Phạm Đoan Trang vừa khẳng định cô đang ở Việt Nam và sẽ "không bao giờ rời Việt Nam chừng nào Việt Nam chưa thay đổi". Trang cũng đã tái khẳng định cô không đến Prague (Praha) – thủ đô của Cộng hòa Czech (một phần của Tiệp Khắc trước đây) để tham dự lễ trao giải thưởng Homo Homini 2017, được tổ chức vào ngày 5 tháng 3 (1).
Blogger Phạm Đoan Trang
Homo Homini là giải thưởng thường niên mà People In Need – một tổ chức bảo vệ nhân quyền ở Tiệp Khắc – chọn, trao cho những cá nhân được xem là nhân vật tiêu biểu trong việc bảo vệ cho các quyền căn bản của con người, tranh đấu cho dân chủ hóa xã hội một cách ôn hòa.
Theo Wikipedia thì Homo Homini luôn được tổ chức song song với One World Film Festival – Đại hội Điện ảnh về nhân quyền lớn nhất thế giới (2) nên tất nhiên sẽ qui tụ đại diện của tất cả các tổ chức nhân quyền quốc tế, của các quốc gia, kể cả đại diện của các chính phủ quan tâm đến nhân quyền.
***
Lễ trao giải thưởng Homo Homini 2017 :
Phạm Đoan Trang, cá nhân duy nhất được People In Need chọn trao giải thưởng Homo Homini lần này (3), vắng mặt chỉ vì an ninh của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngăn cản.
Đáng chú ý hơn, chỉ vì People In Need chọn Phạm Đoan Trang để tặng giải thưởng mà từ 24 tháng 2 đến nay, cô liên tục bị an ninh Việt Nam quấy nhiễu (xông vào nhà, áp giải đến đồn công an tra vấn, sau đó bị giam lỏng, tư gia bị cắt điện, cắt Internet, ngoài những hành hạ thể chất do bị hạn chế tự do, còn bị tra tấn về tinh thần bởi có thể bị tống giam bất kỳ lúc nào, tương lai không biết ra sao…).
Khi tặng vật dành cho người được chọn, trao giải thưởng Homo Homini năm nay vẫn nằm trong tay Ban tổ chức vì họ không thể đặt được nó vào tay đương sự… thì tự nhiên, những tuyên bố của giới lãnh đạo hệ thống công quyền Việt Nam về dân chủ, tự do gấp vạn lần thiên hạ, sự "lao tâm, khổ tứ" kèm nỗ lực biện bạch không ngưng nghỉ của hệ thống ngoại giao Việt Nam rằng dân chủ, tự do ở Việt Nam dẫu có tiêu chí riêng nhưng vẫn phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam, rồi những cam kết "thăng tiến nhân quyền" với cộng đồng quốc tế theo định kỳ… sẽ cùng bị… khôi hài hóa trong mắt thiên hạ.
Phạm Đoan Trang nên… tri ân chính quyền Việt Nam vì cô không cần đến Prague, cũng chẳng cần phải nói tiếng nào ở lễ trao giải thưởng Homo Homini thì thiên hạ vẫn có cơ hội hiểu tường tận hơn rằng Việt Nam đang ra sao, có cần gia tăng sự quan tâm đến dân chủ, tự do, nhân quyền ở Việt Nam hay không (?). Thậm chí trước đó, nếu có ai đó còn băn khoăn khi People In Need chọn Phạm Đoan Trang chứ không phải người khác để trao giải thưởng Homo Homini 2017 thì qua lễ trao giải thưởng diễn ra vào ngày 5 tháng 3 này, họ sẽ không lấn cấn nữa.
Dẫu Phạm Đoan Trang từng tâm sự trên facebook của cô rằng, cô bối rối trước quyết định của People In Need, cô ước ao giải thưởng mà cô được chọn, trao là loại giải thưởng chứng tỏ sự văn minh, dân chủ của Việt Nam để cả cô lẫn mọi người cùng cảm thấy hạnh phúc, rất khó thấy vui khi được chọn, trao một giải thưởng quốc tế về nhân quyền, bởi đó là chỉ dấu cho tình trạng thiếu vắng dân chủ, vi phạm nhân quyền trầm trọng ở Việt Nam, song Trang vẫn nên… tri ân chính quyền Việt Nam khi họ nổi giận do People In Need chọn cô để trao giải thưởng Homo Homini 2017.
Sự thô bạo của lực lượng an ninh Việt Nam đối với Trang trong vài ngày vừa qua kích thích nhiều người thờ ơ với thời cuộc để tâm tìm hiểu xem cô là ai, để thân hữu có cơ hội kể về Trang (4)… Ai dám bảo sự lựa chọn, số phận của Trang không gây chút cảm hứng nào nơi số đông – vốn đã rất bất bình vì những điều bất toàn quanh mình nhưng chưa biết làm gì, khởi đầu từ đâu. Số người quan tâm tới "Chính trị bình dân" - cuốn sách Trang viết năm ngoái – đang tăng rất nhanh. Khát vọng của Trang – dùng "Chính trị bình dân" để giúp đồng bào của mình thoát khỏi tình trạng mù mờ trong nhận thức về tương quan mật thiết giữa chính trị với cá nhân – đang được lực lượng an ninh Việt Nam quảng bá hết sức tích cực. Khi nào ngỏ lời tri ân chính quyền Việt Nam, Trang đừng quên gửi lời cám ơn đặc biệt lực lượng an ninh. Ngoài việc giúp quảng bá "Chính trị bình dân", an ninh Việt Nam đang tự nguyện minh họa cho những gì trước nay Trang đã viết với sự nhiệt thành hiếm thấy.
Chẳng phải chỉ có Phạm Đoan Trang nên tri ân chính quyền Việt Nam mà chính quyền Việt Nam cũng nên làm như thế với cô.
Trang đã tạo điều kiện để chính quyền Việt Nam có thêm một cơ hội nữa, khẳng định với cả trăm triệu công dân Việt Nam lẫn cộng đồng quốc tế rằng họ luôn luôn kiên định đối với đường hướng thực thi dân chủ, tự do, "thăng tiến nhân quyền - các giá trị phổ quát của nhân loại - theo… kiểu Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Biết đâu sau khi chính quyền Việt Nam tận dụng thêm cơ hội này, dân chúng Việt Nam, rồi cộng đồng quốc tế sẽ nhận ra, "đối thoại nhân quyền" với chính quyền Việt Nam là vô ích. Thiên hạ ắt sẽ phải suy tính tới những… phương thức khác hiệu quả hơn, nhờ vậy, chính quyền Việt Nam sẽ không cần phải bận tâm, mất thời gian, phí phạm sức lực cho những cuộc "đối thoại" mà chính họ thừa biết là vô bổ.
Trân Văn
Nguồn : VOA, 09/03/20148
Chú thích
(1) https://www.facebook.com/pham.doan.trang/posts/10156444291228322?pnref=story.unseen-section
Tuy tin đồn ông Lê Đức Anh, cựu Bộ trưởng Quốc phòng (1987 – 1991), cựu Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992 – 1997), cựu Ủy viên Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1982 – 1997), đã qua đời hôm 23 tháng 2 không chính xác nhưng vài nguồn thạo tin (trong đó có cả con trai ông Nguyễn Tấn Dũng, cựu Thủ tướng Việt Nam) đã đưa ra một số chứng cứ, cho thấy ông Anh đang trong tình trạng "thập tử, nhất sinh".
Nhắc tới ông Lê Đức Anh, người ta liên tưởng đến việc Việt Nam mất hàng loạt bãi đá ở quần đảo Trường Sa và vụ thảm sát tại bãi đá Gạc Ma.
Liệu hệ thống công quyền Việt Nam có tổ chức quốc tang cho ông Anh, người đã được nhiều đồng chí của mình loan báo công khai đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng ?
***
Nhắc tới ông Lê Đức Anh, người ta liên tưởng đến việc Việt Nam mất hàng loạt bãi đá ở quần đảo Trường Sa và vụ thảm sát tại bãi đá Gạc Ma.
Năm 1988, lần đầu tiên Trung Quốc đổ quân chiếm các bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Ngày 31 tháng 1 năm 1988, Việt Nam mất bãi đá Chữ Thập. Ngày 18 tháng 2 năm 1988, Việt Nam mất thêm bãi đá Châu Viên. Ngày 26 tháng 2 năm 1988, Trung Quốc tiếp tục chiếm bãi đá Ga Ven. Ngày 28 tháng 2 năm 1988, tới lượt bãi đá Tư Nghĩa lọt vào tay Trung Quốc...
Để ngăn chặn Trung Quốc chiếm toàn bộ các bãi đá, cô lập những hòn đảo mà Việt Nam đang kiểm soát tại quần đảo Trường Sa, Hải quân Nhân dân Việt Nam đổ người và phương tiện xuống một số bãi đá còn lại và ngày 14 tháng 3 năm 1988, xung đột Việt – Trung bùng phát tại bãi đá Gạc Ma, 64 người lính của Hải quân Nhân dân Việt Nam mất mạng, ba tàu vận tải bị bắn chìm.
Lúc đầu, người ta gọi Gạc Ma là trận hải chiến thứ hai giữa Việt Nam và Trung Quốc trên biển Đông (trận hải chiến đầu tiên xảy ra ngày 19 tháng 1 năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Trung Quốc), tuy nhiên theo thời gian, một số binh sĩ, sĩ quan của Hải quân Nhân dân Việt Nam may mắn sống sót, tiết lộ, hai bên không hề giao tranh. Bởi những người lính của Hải quân Nhân dân Việt Nam bị cấm dùng súng, kể cả bắn trả, thành ra họ đã trở thành bia sống cho Trung Quốc tác xạ.
Nói cách khác, sự kiện Gạc Ma hồi 14 tháng 3 năm 1988 chỉ là một cuộc đổ bộ nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển nhưng Việt Nam đã không vũ trang cho những người lính lại còn cấm họ kháng cự, thành ra chỉ trong vài phút, kẻ thù giết gần như sạch sẽ một nửa đại đội.
Năm 2011, tại một cuộc hội thảo về sự kiện Gạc Ma 1988 do Trung tâm Minh Triết tổ chức, tướng Lê Mã Lương, Anh hùng các Lực lượng Vũ trang nhân dân, cựu Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, chính thức thừa nhận có lệnh cấm kháng cự ngoại xâm ở Gạc Ma. Tuy nhiên tướng Lương chỉ không nêu tên người ra lệnh mà chỉ nói đó là một "lãnh đạo cao cấp". Năm 2012, tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cung cấp thêm, "lãnh đạo cao cấp" đó là ông Lê Đức Anh (1).
Sau khi bãi đá Gạc Ma rơi vào tay Trung Quốc ngày 14 tháng 3 năm 1988. Ngày 23 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc làm chủ bãi đá Xu Bi...
Bản đồ quần đảo Trường Sa
Những bãi đá Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Tư Nghĩa, Gạc Ma, Xu Bi mà Trung Quốc chiếm giữ hồi 1988 giờ đã được bồi đắp thành đảo nhân tạo. Chuỗi căn cứ quân sự mà Trung Quốc xây dựng trên các đảo nhân tạo này đang giúp Trung Quốc biến giấc mơ kiểm soát toàn bộ biển Đông thành hiện thực.
***
Nhắc tới ông Lê Đức Anh người ta còn liên tưởng tới "Hồi ức và suy nghĩ" của ông Trần Quang Cơ, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam (1986 – 1994) (2).
