 2015, Trọng chính thức đi Mỹ - chuyến công du đầu tiên cua ông ta đến xứ Cờ Hoa mà đã được Tổng thống Barak Obama tiếp đón đặc cách như một nguyên thủ quốc gia tại Phòng Bầu Dục.
Điều đáng nói là hình ảnh tái xuất mang tính khủng bố của Hải Dương 981 xảy ra dù Nguyễn Phú Trọng đã chấp nhận ‘đi Trung Quốc trước khi đi Mỹ’, khi tới Bắc Kinh vào tháng 4 năm 2015.
Trọng có ‘đi Trung Quốc trước’ ?
Logic của những dự kiện lịch sử cận đại trong quan hệ Trung - Việt cho thấy chẳng cần hoài nghi rằng sự xuất hiện của Hải Dương 981 trước đây và Dongfang 13-2 CEPB vào năm 2019 là những động tác dằn mặt đối với giới lãnh đạo cao cấp của Việt Nam trong thế đu dây dễ lộn cổ giữa Trung Quốc và Mỹ.
Chiến thuật ép và lấn từng bước của Trung Quốc là quá dễ nhìn ra: trước chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng vào mùa hè năm 2019, tùy thuộc vào thái độ của Trọng với Tập ra sao mà Dongfang 13-2 CEPB sẽ nằm yên ở vùng chồng lấn biển hoặc lao thẳng vào hải phận Việt Nam theo đúng cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014.
Một lần nữa kể từ năm 2015, giới quan sát chính trị và dư luận còn chút quan tâm đến tình cảnh mắm muối giữa Việt Nam và Trung Quốc lại chờ đợi lời giải cho phương trình ‘Trọng có gặp Tập trước khi gặp Trump?”.
Khác khá nhiều với bối cảnh năm 2015, những gì đang diễn ra trong năm 2019 này bộc lộ thế ‘giãn Trung’ với gia tốc nhanh hơn và cũng có vẻ ‘can đảm’ hơn của Trọng và Đảng cộng sản Việt Nam. ‘Can đảm bám Mỹ’ nhằm khai thác dầu khí trong vùng chủ quyền của mình, 10/04/2019 đến nỗi phải mắt trước mắt sau trước đường lưỡi bò chín đoạn của Trung Quốc quét qua hầu hết các lô dầu khí này.
Trong nguy cơ ‘mất ăn dầu khí’ như thế, đang xuất hiện những dấu hiệu và cả tiền đề cho ‘đối tác chiến lược Việt - Mỹ’ trong tương lai không quá xa.
Cũng khác với bối cảnh năm 2015, một chuyến đi ‘Trung Quốc trước’ của Nguyễn Phú Trọng trong thời gian tới, nếu xảy ra, sẽ mang lại cho ông ta những thất lợi lớn về chính trị và cả rủi ro sinh mạng khó lường, nhất là khi Trọng đã chỉ đạo hệ thống tuyên giáo và báo chí Việt Nam ‘tố cáo giặc Trung Quốc xâm lược’ vào ngày 17 tháng Hai năm 2019 như một cách kỷ niệm ngày Chiến tranh biên giới phía Bắc.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 10/04/2019
Chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân vừa tiến hành một chuyến công du Tây Âu để vận động cho EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam). Những quan chức của EU (Liên minh Châu Âu) như Bruno Angelet và Bernd Lange bắt đầu hé lộ ‘có thể sẽ ký và phê chuẩn EVFTA vào mùa hè này’. Nhưng ngay vào lúc này, không khí đàn áp nhân quyền ở Việt Nam vẫn đặc sệt như một thùng thuốc súng. Chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho bất kỳ một ‘cải thiện nhân quyền’ nào, dù chỉ mang tính mị dân hoặc để đối phó với cộng đồng quốc tế…
Liệu EU có quá vồ vập ? - Ảnh minh họa
Quan điểm Bruno Angelet ?
Một trong những quan chức Châu Âu vẫn thường biểu thị sự nôn nóng về EVFTA được ký kết phê chuẩn càng sớm càng tốt, nhưng phát ngôn và hành động của ông lại không mấy quan tâm đến các điều kiện về cải thiện nhân quyền, là ông Bruno Angelet - Trưởng Đại diện Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam.
Sau vụ EVFTA bị Hội đồng Châu Âu hoãn vô thời hạn vào tháng 2 năm 2019 và trong bầu không khí toàn bộ giới chóp bu Việt Nam im như thóc, Bruno Angelet đột nhiên xuất hiện trong một cuộc trả lời phỏng vấn đài BBC Việt ngữ (1) với những dự báo đáng chú ý :
"Vào cuối tháng 5/2019, chúng tôi sẽ liên lạc với Hội đồng Châu Âu. Hy vọng là vào cuối tháng 5/2019 hoặc đầu tháng 6/2019, Hội đồng Châu Âu sẽ đưa ra quyết định đồng ý cho bà, Ủy viên Thương mại EU Cecilia Malmström, đến Hà Nội để ký các hiệp định.
Sau đó, trong thời gian từ tháng 5 tới tháng 7/2019, bà Malmström sẽ đến Hà Nội để ký kết. Tiếp đến là đến sự phê chuẩn. Trước mắt hai bên phải ký kết các hiệp định đã, sau đó chúng tôi sẽ đệ trình các hiệp định đã ký kết cho Nghị viện Châu Âu thông qua.
Từ 23-26/5/2019 sẽ có bầu cử Nghị viện Châu Âu. Một Nghị viện mới sẽ được bầu ra và họ sẽ xem xét các hiệp định đó. Hy vọng là sau mùa hè hoặc đầu tháng 10/2019, Nghị viện mới sẽ thông qua các hiệp định. Theo tôi đoán thì Nghị viện mới sẽ xem xét các hiệp định ngay nhưng họ cũng cần thêm ít nhất một tháng trước khi phê chuẩn".
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, dù nhận được câu hỏi "EU có cuộc đối thoại thường niên về nhân quyền với Việt Nam. Một số tổ chức đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam muốn EU xem xét vấn đề nhân quyền song song với EVFTA. Hai chủ đề này có gắn kết với nhau hay không ?", nhưng Bruno Angelet đã không trả lời trực tiếp vào vấn đề nhân quyền mà chỉ nói một cách chung chung - một biểu hiện mà cho dù được xem là người nói tiếng Việt khá sõi và am hiểu cả phong tục tập quán văn hóa của người Việt, Bruno Angelet vẫn có thể làm giảm đi giá trị của con người ông khi tìm cách né tránh một chủ đề mà ông biết chắc việc nói ra một cách thẳng thắn hay dù chỉ một nửa sự thật trần trụi sẽ khiến cho mối quan hệ giữa ông và giới quan chức cao cấp ở Hà Nội trở nên bất lợi và mất đi ‘hòa khí’.
Trong thực tế và theo nhiều nhà hoạt động nhân quyền, chẳng cần ngạc nhiên về cách trả lời như trên của Bruno Angelet, bởi thái độ đó lại logic với thói quen của Bruno khi ông rất ít khi gặp gỡ và chia sẻ với giới đấu tranh nhân quyền ở Việt Nam.
Đó là một thực tế đáng buồn nếu đối chiếu với các tiêu chuẩn dân chủ và nhân quyền của những quốc gia đi đầu trong khối EU. EVFTA đang tiếp cận Việt Nam, song trên tất cả là tương lai tung bay của ngọn cờ nhân quyền trong hiệp định này, nhưng dường như Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Hà Nội vẫn chẳng có một bước tiến đáng chú ý nào về những điều kiện nhân quyền cho Việt Nam mà Nghị viện Châu Âu đang ra công đòi hỏi.
Dự báo chủ quan hay Hà Nội lại ‘hứa cuội’ ?
Ngay sau cuộc đối thoại nhân quyền EU – Việt Nam vào tháng 3 năm 2019, một quan chức có trách nhiệm của EU là ông Umberto Gambini đã khẳng định "EVFTA phải chờ nghị viện mới của Châu Âu" sẽ tổ chức bầu lại vào tháng 5 năm 2019.
Khẳng định trên của Umberto Gambini khiến Việt Nam phải nhận thêm một cú sốc điếng người nữa và là dấu chấm hết cho hy vọng của Thủ tướng Phúc, Bộ Chính trị và chính thể độc đảng chỉ muốn ‘ăn sẵn’ khi ‘mong EU linh hoạt ký kết và phê chuẩn EVFTA trong quý 1 năm 2019’.
