‘Cộng đồng chung vận mệnh’, Biển Đông, Cửu Long, và nhân tố thứ 3
Tùng Phong, VOA, 13/12/2023
Trong chuyến tuần du phương Nam của Hoàng đế Đỏ có xuất hiện một nhân vật phụ rất đáng quan tâm : Thủ tướng Cambodia Hun Manet.
Giới chức Trung Quốc dường như có vẻ rất coi trọng văn hóa truyền thống và hay trích dẫn các tác phẩm kinh điển của các nhà văn hóa, đạo đức nổi tiếng trong các văn bản ngoại giao của họ. Ông Tập không phải ngoại lệ.
Từ diễn ngôn mơ hồ
Báo chí Việt Nam và Trung Quốc trong những ngày qua tràn ngập tin bài về chuyến công du của ông Tập Cận Bình tới thăm Việt Nam với những lời lẽ hoa mỹ, đậm màu sắc văn hóa cộng sản.
Tờ Hoàn Cầu viết"Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng tốt, bạn bè tốt, núi liền núi, sông liền sông, có mối quan hệ môi hở răng lạnh, là đồng chí tốt, đối tác tốt, cùng chí hướng, cùng con đường, có chung vận mệnh, là cộng đồng cùng tương lai... Phía Việt Nam, 800 tờ báo đồng loạt đăng tải tin tức, hình ảnh về nghi lễ đón tiếp trang trọng nhất dành cho Chủ tịch Trung Quốc cùng phu nhân, với 21 phát đại bác, tiệc trà, quốc yến và36 văn bản thỏa thuận hợp tác được ký kết... Tờ báo Nhân Dân, tờ báo đảng có địa vị chính trị lớn nhất trong hệ thống tuyên giáo hôm 12/12 có đăng nguyên văn bài viết của ông Tập Cận Bình về "tình hữu nghị Việt Trung" trong đó có nhiều diễn ngôn và nội dung đáng quan tâm.
"...Năm nay là 10 năm kể từ khi tôi đề xuất khái niệm cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại, Sáng kiến cùng nhau xây dựng "Vành đai và Con đường" và chính sách ngoại giao láng giềng "Thân, Thành, Huệ, Dung". Để xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại, trước hết phải bắt đầu từ Châu Á... Châu Á là ngôi nhà chung của chúng ta, các nước láng giềng không thể tách rời nhau, giúp đỡ láng giềng chính là giúp đỡ bản thân. Người thân mong người thân tốt, láng giềng mong láng giềng tốt.
....
Phát huy ưu thế bổ sung lẫn nhau, tăng cường nền tảng hợp tác thực chất chocộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc-Việt Nam... hai bên cần phát huy đầy đủ ưu thế vị trí địa lý gần gũi và ngành nghề bổ sung cho nhau, đẩy nhanh hợp tác và kết nối giữa sáng kiến "Vành đai và Con đường" và "Hai hành lang, một vành đai", không ngừng mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực như kết nối giao thông, cải cách doanh nghiệp nhà nước, năng lượng sạch, khoáng sản then chốt, v.v, nhằm phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của mỗi nước, mang lại càng nhiều lợi ích hơn cho nhân dân hai nước.
..."Bán anh em xa, mua láng giềng gần", gốc rễ, huyết mạch, sức mạnh của quan hệ Trung-Việt đều bắt nguồn từ nhân dân. Chúng ta nên tăng cường hợp tác giao lưu hữu nghị, phát huy đầy đủ hiệu quả của các cơ chế giao lưu tương ứng giữa cơ quan truyền thông Trung ương, các cơ quan nghiên cứu, văn hóa và du lịch, nhà xuất bản, cơ quan điện ảnh, truyền hình và phát thanh của hai nước, làm sâu sắc hợp tác trên các lĩnh vực đào tạo tiếng Trung, giáo dục nghề nghiệp, thể dục thể thao, y tế, v.v.
Kiểm soát thỏa đáng bất đồng, mở rộng nềntảng nhận thức chung cho cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc-Việt Nam. Hai bên nên thực hiện tốt nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước,kiểm soát thỏa đáng bất đồng trên biển, cùng tìm giải pháp hai bên đều có thể chấp nhận được...
...
Lịch sử đã nhiều lần khẳng định, một quốc gia, một khu vực muốn chấn hưng thì phải tiến lên theo logic của tiến trình lịch sử và phát triển theo xu thế của thời đại. Tương lai của Châu Á nằm trong tay người dân Châu Á chúng ta... ; chỉ có kiên trì hợp tác cùng thắng, cùng bàn bạc, cùng xây dựng và chia sẻ thành quả của "Vành đai và Con đường"...
"Vạn vật đắc kỳ bản giả sinh. Bách sự đắc kỳ đạo giả thành" (Vạn vật sinh ra khi tìm được bản chất thực sự, trăm sự được thành công khi tìm được đạo lý của mình). Bất cứ thế giới có những thay đổi như thế nào, Trung Quốc luôn kiên trì đi theo con đường chính nghĩa. Trung Quốc đang thúc đẩy toàn diện xây dựng cường quốc, thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa thông qua hiện đại hóa kiểu Trung Quốc, sẽ không ngừng thúc đẩy phát triển chất lượng cao, kiên trì mở cửa đối ngoại với trình độ cao, đẩy nhanh xây dựng cục diện phát triển mới...
(Trích bài viết của ông Tập đăng trên báo Nhân dân ngày 12/12/2023)
Có thể thấy, trong bài viết của ông Tập và nhiều phát biểu của giới chức Trung Quốc đã nhắc lại cụm từ "cộng đồng cùng chung vận mệnh", "cộng đồng cùng chia sẻ tương lai" với tần suất đặc biệt. Diễn ngôn mang tính biểu tượng mơ hồ được Trung Quốc rất chú trọng, nhấn mạnh nhưng đối tác thì không rõ nó bao hàm nội dung cụ thể là gì. Nhiều học giả và giới ngoại giao quốc tế muốn phân tích về nội hàm cụm từ có phần khó hiểu này.
Trong bài viết gửi đăng báo Nhân Dân của ông Tập, có trích dẫn một câu cổ ngữ, từ sách Thuyết Uyển của Lưu Hướng (劉向 ; 77 trước công nguyên - 6 trước công nguyên), đời Hán "萬物得其本者生,百事得其道者成 – Vạn vật đắc kỳ Bản giả sinh. Bách sự đắc kỳ Đạo giả thành. Nghĩa là : Vạn vật bảo tồn được bản chất thì sinh trưởng. Trăm sự đạt được Đạo (tuân theo Qui luật) thì mới có thành tựu. Câu dịch nghĩa trong báo Nhân Dân đã không dịch sát ý và gây khó hiểu. Ý của ông Tập muốn nhấn mạnh ở đây là Trung Quốc sẽ luôn theo "con đường chính nghĩa", xây dựng trở thành cường quốc, phục hưng dân tộc Trung Hoa vĩ đại. Còn các nước như Việt Nam tham gia vào "cộng đồng chia sẻ tương lai" – có nghĩa là "tuân theo qui luật, theo Đạo" thì mới có thành tựu và cơ hội phát triển được.
Giới chức Trung Quốc dường như có vẻ rất coi trọng văn hóa truyền thống và hay trích dẫn các tác phẩm kinh điển của các nhà văn hóa, đạo đức nổi tiếng trong các văn bản ngoại giao của họ. Tuy vậy, trên thực tế, đường lối và chính sách thi hành của Trung Quốc lại triệt để tuân theo sách lược của những mưu lược gia như Tôn Tử, Bạch Khởi, Tư Mã Ý... – những bậc thày trước Machiavelli hàng ngàn năm. "Binh bất yếm trá", "lộng giả thành chân", "tá đao sát nhân", "tằm thực"...những thủ đoạn chính trị được các hậu nhân ở xứ "đèn lồng đỏ treo cao" nằm lòng từ khi còn đeo huy hiệu đoàn.
Đến nội hàm thực tế
Thực ra, diễn ngôn "Cộng đồng cùng chung vận mệnh" hay "Cộng đồng cùng chia sẻ tương lai" không phải là mới. Khi những nhà lãnh đạo Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc bằng hội nghị Thành Đô thì câu khẩu hiệu"Sơn thủy tương liên. Lý tưởng tương thông. Văn hóa tương đồng. Vận mệnh tương quan" đã bao gồm cả cụm từ "Vận mệnh tương quan" rồi. Chỉ có điều, mối quan hệ của Việt Nam - Trung Quốc chưa bao giờ bằng phẳng và dễ đoán, nóng lạnh thất thường giống như khí hậu gió mùa của miền Bắc Việt Nam.
Mỗi năm, hàng trăm tàu thuyền ngư dân Việt Nam bị tàu hải cảnh, kiểm ngư và dân quân biển Trung Quốc xua đuổi, cướp phá ngư lưới cụ và hải sản. Đơn cử trường hợp gần đây, 28/08/2023,tàu cá QNg 90495 TS từ đảo Phú Lâm về bãi Xà Cừ thuộc vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam thì bị tàu Trung Quốc số hiệu 4201 truy đuổi và sử dụng vòi rồng phun nước vào tàu. Vụ tấn công làm cháy hỏng các thiết bị điện tử trên tàu QNg 90495 TS, 1 ngư dân bị gãy tay phải, 1 ngư dân bị thương vùng đầu. Ngư dân Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa... thường xuyên phải chịu đựng sự khủng bố tàn bạo từ các lực lượng kiểm ngư, hải cảnh và dân quân biển Trung Quốc. Còn phía giới chức Việt Nam chỉ duy nhất có Hội nghề cá và bộ đội biên phòng làm công tác thống kê, ghi chép số lượng thương vong sau các đợt tàu thuyền ngư dân bị tấn công mà thôi.
Các dự án khảo sát và khai thác tài nguyên dầu khí trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế biển của Việt Nam luôn bị Bắc Kinh gây áp lực, buộc phải hủy bỏ. Dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng cầm trịch chính trường Việt Nam, Hà Nội đã liên tục nhượng bộ Bắc Kinh ở Biển Đông.Dự án liên doanh với Repsol của Tây Ban Nha và Mubadala của các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất đã bị hủy bỏ trước áp lực của Bắc Kinh năm 2020 khiến Hà Nội phải đền bù 1 tỷ 200 triệu USD cho đối tác liên doanh.
Con số 1,2 tỷ USD là một khoản tiền rất lớn mà Petrovietnam phải trả dần trong 3 năm nhưng đó không đơn thuần là tổn thất kinh tế trong tình cảnh khó khăn như dân gian ví von "chó cắn áo rách", mà đồng nghĩa với việc Việt Nam đã đánh mất chủ quyền trên thực tế những vùng biển giàu tài nguyên, tạo ra hiện trạng cực kỳ nguy hiểm cho toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Trước đó, các đối tác như BP, ConnocoPhillips cũng đã rút lui vàExxonMobil cũng nản lòng trước sự bạc nhược và chậm trễ của Hà Nội. Ngay cả những dự án liên doanh với Nga, Nhật Bản giờ đây cũng bị Trung Quốc quấy nhiễu.
Trong một bối cảnh tệ hại như thế, ông Nguyễn Phú Trọng luôn nhắc nhở phải đảm bảo "đại cục" và "nếu đụng độ trên biển, chúng ta có ngồi đây được không ?". Có lẽ, chính vì sự kiên định đó, ông đã được đích thân chủ tịch Tập trao tặng tấm huân chương Hữu nghị bằng vàng, rất to, ngay tại Đại lễ đường nhân dân vào tháng 10/2022. Nhìn cách thức hai nhà lãnh đạo này đón tiếp nhau thật nồng hậu, không rõ cảm xúc của hàng ngàn ngư dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Định... là nạn nhân thê thảm của hải quân, hải cảnh Trung Quốc nghĩ gì ?
36 văn bản thỏa thuận hợp tác có gì ?
Trong 36 văn bản thỏa thuận hợp tác vừa ký kết giữa hai bên, thực chất có thể chia ra làm 2 nhóm nội dung :
Một là "phần cứng" : bao gồm các thỏa thuận đầu tư tập trung vào mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không và mạng lưới thông tin phục vụ cho hợp phần"Hai hành lang, một vành đai kinh tế Bắc Bộ",kết nối với hệ thống BRI ; Dự án hợp tác khai thác"Khoáng sản then chốt". Trong đó, dự án đường sắt Hà Khẩu – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng sẽ là trọng tâm, quan trọng nhất. Người viết sẽ có bài nói rõ về vai trò tác động của đường sắt Côn Minh -Hà Khẩu - Hải Phòng cũng như vị trí địa lý đặc biệt của cảng Hải Phòng và khu vực ven biển Quảng Yên, Quảng Ninh đối Bắc Bộ và tỉnh Vân Nam ra sao.
Theo ông Hùng Ba, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam cho báo giới Việt Nam biết "Phía Trung Quốc sẵn sàng thông qua nguồn vốn vay ưu đãi giúp Việt Nam thực hiện nâng cấp và cải tạo tuyến đường sắt từ Quảng Tây qua Đồng Đăng đến Hà Nội, cũng như đẩy nhanh quy hoạch tuyến đường sắt từ Móng Cái, Quảng Ninh đến Hải Phòng". Các bản đồ liên hệ cho thấy, theo qui hoạch sẽ có hai tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn 1,435m, được điện khí hóa là Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Hải Phòng – Móng Cái.
Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc 60 tỷ USD năm 2022. Con số này đã tăng đột biến trong những năm thương chiến Mỹ - Trung gia tăng. Rõ ràng, một tuyến đường sắt chiến lược sẽ càng khiến cho hàng hóa Trung Quốc có được lợi thế vượt trội về logictics. Trong tương lai không xa, hệ thống đường sắt, đường bộ hiện đại của "Hai hành lang, một vành đai kinh tế Bắc Bộ" sẽ trở thành những siêu lộ giúp cho kinh tế Vân Nam cất cánh và Hải Phòng trở thành hải cảng có qui mô bậc nhất Đông Nam Á. Tất nhiên, "không có buổi ăn trưa nào miễn phí cả" và các nhà lãnh đạo Việt Nam có đủ bản lãnh để chơi ván cờ này ra sao thì còn là câu hỏi và cả sự ngờ vực lớn.
Hai là "phần mềm", đã được ông Tập Cận Bình mô tả rất rõ ràng trong bài viết đăng trên báo Nhân Dân và được cụ thể hóa qua các thỏa thuận hợp tác về tuyên giáo, xuất bản, truyền thông... :
"Bán anh em xa, mua láng giềng gần"...Kiểm soát thỏa đáng bất đồng, mở rộng nền tảng nhận thức chung cho cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc-Việt Nam. Hai bên nên thực hiện tốt nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, kiểm soát thỏa đáng bất đồng trên biển, cùng tìm giải pháp hai bên đều có thể chấp nhận được...
Việc mới đâyBộ giáo dục đào tạo Việt Nam bỏ tiếng Anh là môn thi bắt buộc từ 2025 và sau đó nhanh chóng có những văn bản chỉ đạođưa tiếng Trung vào môn học chính khóa từ lớp 3 có lẽ là câu trả lời rõ ràng nhất cho lộ trình"...làm sâu sắc hợp tác trên các lĩnh vực đào tạo tiếng Trung, giáo dục nghề nghiệp, thể dục thể thao, y tế, v.v.
Diễn cảnh "Biển Đông dậy sóng, Cửu Long cạn dòng" và nhân tố thứ ba
Trong khi hai vị lãnh đạo cao nhất của hai đảng cầm quyền thể hiện tình hữu nghị nồng thắm, thưởng trà trong bầu không khí mùa đông giá buốt ở Hà Nội thì ngoài biển Đông, các chiến hạm Trung Quốc đang bao vây, tấn công những chiếc tàu hậu cần nhỏ bé của Philippines ở Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough. Một chiêu "giết gà dọa khỉ" khá quen thuộc của những hậu nhân Tôn Tử. Có lẽ, ông Nguyễn Phú Trọng và giới chức Việt Nam đang cảm thấy may mắn vì "Nếu có đụng độ ngoài biển thì ta có ngồi đây uống trà được không !"
Chủ tịch Tập hẳn muốn đưa một thông điệp nhắc nhở những người cộng sản anh em rằng cho dù có là "đối tác chiến lược, toàn diện" với Hoa Kỳ và các nước trong liên minh QUAD nhưng nếu Hà Nội không ngoan ngoãn tuân phục và hợp tác tham gia vào "Cộng đồng cung chung vận mệnh" thì hãy cứ nhìn Philippines. Sóng biển Đông sẽ cuốn vào tận Ba Đình ngay tức khắc.
Trong chuyến tuần du phương Nam của Hoàng đế Đỏ có xuất hiện một nhân vật phụ rất đáng quan tâm : Thủ tướng Cambodia Hun Manet. Sự xuất hiện của vị nguyên thủ trẻ tuổi này trong bối cảnh giới chức Việt Nam bận rộn đón tiếp phái đoàn quan trọng từ thiên triều có vẻ như không đúng lúc. Tuy vậy, đó lại là sự "tình cờ đầy hữu ý". Cambodia đã gia tăng các hoạt động quân sự với Trung Quốc trong thời gian gần đây khiến Hoa Kỳ lo ngại. Việc thường xuyên các tàu khu trục hiện đại của PLA ra vào và sử dụng dịch vụ ở quân cảng Ream đã cho thấy Cambodia ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với Bắc Kinh và việc cho quân đội Trung Quốc xây dựng các căn cứ quân sự ở đây chỉ còn là vấn đề thời gian không xa.
Sự kiện Cambodia sắp chuẩn bị xúc tiến con kênh đào "đế chế Phù Nam" đang gióng lên hồi chuông báo tử cho đồng bằng sông Cửu Long. Cambodia đã không che dấu tham vọng phục hưng ánh vinh quang từ quá khứ của đế chế từng bao trùm khắp miền Nam bán đảo Đông Dương. Nếu nhìn kỹ ánh mắt và thần thái của vị quân vương trẻ Hun Manet, có lẽ những nhà lãnh đạo Việt Nam nếu có chút linh cảm chính trị, chắc sẽ phải "không rét mà run". Không rõ, ông Nguyễn Phú Trọng cảm thấy ngụm trà đáng giá cả lượng vàng ngon đến đâu nhưng những người dân Việt Nam có lương tri và trí tuệ đang cảm thấy đắng ngét và mặn chát vị máu.
Tùng Phong
Nguồn : VOA, 13/12/202
*************************
Việt Nam-Trung Quốc nhất trí xây dựng "Cộng đồng chia sẻ tương lai"
Trọng Nghĩa, RFI, 13/12/2023
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã rời Hà Nội vào hôm nay, 13/12/2023, kết thúc chuyến công du hai ngày. Trong một bản tuyên bố chung, hai bên cam kết thúc đẩy quan hệ song phương theo hướng xây dựng một cộng đồng chung mà cách gọi theo phía Việt Nam là "Cộng đồng chia sẻ tương lai", khác với từ ngữ của phía Trung Quốc là "Cộng Đồng Chung Vận Mệnh".
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Văn phòng chính phủ Việt Nam ở Hà Nội, ngày 13/12/2023. AP - Nhac Nguyen
Trong bản tuyên bố chung tổng kết chuyến thăm của chủ tịch Trung Quốc được báo chí Việt Nam công bố hôm nay, hai bên đã nhất trí "tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối Tác Hợp Tác Chiến Lược Toàn Diện Việt Nam-Trung Quốc", đồng thời ''xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại".
Về cộng đồng chung mà hai bên đồng ý hướng tới, trong lúc phía Việt Nam gọi đó là "Cộng đồng chia sẻ tương lai", thì theo các bản tin trên Tân Hoa Xã, từ ngữ phía Trung Quốc dùng là "Trung Việt Mệnh Vận Cộng Đồng Thể", tức là "Cộng Đồng Chung Vận Mệnh".
Theo nhận định của hãng tin Mỹ AP, đây là một nhượng bộ ngoại giao từ phía Việt Nam, vốn cho đến gần đây vẫn tránh dùng khái niệm đó. Tuy nhiên lần này, Hà Nội đã đồng ý nhằm xoa dịu những lo ngại của Bắc Kinh sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản lên hàng "Đối Tác Chiến Lược Toàn Diện".
AP trích lời một chuyên gia nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore, cho rằng nhượng bộ trên ngôn từ của Hà Nội "không có nghĩa là Việt Nam ủng hộ các sáng kiến chính trị do Trung Quốc lãnh đạo, mà là một hành động phòng ngừa tế nhị, đặc biệt sau khi nâng cấp quan hệ với Mỹ và Nhật gần đây". Theo chuyên gia này, đây là "một động thái được chờ đợi trong bối cảnh ông Tập Cận Bình đã đích thân đến Hà Nội".
Theo ghi nhận của các nhà quan sát, khi chấp nhận cùng với Trung Quốc xây dựng một "Cộng đồng chia sẻ tương lai", Việt Nam đã nối gót một số quốc gia Đông Nam Á khác như Lào, Cam Bốt, Miến Điện, hay Thái Lan, Indonesia.
Nhân chuyến công du Việt Nam, lãnh đạo Trung Quốc cũng không quên nhắc nhở Việt Nam về quan hệ với Mỹ. Theo hãng tin Pháp AFP, phát biểu vào hôm nay tại Hà Nội, ông Tập Cận Bình cho rằng Trung Quốc và Việt Nam cần phải phản đối mọi "nỗ lực gây rối ở Châu Á-Thái Bình Dương". Ông Tập không nhắc đến nước nào, nhưng trong thời gian gần đây, Bắc Kinh liên tục tố cáo Mỹ là "kẻ gây rối tại vùng Châu Á" và không mấy thiện cảm với việc Mỹ mở rộng ảnh hưởng qua Việt Nam.
Trong chuyến đi của ông Tập Cận Bình, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết hơn 30 thỏa thuận, trong đó có kế hoạch phát triển các tuyến đường sắt giữa Việt Nam và Trung Quốc, hay trong lãnh vực viễn thông. Tuy nhiên, theo Reuters, không có thỏa thuận nào được công bố về đất hiếm, mặc dù ông Tập Cận Bình từng kêu gọi hợp tác rộng rãi hơn về các khoáng sản trọng yếu.
Trọng Nghĩa
***************************
RFA, 13/12/2023
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình công du Việt Nam trong hai ngày 12 và 13/12/2023. Nhân chuyến thăm, hai bên đã ra Bản tuyên bố chung ; theo đó mối quan hệ "đối tác chiến lược toàn diện" của hai nước sẽ hướng tới xây dựng "Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại". Theo một số nhà nghiên cứu, sự thay đổi tên gọi này cho thấy nhiều điều thú vị đằng sau mối quan hệ của hai nước láng giềng này.
AP
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương ở Đại học Canberra, Úc, việc đổi tên gọi quan hệ của hai nước rất thú vị. Không phải là "cộng đồng chung vận mệnh" mà là "chung tương lai". Và họ không chỉ "chung tương lai" mà cái tên này có bổ ngữ rất dài phía sau : "có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại". Theo ông Nguyễn Thế Phương, cái bổ ngữ rất dài phía sau tên gọi này là một chỉ dấu quan trọng để thấy những điều Việt Nam muốn có từ mối quan hệ. Điều đó cho thấy Việt Nam chính là bên chủ động, cố gắng thay đổi tên gọi, làm cho bản chất quan hệ sẽ thay đổi so với quan hệ của Trung Quốc với các nước khác, và quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc cũng khác quan hệ với các cường quốc khác.
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Trường Đại học Luật Tp. HCM nhận xét rằng trong chuyến thăm này của Tập Cận Bình tới Việt Nam, có một số vấn đề mà Việt Nam quan tâm sâu sát : trước hết là kinh tế thương mại, đó là cái Việt Nam rất cần ; thứ hai là một loạt sáng kiến của Trung Quốc.
Sáng kiến Cộng đồng chung vận mệnh là một sáng kiến lớn, trong đó có nhiều sáng kiến nhỏ, như BRI (vành đai con đường), Sáng kiến Văn minh toàn cầu, Sáng kiến an ninh toàn cầu... Khi "du hành" tới Việt Nam thì Trung Quốc đã phải đổi tên gọi "Sáng kiến" này thành "Cộng đồng chia sẻ tương lai". Theo ông Hoàng Việt, nếu dùng khái niệm "vận mệnh" thì Việt Nam có thể phản đối. Việt Nam có lẽ e ngại khái niệm này vì "vận mệnh" có khả năng dẫn tới cách diễn giải là "tôi sống thì anh sống, tôi chết thì anh chết". Trong đó khi đó, quan điểm của Việt Nam là "không chọn bên". Chiến lược của Việt Nam là "ngoại giao cây tre", tức phần gốc thì vững chắc, không đổi, nhưng phần thân và ngọn thì linh hoạt. Nếu nói hai nước "chung vận mệnh" thì sẽ bị diễn giải là Việt Nam chọn bên.
Sáng kiến Vành đai con đường là một bộ phận của Sáng kiến Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định rằng tuyên bố của cả hai bên trước đây nói rất rõ là tiếp tục phát triển tuyến đường sắt kết nối Lào Cai - Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc) và Hải Phòng, đồng thời thảo luận về tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam.
Trao đổi với RFA, nhà nghiên cứu Hoàng Việt cho rằng chuyến thăm của Tập Cận Bình thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng quốc tế vì Việt Nam mới nâng cấp quan hệ với Mỹ và Nhật Bản. Dù sao thì Mỹ và Nhật cũng đang là đối thủ của Trung Quốc.
Trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Biden, nghi thức được giảm thiểu tối đa, không trải thảm đỏ, không bắn 21 phát đại bác. Nhưng với Trung Quốc thì các biểu tượng nghi thức rất quan trọng. Ngoài ra, khi Việt Nam thăm Trung Quốc thì Trung Quốc cũng đón rất trọng thị.
Các biểu tượng trong nghi thức đón tiếp ông Tập Cận Bình do đó cũng là cách mà Trung Quốc và Việt Nam muốn chứng tỏ là Trung Quốc đóng vai trò rất quan trọng, hơn Mỹ. Tất nhiên, đó mới là xét về nghi thức, vì còn nhiều vấn đề khác.
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, trong bối cảnh ông Tập Cận Bình đang muốn cân bằng lại ảnh hưởng ở Việt Nam, có những vấn đề ẩn giấu bên trong quan hệ hai nước, trong đó có tranh chấp Biển Đông. Nhất là gần đây thì xung đột giữa Trung Quốc và Philippines vẫn đang dâng cao.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương ở Đại học Canberra, Úc, trao đổi với RFA rằng chuyến thăm của ông Tập Cận Bình khẳng định một điều là trong các quan hệ của Việt Nam thì quan hệ với Trung Quốc là quan trọng nhất.
Mặt khác, tên gọi rất dài của mối quan hệ hai nước cũng truyền đi thông điệp là quan hệ Việt Nam - Trung Quốc mặc dù cũng là quan hệ "đối tác chiến lược toàn diện", nhưng quan hệ với Trung Quốc là quan hệ cao nhất, hơn quan hệ với các "đối tác chiến lược toàn diện" khác.
Học sinh vẫy cờ Việt Nam và Trung Quốc tại lễ đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ở Hà Nội hôm 12/12/2023. AP
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương nhấn mạnh rằng khác với Mỹ, Trung Quốc lại là nước đặt nặng vấn đề biểu tượng, thể diện. Trung Quốc đã đạt mục tiêu là truyền đi thông điệp là vị thế của họ là cao nhất trong các mối quan hệ của Việt Nam. Việt Nam cũng cho Trung Quốc thoả mãn điều đó về mặt biểu tượng. Nhưng đằng sau những điều đó, chúng ta thấy hai bên phải nhân nhượng lẫn nhau.
Để Việt Nam chấp nhận tên gọi "chia sẻ tương lai" như vậy, Trung Quốc phải chấp nhận thả lỏng cho Việt Nam nhiều vấn đề khác, như hợp tác khai thác đất hiếm giữa Việt Nam và các nước đối thủ của Trung Quốc như Nhật Bản.
Trong chuyến thăm của ông Tập Cận Bình, Việt Nam và Trung Quốc cũng đã ký kết 36 văn bản thỏa thuận hợp tác. Hiện nay hai bên mới chỉ công bố tên gọi của 36 văn bản này, thông tin chi tiết của các văn bản vẫn chưa được công bố.
Hai nhà nghiên cứu Hoàng Việt và Nguyễn Thế Phương đều cho rằng 36 văn bản thỏa thuận hợp tác được nhắc đến trong Thông cáo chung là những thỏa thuận mà giới quan sát sẽ tập trung nghiên cứu thêm để hiểu sâu hơn về mối quan hệ hai nước trong thực chất.
Trong danh sách 36 thỏa thuận nói trên, các lĩnh vực hợp tác chủ yếu là kinh tế, thương mại, cơ sở hạ tầng. Về cơ sở hạ tầng, đáng chú ý là dự án đường sắt kết nối biên giới Việt Nam - Trung Quốc, từ Lào Cai nối về Hải Phòng và Lào Cai nối sang Trung Quốc. Không thấy nói đến dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam dù gần đây dư luận Việt Nam quan tâm nhiều. Tuy vậy, trong 36 văn bản, có một Bản Ghi nhớ nói chung chung là hai bên sẽ "tăng cường hợp tác đường sắt Việt Nam - Trung Quốc".
Lĩnh vực an ninh - quốc phòng có đến bốn văn bản, tập trung vào phòng chống tội phạm, hợp tác trên biển và lĩnh vực tư pháp.
Ngoài ra, có một điều đáng chú ý là văn bản hợp tác giữa Bộ Tài nguyên Môi trường hai nước chỉ thấy nói tập trung vào trao đổi số liệu thủy văn mùa lũ, không thấy thỏa thuận nào liên quan đến đất hiếm. Tuy nhiên, Thông cáo chung có nói đến khả năng hai bên "tích cực tìm kiếm khả năng tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực khoáng sản then chốt", dù không nói rõ khoáng sản then chốt là gì. Điều này lặp lại một nội dung trong Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc hồi tháng 6 năm 2023 nhân chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Trung Quốc có nói hai bên sẽ "tích cực tìm kiếm khả năng tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực khoáng sản then chốt". Điểm mới là Thông cáo chung ngày 13/12/2023 nhấn mạnh là hợp tác ở lĩnh vực khoáng sản then chốt sẽ tuân theo "nguyên tắc thị trường và tinh thần thực chất, bền vững".
Nguồn : RFA, 13/12/2023
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng : Việt Nam ‘coi trọng cao độ’ và ‘ưu tiên hàng đầu’ quan hệ Việt – Trung
VOA, 01/12/2023
Lãnh đạo Đảng cộng sản cầm quyền Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trong buổi tiếp nhà ngoại giao hàng đầu Trung Quốc Vương Nghị vào chiều 1/12 khẳng định Việt Nam coi trọng cao độ và ưu tiên hàng đầu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, ủng hộ một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa, truyền thông Việt Nam đưa tin.
Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị tại Hà Nội ngày 1/12/2023.
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị vừa đến Hà Nội hôm 1/12 trong chuyến thăm hai ngày để đồng chủ trì Phiên họp lần thứ 15 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc, vốn là một diễn đàn truyền thống để hai nước thảo luận về hợp tác thương mại và kinh tế.
Chuyến đi của ông Vương được thực hiện theo lời mời của Phó Thủ tướng Việt Nam Trần Lưu Quang, theo lời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Vương Văn Bân nói hôm 30/11.