Trong "Hồi ức và suy nghĩ", ông Cơ – nhân vật từng từ chối hàm Ngoại trưởng khi được giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam "phân công" thay ông Nguyễn Cơ Thạch (1980 – 1991), có 40 năm làm việc trong lĩnh vực ngoại giao (1954 – 1994) và được những viên chức ngoại giao cao cấp của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem là người "bảo vệ tất cả những kế sách mà ông cho là hiệu quả trong cuộc đấu tranh không cân sức với Trung Quốc đến tận cuối đời" (3), rồi vì bất lực, ngán ngẩm khi quanh ông chỉ gồm toàn những "con bạc khát nước" nên tuyên bố từ bỏ cuộc chơi (xin rời khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam – BCH TƯ Đảng cộng sản Việt Nam, rời ngành ngoại giao không hề do dự) (4)– đã khắc họa rất rõ tâm, tầm của ông Lê Đức Anh.
Trong số các nhân vật tham gia hoạch định và chỉ đạo xúc tiến việc "bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc hồi đầu thập niên 1990, ông Lê Đức Anh chính là người chủ động sắp đặt mọi thứ, cả công khai lẫn kín đáo để cuối cùng hướng Việt Nam tới kết quả mà ông Phạm Văn Đồng, cựu Thủ tướng Việt Nam suốt từ 1957 đến 1987, phải buột miệng than trong một cuộc họp Bộ Chính trị diễn ra trong ba ngày từ 15/05/1991 đến 17/05/1991 : "Đã hớ, đã dại rồi mà còn nói đặt sự nghiệp cách mạng lên trên hết… Người lãnh đạo không nên làm như vậy. Với Trung Quốc, vừa qua không phải là chúng ta bình thường hóa, mà là chúng ta đã bị ‘phụ thuộc hóa’ quan hệ" (Trần Quang Cơ - "Hồi ức và suy nghĩ", Phần "Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta ?") (5).
***
Tháng 8 năm ngoái, ông Trần Hùng – Trưởng nam của tướng Trần Độ, kể về tang lễ của cha mình hồi 2002.
Lễ tang tướng Trần Độ thuộc loại xưa nay chưa từng có. Tướng Trần Độ - một trong những công thần của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – được gọi gọn lỏn là "ông". Hàng chữ "vô cùng thương tiếc" trên bức trướng được Ban Tổ chức lễ tang che lại. An ninh vây kín Nhà tang lễ, tạm giữ các vòng hoa để lột bỏ cho bằng hết những chữ liên quan đến việc bày tỏ sự tiếc thương hay xưng tụng ông Trần Độ là tướng. Ban Tổ chức lễ tang còn toan thu Sổ tang mà những người quý mến tướng Trần Độ đã chia sẻ suy nghĩ, tình cảm của họ về ông. Nỗ lực thu giữ bất thành thì xé bỏ những trang mà nội dung… không thích hợp.
Kịch tính lên tới đỉnh khi ông Vũ Mão, lúc đó là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội lên đọc điếu văn với tư cách Trưởng Ban Lễ tang. Dẫu là Điếu văn nhưng nội dung thì rất nghiêm khắc, nhấn mạnh ông Độ "đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng". Khi đáp từ, Trưởng nam của ông Trần Độ tuyên bố, gia đình Trần Độ không chấp nhận Điếu văn. Hàng ngàn người đến tiễn đưa tướng Trần Độ đồng loạt vỗ tay (6).
Năm năm sau (2007), lúc đã nghỉ hưu, ông Vũ Mão mới phân trần rằng, ông được "tổ chức" chỉ đạo đọc Điếu văn trong lễ tang tướng Trần Độ. Biết ông không đồng tình với nội dung Điếu văn, các "đồng chí" trấn an, "khi đọc về những đóng góp của tướng Trần Độ thì đọc to, đoạn nói về thiếu sót, khuyết điểm thì đọc nhỏ thôi". Ông Mão đã làm đúng như thế vì không còn lựa chọn nào khác(7).
Tướng Trần Độ - người từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, từng là Trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phó Ban Tuyên huấn Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Hội đồng Nhà nước – "đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng" nào để hệ thống công quyền Việt Nam phải tổ chức phân biệt đối xử cho thật rõ ràng đến như vậy ?
"Những lỗi lầm nghiêm trọng" của tướng Trần Độ là việc truyền bá công khai các nhận định riêng như : "Nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng". Thành ra : "Đảng phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ ‘hiệp thương’ mà thực chất là gò ép"…
***
Tháng 3 năm 1974, ông Trần Độ và ông Lê Đức Anh cùng được phong trung tướng. Họ vẫn được xem như những nhân vật cùng thời. Vì đã "mắc những lỗi lầm nghiêm trọng" nên dẫu "nhắm mắt, xuôi tay", tướng Trần Độ cũng chưa được tha.
Vậy tướng Lê Đức Anh có "mắc những lỗi lầm nghiêm trọng" nào không ? Giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chưa xác định. Chuyện mà nhiều nhân chứng như ông Trần Quang Cơ đã bạch hóa : "Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc" bằng mọi giá, kể cả "phụ thuộc hóa" vào Trung Quốc vì cả hai đều là cộng sản, có thể dựa vào nhau để cùng tồn tại… hình như không phải chỉ là mơ ước và nỗ lực riêng của ông Lê Đức Anh.
Xem mơ ước và những nỗ lực kiểu đó là "mắc những lỗi lầm nghiêm trọng" sẽ giảm đáng kể số lượng quốc tang.
Trân Văn
Nguồn : VOA, 08/03/2018
Chú thích :
(1) https ://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/who-ord-no-fir-in-garma-03122015052720.html
(2) http://www.truyen-thong.org/so14/so14.html
(3) http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/06/150629_tranquangco_profile
(4) http://www.viet-studies.net/THDung/DocLaiHoiKyTQCo_HongKhiem.htm
(5) http://www.truyen-thong.org/so14/43.html
(6)http://trandotacpham.blogspot.de/2017/08/co-mot-am-tang-rat-buon.html
Thiên hạ thường bảo gia đình nào đó vô phúc khi cha mẹ rơi vào cảnh cơm không đủ no, áo không đủ ấm mà vẫn phải thắt lưng, buộc bụng, thậm chí cắn răng vay nợ để con cái ăn chơi vô độ, không thèm bận tâm cha mẹ ra sao, tương lai của cả gia đình sẽ như thế nào.
Nếu chỉ vì… giựt le mà lũ con ấy vẫn thản nhiên đẩy cha mẹ vào tình thế càng ngày càng túng quẫn, kiệt quệ, vô vọng hơn về mọi mặt (sức lực, trí lực, tài lực…), thiên hạ sẽ gọi chúng là phường nghịch tử, quân trời đánh !
Việt Nam hiện giờ giống như một gia đình vô phúc vì dung dưỡng phường nghịch tử, quân trời đánh quá lâu !
***
Bộ Tài chính Việt Nam vừa gửi chính phủ dự thảo một nghị quyết về biểu thuế bảo vệ môi trường.
Theo đó, từ 1 tháng 7 năm 2018, dân chúng Việt Nam sẽ phải trả thêm 4.000 đồng/lít xăng, 2.000 đồng/lít dầu diesel, 2.000 đồng/lít dầu mazut (Fuel Oil - FO), dầu nhờn, 2.000 đồng/ký mỡ nhờn (lubricant).
Mức thuế bảo vệ môi trường tối đa áp dụng với mặt hàng xăng lên từ 2.000 tới 4.000 đồng/lít
Việt Nam bắt đầu thu thuế bảo vệ môi trường thông qua việc sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ (một trong những tác nhân gây nguy hại cho môi trường ) cách nay sáu năm.
Đáng nói là trong khi môi sinh, môi trường càng ngày càng tệ, thuế bảo vệ môi trường vẫn tăng không ngừng.
Dự thảo về nghị quyết thay đổi biểu thuế bảo vệ môi trường mà Bộ Tài chính Việt Nam vừa gửi chính phủ là lần thứ tư trong vòng sáu năm, Việt Nam tăng thuế bảo vệ môi trường, cho dù cả các chuyên gia, doanh nhân và dân chúng đều cùng khẳng định, giới nào cũng đang trong tình trạng "sức cùng, lực kiệt". Thuế bảo vệ môi trường chưa tăng thì các loại thuế, lệ phí hiện đang thu thông qua việc sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ cũng đã chiếm 50% giá bán các loại hàng hóa này.
Đầu năm ngoái, các giới ở Việt Nam từng "giãy như đỉa phải vôi" khi chính phủ Việt Nam chuyển dự luật liên quan đến việc tăng thuế bảo vệ môi trường do Bộ Tài chính soạn thảo sang Quốc hội Việt Nam, kèm đề nghị Quốc hội đưa ngay dự luật này vào chương trình làm luật năm 2017 để thông qua - ban hành - thực hiện sớm. Thời điểm đó, Bộ Tài chính dự trù nâng mức thuế bảo vệ môi trường trên một lít xăng trong Luật thuế Bảo vệ môi trường mới lên đến 8.000 đồng.
Lúc đó, chỉ có một điều mà Bộ Tài chính không dè là dự luật sửa đổi Luật thuế Bảo vệ môi trường bị tất cả các giới tại Việt Nam phản ứng dữ dội.
Các chuyên gia rồi doanh nhân, báo giới thi nhau phân tích : Về lý thuyết, chỉ được sử dụng thuế bảo vệ môi trường để giải quyết những vấn đề liên quan tới môi trường, thành ra không thể chấp nhận thực tế, chỉ chừng 1/4 hoặc 1/3 khoản tiền thu được từ thuế bảo vệ môi trường được dùng đúng mục đích (năm 2016, hệ thống công quyền Việt Nam thu được 42.393 tỉ đồng thuế bảo vệ môi trường nhưng thực chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường chỉ có 12.290 tỉ)…
Áp lực dư luận đã buộc Bộ Tài chính phải "nói lại cho rõ" : Ngoài việc chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường, thuế bảo vệ môi trường mà hệ thống công quyền Việt Nam đã thu còn được sử dụng để "bố trí, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, thực hiện chính sách cải cách tiền lương theo quy định...".
Nôm na, thuế bảo vệ môi trường là một thứ… "đầu heo" mà hệ thống công quyền Việt Nam dùng để nấu đủ loại… "cháo".
Bởi không thể gạt bỏ những phân tích, cảnh báo của nhiều giới (nếu Quốc hội gật đầu, nâng mức thuế bảo vệ môi trường theo đề nghị của chính phủ Việt Nam, giá các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ sẽ tăng thêm khoảng 40%, điều đó sẽ khiến giá các loại hàng hóa, dịch vụ cùng thăng thiên, khó lường được hậu quả về kinh tế, xã hội), Quốc hội Việt Nam làm lơ, chính phủ Việt Nam đành ngậm đắng, nuốt cay để cho dự luật sửa đổi Luật thuế Bảo vệ môi trường mà Bộ Tài chính soạn thảo bị… "ung".
Sau khi nỗ lực kiếm thêm 8.000 đồng/lít xăng từ dự luật sửa đổi Luật thuế Bảo vệ môi trường bất thành, Bộ Tài chính Việt Nam đã dùng cách khác : dựa vào Luật thuế Bảo vệ môi trường hiện hành để đề nghị chính phủ Việt Nam ra… "nghị quyết", nâng thuế bảo vệ môi trường lên mức cao nhất (từ 3.000 đồng/lít xăng như hiện nay lên 4.000 đồng/lít xăng vào đầu tháng 7).