Tháng Ba năm 2019 - thời điểm mà trước đó được dự kiến Nghị viện Châu Âu sẽ họp xét thông qua hay không EVFTA - đã trôi qua mà chẳng thấy bóng dáng tăm hơi nào về cuộc họp đó. Đến lúc này, hầu như chắc chắn cuộc họp đó sẽ không thể diễn ra, bởi Nghị viện Châu Âu còn đang bận tối mặt mũi cho cuộc bầu cử nghị viện mới vào tháng 5 năm 2019 và cơn khủng hoảng Brexit chưa có lối ra.
Trong khi đó, người đứng đầu Ủy ban Thương mại Quốc tế của Quốc hội EU - một cơ quan tham mưu rất quan trọng về các hiệp định thương mại quốc tế và có vai trò quan trong không kém Hội đồng Châu Âu - là Bernd Lange, tuy được xem là ôn hòa, vào tháng Giêng năm 2019 đã phải phản ứng cứng rắn hiếm thấy : "Nếu không có tiến bộ nào về nhân quyền, và đặc biệt là quyền của người lao động, thì sẽ không có bất cứ hiệp định nào được Quốc Hội Châu Âu thông qua hết", bất chấp thái độ nôn nóng muốn thúc đẩy nhanh thủ tục hiệp định này của một số nghị sĩ và doanh nghiệp Châu Âu, cùng sự vận động ráo riết của giới quan chức Việt Nam.
Tình trạng vi phạm nhân quyền bất chấp trên chính là nguồn cơn vừa sâu xa vừa trực tiếp mà đã khiến vào ngày 15/11/2018, gần một tháng sau khi chính thể độc đảng ở Việt Nam đã tưởng như chắc ăn khi Ủy ban Châu Âu đồng thuận làm tờ trình cho Hội đồng Châu Âu để xem xét việc ký kết EVFTA với Việt Nam (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu), Nghị viện Châu Âu đã bất ngờ tung ra nghị quyết 2018/2925(RSP) về nhân quyền Việt Nam. Bản nghị quyết này còn cứng rắn hơn cả bản nghị quyết về vấn đề nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2016/2755(RSP) công bố vào tháng Sáu năm 2016.
Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925(RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đanh thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng về tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí, nạn bắt bớ người hoạt động nhân quyền, không chịu ký kết các công ước quốc tế về lao động…
Chưa bao giờ diễn ra mối đồng cảm và sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng như hiện nay giữa các tổ chức nhân quyền quốc tế và nhiều nhà nước ở Châu Âu. Hiểu một cách đơn giản, nếu chính thể Việt Nam không chịu thỏa mãn những điều kiện nhân quyền chính yếu của Nghị viện Châu Âu, sẽ chẳng có EVFTA nào hết.
Ứng với bối cảnh trên, người đọc có thể tự hỏi là dựa vào cơ sở nào để ông Bruno Angelet nêu ra những dự báo cụ thể về mốc thời gian cho tiến trình ký kết, phê chuẩn và thông qua EVFTA ? Đó là đánh giá và dự báo riêng của Bruno Angelet hay nhân danh EU ?
Thông thường, những dự báo trên của Bruno Angelet xuất phát từ hai khả năng : hoặc đó chỉ là dự báo chủ quan của Bruno Angelet bởi tâm trạng sốt ruột thường trực của ông về tiến độ EVFTA, hoặc Hà Nội đã tiếp tục hứa hẹn (hay hứa cuội) về ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ với EU mà đã khiến Bruno Angelet trở nên lạc quan đến thế.
EU có quá vồ vập khi Hà Nội lại ‘hứa cuội’ ?
Mười ngày sau dự báo đáng ngạc nhiên của Bruno Angelet về tiến trình EVFTA trên BBC Việt ngữ, đã xuất hiện một dấu hiệu cho thấy dự báo này không hẳn mang tính chủ quan mà đã được tương tác với phía Việt Nam.
Những ngày cuối tháng 3 năm 2019, Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch Quốc hội Việt Nam - có một chuyến ‘thăm Pháp và Bỉ’ và gặp những nhân vật quan trọng là Chủ tịch Hạ viện Pháp Richard Ferrand và Thủ tướng Pháp Edouard Philippe, Chủ tịch Hạ viện Bỉ Siegfried Bracke…
Nhưng cuộc gặp mang tính tín hiệu rõ nhất về EVFTA là giữa Nguyễn Thị Kim Ngân và Chủ tịch Ủy ban Thương mại Quốc tế Bernd Lange. Thông tin ban đầu mà Bernd Lange cho biết là EVFTA có thể sẽ được ký kết và phê chuẩn vào tháng 6 hoặc tháng 7 năm 2019.
Vậy là đến lúc này, ý đồ ẩn giấu của chính thể Việt Nam đang dần lộ ra : sau khi EVFTA bị Hội đồng Châu Âu hoãn vô thời hạn cùng tương lai cực kỳ bế tắc, Nguyễn Phú Trọng và bộ sậu Bộ Chính trị của ông ta đã phải tìm ra lối thoát. Một lần nữa, trong rất nhiều lần, Hà Nội lại hứa hẹn ‘sẽ cải thiện nhân quyền’, dù đã chẳng có bất kỳ lần nào trước đó lời cam kết này được biến thành hành động, thậm chí giới công an trị Việt Nam còn hành động ngược lại khi gia tăng bắt bớ giới bất đồng chính kiến trong giai đoạn gần nhất từ giữa năm 2016 đến nay. Ngay vào lúc này, không khí đàn áp nhân quyền ở Việt Nam vẫn đặc sệt như một thùng thuốc súng. Chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho bất kỳ một ‘cải thiện nhân quyền’ nào, dù chỉ mang tính mị dân hoặc để đối phó với cộng đồng quốc tế.
Chuyến đi Châu Âu của Nguyễn Thị Kim Ngân chính là nhằm phát đi những cam kết mà rất có thể vẫn chỉ là lối hứa cuội về nhân quyền. Quan điểm ‘vào trước, bắt sau’ của Hà Nội là rất nhất quán kể từ thời WTO : vào năm 2006, chính thể Việt Nam đã tạm ngưng bắt bớ giới hoạt động dân chủ nhân quyền để đổi lấy điều kiện được Mỹ chấp nhận cho tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới và còn được nhấc khỏi CPC (Danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo) của Mỹ. Nhưng khi đã ung dung trong trong WTO và hưởng lợi lớn từ nhiều ưu đãi của tổ chức này, Việt Nam lại bắt trở lại, và bắt ồ ạt, hung hãn và đầy sắc máu đối với nhiều người hoạt động nhân quyền và bất đồng chính kiến.
Tương lai thời hậu ký và phê chuẩn EVFTA cũng rất có thể sẽ là bản sao của thời hậu WTO.
Bruno Angelet và cả Bernd Lange nữa liệu có quá vồ vập với những lời hứa hẹn/của Hà Nội ?
Bài học gần gũi nhất về thái độ dễ dãi phải trả giá là Đức. Ngày 25/3/2019, TAZ - một nhật báo thuộc loại lớn nhất ở Đức - đã đăng bài "Đức đã quá vội trở lại tình trạng quan hệ bình thường".
Một trong những nguyên nhân chính yếu khiến Việt Nam không chịu ‘trả nguyên trạng Trịnh Xuân Thanh’ cho Đức là do Berlin đã quá vồ vập và vội vã trong việc bày tỏ ý định bình thường hóa quan hệ Đức - Việt, dù chỉ nhận được những lời hứa không mất tiền mua của những quan chức mập ú và bóng nhẫy đến từ Hà Nội.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 09/04/2019
Tròn hai năm sau chuyến công du Châu Âu của chủ tịch Quốc hội Việt Nam – bà Nguyễn Thị Kim Ngân – vào tháng Tư, 2017, quan chức này lại có một chuyến "thăm Pháp và Bỉ" mà chẳng có dấu hiệu nào cho thấy chuyến đi này đạt được mục tiêu thực chất nào.
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân tại cuộc gặp Nhóm Nghị Sĩ Hữu Nghị Pháp-Việt. (Hình : TTXVN)
Toàn bộ những chuyến xuất ngoại trên đều được trang trải bằng tiền đóng thuế của người dân Việt Nam.
Vì sao Việt Nam phải dùng đến ‘kênh Quốc hội’ ?
Trong chuyến đi Pháp và Bỉ lần này, Nguyễn Thị Kim Ngân đã có cuộc gặp với hai nhân vật quan trọng là Chủ Tịch Hạ Viện Pháp Richard Ferrand và Thủ tướng Pháp Edouard Philippe, Chủ Tịch Hạ Viện Bỉ Siegfried Bracke.
Bỉ chỉ là một nước nhỏ ở Châu Âu nhưng lại là nơi đặt trụ sở của Liên Hiệp Châu Âu (EU).