Chuyến đi diễn ra vào thời điểm mà một số nguồn tin nói nói với hãng thông tấn Reuters rằng hai quốc gia láng giềng đang chuẩn bị cho chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể diễn ra trong tháng này.
Trung Quốc và Hoa Kỳ đang tranh giành ảnh hưởng với các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, quốc gia vừa nâng cấp mối quan hệ với Washington lên mức đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 9 vừa qua. Việc nâng cấp này đã đưa Mỹ, là cựu thù của Hà Nội, lên ngang hàng với Bắc Kinh và Moscow.
Trong quá trình trước và sau khi nâng cấp mối quan hệ lên mức cao nhất với Washington, Hà Nội được cho là đã không quên thực hiện các động thái xoa dịu Bắc Kinh, với các chuyến thăm cấp cao diễn ra thường xuyên. Trong đó, ba trong số "tứ trụ" lãnh đạo cao nhất của đảng cầm quyền Việt Nam đã lần lượt thăm chính thức Trung Quốc, mở màn là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10/2022, kế đó là các chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trong năm 2023 và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng đã nhận được lời mời "sớm thăm Trung Quốc" gần đây.
Tại buổi tiếp ông Vương Nghị hôm 1/12, ông Nguyễn Phú Trọng cũng bày tỏ sự trân trọng những giúp đỡ của Trung Quốc "đối với sự nghiệp cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước của Việt Nam", VnExpress đưa tin.
Trước đó trong ngày 1/12, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Phó thủ tướng Trần Lưu Quang khi đồng chủ trì phiên họp với Bộ trưởng Vương Nghị đã đề nghị phía Trung Quốc tạo điều kiện để nâng cao hiệu suất thông quan hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới Việt – Trung, đẩy nhanh tiến độ mở cửa thị trường Trung Quốc cho nông, thủy sản của Việt Nam.
Khi bàn về các vấn đề trên biển, hai bên được cho là đã "trao đổi ý kiến thẳng thắn". Trong đó, ông Trần Lưu Quang đề nghị hai bên cần kiểm soát và xử lý thỏa đáng những bất đồng, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời đề nghị Trung Quốc cùng với ASEAN thúc đẩy đàm phán để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC), trang tin chính thức của chính phủ Việt Nam cho biết thêm.
Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và là nguồn nhập khẩu quan trọng cho lĩnh vực sản xuất của Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam là đối tác thương mại lớn lớn thứ 4 trên thế giới của Trung Quốc và lớn nhất trong khối ASEAN.
Thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tăng 5,5% lên 175,5 tỷ USD vào năm ngoái, trong đó các chuyến hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam chiếm 67%, theo Bộ Công thương Việt Nam.
Nguồn : VOA, 01/12/2023
**************************
Trung Quốc, Việt Nam tính kết nối đường sắt xuyên qua trung tâm đất hiếm
Reuters, VOA, 01/12/2023
Trung Quốc và Việt Nam đang nỗ lực nâng cấp đáng kể các tuyến đường sắt còn kém phát triển để tăng cường tuyến đường đi qua trung tâm đất hiếm và đến cảng biển hàng đầu ở miền bắc của Việt Nam, Reuters dẫn lời các quan chức cấp cao và nhà ngoại giao cho biết hôm 1/12.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị và Phó Thủ tướng Việt Nam Trần Lưu Quang, Hà Nội, ngày 1/12/2023.
Các quan chức và các nhà ngoại giao cho biết rằng cuộc đàm phán này là một phần trong quá trình chuẩn bị cho chuyến thăm Hà Nội trong vài tuần tới của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, điều này sẽ khẳng định thêm vai trò chiến lược ngày càng tăng của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu khi các cường quốc, trong đó có Hoa Kỳ, tranh giành ảnh hưởng chuỗi cung ứng này.
Các nhà ngoại giao cho biết rằng mối quan hệ thương mại sâu sắc hơn và kết nối đường sắt dự kiến sẽ được thảo luận vào ngày 1/12 khi nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc Vương Nghị gặp Phó Thủ tướng Việt Nam Trần Lưu Quang tại Hà Nội.
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính kêu gọi nâng cấp tuyến đường sắt nối Côn Minh ở miền nam Trung Quốc với thành phố cảng Hải Phòng của Việt Nam trong một tuyên bố đưa ra vào tháng trước, sau khi Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Vương Văn Đào có chuyến thăm hiếm hoi tới Việt Nam.
Từ trước đến nay các quan chức Trung Quốc luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường kết nối cơ sở hạ tầng với nước láng giềng phía Nam.
Việt Nam có đường sắt kết nối với Trung Quốc nhưng hệ thống này cũ kỹ và năng lực vận chuyển từ phía Việt Nam còn hạn chế. Hai hệ thống này hiện không thể tương tác với nhau, nghĩa là các chuyến tàu phải dừng ở biên giới để hành khách và hàng hóa được chuyển sang dịch vụ nội địa.
Tuyến đường sắt được nâng cấp sẽ đi qua khu vực Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn nhất, mà Trung Quốc cho đến nay là nhà tinh chế đất hiếm lớn nhất thế giới.
Việt Nam đang cố gắng xây dựng ngành đất hiếm của riêng mình. Nhưng điều này có thể thách thức sự thống trị của Trung Quốc, và dường như sự đấu đá nội bộ đã phủ bóng đen lên những nỗ lực này.
Theo truyền thông nhà nước Việt Nam, các chuyên gia ngành đất hiếm Trung Quốc và Việt Nam hồi tuần trước đã thảo luận vào về việc hợp tác mạnh mẽ hơn trong việc chế biến đất hiếm.
Không rõ Trung Quốc sẽ đóng góp bao nhiêu cho việc nâng cấp tuyến đường sắt ở Việt Nam và liệu Hà Nội có chấp nhận khoản tài trợ lớn từ Bắc Kinh cho việc này hay không.
Một nhà ngoại giao cho biết rằng tuyến đường này có thể được coi là một phần của Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) hàng đầu của Trung Quốc nhằm hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng trên toàn thế giới, nhưng không rõ liệu nó có được gắn nhãn là dự án BRI hay không.
Tuyến đường sắt được tăng cường cũng có thể thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc, chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy du lịch Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam và hội nhập hơn nữa các ngành công nghiệp sản xuất của hai nước, điều mà các chuyên gia coi là sự cộng sinh, với các nhà máy ở Việt Nam chủ yếu lắp ráp linh kiện sản xuất tại Trung Quốc.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và từ đầu năm đến nay cũng là nhà đầu tư chính, bao gồm cả đầu tư từ Hong Kong, khi nhiều công ty Trung Quốc chuyển một số hoạt động sang Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng thương mại giữa Bắc Kinh và Washington.
Bất chấp các mối liên kết kinh tế đang bùng nổ, hai quốc gia cộng sản vẫn bị lôi kéo vào cuộc tranh chấp lãnh hải kéo dài nhiều năm ở Biển Đông và từng xảy ra một cuộc chiến ngắn vào năm 1979, cuộc chiến gần đây nhất của Trung Quốc.
Reuters
Nguồn : VOA, 01/12/2023
****************************
Bắc Kinh và Hà Nội xem xét nâng cấp tuyến đường sắt xuyên qua vùng giàu đất hiếm của Việt Nam
Trọng Nghĩa, RFI, 01/12/2023
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã đến Hà Nội vào hôm nay 01/12/2023 để chuẩn bị cho cuộc họp lần thứ 15 của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt-Trung. Theo hãng tin Anh Reuters, một nội dung được bàn thảo là nâng cấp một tuyến đường sắt giữa Trung Quốc và Việt Nam, đi ngang qua vùng giầu đất hiếm ở miền bắc Việt Nam.
Các nguồn tin từ giới quan chức cao cấp của Việt Nam và các nhà ngoại giao cho biết là Trung Quốc và Việt Nam đang bàn thảo vấn đề nâng cấp đáng kể tuyến đường sắt còn kém phát triển nối liền hai nước, đi xuyên qua khu trung tâm đất hiếm của Việt Nam và đến Hải Phòng, cảng lớn nhất ở miền Bắc Việt Nam. Ảnh minh họa VOA Express tiếng Việt
Theo các nhà ngoại giao, kế hoạch nâng cấp đường sắt cùng với việc tăng cường quan hệ thương mại song phương dường như được thảo luận vào hôm nay nhân cuộc tiếp xúc giữa ngoại trưởng Trung Quốc với phó thủ tướng Việt Nam Trần Lưu Quang tại Hà Nội.
Vào tháng trước, thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đã kêu gọi nâng cấp tuyến đường sắt nối liền thành phố Côn Minh ở miền nam Trung Quốc với thành phố cảng Hải Phòng của Việt Nam, sau khi bộ trưởng Thương mại Trung Quốc có chuyến thăm hiếm hoi tới Việt Nam.
Việt Nam đã có đường sắt kết nối với Trung Quốc, nhưng hệ thống này rất cũ kỹ nên khả năng vận chuyển từ phía Việt Nam còn hạn chế. Hai hệ thống này lại không thể kết nối với nhau, khiến cho các đoàn tàu phải dừng ở biên giới và hành khách cũng như hàng hóa phải chuyển qua sử dụng phương tiện của nước sở tại.
Theo Reuters, một khi được năng cấp, tuyến đường sắt sẽ đi qua khu vực Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn nhất, trong bối cảnh Trung Quốc là nước đứng đầu thế giới trong lãnh vực tinh lọc đất hiếm.
Việt Nam đang cố gắng xây dựng ngành công nghiệp của riêng mình, có thể thách thức sự thống trị của Trung Quốc, nhưng theo Reuters, dường như đấu đá nội bộ ở Việt Nam đã phủ bóng đen lên những nỗ lực đó.
Các quan chức và nhà ngoại giao cho biết các cuộc hội đàm tại Hà Nội của ngoại trưởng Vương Nghị nằm trong quá trình chuẩn bị cho chuyến thăm Hà Nội trong vài tuần tới của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, một sự kiện sẽ khẳng định thêm vai trò chiến lược ngày càng tăng của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu với các cường quốc, bao gồm cả Hoa Kỳ, đang cố tranh giành ảnh hưởng.
Trọng Nghĩa
******************************
Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam bất đồng với hai bộ khác về đề án đường sắt tốc độ cao
An Tôn, VOA, 30/11/2023
Bộ Kế hoạch và đầu tư của Việt Nam vừa đưa ra đánh giá "không khả thi" đối với cả 3 phương án xây đường sắt tốc độ cao do Bộ Giao thông và vận tải đề xuất, trong đó 1 phương án được Bộ Xây dựng ủng hộ, theo tin của các báo Việt Nam hôm 30/11.
Tàu tốc độ cao Shinkansen của Nhật. Chưa rõ Việt Nam sẽ chọn công nghệ của nước nào.
Cách đây 2 ngày, theo tin của Thanh Niên và một số báo khác, Bộ Giao thông và vận tải trình chính phủ đề án xây đường sắt tốc độ cao, trong đó nêu ra 3 sự lựa chọn.
Phương án số 1 đề nghị chi hơn 67 tỷ đô la xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam đường đôi, khổ ray 1.435 mm, dài 1.545 km, tốc độ thiết kế 350 km/h, chỉ để chạy tàu chở khách. Tuyến đường sắt Bắc-Nam hiện tại sẽ được nâng cấp để chở hàng.
Tiếp đến là ý tưởng xây dựng mới tuyến đường sắt Bắc-Nam đường đôi, khổ ray 1.435 mm, phục vụ cả tàu chở khách lẫn tàu chở hàng, tốc độ thiết kế 200-250 km/h, tốc độ tối đa để chạy tàu hàng là 120 km/h. Nếu chọn kịch bản này sẽ cần số vốn đầu tư khoảng 72 tỷ đô la.
Cuối cùng là phương án 3, cần đến xấp xỉ 69 tỷ đô la để xây tuyến đường sắt Bắc-Nam đường đôi, khổ ray 1.435 mm, tốc độ thiết kế 350 km/h, chủ yếu để tàu chở khách chạy và dự phòng cho tàu chở hàng khi có nhu cầu. Trong trường hợp đầu tư luôn để khai thác tàu hàng chạy Bắc-Nam, vốn đầu tư cho phương án sẽ là gần 72 tỷ đô la.
Tạp chí điện tử Đầu tư Tài chính và một số báo khác cho hay phương án 3 đã nhận được sự tán đồng từ Bộ Xây dựng.
Tuy nhiên, các bản tin hôm 30/11 trên VnExpress, VTC News và các trang tin khác nói rằng Bộ Kế hoạch và đầu tư đưa ra đánh giá "không khả thi" khi góp ý chính thức về đề án của Bộ Giao thông và vận tải.
Bộ Kế hoạch và đầu tư cho rằng phương án 1 không đáp ứng các yêu cầu của chính phủ và Bộ Chính trị thuộc Đảng cộng sản, phương án 2 không đúng với kiến nghị của Hội đồng Thẩm định nhà nước, còn phương án 3 vừa không đáp ứng được yêu cầu vừa bất hợp lý về số tiền đầu tư.
Vẫn bộ này bình luận thêm rằng "Liên hệ thực tiễn với kinh nghiệm quốc tế thì hiện nay trên thế giới chưa có tuyến đường sắt tốc độ cao nào có tốc độ thiết kế 350 km/h có thể vận tải hỗn hợp hành khách và hàng hóa", theo trích dẫn trên VTC News và một số trang tin.
Đánh giá của Bộ Kế hoạch và đầu tư có sự cộng hưởng với quan điểm của một loạt các chuyên gia, nhà khoa học am hiểu về đường sắt, theo quan sát của VOA.
Họ - cũng là thành viên của các hội khoa học kỹ thuật thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) - đã nêu ý kiến bằng văn bản gửi tới Tạp chí Kinh tế Việt Nam, tức VnEconomy.
Văn bản có đoạn : "Thế giới có đường sắt tốc độ cao chuyên dùng cho chở khách, tốc độ đạt tới 350 km/h với tải trọng trục 17 tấn nhưng không ở đâu trên thế giới có đường sắt tốc độ cao khai thác hỗn hợp cả tàu khách và tàu hàng với tải trọng trục 22,5 tấn mà tốc độ các đoàn tàu khách lại trên 300 km/h. Lý do là bởi không đảm bảo được năng lực thông qua và an toàn chạy tàu".
Các nhà khoa học và chuyên gia này tiếp đó lên tiếng cảnh báo : "Vì vậy, nếu chủ trương thực thi theo kịch bản 350 km/h, chạy tàu hỗn hợp nêu trên sẽ là một cuộc thử nghiệm hết sức tốn kém, đầy rủi ro và nhiều hệ lụy đối với nền kinh tế của đất nước".
An Tôn
Nguồn : VOA, 30/11/2023
Ông Tập lại nhắc Việt Nam về phương châm ‘16 chữ’, ‘4 tốt’, ‘củng cố phòng tuyến tư tưởng’
VOA, 28/04/2023
Bà Trương Thị Mai, Thường trực Ban Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, vừa có cuộc tiếp kiến với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh. Ông Tập căn dặn bà Mai rằng trước môi trường quốc tế "sóng to gió lớn", hai bên Trung-Việt cần phải giữ phương châm "16 chữ" và tinh thần "4 tốt", thúc đẩy xây dựng cộng đồng "cùng chung vận mệnh Trung-Việt".
Truyền thông Trung Quốc loan tin rằng khi tiếp bà Mai hôm 26/4, ông Tập nhờ bà chuyển lời thăm hỏi tới Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và nhấn mạnh rằng "trước môi trường quốc tế sóng to gió lớn và nhiệm vụ cải cách, phát triển và ổn định của mỗi nước, hai bên Trung-Việt cần phải giữ phương châm "16 chữ" và tinh thần "4 tốt", đó là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", và "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt".
Ngoài ra, nhà lãnh đạo Trung Quốc còn kêu gọi thúc đẩy xây dựng cộng đồng "cùng chung vận mệnh Trung-Việt dốc sức vào sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại, kiên trì trang bị lý luận khoa học chủ nghĩa Mác, nắm chắc thế mạnh chính trị lớn mạnh này, đi sâu giao lưu và học hỏi lẫn nhau, củng cố phòng tuyến tư tưởng, chung tay thúc đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa", theo đài phát thanh CRI của Trung Quốc.
Báo Nhân Dân của Đảng cộng sản Việt Nam dẫn lời bà Mai đáp lại ông Tập rằng Việt Nam "luôn coi trọng và ưu tiên hàng đầu" phát triển quan hệ với Trung Quốc theo phương châm "16 chữ" và tinh thần "4 tốt".
Bà nói thêm rằng Việt Nam "sẵn sàng" cùng Trung Quốc thực hiện tốt nhận thức chung quan trọng đạt được giữa nhà lãnh đạo tối cao của hai Đảng, đồng thời thúc đẩy kết nối hợp tác "Hai hành lang, một vành đai" với việc cùng xây dựng "Vành đai và con đường", thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước và "sự nghiệp xã hội chủ nghĩa", theo đài CRI.
Bà Mai, người vừa kết thúc chuyến công du Trung Quốc từ ngày 25 đến 28/4, cũng khẳng định rằng Việt Nam "luôn tuân thủ" chính sách Một Trung Quốc và kiên quyết ủng hộ nỗ lực thống nhất đất nước của Bắc Kinh, theo Tân Hoa Xã.
Bà Mai, đồng thời là Trưởng ban Tổ chức Trung ương, người được cho là nhân vật quyền lực thứ hai sau Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trong, cũng chứng kiến việc Ban Tổ chức Trung ương của bà ký bản ghi nhớ hợp tác với Ban Tổ chức Trung ương Trung Quốc.
Trong chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 10 năm ngoái của ông Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã ra tuyên bố chung về tăng cường quan hệ. Trong chuyến thăm này, ông Tập cũng nhắc ông Trọng về phương châm "16 chữ" và tinh thần "4 tốt".
Chuyến thăm của bà Mai diễn ra khi Trung Quốc vừa ban bố lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông trong mùa hè năm nay. Hôm 20/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc đã không chỉ "xâm phạm chủ quyền" của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, mà còn vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế của nước này.
Truyền thông Việt Nam dường như không nêu bất kỳ chi tiết nào về tranh chấp chủ quyền biển đảo, hay đề cập đến lệnh cấm đánh bắt của Bắc Kinh trong chuyến công du đến nước láng giềng phương bắc của nữ Thường trực Ban Bí thư.
*******************************
Ông Võ Văn Thưởng : sắp xử thêm nhiều vụ án tham nhũng
VOA, 28/04/2023
Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng nói với các cử tri tại Đà Nẵng vào chiều ngày 27/4 rằng chính quyền sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh với tham nhũng một cách toàn diện và sắp tới ‘sẽ có thêm nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử’.
Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng phát biểu trước các cử tri Đà Nẵng (Ảnh chụp màn hình danang.gov)
Ông Thưởng, vốn cũng là đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng, đã có buổi tiếp xúc cử tri các quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà để chuẩn bị cho kỳ họp thứ năm của Quốc hội, trang mạng VOV cho biết.
"Còn nhiều vụ việc đang tiếp tục làm, sẽ sớm có thông báo và sớm đưa ra xét xử", ông Thưởng được tờ Pháp luật dẫn lời nói.
Chủ tịch nước Thưởng khẳng định Đảng sẽ chống tham nhũng ở cả Trung ương tới các địa phương, cả tham nhũng lớn và tham nhũng vặt, cả cán bộ đương chức lẫn những người đã về hưu theo tinh thần ‘không có vùng cấm’, theo tường thuật của tờ Pháp luật.
Ông nói ‘sẽ không có chuyện hạ cánh an toàn’ và nếu trong thời gian đương chức, cán bộ đã có hành vi thanh nhũng thì sẽ bị truy ra để xử lý.
Thời gian qua, Đảng cộng sản đã kỷ luật nhiều cán bộ lãnh đạo là bí thư tỉnh ủy, chủ tịch tỉnh, bộ trưởng, thứ trưởng sau khi những vị này đã về hưu.
Bên cạnh xử lý các cán bộ tham nhũng thì các cán bộ lãnh đạo để xảy ra tham nhũng ở cấp dưới của mình cũng sẽ bị xử lý, ông Thưởng được dẫn lời nói, vì họ ‘không làm hết trách nhiệm, lãnh đạo chưa sâu sắc’.
Đảng cộng sản Việt Nam gần đây đã bắt đầu xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng ở cơ quan của mình, điển hình như Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và các phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam đã phải từ chức khi xảy ra tham nhũng trong nhiệm kỳ chính phủ do các ông lãnh đạo.
Trả lời câu hỏi của các cử tri rằng tại sao Đảng càng chống tham nhũng thì tham nhũng càng nhiều, ông Thưởng lý giải rằng đó là do Đảng’ quyết tâm làm mạnh thì phát hiện nhiều’ và các vụ việc tham nhũng ‘đều được công khai cho toàn dân biết’, theo trang mạng VOV.
Trước câu hỏi xử lý cán bộ tham nhũng nhiều sẽ dẫn đến thiếu cán bộ, ông Thưởng được VOV dẫn lời nói ông ‘không sợ thiếu’ vì ‘từ bài học một số địa phương, bộ, ngành sau khi xử lý cán bộ vi phạm và thay thế cán bộ mới thì đều đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ’.
Ông nhấn mạnh chính quyền ‘sẽ cố gắng làm tốt hơn việc thu hút người tài, tâm huyết, trách nhiệm vào bộ máy nhà nước’.
"Cần thay thế thế kịp thời cán bộ không đủ năng lực, uy tín thấp, không chờ hết thời hạn bổ nhiệm", ông Thưởng được dẫn lời nói.
*************************
Loạn showbiz, Việt Nam cân nhắc trấn áp mạnh tay
VOA, 28/04/2023
Nhà chức trách Việt Nam sẽ trừng phạt các nghệ sĩ dính chàm bằng biện pháp ‘ba cấm’, tức cấm diễn, cấm sóng, cấm quảng cáo, kể từ tháng 10 tới để làm trong sạch lại giới showbiz trong nước vốn đang bị bê bối bủa vây, theo tìm hiểu cùa VOA.
Ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng mới đây bị chỉ trích vì tự xưng là 'Vua' trong dự án phim tiểu sử bản thân (Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Giới showbiz ở Việt Nam trong thời gian gần đây bị dính hàng loạt tai tiếng, từ cáo buộc ăn chặn tiền từ thiện, quảng cáo thuốc sai sự thật, tung tin thất thiệt, phát ngôn gây sốc, quỵt tiền, vỡ nợ, sử dụng chất kích thích, buôn bán ma túy cho đến bị tố cáo hiếp dâm ở nước ngoài.
Biện pháp ‘ba cấm’ mà Bộ Thông tin và Truyền thông vừa thông qua trong Kế hoạch triển khai Chiến lược phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử nhắm tới các nghệ sĩ và người có ảnh hưởng trên mạng xã hội có hành vi vi phạm pháp luật, trái thuần phong mỹ tục và gây ảnh hưởng không tốt đến xã hội, trang mạng VOV cho biết.
Các biện pháp cấm trên khắp các nền tảng này gợi nhắc đến ‘phong sát’ – cách làm của Trung Quốc phong tỏa toàn diện đối với bất cứ nghệ sĩ nào có tỳ vết, không cho họ còn không gian để xuất hiện trước công chúng.
Theo VOV thì biện pháp này của Bộ Thông tin và Truyền thông ‘nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của dư luận’ nhằm tránh cho giới trẻ bị tác động xấu từ giới showbiz.
Quy trình thực hiện biện pháp này đang được Cục Nghệ thuật Biểu diễn, Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch, phối hợp với Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông soạn thảo, tờ Tuổi Trẻ dẫn lời bà Trần Ly Ly, quyền Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn, cho biết.
Khác với ‘phong sát’ của Trung Quốc là cấm luôn, Việt Nam sẽ cấm có thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 8 tháng, 10 tháng hay 24 tháng tùy theo mức độ vi phạm, bà Ly được Tuổi Trẻ dẫn lời nói.
Các vi phạm sẽ được một tổ công tác của hai bộ này xem xét, từ đó khuyến nghị đến các cơ quan truyền thông, các đơn vị tổ chức biểu diễn và các công ty để họ không mời các nghệ sĩ vi phạm, cũng theo bà Ly.
Tại buổi tọa đàm về thực trạng văn hóa ứng xử trên không gian mạng được tổ chức ở Hà Nội hôm 19/4, người mẫu Hạ Vy và diễn viên trẻ Hàn Trang được trang mạng VnExpress dẫn lời nói họ ủng hộ làm mạnh tay với những nghệ sĩ nhúng chàm nhưng ‘đừng đến mức phong sát’.
VOA đã liên lạc một số nghệ sĩ và nhà quản lý văn hóa trong nước để hỏi ý kiến về việc này nhưng tất cả đều từ chối trả lời.
‘Cần lập lại trật tự’
Trao đổi với VOA từ thành phố Hồ Chí Minh với điều kiện giấu tên vì sợ mất lòng người trong giới, một nhà báo theo dõi mảng văn nghệ nói ông ‘rất đồng tình’ với biện pháp mạnh tay để lặp lại trật tự trong giới nghệ sĩ mà ông cho là ‘hiện rất loạn’.
"Trước giờ toàn giơ cao đánh khẽ nên các nghệ sĩ không sợ. Họ cứ làm bừa. Báo chí có phê bình nhưng sau đó một thời gian thì họ lại quên đi", nhà báo này chỉ ra.
Bên cạnh đó, việc khán giả Việt Nam ‘quá dễ dãi’, theo lời nhà báo này, càng khiến cho những nghệ sĩ làm sai ‘cứ mặc kệ, thậm chí họ còn lợi dụng chiêu trò bẩn để càng thêm nổi tiếng’.
"Khán giả cứ tẩy chay một thời gian rồi sau đó nghe họ hát, xem họ diễn trở lại thì họ đâu có sợ", ông giải thích.
Ông dẫn chứng việc một số nghệ sĩ ‘bản thân không hề biết gì về dược lý mà lại lên mạng quảng cáo tầm bậy tầm bạ thuốc chữa mỡ bụng chẳng hạn’. "Họ đem tên tuổi mình ra đảm bảo, khán giả cứ thấy nghệ sĩ quảng cáo là họ tin, họ mua", ông nói.
"Bây giờ có những bạn trẻ chỉ cần có ngoại hình, giọng ca trung bình, vô phòng thu thu một bài hát nào đó đang nổi rồi thảy lên YouTube hay TikTok hay tham gia gameshow trên truyền hình là ngày mai nổi tiếng ngay", nhà báo giấu tên này nói thêm và gọi những người này là ‘nổi tiếng ảo’.
Việc nổi tiếng nhờ chiêu trò, đánh vào thị hiếu dễ dãi này, theo ông, là ‘rất không công bằng cho những người làm nghề tử tế’.
"Có những nghệ sĩ phải qua đào tạo trường lớp mấy năm, khi mới ra nghề còn phải chật vật chạy Grab kiếm sống để tối còn lên sân khấu biểu diễn. Họ yêu nghề, bền bỉ với nghề với hy vọng một ngày nào đó được công chúng để ý", ông cho biết.
Bên cạnh đó, quy chế phong tặng danh hiệu nhà nước như ‘Nghệ sĩ Nhân dân’, ‘Nghệ sĩ Ưu tú’ lâu nay chỉ xét đến số lượng huy chương tại các hội diễn khiến cho ‘một số nghệ sĩ có đời sống cá nhân be bét cũng được trao danh hiệu’, ông chỉ ra.
"Có thưởng, có trao danh hiệu thì phải có phạt", ông lập luận. "Hình ảnh người nghệ sĩ đã trở nên ngày càng lố bịch khiến khán giả không còn thương, không còn nể gì hết mà nếu không có biện pháp mạnh thì sẽ càng tuầy huầy hơn".
Tuy nhiên, ông cho rằng không nên rập khuôn ‘phong sát’ kiểu Trung Quốc vì như vậy thì ‘quá nặng nề’, mà chỉ nên cấm có thời hạn hay thu hồi lại danh hiệu đã phong tặng.
"Bản thân người nghệ sĩ chỉ cần không được đứng trên sân khấu, không được lên hình trong 6 tháng 1 năm là đã quá đau rồi", ông lý giải và dẫn ra trường hợp nghệ sĩ hài Minh Béo, vốn bị kết tội ấu dâm ở Mỹ, về nước đã phải rất khổ sở tìm lại chỗ đứng vì bị các sân khấu và đài truyền hình tẩy chay.
"Ở Việt Nam, Minh Béo không bị tòa nào kết án hết nhưng vẫn phải rời khỏi cuộc chơi chuyên nghiệp", ông nói.
Nhà báo này đề xuất xây dựng một bảng quy tắc cụ thể - từng vi phạm sẽ bị cấm tương ứng trong bao lâu. Việc đó cũng nhằm tạo điều kiện cho những nghệ sĩ lầm lỡ ‘có cơ hội quay đầu’, ông nói thêm.
Ngay sau khi Đại hội Đảng lần thứ 20 của Trung Quốc vừa kết thúc hôm 22/10/2022, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm đến Trung Quốc. Điều này không có gì mới trong quan hệ giữa hai đảng cộng sản và hai nhà nước Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên chuyến đi Trung Quốc lần này của ông Nguyễn Phú Trọng đã gây ngạc nhiên cho dư luận người Việt trong và ngoài nước bởi tính chất đặc biệt quan trọng của nó. Phái đoàn của ông Trọng rất hùng hậu, bao gồm đa số thành viên ban lãnh đạo đảng như Võ Văn Thưởng, Tô Lâm, Phan Văn Giang, Trương Thị Mai, Phạm Đình Trạc, Trần Thanh Mẫn (tất cả những người này đều là Ủy viên Bộ chính trị). Ngoài ra còn có Đỗ Văn Chiến (Chủ tịch Mặt trận tổ quốc), Lê Minh Hưng (Chánh văn phòng Trung ương Đảng) và Lê Minh Khái (Phó thủ tướng). Ra sân bay tiễn đoàn có cả ông Thủ tướng Phạm Minh Chính lẫn Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc.
Ai cũng biết là ông Nguyễn Phú Trọng đang bệnh tật, không được khỏe, đi đứng khó khăn và thường xuyên vắng mặt trong những sự kiện quan trọng tại Việt Nam. Câu hỏi mà người dân thắc mắc là tại sao chuyến đi Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng lại được Đảng cộng sản Việt Nam chú trọng đặc biệt như vậy ? Mục đích của họ là gì ?
Chuyến đi Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng báo hiệu một tương lai rất xấu cho Đảng cộng sản lẫn dân tộc Việt Nam.
Câu trả lời của chúng tôi đó là vận mệnh của Đảng cộng sản Việt Nam đang lâm nguy và họ cần có một chỗ dựa. Thật ra trước đây Đảng cộng sản vẫn dựa vào Trung Quốc và Nga. Nay nước Nga của Putin coi như thất bại toàn tập sau cuộc xâm lược Ukraine. Cuộc chiến này vẫn chưa kết thúc nhưng kết quả thì đã quá rõ. Nga vừa phải tháo chạy khỏi thành phố Kherson của Ukraine. Đây là thành phố duy nhất mà Nga chiếm được từ khi xâm lược Ukraine. Dù cuộc chiến này kết thúc như thế nào thì nước Nga cũng sẽ bị xóa sổ khỏi danh sách các cường quốc trên thế giới.
