Tháng Tám năm 2017, lần đầu tiên từ thời điểm "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", đã diễn ra một sự kiện rất đặc biệt và hoàn toàn chưa có tiền lệ : Bộ sách Lịch sử Việt Nam - đã "nhìn nhận công lao nhà Mạc cùng chúa Nguyễn và các vương triều nhà Nguyễn, không gọi chính quyền Việt Nam cộng hoà là ngụy quân, ngụy quyền như trước, chỉ đích danh quân Trung Quốc xâm lược Việt Nam...".
Bộ sách sử mới của Việt Nam, do Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam biên soạn, 18/8/2017
Tin tức trên được báo Tuổi Trẻ đăng ngày 18/8/2017.
"Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam"
Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, nguyên viện trưởng Viện sử học, chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam, đã trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ với một nội dung đáng chú ý : "Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam… Trước đây, khi nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, mọi người vẫn hay gọi là ngụy quân, ngụy quyền. Nhưng chúng tôi từ bỏ không gọi theo cách đó mà gọi là chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn. Lịch sử phải khách quan, phải viết thế nào để mọi người chấp nhận".
Diễn giải của ông Trần Đức Cường cũng là phát ngôn đầu tiên, hoặc đã có nhưng rất hiếm hoi, của một quan chức bậc trung về "Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam", dù được báo Tuổi Trẻ cẩn trọng giải thích là "bên lề buổi giới thiệu sách…", tức có thể hiểu là phát ngôn này không phải được phát ra trên diễn đàn chính thức.
Bằng chứng quá rõ về tính hiếm hoi trên là kể từ Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị đảng cầm quyền về "thực hiện công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài" từ năm 2003, kèm theo chủ trương "hòa hợp hòa giải dân tộc", chỉ đến năm 2015 mới le lói một cách nhìn ngấm ngầm trong nội bộ đảng về "thực thể Việt Nam Cộng Hòa", nhưng từ đó đến nay lại chưa có một phát ngôn chính thức nào của giới quan chức về điều này, càng không có bất kỳ đảng văn hay văn bản pháp quy nào đề cập đến vấn đề được xem là rất nhạy cảm chính trị này. Trong thời gian đó, hệ thống tuyên truyền của tuyên giáo đảng và công an vẫn sắt máu duy trì cụm từ "ngụy quân ngụy quyền", đặc biệt thể hiện trên các diễn đàn của giới dư luận viên, tuy mật độ nhắc đến cụm từ này có thuyên giảm đôi chút.
Nhưng dù "thực thể Việt Nam Cộng Hòa" không hoặc chưa phải là phát ngôn hay chủ trương được chính thức công bố, hiện tượng bộ sách Lịch sử Việt Nam không còn xem Việt Nam Cộng Hòa là "nguỵ quân ngụy quyền" vẫn là một sự xác nhận gián tiếp về tính chủ trương chưa được công bố, cùng lúc được "bật đèn xanh" từ một cấp trên nào đó.
Vậy "cấp trên" đó là cơ quan nào ? Là ai ?
Ai và vì sao ?
Thông thường và theo "đúng quy trình", người ta nghĩ ngay đến Ban Tuyên giáo trung ương. Còn "cao" hơn nữa chỉ có thể là Ban Bí thư hoặc Tổng bí thư.
Thế nhưng điều trớ trêu là từ trước đến nay, hầu hết phát ngôn công khai của giới chóp bu Việt Nam, từ Tổng bí thư Trọng trở xuống Trưởng ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng, hay các quan chức cấp cao khác…, đều chưa từng xác nhận "thực thể Việt Nam Cộng Hòa".
Dấu chỉ duy nhất về "hòa hợp dân tộc" liên quan đến Tổng bí thư Trọng được tiết lộ chỉ là việc vào đầu năm 2017, nhân vật này đã "gật" với đề xuất của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Hữu Thỉnh về "mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người đã cầm bút phục vụ chế độ cũ, về dự ‘Hội nghị hòa hợp dân tộc’ dịp giỗ tổ Hùng Vương".
Chưa có bằng chừng nào để khẳng định rằng Nguyễn Phú Trọng là người chủ xướng cho hội nghị đặc biệt trên, trong khi từ đó tới nay ông Trọng còn phải "căng mình" đối phó với đủ thứ chuyện đấu đá trong nội bộ đảng cùng nhiều mầm mống khủng hoảng kinh tế và xã hội. Và cả với cuộc khủng hoảng đối ngoại mới nhất mang tên "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh"…
Cần nhắc lại, "Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học" đã phải gánh chịu một thất bại - một phá sản cay đắng. Ngay sau khi ông Hữu Thỉnh phát ra tuyên bố về này, khắp các diễn đàn trong nước và đặc biệt ở hải ngoại đã phản ứng như sóng lừng. Rất nhiều ý kiến của nhà văn, nhà báo hải ngoại cho rằng sự kiện này về thực chất chỉ mang tính "cuội". Họ tung ra một câu hỏi quá khó để trả lời rằng Nghị Quyết 36 của Bộ Chính Trị về "công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài" đã ra đời mười mấy năm trước mà hầu như chưa làm được gì cả, nhưng tại sao đến nay mới sinh ra mới cái cử chỉ như thể "chiêu dụ người Việt hải ngoại" như thế ?