"Đề nghị Pháp, trên tinh thần quan hệ đối tác chiến lược, hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy Hiệp định Thương Mại Tự Do Việt Nam – EU (EVFTA). Đây là vấn đề quan trọng, phục vụ lợi ích của cả Việt Nam và EU, trong đó có Pháp…" và một đề nghị tương tự với Bỉ – bà Ngân nhắc đi nhắc lại cái ý tứ không có gì mới hơn mà chính thể Việt Nam đã đưa vào kịch bản phát ngôn và đã từng được bà nói ở Thụy Điển, Hungaria và Czech Séc vào tháng Tư, 2017.
Hai năm trước, Nguyễn Thị Kim Ngân "thăm và làm việc" 3 nước Châu Âu trên trong bối cảnh Nguyễn Phú Trọng và bộ sậu Bộ Chính Trị của ông ta đã phải chờ dài cổ, dù EVFTA đã được hoàn tất đàm phán từ cuối năm 2015 nhưng sau đó còn phải trải qua giai đoạn rà soát pháp lý. Giai đoạn này kéo dài mãi đến đầu năm 2018 mới hoàn thành – mất đến hơn 2 năm nếu so sánh với khoảng thời gian chỉ từ 6 tháng đến một năm hoàn tất rà soát pháp lý cho các hiệp định thương mại cùng loại giữa EU với một số quốc gia khác.
Lẽ ra, trách nhiệm vận động các nước thành viên thông qua EVFTA là của Nghị Viện Châu Âu. Nhưng hẳn do tình thế đã biến diễn bất lợi đến mức giới chóp bu Việt Nam không thể ngồi rung đùi chờ đợi Châu Âu thông qua EVFTA như cách người Mỹ đã mang Hiệp định Song Phương Việt-Mỹ (BTA) đến tận miệng cho Việt Nam 16 năm trước, hay Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) đặc cách xét cho Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này vào năm 2007.
Vào lúc đó, mọi chuyện trở nên khó khăn hơn rất nhiều, đặc biệt sau khi Hiệp định TPP hầu như tan vỡ và đến tháng Bảy, năm 2017 còn nổ ra vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" khiến cả khối Liên Hiệp Châu Âu được "mở mắt" về khái niệm "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" thực chất là một thể thống như thế nào.
Một cách nào đó, chủ tịch Quốc hội Việt Nam đã làm thay công việc vận động của Nghị Viện Châu Âu. Cũng có thể hiểu một cách nào đó, Nguyễn Phú Trọng phải làm mọi cách để tìm ra một hiệp định thương mại thay thế cho TPP chết yểu, cũng là cách để ông Trọng có được thành tích mang lợi ích kinh tế về nuôi đảng và do đó sẽ kéo dài tuổi thọ tổng bí thư của ông. Rất có thể đó là lý do chính yếu mà ông Trọng "đẩy" bà Ngân đi Châu Âu vận động EVFTA với tư cách "kênh Quốc hội" vào các năm 2017 và 2019, bất chấp chính thể Việt Nam vẫn hoàn toàn không quan tâm và càng không hề tôn trọng nhân quyền theo yêu cầu của EU.
Trong toàn bộ hơn 10 hiệp định thương mại song phương (FTA) mà Việt Nam đang tiến hành với các nước trên thế giới, trong khi Việt Nam phải nhập siêu đến khoảng $50 tỷ hàng năm từ Trung Quốc ($30 tỷ đường chính ngạch và $20 tỷ đường tiểu ngạch), nhập siêu đến hơn $25 tỷ trong FTA với Hàn Quốc, chỉ còn lại hai thị trường mà Việt Nam xuất siêu lớn là Hoa Kỳ (hơn $35 tỷ/năm) và EU (khoảng $30 tỷ/năm).
Nhưng muốn EVFTA được thông qua, lại phải có sự thống nhất của Quốc hội thuộc 28 nước thành viên. Sự đồng thuận giữa các nước EU lại tương đối cao về vấn đề nhân quyền. Chỉ cần 4 nước không thông qua thì EVFTA sẽ bị khựng lại. Đó là nguồn cơn khiến Nguyễn Phú Trọng phải tính toán cho Nguyễn Thị Kim Ngân một lần nữa đi Châu Âu vận động qua "kênh nghị viện" vào năm 2019 này.
Nhưng cho dù Việt Nam có được EU ưu ái cho ký trước một thành phần của EVFTA là Hiệp định Thương Mại Song Phương (FTA), thì đó vẫn chỉ là một hiệp định mang tính chất khung về pháp lý chứ chưa bao gồm những thỏa thuận mang tính "ăn ngay" về thương mại mà Việt Nam trông đợi để "ăn sẵn". Những thỏa thuận này nằm trong Hiệp định Bảo Hộ Đầu Tư (IPA) – được xem là thành phần cốt yếu nằm trong EVFTA. Song muốn IPA được thông qua lại cần sự đồng thuận của toàn bộ 28 nghị viện các nước ở Châu Âu.
Không cải thiện nhân quyền, không có EVFTA !
Vào năm 2017, điều quá đáng thất vọng đối với đoàn của bà Nguyễn Thị Kim Ngân là sau các cuộc làm việc với Quốc hội 3 nước Thụy Điển, Hungaria và Czech, đã không có bất cứ một khoản viện trợ không hoàn lại nào được phía chủ nhà thông báo dành cho Việt Nam. Ngay cả Thụy Điển – vốn được Việt Nam hy vọng nhất về "tình cảm rất đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ" – cũng không còn tỏ ra hào phóng như thường biếu một số tiền viện trợ không hoàn lại vào những lần giới lãnh đạo Việt Nam thăm Thụy Điển những năm trước. Thậm chí, lãnh đạo Quốc hội Thụy Điển cũng không hứa hẹn bất kỳ điều gì liên quan đến viện trợ không hoàn lại trong thời gian tới cho Việt Nam.
Trong khi không nhận được khoản viện trợ nào, đoàn "quốc tế vận" của bà Kim Ngân cũng không có được văn bản cam kết nào của 3 Quốc hội Thụy Điển, Hunggaria và Czech về "sẽ thúc đẩy để Liên Hiệp Châu Âu sớm phê chuẩn Hiệp định Thương Mại Tự Do Việt Nam-EU". Tất cả chỉ là nói miệng theo lối xã giao mà chẳng có gì chắc chắn !
Nhưng lại chắc chắn rằng nguyên do chủ yếu khiến chuyến "quốc tế vận" vào năm 2017 của Chủ ịch Ngân "chỉ có tiếng, không có miếng" là cho tới lúc đó vẫn chưa có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới chóp bu Việt Nam chịu cải thiện nhân quyền theo yêu cầu chi tiết của cộng đồng quốc tế.
Hai năm sau đó, EVFTA còn phải chịu một số phận thê thảm hơn : không những không hứa hẹn bất kỳ điều gì về tương lai hiệp định này, Hội Đồng Châu Âu đã thông báo hoãn vô thời hạn việc ký kết và phê chuẩn EVFTA, với nguồn cơn thực chất là vô số vi phạm nhân quyền trầm trọng của Hà Nội mà vẫn chưa có dấu hiệu "phục thiện" nào.
Đó cũng là nguồn cơn mà trong các cuộc gặp với Chủ Tịch Hạ Viện Pháp Richard Ferrand, Thủ tướng Pháp Edouard Philippe và Chủ Tịch Hạ Viện Bỉ Siegfried Bracke, bà Ngân đã không nhận được bất kỳ cam kết dưới hình thức văn bản nào của phía Pháp về EVFTA.
Đối với chính thể độc đảng ở Việt Nam, EVFTA quan trọng đến mức mà vào tháng Ba, năm 2018, người đứng đầu đảng là Nguyễn Phú Trọng đã phải tự thân đến Pháp, để vận động Nghị Viện Pháp cho EVFTA được Hội Đồng Châu Âu và Nghị Viện Châu Âu "linh hoạt sớm thông qua".
Nhưng ngay sau cuộc gặp Macron-Trọng, không phải báo đảng Việt Nam, mà những hãng thông tấn của Pháp như AFP đã loan tin là trong cuộc gặp này, Tổng thống Pháp Macron đã đề cập một cách nhấn mạnh về tình hình nhân quyền tại Việt Nam và trường hợp các blogger và các nhà bảo vệ nhân quyền bị bỏ tù, đồng thời kêu gọi Việt Nam thực hiện những cải cách để tăng cường nhà nước pháp quyền.