Việt Nam vẫn quan hệ tốt với Trung Quốc nhưng từ 10 năm qua đã có những bước tiến lớn trong quan hệ ngoại giao với các nước dân chủ (đứng đầu là Mỹ) nhờ chính sách đu dây (ngoại giao cây tre). Có những lúc quan hệ Việt – Mỹ nồng ấm đến mức ông Nguyễn Phú Trọng được mời sang Mỹ và được đón tiếp một cách nồng hậu như một nguyên thủ quốc gia tại phòng bầu dục Nhà Trắng. Đó là hồi tháng 7/2015, khi nước Mỹ thời Obama thực hiện chính sách xoay trục sang Châu Á – Thái Bình Dương. Đã xuất hiện một luồng dư luận, bắt nguồn từ trong nội bộ đảng là ‘Đảng cộng sản sẽ thoát Trung’ để quay sang Mỹ. Thực hư không rõ thế nào nhưng điều này đã làm phấn chấn tinh thần cho nhiều người Việt Nam và ngay cả với các đảng viên cộng sản. Chỉ cần vào Google gõ ‘Việt Nam cần thoát Trung’ là có ngay 240 triệu kết quả trong 0,57 giây. Ai cũng hy vọng và hồ hởi khi Đảng cộng sản có vẻ đang tách khỏi quĩ đạo của Trung Quốc để xích lại gần Mỹ. Các cuộc thăm viếng lẫn nhau giữa lãnh đạo hai nước diễn ra thường xuyên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng liên tục, năm sau cao hơn năm trước.
Trong đại dịch Covid-19, Mỹ là quốc gia viện trợ vắc-xin nhiều nhất cho Việt Nam và điều đó đã giúp ngăn chặn đại dịch bùng phát và không kéo dài như bên Trung Quốc. Đỉnh điểm của mối quan hệ nồng ấm Việt – Mỹ là chuyến thăm Việt Nam của bà Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris hồi tháng 8/2021. Mục đích của chuyến đi này là để nâng cấp mối quan hệ Việt – Mỹ từ ‘đối tác chiến lược’ lên thành ‘đối tác chiến lược toàn diện’. Tuy nhiên mong muốn đó từ hai phía đã không thành vì sự can thiệp của Trung Quốc. Chỉ vài tiếng trước khi chuyên cơ của bà Kamala Harris hạ cánh xuống Nội Bài thì đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Hùng Ba đã ‘yêu cầu’ gặp thủ tướng Phạm Minh Chính để nhắc lại cam kết của Hà Nội là ‘không liên kết với nước này để chống lại nước kia’. Cuộc gặp gỡ vội vàng và nội dung của nó đã được báo chí Việt Nam công khai ngay lập tức.
Quan hệ Việt – Mỹ ngày càng trở lên lạnh nhạt sau cuộc thăm Việt Nam của bà Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris hồi tháng 8/2021.
Bắt đầu từ hôm đó quan hệ Việt – Mỹ ngày càng trở lên lạnh nhạt. Khi cuộc chiến xâm lược Ukraine diễn ra thì Việt Nam đã công khai đứng về phía Nga và Putin khi 3 lần bỏ phiếu trắng tại Liên Hợp Quốc trong việc lên án cuộc xâm lược trắng trợn, vi phạm nghiêm trọng các công ước quốc tế của Putin. Kết quả của hành động chọn phe đó là Mỹ đã hủy hai cuộc thăm viếng Việt Nam, một của ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken hồi tháng 8/2022 và mới đây là của tổng thống Mỹ Joe Biden hôm 12/11/2022 khi ông đến Campuchia tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN. Việc ông Biden hứa sẽ đến Việt Nam trong một thời điểm thích hợp chỉ là ngôn ngữ ngoại giao. Hơn nữa sức khỏe và tuổi tác không cho phép ông Biden di chuyển thường xuyên và xa xôi như vậy. Việc ông Phạm Minh Chính nói Việt Nam không chọn phe cho thấy, một là nội bộ Đảng không còn đồng thuận nên ‘ông nói gà, bà nói vịt’ ; hai là họ ‘nói một đằng, làm một nẻo’ như bản chất của họ từ xưa đến nay.
Cuộc chiến Nga – Ukraine đã, đang và sẽ thay đổi hoàn toàn trật tự thế giới đúng như nhận định và phân tích của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Dù cuộc chiến vẫn chưa kết thúc nhưng những tác động sâu sắc của đó đối với thế giới thì quốc gia nào cũng có thể cảm nhận được. Kinh tế suy thoái, lạm phát cao, sản xuất suy giảm đang đe dọa sự ổn định của nhiều quốc gia và cuộc sống của mỗi người dân. Theo nhận định của ông Achim Steiner, Giám đốc chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) hôm 10/11 thì có đến 54 quốc gia thuộc nhóm ‘đang phát triển’ có thể bị phá sản và vỡ nợ nếu không được hỗ trợ khẩn cấp. Tình trạng khan hiếm xăng dầu tại Việt Nam là dấu hiệu báo trước cho một cuộc khủng hoảng kinh tế trong nay mai.
Đại dịch Covid-19, cuộc chiến xâm lược Ukraine của nước Nga và nhất là phong trào dân túy bùng phát trên khắp thế giới thời gian qua đã đặt dấu chấm hết cho phong trào toàn cầu hóa xô bồ, duy lợi nhuận, bất chấp nhân quyền và đạo đức. Việc Mỹ và các nước dân chủ đem các nhà máy quan trọng về chính quốc và chuyển các nhà máy còn lại từ Trung Quốc sang các nước đồng minh dân chủ là một tiến trình bắt buộc và không thể đảo ngược.
Việc Đảng cộng sản Việt Nam chọn phe đứng về phía Trung Quốc qua chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ khiến Việt Nam trả giá đắt. Nền kinh tế bắt đầu xấu đi : Bất động sản đóng băng, tiền nội tệ mất giá, ngân hàng thiếu tiền, chứng khoán giảm sâu, các nhà máy bắt đầu sa thải công nhân vì không có đơn đặt hàng mới… cộng thêm các vụ bắt bớ liên tục các doanh nghiệp lớn là những gì mà người dân đang chứng kiến. Tuy nhiên khó khăn và khủng hoảng đang chờ Việt Nam ở phía trước. Việt Nam là nước có kim ngạch xuất nhập khẩu cao một cách bất thường khi chiếm hơn 200% GDP, điều này có nghĩa là Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài. Việt Nam không còn làm chủ nền kinh tế của mình và sẽ phải gánh chịu những hậu quả xấu không phải do mình gây ra.
Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có vấn đề.
Cơ hội ‘nghìn năm có một’ của Việt Nam đã bị Đảng cộng sản phá hỏng và đánh mất khi họ chọn đứng về phe các nước độc tài thay vì dân chủ hóa đất nước để gia nhập vào hàng ngũ các nước văn minh và phát triển. Đảng cộng sản Việt Nam đã vì quyền lợi của mình mà đi ngược lại nguyện vọng của người dân và lợi ích của đất nước. Ý thức hệ cộng sản đã thắng thế và đang nhấn chìm dân tộc Việt Nam xuống bùn đen. Giải pháp cho đất nước không thể đến từ Đảng cộng sản. Người dân Việt Nam sẽ phải trả giá đắt để nhận ra điều đó.
Cuộc chiến Nga – Ukraine gần như là một ‘tiểu thế chiến’ khi có hơn 40 nước ủng hộ và đứng về phía Ukraine, trong khi đó có ít nhất là Iran và Bắc Triều Tiên đã gửi vũ khí giúp Nga chống lại Ukraine. Dù có viện trợ và giúp đỡ Nga hoặc Ukraine hay không thì tất cả các nước đều phải có lập trường và thái độ rõ ràng trong cuộc chiến này, tức là phải chọn phe. Đường lối ngoại giao cây tre, gió thổi chiều nào nghiêng chiều đấy của Đảng cộng sản không còn đất để dụng võ khi Liên Hợp Quốc liên tục tổ chức bỏ phiếu để các nước tỏ rõ thái độ và lập trường của mình. Trong chuyến ghé thăm Việt Nam hôm 13/11 trên đường đi dự Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại Indonesia, thủ tướng Đức Olaf Scholz nhắc lại ‘chúng tôi mong muốn Việt Nam phải có quan điểm rõ ràng hơn trong cuộc xung đột Nga – Ukraine’. Quan điểm của Việt Nam như thế nào thì cả thế giới đều đã biết, phát biểu của thủ tướng Đức là muốn Việt Nam thay đổi lập trường và đứng về phía các nước dân chủ. Nên biết Đức là đầu tàu kinh tế và là trụ cột của Liên Hiệp Châu Âu (EU), là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn và quan trọng nhất của Việt Nam.
Cuộc chiến Nga – Ukraine là một cuộc chiến ý thức hệ, không chỉ có Mỹ và EU đứng về phía Ukraine mà là tất cả các nước dân chủ trên thế giới như Nhật, Úc, Canada, Singapore… đều đứng về phía Ukraine. Sau Nga sẽ đến lượt Trung Quốc và đó không phải là cuộc thư hùng giữa Mỹ và Trung Quốc mà là cả thế giới dân chủ với Trung Quốc. Thời kỳ hữu hảo, hợp tác làm ăn với nhau, bất chấp thể chế chính trị, đạo đức và lẽ phải giữa các nước độc tài và dân chủ đã chấm dứt. Việt Nam dù không muốn nhưng cũng phải chọn phe và họ đã chọn phe. Đảng cộng sản không chọn đứng về phía các nước dân chủ vì nhiều lý do, thứ nhất họ luôn đặt quyền lợi của họ lên trên lợi ích của nhân dân, thứ hai là Trung Quốc đã nắm giữ được rất nhiều bí mật động trời của Đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc dùng các bí mật thâm cung bí sử đó để khống chế ban lãnh đạo Đảng cộng sản.
Trung Quốc khống chế được Đảng cộng sản Việt Nam vì họ nắm giữ được nhiều bí mật động trời ?
Chuyến đi Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng được tổ chức một cách trọng thể chưa từng có cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam, một lần nữa chấp nhận hoàn toàn thần phục và đứng về phía Trung Quốc. Tuy nhiên kết quả sẽ không như Đảng cộng sản mong muốn, Trung Quốc không thể giúp gì cho Việt Nam. Ra đón và tiễn đoàn Việt Nam chỉ có ông Lưu Kiến Siêu, một ủy viên trung ương Đảng của Trung Quốc. Trong các cuộc gặp gỡ với ông Nguyễn Phú Trọng thì ngoài quốc kỳ hai nước ra còn có cờ đỏ búa liềm, biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản. Một thông điệp rất rõ ràng của Trung Quốc gửi đến Việt Nam và thế giới: Chúng tôi chỉ gắn kết với nhau bởi ý thức hệ cộng sản.
Trung Quốc đã và đang khủng hoảng, điều này không còn che dấu được ai. Trung Quốc không còn tiền để cứu cả Sri-Lanka và Lào thì làm sao cứu được Việt Nam. Ông Nguyễn Xuân Phúc mấy hôm nay phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi để cầu cạnh các doanh nghiệp Mỹ tiếp tục đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên ông sẽ nhận được rất nhiều các lời hứa còn thực hiện thì chắc phải đợi đến… tết Công gô. Ngay cả công ty Samsung Việt Nam cũng đang có kế hoạch giảm sản lượng sản xuất tại Việt Nam từ 50-60% xuống 40% trong năm 2023. Nên biết doanh thu của Samsung Việt Nam năm 2021 là hơn 74 tỉ USD, chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Đã đến lúc trí thức và người dân Việt Nam nên tìm hiểu và ủng hộ cho một giải pháp khác, của một tổ chức chính trị khác ngoài Đảng cộng sản vì giải pháp cộng sản không còn là giải pháp cho đất nước.
Việt Hoàng
(20/11/2022)
Thủ tướng thăm tỉnh biên giới dặn "không để ảnh hưởng toàn cục với Trung Quốc !"
RFA, 17/11/2021
Thủ tướng Phạm Minh Chính hôm 15/11/2021 lên thăm Cao Bằng - tỉnh có hơn 300 km đường biên với Quảng Tây, sau vụ Trung Quốc cho lắp các camera cảm biến phát loa xua đuổi người Việt Nam ngay hàng rào biên giới mà Đài Á Châu Tự Do đưa tin 3 ngày trước đó.
Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm bộ đội biên phòng Đàm Thủy - báo Chính Phủ
Trong buổi làm việc được mạng báo Chính phủ tườngthuật, ông Chính yêu cầu tỉnh Cao Bằng và huyện Trùng Khánh cần xây dựng kế hoạch và các biện pháp cụ thể, với mục tiêu cao nhất là "bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đường biên giới quốc gia ; giữ vững hòa bình, ổn định tại khu vực biên giới để thúc đẩy giao lưu, hợp tác, hữu nghị và phát triển ; không để ảnh hưởng đến tổng thể cục diện ổn định, hữu nghị, hợp tác trong quan hệ với nước bạn".
Người đứng đầu chính phủ hiện nay yêu cầu lãnh đạo Đảng cộng sản, Nhà nước và người dân địa phương cần xem việc quản lý, bảo vệ tốt đường biên, mốc giới ; phát triển đường biên giới với Trung Quốc thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị và phát triển.
Thủ tướng đề nghị huyện Trùng Khánh theo dõi sát tình hình thực địa, kịp thời phát hiện và chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng của Việt Nam và của đối phương nhằm xử lý các vi phạm về đường biên giới bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các thỏathuận liên quan giữa hai nước, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Như chúng tôi đã thông tin, ông Nguyễn Hoàng Nam – người sáng tạo nội dung trên nền tảng Youtube đăng tải đoạn video hôm 6 tháng 11 cho thấy, camera theo dõi của Trung Quốc đặt ngay đoạn hàng rào và chĩa qua vùng đất của Việt Nam, đồng thời phát loa xua đuổi bằng tiếng Việt khi có người lạ đến gần.
Hồi cuối tháng 8, một đoạn video do người dân quay lại cho thấy, có hai người trong bộ đồng phục quân đội đang nói chuyện với đại diện Trung Quốc và dọa sẽ xử lý khi binh lính quốc gia này xây lấn vào đất của Việt Nam. Một đoạn video khác cũng được chia sẻ hôm 15/9 xảy ra ở Cột mốc biên giới số 57 đặt trên đỉnh núithuộc xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Trong đó người dân Lai Châu nhổ rào biên giới mà Trung Quốc cắm xuống vì cho rằng nước này có gắn cả điện vào hàng rào gây nguy hiểm cho người dân khi đến gần.
Nguồn : RFA, 17/11/2021
********************
Trung Quốc gắn camera cảm biến phát loa xua đuổi dân Việt ở hàng rào biên giới
RFA, 12/11/2021
Chính quyền Trung Quốc cho xây dựng hệ thống hàng rào dây thép gai kiên cố dọc biên giới với Việt Nam, đáng chú ý là hệ thống hàng rào này được lắp đặt camera cảm biến, tự động phát cảnh báo xua đuổi khi có người lại gần.
Một người lính biên phòng Việt Nam đứng tại cột mốc biên giới với Trung Quốc ở tỉnh Lạng Sơn - AFP
Thông tin phía Trung Quốc cho xây dựng hàng rào ngăn cách với Việt Nam đã được truyền thông đăng tải từ cách đây mấy năm, tuy nhiên thông tin về hoạt động này đã được đăng tải nhiều hơn từ đầu năm 2021.
Chính quyền Bắc Kinh cho rằng việc dựng hàng rào thép gai là để ngăn chặn buôn lậu và người vượt biên trái phép, gần đây lý do được đưa ra là để ngăn đại dịch COVID-19, dự án này có tên “vạn lý trường thành phương nam”.
Hôm 6 tháng 11, YouTuber Nguyễn Hoàng Nam chuyên về du lịch và khám phá đăng tải trên kênhChallenge Me - Hãy Thách Thức Tôiđoạn video về hệ thống hàng rào biên giới do Trung Quốc xây dựng dọc biên giới ở khu vực Mốc 439 xã Thượng Phùng, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
Theo video này, đoạn hàng rào có lắp đặt các camera cảm biến và sẽ tự động phát ra cảnh báo bằng cả tiếng Trung lẫn tiếng Việt mỗi khi có người lại gần, đoạn cảnh báo giọng nữ giới có nội dung “khu vực giáp ranh xin rời khỏi lập tức”.
Đoạn video dài hơn 50 phút của kênh YouTube có gần 3,5 triệu người theo dõi này còn cho thấy, hai người Trung Quốc đang gia cố đoạn hàng rào bị sạt lở ở bên kia biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây.
Việc Trung Quốc xây dựng hàng rào thép gai kiên cố dọc biên giới với Việt Nam cũng tạo ra một vài tranh chấp giữa hai bên.
Hồi giữa tháng 9 năm 2021, một đoạn video xuất hiện trên mạng internet quay lại cảnh phía người dân Việt Nam và biên phòng Trung Quốc đối đầu ở đoạn hàng rào tại mốc biên giới số 57 ở tỉnh Lai Châu. Phía Việt Nam cáo buộc đối phương nối điện cao thế vào hàng rào gây nguy hiểm đến tính mạng người dân sinh sống gần đó.
Trước đó khoảng một tháng cũng xuất hiện một video quay lại cảnh một toán lính biên phòng Việt Nam ngăn chặn quá trình xây dựng hàng rào của phía Trung Quốc với lý do xâm phạm lãnh thổ Việt Nam.
Một hệ luỵ khác đến từ việc Trung Quốc kiên cố hoá biên giới với Việt Nam đó là các cộng đồng sắc dân thiểu số sống dọc biên giới hai nước, vốn có quan hệ họ hàng, không thể tiếp tục qua lại thăm viếng hay giao thương được nữa.
Hồi tháng 9 năm nay, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn điện đàm với Bí thư Đảng ủy Khu Tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) Lu Xinshe (Lộc Tâm Xã).
Ngoài việc cảm ơn về lô 800.000 liều vắc-xin được trao tặng, quan chức ngoại giao, Hà Nội cũng đề nghị “phối hợp quản lý tốt khu vực biên giới, đẩy nhanh xây dựng kết nối hạ tầng cửa khẩu, sớm hoàn tất thủ tục nội bộ để nâng cấp các cửa khẩu và kịp thời xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh.”
Nguồn : RFA, 12/11/2021
Phần 1
Nắm giữ miền Bắc
Trung Quốc củng cố biên giới phía Nam và mở rộng vòng đai ảnh hưởng trên toàn miền Bắc Việt Nam
Lo âu trước sự áp đặt của Bắc Kinh về kinh tế và sự xuất hiện ngày càng đông đảo người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, nhiều cán bộ cách mạng lão thành, sĩ quan quân đội và đảng viên kỳ cựu đã viết thư, viết kiến nghị gởi lên Ban lãnh đạo Đảng cộng sản yêu cầu bạch hóa những thỏa thuận đã ký trong Hội nghị Thành Đô. Theo suy nghĩ của những công thần cách mạng này, nguy cơ mất chủ quyền bắt nguồn từ Hội nghị Thành Đô tháng 9 năm 1990.
Kiến nghị của 20 cựu sĩ quan quân đội ngày 02/09/2014 và Hội nghị Thành Đô
Cho đến nay nội dung cũng như những thỏa thuận trong Hội nghị Thành Đô chưa được công bố. Phía Việt Nam hoàn toàn im lặng về hội nghị này. Cổng thông tin Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ công bố tấm hình chụp chung những người tham dự hội nghị.
Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng (phía Trung Quốc) đã hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười (phía Việt Nam) về vấn đề bình thường hóa quan hệ hai đảng và các quốc gia từ ngày 3 đến ngày 4/9/1990. Ảnh được chụp sau cuộc hội đàm. Nguồn : www.idcpc.org.cn
Mặc dầu vậy, một phần tư liệu về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 đã được tiết lộ qua "Lý Bằng Nhật ký ngoại sự" (1) và "Hợp tác phát triển Hòa Bình".
Ngay khi hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam : "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc !" (2). Nội dung của tuyên bố này đã được tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về "Kỷ Yếu Hội Nghị" trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau :
Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…
Phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Sự thật như thế nào ?
Theo RFA, số ra ngày 06/08/2014 "Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô ?", và BBC, số ra ngày 17/10/2014 "Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô ?" (3), rất nhiều người đã thấy nguy cơ mất độc lập và chủ quyền sau hội nghị này. Theo RFA, số ra ngày 06/06/2014, "Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam" (4), người đầu tiên báo động nguy cơ mất chủ quyền là cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch với câu nói bất hũ : "Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự".
Nhưng phản ứng một cách công khai và qui mô nhất là Kiến nghị của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân (5) gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 2/9/2014 yêu cầu :
1. Chấm dứt ngay việc huy động quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với nhân dân Việt Nam, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… ;
2. Phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía Bắc và ngoài biển đảo… ;
3. Phải xác định rõ ràng và chính xác đối thủ là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và Tổ quốc trong hiện tại và trong tương lai… ;
4. Phải báo cáo rõ ràng với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đế lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của quốc gia.
Khi nhắc đến Hội nghị Thành Đô năm 1990, đoạn viết trích từ Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu Thời Báo tháng 4 năm 2014 gây lo ngại : "…Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…".
Bản Kiến nghị yêu cầu Chủ tịch nước và Thủ tướng cho biết rõ hai bên đã thỏa thuận cụ thể cái gì chứ không phải là những câu sáo ngữ. Bản Kiến nghị còn yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trung Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên.
Đây rõ ràng là những lời tâm huyết của những người lính đã hy sinh cả đời mình cho sự trường tồn của đất nước. Không có lời lẽ nào hơn là sự kính phục và lòng nễ trọng. Nhưng, như tất cả những kiến nghị, tâm thư của những cán bộ lão thành còn quan tâm đến tương lai đất nước, bản kiến nghị này sẽ không bao giờ được trả lời và chìm vào quên lãng. Không chừng những người ký tên và con cháu của họ có thể bị trù dập bởi chính guồng máy mà họ đã cống hiến cả cuộc đời để phục vụ nếu không mua chuộc được sự im lặng.
Cựu Đại tá Bùi Văn Bồng, một trong số 20 người ký tên, nói : "Trong tâm tư của các cựu chiến binh thì họ ủng hộ đông lắm nhưng khi lên tiếng ủng hộ thì họ sợ sệt thế này thế kia. Có khi bị cho là suy thoái tư tưởng" (BBC, 04/09/2014).
Về phía Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, không ai dại gì đứng ra trả lời những chất vấn chính đáng này, một phần vì sợ bị lộ danh và mang tội với núi sông, một phần vì sợ bị mất quyền lợi cho chính mình và gia đình khi tiết lộ sự thật. Có bao giờ một nghi phạm tự viết cáo trạng tố cáo chính mình ? Hội nghị Thành Đô là một sai phạm lớn mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam muốn che giấu.
Nội dung những thỏa thuận Thành Đô có những gì mà những lãnh đạo cấp cao và cấp trung trong đảng và quân đội không dám công bố ?
Về Hội nghị Thành Đô, nội dung cốt lõi của Hội nghị đã được phổ biến trên Wikipedia một cách khá trung thực và có thể tin cậy được (6). Theo đó, cuộc họp cao cấp giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã được tổ chức trong khách sạn Kim Ngưu (Kim Ngưu tân quán) tại Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) trong hai ngày 3 và 4/9/1990, nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai đảng cộng sản. Mục tiêu trước mắt của Hội nghi Thành Đô là chấm dứt sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia, kế đến là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Từ sau khi bình thường hóa quan hệ giữa hai nước năm 1991, trên cơ sở những nguyên tắc được ghi nhận trong Hội nghị Thành Đô năm 1990, quan hệ hữu nghị giữa hai nước được cụ thể hóa qua những Thông cáo chung năm 1991, năm 1992, năm 1994, năm 1995. Trong suốt thời gian đó, phái đoàn chuyên viên hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã ráo riết trao đổi, bàn bạc, thảo luận để hoàn tất hiệp ước biên giới trên đất liền.
Cuộc thảo luận về biên giới trên đất liền chắc hẵn đã rất gay go, vì kéo dài trong suốt gần 10 năm. Đảng cộng sản Việt Nam có lẽ là phía mong muốn ký kết hiệp ước biên giới trên đất liền trước hết, vì muốn có sự rõ ràng trong việc phân định làn ranh phân chia hai lãnh thổ sau cuộc chiến biên giới năm 1979. Mặc dù hai bên đều nói thắng lợi trong cuộc đụng độ này, nhưng phía Trung Quốc bị thiệt hại rất nặng về nhân mạng và phía Việt Nam bị chiếm rất nhiều cao điểm và vị trí chiến lược quan trọng dọc vùng biên giới các tỉnh biên giới phía Bắc. Chính vì thế, mặc dù Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được ký ngày 30/12/1999, nhưng phía Trung Quốc đã cố tình kéo dài sự hiện diện hay gây nhiều khó khăn trong việc di dời căn cứ quân sự và phải chờ đến 8 năm sau, ngày 31/12/2008 công tác cắm mốc mới hoàn tất. Tổng kết : hai bên đã phân giới khoảng 1.400 km biên giới, cắm 1.971 cột mốc, trong đó có 1.549 cột mốc chính và 422 cột mốc phụ. Toàn bộ 38 chốt quân sự trên đường biên giới đã được dỡ bỏ.
Cùng lúc đó, cái bất ngờ cho phía Việt Nam là "Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ" đã được ký một năm sau đó, ngày 25/12/2000. Trong những cuộc thảo luận gấp rút xác định đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ, phía Việt Nam có lẽ gần như bị động vì thiếu chuẩn bị, thiếu dữ liệu và thiếu hiểu biết chuyên môn về luật biển. Trong những thỏa thuận hợp tác ký kết sau năm 2000, phía Trung Quốc tập trung mọi nổ lực để củng cố sự hiện diện của họ trong 7 tỉnh dọc biên giới và trong Vịnh Bắc bộ, một hình thức để vô hiệu hóa hai văn kiện về biên giới ký trong những năm 1999 và 2000.
Cũng nên lưu ý là văn bản những ký kết về biên giới trên đất liền và trong Vịnh Bắc bộ trong thời kỳ này mang hai tên khác nhau : Hiệp ước cho biên giới trên đất liền và Hiệp định cho lãnh hải trong Vịnh Bắc bộ. Theo định nghĩa, Hiệp ước (Treaty) là một thỏa thuận ký kết giữa hai hay nhiều nước ; ở đây hiệp ước có thể hiểu đó là văn bản được ký kết sau khi đã thảo luận giữa các bên (có thể sẽ có bên không thực hiện). Còn Hiệp định (Agreement) là bản giao ước ký kết giữa các nước ký để cùng nhau thỏa thuận về một vấn đề nào đó ; ở đây là đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ, và có thể thay đổi theo từng giai đoạn. Trong vụ việc này, phía Trung Quốc đã không vô tư khi chọn cách đặt tên riêng cho từng văn kiện về biên giới.
Chỉ sau khi ký xong hai văn kiện cơ bản về phân đinh biên giới trên đất liền và trong vịnh Bắc bộ, từ sau năm 2000, quan hệ hữu nghị giữa hai Đảng cộng sản và hai Nhà nước trở nên thắm thiết hơn và bước sang giai đoạn hợp tác toàn diện : những Thông cáo chung trở thành những Tuyên bố chung.
Những Tuyên bố chung từ năm 2000 đến nay
Theo Thư viện Pháp luật tư vấn (7), "Tuyên bố chung là Văn kiện ghi nhận về sự thống nhất quan điểm, lập trường về các vấn đề quốc tế trong các cuộc đàm phán, gặp gỡ, viếng thăm giữa các đại diện của hai hoặc nhiều hơn quốc gia, thường là giữa những người đứng đầu quốc gia, những người đứng đầu chính phủ và được công bố rộng rãi trên thế giới. Tuyên bố chung được công bố tại nước ký kết hoặc được công bố cùng một thời điểm tại các nước tham gia đàm phán. Việc ra được tuyên bố chung chứng tỏ là các bên tham gia đàm phán đã có sự thống nhất về quan điểm, lập trường trong cách nhìn nhận và giải quyết các vấn đề có liên quan đến hai nước hoặc các vấn đề quốc tế, hoặc trước đây có sự khác biệt nay đã tìm được tiếng nói chung để đi đến hành động chung. Nó cũng chứng tỏ quan hệ của các quốc gia tham gia đàm phán là tốt đẹp hoặc đã được cải thiện. Ngược lại, các bên tham gia đàm phán không ra được tuyên bố chung là dấu hiệu chứng tỏ quan hệ của các bên tham gia đàm phán đã và đang nảy sinh những tranh chấp".
Ngày 25/12/2000, hai bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Việt Nam đã ra một Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ở đây cũng nên lưu ý về hai cụm từ "hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới" và "đối tác chiến lược toàn diện", Đảng cộng sản Việt Nam đã đặc biệt dành hai cụm từ này cho riêng Trung Quốc. Đối với các quốc gia khác, Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ sử dụng cụm từ "đối tác chiến lược toàn diện" với Nga và Ấn ; đối với các quốc gia phương Tây, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN, Việt Nam chỉ sử dụng cụm từ "đối tác chiến lược" ; và "đối tác toàn diện" với các quốc gia Châu Mỹ la-tinh, Châu Phi và một vài quốc gia Châu Âu còn lại.
Trở lại với Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2000), hai cấp lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc và Việt Nam đã phác họa một khung thảo luận và hợp tác cấp Đảng và Nhà nước gồm 10 điểm như sau :
1. Duy trì gặp gỡ cấp cao thường xuyên, tạo thêm động lực mới thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển…
2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đối với thế hệ trẻ hai nước về truyền thống hữu nghị…
3. Tăng cường và mở rộng hợp tác của Ủy ban liên Chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật giữa hai nước…
4. Hai bên tiếp tục tăng cường hợp tác, phối hợp giữa hai bên tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực…
5. Tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa các cơ quan quốc phòng và quân đội hai nước…
6. Tăng cường trao đổi và hợp tác về văn hóa, thể dục thể thao, và các phương tiện thông tin đại chúng…
7. Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, bao gồm trao đổi lưu học sinh, cán bộ giảng dạy…
8. Tăng cường hợp tác trong các mặt phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia…
9. Ký kết những Hiệp ước biên giới trên bộ Việt-Trung 1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ 2000, Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ...
10. Việt Nam công nhận Chính phủ nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc ; Đài Loan là một bộ phận lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc…
Theo khung thảo luận và nội dung 10 điểm hợp tác cấp Đảng và Nhà nước này, ba điểm đầu thiết đặt nền tảng hợp tác : giữ gìn quan hệ giữa hai Đảng và Nhà nước (quá khứ), đào tạo thế hệ trẻ (tương lai) và thành lập Ủy ban liên chính phủ (hiện tại). Chính Ủy ban liên chính phủ này đặt khung cho sự lệ thuộc Việt Nam vào Trung Quốc trong đủ mọi lãnh vực : kinh tế thương mại và đầu tư, hợp tác khoa học và kỹ thuật, nông lâm ngư nghiệp, tài chính tiền tệ và kinh tế vĩ mô, giao thông vận tải đường bộ và đường sắt, viễn thông và tin học, du lịch và lữ hành, khai thác lưu vực sông Mekong, và sau cùng là xây dựng, phát triển đô thị. Bảy điểm còn lại phân chia khu vực hợp tác : quốc tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, tư pháp, biên giới và ngoại giao. Nói chung đây là khung hợp tác chỉ dành riêng cho những lãnh đạo quốc gia.