Lần này, Bộ Tài chính tiếp tục nhấn mạnh, tăng thuế bảo vệ môi trường đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ, đặc biệt là tăng thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu là cách duy nhất "chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách nhà nước theo hướng bền vững, tăng tỷ trọng thu nội địa".
Việt Nam đang thực hiện "chiến lược cải cách thuế", theo đó, từ 2006 đến 2010, tỷ trọng thu nội địa chiếm 59% tổng thu ngân sách. Từ 2011 đến 2015, tỷ trọng thu nội địa được nâng lên thành 68% tổng thu ngân sách. Kể từ năm 2015 đến nay, tỷ trọng thu nội địa được nâng lên thành 74% tổng thu ngân sách và đến 2020 tỷ trọng thu nội địa/tổng thu ngân sách chắc chắn sẽ tiếp tục được nâng lên cao hơn.
***
Trong vài năm gần đây, giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam và giới lãnh đạo Quốc hội, chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên tục khoe với "đồng chí, đồng bào" rằng, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của họ, "vị thế" của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế càng ngày càng cao. Chỉ trong mười năm, từ 2006 đến 2016, Việt Nam đã ký hàng loạt Hiệp định Thương mại tự do (FTA), trở thành đối tác của 57 quốc gia.
Trái với giới lãnh đạo hệ thống công quyền Việt Nam, các chuyên gia kinh tế không xem FTA là "thành tích" hay bằng chứng về "vị thế". Họ thay nhau cảnh báo liên tục rằng, việc ký quá nhiều FTA, bất chấp nội lực của Việt Nam đã kém lại thiếu chuẩn bị kỹ lưỡng, sẽ gây ra những hậu quả khôn lường cho kinh tế Việt Nam.
Tiếc là các chuyên gia kinh tế chỉ có kiến thức, không có quyền quyết định. Tính đến cuối năm 2016, Việt Nam đã ký kết, thực thi 10 FTA, kết thúc đàm phán 2 FTA và đang đàm phán 4 FTA khác...
Cuối năm 2016, Tổng cục Hải quan Việt Nam ước tính, trong năm 2016, Hiệp định Tự do thương mại giữa ASEAN với Hàn Quốc (AKFTA) mà Việt Nam tham gia với tư cách một trong các đối tác đã làm ngân sách Việt Nam thất thu hơn 10.000 tỉ đồng từ thuế nhập cảng xăng dầu.
Cũng vào dịp cuối năm 2016, khi tường trình về ngân sách với Quốc hội, Bộ trưởng tài chính giải thích, bội chi trở thành trầm trọng là vì các nguồn thu giảm đáng kể và một trong những lý do khiến các nguồn thu giảm đáng kể là vì tác động của những FTA mà Việt Nam đã ký kết.
Khuyến cáo, cảnh báo của các chuyên gia về việc ký bừa hàng loạt FTA để có thành tích báo cáo về vị thế - chỉ mở toang cửa cho hàng hóa ngoại quốc tràn vào Việt Nam - giờ đã thành hiện thực. Ký xong các FTA, hệ thống công quyền Việt Nam tìm kiếm cơ hội ký thêm những FTA khác chứ chưa làm bất cứ điều hữu ích nào để hàng hóa Việt Nam có thể dễ dàng xâm nhập các thị trường ngoại quốc.
Đầu năm ngoái, trước làn sóng chỉ trích dự luật tăng thuế bảo vệ môi trường, ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế của Bộ Tài chính - nơi thay mặt chính phủ soạn thảo dự luật - thú thật, thuế "bảo vệ môi trường" là một "công cụ tài chính" nhằm "ứng phó với xu hướng thất thu thuế nhập khẩu do tham gia các hiệp định thương mại".
Mới đây, khi đề cập tới đề nghị nâng thuế bảo vệ môi trường lên mức tối đa theo luật hiện hành, một lần nữa, Bộ Tài chính lặp lại lý do : Đó là cách duy nhất để bù đắp khoản thiếu hụt do phải giảm thuế nhập khẩu xăng dầu theo những FTA đã ký. Có nâng thuế bảo vệ môi trường lên như vậy thì công khố mới có thêm khoảng 15.000 tỉ đồng. Nhờ vậy, cơ cấu thu ngân sách mới có thể chuyển dịch theo hướng "bền vững".
***
Giá phải trả cho những bằng chứng mà giới lãnh đạo hệ thống công quyền Việt Nam dùng để chứng minh sự "tài tình, sáng suốt" của họ quả là đắt. Tuy nhiên họ không bận tâm vì họ không phải là đối tượng phải trả giá này.
Sẽ không chỉ có thuế bảo vệ môi trường tăng vì càng ngày sẽ càng nhiều FTA có hiệu lực thực thi. Ngoài Trung Quốc, năm nay, rau, củ, trái cây của nhiều quốc gia (Úc, New Zealand,…) cũng sẽ được miễn thuế nhập khẩu khi xuất cảng sang Việt Nam. Ngân sách lại khiếm hụt và sẽ có thêm nhiều loại thuế, phí mới, nhiều mức thuế, phí mới.
Tháng 8 năm rồi, Bộ Tài chính phải bỏ dở kế hoạch tăng thuế giá trị gia tăng (VAT) - dự trù sẽ thực hiện từ đầu năm 2019 - nâng tỉ lệ của các sản phẩm, dịch vụ đang chịu thuế VAT từ 5% lên 6%, thu 12% đối với các mặt hàng đang chịu thuế VAT là 10% - vì dư luận, nhân tâm bất lợi song đừng hoan hỉ vì cơ quan này rất "sáng tạo". Thế nào họ cũng sẽ tìm được cách nào đó như đã từng thay dự luật sửa đổi Luật thuế Bảo vệ môi trường hồi năm ngoái bằng đề nghị mới nhất, nâng thuế bảo vệ môi trường lên mức tối đa theo luật hiện hành.
Nguồn : VOA, 26/02/2018
Tuần trước, khi chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ở nước ngoài, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định : "Không phải ngẫu nhiên mà một không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của dân tộc, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang lan rộng và có tác động mạnh mẽ trên khắp cả nước".
Doanh giới Việt Nam ồ ạt chuẩn bị cho việc tháo chạy khỏi quê hương của mình để tránh bị truy tố và cầm tù. Ảnh minh họa
Tết âm lịch năm nay, thêm một lần nữa, ông Trọng lặp lại yếu tố, nhờ sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và tài tình, sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, "lòng dân, thế nước" đều đang thăng hoa.
Tuần này, ngay trong những ngày đầu tiên của năm Mậu Tuất, báo chí Việt Nam tiếp tục đề cập đến hiện tượng doanh giới Việt Nam ồ ạt chuẩn bị cho việc tháo chạy khỏi quê hương của mình. Tờ Đất Việt - Diễn đàn của Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam - lưu ý rằng, khác với trước, lúc này, các doanh nhân Việt Nam không còn "kén cá, chọn canh" như trước, việc tìm kiếm quốc tịch thứ hai cho chính họ và gia đình không chỉ khoanh lại trong phạm vi những quốc gia giàu, mạnh, phúc lợi tốt mà hướng cả vào những quốc gia nhỏ bé, ít ai biết và phần lớn vì từng là thuộc địa của cường quốc nào đó nên chuyện đến, cư trú, học hành, làm việc ở những nơi từng là "mẫu quốc" sẽ dễ dàng hơn.
Tháo chạy khỏi Việt Nam là một phong trào xuất hiện cách nay hàng chục năm. Giờ, tháo chạy khỏi Việt Nam đã trở thành xu thế, càng lúc càng mạnh mẽ và lan rộng từ doanh giới, trí thức, sang tới các viên chức của hệ thống công quyền Việt Nam.
Ở một kỳ họp Quốc hội diễn ra vào tháng 4 năm 2016, ông Trương Trọng Nghĩa, thành viên của Đoàn Đại biểu Quốc hội Sài Gòn, cảnh báo tình trạng, sau khi tu nghiệp, trí thức giỏi không muốn quay về Việt Nam làm việc, doanh nhân thành đạt muốn ra đi và một bộ phận viên chức đương nhiệm hay đã về hưu cũng tìm cách định cư ở ngoại quốc… là bằng chứng Việt Nam không còn là nơi đáng sống !
Cũng vào thời điểm đó, bà Phạm Chi Lan, một chuyên gia kinh tế, nói thêm, tình trạng người Việt tìm đủ mọi cách, lũ lượt dắt díu nhau bỏ xứ ra đi là vì họ cảm thấy bất an về đủ mọi mặt. Nếu không thể ngăn chặn xu thế tháo chạy khỏi Việt Nam, Việt Nam sẽ mất nhiều thứ : Chất xám, vốn liếng, nhân lực có kinh nghiệm tổ chức sản xuất - kinh doanh. Theo bà Lan, phương thức duy nhất để có thể hóa giải khuynh hướng tháo chạy, ồ ạt lìa bỏ nơi "chôn nhau, cắt rốn" của mình là gầy dựng lại niềm tin vốn đã suy giảm tới mức mà bà Lan nhận định là "rất lớn".
***
Có một điểm trớ trêu là từ ngày ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, mạnh miệng khẳng định rằng tự do, dân chủ ở Việt Nam "đến thế là cùng", rằng "vị thế của Việt Nam" trên thế giới chưa bao giờ được như hiện nay thì tháo chạy khỏi Việt Nam càng lúc càng mãnh liệt.
Tháng 7 năm 2016, Hội đồng Bầu cử Quốc gia thông báo tước bỏ tư cách Đại biểu Quốc hội khóa 14 của bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường (Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Đầu tư TNG Holdings VN, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khóa 13, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Công Thương thành phố Hà Nội, Phó Ban Đối ngoại của Hội đồng Nữ doanh nhân thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Nữ doanh nhân Việt Nam) vì phát giác bà Hường đã có quốc tịch của Malta mà không khai báo.
Sự kiện một người như bà Hường, chọn Malta - quốc gia nhỏ xíu ở Nam Âu, diện tích chỉ có 316 cây số vuông, dân số chỉ chừng 400.000 người - để thực hiện các thủ tục cần thiết nhằm có thể thủ đắc tư cách công dân của quốc gia này nói lên nhiều điều...
Chưa hết, giữa năm ngoái, báo chí Việt Nam đồng loạt công bố một thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB), theo đó, Việt Nam là một trong mười quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương dẫn đầu về số lượng bỏ xứ ra đi. WB ước tính, mỗi năm có khoảng 100.000 người rời khỏi Việt Nam.
Vietnam Report cũng công bố một thống kê sau khi khảo sát Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam hồi 2016 và cho biết, khoảng 45% "khát khao" đầu tư ra nước ngoài trong vòng năm năm tới. "Đầu tư ra nước ngoài" là một cụm từ hoa mỹ để doanh nhân Việt Nam thay đổi nơi cư trú và chuyển dịch tài sản ra khỏi Việt Nam. Báo chí Việt Nam dẫn nhận định của những chuyên gia tư vấn định cư, cho biết, mỗi năm, riêng nhóm doanh nhân "đầu tư ra nước ngoài" đã mang ra khỏi Việt Nam từ 10 tỉ đến 12 tỉ Mỹ kim. Nỗ lực trị giá hàng chục tỉ Mỹ kim/năm này chỉ nhằm "đổi màu hộ chiếu".