Đề cập và lời kêu gọi của Tổng thống Macron là logic với đánh giá cho rằng chính phủ Pháp đã chủ động yêu cầu phía Việt Nam phải đưa nội dung "nhấn mạnh nhân quyền" vào tuyên bố chung Việt-Pháp 2018 và đôn nội dung này lên vị trí thứ 2 trong bản tuyên bố này, vượt hơn nhiều so với vị trí thứ 6 của chủ đề nhân quyền được thể hiện trong bản tuyên bố Việt-Pháp vào tháng Chín, năm 2013, trong chuyến công du Pháp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng Jean-Marc Ayrault.
Còn vào lần này, việc một lần nữa Trọng "đẩy" Ngân đi Pháp vận động cho EVFTA đã gián tiếp tiết lộ một ý đồ ẩn giấu của chính thể Việt Nam : sau khi EVFTA bị Hội Đồng Châu Âu hoãn vô thời hạn, nếu giới chóp bu Việt Nam muốn làm một điều gì đó để cải thiện nhân quyền thì có lẽ họ đã chẳng cần tổ chức thêm một chuyến đi Pháp cho Nguyễn Thị Kim Ngân.
Mà tình hình hiện thời vẫn thuần đen đúa khi chưa hiện ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy chính thể Việt Nam muốn thỏa mãn bất kỳ điều kiện nào trong bản nghị quyết nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu – được ban hành vào giữa tháng Mười Một, năm 2018.
Hà Nội vẫn đạp trên nhân quyền mà chỉ tái diễn lối mòn "quốc tế vận" với não trạng của một kẻ láu cá, khôn vặt, buôn nước bọt và không thể tin được.
EVFTA cũng bởi thế vẫn hoàn toàn bế tắc và vô vọng.
Kể từ năm 1975, chưa bao giờ Mỹ và Việt Nam lại sát gần với quan hệ đối tác chiến lược như vào lúc này - cái lúc mà giới chóp bu Việt Nam dường như đã chuyển từ sáo ngữ cửa miệng ‘lợi ích tương đồng’ với Bắc Kinh sang những gì cần có để một liên minh quân sự Việt - Mỹ trong tương lai gần có thể đánh bật Trung Quốc khỏi Biển Đông.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gặp song phương Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence ngày 14/11/2018. (Ảnh : Thống Nhất/TTXVN)
Tín hiệu từ một cuộc hội thảo
Ngày 3/4/2019, một số quan chức cấp thứ trưởng của Mỹ và Việt Nam đã tổ chức hội thảo mang tên "Việt- Mỹ : Hướng đến hợp tác chiến lược" tại Trung tâm Chiến lược & Nghiên cứu Quốc tế (CSIS) ở thủ đô Washington.
Có thể xem hội thảo trên là một trong số hiếm hoi hoặc là lần đầu tiên hai bên bàn về chủ đề không còn là chuyện giỡn chơi hay trả treo mặc cả này. Đối với chính thể Việt Nam, bây giờ không còn là lúc ngả ngớn õng ẹo đu dây giữa Mỹ và Trung Quốc nữa, mà Hà Nội đang bị ‘đồng chí tốt’ ép bật khỏi những giếng dầu ở Biển Đông khiến ngân sách - vốn đang tồi tệ - càng nguy khốn hơn.
Hội thảo "Việt- Mỹ : Hướng đến hợp tác chiến lược" cũng có thể được xem là một trong những tiền đề để chuẩn bị cho cuộc gặp Donald Trump - Nguyễn Phú Trọng tại Washington vào mùa hè năm 2019, một cuộc gặp mà lạ thay, bởi khác hẳn những lần trước luôn được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thông báo đầu tiên, lần này lại được Bộ Ngoại giao Việt Nam chính thức ‘chủ động thông tin đối ngoại’ chứ chẳng cần đợi phía Mỹ nữa.
Con số 13 ?
Cho đến nay, chính thể Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào về ‘vị thế Việt Nam nâng cao trên trường quốc tế’ với việc thủ chẵn một tá đối tác chiến lược trong túi mình, bao gồm cả hai đối tác chiến lược với Ấn Độ - thành tích của kẻ quá cố nhân nào quả đó là Chủ tịch nước Trần Đại Quang, và với Úc của quan chức còn đang sống phơi phới là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đều hình thành vào đầu năm 2018.
Còn 10 quan hệ đối tác chiến lược khác của Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2013 là với Liên bang Nga (2001), Nhật Bản (2006), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Vương quốc Anh (2010), Đức (2011) và Ý (2013). Không thể gọi khác hơn là ‘phong trào đối tác chiến lược’ - gần giống với phong trào lập ra các hợp tác xã thời bao cấp kinh tế, trung bình mỗi năm lại cho ra đời một đối tác kiểu đó, hoặc còn được ví như ‘quơ quào đối tác chiến lược’.
Nếu ‘đối tác chiến lược Mỹ - Việt’ được thành hình trong thời gian tới, đó sẽ là con số 13 về tính chất quan hệ này - con số mà theo thuyết âm dương của người Việt là ‘xui xẻo’, nhưng với giới quan chức Việt mang thuộc tính còn hơn cả mê tín dị đoan thì đó phải là cái đích nhắm tới bất chấp may rủi.
Cùng nguy cơ Trung Quốc
Con số 13 trên, nếu có, phải là hệ quả của bầu không khí từ ‘cầu viện’ biến thành nồng ấm hơn và hơn hẳn trong quan hệ Việt - Mỹ kể từ tháng 7 năm 2017 khi Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch vội vã sang Hoa Kỳ, ngay sau vụ Trung Quốc đe dọa tấn công mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ - liên doanh giữa Việt Nam với hãng dầu khí Tây Ban Nha là Repsol và khiến Repsol phải ‘bỏ của chạy lấy người’, để sau đó Bộ trưởng quốc phòng Mỹ James Mattis đã lần đầu tiên điều động hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson đến hiện diện tại cảng Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2018, phục vụ cho một nhu cầu cần thiết với Mỹ và tối cần thiết với Bộ Chính trị Việt Nam là dự án khai thác mỏ dầu khí Cá Voi Xanh.
Không chỉ Việt Nam, mà cả Mỹ cũng bị đe dọa một cách rõ rệt bởi Trung Quốc tại Biển Đông. Sau đại hội 19 của Đảng cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã lớn lên thành một "tư tưởng" được ghi trong điều lệ đảng, vượt hơn cả Đặng Tiểu Bình trước đây và có thể bắt đầu sánh ngang với "tư tưởng Mao".
Độc tôn cá nhân lại dẫn đến nguy cơ bá quyền nước lớn. Rất nhiều khả năng là sau đại hội 19, Tập Cận Bình sẽ vươn tay thọc sâu vào Biển Đông, với mục tiêu gần nhất là "đánh úp" quần đảo Trường Sa của Việt Nam, khống chế quân cảng Cam Ranh để vô hiệu hóa tàu Mỹ hoạt động tại cảng này, phát triển tầm tác chiến tại Biển Đông và biến vùng biển này thành một kiểu "trạm thu phí" của Trung Quốc đối với tàu bè chở hàng hóa của các nước.
Nguy cơ chiến tranh trên Biển Đông không còn là dự báo nữa, mà có thể trở thành hiện thực vào bất kỳ năm nào sau năm 2017.
Để bảo vệ an ninh hàng hải và phòng vệ, Hoa Kỳ đang và sẽ phải triển khai hướng tiếp cận mới về Biển Đông, mà đặc trưng nổi bật nhất là tính chất thường xuyên và nhịp độ cao hơn so với trước đây.
Cũng là để Việt Nam có thể bám vào đặc trưng mới này, ít nhất cho tới lúc nào mục tiêu khai thác dầu khí để bồi hoàn cho một nền ngân sách rỗng ruột của Việt Nam vẫn còn bị Trung Quốc thẳng tay cấm đoán.
Không còn lựa chọn nào khác, hiện thời Mỹ là đối trọng duy nhất của Trung Quốc mà Việt Nam buộc phải dựa vào.
Việc lựa chọn Mỹ là ‘đối tác chiến lược tương lai đã phát xuất từ một bài học lịch sử hết sức tệ hại.
Bài học cay nghiệt cho thói đu dây
Hậu quả của thói đu dây quốc tế cùng vô số tính toán tủn mủn lồng trong thói tự tôn cộng sản nói mãi không chịu bỏ là một bài học quá đắt giá : vào năm 2014, khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Hà Nội, hầu hết các "đối tác chiến lược" của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp.
Khi đó, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Đô đốc Samuel Locklear, đã gợi ý vẫn còn cửa cho "đối tác chiến lược toàn diện" giữa Mỹ và Việt Nam, hàm ý rằng Việt Nam cần rõ ràng và dứt khoát hơn trong mối quan hệ quân sự với Mỹ chứ không thể đeo bám chính sách "đu dây" nguy hiểm giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chính thể Việt Nam đã phớt lờ hảo ý của người Mỹ mà vẫn đeo đuổi mối quan hệ ngày càng nguy hiểm hơn với người bạn "bốn tốt – mười sáu chữ vàng".