Nhân sự được tuyển vào Ủy ban liên chính phủ này rất là chọn lọc. Phía Trung Quốc tuyển lựa rất kỹ nhân sự của họ để đưa vào Ủy ban này, đó là những chiến lược gia, những chuyên viên có trình độ học vấn và kiến thức cao trong từng lãnh vực chuyên môn để áp đặt sự khống chế của Bắc Kinh và mang về tối đa những quyền lợi cho Trung Quốc.
Từ Ủy ban này đẻ ra những Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc (Ủy ban hợp tác kinh tế-thương mại, Ủy ban liên hợp hợp tác khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ hai nước, Ủy ban liên hợp hợp tác dầu khí, cửa khẩu biên giới…), Nhóm công tác (Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ..), Tổ công tác… Chính những ủy ban và nhóm công tác này thiết kế lãnh vực hợp tác giữa hai nước và, tùy theo chỉ thị của trung ương, ấn định lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn. Người của những Nhóm và Tổ công tác này được cài cắm trong khắp các đảng ủy, ban bí thư, ban tham mưu trực thuộc đảng cộng sản, chính phủ, quân đội, công an, an ninh và trong các bộ, ngành kinh tế, tài chính, tư pháp, văn hóa, xã hội, giáo dục…
Những Tổ công tác cho từng lãnh vực được thành lập để khai triển và theo dõi tiến độ thi hành và làm báo cáo gởi lên cấp trên. Sau khi đã bàn bạc, thảo luận và quyết định những lãnh vực hợp tác và phương tiện thực hiện, những tổ và nhóm công tác này đúc kết thành một hồ sơ chi tiết và trình lên những Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc xét duyệt. Mỗi câu, mỗi chữ đều được cân nhắc kỹ lưỡng để không thể bị hiểu sai hay hiểu lầm khi thực hiện. Sau khi được chấp thuận, những hồ sơ này sẽ được trình lên Ủy ban liên chính phủ để đúc kết thành những văn kiện chính thức : ngày và địa điểm ký kết sẽ do cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước hai nước quyết định.
Phía Trung Quốc, cơ quan đầu não chỉ đạo những Ủy ban và nhóm công tác này gồm hai nơi : ở Việt Nam là Tòa Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng lãnh sự quán ở Sài Gòn và những lãnh sự quán khác ; ở Trung Quốc, cơ quan chỉ đạo chính trị nằm ở Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông), tài chính ở Phúc Kiến và công nghệ ở Chiết Giang, phối hợp quân sự, an ninh, giáo dục và văn hóa ở Quảng Tây và Vân Nam, hải quân ở Hải Nam.
Một vài thí dụ cụ thể về việc cài cắm người trong các cơ quan Đảng và Nhà nước : về giáo dục : cố vấn Trung Quốc đã góp phần đáng kể trong việc xóa bỏ hoặc viết lại lịch sử chống Trung Quốc trong sách giáo khoa, khuyến khích học tiếng quan thoại như sinh ngữ 1, in cờ Trung Quốc 5 sao nhỏ, ngăn cản không cho tưởng niệm những nạn nhân của Trung Quốc, ủng hộ những bản án nặng cho những ai chống Trung Quốc, ngăn chặn những trang mạng chống Trung Quốc, truy lùng và xử những án tù nặng cho những người xuống đường chống Trung Quốc…
Sự hiện diện đông đảo của những cố vấn này trong các cơ quan Đảng và Nhà nước đã khiến một số cán bộ nòng cốt trong Đảng lo âu, nhưng không ai biết phải làm gì hơn là cam chịu và cảnh giác. Không phải tình cờ bài nói chuyện của Giáo sư Tiến sĩ Thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục chính trị Công an nhân dân, đồng thời là Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc được phát tán rộng rãi trên mạng vào trung tuần tháng 3 năm 2017 vừa qua.
Giáo sư Tiến sĩ Thiếu tướng công an Trương Giang Long phát biểu trong một buổi học tập chính trị cao cấp tại Học viện Chính trị của Bộ Công an trung tuần tháng 3/2017.
Cho dầu biết rõ Trung Quốc cài cắm người trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước để khống chế mọi sinh hoạt của Việt Nam, toàn bộ cán bộ và đảng viên trong Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn chấp hành một cách triệt để những quyết định của Ban lãnh đạo Đảng, tức Bộ Chính trị và Trung ương đảng. Do đó chỉ cần nắm số cán bộ lãnh đạo chóp bu của hai cơ quan này là Bắc Kinh nắm toàn quyền lãnh đạo đất nước Việt Nam, bất chấp nguyện vọng của 97 triệu dân Việt và 4,5 triệu đảng viên.
Cuộc gặp mặt cấp lãnh đạo cao nhất giữa hai đảng cộng sản tại Thành Đô thang 3/1990 là một cơ hội "trời cho" mà Bắc Kinh không thể bỏ lỡ. Để củng cố mối quan hệ thâm tình giữa hai đảng cộng sản, từ sau năm 2000, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã phát minh ra "phương châm 16 chữ" và "tinh thần 4 tốt" làm kim chỉ nam chỉ đạo mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và Nhà nước.
Phương châm 16 chữ
Trong phiên họp cấp lãnh đạo hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc tại Bắc Kinh tháng 2 năm 1999, ông Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc công bố phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 gồm 16 chữ, đó là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". (Không hiểu vì lý do gì, phía Việt Nam sau đó lại lồng thêm chữ "vàng" sau 16 chữ này). Tổng bí thư (mãn nhiệm kỳ) Đảng cộng sản Việt Nam lúc đó là ông Lê Khả Phiêu đã hoàn toàn đồng ý và lấy đó làm kim chỉ nam chỉ đạo quan hệ giữa hai đảng và hai nước.
Không biết sau khi ký Hiệp định biên giới ngày 30/12/1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ngày 25/12/2000 và chấp nhận phương châm 16 chữ này, ông Lê Khả Phiêu đã được phía Trung Quốc hậu đãi như thế nào ? Dư luận chỉ biết vào cuối tháng 1/2009, nhân dịp Tết Kỷ Sửu, một loạt hình ảnh nhà riêng của ông Lê Khả Phiêu được phát tán trên Internet và đã gây xôn xao dư luận : xa hoa và tráng lệ vượt mức thường tình của một viên chức cao cấp (8).
Tháng 11/2000, ngay sau khi được đề cử vào chức vụ Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay ông Lê Khả Phiêu, ông Nông Đức Mạnh liền sang Trung Quốc để được Bắc Kinh công nhận. Trong lần gặp gỡ này, Tổng bí thư Giang Trạch Dân "nói rõ" 16 chữ này là phương châm quan trọng chỉ đạo sự phát triển quan hệ hai nước. Và, như để trấn an phía Việt Nam trong quan hệ hợp tác giữa hai Đảng và hai Nước, ông Giang Trạch Dân tô thêm "4 nguyên tắc" vào quan hệ giữa hai nước : độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nhưng 4 nguyên tắc này không bao giờ được ghi vào nội dung những Tuyên bố chung và chỉ được nhắc tới trong những thông cáo cấp bộ và ngành mà thôi.
Là một người hiền lành và không có ý kiến, ông Nông Đức Mạnh có lẽ đã được Bắc Kinh chiếu cố đặc biệt để giữ chức Tổng bí thư liên tiếp trong hai nhiệm kỳ. Trong suốt thời gian 10 năm dưới thời Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, từ 22/4/2001 đến 19/1/2011, quan hệ giữa hai Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam trở nên thắm thiết và nồng ấm hơn bao giờ hết : Trung Quốc đã tích cực giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế, bù lại Việt Nam nhường cho Trung Quốc quyền chủ động mọi sinh hoạt trong Vịnh Bắc bộ. Cũng như Lê Khả Phiêu, dư luận chỉ biết sự giàu sang của ông Nông Đức Mạnh qua hình ảnh được lan truyền với tốc độ chóng mặt trên các trang mạng xã hội, nhân một cuộc phỏng vấn ngày 19/2/2015, tức mồng một Tết Ất Mùi (9).
Gần đây hơn, ngày 6/5/2018, ngay trước ngày khai mạc Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, trong một bức thư ký tên tập thể, 54 đảng viên đảng cộng sản kỳ cựu yêu cầu ông Nguyễn Phú Trọng hãy công khai tài sản của mình (10).
Điều này cho thấy Bắc Kinh ưu đãi rất hậu hĩnh những cấp lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam để mua sự trung thành và sự thần phục. Những cố gắng giải thích hay biện minh cho sự nhích lại với Mỹ hay phương Tây của một số lãnh đạo cấp cao trong Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là hoang tưởng hay chỉ là suy diễn theo cảm nhận riêng tư của mỗi người.
Tinh thần 4 tốt và danh xưng "toàn cục", "đại cục"
Sang năm 2002, ngay khi vừa đắc cử Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, ông Hồ Cẩm Đào, phát minh ra thêm một phương châm mới, gọi là tinh thần "4 tốt", đó là : "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" để hướng dẫn phong cách thảo luận trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước về những va chạm trên Biển Đông và trong quan hệ thương mại giữa hai nước.
Danh xưng "toàn cục" và "đại cục" cũng chính thức xuất hiện trong giai đoạn này : Hai bên khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục kiên trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn toàn cục (Tuyên bố chung 2005) ; không để các vấn đề tranh chấp trên biển ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung (Tuyên bố chung 2013).
Toàn cục (sau này phía Việt Nam đổi thành đại cục) ở đây phải hiểu là tuy hai là một, nghĩa là duy trì sự thống nhất toàn diện trong quan hệ giữa hai Đảng và Nhà nước, cụ thể là thăm viếng lẫn nhau ở cấp cao, tăng cường giao lưu hữu nghị giữa hai nước, mở rộng hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, trân trọng, giữ gìn, phát triển tốt quan hệ hai Đảng, hai nước Việt-Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển một cách ổn định, lành mạnh, lâu dài trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh, văn hóa, giáo dục, đặt biệt là tăng cường tuyên truyền và giáo dục thanh niên hai nước về truyền thống hữu nghị Việt-Trung để mở ra cục diện mới.
Về cách hành văn, nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung sử dụng rất nhiều ngôn từ tưởng là sáo ngữ nhưng thật ra đó là những ngôn từ chuyên chở một nội dung có chủ ý, tích cực và lạc quan để tạo cảm tưởng thống nhất về quyết tâm lẫn ý chí. Thí dụ như "phát huy vai trò", "tăng cường trao đổi", "mở rộng hợp tác", "hai bên hài lòng", "hai bên đánh giá cao", "hai bên nhất trí", "hai bên khẳng định"…
Khúc quanh mới trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước
Trở về với nội dung 16 chữ, phải hiểu như thế nào ? Thoạt nghe phương châm này, mọi người đều thấy bình thường vì nghĩ đó chỉ là những khẩu hiệu suông hô hào ca ngợi quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước : đã là láng giềng tốt thì sự hợp tác giữa hai nước phải phù hợp với nguyện vọng và lợi ích lâu dài của hai nước và hai dân tộc. Nhưng đối với Bắc Kinh, đó là một tôn chỉ phải nghe theo : nếu không tôn trong nội dung 16 chữ này, nhất là hợp tác toàn diện, thì Việt Nam sẽ bị chế tài (tài chính, kinh tế, thương mại, quân sự…).
Phương châm này làm nhớ lại "trụ đồng" thời Bắc thuộc (11). Sau khi khống chế được cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, Mã Viện cho khắc 6 chữ trên một trụ đồng dựng ở vùng biên giới phía nam Giao Chỉ (Thanh Hóa ngày nay) : "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng ngã xuống, Giao Chỉ không còn). Thông điệp 6 chữ này thật ra chỉ là lời nhắn nhũ cho các quan lại địa phương : muốn giữ yên đất Giao Chỉ phải ngăn chặn phiến quân từ phía nam (Chăm và Mường) tràn lên, nếu không đất Giao Chỉ sẽ mất. Quan lại địa phương ở đây là quan quân Lạc Việt hợp tác với nhà Hán (gọi chung là người Kinh, tức những nhóm người Việt định cư trên đồng bằng) cai trị đất Giao Chỉ. Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay cư xử với dân chúng không khác gì quan quân Lạc Việt thần phục nhà Hán thời đó. Cái khác là 6 chữ ngày trước được thay bằng 16 chữ ngày nay.
Từ sau năm 2000, số phận của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam bước sang một khúc quanh mới : lệ thuộc vào Trung Quốc để được giúp đỡ và tồn tại. Trong mỗi Tuyên bố chung, các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh "Việt Nam mong muốn cùng Trung Quốc tăng cường tình hữu nghị truyền thống, đi sâu hợp tác thực chất, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước phát triển ổn định, lành mạnh". Những vọng động mở cửa ra bên ngoài với thế giới phương Tây (Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản) chỉ là giả hiệu nhằm trấn an dư luận trong nước và quốc tế để nhận tài trợ và giúp đỡ.
Sự lún sâu vào vòng lệ thuộc Trung Quốc của Đảng cộng sản và đất nước Việt Nam ngày càng lộ liễu và công khai để không còn che đậy được nữa. Gần như tất cả những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở chiến lược và qui mô lớn ở Việt Nam đều được ghi trong những Tuyên bố chung với sự chỉ định những công ty nào của Trung Quốc sẽ đảm nhiệm, như bến cảng, xa lộ, đường cao tốc, đường sắt và những công trình kiến trúc đồ sộ.
Phải đọc kỹ nội dung những Tuyên bố chung này mới hiểu sự hiện diện của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam càng ngày càng đông và nắm giữ gần như hầu hết mọi sinh hoạt kinh tế, tài chính, sản xuất và buôn bán qui mô lớn, đặc biệt là sở hữu những vi trí kinh tế chiến lược trong các trung tâm thành phố, trục giao thông đường bộ và đường sắt, hải cảng, giang cảng, phi trường, khu chế xuất, v.v.
Những hiện tượng tiêu cực như buôn lậu ma túy, mua bán thú quí hiếm, lường gạt nông dân là do những thành phần bất hảo chủ trương chứ không bởi Đảng và Nhà nước Trung Quốc chủ đạo.
Nguyễn Văn Huy
Chú thích :
(1) Lý Bằng, "Nhật ký Lý Bằng viết về Hội nghị Thành Đô", Nghiên Cứu Quốc tế, Nguyên Hải dịch, 17/11/2014
(2) Lý Bằng, "Hợp tác hòa bình và phát triển - Nhật ký đối ngoại Lý Bằng" ("Peace and Development Cooperation - Li Peng Foreign Affairs Diary" -"和平 发展 合作——李鹏外事日记"), Dân Làm Báo, Huỳnh Tâm dịch, 19/10/2014.
(3) Mặc Lâm,"Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô ?", RFA tiếng Việt, 06/08/2014
(4) Nam Nguyên, "Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam", RFA tiếng Việt, 06/06/2014
(5) "Kiến nghị của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", boxitvn, 04/09/2014
(6) "Hội nghị Thành Đô", Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt
(7) Thư viện pháp luật, "Tuyên bố chung là gì ?", Ngân hàng pháp luật
(8) Thanh Quang, "Những hình ảnh của người được gọi là 'đầy tớ của nhân dân'", RFA tiếng Việt, 04/02/2009
(9) "Vì sao bức ảnh nhà ông Nông Đức Mạnh làm ‘dậy sóng’ dư luận?", VOA tiếng Việt, 23/02/2015
(10) "Thư yêu cầu công khai 'Bản kê khai tài sản'", Tiếng Dân, 06/05/2018
(11) Nguyễn Văn Huy, "Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể", Thông Luận, 01/09/2017
---------------------------
Mục lục
Chính trị Việt Nam vốn là nền chính trị phụ thuộc, và không khó để khẳng định nó phụ thuộc vào quốc gia nào. Chuyện Việt Nam ngày một phụ thuộc vào Trung Quốc là đề tài mà xã hội bàn tán thừ lâu chứ không phải mới đây. Từ phụ thuộc chính trị nó dẫn đến sự phụ thuộc kinh tế, và cả vấn đề bị hạn chế về việc phát triển sức mạnh quân sự nữa.
Những buổi lễ ký kết như thế này sẽ dẫn Việt Nam phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc và cũng tạo nên mối quan hệ Nguyễn Phú Trọng – Tập Cận Bình trở nên khăn khít
Về kinh tế, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc lớn nhất và xuất khẩu sang Mỹ nhiều nhất. Người ta ví Việt Nam như là phương tiện trung gian để đô la chạy từ Mỹ đến Việt Nam rồi rót sang Trung Quốc. Những năm gần đây các chuyên gia kinh tế cảnh báo việc Việt Nam để cho Trung Quốc mượn đường để xuất khẩu sang Mỹ nhằm hưởng ưu đãi thuế. Tuy nhiên việc cảnh báo thì cứ cảnh báo còn Việt Nam để Trung Quốc mượn đường thì cứ để. Việc ngăn chặn Trung Quốc là được đảng và chính phủ cho là rất nhạy cảm, tuy là chặn đường giao thông kinh tế nhưng nó là ảnh hưởng đến chính trị. Mà những gì dây tới vấn đề chính trị với Trung Quốc thì chính quyền Hà Nội rất ngại thực hiện. Thực tế đã cho thấy điều đó.
Có quan hệ chính trị mới có hợp đồng về kinh tế, điều đó ai cũng biết. Tuy nhiên những hiệp định, những hợp đồng thuần kinh tế thì nó không bí mật mà thường chính phủ sẽ công khai trên trang Web của chính phủ hoặc thông báo rộng rãi trên báo chí nhà nước. Tuy nhiên những hiệp ước mà có dính đến chính trị, mà đặc biệt là sự đối xử bất công bằng với nhau thì nhà nước sẽ đưa vào diện "tối mật" không cho dân biết. Vấn đề là ở đó.
Ông Nguyễn Phú Trọng đã làm điều gì để tạo mối quan hệ tốt với Tập Cận Bình ?
Tháng giêng 2011 ông Nguyễn Phú Trọng lên làm tổng bí thư thì tháng 10-2011 ông sang Bắc Kinh gặp Hồ Cẩm Đào. Rồi đến tháng 4 -2015 ông lại sang Bắc Kinh thăm Tập Cận Bình. Vào tháng 1 -2017 ông Nguyễn Phú Trọng sang Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình một lần nữa. Đấy là những chuyến đi một chiều Việt Nam sang Trung Quốc, còn những chuyến đi của chủ tịch Trung Quốc đến Việt Nam cũng không ít. Đặc biệt là dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng làm tổng bí thư, hai bên viếng thăm qua lại khá nhiều và ký kết cũng nhiều văn kiện. Đáng nói là tháng giêng năm 2017 ông Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm sang Bắc Kinh ký 15 văn kiện được đảng cho biết tựa đề nhưng nội dung thì hoàn toàn bí mật. Vào đầu tháng 11 năm 2017, ông Tập Cận Bình lại có chuyến thăm Việt Nam và giữa ông Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình cũng đã ký thêm 12 văn kiện bí mật nữa. Như vậy cho đến bây giờ, ông Nguyễn Phú Trọng đã ký với Tập Cận Bình ít nhất là 27 văn kiện bị mật về vấn đề kinh tế chính trị giữa hai nước.
Như đã nói, về vấn đề kinh tế thì không gì phải giấu giếm, người ta chỉ giấu giếm với dân những nội dung liên quan đến vấn đề chính trị, hoặc những thỏa thuận kinh tế mang màu sắc chính trị thôi. Cho nên trong 27 văn kiện bí mật mà ông Nguyễn Phú trọng đã ký với Tập Cận Bình làm người ta nghi ngờ đó là những văn kiện bất lợi cho Việt Nam. Và thực tế, trong vấn đề tranh chấp lãnh hải những năm gần đây thì Việt Nam nhường nhịn là chính. Thậm chí trong vấn đề các dự án kinh tế, mà cụ thể là dự án tàu điện Cát Linh – Hà Đông, phía Trung Quốc đã rất bê bối nhưng phía Việt Nam vẫn cứ nhịn, đó là thực tế không thể chối cãi.
Cho đến nay, ông Nguyễn Phú Trọng là người có nhiều chuyến viếng thăm tới Bắc Kinh nhất. Ở 2 hiệm kỳ trước, ông đều sang Trung Quốc. Tuy nhiên ở nhiệm kỳ này liệu ông có thăm Trung Quốc không cũng là điều mà người dân đang chờ xem.
Cho đến bây giờ, ông Nguyễn Phú Trọng đã tạo mối quan hệ rất tốt với tập Cận Bình là điều mà ai cũng phải thừa nhận. Tuy nhiên quan hệ chính trị luôn là con giao hai lưỡi, khi lợi ích khai thác không còn thì rất dễ chuyển qua đối đầu.
Nhiệm kỳ 3 liệu ông Nguyễn Phú Trọng có còn giữ mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc không ?
Mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc tạo cho ông Nguyễn Phú Trọng một thế lực chính trị mạnh nhất hiện nay, vì vậy việc ông Nguyễn Phú Trọng sẽ giữ tốt mối quan hệ này hoặc thắt chặt hơn nữa là điều dễ hiểu. Ông đã già yếu và ông cần bản thân ông an toàn trước các thế lực trẻ đang lên trong Đảng cộng sản.
Tuy nhiên ở phía ngược lại ông Tập Cận Bình cũng đang ngại rằng, liệu rằng ông Nguyễn Phú Trọng có tách xa quỹ đạo Trung Quốc để mà ngã về Mỹ hay không ? ! Đã làm chính trị thì không được tin người và ông Tập Cận Bình hiểu rõ hơn ai quy tắc đó. Vì vậy khi ông Nguyễn Phú Trọng đắc cử nhiệm kỳ 3 ông Tập Cận Bình là ngườu đầu tiên gọi điện chúc mừng, chứng tỏ ông Tập rất quan tâm đến nhân sự của đại hội Đảng cộng sản Việt Nam. Người nào lên người nào xuống nó rất quan trọng với chính sách đối ngoại mà Tập Cận Bình đưa ra, vì Việt Nam có vị trí chiến lược đối với kế hoạch gây ảnh hưởng ra thế giới của Tập Cận Bình.
Cuốc điện thoại chúc mừng sớm của Tập Cận Bình nó mang rất nhiều ý nghĩa, nó thể hiện sự quan tâm của "anh với em" trong mối quan hệ dựa trên ý thức hệ CS, nhưng bên trong đó Tập Cận Bình cũng muốn gởi đến ông Nguyễn Phú trọng rằng, ông đang xem động tĩnh và thái độ của ông Nguyễn Phú Trọng. Đây mới là điều mà phía ông Nguyễn Phú Trọng cần phải hiểu.
Ngày 19/2 vừa qua ông Tập Cận Bình bất ngờ gởi ông Triệu Khắc Chí, Ủy Viên Quốc Vụ, Bộ Trưởng Công An Trung Quốc sang thăm ông Nguyễn Phú Trọng. Như vậy thì ý đồ của Tập Cận Bình khá rõ, ông muốn nắn gân Nguyễn Phú Trọng rằng "mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã gần gũi thì nay càng phải gần gũi hơn". Vấn đề ở đây là, một ông Bộ Trưởng Bộ Công An trong tay có nắm tình báo ngành. Được biết phía công an luôn cung cấp những sĩ quan tình báo cho các đại sứ quán. Việc ông bộ trưởng bộ công an trung quốc bất chợt qua thăm Nguyễn Phú Trọng thì đây phải nói rằng, ý đồ của Tập Cận Bình rất thâm sâu. Một thông điệp mang tính cứng rắn đang gởi đến ông Nguyễn Phú Trọng.
Liệu Nguyễn Phú Trọng có bị ở thế kẹt không ?
Tất nhiên cuộc gặp nào thì báo chí cũng gọi là "củng cố và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị" thôi. Tuy nhiên sự hiểu ý nhau giữa đôi bên mới là quan trọng.
Trên trang Web của Thông Tấn Xã Việt Nam thì họ cho biết ông Triệu Khắc Chí đang thăm Việt Nam và đồng chủ trì Hội nghị hợp tác phòng, chống tội phạm giữa Bộ Công an hai nước. Lý do này khá hợp lý, và nó được dùng để làm bình phong che chắn ý nghĩa khác mà thôi. Tuy nhiên, dù có là mang ý nghĩa như thế nào thì ông Nguyễn Phú Trọng cũng không khó xử lí trong vấn đề này. Với 27 văn kiện bí mật đã ký và giữ mối quan hệ giữa hai nước như những gì đã ký là một sự hài lòng với ông Tập Cận Bình. Chưa cần đề cập đến vấn đề chính trị, chỉ xét về khía cạnh kinh tế thôi thì cũng dễ thấy, Việt Nam ngày một phụ thuộc Trung Quốc khi mà năm 2020 chứng kiến nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng hơn so với năm 2019 mặc dù năm 2020 là năm có đại dịch.
Thông Tấn Xã Việt Nam dẫn lời ông Trọng rằng khi nói với ông Chí rằng : "Việt Nam sẵn sàng cùng với phía Trung Quốc duy trì sự trao đổi cấp cao, kiểm soát tốt bất đồng, triển khai hợp tác hiệu quả trên các lĩnh vực, không ngừng thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Trung Quốc phát triển lành mạnh, ổn định".
Ngôn ngữ chính trị nó mang nhiều nghĩa sâu xa. Trong phát biểu, ông Nguyễn Phú có dùng từ "kiểm soát tốt bất đồng". Tuy nhiên ai có quyền kiểm soát thì chắc không cần phải giải thích. Trong vấn đề mâu thuẫn giữa Việt Nam với Trung Quốc xưa nay, chỉ có Việt Nam nhượng bộ chứ Trung Quốc thì chưa bao giờ làm điều đó. "Kiểm soát tốt bất đồng" chính là Việt Nam phải nhượng bộ. Chính điều này mà ông Nguyễn Phú Trọng đã làm cho ông Tập Cận Bình khá hài lòng.
Hành động nắn gân nhẹ của phía Trung Quốc
Trong chuyến thăm này, ông Bộ trưởng Bộ Công an Trung Quốc cho biết mục đích chuyến thăm lần này là nhằm "quán triệt thực hiện nhận thức chung cấp cao, đặc biệt trong lĩnh vực thực thi pháp luật".
Về mặt ngoại giao thì bao giờ những chuyến viếng thăm như thế này hai bên cũng dùng lời lẽ tốt đẹp cho nhau. Tuy nhiên việc cử một ông quan võ chuyên lo an ninh nội đại Trung Quốc sang Việt Nam thì nó đã là thông điệp rồi. Với sự thông thông minh của ông Trọng, ông sẽ hiểu điều đó.
Ông Chí nói trong thời gian tới hai Bộ Công an sẽ tiếp tục phối hợp "thực hiện tốt nhận thức chung" của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác trong lĩnh vực phòng chống tội phạm.
Ông Triệu Khắc Chí, giữ chức Bộ Trưởng Bộ Công an Trung Quốc từ tháng 3/2018, xuất thân là một giáo viên trung học và từng làm công tác Đoàn Thanh niên, nhưng được biết là một trong những người có lập trường cứng rắn trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trợ thủ đắc lực của Chủ tịch Tập Cận Bình. Lần này ông sang thăm Nguyễn Phú Trọng được cho là mang thông điệp của Tập Cận Bình cho Nguyễn Phú Trọng và cũng muốn nhắc nhở ông Trọng phải biết "giữ mối quan hệ tốt" giữa hai đảng và hai lãnh đạo.
Ông Chí từng ra lệnh ngành công an Trung Quốc phải chú tâm vào các "cuộc cách mạng màu" hay các cuộc nổi dậy trong dân chúng và coi việc bảo vệ hệ thống chính trị của Trung Quốc là trọng tâm trong nhiệm vụ của ngành công an, theo Reuters.
Ông Chí nói : "Phải bảo vệ vững chắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và hệ thống xã hội chủ nghĩa của đất nước chúng ta".. Và giờ đây ông nhận trách nhiệm nhắc Nguyễn Phú Trọng "bảo vệ m
Nguyễn Duy (tổng hợp)
Nguồn : Thoibao.de, 25/02/2021
Từ đại dịch, Việt Nam - Trung Quốc ‘nhìn rõ nhau hơn’ ?
Khánh An, VOA, 05/04/2020
Những động thái quyết liệt gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời điểm cả thế giới đang tập trung chống dịch Covid-19 đang tác động xấu lên mối quan hệ chiến lược vốn còn "rất ít niềm tin" giữa Việt Nam và Trung Quốc, một chuyên gia nghiên cứu nhận định với VOA, đồng thời dự báo rằng hành động "không hòa bình" có thể sẽ xảy ra trong một vài tuần tới nếu Bắc Kinh tiếp tục gây hấn.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Thông tin trái ngược
Mới nhất hôm 3/4, sau khi công bố thông tin về sự kiện Trung Quốc trao trả 8 ngư dân Việt Nam sau khi đâm chìm tàu cá của họ ở khu vực gần quần đảo Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết "đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu Hải cảnh" đã gây ra sự việc trên, và "không để tái diễn những hành động tương tự, đồng thời bồi thường thỏa đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam".
Trước đó một ngày, truyền thông Việt Nam đưa tin tàu cá của ngư dân Trần Hồng Thọ (ở tỉnh Quảng Ngãi) đã bị tàu Trung Quốc đâm chìm và bắt đi toàn bộ 8 ngư dân. Tàu Trung Quốc sau đó còn tiếp tục truy đuổi và lai dắt 2 tàu cá đến "cứu hộ" của các ngư dân khác về đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền song trên thực tế do Bắc Kinh kiểm soát từ năm 1974.
"Hành động trên của tàu công vụ Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe dọa an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam, đi ngược lại nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước về việc đối xử nhân đạo với ngư dân và Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói trong cuộc họp báo ngày 3/4.
Đáp lại, khi được hỏi về sự kiện trên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc trong cuộc họp báo cùng ngày, đưa ra một phiên bản thông tin hoàn toàn trái ngược.
Phát ngôn viên Hoa Xuân Oánh nói rằng tàu hải cảnh Trung Quốc đã bắt gặp tàu cá của Việt Nam đánh bắt bất hợp pháp trong khu vực quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa) của Trung Quốc vào sáng 2/3 nên đã kêu gọi tàu này dời đi. Nhưng tàu cá Việt Nam không chịu dời đi và "bất ngờ quay ngoắt về phía tàu Trung Quốc" khiến cho tàu hải cảnh đâm vào tàu cá "dù đã cố hết sức để tránh".
Người phát ngôn của Trung Quốc nói thêm rằng phía Trung Quốc sau đó lập tức cứu hộ 8 ngư dân Việt Nam và để cho họ trở về sau khi thực hiện các thủ tục điều tra và thu thập chứng cứ.
Trước đó một tuần, hôm 24/3, Trung Quốc công bố khánh thành hai "trạm nghiên cứu", mà báo chí quốc tế gọi là các cơ sở quân sự mới, trên Đá Chữ Thập và Đá Subi ở Trường Sa, cũng là nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền, khiến Hà Nội phải lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh "tôn trọng chủ quyền".