***
Tuần trước, vào thời điểm mà ông Trọng khẳng định, "lòng dân, thế nước" đang thăng hoa và "không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của dân tộc, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang lan rộng và có tác động mạnh mẽ trên khắp cả nước", ông Mai Hữu Tín, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Đầu tư U&I, Chủ tịch Liên đoàn Doanh nghiệp tỉnh Bình Dương, cựu Đại biểu Quốc hội hai khóa 12 và 13, nói với tờ Vn Economy rằng, dẫu hệ thống công quyền Việt Nam hứa hẹn đủ thứ nhưng ông vẫn chưa thấy lạc quan, tình trạng doanh nhân Việt Nam thi nhau lấy quốc tịch thứ hai vẫn rất phổ biến, khuynh hướng bi quan tìm một con đường sống khác, làm việc ở nơi khác vẫn mạnh mẽ.
Nếu ông Trọng đúng khi khẳng định về "tự do, dân chủ", "vị thế quốc gia", "lòng dân", rồi "không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của dân tộc, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang lan rộng và có tác động mạnh mẽ trên khắp cả nước"… thì những người ưu tư về tương lai quốc gia, vận mệnh dân tộc như ông Nghĩa, bà Lan, ông Tín hoặc tìm đủ cách để tháo chạy như bà Hường rõ ràng là… không bình thường.
Còn nếu những người này thật sự bình thường thì dường như ông Trọng đã cố tình vi phạm một trong năm điều ông Hồ Chí Minh răn dạy thiếu nhi : Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm !
Đã khởi xướng, đốc thúc phong trào "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" ai lại làm thế !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 23/02/2018
Vậy là Tết đã qua, dư luận về cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế đã lắng xuống. Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường - người bị cáo buộc là một trong những thủ phạm chính khiến 6.000 người Huế thảm tử - đã có thể cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút cho đến… Tết năm tới !
Bìa tác phẩm Huế 1968.
Theo một số thân hữu của ông Tường, ông vừa phiền, vừa uất vì năm nào cũng trở thành đối tượng để thiên hạ đàm tiếu, chỉ trích mỗi khi năm hết, Tết đến. Trước, chỉ có thân hữu thay ông Tường phân biện về chuyện ông vô can, không dính dáng gì đến vụ thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế song bất kể là ai, phân biện kiểu nào thì dư luận cũng vẫn thế. Năm nay, lần đầu tiên, ông Tường mượn chỗ trên mạng xã hội, chính thức thú nhận ông đã nói dối khi trả lời phỏng vấn của những người thực hiện đoàn làm phim "Việt Nam - Thiên sử truyền hình".
Phim "Việt Nam - Thiên sử truyền hình".
Dẫu ông Tường phân bua, ông nói dối chỉ vì "hăng hái bảo vệ cách mạng" nhưng chẳng có mấy người thông cảm cho ông.
Điều ông Tường thú nhận không những không có tác dụng "giải độc dư luận" mà còn khiến công chúng bất bình hơn.
Tại sao ? Nhận xét của nhiều người cho thấy, họ không thể cảm thông vì dù đã "gần đất, xa trời", ông Tường vẫn chưa thành thật.
Hao-Nhien Q. Vu nhận xét, nếu ông Tường vẫn không tỏ ra hối hận vì đã bỏ cả đời phục vụ cho và hưởng ân huệ từ một chế độ đã tàn sát dân Huế và dân chúng miền Nam, tàn phá di sản của Cố Đô thì sẽ chẳng còn điều gì khác có thể dằn vặt ông Tường khi ông ra đi ?
Dường như cảm thấy chưa đủ, trong một status khác, Hao-Nhien Q. Vu viết thêm, thư ngỏ có tính chất như "lời cuối cho một câu chuyện quá buồn" mà ông Tường viết, phù hợp với những gì mà facebooker này biết về cộng sản : Họ không hối hận với tội ác Mậu Thân mà chỉ tiếc là bị phát hiện cũng như ông Tường chỉ tiếc là đã nói dối trong một bộ phim tài liệu - giờ không thể hủy. Họ vẫn sợ sự thật và rất có thể là vẫn sợ bị đảng của họ trả thù nên ông Tường không cho biết ai phải chịu trách nhiệm chính về cuộc "thảm sát Mậu Thân 1968". Cái gọi là "lý tưởng cách mạng" của trí thức cộng sản (mà ông Tường nói ông từng có vào năm 1981) là sựlấp liếm cho tất cả những gì đã làm, bất kể đúng sai nhằm "phục vụ cách mạng".
Hoang Hung cũng nêu hàng loạt nhận định gần giống như vậy. Dẫu tội nghiệp nhưng không ai có thể biện minh cho ông Tường vì khi nói dối ông đã tự tạo ra chứng cứ chống lại chính mình. Chuyện ông Tường nói dối trong "Việt Nam - Thiên sử truyền hình" một cách nhiệt thành đã hại ông. Hoang Hung - một người dân miền Bắc - bảo rằng, ở giai đoạn diễn ra cuộc nội chiến tàn khốc 1954 - 1975, có thể do "ngây thơ, dại khờ" mà nhiệt thành nhưng đến bây giờ mà những trí thức miền Nam vẫn tự hào về việc đóng góp cho công cuộc "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" thì không thể hiểu nổi. Nếu lúc này tổ chức trưng cầu dân ý về cuộc chiến ấy, sẽ có khá nhiều người ân hận vì đã không lường được Việt Cộng lại làm quốc gia trì trệ, tụt hậu như vậy và cuối cùng chính quyền cộng sản đã phản bội sự hy sinh của nhiều người, chỉ chăm chăm bảo vệ đặc quyền cho một nhóm người.
Mạnh Kim tâm sự đã từng tự nhủ sẽ không viết gì thêm về vụ thảm sát hồi Mậu Thân 1968 ở Huế nữa nhưng sau "lời cuối cho một câu chuyện quá buồn" mà ông Tường nhờ đưa lên Internet đã nói thêm rằng, việc ông Tường không có mặt ở Huế, có chứng cứ "ngoại phạm",… là vô nghĩa bởi "gây án" với lịch sử, dính dáng trực tiếp hay gián tiếp với lịch sử thì không thuộc phạm vi phán xét của các quan tòa. Nó phụ thuộc sự đánh giá của dân tộc và sự phán xét của tòa án lương tâm. Mạnh Kim nhấn mạnh rằng ông không lên án sự chọn lựa chỗ đứng trong lịch sử của những người như ông Tường trong quá khứ. Điều cần quan tâm là thái độ và cách thức nhìn lại mình của những người như ông Tường trong thời gian vừa qua. Thắc mắc chỉ xoay quanh sự lựa chọn hiện nay và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ.
Những facebooker trẻ hơn như Kimdung Tong thì tâm tình, hóa ra "Việt Nam - Thiên sử truyền hình" một bộ phim tài liệu được đánh giá cao cũng có những điều dối trá và chúng đã được loan truyền khắp thế giới. Đó là lý do đừng bao giờ dựa vào những "kiến thức lịch sử" đã được dạy dỗ trong thời gian mài đũng quần dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Trước sau, những anh hùng kiểu như Lê Văn Tám,… sẽ được "điểm danh". Lịch sử thật sẽ rất công bằng.
***
Đầu thập niên 1980 - thời điểm ông Tường tiếp xúc với đoàn làm phim "Việt Nam - Thiên sử truyền hình" - là giai đoạn muốn gặp những nhà báo ngoại quốc, nói gì với họ cũng phải được "tổ chức" đồng ý và duyệt nội dung những câu trả lời. Chắc chắn ông Tường không phải là ngoại lệ và chắc chắn ông Tường không lường được hậu họa.
Chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường - Mậu Thân 1968 - Cuộc thảm sát ở Huế là minh họa sống động, rõ ràng cho câu ca dao "trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". Tuy nhiên có một điều rất đáng ngạc nhiên là giới lãnh đạo hệ thống công quyền Việt Nam vẫn chẳng "rút ra được bài học kinh nghiệm" nào từ câu chuyện ấy. Họ vẫn rất vô tư khi đưa ra hàng loạt "chủ trương", "chính sách", "tuyên bố" và thực hiện hàng loạt hành động mà bia miệng đã hoặc sẽ lưu danh.
Chẳng hạn, sau khi đã bị mỉa mai vì khẳng định dân chủ, tự do ở Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam "gấp vạn lần" thiên hạ, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng CSVN, vừa mới khẳng định : "Không phải ngẫu nhiên mà một không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của dân tộc, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang lan rộng và có tác động mạnh mẽ trên khắp cả nước" !
Lần đầu tiên trên mạng xã hội, các facebooker tấn công lẫn nhau về việc tưởng niệm hay làm ngơ sự kiện đã xảy ra cách nay 39 năm : Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc ồ ạt tràn qua biên giới để "dạy cho Việt Nam một bài học"…
Tưởng niệm chiến tranh biên giới 1979 - 2016.
Tuy đang trong những ngày đầu tiên của năm Mậu Tuất 2018 nhưng nhiều facebooker vẫn lên tiếng khẳng định, phàm đã là người Việt, chớ quên sự kiện phải "khắc cốt, ghi tâm" này.
Thêm một lần nữa, hàng trăm ngàn người sử dụng Internet tại Việt Nam thắc mắc rằng tại sao cả hệ thống công quyền lẫn hệ thống truyền thông thi nhau quảng bá về cuộc "tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968" mà bản chất là "huynh đệ tương tàn", thêm một lần nữa, đâm, xé… khiến vết thương lòng của hàng triệu người rỉ máu nhưng lại phớt lờ vụ Trung Quốc xâm lăng Việt Nam (?).
Thêm một lần nữa, hàng trăm ngàn người sử dụng Internet tại Việt Nam lại chia sẻ với nhau những hình ảnh, thống kê, kèm thắc mắc : Phải hiểu thế nào là tự hào dân tộc, là tự trọng khi không dám nhận diện, gọi tên kẻ thù, cấm biểu diễn những bài hát, vở kịch, tự ý đục bỏ khỏi sách giáo khoa những bài học đề cập đến mười năm chống "bành trướng Bắc Kinh" bảo vệ lãnh thổ, thảng hoặc có nhắc tới thì chỉ gọi một cách chung chung là "địch", làm cả người lớn lẫn hậu sinh hoang mang.
Thêm một lần nữa, hàng trăm ngàn người sử dụng Internet tại Việt Nam phẫn nộ khi sáng mùng hai Tết Mậu Tuất 2018, thời điểm mà nhiều người hẹn nhau đến thắp hương, tưởng niệm những người lính Việt đã đền nợ nước trong cuộc đối đầu với quân xâm lược Trung Quốc ở khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam, khoảng trống trước tượng đài Lý Thái Tổ ở thành phố Hà Nội tiếp tục trở thành "sàn nhảy" cho một số cặp của Câu lạc bộ Khiêu vũ Thăng Long biểu diễn…
Tuy nhiên khác hẳn trước đây, dẫu không nhiều song trong dịp 17 tháng 2 năm nay, có một đợt "đánh trả" quyết liệt các nhận định, thắc mắc vừa kể trên những diễn đàn điện tử và mạng xã hội. Theo đó, nếu hệ thống công quyền và hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam tổ chức tưởng niệm những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam thì chắc chắn Việt Nam sẽ có thêm… hàng trăm nghĩa trang liệt sĩ mới và những người phản đối việc phớt lờ có dám nhận cho mình một… suất trong những nghĩa trang liệt sĩ mới ấy không (?).
Theo đó, nếu hệ thống công quyền và hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam tổ chức tưởng niệm những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam thì chắc chắn nhiều người Việt sẽ… "há mõm" vì Trung Quốc cấm nhập các loại nông sản (cả trồng trọt lẫn chăn nuôi). Yêu cầu tổ chức tưởng niệm những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam bị xem là "máu quá đà", thiếu thức thời và chủ yếu là do chưa từng đến Trung Quốc, chưa hiểu Trung Quốc hùng mạnh như thế nào !...