Đến năm 2017, "đối tác chiến lược toàn diện" Trung Quốc đã thêm một lần nữa hạ nhục Nguyễn Phú Trọng cùng giới quan chức tham sống sợ chết. Trong nhiều nỗi nhục trên đời, có lẽ nỗi nhục thuộc loại tận cùng nhất là bị kẻ thù cầm tù ngay trong nhà mình vì có dầu cũng không làm cách nào ‘ăn’ được.
Từ nằm 2014 đến nay, giới chóp bu Việt Nam chưa bao giờ cô đơn đến thế trên trường quốc tế, dù Việt Nam đã thủ đến chẵn một tá "đối tác chiến lược" trong túi, nếu không tính đến "đối tác chiến lược" với Đức mà đã bị quốc gia này tạm thời đình chỉ "quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam" ngay sau vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" vào năm 2017.
Rốt cuộc, chính động cơ "bắt cá đa phương" vô cùng tận đã chẳng mang lại một người bạn thực sự nào.
Một trong những dẫn chứng cho triết lý "lắm mối tối nằm không" là vào năm 2014 khi đối thoại về việc nới lỏng cấm vận võ khí sát thương cho Việt Nam, Đô đốc Hoa Kỳ Samuel Locklear đã như mỉa mai : "Việc này phần lớn phụ thuộc vào Việt Nam muốn gì vì họ có nhiều đối tác, nhiều láng giềng, cũng như nhiều mối quan ngại về an ninh".
Kết quả gần hai chục năm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước" cùng hàng chục đối tác chiến lược của chính thể này đã chỉ được đúc rút thành lời giễu cợt không thèm che đậy của chính giới quốc tế.
Chính thể độc đảng ở Việt Nam đã ăn ở ra sao để sinh ra nông nỗi ấy ?
Sẽ như ‘sống lại’ ?
Cái khó ló cái khôn - ông bà đã dạy. Lòng can đảm, dù chẳng hề là thuộc tính của một chế độ, vẫn thình lình phơi ra trong bất kỳ tình thế nào mà chế độ đó phải tìm mọi kế và làm mọi cách để bảo vệ sự tồn sinh của nó.
Hẳn là từ đầu năm 2016 khi bắt đầu tập tạnh cách tuyên bố ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’, "tập thể Bộ Chính trị Việt Nam" cũng bắt đầu phải tính toán việc dựa dẫm vào sức mạnh của hải quân Mỹ để bảo vệ vùng biển của mình.
Cũng có nghĩa là bắt đầu chiến thuật ‘can đảm dựa Mỹ’.
5 năm sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, tình hình đang diễn ra như nó ắt phải thế, và dù muộn vẫn còn hơn không.
Nếu mọi chuyện thuận buồm xuôi gió và sau cuộc cuộc gặp Trump - Trọng sắp tới tại Washington sẽ hiện ra một văn bản được ký giữa hai bên như kiểu ‘Hiệp ước tương trợ quốc phòng’ mà Mỹ đã ký với Philippines, hoặc ít ra cũng là một bản ghi nhớ về việc sẽ tiến hành chuyện đó trên nền tảng chuẩn bị cho ‘quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Mỹ - Việt’, và ngay trước mắt sẽ là sự hiện diện lần thứ hai của hàng không mẫu hạm Mỹ tại Việt Nam, Bộ Chính trị ở Hà Nội sẽ có thể như ‘sống lại’ để vừa tiến vừa run vào mỏ Cá Voi Xanh ở vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi - có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối và hứa hẹn mang về đến 60 tỷ USD, bằng số thu nguyên một năm của nền ngân sách bóp họng dân chúng với nhiệm vụ tối thượng là nuôi đảng.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 06/04/2019
Chính phủ Việt Nam vừa gây thêm ‘tội ác’ khi một lần nữa cố tình luồn lách nhằm kéo dài thời hạn trình ra Quốc hội Luật Đất Đai - bộ luật mà đã trở thành một trong những tội ác lớn nhất trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam khi luôn mặc định ‘sở hữu đất đai toàn dân’ mà không chịu công nhận quyền sở hữu đất đai tư nhân và đã làm lợi cho vô số nhóm lợi ích - quan chức khi biến Đất thành Đô (dân gian đương đại Việt Nam thường gọi là ‘Hai Đê’), trong khi biến hàng triệu người dân Việt thành dân oan đất đai.
Thủ Thiêm, một trong những "nhức nhối" lớn nhất liên quan đến đất đai ở Việt Nam.
‘Tội ác’ mới
Tại phiên họp của Ủy ban Pháp luật quốc hội diễn ra trong hai ngày 25 và 26 tháng 3 năm 2019, sau khi xuất hiện một số ý kiến của đại biểu quốc hội yêu cầu phải đẩy nhanh tiến độ Luật Đất đai sửa đổi để sẵn sàng đưa vào chương trình và trình Quốc hội, phía Chính phủ đã đề nghị rút dự án Luật Đất đai sửa đổi khỏi chương trình năm 2019 cho đến sau năm 2020, với lý do để cho việc sửa đổi thật "chín".
Bộ trưởng Tài nguyên và môi trường Trần Hồng Hà, đại diện của cơ quan được chỉ định nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai 2013, cũng là tác giả kiêm đạo diễn của thảm họa xả thải môi trường Formosa mà đã đẩy đến nửa triệu dân các tỉnh miền Trung vào cảnh khốn quẫn nhưng vẫn không hề bị xử lý bằng bất kỳ hình thức pháp luật nào, cho rằng "đất đai tại Việt Nam là một lãnh vực nhạy cảm và phức tạp và khi thực hiện sửa đổi thì càng thấy khó khăn và vướng mắc".
Không thể cho rằng Trần Hồng Hà và những quan chức của chính phủ trực tiếp liên quan đến đất đai như Nguyễn Xuân Phúc - thủ tướng, Trương Hòa Bình - phó thủ tướng thường trực và cả giới quan chức bên đảng của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng không nằm lòng những bản báo cáo của các cơ quan Thanh tra chính phủ và Bộ Tài nguyên và môi trường về một chủ đề cực kỳ nhạy cảm : đơn thư khiếu tố đất đai chiếm đến 85 - 90% tổng số đơn thư khiếu nại tố cáo, đưa chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam trở thành một trong những dẫn chứng chói lọi nhất trên bảng vàng tham nhũng đất đai và cưỡng đoạt nhân dân - theo thống kê của các tổ chức nhân quyền quốc tế.
Đề nghị rút Luật Đất Đai của phía chính phủ - bị nghi ngờ rất lớn về việc có bàn tay ‘thày dùi’ của một số nhóm lợi ích, tài phiệt, quan chức "vấy máu ăn phần" trong đó, xảy đến trong bối cảnh cơn ung thư cưỡng chế đất vẫn không hề thuyên giảm trên toàn cõi Việt Nam, khiến cho ngày càng nhiều người dân trắng tay ngay trên mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình. Vụ ‘cướp sạch’ 5 ha đất Vườn Rau Lộc Hưng do chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đích danh thủ phạm vào giáp tết nguyên đán 2019 là chứng cứ mới nhất, quá đủ để thiết lập một phiên tòa xử giới quan chức về tội, lợi dụng chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái và biến người dân thành kẻ thù bất đắc dĩ của chế độ cầm quyền cường bạo này.
Nhìn lại tội ác cũ
Việt Nam từ sau thời mở cửa kinh tế những năm 90 của thế kỷ 20 đã chứng kiến vô số cảnh lấy đất, cướp đất tàn bạo của nhiều doanh nghiệp và chính quyền địa phương.
Có hàng ngàn ví dụ trong một phần tư thế kỷ qua ở Việt Nam, kể từ thời điểm bắt đầu đường parabol hướng lên của thị trường bất động sản từ năm 1995 và kéo theo rất nhiều vụ thu hồi đất không thỏa đáng, trái pháp luật và sau này là bất chấp đạo lý đối với nông dân.
Cùng với cơ chế đền bù cho nông dân với giá chỉ bằng 1/10 đến 1/20 giá thị trường, rất nhiều khuôn mặt đại gia đã phất lên qua những con sóng bất động sản từ năm 1995 đến năm 2011. Rất nhiều nạn nhân liên quan đến chính sách thu hồi đất đai đã phải ròng rã khiếu kiện nhiều năm trời, tạo thành những đám đông biểu tình ghê gớm. Nhiều nạn nhân đã phải vào tù chế độ và trở thành tù nhân lương tâm.