Những sự việc liên tiếp trên xảy ra chỉ vài tháng sau một chuỗi đụng độ vào mùa hè năm ngoái khiến cho mối quan hệ Việt - Trung trở nên căng thẳng cực độ, xuất phát từ việc tàu hải cảnh Trung Quốc đi vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở bãi Tư Chính, gần quần đảo Trường Sa, và ngang nhiên hoạt động tại đây trong nhiều tháng với lý do "khảo sát địa chất".
Qua nhiều chuỗi sự kiện, hành động, phản ứng và trao đổi qua lại giữa Hà Nội và Bắc Kinh, với những phiên bản thông tin trái ngược, cũng đã trở nên quen thuộc với giới quan sát và truyền thông quốc tế. Tờ International Business Times hôm 4/4 thậm chí còn đưa ra "khuôn mẫu" cho những sự kiện kiểu này, nói rằng "Ngư dân Việt Nam thì sẽ tường thuật câu chuyện cho giới hữu trách địa phương để trình lên các cấp trên. Còn phía Trung Quốc thì thường giữ im lặng. Và bởi vì Việt Nam không thể đọ được với Trung Quốc về mặt quân sự, nên vụ việc sẽ dần dần lắng xuống khi cả thế giới phải lo đối phó với dịch Covid-19".
Việt Nam đã ‘lường trước’ và ‘chuẩn bị’ ?
Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu an ninh và chính trị khu vực của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS- Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, tình hình ở Biển Đông hiện nay "rất khó khăn" cho phía Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đang diễn ra đại dịch.
Theo tiết lộ của nhà nghiên cứu này, Trung Quốc không chỉ công khai khánh thành trạm nghiên cứu hay đâm chìm tàu cá ngư dân Việt, mà còn gây ra "một số chuyện nữa" mà sẽ "dần dần được nói ra".
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban biên giới quốc gia Việt Nam, thì nhận định với VOA rằng việc Trung Quốc đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam là "câu chuyện không mới", và Bắc Kinh thường sử dụng chiêu thức tung tin "vu khống" hay "đổ lỗi" cho phía Việt Nam trước khi thực hiện một hoạt động gây hấn hay xâm lấn trên Biển Đông.
Theo cả hai nhà nghiên cứu Việt Nam, những động thái quyết liệt của Trung Quốc gần đây cho thấy Bắc Kinh đang có "mưu toan rất lớn", không chỉ ở Biển Đông mà cả trong khu vực, chẳng hạn như vấn đề Đài Loan.
"Trong bối cảnh toàn thể thế giới đang lao đao vì đại dịch, mà xuất phát từ Trung Quốc, tôi nghĩ họ đang tính toán những bước phiêu lưu mới", Tiến sĩ Trần Công Trục nói với VOA.
Tuy nhiên, hai nhà nghiên cứu trên cho rằng Việt Nam đã "lường trước" và "chuẩn bị kỹ" cho những tình huống xấu có thể xảy ra sắp tới.
"Việt Nam sẽ ứng xử lại bằng hành động chứ họ không nói nhiều nữa đâu", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói, trong khi Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng "Việt Nam sẽ có những biện pháp đấu tranh mạnh mẽ, kể cả trên phương diện pháp lý, truyền thông chính trị lẫn trên thực tế".
Trong vụ việc lần này, có thể thấy phản ứng công khai của phía Việt Nam gần như diễn ra ngay lập tức, khác hẳn với những lần khác trong quá khứ, mà gần đây nhất là vụ bãi Tư Chính với khoảng một tuần sau, hoặc kín đáo và chậm chạp hơn nữa trong những vụ việc xa hơn.
Chỉ "ngoại giao"
Một sự trùng hợp là sự kiện Trung Quốc trao trả 8 ngư dân lại được truyền thông Việt Nam đưa tin trong cùng một ngày (3/4) với sự kiện Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc điện đàm với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường để "bàn cách hợp tác chống dịch Covid-19".
Trang thông tin chính thức của chính phủ Việt Nam nói trong cuộc điện đàm, ông Phúc còn ca ngợi "thành quả to lớn" mà Trung Quốc đã đạt được trong việc chống dịch Covid-19, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, Thủ tướng Lý Khắc Cường và Quốc vụ viện Trung Quốc. Ông Phúc cũng cảm ơn sự hỗ trợ của Bắc Kinh qua hình thức chia sẻ kinh nghiệm và một số địa phương đã hỗ trợ vật tư y tế cho Việt Nam.
Mặc dù trên bình diện thông tin, hai sự kiện trên là hoàn toàn tách biệt, nhưng theo nhận định của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, chúng thực chất "có liên quan với nhau".
Ông giải thích : "Về mặt hợp tác, vì hai nước có ‘hợp tác đối tác chiến lược’, trên nền tảng hai nước đều là thành viên của Liên Hiệp Quốc thì phải có những hợp tác giúp nhau chống dịch bệnh, thiên tai. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường gọi điện cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và chắc là có thỏa thuận với nhau gì đó về chuyện bên Trung Quốc sẽ gửi một số vật tư y tế để giúp Việt Nam chống dịch này. Từ trước tới giờ là không có. Kể từ khi bùng phát dịch thì chưa thấy có gì cả, bây giờ thì lại có. Theo tôi biết thì thủ tướng Việt Nam có nêu chuyện Biển Đông nhưng không thấy báo chí nêu".
Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, những lời ca ngợi của thủ tướng Việt Nam về thành tựu của Trung Quốc trong việc phòng chống dịch Covid-19 thời gian qua chỉ "hoàn toàn là ngoại giao".
"Vì ở Việt Nam giờ chả ai tin người Trung Quốc", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp khẳng định.
Theo ông, những vấn đề liên quan đến đại dịch Covid-19 như khi nào dịch thuyên giảm, chấm dứt hay sẽ bùng phát trở lại là những câu hỏi mà không ai hiện giờ có thể trả lời.
"Thế thì khi người Trung Quốc họ nói rằng họ ngớt dịch, rồi hết dịch, từ đó họ làm chuyện nọ chuyện kia… thì khen họ chả mất gì cả nên ông [thủ tướng] cứ khen thôi".
Thêm vào đó, theo nhà nghiên cứu này, nếu Trung Quốc thực sự hết dịch thì "Việt Nam cũng được nhờ" và chuyện "mừng cho anh cũng có nghĩa là mừng cho tôi".
"Vì nếu Trung Quốc không hết dịch thì nó lại lây sang Việt Nam. Đợt vừa rồi, 16 người đầu tiên là từ Trung Quốc, từ Vũ Hán sang", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói thêm.
Quan hệ Việt - Trung đã thay đổi ?
Theo lời Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp - mà ông khẳng định không phải là "suy đoán" - thì trong câu chuyện "ngoại giao" giữa hai nguyên thủ quốc gia còn kèm theo một nội dung từ phía Việt Nam.
"Đó là dù thế nào thì dù, Trung Quốc không nên lấy chuyện chống được dịch để gây ra những chuyện lớn ở Biển Đông. Đấy là thông điệp mà tôi chắc là thủ tướng Việt Nam đã nói với ông kia [thủ tướng Trung Quốc]".
Nhà nghiên cứu của Viện ISEAS khẳng định mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện giờ "đã thay đổi", và ngôn ngữ "ngoại giao" trao đổi giữa hai bên đôi khi không nói lên thực chất của mối quan hệ, mà chỉ là "nói với nhau vậy thôi".
"Bây giờ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thay đổi nhiều rồi, việc nào phải ra việc đấy thôi. Nhân vụ đại dịch này thì người ta nhìn rõ nhau hơn", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhận định.
Nhà nghiên cứu này khẳng định Việt Nam giờ chỉ xem Trung Quốc là quốc gia "đối tác", và vì đối tác này luôn sẵn sàng "gây sự" bất cứ lúc nào nên "không tin được nhau" và "niềm tin chiến lược bây giờ còn rất ít".
"Trong khi đó, niềm tin đối với Mỹ thì ngày càng tăng, nhưng tăng đến mức trở thành đồng minh với nhau thì chưa thấy", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp bình luận thêm.
Theo dự đoán của ông, nếu Trung Quốc tiếp tục lấn tới trong hoạt động nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, thì những động thái "không hòa bình" có thể sẽ diễn ra trên thực tế trong vài tuần sắp tới.
Khánh An
Nguồn : VOA, 05/04/2020
********************
Trung Quốc : vừa ăn cướp vừa la làng
Chi Mai, VNTB, 04/04/2020
Trung Quốc sẽ viện trợ vật tư y tế cho Việt Nam
Ngày 2/4 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và người đồng nhiệm Lý Khắc Cường đã có một cuộc điện đàm rất hữu nghị về thành quả chống dịch Covid-19 của hai bên.
Ông Phúc đánh giá cao thành quả to lớn trong công tác chống dịch của Trung Quốc, ca ngợi sự lãnh đạo tài tình của Tập Cận Bình và sự điều hành hiệu quả của ông Lý Khắc Cường. Ông Phúc cũng không quên cảm ơn sự hỗ trợ của Trung Quốc từ trao đổi kinh nghiệm cho tới vật tư y tế và xem đó là điểm sáng trong quan hệ hai nước nhân dịp 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.
Ông Lý Khác Cường khen ngợi cách thức phòng chống dịch của Việt Nam, thông báo thành tựu chống virus Covid-19 của Trung Quốc. Ông Lý cũng cảm ơn điện thăm hỏi của ông Phúc và các hình thức hỗ trợ của Việt Nam nhưng chắc lại quên không nhắc tới món viện trợ 500.000 đô la của chính phủ Việt Nam.
Ông Lý Khắc Cường hứa sẽ viện trợ và cung cấp vật tư, trang thiết bị phòng chống dịch trong khả năng của Trung Quốc.
Thế nhưng trong bối cảnh những vật tư y tế của Trung Quốc đang mang tiếng xấu ở nhiều nước trên thế giới, thì ai sẽ đảm bảo rằng những gì Trung Quốc viện trợ hoặc bán cho Việt Nam sẽ là những thiết bị, vật tư có chất lượng ?
Vừa ăn cướp vừa la làng
Nhưng cũng cùng sáng sớm hôm 2/4 đó, Trung Quốc đã cho tàu đâm chìm tàu cá Việt Nam ngoài ở Biển Đông và bắt giữ ngư dân.
Ngày 4/4/2020, Bộ Ngoại giao Việt Nam trao công hàm phản đối và yêu cầu Trung Quốc bồi thường vì đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi với 8 ngư dân ở Hoàng Sa.
Tàu đánh cá với 8 ngư dân đã bị một tàu Trung Quốc đâm chìm gần quần đảo Hoàng Sa gần vùng biển đang tranh chấp lúc 3 giờ sáng cùng ngày. Đây là vụ đâm chìm tàu Việt Nam đầu tiên trong năm nay vì từ đầu năm tới giờ.
Trung Quốc cho rằng tàu cá Việt Nam đã đánh bắt trái phép trong lãnh hải Trung Quốc.
Sáng sớm hôm thứ Năm mấy tàu cá Trung Quốc đã húc chìm tàu cá QNg 90617 TS của ngư dân Trần Hồng Thọ (33 tuổi, trú ở thôn Phú Quý, xã Bình Châu, Bình Sơn) khi đang hoạt động ở gần quần đảo Hoàng Sa. Đến chiều cùng ngày tin tức mới về tới đất liền và báo cho cơ quan chức năng xã Bình Châu.
Tàu Trung Quốc đã phun vòi rồng không cho hai tàu cá khác ở gần đó cứu hộ, cứu nạn. Hai tàu cá QNg 90929 TS và QNg 90045 TS cũng bị bắt, bị lai dắt vào đảo Phú Lâm.Tới chiều tối cùng ngày thì 8 ngư dân trên tàu bị húc chìm đã được thả ra cùng với hai tàu cá bị bắt.
Tuy nhiên phía Trung Quốc lại cho rằng tàu cá Việt Nam có " các hoạt động nguy hiểm và đâm vào tàu tuần duyên của Trung Quốc trong khi đang thực hiện đánh bắt trái phép trên vùng lãnh hải của Trung Quốc. Có lẽ sau khi tự đâm vào tàu Hải cảnh Trung Quốc, thì tàu cá QNg 90617 TS cũng tự chìm.
Lực lượng tuần duyên Trung Quốc sau đó lại ra tuyên bố cảnh cáo Việt Nam về việc xâm nhập lãnh hải Trung Quốc và thúc giục chính phủ Việt Nam nên cân nhắc tránh để xảy ra tình trạng tương tự lần nữa.
Việt Nam phản đối bằng ngoại giao và công hàm
Người phát ngôn bộ ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tuyên bố Trung Quốc đã có hành động xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt nam, "gây thiệt hại về tài sản, đe dọa an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam".
Bà Hằng cho rẳng Trung Quốc đã làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông và khẳng định Việt Nam "có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế".
Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối "yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu hải cảnh Trung Quốc nêu trên" để tránh xảy ra vụ việc tương tự. Ngoài ra công hàm còn yêu cầu phía Trung Quốc phài "bồi thường thỏa đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam".
Trong khi đó Việt Nam vẫn không có phản ứng gì với việc Bắc Kinh khoe họ đã khai thác được lượng khí băng lớn kỷ lục (861.400 mét khối) ở Biển Đông tại một khu vực đang có tranh chấp (*).
Chi Mai
Nguồn : VNTB, 04/04/2020
____________
Chú thích :
(*) https://vietnamthoibao.org/vntb-diem-tin-bien-dong/
********************
Nỗi lo về chất lượng thiết bị y tế từ Trung Quốc
Diễm Thi, RFA, 03/04/2020
Hôm 2/4/2020, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc có cuộc điện đàm với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường về việc hợp tác phòng chống dịch Covid-19. Hai bên thông báo tình hình và kết quả phòng chống dịch Covid-19 của mỗi nước.
Một an ninh Trung Quốc cầm thiết bị đo nhiệt độ, kiểm tra thân nhiệt người ra vào tại một trung tâm mua sắm ở Thượng Hải vào ngày 21/3/2020. AFP
Ông Nguyễn Xuân Phúc cảm ơn sự hỗ trợ của Trung Quốc qua các hình thức như trao đổi kinh nghiệm và một số tỉnh thành, doanh nghiệp Trung Quốc hỗ trợ vật tư y tế cho Việt Nam. Ông Lý Khắc Cường cảm ơn sự ủng hộ của Việt Nam khi dịch bệnh tại Trung Quốc ở cao điểm, đồng thời thông báo Bắc Kinh sẽ viện trợ và cung cấp vật tư, thiết bị phòng chống dịch cho Việt Nam.
Ngay khi báo Thanh Niên loan tin, nhiều độc giả bày tỏ sự lo lắng về chất lượng của những sản phẩm từ Trung Quốc dưới bản tin này.
Cô Trang từ Bà Rịa-Vũng Tàu viết rằng : Sự giúp đỡ chân thành thì tất nhiên chúng ta sẽ cảm kích, nhưng tôi nghĩ các công ty nhập khẩu hàng hóa nói chung, vật tư y tế nói riêng nên kiểm tra về chất lượng cũng như sự an toàn trước hết...
Bà Nguyễn Thị Thanh Hà từ Đà Nẵng viết ngắn gọn : Hy vọng đó là những vật tư thiết bị y tế có chất lượng.
Không phải tự nhiên mà người dân Việt Nam lo ngại về chất lượng sản phẩm từ Trung Quốc, nhất là các sản phẩm về y tế.
Tháng 11 năm 2012, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam giải mã gần như toàn bộ thành phần các viên chất rắn và dịch lỏng trong áo ngực phụ nữ ghi nhãn xuất xứ từ Trung Quốc, khẳng định sự hiện diện của một chất có khả năng gây ung thư, rối loạn nội tiết…
Đầu năm 2014, Chi cục Quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa miền Nam ra thông báo về sản phẩm bóng hơi cho trẻ em chứa chất phthalate vượt mức cho phép hàng trăm lần. Tất cả sản phẩm này đều do Trung Quốc sản xuất. Chất này làm suy giảm sự phát triển của bộ phận sinh dục nam, khiến cho cơ quan sinh sản của nam giới bị teo lại. Nếu trẻ ngậm, tự thổi món đồ chơi này, chất phthalatses sẽ trực tiếp và nhanh chóng đi vào cơ thể.
Không chỉ hàng tiêu dùng xuất xứ từ Trung Quốc chứa chất gây ung thư được nhập vào Việt Nam. Chiều 29 tháng 1 năm 2013, Đội Quản lý thị trường số 1, thuộc Chi cục Quản lý thị trường Hà Tĩnh, thông báo họ phát hiện và thu giữ một khối lượng lớn mực khô đã xé tơi, nghi là mực khô giả được làm bằng nhựa có nguồn gốc Trung Quốc.
Ông Nguyễn Đình Ngọc từ Sài Gòn cho rằng, sản phẩm tiêu dùng từ Trung Quốc đã không tin được. Trong tình hình dịch bệnh như bây giờ mà nhập những sản phẩm y tế kém chất lượng thì hậu quả khôn lường. Ông nêu quan điểm của mình với RFA :
"Dù cho đó là bán hay viện trợ thì với tư cách là một người Việt Nam đang sống tại Sài Gòn, thú thật là tôi không tin vô chất lượng những món hàng từ Trung Quốc. Thực tế Tây Ban Nha và Séc đã phải trả lại những bộ kit xét nghiệm mua từ Trung Quốc do nó không đạt chuẩn. Còn về lịch sử Trung Quốc thì hầu như ai cũng biết họ là vua xài độc dược. Thứ hai, Trung Quốc là bậc thầy về hàng giả. Thứ ba, trong tình hình hiện nay dịch bệnh lan truyền khủng khiếp trên thế giới, Trung Quốc là người phải chịu trách nhiệm mà họ còn trốn tránh thì làm sao tôi có thể đặt niềm tin vào chuyện viện trợ của họ ?"
Công nhân sản xuất găng tay y tế tại một nhà máy ở Hồ Bắc, Trung Quốc vào ngày 23 tháng 3 năm 2020. AFP
Khi đại dịch Covid-19 lan khắp toàn cầu, nhiều nước nhập sản phẩm y tế từ Trung Quốc đã phải trả lại vì chất lượng không đạt yêu cầu.
Hôm 28 tháng 3, AFP dẫn một thông cáo của Bộ Y tế Hà Lan cho hay, Hà Lan mua 1.300.000 khẩu trang từ Trung Quốc và nay phải thu hồi 600.000 chiếc đã được phân phát đến các bệnh viện vì phát hiện lô hàng này không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng.
Cũng trong tháng 3, Tây Ban Nha đã đặt mua tại Trung Quốc một số thiết bị, vật tư y tế trị giá tổng cộng 467 triệu đô la, bao gồm 5.500.000 bộ xét nghiệm, 950 máy trợ thở, 11 triệu đôi găng tay và 500 triệu khẩu trang. Sau đó, giới y tế nước này đã báo động là gần 70% bộ xét nghiệm mua từ Trung Quốc đã cho kết quả không chính xác. Chính phủ Trung Quốc đổ lỗi cho một công ty không được chính quyền Trung Quốc cấp phép.
Cộng hòa Czech cũng nhập những bộ kit xét nghiệm từ Trung Quốc và một quan chức y tế địa phương của nước này đã tố cáo kết quả xét nghiệm từ các bộ kit nhanh của Trung Quốc cho kết quả sai đến 80%.
Cuối tháng 3, Thứ trưởng Y tế Philippines thông báo kit thử Covid-19 của Trung Quốc có độ nhạy chỉ 40%. Bộ Y tế nước này sau đó phải xin lỗi khi Bắc Kinh nổi giận.
Tiến sĩ - Bác sĩ Võ Xuân Sơn làm việc tại Phòng Khám quốc tế ExSon ở Sài Gòn nhận định :
"Cá nhân tôi thì không tin vào những sản phẩm từ Trung Quốc. Trên thực tế thì gần đây có một số nước đã phản ánh chất lượng các bộ kit xét nghiệm nhập từ Trung Quốc. Do đó Việt Nam cũng phải xem xét kỹ về chất lượng hàng viện trợ từ Trung Quốc. Nếu chất lượng thật sự tốt thì mới xài còn không thì không nên xài. Nếu đã bỏ tiền mua thì phải mua loại nào chất lượng tốt, độ tin cậy cao. Đồ Trung Quốc thì độ tin cậy thấp".
Bác sĩ Phạm Nhật An, nguyên Phó Giám đốc Bệnh Viện Nhi Trung Ương kiêm trưởng Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Nhi trung ương, thì có cái nhìn khác. Ông cho rằng nếu Trung Quốc viện trợ thì cũng tốt và ông tin rằng Việt Nam sẽ kiểm tra lại chất lượng sản phẩm trước khi dùng. Việt Nam có khả năng làm việc này. Ông nói thêm :
"Với những sản phẩm trong ngành y tế, đặc biệt là những kít xét nghiệm thì phải có độ chuẩn xác nhất định mới bảo đảm an toàn cho người bệnh cũng như cho việc chống dịch bệnh.
Mình không hiểu thực chất độ nhạy, độ đặc hiệu của những test thử nghiệm từ Trung Quốc thì Việt Nam phải kiểm định chất lượng chứ không thể chỉ tin vào thông tin của nhà sản xuất".
Tiến sĩ khoa học Nguyễn Hồng Vũ từ California thì cho rằng, nhập thì cũng phải nhập vì Trung Quốc hiện nay là nhà máy sản xuất của thế giới. Tuy nhiên cần chọn những đơn vị sản xuất tin cậy và test hàng cẩn thận trước khi đưa vào sử dụng. Các test cần làm cho các mặt hàng y tế lúc này là : test độ sạch, an toàn sinh học (bảo đảm không nhiễm virus hoặc các chất độc) ; test tính năng để đảm bảo các thiết bị đó hoạt động đúng theo yêu cầu kỹ thuật.
Qua những phát biểu vừa nêu, nỗi lo về chất lượng, đặc biệt chất lượng của trang thiết bị, sản phẩm y tế do Trung Quốc sản xuất, là một thực tế có thực được chứng minh qua những bài học trước đây và hiện nay. Những kinh nghiệm đó không chỉ người Việt bao lần trải nghiệm, mà nhiều nước khác cũng nêu rõ.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 03/04/2020
******************
Việt Nam phản đối Trung Quốc đâm chìm tàu cá gần Hoàng Sa
VOA, 05/04/2020
Việt Nam nói đã trao công hàm phản đối với Trung Quốc sau vụ tàu cá của Việt Nam được nói là bị tàu hải cảnh của Trung Quốc đâm chìm trong khi đang hoạt động tại khu vực đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng
Tàu cá Việt Nam, với tám ngư dân trên tàu, đang đánh cá gần quần đảo Hoàng Sa hôm thứ Năm thì bị tàu hải cảnh Trung Quốc tới ngăn cản và đâm chìm, Bộ Ngoại giao Việt Nam nói trong một phát biểu đăng trên website của bộ ngày thứ Bảy.
Tất cả ngư dân đều được tàu Trung Quốc vớt lên và còn sống và được giao lại cho hai tàu cá Việt Nam khác đang hoạt động gần đó, Hội Nghề cá Việt Nam cho biết trong một thông cáo đăng trên website của mình.
"Hành động trên của tàu công vụ Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe dọa an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói trong thông cáo.
Bộ nó thêm rằng đại diện của bộ ngày thứ Sáu đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lí nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu hải cảnh, "không để tái diễn những hành động tương tự, đồng thời bồi thường thỏa đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam".
Việt Nam và Trung Quốc trong nhiều năm qua đã vướng vào tranh chấp lãnh hải trong những vùng biển giàu tài nguyên ở Biển Đông.
Lực lượng hải cảnh Trung Quốc cuối ngày thứ Sáu nói tàu Việt Nam đã xâm nhập bất hợp pháp khu vực đánh cá và từ chối rời đi.
Sau khi có những thao tác nguy hiểm, tàu này đã va chạm với một tàu hải cảnh của Trung Quốc và bị chìm, lực lượng hải cảnh Trung Quốc nói trong một phát biểu đăng trên tài khoản mạng xã hội của mình.
Vụ việc này đánh dấu lần thứ hai trong vòng chưa đầy một năm một tàu cá của Việt Nam được nói là bị tàu Trung Quốc đâm chìm gần quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc kiểm soát.
Một tàu khảo sát dầu của Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động tại vùng biển do Việt Nam kiểm soát trong hơn ba tháng vào năm ngoái, gây nên một cuộc đối đầu căng thẳng giữa các tàu của hai nước.
********************
Biển Đông : Hà Nội phản đối Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam
Thanh Phương, RFI, 04/04/2020
Hôm 03/04/2020, chính phủ Việt Nam đã chính thức phản đối Bắc Kinh về vụ tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam ở khu vực Hoàng Sa.
Đảo Phú Lâm (Woody Island), quần đảo Hoàng Sa, hiện Trung Quốc kiểm soát, Việt Nam đòi hỏi chủ quyền. Ảnh chụp ngày 27/07/2012. STR / AFP
Cổng Thông tin điện tử của chính phủ Việt Nam hôm nay đăng lại tuyên bố của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng trong cuộc họp báo hôm qua, cho biết là một tàu tàu cá của Quảng Ngãi, trên đó có 8 ngư dân Việt Nam, đang hoạt động tại khu vực đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, quần đảo mà hai nước đang tranh chấp, thì bị tàu hải cảnh Trung Quốc ngăn cản và đâm chìm ngày 02/04.
Theo thông cáo của hội Nghề Cá Việt Nam, sau khi đâm chìm tàu cá Việt Nam, tàu Trung Quốc đã vớt 8 ngư dân của tàu đưa về đảo Phú Lâm. Sáng cùng ngày hôm đó, khi nhận được tin báo, ba tàu cá khác của Quảng Ngãi đã chạy đến ứng cứu và đã bị tàu Trung Quốc truy đuổi, hai tàu cá bị bắt và bị đưa vào đảo Phú Lâm. Đến chiều tối 02/04, phía Trung Quốc giao trả 8 ngư dân và 2 tàu cá bị bắt. Hội Nghề Cá Việt Nam kịch liệt lên án và phản đối hành động "vô nhân đạo" nói trên của phía Trung Quốc.
Trong cuộc họp báo hôm qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thi Thu Hằng cũng cho rằng hành động trên của tàu công vụ Trung Quốc "đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe dọa an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam".
Theo lời bà Lê Thị Thu Hằng, hôm qua, đại diện Bộ Ngoại giao đã trao công hàm phản đối cho đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và yêu cầu phía Trung Quốc "điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu hải cảnh Trung Quốc nêu trên, không để tái diễn những hành động tương tự, đồng thời bồi thường thỏa đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam".
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao nhắc lại Việt Nam "có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý" để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Reuters, hôm qua, lực lượng hải cảnh Trung Quốc lại cho rằng tàu cá Việt Nam đã xâm nhập "trái phép" vào khu vực Hoàng Sa để đánh cá và đã không tuân lệnh rời khỏi khu vực này. Họ khẳng định tàu cá Việt Nam đã bị chìm khi đâm vào tàu hải cảnh Trung Quốc.
Reuters nhắc lại đây là lần thứ hai trong vòng chưa tới một năm Hà Nội tố cáo tàu cá Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm.
Thanh Phương
*********************
Tỉnh Trung Quốc giáp Việt Nam thắt chặt kiểm soát biên giới vì virus
VOA, 05/04/2020
Tỉnh Quảng Tây nằm ở tây nam Trung Quốc, có biên giới với Việt Nam, đã đình chỉ việc vận chuyển hành khách xuyên biên giới và hạn chế cho công dân xuất cảnh trong khi có những lo ngại về sự gia tăng các trường hợp nhiễm virus corona ngoại nhập.
Một sĩ quan biên phòng của Việt Nam đứng gác tại cửa khẩu Hữu Nghị giáp với biên giới tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, ngày 20 tháng 2, 2020.
Tỉnh này đã đóng cửa hầu hết các cửa khẩu ngoại trừ một số ít được dùng cho việc vận tải hàng hóa, ủy ban y tế Quảng Tây cho biết trong một thông cáo vào cuối ngày thứ Sáu.
Các khu vực xung quanh biên giới dễ qua lại của Trung Quốc với Đông Nam Á vẫn đang cố gắng thắt chặt kiểm soát trong khi hàng ngàn người đổ vào một nước được coi là nơi trú ẩn an toàn trong cuộc chiến toàn cầu chống lại đại dịch virus corona đã lây nhiễm hơn 1 triệu người khắp thế giới.
Tính đến ngày thứ Sáu, tổng số trường hợp được xác nhận ở Trung Quốc là 81.639, bao gồm 19 trường hợp nhiễm mới, trong đó có 18 trường hợp ngoại nhập, Ủy ban Y tế Quốc gia cho biết.
Quyết định mới của tỉnh Quảng Tây không cho phép công dân Trung Quốc, bao gồm những người sống gần khu vực biên giới, rời khỏi nước này bằng phương tiện vận chuyển đường bộ hoặc đường thủy.
Các doanh nghiệp tham gia vào các dự án viện trợ nước ngoài, đầu tư nước ngoài, hỗ trợ kĩ thuật và hỗ trợ y tế khẩn cấp phải nộp đơn xin phép và danh sách những người xuất cảnh đến trụ sở phòng chống dịch bệnh tại khu vực nơi có cửa khẩu xuất cảnh, và rời đi cùng nhau sau khi được chấp thuận.
Nhân viên trên các tàu hướng về Trung Quốc không được phép rời khỏi tàu, thông cáo cho biết.
Tài xế xe tải Việt Nam bị giới hạn hoạt động chỉ trong các bãi dỡ hàng và phải rời đi trong cùng ngày.
Nhà chức trách khuyến khích công chúng báo cáo những vụ nhập cảnh bất hợp pháp với phần thưởng tiền mặt từ 3.000 đến 10.000 nhân dân tệ, theo thông cáo.
Phần I
Năm 2020, tròn 70 năm Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ trong 70 năm ấy giữa hai nước có vui, có buồn, có hữu nghị, có xung đột, thậm chí chiến tranh.
Trên thực tế mối quan hệ này đã không suôn sẻ từ hơn bốn chục năm, mặc dù có vẻ hai nước vẫn ôm lấy cái mà Trung Quốc gọi là "đại cục" : cùng lý tưởng chính trị, cùng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Cái "đại cục" này được gọi là "đại cục" để che lấp, che khuất hết những bất đồng, xung đột khác chăng ? Có thể !
Trung Quốc là quốc gia có dân số lớn nhất thế giới và đã phát triển vũ bão trong mấy chục năm qua nhờ công cuộc cải cách mở cửa. Bình quân đầu người khi bắt đầu công cuộc này chỉ với 156 USD (thấp hơn cả khu vực được coi là nghèo nhất thế giới lúc đó là Hạ Sahara, 390 USD) thì nay, theo số liệu của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc đã ở mức trên 10.000 USD (2019), trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao. Tính theo sức mua tương đương, quy mô nền kinh tế Trung Quốc đã vượt Mỹ từ năm 2014. Với mục tiêu "100 năm thứ hai" tính đến 2049, Trung Quốc sẽ thực sự trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Và cũng sẽ đến danh xưng siêu cường, sánh ngang Mỹ.