Việc lên án những thành viên của Câu lạc bộ Khiêu vũ Thăng Long giành khoảng trống trước tượng đài Lý Thái Tổ ở thành phố Hà Nội, biến nơi đó thành "sàn nhảy", khiến nhiều người đã hẹn nhau đến thắp hương, tưởng niệm những người lính Việt đã đền nợ nước trong cuộc đối đầu với quân xâm lược Trung Quốc không thể thực hiện được dự tính của họ bị cho là "thái quá", là "dân chủ giả hiệu" vì những cặp từng ôm nhau uốn ép theo tiếng nhạc vào sáng 17 tháng 2 tại tượng đài Lý Thái Tổ có quyền làm điều họ muốn.
Một số facebooker tham gia vào đợt "đánh trả" những chỉ trích về việc phớt lờ sự kiện 17 tháng 2 đã chia sẻ một bài viết của facebooker Hung Ngo Manh viết vào dịp này năm 2016 và năm sau (2017) được trang web của Quốc hội Việt Nam dẫn lại cũng đúng vào dịp 17 tháng 2. Theo facebooker Hung Ngo Manh thì việc khai thác ảnh chụp tấm bia ghi lại chiến tích của Sư đoàn 337 (chặn đứng đợt tấn công của quân đội Trung Quốc hồi 1979) ở cầu Khánh Khê (bản Pa Pách xã Bình Trung, H.Cao Lộc, Lạng Sơn), bị đục bỏ dòng chữ "quân Trung Quốc xâm lược" thì hoặc là "ấu trĩ", hoặc là "phản động" vì "cố tình xuyên tạc" khiến nhiều người hoang mang, cho là giới lãnh đạo Việt Nam "hèn với giặc, ác với dân, vô ơn với các liệt sĩ". Ngay cả những nhà báo, tờ báo thuộc hệ thống truyền thông chính thức từng đề cập đến sự kiện 17 tháng 2 cũng bị lên án là "cơ hội, kích động đểu". Facebooker Hung Ngo Manh nhấn mạnh, tấm bia vừa kể bị đập bỏ chỉ vì nó bằng gạch. Năm 2013, Bộ Tư lệnh Quân khu một và chính quyền tỉnh Lạng Sơn đã chi ra 600 triệu dựng hẳn một "nhà bia" để kỷ niệm chiến thắng Khánh Khê.
Đối chiếu cả hai ảnh thì rõ ràng tấm bia mới dựng trong "nhà bia" trang trọng hơn, nhiều chữ hơn nhưng xét về nội dung thì tấm bia mới chẳng khác gì tấm bia cũ từng làm nhiều người hoang mang bởi người ta không rõ 700 người lính và dân Lạng Sơn từng kết thành một "lá chắn thép" quanh khu vực cầu Khánh Khê hồi đầu năm 1979 để chống ai và đã bị ai giết. Dẫu kẻ thù không được nhận diện, gọi tên mà chỉ được nêu chung chung là "địch" nhưng Hung Ngo Manh dõng dạc cho rằng chừng đó là đủ vì chẳng lẽ năm 1979, Việt Nam đánh nhau với phỉ Fulro ở biên giới phía Bắc…
***
Bất kể cuộc phản công trên Internet, bảo vệ "đường lối, chủ trương" của Đảng cộng sản Việt Nam, chống "luận điệu thù địch, phản động" của một số người dùng Internet "khởi sắc" hơn trước, đặc biệt là đối với sự kiện 17 tháng 2, song còn rất nhiều câu hỏi mà chính họ vẫn chưa thể nghĩ ra câu trả lời.
Ví dụ, tại sao đã hơn hai thập niên tính từ ngày "ta" bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc nhưng thân nhân của hàng chục ngàn liệt sĩ hy sinh ở biên giới phía Bắc vẫn còn chờ hài cốt người thân ? Nếu Đảng không vô ơn thì tại sao đất nước thống nhất đã gần nửa thế kỷ nhưng Quốc hội, chính phủ không chi tiền để tìm kiếm - qui tập hài cốt hàng trăm ngàn liệt sĩ của nhiều cuộc chiến (chống Pháp, chống Mỹ, chống bành trướng Trung Quốc, chống chế độ diệt chủng Polpot ở Campuchia) ?
Ví dụ khi Quốc hội, chính phủ đắn đo, nâng lên đặt xuống nhiều lần đề nghị chi một vài tỉ để tìm kiếm – qui tập hài cốt của 2.000 người lính vì chống trả Trung Quốc, bảo vệ lãnh thổ mà trở thành liệt sĩ, giờ vẫn đang phơi giữa mưa nắng trên nhiều cao điểm ở Hà Giang, song không ngần ngại phê duyệt kế hoạch dùng 1.400 tỉ của công quĩ để xây dựng Nghĩa trang Yên Trung, tạo ra 2.000 chỗ nẳm cho giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam yên tâm sẽ có "mồ yên, mả đẹp" thì phải hiểu thế nào về bốn chữ "đền ơn, đáp nghiã" ?..
Đảng vẫn muốn quân đội chiến đấu vì sự tồn vong của mình. Thế nhưng nếu cầm súng chiến đấu chỉ nhằm bảo vệ Đảng mà Đảng thì… thủy chung như thế thì tương lai quốc gia, dân tộc ra sao ?
Có rất nhiều vấn đề then chốt mà lực lượng 47 – lực lượng bảo vệ Đảng của quân đội trên Internet - không trả lời được. Chắc phải chờ sự ra đời của nhiều lực lượng khác. Công khố dẫu rỗng nhưng "ta" có thể vay như… vẫn, thế thì cứ… thử !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 22/02/2018
Tết đã đến nhưng năm nay, bà Ngô Thị Phái, ngụ ở thị trấn Triệu Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa và thân nhân vẫn chưa an lòng vì họ vẫn chưa tìm thấy hài cốt ông Ngô Văn Phiếu. Ông Phiếu – anh ruột bà Phái – sinh năm 1946, từng được Quân đội nhân dân Việt Nam động viên vào lính để "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước".
Tác phẩm mới nhất về chiến trường Huế 1968.
Theo lời một đồng đội của ông Phiếu thì khi vào Nam, ông được chỉ định phục vụ trong Tiểu đoàn 16, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304. Sau đó Tiểu đoàn 16 được đặt dưới sự chỉ huy của Tỉnh đội Long An để thực hiện cuộc "Tổng tiến công và nội dậy Xuân Mậu Thân 1968".
Đêm 30 tháng Chạp Âm lịch Xuân Mậu Thân 1968, ông Phiếu là một trong hàng ngàn người lính tấn công phi trường Tân Sơn Nhất và mất mạng…
Hồi tháng 7 năm ngoái, nghe tin hệ thống công quyền Việt Nam đang tìm kiếm các ngôi mộ tập thể - chôn cất những người lính tham gia công cuộc "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" – hồi Xuân Mậu Thân 1968, trên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), bà Phái đã đi tìm người đưa tin để hỏi thăm thêm.
Phóng viên của VOV kể rằng, gia đình bà Phái đã tự đi tìm hài cốt ông Phiếu nhiều lần trong nhiều năm nhưng không thành công. Thông tin về việc tìm kiếm những ngôi mộ tập thể ở phi trường Tân Sơn Nhất lại làm dấy lên hi vọng trong lòng bà Phái và thân nhân. 50 năm đã qua và đất nước thống nhất đã hơn bốn thập niên, hài cốt ông Phiếu có thể đã rã thành bùn đất, nên bà Phái chỉ hy vọng ai đó tìm đúng nơi ông Phiếu được chôn cất để xin ghi tên ông vào tấm bia được dựng ở đó rồi xin một nắm đất đắp lên mô đất thay cho nấm mộ của ông Phiếu ở quê nhà.
Cuộc tìm kiếm những ngôi mộ tập thể trong khu vực phi trường Tân Sơn Nhất được thực hiện hồi năm ngoái, bao gồm hai đợt, một đợt hồi tháng 6, một đợt hồi tháng 10 và đã kết thúc hồi cuối tháng 11 mà không đem lại kết quả nào.
***
Trong một vài tài liệu được xuất bản chính thức, chẳng hạn như "Tết Mậu Thân 68 - Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước", tác giả Hồ Khang dựa vào các thống kê của hệ thống công quyền Việt Nam, cho biết (trang 362), cuộc "Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968" đã đẩy khoảng 50.000 người lính thuộc "Quân Giải phóng miền Nam" đến chỗ chết và mất tích (44.824 chết, 4.511 mất tích), chưa kể 61.267 người lính bị thương, thêm vài ngàn người bị bắt làm tù binh, đi lạc, đầu hàng… Bất kể tổng thiệt hại về quân số, nhân lực ít nhất cũng khoảng 113.000 người, một số cá nhân là người trong cuộc như Thiếu tướng Huỳnh Công Thân, Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân, Tỉnh đội trưởng Long An, Tư lệnh Phân khu 3 khi diễn ra cuộc "Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968" thuật lại trong "Ở chiến trường Long An" của Thiếu tướng Huỳnh Công Thân (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân - 1994) rằng chủ trương thực hiện "Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968" vừa điên rồ, vừa phi nhân (xua hàng trăm ngàn người lính thuộc "Quân Giải phóng miền Nam" vào chỗ chết), trước nay, cuộc "Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968" vẫn được ca ngợi là "bằng chứng sinh động của bản lĩnh kiên cường, của tư duy và nghệ thuật quân sự Việt Nam".
Khoan bàn đến yếu tố nhân văn của cuộc "Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968" (tuyên bố ngưng bắn nhân dịp Tết rồi tổ chức tấn công đồng loạt trên khắp miền Nam, thảm sát thường dân - trong đó có khoảng 6.000 người ở Huế, biến hàng triệu người thành vô gia cư, trắng tay vì nhà cửa, tài sản bị phá hủy,…), chỉ xét cách hệ thống công quyền Việt Nam đối xử với những người lính được điều động tham gia cuộc "Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968" rồi chẳng may mất mạng thì cũng đủ để thấy đó là vô đạo.
Sau 43 năm "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", đâu chỉ có ông Phiếu vẫn còn mất xác ! Năm ngoái – 42 năm sau khi đã làm chủ hoàn toàn Việt Nam – hệ thống công quyền Việt Nam mới tổ chức thêm một số đợt tìm kiếm những người lính trở thành liệt sĩ khi tham gia cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân 1968 ở phi trường Biên Hòa và phi trường Tân Sơn Nhất.
Những đợt tìm kiếm vừa kể khởi đầu bằng nỗ lực của một Kiến trúc sư tên là Nguyễn Xuân Thắng và bạn bè. Từ việc có cậu ruột là liệt sĩ đến nay vẫn còn mất xác, ông Thắng và một số người cùng hoàn cảnh, cùng chí hướng đã bỏ rất nhiều thời gian, công sức thu thập thông tin, hình ảnh liên quan đến các ngôi mổ tập thể - chôn cất những người lính thuộc "Quân Giải phóng miền Nam" và mất mạng khi tấn công vào phi trường Biên Hòa và phi trường Tân Sơn Nhất. Qua Internet, ông Thắng tìm thấy một số cựu chiến binh Mỹ hoặc tận mắt mục kích, hoặc tham gia chôn cất các liệt sĩ Việt Cộng hồi Tết Mậu Thân 1968 ở phi trường Biên Hòa. Ngoài việc gửi thêm thông tin, dữ liệu, một đại tá và một trung sĩ cựu chiến binh Mỹ còn sắp xếp để quay lại Việt Nam hỗ trợ tìm kiếm.