Tất cả những bất công trên đã tích tụ đủ dày để biến thành ý thức phản kháng của một bộ phận nông dân bị mất đất, biến họ thành dân oan và tạo nên mối xung khắc, dẫn tới xung đột với giới quan chức chính quyền tại nhiều địa phương. Vụ thu hồi đất hết sức bất công tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên năm 2012, vụ âm mưu ‘cướp sạch’ 59 ha đồng Sênh của người dân xã Đồng Tâm ở Hà Nội năm 2017, vụ ‘cướp trắng’ khổng lồ ở khu đô thị mới Thủ Thiêm tại Sài Gòn mà hậu quả còn kéo dài đến nay là những bằng chứng điển hình.
Đặc thù tâm lý trong xã hội Việt Nam là lòng dân càng bất mãn thì phản ứng của người dân càng lúc càng trở nên thiếu kiềm chế. Trong một số vụ việc những năm gần đây, đã xuất hiện dấu hiệu vượt khỏi tâm lý kiềm tỏa sợ hãi để bước đến tâm trạng phản kháng, thậm chí sẵn sàng đối đầu, cho dù đó chỉ là hành động đối kháng tự phát chứ không được tổ chức. Có thể nêu ra hàng loạt vụ việc người dân phản ứng về đất đai ở nhiều địa phương như Nam Định, Bắc Giang, Hưng Yên, Nghệ An, Sài Gòn… và ngay tại ngoại thành Hà Nội, rất gần với tổng hành dinh của chính phủ và Bộ Chính trị đảng. Việc ngày càng hiện ra những người dân như Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng năm 2012 và Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình năm 2013 nổi lên chống đối chính quyền chính là điển hình cho lòng phẫn uất đã biến thành tự phát vô cảm đến mức bất chấp của dân oan, đối diện với thói vô lương tâm của giới quan chức địa phương.
"Tập trung tích tụ đất đai" cho kẻ nào ?
Trong khi hoàn toàn chưa có cơ sở nào để tin rằng chủ trương "Tập trung tích tụ đất đai" của đảng cầm quyền sẽ "tăng năng suất lao động và làm cho nông dân đỡ khốn khổ hơn" như lối tuyên giáo không còn biết liêm sỉ là gì của hệ thống báo đảng, chủ trương này đã bị biến thành công cụ của những kẻ "tay không bắt giặc", không chỉ là tai họa xã hội mà còn là một nguy cơ chính trị khủng khiếp đối với chế độ theo cách "chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân".
Dù chưa chính thức, "Tập trung tích tụ đất đai" bắt đầu bị soi mói lợi dụng, và nếu không được kiểm soát chặt chẽ, vô hình trung chủ trương này có thể tiếp tay cho hành vi "lấy của người nghèo chia cho người giàu".
Hãy nhớ, tương tự như xã hội Trung Quốc, khoảng 70% triệu phú và tỷ phú đô la ở Việt Nam có xuất thân "đi lên từ đất". Xã hội Việt Nam cũng bổi thế đang ‘vươn lên một tầm cao mới’ bằng sự phân hóa ghê gớm giữa giai tầng tỷ phú đô la đang đội cao như núi với vô số dân chúng bị nghèo hóa và bần cùng hóa, lao đến một tương lai không lối thoát.
Vườn Rau Lộc Hưng cũng là một trong những biểu hiện đầu tiên về chủ trương ‘tập trung tích tụ đất đai’ của đảng cầm quyền - phát sinh từ năm 2017 - khiến người nông dân Việt Nam mất đi mảnh đất ở và kế sinh nhai cuối cùng.
Tìm mọi cách câu giờ để không chịu sửa đổi Luật Đất Đai theo hướng công nhận quyền sở hữu tư nhân nhưng lại đẩy nhanh tốc độ ‘tập trung tích tụ đất đai’ vào tay các nhóm lợi ích mafia, đã quá rõ là Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các tập đoàn lợi ích móc xích với quan chức đang lao vào hội chứng ‘hốt cú chót’ khi chứng kiến màn đêm buông trùm lên chế độ.
Đó là một thứ tội ác thuộc loại trời không dung đất không tha, sẽ bị người dân mở tòa xét xử trong không bao lâu nữa - đối với từng quan chức vấy máu ăn phần - khi bóng đêm không còn ngự trị trên dải đất quằn quại chữ S này nữa.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 05/04/2019
‘Lò’ sẽ được đốt từ dưới lên, từ trên xuống và đến năm 2020 thì đốt khắp nơi.
Cuộc đua giành ngôi vị Tổng Bí thư Đại hội 13 (2021) : Ứng viên sáng giá nhất là ai ?
Rất giống nhưng cũng rất khác đại hội 12 của đảng Cộng sản vẫn còn đang cầm quyền ở Việt Nam, đại hội 13 của chính đảng chưa hề được luật hóa này - sẽ xảy ra vào năm 2021 - có một ‘đặc thù’ mà không một đại hội đảng nào trước đây có : ‘đốt lò’.
Nếu vào thời tiền đại hội 12, những trận chiến quyền lực bề nổi và dưới gầm bàn chủ yếu bằng thủ đoạn gửi thư tố cáo cho Ủy ban Kiểm tra trung ương và đấu tố nhau trên mạng xã hội nhưng đương sự cùng lắm cũng chỉ bị kỷ luật về mặt đảng và do đó mất quyền ứng cử vào Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị, giai đoạn nóng sốt hai năm trước đại hội 13 lại mở ra cơ hội tung tóe cho những ai muốn ‘chơi’ nhau : Ủy ban Kiểm tra trung ương chỉ đóng vai trò tiền xét các vụ việc vi phạm tư cách đảng viên, còn sau đó vụ tham nhũng hoặc cố ý làm trái của đảng viên đó được chuyển sang cơ quan an ninh điều tra hoặc cơ quan cảnh sát điều tra của Bộ Công an - hai địa chỉ mà từ đó có thể khiến những ứng cử viên ủy viên trung ương hoặc bộ chính trị phải ‘một đi không trở lại’ trong ngậm đắng nuốt cay.
Tháng Ba năm 2019, câu chuyện bắt đầu…
Trở lại thời… Chân Dung Quyền Lực
‘Bắt đầu bàn nhân sự rồi, phải hết sức cảnh giác’ - phát biểu của ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng vào cuối tháng 3 năm 2019 xảy đến trong bối cảnh chính trường Việt Nam bất chợt sôi sục hẳn lên với sự khởi động của một cái gì đó giống như bầu không khí xung đột nóng rực trước đại hội 12. Đó đây thấp thoáng hiện ra vài ba bài viết trên mạng xã hội nhằm đấu tố trong giới chóp bu cao cấp về tài sản, sân sau và thủ đoạn ‘chơi nhau’. Và cũng bắt đầu bắn thẳng vào những tên tuổi cụ thể của quan chức cấp cao.
Đầu năm 2019, rõ là các cơ quan đảng đang đẩy nhanh hơn tiến độ ‘quy hoạch cán bộ cấp chiến lược’ để chuẩn bị nhân sự cho đại hội 13 vào đầu năm 2021. 2019 là năm ‘bàn nhân sự’ cấp tỉnh thành, còn đến năm 2020 sẽ là năm quyết định vận mạng nhân sự chủ chốt của cấp trung ương, trong đó có Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị và đặc biệt là ‘tam trụ’ (thay cho ‘tứ trụ’ trước đây vì hiện thời một mình Nguyễn Phú Trọng ngồi đến hai ghế).
Chẳng khác gì thời tiền đại hội 12 (bắt đầu ‘đánh nhỏ’ vào năm 2014 và đặc biệt là ‘đánh nhau lớn’ trong nguyên năm 2015), đơn thư tố cáo và bài viết ‘đâm dao sau lưng đồng chí’ với các tác giả nặc danh 100% và không rõ nguồn gốc đang chĩa mũi dùi sâu nhất vào Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, Phó thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng ban Tổ chức trung ương Phạm Minh Chính và thêm một số quan chức cao cấp khác.
Tình hình trên khiến nhiều người buộc phải nhung nhớ… Chân Dung Quyền Lực.