Để trở thành siêu cường – điều mà Trung Quốc vẫn còn đang ủ mưu – Trung Quốc đã có những phát triển và cải tổ mạnh mẽ về mặt quốc phòng và quân sự. Các hệ vũ khí mới được phát triển, đặc biệt các vũ khí có tầm chiến lược, vươn cao vươn xa, có sức công phá lớn như : tên lửa, máy bay, tàu chiến, vũ khí – khí tài vũ trụ. Trung Quốc liên tiếp cho đóng tàu sân bay, tàu đổ bộ trực thăng tấn công khổng lồ, tàu tự hành. Ngày 27/5/2019 họ đưa máy bay ném bom hạng nặng ra Hoàng Sa và lần đầu tổ chức tuần tra liên hợp tại khu vực này. Trên tất cả, Trung Quốc tổ chức lại bộ máy quân sự, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản với người chỉ huy cao nhất là Tập Cận Bình, Tổng bí thư – Chủ tịch nước.
Trung Quốc cũng không giấu diếm việc tìm kiếm vai trò quản trị quốc tế trên mọi lĩnh vực, thậm chí đưa mô hình quản trị của họ như một hình mẫu khả thi mà thế giới có thể cần và noi theo.
Trái với việc ủ mưu siêu cường, Trung Quốc không giấu diếm việc cạnh tranh chiến lược với Mỹ trên mọi mặt trận có thể. Rõ ràng nhất là để đối trọng với việc Tổng thống Obama tái cân bằng Chiến lược châu Á – Thái Bình Dương, Chủ tịch Tập Cận Bình có ngay sáng kiến "Vành đai và Con đường" đáp lại ("Vành đai con đường tơ lụa và Con đường tơ lụa trên biển", đã trở nên quen thuộc với tên chữ cái tiếng Anh : BRI – Belt and Road Initiative). Phải nói ngay đó là một sáng kiến khôn ngoan, nó không chỉ tranh thủ được các đối tác về cả ngoại giao, kinh tế, kết nối địa chiến lược mà còn giúp Trung Quốc ""tiêu thụ" sự thặng dư nguồn lực của mình. Nghĩa là với BRI, Trung Quốc muốn "được" mọi phương diện.
BRI đã khiến Tổng thống mới của Mỹ, Donald Trump lại phải thêm một lần điều chỉnh : chiến lược "Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở" ra đời. Cuộc cạnh tranh giữa hai thế lực lớn nhất thế giới, ngấm ngầm hoặc bộc phát trở thành cuộc chiến địa chính trị toàn cầu. Với phiên bản "Vành đai – Con đường" đối chọi phiên bản "Ấn – Thái" Trung Quốc cho thấy mình muốn gì, đang làm gì và ở đâu.
Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, giống như một cái thùng không đáy hứng sự đầu tư của thế giới tư bản, bước sang thế kỷ XXI Trung Quốc gần như đột ngột xuất hiện trong tư cách nhà cung ứng tài chính không chỉ cho thế giới thứ ba mà cho cả địa cầu. Với ngân khoản khổng lồ có được từ sự phát triển kinh tế của mình, Trung Quốc ồ ạt đầu tư ra nước ngoài, không kịp gây ngạc nhiên cho người quan sát. Chỉ riêng giai đoạn 2013-2017, Trung Quốc đã chiếm khoảng 35% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Sáng kiến Vành đai – Con đường lại là một ví dụ khác.
***
Sự lớn mạnh của Trung Quốc chắp cánh cho những toan tính sẵn có. Toan tính ấy là toan tính toàn cầu nhưng trước hết nhằm phục vụ lợi ích và quyền lực của Trung Quốc trong khu vực chiến lược sát sườn Đông Nam Á /ASEAN. Trung Quốc luôn lớn tiếng ASEAN là hạt nhân, là trung tâm giữ vai trò quyết định trong hợp tác và an ninh khu vực (các nước lớn Mỹ, Nhật Bản cũng nói vậy) nhưng vai trò ấy phải trong vòng kiềm tỏa. Năm 2010, trong một cuộc làm việc ở Hà Nội, có sự tham gia của cả Ngoại trưởng Mỹ và các Ngoại trưởng ASEAN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc – một cách rất nước lớn – đã chỉ vào đại diện của Singapore và Việt Nam mà bảo rằng các anh chỉ là những nước nhỏ, rồi giận dữ bỏ ra ngoài.
Các nước Đông Nam Á lục địa cùng chung hệ thống sông Mekong. Dòng sông này bắt nguồn từ Tây Tạng với Lan Thương (Trung Quốc) ở thượng nguồn. Năm 1995, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia lập ra Ủy hội sông Mekong (MRC) để cùng quản lý dòng sông này. Một trong những việc đầu tiên của MRC là thúc đẩy việc cấm xây dựng các đập thủy điện lớn. Mọi thứ đang còn ngổn ngang thì tháng 3/2016 một cơ chế hợp tác khác, Hợp tác Lan Thương – Mekong, LMC, do Trung Quốc khởi xướng, bao gồm Trung Quốc và các nước trên cộng thêm Myanmar ra đời [1].
Trung Quốc đề nghị lập một cơ cấu quản lý và cơ cấu này nên nằm ở Vân Nam. Khỏi cần một cơ cấu quản lý, ai cũng biết chính các con đập quản lý nguồn nước, nguồn cá, nguồn phù sa của dòng sông. Riêng Trung Quốc đã xây tới 11 con đập, chứa lượng nước khổng lồ 47 tỉ m3. Một lượng nước như vậy bị trữ lại đã gây thiệt hại rất nhiều cho vùng hạ lưu, đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cuối nguồn. Đã có dự báo từ sớm, xâm nhập mặn ở vùng này sẽ khốc liệt chưa từng vào quý I năm nay 2020. Và thực tế đã diễn ra như vậy. Hạ nguồn (Thái Lan, Campuchia, Việt Nam) đang đói, đói nước, đói cá, đói phù sa.
Lượng thủy sản của hệ thống sông này được coi là một trong những nguồn thủy sản nội địa lớn nhất thế giới, chiếm gần 1/4 lượng đánh bắt cá nước ngọt toàn cầu. Ngư dân Thái Lan cho biết mực nước và lượng cá đã đang giảm hẳn từ khi Trung Quốc xây dựng các con đập. Muốn vận chuyển lớn, họ xả nước, còn không thì giữ lại. Mực nước không ổn định khiến cá không đẻ trứng. Nổ mìn, phá đá mở rộng lòng sông và nạo vét cát sỏi ở thượng nguồn đã phá hệ sinh thái và đe dọa an ninh lương thực của hàng triệu người phụ thuộc vào nó. (Theo thông tin vừa cập nhật, Nội các Thái Lan đã tuyên hủy Dự án khơi thông luồng lạch, ghềnh đá trên sông Mekong vào ngày 11/02/2020 và đây được coi là thắng lợi chưa từng có).
Một vấn đề khác : Trung Quốc cũng là đối tác hàng đầu của các nước Đông Nam Á về kinh tế – thương mại, đặc biệt với Việt Nam, được coi là nước xuất nhập khẩu lớn nhất của Trung Quốc trong khu vực. Do quan hệ truyền thống lâu đời và một đường biên hơn 1400km đã khó quản lý, buôn bán tiểu ngạch và buôn lậu phát triển mạnh lúc nóng lúc lạnh lại càng khó quản lý. Chưa nói trong quan hệ thương mại, phía Việt Nam hầu như bị động hoàn toàn vào nhập khẩu từ Trung Quốc.
***
Nhưng có lẽ Biển Đông mới là vấn đề lớn nhất trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN nằm ven bờ : Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei. Trong những nước này thì Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa/Tây Sa và Trường Sa/Nam Sa, còn các nước Philippines và Brunei tuyên bố sở hữu một phần (một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa/Nam Sa). Indonesia tuyên bố sở hữu quần đảo Natuna nhưng vùng nước phía Bắc của quần đảo này nằm trong phạm vi đường 9 đoạn mà Trung Quốc nêu ra (Indonesia thường cho thấy họ không có tranh chấp với Trung Quốc, nhưng ngay đầu năm 2020, ngày 1/1 Indonesia đã triệu tập Đại sứ Trung Quốc tại nước này để phản đối việc các tàu cá và hải cảnh Trung Quốc xâm nhập vùng nước Natuna).
Sự quan tâm của Trung Quốc đến Biển Đông, những tuyên bố và hành động gần như đột ngột của nước này đến vùng biển chung của các nước Đông Nam Á mà họ muốn một mình sở hữu đã gây nên sự hoang mang lẫn phẫn nộ trong vùng. Đặc biệt với Việt Nam, nước gắn bó nhiều lợi ích nhất với Biển Đông (hơn hẳn Trung Quốc) và cũng là nước có nhiều duyên nợ với Trung Quốc về lịch sử, địa lý, văn hóa,… Biển Đông có gì ? Biển Đông có tất cả. Một nguồn lợi cá và hải sản khổng lồ, một nguồn lợi về tài nguyên dầu khí lên tới hàng ngàn tỉ đô la Mỹ và nhất là một tuyến hàng hải, một tuyến thương mại quốc tế không thể thay thế. Khống chế được tuyến này là có thể bắt nạt các quốc gia cần đến nó, bắt nạt các nước lớn, bắt nạt cả thế giới.
Gắn với tranh chấp Biển Đông, gắn với sự tham lam của Trung Quốc là "đường 9 đoạn". Con đường này không hiểu vì lý do gì mươi năm gần đây lúc thì Trung Quốc gọi 9 đoạn, lúc thì 11 đoạn, lúc thì 10 đoạn một cách tùy tiện và chỉ được gọi theo hình thức cắt đoạn như vậy, không một lần có tên gọi theo nội dung, nhưng Trung Quốc ngầm cho hiểu nó là đường biên giới quốc gia trên biển của họ (không dính bất cứ một quy định hay thông lệ quốc tế nào, kể cả điều mà Trung Quốc viện dẫn là "vùng nước lịch sử").
Lập trường về "đường 9 đoạn" được Trung Quốc chính thức đề cập đến lần đầu là văn bản được trình lên Liên hợp quốc ngày 7/5/2009- Họ từng tuyên bố không đòi hỏi quyền lợi vùng biển trong "đường chín đoạn" theo UNCLOS mà theo tập quán quốc tế, là quyền lợi lịch sử như tiền lệ tư pháp quốc tế nhưng lại không chứng minh được đường này qua các bản đồ lịch sử mà chỉ dựa vào chứng cứ mơ hồ thông qua các tuyên bố "hàng ngàn năm lịch sử" "hai ngàn năm lịch sử", "từ thời nhà Hán".v.v… Nếu nói về đời nhà Hán có thể đưa thêm một dẫn chứng ngược. Thư tịch Trung Quốc thời đó mô tả tàu thuyền đi qua vùng biển này – Hoàng Sa/Tây Sa – nhất là tàu thuyền có chốt sắt, thường bị bẻ ra hoặc bị giữ lại làm đắm thuyền vì các hòn đảo ấy toàn đá nam châm(?) Bây giờ ta có thể hiểu đó là những bãi đá nước lên xuống theo thủy triều, không có đá nam châm nào cả, gặp lúc nước rút tàu không thoát kịp sẽ trơ trọi nằm lại với đá. Một khu vực nguy hiểm "toàn đá nam châm", không có dân cư, không có điều kiện sống lại cách xa Trung Quốc như vậy thì "tổ tiên" đòi hỏi chủ quyền làm gì ? Chưa nói văn kiện nào tuyên bố chủ quyền mấy ngàn năm trước từ thời Hán để đến bây giờ các giới trách nhiệm Trung Quốc tranh nhau nói về vùng nước lịch sử và việc phải bảo vệ "đất đai tiên tổ" (?).
Có lẽ người đầu tiên vẽ con đường này (năm 1933) muốn chỉ ra khu vực đánh cá mà các ngư thuyền Trung Quốc từng lui tới chăng ? Phía Trung Quốc cũng không bao giờ cung cấp công khai văn bản ấy. Nếu có chút ít pháp lý (dù mơ hồ) thì họ đã trưng ra Tòa trọng tài khi Tòa này xét xử theo đơn kiện của Philippines (dù không tham gia phiên tòa hoặc không chấp nhận phán quyết của Tòa).
Một việc cũng thú vị là năm 2012, trước sự mù mờ của dư luận Trung Quốc và quốc tế và của cả những người sáng tạo ra nó, ông Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nam Hải tuyên bố là hai năm sau đó sẽ xác định được vững chắc cơ sở pháp lý của đường 9 đoạn. Bây giờ đã 2020, nghĩa là gần 8 năm sau rồi, chưa biết ông này đang ở đâu cùng với thề thốt của mình (?).
Trung Quốc bám víu vào đường 9 đoạn như là cơ sở chủ yếu cho tham vọng chiếm quyền ở Biển Đông. Nhưng ngoài đường chín đoạn, họ còn đánh chiếm các đảo đá (quần đảo Hoàng Sa 1974, một số đảo đá của Trường Sa 1987, 1988 và Scarborough, Mischief… vào những dịp khác). Và họ vừa nghe ngóng vừa mở rộng, xây cất trên các đảo đá đánh chiếm được theo chiến thuật tằm ăn rỗi mà phương Tây gọi là cắt lát salami.
***
Một vấn đề liên quan đến Biển Đông bắt buộc có sự tham gia của Trung Quốc và có ý nghĩa thực tế hơn : Xác lập bộ Quy tắc ứng xử cho các bên (COC).
COC là chủ đề các nước ASEAN, đặc biệt các nước ven Biển Đông rất quan tâm. Nhưng Trung Quốc thì tùy. Cuộc đàm phán về COC bắt đầu được các bên tiến hành vào năm 2013 – mười một năm sau khi có DOC (Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông). Nghĩa là rất chậm, vì Trung Quốc không muốn COC, họ coi DOC là đủ rồi. Tổng thư ký của tổ chức ASEAN lúc đó than phiền rằng tổ chức này không thể lôi kéo Trung Quốc vào các cuộc thảo luận thực chất. Bắt đầu rồi mà như chưa bắt đầu, cứ như sên bò vậy. Bằng cách đó Trung Quốc muốn cho mọi người thấy rằng họ cơi nới chưa xong, họ còn phải mang vũ khí đặt lên đấy đã,…
Không thể lộ liễu hơn, Trung Quốc chơi trò câu giờ. Trong 7 bãi đá (Chữ Thập, Gạc Ma, Châu Viên, Tư Nghĩa, Gaven, Vành Khăn, Xubi) mà Trung Quốc cơi nới thì đá Chữ Thập đã được mở rộng tăng kích thước lên gấp 11 lần, lớn hơn cả đảo Ba Bình là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa/Nam Sa mà Đài Loan đang chiếm giữ. Cho đến trước khi mở rộng, Trung Quốc là bên duy nhất không có đường băng ở Trường Sa (Đài Loan có ở Ba Bình, Philippines có ở Thị Tứ, Malaysia có ở đá Hoa Lau, Việt Nam có ở đảo Trường Sa Lớn) thì bây giờ đường băng đã xuất hiện ở Chữ Thập, Vành Khăn, Xubi. Câu giờ đủ rồi, Trung Quốc mới quay sang COC. Trong hai năm 2017, 2018 họ công bố rằng "văn bản duy nhất" của COC đã được các bên cùng đọc. Thế nào là văn bản duy nhất ? Theo các nguồn tin, đây là 11 văn bản do 11 quốc gia đưa ra và nó còn quá xa cách nhau về nội dung, nhất là những vấn đề cơ bản như : phạm vi các thực thể địa lý được đề cập, các yếu tố chế tài trên cơ sở pháp luật quốc tế…
Theo ông I. Storey từ Viện ISEAS (Singapore) "Hà Nội và một số nước đưa ra một danh sách dài những điều mà họ muốn COC cấm nhưng thật ra lại là những điều Trung Quốc đã làm trong những năm qua". Nhà phân tích M.J. Valencia thì nói với South China Morning Post : "Rất ít khả năng có được một COC có hiệu lực pháp lý như mong muốn". Tờ Nikkei (Nhật) thì cho rằng, mặc dù bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài, Trung Quốc không muốn bị coi như kẻ ngoài vòng pháp luật do vậy quan tâm đến COC có thể giúp họ hóa giải tình trạng này ?
Các nước ASEAN có lẽ muốn có sự chế tài trên cơ sở luật pháp quốc tế thông qua Bộ quy tắc ứng xử. I. Storey cho rằng, COC muốn có giá trị pháp lý thì phải trình lên Liên Hiệp Quốc, nhưng Bắc Kinh lại không chấp nhận. Còn Ngoại trưởng Philippines Locsin thì bảo "Chấp nhận những yêu sách của Trung Quốc là gián tiếp công nhận bá quyền của Trung Quốc, như cho con voi vào phòng khách".
Có một điều chắc chắn là COC không phải để giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Trung Quốc luôn cho chủ quyền các đảo, đá là vấn đề song phương mà COC chỉ có thể kiểm soát ổn thỏa những bất đồng phát sinh từ Biển Đông, bản nâng cấp chút đỉnh của DOC mà thôi.Thực tế cũng có thể không hẳn như vậy, vì thế nào là "bất đồng" và phạm vi những bất đồng ấy là gì và kiểm soát thì như thế nào. Chưa nói, Trung Quốc muốn COC không có sự can thiệp của bên ngoài trong tiến trình thảo luận (cũng vì vậy mà tiến trình này được bảo mật) nhưng các nước "bên ngoài" lại rất muốn tham gia vì vấn đề tự do hàng hải. Mà vấn đề này lại liên quan đến thế nào là phi quân sự hóa đang được các bên tranh cãi. Trung Quốc cho rằng phi quân sự hóa là tàu quân sự đi qua khu vực 12 hải lý quanh các đảo "của họ" phải có sự xin phép, còn Mỹ và các nước nói chung thì coi việc Trung Quốc xây dựng sân bay, đưa vũ khí khí tài ra các đảo đá được xây đắp, mở rộng đã là quân sự hóa rồi.
Việc tìm được sự đồng thuận giữa các bên về các vấn đề chủ chốt không hề đơn giản. Có hai luồng dư luận : một, COC chưa chắc đã cải thiện tình hình hiện nay ; hai, có COC vẫn hơn.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng tuyên bố tại Hội nghị về các biện pháp xây dựng lòng tin ở châu Á năm 2014 : "Việc điều hành công việc, giải quyết các vấn đề châu Á, bảo vệ an ninh châu Á là giành cho người châu Á". Và Trung Quốc yêu cầu trong văn kiện COC thì việc thăm dò và phát triển dầu khí và tài nguyên biển nói chung ở các vùng tranh chấp sẽ do các nước trong khu vực tiến hành, không hợp tác với các quốc gia bên ngoài. Cũng như sẽ không có các cuộc tập trận chung với các quốc gia ngoài khu vực. Yêu cầu này cho thấy, COC sẽ có thể tạo ra một dàn xếp mang tính độc quyền, trái với công ước Liên hiệp quốc về luật biển. Bà Dewi Fortuna Anwar, nhà quan sát người Indonesia đặt câu hỏi : "Làm thế nào để đảm bảo rằng COC sẽ không thể chế hóa mối quan hệ rất bất đối xứng gây bất lợi không chỉ cho các nước ASEAN mà còn cho các bên liên quan rộng lớn hơn ở Biển Đông, bao gồm cả việc không chú ý đến tất cả các điều khoản của UNCLOS ? Các nước Việt Nam, Malaysia, Philippines đã khẳng định COC sẽ không bao gồm bất kỳ điều gì gây ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của các bên theo luật pháp quốc tế…", Trung Quốc đã từng viện dẫn đoạn 4 của DOC quy định về giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán giữa các bên liên quan để phủ nhận thẩm quyền của Tòa Trọng tài và chỉ trích Philippines đã vi phạm DOC. Nhưng DOC chỉ là một tuyên bố ứng xử lỏng lẻo, thế nào mới được gọi là đàm phán, mà Trung Quốc lại chỉ muốn song phương mà thôi.
Trong khi làm ra vẻ thúc đẩy COC Trung Quốc luôn luôn nói rằng tình hình Biển Đông vẫn yên ổn thì thực tế đã xảy ra nhiều chuyện bất ổn. Một tàu cá Philippines bị tàu Trung Quốc đâm chìm vào tháng 6/2019 và hơn hai chục ngư dân lênh đênh giữa biển khiến dư luận nước này sôi sục, ba tháng sau họ mới có lời xin lỗi. Và suốt từ tháng 7 đến cuối tháng 10/2019 tàu thăm dò và hải cảnh Trung Quốc liên tục cản trở, quấy phá Việt Nam hoạt động ở vùng đặc quyền kinh tế của mình, bãi Tư Chính, dù Việt Nam nhiều lần lên án và dư luận quốc tế phản đối. Trước đó, các tàu này cũng đã thường xuyên cản trở hoạt động của Malaysia ở bãi Luconia. Và sau đó, cho đến tận đầu tháng 1/2020, hải cảnh và tàu cá Trung Quốc liên tục thâm nhập hải phận Bắc Natuna của Indonesia.
Philippines từng là nền kinh tế có trình độ phát triến thứ hai ở châu Á sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dựa vào Philippines cũng như dựa vào Hàn Quốc, Nhật Bản như là nơi cung cấp hậu cần cho cuộc chiến tranh, một lợi ích mà biết khai thác có lẽ Philippines cũng sẽ có một nền kinh tế không cách xa lắm với Hàn Quốc, Nhật Bản, nghĩa là một nền kinh tế phát triển. Hay sự tham nhũng của tổng thống độc tài Marcos và gia đình ông ta đã nuốt hết mọi cơ hội của Philippines mà khi trở thành người lãnh đạo của đất nước này, ông Duterte đã thất vọng đổ cho đồng minh lâu đời là Mỹ để làm một cuộc thoát Mỹ nhập Trung. Ông Duterte cũng bày tỏ thất vọng vì tổng thống tiền nhiệm đã để mất bãi cạn chiến lược Scarborough ở ngay cửa ngõ trung tâm quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự Manila, nhưng ông đã làm gì ? Trong 3 năm làm tổng thống, ông gặp ông Tập Cận Bình 8 lần và thăm Trung Quốc 5 lần. Sau lần gặp gỡ mới đây, ông thừa nhận là hoàn toàn bế tắc vì đối tác quyết không thay đổi lập trường. Dù vậy, ông vẫn muốn cùng khai thác với Trung Quốc vì cho rằng Philippines đã cạn kiệt nguồn cung. Theo các hãng tin nước ngoài, nếu Bắc Kinh thực sự giành được quyền khai thác chung với Philippines ở bãi Cỏ Rong thì sẽ là một bước lùi tai hại cho các bên cùng có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Nó như một chỉ dấu về cách thức "cùng khai thác" mà Trung Quốc muốn.
Những người Philippines ủng hộ Tổng thống Duterte thì nói rằng, trong khi làm chủ tịch ASEAN, Campuchia cũng đã hai lần bỏ phiếu chống lại việc ASEAN thông qua những tuyên bố chỉ trích hoạt động xây dựng và mở rộng đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông, còn hơn ông Tổng thống của họ bây giờ ? Người ta quên một điều là Campuchia có thể chẳng có lợi ích trực tiếp gì từ Biển Đông nhưng Philippines thì sao ?
Giám đốc Viện các vấn đề biển và luật biển của Đại học Philippines, Jay Batongbacan cho rằng : "Philippines đã phung phí những đòn bẩy có thể có đối với Trung Quốc thông qua việc gạt bản phán quyết của Tòa Trọng tài trong thời gian làm Chủ tịch ASEAN sang bên lề. Nếu Philippines không quan tâm đến việc đưa phán quyết vào nghị trình của ASEAN, không quốc gia nào khác trong hoặc ngoài khu vực có thẩm quyền đạo đức để đề cập đến phán quyết"
***
Ngày 13/7/2019, cơ quan CSIS (Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Mỹ) đã có bài viết nhận định Trung Quốc đã hoàn toàn bất chấp ít nhất 9 phán quyết chủ yếu của Tòa Trọng tài, sau 3 năm Tòa này ra phán quyết.
Thứ nhất, không tuân thủ phán quyết bãi Cỏ Mây và vùng biển xung quanh là thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Các tàu Trung Quốc tiếp tục thường xuyên tuần tra qua lại và có lần, trực thăng của họ còn quấy rối nguy hiểm một tàu tiếp tế của Philippines.
Thứ hai, chiếm đóng trái phép đá Vành Khăn, phản đối tàu Mỹ đi qua vô hại trong phạm vi 12 hải lý của đá này.
Thứ ba, ngăn chặn Philippines khai thác tài nguyên trong thềm lục địa của họ và ở bãi Cỏ Rong.
Thứ tư, Trung Quốc tiếp tục đơn phương đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá từ tháng 5 đến tháng 8 trong một khu vực phần lớn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines (và Việt Nam).
Thứ năm, Trung Quốc đã không ngăn chặn ngư dân của họ hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, tại bãi Vành Khăn và trên khắp Trường Sa. Tháng 6/2019, một trong số các tàu này đã đâm chìm một tàu cá Philippines
Thứ sáu, không tuân thủ phán quyết không cho phép ngư dân Trung Quốc khai thác trái phép loại sò tai tượng có nguy cơ tuyệt chủng bằng các biện pháp tàn phá môi trường, phá hủy nghiêm trọng một diện tích lớn san hô, dưới sự chứng kiến của lực lượng tuần duyên Trung Quốc như một sự phá hoại lấy được.
Thứ bảy, Trung Quốc đã phá hủy trái phép môi trường thông qua việc xây đắp đảo. Trung Quốc đã hoàn thành công việc nạo vét và chôn lấp tại quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2016. Cũng bao gồm cả việc Trung Quốc lắp đặt các trạm giám sát trên các rạn san hô ở Hoàng Sa, hủy hoại môi trường sống dưới biển.
Thứ tám, không tuân thủ phán quyết, các tàu chấp pháp của Trung Quốc tiếp tục vi phạm các quy định về chống va chạm bằng cách tạo ra nguy cơ va chạm, gây nguy hiểm cho các tàu của Philippines. Vụ quấy rối tàu tiếp tế của Philippines gần bãi Cỏ Mây tháng 5/2018 là một ví dụ.
Điều cuối cùng, thứ chín. Đặt thứ tự thứ chín là dụng ý của người viết bài này, còn CSIS đặt nó ở vị trí thứ nhất vì đây chính là vấn đề đường 9 đoạn. Phán quyết của Tòa trọng tài là Trung Quốc không thể yêu sách chủ quyền hoặc các quyền khác trong phạm vi đường 9 đoạn vốn vượt khỏi lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà Trung Quốc được UNCLOS cho phép. Và ở đây, điều CSIS phê phán là dù đã ít đề cập hơn (trước đây) về đường chín đoạn nhưng việc nước này tiếp tục tuyên bố có chủ quyền lịch sử đối với hầu hết các vùng biển và đáy biển ở khu vực này (Biển Đông) tiếp tục phản đối tất các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong đường 9 đoạn bất kể chúng nằm cách các thực thể mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền bao xa, tiếp tục để ngư dân của mình đánh cá trong các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Indonesia là vô pháp, không thể chấp nhận. Đặt điều này vào vị trí cuối cùng chúng tôi muốn khẳng định đây là sự bất tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài then chốt nhất, nghiêm trọng nhất dẫn đến tất cả các hoạt động bất tuân khác của Trung Quốc.
***
Coi Biển Đông là của mình, cùng với việc xâm chiếm và xây cất, mở rộng các đảo đá, Trung Quốc đã từng bước thiết lập sự kiểm soát các tầng không gian của Biển Đông.
Ngày 8/6/2016 Trung Quốc xây dựng Đài quan sát đáy biển, giúp tìm kiếm khoáng sản và phục vụ cho mục đích quân sự. Đây là đài quan sát ngầm đầu tiên của một quốc gia tại Biển Đông. Đài quan sát này, theo India Times, sẽ được quan sát liên tục theo thời gian thực, đảm bảo độ chính xác cao. Tiến thêm một bước, tháng 9/2019 Trung Quốc thiết lập hệ thống thiết bị bay không người lái (UAV) kiểm soát tầng không. Với hệ thống này, Biển Đông được Trung Quốc đặt dưới sự kiểm soát đa tầng, nghĩa là mọi hoạt động dưới mặt đất, trên mặt đất và trong khoảng không trên mặt nước biển đều không thóat khỏi "tầm nhìn" của họ. Thiết bị này còn giúp họ tìm kiếm dầu khí trong lòng biển và nhanh chóng biết được các quốc gia lân cận đang làm gì với tài nguyên ấy. Mới đây nước này còn thí nghiệm thành công thiết bị lặn tự hành có thể khảo sát ở phạm vi 2000km và sâu 2000m. Cùng với những tiền đồn, căn cứ quân sự mà Trung Quốc đã xây dựng ở Biển Đông (cho đến nay Trung Quốc có ít nhất 27 tiền đồn từ Hoàng Sa đến Trường Sa), thêm một lần Trung Quốc bắt nạt các nước trong khu vực.
Tại Biển Đông, các căn cứ quân sự (bao gồm các sân bay) đã được Trung Quốc thiết lập trên đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa), đá Subi, đá Vành Khăn, đá Chữ Thập. Radar, tên lửa còn được hiện diện ở những cơ sở nhỏ hơn. Vụ Tư Chính đã cho thấy những căn cứ này phát huy tác dụng như thế nào. Tàu Hải Dương Địa chất 8 sau một thời gian quấy rối việc thăm dò, khai thác của Việt Nam ở Bãi Tư Chính lại trở về đây tiếp nhiên liệu, phụ liệu, không phải trở về tận Hải Nam hay các cảng đất liền. Điều này đã không thể xảy ra trước khi Trung Quốc hoàn thành việc xây cất các đảo đá.
Nhưng, nếu một cuộc chiến tranh nổ ra lại khác. Theo những gì có thể thấy, các đảo nhân tạo không đủ lớn để dự trữ pháo, đạn hoặc trang thiết bị thay thế. Các căn cứ ấy cũng là các mục tiêu cố định, không có tầng bao phủ tự nhiên, càng không có khả năng cơ động chuyển vị trí. Nói tóm lại, nếu là một cuộc tấn công/phản kích mạnh, có ý đồ thì những căn cứ này dễ bị tiêu diệt. Hơn nữa, "vì tên lửa không yêu cầu dữ liệu mục tiêu theo thời gian sống nên tàu chiến và máy bay Mỹ sẽ dễ dàng trong chiến dịch tấn công các căn cứ trên các đảo nhân tạo", tờ National Interest viết ngày 17/9/2019. Tuy nhiên, trang tin này cũng cho rằng, các đảo nhân tạo là công cụ để Trung Quốc khẳng định các yêu sách chính trị về hàng hải và tài nguyên ở Biển Đông và các căn cứ quân sự đi kèm là công cụ để hù dọa các nước nhỏ yếu ven Biển Đông.
***
"Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương" cho đến nay là một khái niệm đã được thừa nhận nhưng chưa đồng nhất về một định nghĩa. Nhật, Mỹ, những nước đầu tiên đề cập đến khái niệm này đã cùng đồng ý về một "khu vực tự do và mở rộng". Và họ cũng muốn có một bộ tứ gồm Mỹ, Nhật, Australia, Ấn Độ làm hạt nhân. Tuy nhiên, Ấn Độ muốn tránh nói đến bộ tứ, cũng không đưa ra một quan điểm có ý nghĩa chính trị về khu vực này. Ngoại trưởng Jaishanka của Ấn Độ nói : "Khi khái niệm này xuất hiện, mỗi nước có cách nhìn và cách tiếp cận riêng. Họ có thể trao đổi để tìm ra những điểm trùng hợp. Với Ấn Độ, đó là một khu vực mở, bao trùm và cân bằng. Cũng không thể chia tách Ấn Độ Dương khỏi Thái Bình Dương".