Nhiệt tình của những Nguyễn Xuân Thắng, Bob Connor, Martin Strones… thúc đẩy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai phải nhập cuộc và cuối cùng đã tìm thấy - cải táng hài cốt 150 liệt sĩ.
Ông Thắng cũng đã chuyển những thông tin, dữ liệu tương tự cho Bộ Chỉ huy Quân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy ông Thắng ước lượng quanh khu vực vốn là rìa phi trường Tân Sơn Nhất có từ 600 đến 700 liệt sĩ Việt Cộng chưa được cải táng nhưng một số cá nhân như ông Vũ Chí Thành – từng tham gia tấn công phi trường Tân Sơn Nhất hồi Tết Mậu Thân 1968 – khẳng định, con số này phải đến hàng ngàn.
Sau 43 năm tính từ tháng 4 năm 1975, phần đất trống bọc quanh phi trường Tân Sơn Nhất giờ đã trở thành khu dân cư, đường sá, nơi một số doanh nghiệp xây dựng các cơ sở kinh doanh thành ra hai đợt tìm kiếm được thực hiện hồi giữa và cuối năm ngoái không mang lại kết quả nào.
Dữ liệu với rất nhiều hình ảnh mà các cựu chiến binh Mỹ trao cho ông Thắng để ông chuyển cho Bộ Chỉ huy Quân sự Thành phố Hồ Chí Minh và cung cấp cho báo giới có một chi tiết ít người để ý : Đó là khi chôn cất những liệt sĩ Việt Cộng, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã dựng bảng ghi rõ, đó là "Nơi an nghỉ của những chiến sĩ lầm đường đêm Mùng 1 Tết Mậu Thân. Linh thiêng xin các bạn hãy giúp cho xứ Việt Nam thân yêu của chúng ta mau thái bình" – những tấm bảng ấy chỉ bị triệt hạ sau tháng 4 năm 1975. Ngoài việc bứng bỏ những tấm bảng ấy, phe ta đã không làm gì cho những người đã đổ máu, xương để giúp phe ta giành chiến thắng. Phớt lờ và "chia năm, xẻ bảy" là nguyên nhân chính khiến những thân nhân liệt sĩ như bà Phái, ông Thắng ngậm ngùi. Nhiều người cha, người mẹ chết không nhắm mắt. Trách nhiệm tìm kiếm thân nhân đã hi sinh cho công cuộc "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" được chuyển từ đời cha, sang đời con, với một số gia đình, trách nhiệm đó đã được chuyển cho thế hệ… cháu !
Đợt cải táng những liệt sĩ Việt Cộng mất mạng hồi Tết Mậu Thân 1968 khi tấn công vào phi trường Tân Sơn Nhất diễn ra vào năm 1995 – hai mươi năm sau khi "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" và do một doanh nghiệp nhà nước thực hiện khi cải tạo phi đạo của phi trường Tân Sơn Nhất.
Tình nghĩa của những người cộng sản vốn chỉ như thế nên chẳng có gì là lạ khi năm ngoái, trong quá trình thực hiện hai đợt tìm kiếm – cải táng hài cốt liệt sĩ Việt Cộng ở phi trường Tân Sơn Nhất, giải thích về những khúc xương, di vật (áo, thắt lưng, ví da,…), Thiếu tướng Trần Hữu Tài - Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7 – giải thích gọn lỏn, nhẹ tênh, không một chút áy náy, xấu hổ : Đó là những thứ còn… sót lại từ… đợt cải táng năm 1995 !
Tình nghĩa của những người cộng sản vốn chỉ như thế nên chỉ ở Việt Nam mới có những chuyện chẻ xương, cắt sọ liệt sĩ, chia một bộ hài cốt thành hai, ba để tham nhũng chi phí cải táng như đã từng xảy ra hồi giữa thập niên 1990 khi Đồng Nai quyết định di dời một nghĩa trang liệt sĩ để lấy đất làm… chuyện khác !
***
Bà Phái, ông Thắng và những người đồng cảnh ngộ cứ tiếp tục khắc khoải về chuyện an nghỉ của người thân, từng hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc, cuộc chiến chống chế độ diệt chủng của Polpot ở Campuchia. Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch quốc hội, Chủ tịch nhà nước, Thủ tướng từ thời này sang tời khác cứ tiếp tục tổ chức kỷ niệm những "buổi lễ cấp quốc gia" kiểu như "Bản hùng ca Xuân Mậu Thân 1968" mới diễn ra ở Sài Gòn.
Những "buổi lễ cấp quốc gia" kiểu đó không phải nhằm tri ân mồ hôi, nước mắt, máu xương của nhiều cá nhân, nhiều gia đình, chúng chỉ nhằm tô vẽ cho sự lãnh đạo "tài tình, sáng suốt" của Đảng cộng sản Việt Nam và những "thắng lợi rực rỡ" trong quá khứ được sử dụng như bằng chứng, chứng minh, tổ chức chính trị này xứng đáng trong việc tiếp tục duy trì độc quyền lãnh đạo "toàn diện, tuyệt đối" ở Việt Nam.
Đừng vội tính nợ nần mà hệ thống công quyền Việt Nam phải gánh đối với "ngụy quyền", "ngụy quân", "ngụy dân", nợ xương máu mà hệ thống công quyền Việt Nam đã vay của các liệt sĩ và thân nhân của họ cũng được xếp vào loại khó đòi.
Hồi tháng 11 năm ngoái, tướng Sùng Thìn Cò – Phó tư lệnh Quân khu 2 đồng thời là đại biểu của tỉnh Hà Giang tại Quốc hội khóa 14, bảo với các đồng viện là còn khoảng 2.500 hài cốt liệt sĩ đang phơi mưa nắng tại hàng chục cao điểm ở Hà Giang.
Tướng Cò không cung cấp chi tiết nhưng dựa vào diễn biến xung đột vũ trang tại biên giới Việt – Trung, người ta tin rằng những liệt sĩ ấy đã đền nợ nước trong các đợt phản công - tái chiếm, phòng vệ lãnh thổ giai đoạn từ giữa năm 1980 đến đầu năm 1987 ở Hà Giang.
Lý do chính khiến cha mẹ nhiều liệt sĩ chờ cho tới chết vẫn chưa nhận được hài cốt của con là vì… hệ thống công quyền Việt Nam chưa cấp tiền để tìm kiếm, mang hài cốt của các liệt sĩ về nhà. Vào thời điểm ấy, tướng Cò khẳng định với các đồng viện rằng chỉ cần cấp tiền cho Bộ Quốc phòng và Quân khu 2 một lần thì trong hai năm 2018 và 2019, quân đội sẽ đưa hết toàn bộ hài cốt các liệt sĩ về với gia đình, về với quê hương.
Không thấy báo chí Việt Nam tường thuật chủ trương của giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Quốc hội, chính phủ quyết định thế nào về đề nghị của tướng Cò. Người ta chỉ thấy sau khi Ban Bí thư công bố chủ trương, chính phủ Việt Nam đã phê duyệt và ráo riết thực hiện kế hoạch xây dựng một nghĩa trang diện tích 120 héc ta, trị giá 1.400 tỉ để lãnh đạo cao cấp của Đảng "yên giấc ngàn thu".
Chắc chắn đại diện Bộ Xây dựng và chính quyền thành phố Hà Nội không thể ngờ rằng, "Lễ công bố Quy hoạch chi tiết xây dựng, tỷ lệ 1/500, Nghĩa trang Yên Trung" do họ phối hợp tổ chức hôm 1 tháng 2, lại trở thành một cuộc trưng cầu dân ý về thời điểm giới lãnh đạo cao cấp nên chết và chuyện chôn giới này...
Mô hình Nghĩa trang Yên Trung dự trù kinh phí hơn 1.400 tỷ đồng dành cho các lãnh đạo cấp của Việt Nam. (Ảnh : VietnamFinance)
***
Dẫu đã hơn một tuần tính từ "buổi lễ" đó song cuộc bàn luận về ý tưởng trục xuất 105 gia đình đang sinh sống dưới chân núi Ba Vì thuộc huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội để dùng 120 héc ta đất xây dựng Nghĩa trang Yên Trung, không những chưa kết thúc mà càng ngày càng rôm rả.
Trên các diễn đàn điện tử và mạng xã hội, song song với sự thịnh nộ vì bất chấp thâm thủng ngân sách, nợ nần gia tăng, các công trình phúc lợi phục vụ dân sinh (trường học, bệnh viện,…) vừa thiếu, vừa tồi tệ về chất lượng, số người nghèo khổ càng ngày càng đông, giới nào cũng ta thán về "sưu cao, thuế nặng", chính phủ Việt Nam vẫn phê duyệt dự án ngốn tới 1.400 tỉ này chỉ để chôn cất "từ 2.200 đến 2.500 cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và các anh hùng, danh nhân"- lần đầu tiên, dân chúng Việt Nam thi nhau bày tỏ suy nghĩ của họ về chuyện chết cũng như chôn những cá nhân thụ hưởng đặc quyền "an nghỉ cuối cùng" ở Nghĩa trang Yên Trung.
Cho dù Nghĩa trang Yên Trung được giới thiệu còn là nơi "an nghỉ cuối cùng" của "các anh hùng, danh nhân" song mũi dùi của dư luận chỉ chĩa trực tiếp vào "cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước".
Giống như nhiều người, Duong Thang nêu thắc mắc : Chắc gì các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hóa thích được chôn cùng chỗ với các quan chức cao cấp ? Đoàn Khắc Xuyên nhận định xếp "các anh hùng, danh nhân" vào cùng một nhóm với những "cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước" là "nhập nhèm, đánh đồng cái này với cái kia, bởi cái này không phải cái kia, cái kia chưa chắc đã là cái này". Theo ông Xuyên đó là một kiểu "đánh lận con đen" nhằm "né tránh dư luận".
Chẳng phải chỉ có Duong Thang và Đoàn Khắc Xuyên nhìn ra điều đó. Có hàng triệu người cùng thấy như vậy, thành ra…
- Những bình luận kiểu : Hết ý khi đến giờ này mà vẫn còn phân biệt chỗ chôn giới lãnh đạo cao cấp với thường dân. Hoặc Nghĩa trang Yên Trung cho thấy "tầm nhìn xa" của giới lãnh đạo cao cấp thành ra họ hối hả chuẩn bị hậu sự cho mình. Hay đừng tiếc 1.400 tỉ mà nên chấp nhận đóng góp thêm vài chục ngàn tỉ nữa để lập các nghĩa trang, chôn toàn bộ giới lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã một lần cho xong…
- Rồi những băn khoăn kiểu : Con cháu giới lãnh đạo cao cấp đã định cư ở ngoại quốc hết rồi. Bỏ ra 1.400 tỉ sẽ phí vì lấy ai thắp hương ?...
- Và những an ủi kiểu : Bởi khó mà chặn dự án Nghĩa trang Yên Trung thành ra cứ xem đó nhưchi phí cho việc gom hết vào một chỗ để sau này nhân dân dễ tìm…
…được người sử dụng Internet rải đầy trên mạng xã hội Việt ngữ. Chúng nhiều như lá…. mùa thu !