Vào cuối năm 2014, lần đầu tiên trang Chân Dung Quyền Lực xuất hiện và tạo nên một cơn địa chấn trong chính trường và chính giới Việt nam khi tấn công không thương tiếc, với nhiều chi tiết liên quan đến tài sản, sân sau và nhân thân ‘chính trị nội bộ’, đối với một số ủy viên bộ chính trị khi đó, đặc biệt là Nguyễn Xuân Phúc. Khỏi phải nói rằng hiệu ứng của trang mạng phe cánh chính trị này đã khiến nhiều ‘chính khách’ co rúm và phải uống thuốc ngủ. Nhưng đến gần cuối năm 2015 khi sắp diễn ra đại hội 12, trang Chân Dung Quyền Lực tự nhiên biến mất theo đúng cái cách mà nó đã thình lình xuất hiện. Có lẽ vào lúc đó, ‘nhiệm vụ lịch sử’ của nó đã tạm hoàn thành.
Còn giờ đây, cuộc chiến quyền lực đã bắt đầu manh nha, và nếu không có gì thay đổi thì sự việc sẽ diễn ra theo đúng quy luật xung đột chính trị - lại một cuộc chạy đua sống mái vào các chức danh chủ chốt trong Bộ Chính trị và trong ‘tam trụ’, kể cả một cuộc vận động để điều chỉnh ‘tam trụ’ thành ‘tứ trụ’ như cũ.
Sẽ ra sao nếu Trọng ‘nghỉ tổng bí thư’ ?
Từ khoảng cuối năm 2018, bắt đầu xuất hiện một thông tin ngoài lề đầy gợi cảm và biến động : có một khả năng là Nguyễn Phú Trọng sẽ chuyển giao quyền lực tổng bí thư cho một người thân tín, chẳng hạn như Trần Quốc Vượng, mà chỉ ngồi ghế chủ tịch nước. Và cùng với ‘nhân sự cấp chiến lược Trần Quốc Vượng’, còn một cái tên ‘chiến lược’ khác cũng được nêu ra như một phương án thay thế vị trí thủ tướng hiện thời : Vương Đình Huệ.
Theo dư luận, không phải ngẫu nhiên mà thời gian gần đây xuất hiện những đồn đoán về ‘Huệ sửa số liệu’ hay vụ chùa Ba Vàng ở Quảng Ninh mà bị xem là có liên quan đến phạm vi hoạt động của Phạm Minh Chính và vài ủy viên bộ chính trị khác. Trong khi đó, quan chức được xem là đàn em thân tín của Nguyễn Xuân Phúc là Huỳnh Đức Thơ - chủ tịch Đà Nẵng và từng có thời được coi là bất khả xâm phạm dù bí thư Đà Nẵng khi đó là Nguyễn Xuân Anh phải rớt đài thảm thiết - cũng đang được đồn đoán là sẽ ‘vào lò’…
Không loại trừ cái tin Nguyễn Phú Trọng ‘nghỉ tổng bí thư’ chỉ là một thủ thuật chính trị theo kiểu ‘giả chết bắt quạ’ và bắt chết những tay mơ non choẹt kinh nghiệm nhưng ham hố ghế và háu đá.
Nhưng ‘vấn đề sức khỏe’ lại có vẻ là một thực tồn không tránh khỏi của ông Trọng. Từ năm 2018 đến nay, nhiều thông tin ngoài lề về việc sức khỏe bác Cả ‘không được tốt lắm’, lại thêm việc ‘thân này ví xẻ làm đôi’ cho cả hai văn phòng tổng bí thư và chủ tịch nước kể từ tháng 9 năm 2018 mà đã và sẽ khiến cho ông Trọng có thể rơi vào tình trạng phân tâm trầm trọng, dẫn tới hội chứng mệt mỏi thần kinh và thể trạng…
Vương Đình Huệ và Trần Quốc Vượng - Ảnh minh họa
Trong bối cảnh đó và nếu đến một lúc nào đó Nguyễn Phú Trọng không chỉ có ý định mà còn buộc phải tự nguyện nhường lại cái ghế tổng bí thư cho người khác, hai ứng cử viên hàng đầu đã hoặc được sắp sẵn, hoặc cố ngoi lên vị trí sắp sẵn đó : Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc.
Đây là hai tính cách khác nhau một trời một vực : trong khi Thủ tướng Phúc thậm chí còn được dân gian đặt cho biệt danh là ‘Phúc nổ’ với đủ thứ giai thoại về ‘đầu tàu kinh tế’ và ‘tăng trưởng GDP’ tại các địa phương mà ở đó ông ta lộ rõ chiến dịch vận động để vị thế của mình được ‘nâng lên một tầm cao mới’, Trần Quốc Vượng lại chỉ nói quá ít so với Phúc. Và trong khi Nguyễn Xuân Phúc được xem là ‘một thế lực đang lên’ với ‘mạnh vì gạo bạo vì tiền’, thì Trần Quốc Vượng lại ‘nghèo’ và kín đáo hơn nhiều, tuy không phải không có dư luận về ‘sân sau’ của nhân vật này.
Hoặc Vượng - một quan chức bên đảng không có nhiều điều kiện tiếp xúc và vận động ở các tỉnh thành như Phúc, đã tìm ra một chiến thuật khôn ngoan ẩn mình trong im lặng. Chính thái độ được xem là ‘khiêm tốn’ và ‘không đam mê quyền lực’ ấy của Trần Quốc Vượng có thể đã chiếm được tình cảm của Nguyễn Phú Trọng, để Vượng được chính thức vào ngôi ‘thái tử’.
Khác với thời tiền đại hội 12, giai đoạn ‘toàn đảng, toàn quân lập thành tích chào mừng đại hội 13’ không những là cuộc chiến đánh vào các sân sau của nhau, mà tính xung đột của nó còn ‘máu lửa’ hơn nhiều bởi yếu tố hình sự hóa của cuộc chiến này - thể hiện bởi Bộ Công an ở cấp trung ương và cơ quan công an ở một số địa phương then chốt - những nơi đậm đà yếu tố ‘phe cánh chính trị’. ‘Lò’ sẽ được đốt từ dưới lên, từ trên xuống và đến năm 2020 thì đốt khắp nơi.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 02/04/2019
Việc Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo "gọi hồn" vụ Junin 2 xảy ra đúng một tháng sau khi cũng tác giả này đã hoàn tất cuốn tiểu thuyết mang tên "Vụ án" đối với Nguyễn Bắc Son và đặc biệt là Trương Minh Tuấn vào cuối tháng Hai, 2019.
Nguyễn Phú Trọng bắt tay Nguyễn Tấn Dũng (trái) và Nông Đức Mạnh (phải) tại thời điểm tháng Mười, năm 2007. (Hình : Getty Images)
Từ "Trương Minh Tuấn làm gương" đến Junin 2
Có ít nhất hai cựu ủy viên Bộ Chính trị là Mạnh "Mượt" (cựu Tổng bí thư Nông Đức Mạnh) và "Ba X" (cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng), cùng ít nhất một ủy viên Bộ Chính trị đương chức là Hoàng Trung Hải bị xem là có liên quan mật thiết đến Junin 2 – dự án liên doanh giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Công ty Dầu khí Quốc gia Venezuela.
Vụ liên doanh này cho tới nay không những không mang về một giọt dầu nào mà còn bị phát hiện ra một khoản chi quái lạ là "phí tham gia hợp đồng" (bonus), lên đến 584 triệu USD. Số tiền khổng lồ rút rỉa từ ngân sách Việt Nam này bị nghi ngờ dùng để "bôi trơn" những quan chức đầu sỏ của Venezuela.
Giả thiết ban đầu "Trọng cho bắt Trương Minh Tuấn để làm gương và để đốt lò nóng hơn trong năm 2019" đã dần được xác thực. Ngay sau Tết Nguyên Đán 2019, vụ tống giam hai người được xem là "phe ta" – Nguyễn Bắc Son và đặc biệt là Trương Minh Tuấn – đã phát đi tín hiệu về một sự thay đổi đáng kể trong quan điểm và hành động của Nguyễn Phú Trọng trong thời gian qua, từ thái độ trù trừ và nương tay với "phe ta" sang quyết đoán và quyết liệt hơn.
Sự thay đổi này nhiều khả năng xuất hiện từ sức ép của một số cựu thần và tướng lĩnh lão thành – giới mà ông Trọng dành cho nhiều tình cảm về ý chủ nghĩa ý thức hệ cộng sản và nhiệm vụ bảo vệ đảng và do đó thường tham khảo ý kiến.
Muốn được "lưu truyền sử xanh" thì không còn cách nào khác, "bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo" phải hành xử quyết liệt với chính đàn em mà ông ta đã từng dung dưỡng.
Và một khi Trọng đã phải "trảm" Trương Minh Tuấn – kẻ mà vào lúc bị bắt thọ chức Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương và còn được xem là "gà" của "Tổng chủ" cho đến tận gần đây – thì chẳng có lý do gì để ông ta nương tay với những kẻ khác.