ASEAN thì ban đầu có vẻ dị ứng với nó. Trước hết vì nó không xác định vai trò của ASEAN vốn vẫn coi (và được coi) mình là trung tâm. Hơn nữa nó mang ý nghĩa địa chiến lược của một tập hợp có vẻ chống lại Trung Quốc. Do đó các nước ASEAN đều dè dặt và hầu như không muốn nhắc đến. Song vì sự việc vẫn tồn tại, ngay bên cạnh ASEAN, va chạm với ASEAN vì các nước lớn đều nói đến nó nên cuối cùng, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 họp tại Bangkok, 6/2019, khối này cũng phải thông qua một văn kiện mang tên "Quan điểm ASEAN về "Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương" (AOIP).
Đây thực chất là quan điểm của Indonesia, nước lớn nhất trong khu vực. Indonesia vốn đã muốn xây dựng một trục hàng hải vắt qua Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và muốn được định vị như một cường quốc biển ở khu vực này. Đó hẳn là lý do quan trọng khi khái niệm địa chiến lược này được đưa ra. Nhưng trong khi khái niệm này có vẻ tạo ra một tập hợp chống lại Trung Quốc thì vị thế của Indonesia như đã nói trên lại không được đề cập. Đó là lý do tại sao Indonesia muốn khởi sự một định nghĩa khác về Ấn – Thái riêng cho ASEAN.
***
ASEAN đã tuyên bố trở thành một cộng đồng nhưng những gì cho thấy là một cộng đồng không thống nhất, một cộng đồng mà mỗi nước theo đuổi những tính toán, lợi ích riêng cho mình. Họ chỉ cùng thống nhất quan điểm về những vẫn đề ở xa tít tắp, không ảnh hưởng đến họ. Những vấn đề gần, thiết thực thì họ phải xem được gì, mất gì nếu phải đeo mang quan điểm với cả hội, nhất là vấn đề biển đảo.
Cũng không thể trách được gì vì ASEAN là tập hợp xã hội với những điều kiện xã hội khác nhau (Các nước Đông Dương cũng vậy. Một nhà nhân chủng học Pháp thời thuộc địa, những năm 30 của thế kỷ trước đã có một nhận xét khái quát : Người Lào chỉ thích vui chơi, nhảy múa, họ có nhiều lễ hội, một năm chỉ cần mấy tháng xuống nương ra đồng là được. Người Việt thì chỉ nhìn thấy những gì hiện ra tức thì, họ không thể nhìn xa hơn nếu có bức tường trước mặt. Còn người Khmer, bắt tay họ quay đi thì phải quay lại ngay, coi chừng… Những năm 70 có không ít bộ đội, cán bộ Việt Nam bị mất tích ở vùng Đông Bắc Campuchia trong khi thỉnh thoảng lại bắt gặp những lính Khmer đỏ vác dao trên đường).
Vấn đề biển đảo ở Biển Đông đã bao giờ có được một ý chí chung giữa các nước này ? Chưa. Sự rạn nứt bắt đầu từ năm 2010, vào cái thời điểm mà chúng tôi đã đề cập ở trên, đến năm 2012 việc này trở nên rõ ràng. Campuchia khi đó là Chủ tịch ASEAN đã công kích Việt Nam và Philippines vì phê phán quan điểm của họ. Khi Philippines kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế và giành được phán quyết thuận lợi của Tòa, tháng 7/2016, chỉ có Việt Nam bày tỏ sự hoan nghênh. Các nước ASEAN khác, tùy từng thời điểm cho đến nay đã cho thấy quan điểm của mình đối với phán quyết này nói chung là dè dặt.
Tuy nhiên, các nước ASEAN cũng tăng cường hợp tác cùng khai thác tài nguyên biển trong các khu vực chồng lấn, thể hiện một tinh thần hiểu biết. Đã có thỏa thuận chung giữa Thái Lan và Malaysia về việc mỗi bên có thể khai thác 50% sản lượng khí đốt trong khu vực này. Campuchia và Thái Lan cũng tích cực thúc đẩy việc khai thác năng lượng trong khu vực chồng lấn giữa hai nước. Trong khi đó, Việt Nam đang thảo luận với Indonesia và Malaysia về việc xác định vùng đánh cá chung trong khu vực tiếp giáp giữa ba nước, tránh tình trạng bắt giữ tàu cá của nhau hoặc gây ra các sự hiểu lầm khác.
Trung Quốc là bên tranh chấp lớn trong vấn đề Biển Đông. Họ giống như là một mình một phía với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, chính trị vượt trội. ASEAN, trong vấn đề Biển Đông, muốn là đối tác đa phương của Trung Quốc nhưng nước này kiên quyết giữ song phương, có đàm phán thương lượng thì riêng với từng nước liên quan, không làm với "một tập hợp". Nhưng Trung Quốc đã tốn công, tốn sức không ít và có sự bối rối lớn khi tìm kiếm sự ủng hộ của thế giới vào thời kỳ mà Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014 và khi Philippines – Aquino kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài. Những gì họ đã làm và đạt được trong vấn đề này là không đáng bỏ công. Trong danh sách các nước ủng hộ mà họ công bố lúc đó, hầu hết là các nước châu Phi và các quốc đảo tí xíu ở Thái Bình Dương. Không một nước lớn, không một nước phương Tây, thậm chí cũng không một nước ASEAN trong tổng cộng 70 nước mà Trung Quốc nói rằng ủng hộ họ. Nhưng điều đáng nói là trong cuộc tấn công "làm việc" vào các nước tí hon Vanuatu, Samoa, Tonga, Papua New Guinea, các nhà ngoại giao Trung Quốc cho các nước này biết họ là "nạn nhân" trong vụ tranh chấp và "Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, đặt tên và phát triển các đảo ở Biển Đông, còn Việt Nam và các nước khác mới chỉ tuyên bố chủ quyền trong năm 1970 (?) sau khi ở đây phát hiện các mỏ dầu và khí đốt". Lúng túng, tất cả xuất phát từ cách làm không chính nghĩa.
***
Dù muốn hay không, Biển Đông đã là vấn đề quốc tế bởi sự tranh chấp giữa nhiều quốc gia trong khu vực. Nó càng trở thành vấn đề quốc tế khi là một trong những đường hàng hải quan trọng nhất của thế giới.
Nước lớn gần cận với quan điểm của Việt Nam nhất có lẽ là Nhật Bản. Nhật Bản từng ủng hộ Trung Quốc khi Đặng Tiểu Bình đến Nhật, ngay trước khi Trung Quốc đánh Việt Nam 1979. Lập trường này đã có nhiều thay đổi, đặc biệt dưới thời cầm quyền của thủ tướng Abe. Quan hệ giữa hai nước ổn định, gần như là đồng minh cho đến lúc này. Nhật Bản là quốc gia cấp nhiều vốn ODA cho Việt Nam nhất và cũng đặc biệt giúp Việt Nam xây dựng các cơ sở hạ tầng. Không có dấu hiệu gì, không có lý do gì để thấy rằng quan hệ thân thiết giữa hai nước có thể bị phá vỡ.
Xét từ chiều sâu 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô/Nga là đồng minh của Việt Nam. Mối quan hệ này chưa từng đổi khác, cho dù vật đổi sao rời. Ngày nay đây là mối quan hệ có thể tin cậy của Việt Nam dù trong khi đó quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đã vượt lên, trở thành mối quan hệ mà cả hai nước này đều thề rằng tốt nhất trong lịch sử (đây không phải là quan hệ đồng minh, cũng không phải liên minh nhưng dựa vào nhau để tìm sự thống nhất trong đối chọi với Mỹ).
Trong vấn đề Biển Đông, Nga có lúc cũng nói là không quốc tế hóa sự tranh chấp trong khu vực. Nhưng nói chung, có thể thấy chính giới Nga, dư luận Nga ủng hộ Việt Nam, thông qua cách đưa tin trên các phương tiện truyền thông, hoặc các cuộc hội thảo ở Viện Hàn lâm hay trường đại học được đặc biệt tổ chức về vấn đề này. Chẳng hạn tiêu đề một bản tin của hãng TASS trong dịp xảy ra vụ Tư Chính : "Việt Nam kiên quyết đấu tranh trước bất cứ một hành vi nào xâm phạm chủ quyền" hoặc hãng này trích dẫn lời phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ : "Trung Quốc cần kiềm chế các hành động khiêu khích tại Biển Đông". Hãng Interfax của nước này còn trích dẫn cả lời phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Lorenzana chỉ trích Trung Quốc vì những hăm dọa. Đặc biệt trong "bối cảnh Tư Chính", ngày 17/7/2019 Nga công bố thư khen ngợi của Tổng thống Putin đối với giám đốc Rosneft Việt Nam BV (Công ty con của tập đoàn Rosneft) một động thái không chỉ được coi là khéo léo ủng hộ Việt Nam mà còn khẳng định quyền của Nga trong thăm dò, khai thác ở đây.
Tại cuộc hội đàm với tổng thống Putin (Sochi, ngày 6/9/2018) trong khi Tổng thống Nga nói rằng Moscow muốn thắt chặt hơn nữa quan hệ an ninh và quốc phòng với Hà Nội thì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết Việt Nam xem Nga là một trong những đối tác quan trọng và đáng tin cậy nhất.
Chính sách "ba không" của Việt Nam trong quan hệ quốc tế (Sách trắng quốc phòng 2019 mới xuất bản nêu "bốn không"), đặc biệt với các nước lớn, thế giới đã rõ. Nhưng trong bối cảnh ngày càng phức tạp, cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, chính sách này cần được điều chỉnh. Một liên minh liên kết với một nước mạnh, có thể làm chỗ dựa cho Việt Nam, tại sao không ?
Một liên minh có điều kiện, không nhất thiết phải là đồng minh. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam có thể sẵn sàng với quốc gia nào và quốc gia nào có thể sẵn sàng cùng Việt Nam ? Vấn đề không đơn giản bởi tính tự giác phải đến từ hai phía.
Có thể thấy một điều Mỹ là một nước lớn và là quốc gia duy nhất đã phản đối đích danh Trung Quốc trong các sự kiện ở bãi Tư Chính. Mỹ cũng có lợi ích to lớn ở Biển Đông. Nhưng chỉ những điều ấy thôi chưa đủ, sự liên minh liên kết phải được dựa trên sự tin cậy. Và nếu được như thế, chắc chắn đó là sự hợp tác chiến lược. Trên tờ Bloombeng 17/11/2019, tác giả J. Starviridis đã viết : "Mặc dù không phải là đồng minh như Thái Lan, Philippines, Mỹ và Việt Nam cần có một khuôn khổ hợp tác chính thức về an ninh".
Mỹ từng là kẻ thù của Việt Nam và giữa hai nước là một cuộc chiến tranh khốc liệt nhất. Không có kẻ thù nào là vĩnh viễn, cũng như không có bạn bè nào vĩnh viễn, người Trung Quốc đã nói vậy và họ có thể là tấm gương về việc này. Trung Quốc từng ủng hộ Pôn Pốt – Ieng Sary, ủng hộ chế độ diệt chủng quyết liệt chống lại Heng Samrin – HunXen và gọi chế độ ở Phnom Penh hiện nay là tay sai của Việt Nam. Bây giờ thế nào ? Trung Quốc không hề xấu hổ khi tuyên bố Hun Sen là người bạn thân thiết nhất của họ. Cả hai đều biết vì sao lại như vậy, vì sao lại cần phải như vậy.
Việt Nam cũng không bao giờ muốn là kẻ thù của Trung Quốc. Hơn nữa dòng chính trong lịch sử cận đại giữa hai nước là ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, tình thế quy định và đặt tên sự việc.
***
Trở lại vấn đề Tư Chính
Đầu tháng 7/2019 Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa chất 8 tới phía đông bắc bãi Tư Chính, làm cái việc mà họ gọi là khảo sát đáy biển khu vực này. Theo như họ cho biết, họ đã "khảo sát" 10 lô dầu khí trong một vùng biển rộng 35.000 km2 hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Đã có lúc Hải Dương 8 chỉ cách Phan Thiết 185km, hoặc Ninh Thuận 155km, xâm nhập sâu vào EEZ của Việt Nam.
Đi theo tàu này, có nhiều tàu hải cảnh hộ tống, thậm chí cao điểm có lúc có tới tám chục tàu hải cảnh và tàu dân quân Trung Quốc bao quanh và cản trở, xua đuổi tàu Cảnh sát biển Việt Nam. Những tàu này còn dấn thêm một bước là quấy rối gần lô 06-01, nơi Rosneft Việt Nam đã hoạt động khai thác trong nhiều năm qua. Đây cũng là nơi mà hai tập đoàn BP và Conoco Philips từ đầu những năm 2000 đã triển khai dẫn khí đốt vào đất liền Việt Nam, đáp ứng một phần năng lượng cho nhà máy điện. Hiện tại khí từ mỏ Lan Đỏ chiếm tới 1/10 tổng nhu cầu năng lượng của Việt Nam và đang do Rosneft Việt Nam khai thác. Cần nói rằng xa bờ hơn một chút là các lô 07-03 và 136-03 cũng trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, là nơi vào các năm 2017 và 2018, Trung Quốc đã gây sức ép buộc công ty Repsol của Tây Ban Nha phải rời đi.
Hoạt động của các tàu hải cảnh này không đơn thuần là bao bọc, che chắn cho Hải Dương 8 mà còn nhuốm màu bạo lực. Chẳng hạn ngay từ đầu, ngày 2/7, các tàu hải cảnh đã di chuyển với tốc độ cao trong một cự ly gần giữa hai tàu Việt Nam hay giữa tàu Việt Nam với giàn khoan. Sau đó, trong thời gian căng thẳng nhất, họ lại tiến hành đâm va và phun nước vào các tàu Việt Nam bảo vệ giàn khoan, giống như các hoạt động của họ trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014.
Ngoài mục đích tranh chấp chủ quyền với Việt Nam, hoạt động của Hải Dương Địa chất 8 còn mục đích gây sức ép với Nga (có lẽ đây là mục đích chính ?), nước đang có công ty Rosneft hoạt động trong khu vực theo thỏa thuận giữa hai chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga trước đó, theo cách mà Trung Quốc từng gây sức ép với Repsol của Tây Ban Nha. Như đã đề cập, ngay trong dịp này, Nga đã công khai thư khen ngợi của Tổng thống Putin đối với Giám đốc Rosneft Việt Nam BV, công ty đang hoạt động thăm dò ở đây, một phản ứng rõ ràng đối với Trung Quốc. Về phía mình, ngay từ đầu, phản ứng của Việt Nam là mạnh mẽ. Ngày 12/7 Thủ tướng Việt Nam đã đến trụ sở cảnh sát biển và trực tiếp đàm thoại, động viên lực lượng này đang làm nhiệm vụ ở bãi Tư Chính. Suốt trong quá trình tàu Hải Dương Địa chất 8 và các tàu hải cảnh gây rối, Cảnh sát biển Việt Nam đã kiên quyết không rời vị trí, đáp trả ngoan cường các hành động có tính chất vũ lực của họ.
Chính phủ Việt Nam thông qua giao thiệp của Bộ Ngoại giao đã kiên quyết, liên tục phản đối việc xâm phạm chủ quyền Việt Nam của phía Trung Quốc.
Điều quan trọng là mặc dù mọi cản trở từ phía Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình ở khu vực này.
Một điều đáng lưu tâm khác là việc Trung Quốc đã thách thức gần như cùng lúc đối với chủ quyền các nước ASEAN (trước đó là đối với Malaysia và Philippines) thêm một lần cho thấy các nước này cần phải có sự đoàn kết, cần phải có một tiếng nói chung hơn bao giờ hết. Chính trong dịp này, cuối tháng 8/2019 thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã có cuộc thăm viếng Việt Nam. Trong tuyên bố chung, hai bên đã nhấn mạnh vấn đề Biển Đông phải được giải quyết bằng hòa bình, thông qua các tiến trình pháp lý, không đe dọa sử dụng vũ lực, và phải tuân thủ Công ước luật biển của Liên hợp quốc 1982. Trong cuộc đi thăm một nước ASEAN khác ngay sau đó, từ kinh nghiệm xử lý các khoản vay nợ của nước mình sau khi trở lại làm Thủ tướng, ông Mahathir đã nói : "Hãy trân trọng giá trị của độc lập tự chủ, một khi vay nợ (và khó trả) thì sẽ không còn độc lập tự chủ nữa". Ông Thủ tướng cũng nói rằng, nếu để nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ cũng có nghĩa là để mất chủ quyền, "nhưng những can thiệp khẩn thiết như trường hợp Khmer Đỏ trước đây lại khác". Có lẽ ông muốn nhắc đến hành động hy sinh giúp đỡ Campuchia của Việt Nam mà đến nay cũng vẫn còn những ý kiến khác trong khu vực ? "Để ngăn các cường quốc can thiệp, các nước ASEAN phải đoàn kết thành một khối vững chắc", ông kết luận.
***
Tính đến 2016, Việt Nam đã ký kết 13 thỏa thuận đối tác chiến lược và 11 đối tác toàn diện với các nước. Có ba nước là đối tác chiến lược toàn diện là Trung Quốc (2008), Nga (2012) và Ấn Độ (2016). Nhưng thực tế đã không như vậy trong quan hệ với Trung Quốc.
Đối tác chiến lược toàn diện trước hết là sự hợp tác, tin cậy trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng, quan hệ hai nước Việt Nam – Trung Quốc có sự hợp tác tin cậy đó không ? Cần nhìn vào sự thật qua bốn chục năm nay : Không. Tháng giêng năm 2017, hai Bộ trưởng Quốc phòng hai nước, trước sự chứng kiến của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã ký tại Bắc Kinh "Tuyên bố tầm nhìn chung về sự hợp tác quốc phòng đến năm 2025", một văn bản mà dư luận tin rằng "chỉ có giá trị về mặt chính trị", tuyên truyền.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước hết là quan hệ láng giềng gần gũi, nhiều tương đồng về lịch sử, văn hóa. Nhưng quan hệ gần gũi, láng giềng ấy là quan hệ giữa một nước lớn và một nước nhỏ và bởi vậy, Việt Nam đã phải hứng chịu một ngàn năm thuộc Bắc. Cuối cùng trong thế kỷ XX Việt Nam cũng trở thành một nước hoàn toàn tự do và độc lập. Nhưng những di sản bất lợi của một ngàn năm ấy phải giải quyết đã không hề dễ dàng. Sau một thập kỷ chiến tranh và xung đột giữa hai nước – thập kỷ 80 của thế kỷ XX – phải mất thêm một thập kỷ nữa hai nước mới có thể đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ. Phải mất 6 vòng đàm phán cấp chính phủ, 16 cuộc hội đàm của nhóm làm việc chung và nhiều cuộc gặp cấp chuyên gia khác, đến sát ngày cuối cùng của thập kỷ 90, hai nước Việt Nam và Trung Quốc mới ký được Hiệp ước Biên giới trên bộ và đến ngày 25/12/2000, cũng sau 10 vòng đàm phán cấp chính phủ, 18 cuộc hội đàm của Nhóm làm việc chung hai nước mới ký được Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Nhưng như ta đã biết, tất cả những điều đó chưa phải là kết thúc.
***
Người Trung Quốc hiện nay đang có cái nhìn như thế nào về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ?
Nhiều tác giả, bao gồm cả những học giả và không học giả Trung Quốc đã có những bài viết về Việt Nam hoặc về quan hệ Việt – Trung. Không ít những bài như "Cơ hội của Việt Nam trong chuỗi ngành nghề toàn cầu" (www.dunjiaodu.com, ngày 27/6/2019), nói về sự phát triển kinh tế của Việt Nam với những số liệu và phân tích khá xác đáng, những dự báo có cơ sở, những thiếu hụt cần phải vượt qua và những kết quả có thể hy vọng. Hay, mặc dù chịu sự kiểm duyệt nặng nề, một số học giả Trung Quốc vẫn đưa ra những ý kiến khách quan về "Nam Sa" (Trường Sa) về "đường chín đoạn" như Trần Khắc Kỷ, Lý Lệnh Hoa. Nhưng nói chung các bài viết thường thiên về phê phán, dạy dỗ, thậm chí xuyên tạc và thậm chí nữa, nói lấy được. Một nữ nghiên cứu viên của Viện khoa học xã hội Quảng Tây bảo rằng, Trung Quốc đất rộng, người đông, vì thế (?) không thể chấp nhận một vùng biển nhỏ hẹp. Một học giả ở Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới (Bắc Kinh) mà tôi tôn trọng, cũng bảo rằng từ Việt Nam đi đến Philippines phải vượt qua "đường biên" với Trung Quốc (ý nói đường 9 đoạn) (?) Đặc biệt vừa qua, ông Trương Minh Lượng, nghiên cứu viên Đại học Ký Nam (Quảng Đông) có bài : "Ngoại giao Việt Nam làm phức tạp hóa vấn đề Biển Đông" – đăng trên tạp chí Đông Nam Á (Trung Quốc). Bài viết khá dài và loanh quanh chữ nghĩa không có sức để bình luận, chỉ xin hỏi lại ông Trương hai điều. Một, ông bảo nhà cầm quyền Việt Nam phải dung túng chủ nghĩa dân tộc (ý muốn nói là chống Trung Quốc) để bù đắp sự thiếu hụt tính hợp pháp của họ. Thiếu hụt tính hợp pháp ở chỗ nào thưa ông ? Thứ hai, điều này mới quan trọng, mới là bản chất của điều ông muốn nói. Ông bảo cuộc chiến Việt Nam – Campuchia cuối những năm 70 thế kỷ XX thực tế là cuộc chiến ba bên với bên thứ ba là Trung Quốc (hay thật !). Và bây giờ theo ông, tình huống ba bên ấy lại xuất hiện y chang, quan hệ Trung Quốc – Campuchia ngày càng ấm lên và quan hệ của Việt Nam với hai nước này ngày càng lạnh nhạt, thậm chí quan hệ Việt Nam – Campuchia đã đạt đến mức căng thẳng với hai nguyên nhân là Trung Quốc đã viện trợ ào ào cho Campuchia và người Campuchia thì "căm ghét" Việt Nam chẳng khác gì trước đây ? Ông Trương khẳng định : điều này là chắc chắn. Và ám chỉ : Cơ hội bùng phát cuộc chiến tranh tương tự cuối những năm 1970 đã sẵn sàng, và Việt Nam đang lo ngại.
Xin hỏi ông : Trung Quốc trước đây ủng hộ Khmer Đỏ (Lãnh đạo cao cấp nhất Trung Quốc từng nói Khmer Đỏ là chế độ giết người, nhưng Trung Quốc ủng hộ vì Khmer Đỏ đánh Việt Nam) ; và từng tuyên bố chế độ Hun Sen – Heng Samrin là tay sai của Việt Nam nhưng Trung Quốc hiện nay lại ra sức viện trợ cho họ như ông nói, coi họ là những người bạn lý tưởng nhất. Vậy là sao ? Còn về việc Việt Nam giúp đỡ Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot và nhân dân Camphuchia đánh giá điều đó như thế nào ông có thể tìm đọc bài phát biểu của ông Hun Sen ngày 4/10/2019, trong lần thăm Việt Nam mới đây.
***
Như đã đề cập, Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc về kinh tế và công nghệ. Từng nói đến "thoát Trung" nhưng bây giờ càng dính chặt hơn. Người Việt Nam là như vậy, không có cái gì kiên quyết cả (trừ việc cả nước ra đường phải đội mũ bảo hiểm, một sự thành công đáng ngạc nhiên). Báo chí đưa tin trong 7 tháng đầu năm 2019 Việt Nam nhập khẩu 42,5 tỷ đô la hàng hóa từ Trung Quốc, tăng gần 20%, cả máy móc, thiết bị lẫn nguyên liệu, phụ liệu. Không có một nước nào mà nền kinh tế phụ thuộc nhập khẩu từ nước láng giềng cao như Việt Nam (và xuất khẩu cũng vậy, dù rằng thâm hụt. 70% nông sản xuất khẩu là sang Trung Quốc). Số liệu thống kê về xuất nhập khẩu hàng năm của phía Trung Quốc thực tế cao hơn Việt Nam nhiều (trung bình khoảng 15% vì họ nắm chắc hoạt động của đường tiểu ngạch). Thấy nguy cơ nhưng nói xong để đấy, như chỉ nhìn thấy bức tường trước mặt. Không ai quan tâm tại sao, hoặc lờ đi vì không giải quyết nổi. Vấn đề là chính Trung Quốc cố tình tạo ra một thị trường buôn lậu và tiểu ngạch nhộn nhịp qua nhiều ngách biên giới khó kiểm soát. Khó kiểm soát nhưng không phải không biết (hoặc chỉ nhìn thấy "bức tường"). Cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại, ông Lê Minh Triết, gần đây đã phải nói "Nhà nước Việt Nam đã không làm tròn trách nhiệm". Tôi không muốn dùng đến khái niệm "thoát Trung". Nói vậy giống như đang chịu đựng một sự kìm kẹp. Mà nguyên nhân của chuyện này chủ yếu và trước hết là do chúng ta. Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc nhưng với dân số gần trăm triệu người thì lại là nước lớn trong ASEAN, là tấm gương (phản chiếu chứ chưa phải để soi) mà các nước nhìn vào.
Vấn đề thứ nhất, buôn lậu và tiểu ngạch. Trung Quốc dung túng thì hoàn toàn có thể "bóp" vào, bằng thuế, bằng khối lượng, bằng chất lượng do họ quy định và vân vân. Người hứng chịu sẽ là nông dân và những người buôn bán tiểu ngạch, cũng có nghĩa là chính phủ, chưa nói vô vàn rủi ro trong làm ăn tiểu ngạch qua biên giới. Việt Nam phải chủ động và kiểm soát nó, khó khăn nhưng có thể kiểm soát.
Vấn đề thứ hai : Tiềm tàng nguy cơ lớn Trung Quốc trả đũa. Nước này có thói quen không quân tử là dùng biện pháp kinh tế – thương mại để trả đũa những vấn đề không liên quan, như đã từng làm với Philippines, Na Uy, Hàn Quốc… Cách ứng phó của Việt Nam là không để chỉ khi thấy nguy cấp thì mới đề cập đến như một vấn đề chiến lược, qua rồi thì "cho qua". Việt Nam cũng không được để những nguyên liệu thiết yếu cho sản xuất chỉ đến từ một hướng, chỉ đến từ Trung Quốc. Ở đây chính là vai trò của nhà nước, của chính phủ. Phải có kế hoạch ngay từ khi nguy cơ ấy tiềm tàng. Kế hoạch này phải có lộ trình, kiểm điểm theo lộ trình. Có đắng cay, có sút giảm (thậm chí nặng nề) nhất thời cũng phải chấp nhận. Coi như một cuộc chiến, mà cuộc chiến thì không thể thất bại.
Phần II
Trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, nhất là qua vụ việc ở bãi Tư Chính, cách ứng xử của Nhà nước Việt Nam như vậy là chưa đủ
Dư luận trong nước cho rằng trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, nhất là qua vụ việc ở bãi Tư Chính, cách ứng xử của Nhà nước Việt Nam như vậy là chưa đủ, chưa được, còn quá dè dặt. Người ta nhìn vào kết quả : Trung Quốc vẫn thế, vẫn ra vào ngang nhiên. Tôi đồng ý phần nào quan điểm này. Người dân cần ủng hộ Chính phủ, nhưng không có nghĩa vụ ủng hộ vô điều kiện. Người dân cũng có quyền thảo luận với Chính phủ một cách lý trí nhưng không để tình cảm lấn át, thiếu hiểu biết, càng không thể đại ngôn, lớn lời, bài bác vô lối.
Trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia có quan hệ sâu rộng nhất với Trung Quốc, trên mọi lĩnh vực. Cùng với Myanmar và Lào, Việt Nam có đường biên giới trên bộ khá dài với Trung Quốc. Việt Nam cùng có biên giới trên biển quan trọng với nước này, không nói về đường 9 đoạn. Việt Nam cũng sở hữu hệ thống Mekong-Lan Thương với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lục địa. Việt Nam cũng là nước có quan hệ kinh tế – thương mại lớn nhất với Trung Quốc.
Để thấy rằng những tính chất bất khả kháng của Việt Nam trong mối quan hệ này và cũng để thấy rằng Việt Nam phải ở hàng đầu trong cách ứng xử với Trung Quốc. Theo cách mà Jay Batongbacan nói về vai trò của Philippines trong phán quyết của Tòa Trọng tài (đã nêu ở trên), ta cũng có thể bảo : Nếu Việt Nam không quan tâm đến vai trò hàng đầu của mình thì không một nước nào trong hoặc ngoài khu vực có thẩm quyền (cả về mặt đạo đức lẫn pháp lý) nắm giữ vai trò ấy.
Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần có sự hợp tác cao hơn với Mỹ, một liên minh liên kết hoặc đối tác chiến lược chẳng hạn. Người viết cũng đã nêu ra khả năng này là có thể, với điều kiện cả hai phía đều tự giác nhìn thấy và vì cộng đồng lợi ích. Bài phát biểu của Phó tổng thống Mỹ M.Pence ngày 24/10/2019 có phần quan trọng nói về Biển Đông đã được dư luận Mỹ đánh giá cao. Trong khi Giáo sư A. Erickson thuộc Trường Hải chiến Mỹ cho rằng Phó Tổng thống Pence "xứng đáng trong vai trò quan chức Mỹ cao cấp nhất công khai vạch trần ý đồ của lực lượng dân quân biển Trung Quốc" và ông D.J. Grossman, một chuyên gia từ Trung tâm Rand Corporation phát biểu : "Chưa một nước nào đứng lên bảo vệ Việt Nam như vậy" thì vẫn cần phải hỏi : Còn Tổng thống Mỹ thì sao ? Ông D. Trump chưa một lần lên tiếng mạnh mẽ về vấn đề này, chưa nói đến hành động. "Nước Mỹ trước hết", và ông đã bỏ rơi đồng minh người Kurd cho Thổ Nhĩ Kỳ ? Có thể đặt cược vào một Tổng thống vừa dân túy vừa bất nhất như vậy ?