Điểm đặc biệt là tham gia luận bàn theo các hướng vừa kể không chỉ có thường dân. Dự án Nghĩa trang Yên Trung đã đẩy những người xưa nay vẫn không ngại bày tỏ sự tin yêu Đảng, Nhà nước, hoặc từng hay đang gắn bó mật thiết với hệ thống công quyền tại Việt Nam, cùng với đám đông đồng bào của mình nhìn về một hướng.
Hai tháng trước, facebooker Trần Đình Triển – Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - nhận định : Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là "vị hào kiệt của dân tộc", ngày mùng 2 tháng này, ông Triển chất vấn : Tại sao chết mà còn phân biệt nơi chôn ? Nói không đi đôi với làm, dân tin yêu sao được ?
Giữa trận bão dư luận ấy, có facebooker như Nguyễn Thiện nhắc mọi người, dự án Nghĩa trang Yên Trung do chủ trương của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa trước đề ra, ông Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng đã rời chính trường để trở về "làm người tử tế" - phê duyệt, chứ không phải sản phẩm do ông Nguyễn Xuân Phúc - Thủ tướng đương nhiệm tạo ra. Nguyễn Thiện dẫn một link cho thấy, người đứng đầu Ban Bí thư thời đó chính là "vị hào kiệt của dân tộc" hôm nay.
Facebooker Nguyễn Văn Thọ - người khẳng định là cùng thời, có số tuổi Đảng, tuổi cống hiến ngang với những "cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước", gọi họ là "đồng chí" – khuyến cáo, chi 1.400 tỉ thực hiện dự án Nghĩa trang Yên Trung là "tự đào huyệt chôn mình, chôn theo cả lòng tin mà cuộc chiến chống tham nhũng đang nhen nhóm lại, thậm chí chôn đi cả lòng biết ơn của nhân dân với sự nghiệp cách mạng mà các bậc tiền bối đã dành cho Đảng".
Đặng Huỳnh Lộc, cháu của một Bà mẹ Việt Nam anh hùng, huỵch toẹt : Thay vì xây nghĩa trang để củng cố lòng tin của nhân dân thì hãy tự sát để nhân dân tin là đã chết thật ! Võ Đắc Danh, con của một Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tán thưởng : Đó là cách tốt nhất để lấy lòng tin của nhân dân.
Đã có không ít người dẫn câu ca dao : Thương dân, dân lập đền thờ. Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương ! - như một cách răn đe. Hoàng Tư Giang cũng dẫn câu ca dao này kèm câu hỏi : Triết lý đơn giản như vậy, trải qua nhiều triều đại mà sao các anh không nhận ra từ lúc còn trên đỉnh cao quyền lực cho tới khi nhắm mắt xuôi tay ? 1.400 tỉ là máu và nước mắt của người dân đấy !
Theo khuynh hướng đó, Đỗ Minh Tuấn bỡn cợt rằng nên "đối xử bình đẳng" với tất cả các "dự án", khoan phản đối khi chưa xác định các "thông số khoa học". Giống như các dự án khác, dự án Nghĩa trang Yên Trung cần phải qua giai đoạn khảo sát, nghiên cứu "tiền khả thi", kèm "đánh giá tác động môi trường". Theo ông Tuấn, trước khi xài cho hết 1.400 tỉ để xây "bãi tha ma quan chức", chôn đồng loạt các xác chết thì nên… chôn thử. Ông hiến kế : Chôn thử thằng nghĩ ra dự án xem môi trường trong khu vực có bị ảnh hưởng do nước tiểu của dân không ? Sau đó "kiểm tra xem dư luận xã hội ra sao" ? Gia đình người được "chôn thử" có phát tài phát lộc hay không ? Ông Tuấn còn đề nghị nên khảo sát và dự báo cả yếu tố, trong tương lai, liệu con cháu của những người sử dụng "bãi tha ma quan chức" có bị tổn thương khi suốt ngày nghe chửi và ngửi mùi nước tiểu không ?.
***
Từ khi trở thành tổ chức chính trị duy nhất nắm giữ độc quyền lãnh đạo toàn diện tại Việt Nam, dù nhiều người, nhiều giới đề nghị nhiều lần nhưng chưa bao giờ Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức trưng cầu dân ý.
Dự án Nghĩa trang Yên Trung giống như giọt nước làm tràn ly, dẫu chẳng có ai, nơi nào đứng ra tổ chức nhưng nhiều người, nhiều giới đồng loạt bày tỏ tâm ý của họ. Sau lần dân chúng tự phát biểu thị tâm ý này, không rõ các "cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước" có đắn đo chút nào mỗi khi lập lại luận điểm "lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối là sứ mệnh mà nhân dân tin tưởng giao phó" hay không ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 13/02/2018
Dư luận lại dậy sóng sau khi Hội đồng Chức danh Giáo sư nhà nước công bố danh sách 1.226 tân Giáo sư và tân Phó Giáo sư của năm 2017.
Có nhiều lý do để công chúng dè bỉu chuyện xét – đề nghị phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư của năm 2017.
Bảng dữ liệu cho thấy số giáo sư Việt Nam được phong năm 2017 gần gấp đôi năm 2016.
Việt Nam bắt đầu xem xét – phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư từ năm 1976. Chức danh "Giáo sư", "Phó Giáo sư" trở thành quan trọng vì chúng là học hàm do hệ thống công quyền trao tặng cho những người vừa được xem như tiên phong về học vấn, trụ cột trong lĩnh vực khoa học nào đó, vừa đã có những đóng góp đáng kể cho giáo dục – đào tạo tại Việt Nam.
Sau hàng loạt phân tích, chỉ trích về vô số bất cập trong tiến trình xem xét - phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư, mới đây, Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước công bố đề nghị phong hàm Giáo sư và Phó Giáo sư cho 1.226 người. Trong quá khứ, chưa có Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước nào xem xét – đề nghị phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư cho từng ấy người. Bởi vậy, Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước hiện nay vừa lập một kỷ lục mới về… số lượng.
Thế còn chất lượng ?
Báo điện tử VTC đã phỏng vấn hàng loạt cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo để minh họa cho nhận xét chung "Có tiêu cực rất lớn trong Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước".
Ông Vũ Hào Quang, Giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, lưu ý, số người mới được xem xét – đề nghị phong hàm "Giáo sư", "Phó Giáo sư" có nghiên cứu được đăng trên các tạp chí ISI/Scopus rất thấp. Ông Quang nhấn mạnh, ông có "đủ bằng chứng để chứng minh có tiêu cực" và cần phải điều tra, "chống tham nhũng" trong Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước.
Gíao sư Nguyễn Xuân Hãn, làm việc tại Đại học Quốc gia Hà Nội, thành viên của Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, chỉ khẳng định, tiểu ban xem xét – đề nghị phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư trong lĩnh vực Toán – Lý không có tiêu cực. Còn những tiểu ban khác thì ông không biết. Ông Hãn tán thành việc "làm rõ" để không ảnh hưởng tới uy tín của cả Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước lẫn những người đã được phong học hàm.
Phó Giáo sư – Tiến sĩ Phạm Bích San, Viện trưởng Viện Nghiên cứu xã hội và Các vấn đề phát triển thì lặp lại dư luận vốn đã râm ran về chuyện "chạy phiếu", phong hàm "giáo sư", "Phó Giáo sư" cho những cá nhân chẳng bao giờ giảng gì hoặc dạy ai. Ông San dẫn trường hợp một Thứ trưởng vừa được đề nghị phong học hàm "Giáo sư" về kinh tế làm ví dụ.
Tiến sĩ Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học FPT, cũng cho rằng, học hàm phải gắn với giảng dạy. Việc xem xét – phong học hàm ở Việt Nam càng ngày càng "biến tướng". Đặc biệt là trong đợt xét – đề nghị phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư mới nhất, trước khi đặt định – áp dụng những qui định mới về việc phong học hàm. Giống như nhiều người khác, ông Tùng đề nghịgiải tán Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, giao việc phong học hàm cho các đại học.
Có một điểm đáng lưu ý là sức mạnh của dư luận đã buộc Thủ tướng Việt Nam phải hành động. Ông Nguyễn Xuân Phúc chính thức yêu cầu ông Phùng Xuân Nhạ - Bộ trưởng Giáo dục Đào tạo, kiêm Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước "rà soát để bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn" của học hàm. Điểm đáng lưu ý hơn là ông Nhạ đã chỉ đạo Thường trực Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước "rà soát" trong… hai ngày (từ 9 tháng 2 đến 18 tháng 2 có chín ngày, bao gồm hai ngày cuối tuần và năm ngày nghỉ Tết, thời gian thực sự làm việc chỉ có thể là ngày 12 và 13 tháng 2).
***
Giữa cơn bão dư luận về chuyện xem xét – phong học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư, ông Nguyễn Tiến Dũng, Giáo sư của Đại học Toulouse – Pháp, lưu ý, việc thực thi yêu cầu của Thủ tướng Việt Nam không nên ngừng lại ở danh sách 1.226 tân Giáo sư và tân Phó Giáo sư của năm 2017 mà nên "rà soát" lại cả "tư cách" của những cá nhân mà hệ thống công quyền Việt Nam đã từng phong tặng học hàm "Giáo sư", "Phó Giáo sư".
Người đầu tiên Giáo sư Dũng đề nghị "rà soát" là ông Phùng Xuân Nhạ - Bộ trưởng Giáo dục Đào tạo, kiêm Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước.
Ông Dũng cho biết, tra trên Scopus và Google Scholar thì ông Nhạ chỉ có hai bài báo và vỏn vẹn một trích dẫn. Cả hai bài đều có những yếu tố "vô cùng bất thường" (viết chung, cùng đăng 2014, trên cùng một tạp chí tên là Asian Social Science, tạp chí này đã bị loại ra khỏi danh mục Scopus sau 2015 vì thuộc loại trả tiền để cậy đăng – từ 3.000 Mỹ kim đến 4.000 Mỹ kim - nhằm thỏa mãn nhu cầu của những người không được các tạp chí uy tín chọn đăng bài). Sau khi bỏ thời gian đọc cả hai bài của "Giáo sư" Nhạ, Giáo sư Dũng cho biết thêm, cả hai bài đều sai chính tả và ngữ pháp "từ đầu đến đuôi" và tính chất thì "giống một phân tích thống kê của một ‘phân tích viên’ (analyst kiểu MBA) hơn là công trình nghiên cứu khoa học của một giáo sư".
Tham gia góp ý song Giáo sư Dũng tin rằng sẽ chẳng thể tạo ra thay đổi nào. Ông chỉ hy vọng những vị lãnh đạo cao cấp, ít ra là Thủ tướng (người ra lệnh "rà soát") và ông Phó Thủ tướng phụ trách khoa học - giáo dục, biết thông tin này.
Giáo sư Dũng có lý khi tin sẽ chẳng thể tạo ra thay đổi nào. Kể cả khi ông Nguyễn Xuân Phúc - Thủ tướng và ông Vũ Đức Đam - Phó Thủ tướng phụ trách khoa học – giáo dục biết những thông tin mà Giáo sư Dũng cung cấp thì ông Nhạ vẫn là "Giáo sư".
"Rà soát" - tước bỏ học hàm "Giáo sư", "Phó Giáo sư" đối với những cá nhân không hội đủ các tiêu chuẩn mà người ta tin rằng ắt phải có như "Giáo sư" Nhạ sẽ rất phiền. Chẳng lẽ xử lý "Giáo sư" Nhạ mà lại không giải quyết "Giáo sư" Trọng và "Giáo sư" Quang ?