Năm 2017 nóng hơn 2016. Năm 2018 lại nóng hơn 2017. Còn 2019 có lẽ là khoảng thời gian mà Nguyễn Phú Trọng muốn tỏ ra mạnh tay và liều lĩnh nhất với nạn tham nhũng. Bởi nếu không thì toàn bộ sự nghiệp còn nước còn tát cho đảng cộng sản của ông ta sẽ có nguy cơ "tan hàng" chỉ trong sớm chiều, còn bản thân ông ta sẽ chỉ để lại "tiếng thơm" cho các đời sau như một tổng bí thư và chủ tịch nước thất bại cay đắng khi đã có quá nhiều cơ hội để trốn thoát khỏi nỗi cay đắng đó.
Chưa kể đến nguy cơ nếu không diệt trừ được một lực lượng tham nhũng đầu sỏ nhất, rất có thể chính lực lượng đó sẽ biến thành một phản lực chính trị nhấn chìm Nguyễn Phú Trọng vào bất kỳ thời điểm nào Trọng sa cơ lỡ vận.
Và giờ đây là lúc ra tay với những kẻ khác. Junin 2 hứa hẹn sẽ là một vở diễn và cũng là một vụ án lớn, thậm chí nếu được đẩy cao hơn nữa thì đó có thể là một vụ án vĩ đại.
Thực lực Nguyễn Phú Trọng ra sao ?
Một lần nữa, cựu ủy viên Bộ Chính trị Đinh La Thăng – nhân vật từng dám cười nhạo tổng bí thư khi Nguyễn Phú Trọng nước mắt nhòa kính lão và lụ khụ trong bài phát biểu chấm dứt Hội nghị Trung ương 6 vào cuối năm 2012 – rất nhiều khả năng sẽ phải ra tòa cho Junin 2, vụ việc mà rất có thể sẽ trở thành một vụ đại án quốc gia.
Thế nhưng cho tới nay vẫn chằn chặn một dấu hỏi : vì sao vào thời gian cuối năm 2017 và đầu năm 2018 khi đã cho bắt và khai thác điều tra Đinh La Thăng, những vụ xử Thăng lại khá tầm phào chứ không hiện ra vụ Junin 2 ? Và tại sao trong suốt năm 2018, mặc dù một số người thân của Nguyễn Tấn Dũng như con gái Nguyễn Thanh Phượng, con trai Nguyễn Thanh Nghị có nhiều dấu hiệu bị đưa vào tầm ngắm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Bộ Công an, thế đứng của "đồng chí X" vẫn không mấy nghiêng ngả ?
Một dàn khoan dầu ở Maracaibo, Venezuela. (Hình : Getty Images)
Đến lúc này, nhiều người vẫn chưa thể quên được cú sốc đầu tiên của Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 9 vào tháng Mười Hai, năm 2018, ngay sau sau ông ta trở dời đô đến Văn phòng Chủ tịch nước : có đến 36% ủy viên trung ương bỏ phiếu không tán thành kỷ luật Tất Thành Cang – phó bí thư thường trực Thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh, một kẻ bị dư luận xã hội nhiếc móc như một con chuột cống bẩn thỉu ăn tạp, đặc biệt là "ăn đất" của dân nghèo.
Hội nghị Trung ương 9 cũng để lại một dấu ấn – nếu không xem là thất bại thì thật ra chẳng hơn thế bao nhiêu – khi từ sau hội nghị đó cho đến nay vẫn không hiện hình bất cứ thông báo chính thức nào về kết quả bỏ phiếu thăm dò uy tín các ủy viên trong Bộ Chính trị và đặc biệt là đối với "tổng chủ" Nguyễn Phú Trọng, nhân vật mà trước đó cánh dư luận thân đảng đã đoan chắc sẽ chiếm ngôi đầu bảng.
Phải chăng nguồn cơn sâu xa của cơ chế chậm hoặc sẽ không bao giờ công bố cái kết quả kiểm phiếu bạc bẽo ấy là nạn mất phiếu ?
Thậm chí ngay cả vụ Bộ Công An của viên bộ trưởng mà ít lâu sau đó được phong hàm đại tướng là Tô Lâm, từ lúc bắt Trần Bắc Hà – một đại gia ngân hàng và được xem là một tay chân thân tín của Nguyễn Tấn Dũng vào gần cuối năm 2018, cho tới nay vẫn chưa hiện ra manh mối nào rõ hơn về khả năng đường đi của Hà sẽ dẫn tới nhà Ba Dũng như rất nhiều đảng viên cựu trào từng kỳ vọng vào "quyết tâm Nguyễn Phú Trọng"…
Bất chấp thế quyền lực gần như tuyệt đối của Trọng ở thượng tầng, vẫn đang lộ ra những lỗ hổng trong chân đứng hạ tầng của ông ta trong suốt một thời gian dài, không thể không ngạc nhiên khi cơ quan điều tra hay viện kiểm sát lại không mò ra những hồ sơ đắt giá và có tính chứng cứ của ngành dầu khí để phục vụ cho Trọng ?
Phải chăng những hồ sơ này cũng theo chân số phận biến mất của tấm bản đồ quy hoạch gốc Thủ Thiêm mà cho đến nay vụ việc này đã hoàn toàn chìm xuồng ? Nếu đúng thế, ai đã "hô biến" các tài liệu đó và qua mặt ủy viên thường vụ đảng ủy công an trung ương Nguyễn Phú Trọng ?
Một số nguồn tin cho biết trong thực tế, Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa mạnh đến mức như một số người tưởng tượng. Ngay trước mắt và đập ngay vào mắt ông ta vẫn là một lực lượng ngầm trong nội bộ đảng kình chống lại chiến dịch "đốt lò".
"Lập thành tích chào mừng Đại hội 13"
Giờ đây, Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với ngã ba đường : đang xuất hiện những khuyến nghị cho rằng ông ta nên tạm dừng hoặc dừng hẳn chiến dịch "đốt lò" với lý do công cuộc chống tham nhũng của Trọng đã đạt được nhiều kết quả vượt quá mong đợi, tên tuổi của Trọng đã "đi vào sử xanh" ; trong khi đó, từ nhiều quan chức lão thành lại vẫn lắc đầu rằng sự nghiệp chống tham nhũng của Nguyễn Phú Trọng mới chỉ đạt được kết quả hết sức khiêm tốn, tham nhũng vẫn còn tràn ngập ở Việt Nam, kết quả chống tham nhũng của Trọng còn xa mới bằng dược Tập Cận Bình ở Trung Quốc. Và nếu tiến thêm một bước hay nhiều bước đánh vào các ổ nhóm tham nhũng, Nguyễn Phú Trọng rất có thể sẽ vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của chúng mà khiến cái ghế chủ tịch nước mới cứng của ông ta lung lay hoặc đổ nhào…
Từ khoảng cuối năm 2018, bắt đầu xuất hiện một thông tin ngoài lề đầy sốt nóng : có một khả năng là Nguyễn Phú Trọng sẽ chuyển giao quyền lực tổng bí thư cho một người thân tín, chẳng hạn như Trần Quốc Vượng, mà chỉ ngồi ghế chủ tịch nước. Và cùng với "nhân sự cấp chiến lược Trần Quốc Vượng", còn một cái tên "chiến lược" khác cũng được nêu ra như một phương án thay thế vị trí thủ tướng hiện thời của Nguyễn Xuân Phúc là Vương Đình Huệ.
Không biết tính xác thực của những thông tin trên đến đâu, chỉ biết rằng từ đó đến nay và trong khi dư luận xã hội đang xôn xao về vụ Junin 2 và chờ đợi vụ án tương lai này sẽ "đốt" ít ra vài ủy viên Bộ Chính trị, hành lang của chính trường Việt Nam lại bất chợt sôi sục hẳn lên với sự khởi động của một cái gì đó giống như bầu không khí xung đột nóng bỏng trước Đại hội 12.
Đó đây thấp thoáng hiện ra vài ba bài viết trên mạng xã hội nhằm đấu tố trong giới chóp bu cao cấp về tài sản, sân sau và thủ đoạn "chơi nhau". Cùng lúc, các cơ quan đảng đang đẩy nhanh hơn tiến độ "quy hoạch cán bộ cấp chiến lược" để chuẩn bị nhân sự cho đại hội 13 vào đầu năm 2021.
Những cảnh huống chính trị phức hợp và đan xen lẫn nhau như thế đang khiến cho Junin 2 có thể không chỉ thuần túy là Junin 2, mà còn là tập 2 cho những vở đấu tố chưa hoàn tất ở Đại hội 12 trước thềm Đại hội 13. Có lẽ không ít kẻ đang tìm cách đục nước béo cò nhân vụ Junin 2 – trừ khử và tranh đoạt.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 31/03/2019