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là một quan hệ láng giềng vĩnh viễn. Trong mối quan hệ đó có lịch sử, văn hóa, có tình hữu nghị không thể một sớm một chiều bỏ qua. Chưa nói đến những ràng buộc như đã đề cập. Nhưng cũng không thể xem nhẹ chủ quyền dân tộc nếu bị xâm phạm. Đấy là thế khó của nhà nước mà cũng là nơi quyền lực và sự sáng suốt phải được chứng tỏ. Dư luận nhân dân có quyền đòi hỏi chính phủ phải làm nhiều hơn, làm tốt hơn việc bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trong ba mối quan hệ/ràng buộc đang có với Trung Quốc thì Biển Đông nằm ở trung tâm còn kinh tế và hệ thống sông Mekong-Lan Thương rất có thể trở thành công cụ của một bên như đã nói. Không khó để nhìn ra sự "khôn ngoan" của đối phương nhưng chưa thấy Việt Nam có một đối sách thật sự ở tầm chiến lược. Nói "thoát Trung" để bây giờ càng "dính" chặt hơn ?. Về hệ thống Mekong – Lan Thương cũng vậy. Trung Quốc trữ một lượng nước lớn ở thượng nguồn bằng một loạt con đập nhưng nhiều con đập không để làm thủy điện. Để làm gì ? Người ta có quyền đặt câu hỏi về vấn đề này, nhất là từ lâu Trung Quốc đã có ý định tìm cách cung cấp nước cho vùng khô hạn phía đông và phí bắc của mình. Cơ chế hợp tác Lan Thương – Mekong (LMC) không cho thấy mục đích rõ ràng, dù nó nằm dưới ngọn cờ "cộng đồng chung vận mệnh" với rất nhiều tiêu ngữ bóng bẩy. Hầu như Bắc Kinh chưa đưa ra cam kết nào đối với yêu cầu quản lý và ổn định dòng chảy, đảm bảo cung cấp nước và phù sa cho hạ lưu, giữ vững hệ sinh thái. Tóm lại, vấn đề quản lý tài nguyên nước đã hoàn toàn bị bỏ qua ; trong khi ở thượng lưu, chỉ với 11 con đập, Trung Quốc trữ tới 50% lượng nước của Mekong – Lan Thương vào mùa khô hạn !
Biển Đông là nơi tập trung những vấn đề chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đáng tiếc đó lại là những vấn đề tiêu cực, trái với điều Trung Quốc thường rêu rao là tình hình khu vực này ổn định (ngay cả khi xảy ra sự việc ở bãi Tư Chính nửa cuối năm 2019). Không thể hy vọng giải quyết cơ bản hoặc một lần khi các mâu thuẫn diễn ra đã mấy chục năm mà vẫn đang ngày thêm trầm trọng. Nhưng đã đến lúc yêu cầu các bên nhìn thẳng vào vấn đề với tinh thần hợp tác, không lảng tránh.
Thứ nhất, vấn đề COC-Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông. Tại cuộc họp thượng định giữa ASEAN và Trung Quốc ở Bangkok mới đây, "đã nổ ra tranh cãi gay gắt giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông" (AP, ngày 2/11/2019), theo đó Trung Quốc trở mặt yêu cầu khối các nước ASEAN không được để Việt Nam phá hoại (?) tiến trình đàm phán COC. Việt Nam phá hoại COC ? Thật không đấy ? Quá ngang ngược và hài hước khi biến mình từ tội đồ trì hoãn COC vụt trở thành ông chủ sáng giá, lúc nào cũng muốn làm ông kẹ ! Tuy nhiên Việt Nam cần nắm lấy cơ hội, buộc nước lớn này phải đàm phán thực chất trên cơ sở kiến nghị của tất cả 11 bên, đặc biệt với các nước có dự phần Biển Đông.
Thứ hai, vấn đề "đường 9 đoạn". Gần đây phía Trung Quốc đã giảm thiểu phát ngôn chính thức từ phía nhà nước về đường 9 đoạn. Giáo sư Robert Beckman từ Đại học Quốc gia Singapore ngày 6/1/2020 cho rằng Trung Quốc đang từ bỏ yêu sách đường 9 đoạn và thay thế nó bằng yêu sách chủ quyền đối với 4 cụm đảo (Hoàng Sa, Trường Sa, Pratas/Đông Sa và Macclesfield/Tây Sa) mà họ cho rằng có cơ sở pháp lý vững hơn (Nội sự đổi thay này càng cho thấy thế yếu cùng lòng tham khó bỏ của Trung Quốc). Tôi tin là Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm được cơ sở pháp lý cho đường 9 đoạn để giải thích cho chính người Trung Quốc (chưa nói quốc tế) như tuyên bố hùng hồn (rồi bỏ mặc đấy) của ông Ngô Sĩ Tồn nhiều năm về trước.
Bác bỏ đường 9 đoạn không chỉ căn cứ vào tính pháp lý mà luật biển UNCLOS 1982 của Liên hợp quốc đã xác nhận mà còn căn cứ vào tính mơ hồ mà Trung Quốc tuyên bố sau khi công dân của họ vẽ ra con đường này. Tuyệt đối không thể vồ lấy mà nói đấy là biên giới biển, biên giới quốc gia.
Thứ ba, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chẳng những nói đây là đất của tổ tiên từ đời nhà Hán mà có lúc còn bảo, Trịnh Hòa thời Minh trong các lần xuất dương đã tuyên chiếm các đảo này. Nhà báo Bertil Lintner trên trang Asia Times ngày 15/11/2019 vạch rõ, Trịnh Hòa thậm chí chưa đi qua Biển Đông. Trong danh mục 700 điểm ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương mà ông này ghi lại, bao gồm cả những nơi rất xa xôi như Adaman, Nicobar và Maldives, chẳng có một địa điểm nào thuộc về Biển Đông. Phải có những người lãnh đạo biết rằng cấp dưới đã báo cáo sai sự thật và phải có những cấp dưới có lương tâm chứ ? Mà dù chủ quyền thuộc về ai – thuộc về Việt Nam cũng vậy thì như phán quyết của Tòa trọng tài, "không một cấu trúc nào ở Trường Sa có thể tạo ra các vùng biển mở rộng"
Thứ tư, phải thừa nhận rằng, mặc dù Trung Quốc là nước lớn có tiềm lực quân sự hùng mạnh, hầu như không có công ty, tập đoàn khai thác dầu khí quốc tế nào vì lợi ích kinh tế chấp nhận lời mời chào của họ vào thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng mà Trung Quốc gọi là Vạn An (bãi Tư Chính) cũng như trong phạm vi đường 9 đoạn, ngoại trừ tập đoàn năng lượng Crestone (Mỹ) năm 1992. Nhưng trước sự phản đối của Việt Nam, tập đoàn này sau đó đã rút lui và Việt Nam đã xây dựng thêm 3 nhà giàn ở đây để khẳng định chủ quyền. Cho đến nay, không một công ty nước ngoài nào còn có mặt theo lời kêu gọi của Trung Quốc. Thất bại đó có thể là lý do chủ yếu khiến Trung Quốc đã luôn yêu cầu COC phải có điều khoản ràng buộc "không hợp tác khai thác tài nguyên với các nước ngoài khu vực".
Thứ năm, sự ủng hộ của quốc tế. Sự ủng hộ này gần như tuyệt đối khi các nước khẳng định mọi cách làm của Việt Nam đều dựa trên trật tự và quy tắc quốc tế, trong đó bao gồm Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS), cũng như quyền bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình. Trong vụ việc liên quan đến bãi Tư Chính vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã nhiều lần lên tiếng phê phán Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam. Nhiều nước trong khu vực như Nhật, Ấn, Úc,… cũng đã lên tiếng với những cách khác nhau. Dư luận truyền thông, báo chí ủng hộ Việt Nam khá mạnh mẽ. Không một quốc gia nào lên tiếng bênh vực Trung Quốc.
Tuy nhiên, phản ứng nói chung là tiêu cực từ các quốc gia trong ASEAN/Đông Nam Á là điều đáng chú ý. Vì nguyên tắc đồng thuận, ASEAN đã không ra được tuyên bố chung dù rằng các nước ven Biển Đông, cách này hay cách khác đều từng bị Trung Quốc xâm phạm, gây hấn. Theo thiển ý của tôi, có thể sắp xếp các quốc gia này theo trật tự gần với quan điểm của Việt Nam là : Lào, Malaysia (dưới thời Thủ tướng vừa từ nhiệm Mahathir Mohamad), Philippines, Indonesia, Brunei…và Campuchia ! Vâng, trật tự này có thể gây ngạc nhiên với nhiều người nhưng là một sự thật. Tại cuộc gặp thượng định ASEAN đầu tháng 11/2019, khi Việt Nam yêu cầu đưa vào tuyên bố chung một cụm từ đề cập đến hành vi xâm lấn của Trung Quốc thì Campuchia phản đối. Nên coi việc này như thế nào ? Có lẽ "lợi ích quốc gia" trên hết là điều mà người Việt Nam cũng cần thích ứng, hơn nữa việc tương tự đã có tiền lệ (2012).
Thứ sáu, thế giới đánh giá ra sao trước những phản ứng của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông ? Với cả dư luận chính giới và truyền thông, Việt Nam được đánh giá cao khi phản ứng tích cực trước những lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhiều nhất và liên tục. Tờ Straits Times (Singapore) viết : Hà Nội phản ứng mạnh nhất trong số các quốc gia tuyên bố chủ quyền. Hãng RFI dẫn Asia Times nhận định Việt Nam hầu như là quốc gia duy nhất trong cuộc chiến chống lại nỗ lực của Bắc Kinh nhằm kiểm soát Biển Đông, với ba mặt liên kết : ngoại giao ; thăm dò, khai thác ; giảm phụ thuộc kinh tế. Trên cơ sở "sự nhạy bén chiến lược" và "tính kiên trì đặc trưng". Trang The Diplomat (Nhật) đánh giá phản ứng của Việt Nam là "rất bình tĩnh và kiềm chế". Quan sát một cách tinh tế, trang này cũng tổng kết phản ứng của Việt Nam bao gồm năm thành phần : một, triển khai lực lượng để khẳng định chủ quyền và giám sát hòa bình ; hai, tiếp cận qua đường ngoại giao và các cách thức có thể bày tỏ sự phản đối, yêu cầu đối phương rút lực lượng phi pháp ; ba, khẳng định sự tuân thủ triệt để luật pháp và trật tự quốc tế ; bốn, kêu gọi sự hỗ trợ của quốc tế ; năm, kiểm soát chặt chẽ việc đưa tin, ngăn chặn mọi hành vi bạo lực.
Việt Nam đã trở thành Ủy viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 và chính thức tiếp nhận cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức, nhất là trong cương vị Chủ tịch ASEAN. Tiếp quản và xây dựng khối các quốc gia này như thế nào, chúng tôi cho rằng tiêu ngữ và cũng là chủ đề mà thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu lên : "Một ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng" là đúng đắn và hợp lý.
Có thể hiểu "gắn kết" cũng là đoàn kết nhưng khái niệm này vừa chặt chẽ lại vừa mở hơn, thiết thực hơn, là cái có thể đạt được và hợp lý trong tình hình bên trong, bên ngoài ASEAN hiện nay. Còn "chủ động thích ứng" lại càng mở, không ai có thể bắt bẻ.
Sáu vấn đề mà chúng tôi vừa nêu trên hy vọng là những dữ kiện, những cơ sở để đề ra đối sách.
Dù thế nào Việt Nam phải làm tốt cương vị mới được trao. Chúng ta đã có kinh nghiệm của mười năm trước và cả kinh nghiệm của các quốc gia khác khi giữ cương vị này, và….không có cơ hội thứ hai tương tự.
Chúng tôi đã đề cập đến thực tế về sự thiếu đoàn kết của ASEAN, chỉ có thể tìm được sự đồng thuận không đồng lòng. Hơn bất kỳ khối quốc gia nào khác, điều đó đến không phải từ sự khác biệt thể chế chính trị mà khi mở rộng khối thập kỷ 90 những nước sáng lập ASEAN đã băn khoăn, mà là từ lợi ích của mỗi quốc gia trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Một tờ báo có đông đảo bạn đọc khu vực với tiêu đề : "Biển Đông : Thử thách lớn nhất của Việt Nam trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2020" trong khi nêu lên sự quan ngại ấy đã biểu dương "gắn kết và chủ động thích ứng" là đặc biệt phù hợp trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. "Hà Nội được kỳ vọng tạo nên lực đòn bẩy cho chương trình nghị sự hòa bình của khu vực".
Vấn đề đầu tiên và xuyên suốt trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN của Việt Nam là tạo nên sự gắn kết khu vực. Việt Nam đánh giá cao khối ASEAN. Đầu những năm 90 thế kỷ trước, khi Việt Nam đặt vấn đề tham gia ASEAN, một Thứ trưởng Ngoại giao trong nước đã nhận định : "Điều bất lợi đối với một nước có quy mô trung bình như Việt Nam là sống bên cạnh một nước lớn mà không có bạn bè. Nhưng điều có lợi đối với chúng ta là có một ASEAN". Tại Hội nghị ADMM vừa tổ chức ở Bangkok, tân Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Prabowo Subianto đã phát biểu : "ASEAN không được chia rẽ và phân cực".Tờ The Straits Times cũng viết trong số đã dẫn : "Thách thức mà Trung Quốc đặt ra đối với chủ quyền và quyền tài phán trên biển của Philippines và Malaysia ở Biển Đông về thực chất tương tự như những gì mà Việt Nam đã trải qua". Thật vậy, cương vị Chủ tịch sẽ giúp Việt Nam có quan hệ chặt chẽ hơn, "gắn kết" hơn với ASEAN để tìm ra những cách thức "chủ động thích ứng". Không ồn ào nhưng kiên quyết, Việt Nam phải bắt tay vào trả lời các câu hỏi, các thách thức ngay từ đầu nhiệm kỳ Chủ tịch. Nếu chỉ xử lý mỗi khi có sự cố (như cách làm hiện nay) là bất an, mạo hiểm. Chúng ta giữ quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, một quan hệ được dệt nên từ lịch sử nhưng không để cục to, cục lớn (đại cục) ghè chân mình.
Bị bắt nạt, chèn lấn quá lâu đã đến lúc Việt Nam cần chứng tỏ bản lĩnh. Đã đến lúc Việt Nam cần xem việc đưa sự xâm phạm thô bạo của Trung Quốc ra Tòa trọng tài. Tại Hội thảo mới nhất về Biển Đông tổ chức tại Hà Nội ngày 6/11/2019 – được cho là cuộc Hội thảo lớn nhất về vấn đề này, với gần một phần ba là đại biểu quốc tế và có mặt hai trong số năm thẩm phán của Tòa trọng tài trong vụ kiện của Philippines, vấn đề khởi kiện đã nhận được sự tán đồng cao của dư luận. Cũng phải để Trung Quốc hiểu rằng đây là một việc phải làm, vì sự lành mạnh hóa quan hệ quốc tế. Không quan trọng việc Trung Quốc có tham gia hay không. Hiệu ứng chắc chắn sẽ mạnh hơn rất nhiều nếu thêm một lần phán quyết của Tòa Trọng tài được tuyên bố theo luật pháp quốc tế.
Gần đây, trên các tạp chí "Nghiên cứu Đông Nam Á" (11/2019), "Nghiên cứu an ninh biển châu Á – Thái Bình Dương" (11 – 12/2019) của Trung Quốc có một số bài viết đề cập đến Biển Đông, kêu gọi Việt Nam, Philippines và Asean nói chung, hợp tác cùng khai thác các nguồn lợi ở khu vực này,trước hết là dầu khí. Không có gì mới. Vẫn là những luận điểm xung quanh việc các nước đang gần cạn nguồn cung trong khi Trung Quốc có tiềm lực kỹ thuật, công nghệ, tiềm lực tài chính mạnh. Có bài vẫn lên giọng đe dọa "Nếu Việt Nam mạo hiểm tiến vào đường 9 đoạn thì chắc chắn sẽ có sự đối đầu ở Biển Đông". Cần phải khẳng định thêm một lần : Con đường được nước lớn Trung Quốc vẽ vào bất chấp luật pháp quốc tế ấy là căn nguyên cho tất cả, làm sao có thể "khai thác chung" trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ? Tôi nghĩ rằng, bất cứ quốc gia nào đủ năng lực – láng giềng càng tốt – thừa nhận chủ quyền của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và đảm bảo được vấn đề an ninh thì đều có thể được mời vào thăm dò, khai thác. Xét cho cùng, chủ quyền và tài nguyên là một.
Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc. Cả về diện tích, dân số cũng như tiềm lực kinh tế, quốc phòng, Việt Nam ở một vị trí cách xa so với láng giềng phương Bắc. Câu chuyện nước nhỏ Việt Nam bắt nạt nước lớn Trung Quốc là một câu chuyện hoang đường. Việt Nam cũng không đòi hỏi nước lớn Trung Quốc phải nhường nhịn nước nhỏ Việt Nam. Việt Nam chỉ muốn Trung Quốc hành xử như một nước lớn đáng kính trọng. Tất nhiên Việt Nam muốn duy trì tình hữu nghị với Trung Quốc, nhưng để duy trì tình hữu nghị ấy mà phải đánh đổi lợi ích của dân tộc là điều không thể. Cũng không thể nói như một nhà ngoại giao Trung Quốc rằng, để xảy ra tình trạng như vừa qua là vì Trung Quốc coi Biển Đông là câu chuyện nhỏ còn Việt Nam lại coi là chuyện lớn. Để giải quyết vấn đề Biển Đông, hãy chân thành làm việc dựa trên chuẩn luật pháp quốc tế và một sự hiểu biết lẫn nhau.
Chúng tôi xin đề xuất một bước tiến nhỏ : Trong khi bảo lưu quan điểm của mình, hai nước Việt Nam và Trung Quốc cần đàm phán về vấn đề quần đảo Hoàng Sa/Tây Sa. Và trước hết là một sự thỏa thuận để ngư dân Việt Nam được tiếp tục truyền thống đánh cá như hàng ngàn năm nay trong quần đảo này./.
Vũ Cao Phan
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 08/03/2020
[1] Cho đến nay, đã có nhiều cơ chế hợp tác được thiết lập như Ủy ban sông Mekong, Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady – Chaophraya – Mekong (ACMECS), Sáng kiến tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) của Ngân hàng Phát triển Châu Á, Sáng kiến hạ lưu sông Mekong của Mỹ, Hợp tác Mekong – Nhật Bản, Hợp tác Mekong – Ganga (Ấn Độ), Đối tác Mekong – Hàn Quốc và Hợp tác phát triển lưu vực Mekong của ASEAN…
————-
Tiến sĩ Vũ Cao Phan là Viện trưởng Viện Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học Bình Dương, nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc.
Bài học cho Việt Nam
Ngày 17/02/1979, Trung Quốc đem quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 16/03/1979.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. AFP
Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình, sau đó tuyên bố Trung Quốc đã đạt được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc, đồng thời khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn".
Phía Việt Nam cũng khẳng định đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Phải mất hơn 10 năm sau, năm 1991, quan hệ ngoại giao hai nước Việt-Trung mới chính thức được bình thường hóa.
Ông Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử hơn 30 năm tại Việt Nam, nhận định rằng học thuyết đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Marx-Lenin hoàn toàn phá sản sau cuộc chiến này, bởi chủ nghĩa Marx-Lenin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp giữa hai hệ thống đối lập là tư bản và cộng sản. Cuộc chiến tranh biên giới lại là cuộc chiến giữa đồng chí với đồng chí. Ông nói thêm về mối quan hệ hai nước sau chiến tranh :
"Từ khi Việt Nam và Trung Quốc trở lại quan hệ bình thường do những cam kết của lãnh đạo cao cấp hai bên thì chính phủ Việt Nam dường như muốn quên đi quá khứ đau buồn đó để hướng tới tương lai. Nhưng Trung Quốc thì họ không quên, hàng năm họ vẫn tưởng niệm cuộc chiến tranh mà họ gọi là ‘dạy cho Việt Nam một bài học’. Chúng ta muốn quên đi cũng không được vì cuộc chiến này để lại cho hai nước quá nhiều hệ quả cho đến hôm nay mặc dù đã bình thường hóa quan hệ.
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc để lại cho Việt Nam một bài học rất lớn mà Nhà nước cần phải thấm nhuần. Tức là "không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi của quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn mà thôi". Đó là điều Việt Nam phải nhớ nằm lòng".
Dù cuộc chiến qua đi đã 41 năm, hai nước đã bình thường hóa quan hệ với phương châm 4 tốt : Láng giềng tốt - bạn bè tốt - đồng chí tốt - đối tác tốt và 16 chữ vàng : Láng giềng hữu nghị - Hợp tác toàn diện - Ổn định lâu dài - Hướng tới tương lai, nhưng mối quan hệ giữa hai nước vẫn bất bình đẳng. Việt Nam vẫn thua thiệt rất nhiều so với Trung Quốc do lệ thuộc về kinh tế, mắc mứu về chính trị, nhất là tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông. Dường như Trung Quốc không thực sự coi Việt Nam là bạn, mà luôn khống chế Việt Nam, coi Việt Nam là một nước chư hầu của mình.
Thạc sĩ Hoàng Việt, một thành viên của Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông nhận định :
"Vấn đề gai góc nhất trong mối quan hệ Việt Trung bây giờ là Biển Đông. Trung Quốc đã có rất nhiều hành động như năm 2011 thì cắt cáp, năm 2014 thì đặt giàn khoan, năm 2019 thì cho tàu thăm dò dầu khí vào quấy nhiễu 113 ngày. Hành động của phía Việt Nam thì khác nhau tùy từng giai đoạn. Nếu năm 2014 rất mạnh mẽ, quyết liệt thì năm 2019 lại nhẹ nhàng, hòa hoãn. Năm 2017, trước sức ép của Trung Quốc, Việt nam yêu cầu Repsol phải rút khỏi khu vực Cá rồng đỏ.
Như vậy nếu nói về kinh tế thì rõ ràng Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc là khá nhiều".
Theo ông Đinh Kim Phúc, mối quan hệ bất bình đẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn xảy ra vì Việt Nam vẫn còn ảo tưởng rằng hai nước có chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh, Trung Quốc không phải là xã hội chủ nghĩa, và trên thế giới hiện nay cũng không có một quốc gia nào là xã hội chủ nghĩa (kể cả Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Cuba) mà họ xây dựng cái màu sắc xã hội chủ nghĩa đó theo hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia theo quyền lợi chiến lược của họ mà thôi, chứ không theo nguyên tắc của chủ nghĩa Marx-Lenin đã đề ra.
Mãi là quan hệ bất bình đẳng
Những nhà hoạt động mang tấm biểu ngữ phản đối Trung Quốc nhân lễ kỷ niệm 37 năm cuộc chiến Biên giới 17/2/1979, ở Hà Nội hôm 17/2/2016 - AFP
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trải qua rất nhiều thăng trầm từ hàng ngàn năm qua do Trung Quốc luôn muốn xâm chiếm Việt Nam. Nhiều chuyên gia nhận định mối quan hệ hai nước đi từ chiến tranh đến hữu hảo - nhún nhường - nhẫn nhục. Thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng đây là điều bình thường của tất cả các quốc gia trong khu vực chứ không chỉ riêng Việt Nam. Ông phân tích :
"Vì trải qua thời gian chiến tranh, nên dù mang tiếng là bình thường hóa nhưng phải mất một thời gian dài quan hệ hai nước mới được cải thiện.
Đến bây giờ thì quan hệ hai nước đã có những mặt được cải thiện rất nhiều nhưng có sự nhún nhường, nhẫn nhục.
Nhún nhường thì đương nhiên, cũng dễ hiểu vì Việt Nam nằm cạnh Trung Quốc, là láng giềng của Trung Quốc mà lại nhỏ hơn, yếu hơn Trung Quốc rất nhiều. Nói cho cùng thì không chỉ Việt Nam mà những quốc gia khác trong khu vực Đông nam Á cũng đều cần lợi ích từ Trung Quốc và đương nhiên cũng phải có sự nhún nhường nhất định".
Năm 1979, Trung Quốc tuyên bố muốn ‘dạy cho Việt Nam một bài học’ nên đem quân đánh Việt Nam. Bây giờ Trung Quốc lại muốn xâm chiến Biển Đông. Vậy liệu Trung Quốc cho dạy cho Việt Nam bài học nào nữa hay không ?
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt thì những khúc mắc, xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục xảy ra bởi mặc dù phía Việt Nam luôn khẳng định quan điểm bất biến là chủ quyền không thay đổi, bằng mọi cách phải bảo vệ chủ quyền cũng như muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không muốn phá vỡ tình hữu hảo với Trung Quốc.
Nhưng phía Trung Quốc lại luôn khẳng định Biển Đông là lợi ích cốt lõi và luôn muốn thực hiện trong thực tế đường lưỡi bò họ tự vẽ ra.
Ông Đinh Kim Phúc khẳng định bất cứ một chế độ nào khác xuất hiện ở Trung Quốc, kể cả nền cộng hòa, thì âm mưu bá quyền nước lớn cũng không bao giờ thay đổi. Tham vọng này không chỉ của Đảng cộng sản Trung Quốc mà đã có từ thời Nhà Thanh. Tham vọng tiến về phía Nam là bản chất của Nhà nước Đại Hán từ ngàn xưa. Ông kết luận :
"Trung Quốc chỉ thừa hưởng những gì mà chế độ phong kiến để lại mà chưa thực hiện được. Chiến lược bá quyền của nhà nước phương Bắc là thâm căn cố đế".
Hành xử của Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ Hà Nội trong mối quan hệ với Trung Quốc khiến nhiều người cho rằng những bài học lịch sử nhãn tiền vẫn chưa khiến giới lãnh đạo Việt Nam thức tỉnh trước ‘chiến lược bá quyền’ của Trung Quốc như lời nhà nghiên cứu lịch sử và Biển Đông Đinh Kim Phúc vừa nhận định.
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 10/02/2020
Mặc dù họ đúng khi cho rằng Việt Nam nên vượt qua quá khứ và hướng tới tương lai, nhưng các nhà lãnh đạo của Việt Nam giờ đây có thể nhận ra rằng việc bỏ qua hoặc che giấu lịch sử của đất nước - đặc biệt là một cuộc chiến lớn khi những ký ức vẫn còn sống động trong tâm trí của nhiều người Việt ngày nay là không khôn ngoan.
Một bài viết trên báo Nhân Dân về cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam - Trung Quốc tháng 1/1979
Các nhà kiểm duyệt nhà nước Việt Nam đã thoải mái hơn một cách đáng chú ý đối về cuộc đụng độ trước đây với Trung Quốc vốn được coi là một chủ đề nhạy cảm Trận chiến Hoàng Sa tháng 1 năm 1974. Các tờ báo lớn như Thanh Niên, đã công khai nói rằng Trung Quốc sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa và từ đó đã sử dụng hàng loạt các chiến thuật bất hợp pháp nhằm chiếm quyền kiểm soát toàn bộ Biển Đông.
Trong vài ngày qua, truyền thông nhà nước đã viết nhiều về cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 với Trung Quốc, vốn từ lâu được coi là một chủ đề cấm kỵ.
Hầu hết các tờ báo và trang tin nổi tiếng, như Tuổi Trẻ, Thanh Niên và Vietnamnet, đã đăng các bài có nội dung về cuộc xung đột và gọi đó là một cuộc chiến chính đáng của Việt Nam nhằm chống lại quân xâm lược Trung Quốc.
Vào ngày 13 tháng 2, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) đã công bố một ý kiến của một học giả tại Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng,khi gọi cuộc xâm lăng của Trung Quốc là vô nhân đạo, phi nhân văn và vô lương tâm.
Vào ngày hôm sau, đài phát thanh quốc gia đã có cuộc phỏng vấn với ông Trần Công Trực, cựu Chánh văn phòng Ủy ban Biên giới Chính phủ. Trong phần giới thiệu, VOV cho biết cuộc chiến bảo vệ biên giới phía bắc Việt Nam là "một cuộc đấu tranh chống lại cuộc xâm lăng tàn khốc và bất công của Trung Quốc".
Người phỏng vấn đã nhận xét đúng rằng người Việt Nam, đặc biệt là những người trẻ tuổi, có quyền tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam nhưng trong một thời gian dài đã không có đủ thông tin. Ông Trực đồng ý với quan điểm này.
Trên thực tế, từ năm 1990 - khi hai Đảng tổ chức hội nghị thượng đỉnh bí mật ở Thành Đô, Trung Quốc, dẫn đến việc tái chuẩn hóa quan hệ ngoại giao vào năm sau - cho đến nay, cuộc xung đột biên giới năm 1979 gần như bị bỏ qua. Cuộc chiến hiếm khi được nhắc đến trong sách giáo khoa môn lịch sử. Tại một hội nghị quốc gia để kỷ niệm 40 năm sự kiện tại Hà Nội vào ngày 15 tháng 2, một số học giả Việt Nam đã nêu lên mối quan ngại về sự thiếu quan tâm đối với cuộc chiến.
Nhưng điều đó đã thay đổi trong năm nay. Tổng biên tập sách giáo khoa môn lịch sử đã cam kết tại hội nghị, nơi thu hút các học giả từ khắp đất nước, rằng chiến tranh biên giới sẽ được dạy đúng đắn ở trường trong tương lai.
Thật vậy, trong ba thập kỷ qua, các phương tiện truyền thông và học viện nhà nước hiếm khi nhắc đến cuộc chiến tranh biên giới rộng rãi, sống động và kịch liệt như vậy. Ở Việt Nam, một quốc gia bị kiểm duyệt chặt chẽ, tất cả những điều này chỉ có thể xảy ra với sự chấp thuận của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền.
Đánh giá về độ phủ sóng của truyền thông nhà nước, việc lên tiếng tại hội nghị và nhiều hoạt động khác để đánh dấu sự kiện trong vài ngày qua, rõ ràng rằng Việt Nam - hay chính xác hơn là Đảng Cộng sản Việt Nam - giờ đã cởi mở hơn rất nhiều về cuộc xung đột năm 1979. Đằng sau sự thay đổi về quan điểm này có nhiều lý do.
Một trong số đó là sự tàn bạo và hậu quả của cuộc giao tranh quân sự. Mặc dù chỉ kéo dài 27 ngày, nhưng sự tàn phá vô cùng to lớn. Con số thương vong vẫn còn chưa xác thực, vì Bắc Kinh hay Hà Nội chưa bao giờ công bố. Nhiều người ước tính rằng thương vong của Trung Quốc là từ 21.000 đến 63.000. Hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết và bị thương, phần lớn là thường dân vì chiến tranh nổ ra đột ngột và chỉ diễn ra trên đất Việt.
Trận chiến biên giới đó cũng báo hiệu một thập kỷ thù địch giữa hai nước láng giềng, trong đó có một cuộc tấn công hải quân đơn phương vào năm 1988 dẫn đến sự hy sinh của gần 70 thủy thủ Việt Nam và Trung Quốc chiếm đóng một số đảo nhỏ và bãi đá ở quần đảo Trường Sa .
Từ quan điểm của người Việt, như đượ ccác phương tiện truyền thông nhấn mạnh rằng với bất kỳ lý do gì mà Bắc Kinh sử dụng để biện minh cho hành động của mình, cuộc tấn công tàn bạo vào một đồng minh cộng sản và nước láng giềng nhỏ hơn là không thể chấp nhận được
Ngày 17 tháng 2 kỷ niệm 40 năm bắt đầu cuộc xung đột quân sự ngắn ngủi nhưng đầy chết chóc.
Mặc dù họ đúng khi cho rằng Việt Nam nên vượt qua quá khứ và hướng tới tương lai, nhưng các nhà lãnh đạo của Việt Nam giờ đây có thể nhận ra rằng việc bỏ qua hoặc che giấu lịch sử của đất nước - đặc biệt là một cuộc chiến lớn khi những ký ức vẫn còn sống động trong tâm trí của nhiều người Việt ngày nay là không khôn ngoan.
Vai trò những lãnh đạo đất nước trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm - Nhật Bản, Pháp và Mỹ - của Đảng vẫn là một nguồn quan trọng cho tính chính danh của đảng.
Đoàn Xuân Lộc
Nguyên tác : Vietnam opens up about past clashes with China, Asia Times, 19/02/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 21/02/2019