Tiểu sử của ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam mà hệ thống công quyền Việt Nam bày ra cho thấy, ông chỉ dính dáng tới giáo dục trong vòng một năm (từ 1998 đến 1999, khi làm Hiệu phó Đại học Khoa học xã hội – nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội). Năm 2002, khi đang là Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư Thành ủy Hà Nội, ông Trọng được phong hàm Giáo sư, chưa rõ của ngành nào.
Tiểu sử của ông Trần Đại Quang – Chủ tịch Nhà nước Việt Nam mà hệ thống công quyền Việt Nam bày ra cho thấy, trước khi trở thành Chủ tịch Nhà nước, ông Quang chỉ làm việc tại các trụ sở của ngành công an, không dính dáng gì tới giáo dục – đào tạo. Năm 2009, khi đang là Thứ trưởng Bộ Công an, ông Quang được phong hàm "Giáo sư", lĩnh vực "khoa học an ninh".
"Giáo sư" Trọng và "Giáo sư" Quang còn thua "Giáo sư" Nhạ ở chỗ không có bài viết, công trình nghiên cứu nào được đăng trên các tạp chí khoa học ngoại quốc, kể cả những tạp chí như Asian Social Science mà Giáo sư Dũng đã đề cập. Các bài viết, công trình nghiên cứu của họ chỉ xuất hiện trên Tạp chí Cộng sản và báo Nhân Dân. Thế thì đã sao ?
Từ khi công chúng Việt Nam nhận ra và bắt đầu dè bỉu về chất lượng của những học hàm "Giáo sư", "Phó Giáo sư", những học vị như Tiến sĩ,… người ta không thấy hệ thống công quyền và hệ thống truyền thông Việt Nam giới thiệu ông Trọng, ông Quang một cách trang trọng là "Giáo sư, Tiến sĩ" nữa, tuy nhiên đừng quên họ vẫn là các "Giáo sư". Thành ra "rà soát để bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn" của học hàm Giáo sư, Phó giáo sư nếu có thì cũng chỉ là từ nay trở đi mà thôi !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 12/02/2018
Ban Bí thư của Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam vừa quyết định cách chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam của ông Lê Phước Thanh.
Đường thăng tiến của ông Lê Phước Hoài Bảo. Đồ họa: Tạ Lư - Đắc Thành.
Điều đáng nói là ông Thanh đã nghỉ hưu hồi 2015 và quyết định cách chức chỉ nhằm tước bỏ một chức vụ mà ông Thanh… từng giữ trong giai đoạn từ 2011 đến 2016.
Lý do chính dẫn tới quyết định vừa kể là vì ông Thanh ngang nhiên nâng đỡ, giúp con trai thăng tiến nhanh như tên bắn, kể cả dùng công quỹ trả cho chuyện du học ngoại quốc của con trai sai nguyên tắc.
Chuyện con trai ông Thanh (Lê Phước Hoài Bảo), sau khi nhận văn bằng thạc sĩ, từ Mỹ trở về Việt Nam hồi 2012, được Ban Quản lý Khu Kinh tế mở Chu Lai nhận vào làm Phó phòng Xúc tiến đầu tư, năm sau được đề bạt làm Trưởng phòng, năm sau nữa được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch huyện Thăng Bình, rồi chưa tròn một năm được cất nhắc làm Phó Giám đốc Sở Kế hoạch – đầu tư tỉnh Quảng Nam và bốn tháng sau được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Kế hoạch – đầu tư tỉnh Quảng Nam… đã được dư luận bàn tán rôm rả cách nay gần ba năm (tháng 9 năm 2015). Song lúc đó, Bộ Nội vụ của chính phủ khẳng định như đinh đóng cột rằng quá trình tuyển dụng – điều động – bổ nhiệm ông Bảo là "đúng qui trình" !
Tại sao đến bây giờ Ban Bí thư mới thấy chuyện ông Thanh sử dụng hệ thống công quyền ở Quảng Nam để tạo điều kiện cho con trai của ông "luồn sâu, leo cao" là "vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc và các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ" ? Tại sao đến bây giờ Ban Bí thư mới thấy vi phạm của ông Thanh là "rất nghiêm trọng" và "ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng" ? Tại sao đến bây giờ Ban Bí thư mới nghe được "dư luận xấu trong cán bộ, đảng viên, nhân dân" ?
Chưa hết, có một khả năng tệ hơn là Ban Bí thư đã nghe, đã thấy nhưng mất gần ba năm mới nghĩ ra là các vi phạm của ông Thanh "rất nghiêm trọng" thì dường như Ban Bí thư có vấn đề "rất nghiêm trọng" về… trí lực. Không chậm trí thì chẳng cần nhiều thời gian để quyết định cần hành xử thế nào đối với những vấn đề thuộc loại "rất nghiêm trọng".
Ban Bí thư của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam – nơi tập trung những nhân vật là tinh hoa của tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối tại Việt Nam – mà như thế thì thật… đáng ngại !
***
Ông Thanh không phải là người đầu tiên bị tước bỏ chức vụ đã từng mang. Cho đến bây giờ, người ta vẫn chưa tìm thấy qui định nào của Đảng cộng sản Việt Nam, cũng như qui phạm pháp luật nào của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt định việc tước bỏ các chức vụ đã từng mang là một hình thức chế tài những sai phạm "rất nghiêm trọng".
Cá nhân đầu tiên bị xử lý bằng hình thức chế tài chưa từng có này là ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Công thương. Cuối năm 2016, ông Hoàng bị Ban Bí thư cách chức Bí thư Ban Cán sự Đảng bộ Công thương mà ông Hoàng đã thôi không còn giữ nữa. Đi theo con đường mà Ban Bí thư đã vạch ra, đầu năm 2017, Quốc hội "nhất trí" tước bỏ hàm Bộ trưởng của ông Hoàng lúc ông đã lãnh lương hưu.
Sau khi "mở hàng" với ông Hoàng, tháng 4 năm 2017, Ban Bí thư tước bỏ chức vụ Ủy viên Ban Cán sự Đảng bộ Tài nguyên - môi trường mà các ông Nguyễn Thái Lai và Bùi Cách Tuyến đã… từng mang từ năm 2011 đến 2016, chính phủ Việt Nam… mạnh dạn tước bỏ hàm Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – môi trường của ông Lai, ông Tuyến từng mang từ 2011 đến 2015. Tương tự, ông Võ Kim Cự bị tước bỏ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh mà ông ta đã mang từ 2005 đến 2015. Ngoài ra ông Cự còn bị tước bỏ chức vụ Phó Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh mà ông từng mang từ 2005 đến 2010 và chức vụ Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh mà ông từng mang từ 2010 đến 2015 !
Cuối năm 2017, Ban Bí thư soạn lại bổn cũ, tước bỏ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc từ 2010 đến 2015 của ông Phạm Văn Vọng khi ông Vọng đã giã từ quan trường để về "làm người tử tế"...
Nếu "mọi công dân bình đẳng trước pháp luật" như hiến pháp minh định thì tại sao không truy cứu trách nhiệm hình sự của những ông như : Lê Phước Thanh, Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Thái Lai, Bùi Cách Tuyến, Võ Kim Cự,… khi đã thừa nhận các sai phạm của họ "rất nghiêm trọng" (tuyển dụng – bổ nhiệm hàng loạt những người bất xứng khiến hệ thống công quyền hoạt động thiếu hiệu quả. Quyết định những đại dự án gây thua lỗ - thất thoát hàng chục ngàn tỉ. Sử dụng công quỹ, công thổ trái phép. Thiếu trách nhiễm dẫn tới việc Formosa gây ô nhiễm, hủy diệt môi trường ở vùng biển phía Bắc miền Trung, khiến cả trăm ngàn người điêu đứng, khốn cùng…) ?
Nếu "mọi công dân bình đẳng trước pháp luật" như hiến pháp minh định, chỉ lấy việc tước bỏ chức vụ, hàm mà một số cá nhân từng mang, hoặc "cảnh cáo", "khiển trách" một số cựu Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (Trần Lưu Hải - Phó Ban Tổ chức Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Huỳnh Minh Chắc - cựu Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang. Nguyễn Văn Thiện - cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Định), truy cứu trách nhiệm hình sự một cựu Ủy viên Bộ Chính trị (Đinh La Thăng – Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh)… để trấn an dân chúng rằng Đảng cộng sản Việt Nam đang tự "chỉnh đốn", chính phủ Việt Nam đang "hành động" thì nỗ lực đó có đủ sức trấn an nhân tâm ?
***
Tuy Đảng cộng sản Việt Nam cam kết "hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" nhưng cách hành xử trên thực tế cho thấy, tiêu chí "mọi công dân bình đẳng trước pháp luật" – nền tảng của "công bằng, dân chủ, văn minh" – chỉ là thứ yếu. Về mặt nhận thức, "lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" (Điều 4, Hiến pháp hiện hành) vẫn tự xem mình là giai tầng trên. Vì nhận thức như vậy, nên mới có lối xử lý các sai phạm "rất nghiêm trọng" bằng cách tước bỏ những chức vụ, hàm mà một cá nhân thuộc giai tầng này đã từng mang. Không có xứ sở nào hướng tới "công bằng, dân chủ, văn minh" lại xử lý các sai phạm "rất nghiêm trọng" theo kiểu như vậy cả. Kiểu xử phạt bằng cách tước bỏ chức vụ, hàm đã từng mang chỉ xảy ra dưới các vương triều thời phong kiến đối với giới quý tộc.
Về mặt nhận thức, vì "lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" vẫn tự xem mình là giai tầng trên nên với họ, xử lý kỷ luật Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào cũng đã là rất đáng để khoe như một nỗ lực tột bật.
Để giúp phân biệt một người đã thôi đảm nhiệm chức vụ nào đó với người đang tại nhiệm, người Việt gán chữ "cựu" trước chức vụ mà ai đó đã từng đảm nhiệm. Dường như nghĩ rằng dùng "cựu" không… sang, trong năm, bảy năm vừa qua, cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống truyền thông tại Việt Nam được hướng dẫn thay "cựu" bằng "nguyên" cho… trang trọng !
"Nguyên" thì dù đã thôi phục vụ nhưng vẫn còn vô số đặc quyền, đặc lợi. Nếu không có thay đổi vào giờ chót, các "nguyên" sẽ có một chỗ trong Nghĩa trang Yên Trung trị giá 1.400 tỉ ở huyện Thạch Thất, Hà Nội. Đó là lý do "lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" xem việc tước bỏ những chức vụ, hàm mà một viên chức cao cấp đã từng mang là thỏa đáng.
Có một điểm cần nhấn mạnh là cứ theo lối hiểu, lối hành xử hiện nay của "lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" thì ông nào trong số các ông đã kể tên ở phần trên của bài viết này cũng có thể lên loại xe "một chỗ nằm, tám chỗ ngồi" trực chỉ Nghĩa trang Yên Trung. Dù bị tước bỏ chức vụ này, hàm kia, bị "khiển trách", "cảnh cáo" nhưng họ vẫn còn là "nguyên" này, "nguyên" kia. Ông Thanh, ông Hoàng, ông Cự, ông Hải, ông Chắc, ông Thiện, kể cả ông Thăng vẫn còn là "nguyên Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam". Ai dám bảo "nguyên Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam" không phải là cán bộ cao cấp ?
"Công bằng, dân chủ, văn minh" đến thế là cùng ! Tuy nhiên để thiên hạ khỏi lầm lẫn giữa khái niệm chung với "tiêu chí riêng của Việt Nam", nhớ bỏ sáu chữ này trong… ngoặc kép !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 07/02/2018