Nhiều ý kiến từ hải ngoại cũng thấu tim gan "đảng quang vinh" về chuyện suốt từ năm 1975 đến nay, đảng chỉ quan tâm đến "khúc ruột ngàn dặm" nhằm hút đô la "làm giàu cho đất nước" càng nhiều càng tốt, nhưng ai cũng hiểu là không có đô la thì chế độ không thể nào tồn tại.
Nhưng lại quá hiếm trường hợp trí thức của "khúc ruột ngàn dặm" được đảng ưu ái tạo cho đất dụng võ ở quê nhà. Sau hơn bốn chục năm "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", vẫn còn quá nhiều cảnh kỳ thị của nhà cầm quyền Việt Nam đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ hải ngoại. Nhiều trí thức hải ngoại ôm mộng trở về Việt Nam để "cống hiến", nhưng cuối cùng đã phải chua chát biệt ly khỏi "vòng tay của đảng". Nếu tạm gác lại nhu cầu đô la, "khúc ruột ngàn dặm" đã chẳng có gì khác hơn là "ruột dư"…
Một câu hỏi "day dứt" khác : tại sao không phải những năm trước mà đến năm nay - 2017 - đảng mới lấp ló xác nhận gián tiếp về "thực thể Việt Nam Cộng Hòa" ?
Sự thật quá hiển nhiên là giờ đây, tình trạng chính trị và kinh tế của đảng cầm quyền là khó khăn hơn bao giờ hết. Sự bế tắc gần như toàn diện như thế đã khiến đang manh nha phát sinh một luồng tư tưởng cùng một số quan chức buộc phải nghiêng dần theo xu hướng "cải cách". Trong những "cải cách" đó, lần đầu tiên từ sau năm 1975 đã bộc lộ tín hiệu có vẻ đôi chút thực chất về "lấy lòng người Việt hải ngoại".
Kể cả làm thế nào để đạt được một thâm ý sống còn hơn hết thảy : cộng đồng người Việt ở các quốc gia, đặc biệt ở Mỹ, sẽ "để yên" cho nhiều quan chức và thân nhân quan chức Việt Nam ung dung rửa tiền, mua sắm nhà cửa, kinh doanh và hưởng thụ cuộc sống ở xứ sở tượng trưng cho lối thoát, nếu tình hình trong nước "có biến" ?
"Những người lính ở phía bên kia chiến tuyến"
Nằm trong khoảng giữa của "hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học" tháng 4/2017 và bộ sách giáo khoa Lịch sử Việt Nam tháng 8/2017, lễ kỷ niệm "Ngày thương binh liệt sĩ 27/7" năm 2017 lại có cái gì đó là lạ…
Ngày 25/7/2017, tại Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, Quỹ Mãi mãi tuổi 20… tổ chức hội thảo khoa học "Những bức thư thời chiến với truyền thống và văn hóa dân tộc".
Điểm nhấn của cuộc hội thảo trên là nhà văn Lê Thị Bích Hồng tìm được ở những lá thư thời chiến tinh thần và khát vọng hoà hợp dân tộc của những người lính "Việt cộng" và cả những người lính Việt Nam Cộng hòa "phía bên kia".
Báo chí nhà nước bình luận : Khát vọng hòa hợp dân tộc, góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh cũng là động lực để nhà văn Đặng Vương Hưng đưa vào tuyển tập những lá thư thời chiến của những người lính ở phía bên kia chiến tuyến.
Khác với một số lần "trình diễn" trước với cụm từ "chế độ cũ", lần này có đôi chút "cách tân" hơn khi cuộc hội thảo trên và được báo chí nhà nước đưa tin đã lấp ló cụm từ "Việt Nam Cộng Hòa" như một hàm ý thừa nhận chế độ chính trị ở miền Nam trước năm 1975.
Chỉ sau hội thảo trên một ngày, Đài truyền hình Việt Nam như thể "vô tình" phát hình ảnh những người lính Việt Nam Cộng Hòa và lính quân giải phóng lồng với nhau, nhân kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ 27/7…
Một tiền đề "tự chuyển hóa" ?
Tháng Tám năm 2017. Hiện tượng bộ sách Lịch sử Việt Nam gián tiếp xác nhận "thực thể Việt Nam Cộng Hòa" có thể được xem là một sự kiện lịch sử, và có thể là một tiền đề dẫn đến một giai đoạn "tự chuyển hóa" về quan điểm chính trị của đảng, hay nói chính xác hơn là bắt đầu từ một bộ phận nào đó của đảng cầm quyền. Tiến trình chuyển đổi này có thể nhanh hơn hoặc tăng tốc vào năm sau - 2018.
Ngân sách đang hiện ra nhiều dấu hiệu cạn kiệt nhanh khó lường. Trong tình thế hầu hết các nguồn "ngoại viện" đều đóng cửa, không "tự chuyển hóa" thì đảng thì đảng sẽ... hy sinh.
Bối cảnh của thái độ dần thừa nhận "khúc ruột ngàn dặm" lại đậm đà dấu ấn "thu nhập ngân sách" : sau 23 năm tăng trưởng liên tục, lượng kiều hối do "kiều bào ta" gửi về Việt Nam đã sụt giảm nặng nề vào năm 2016, chỉ còn 9 tỷ USD so với 13,5 tỷ USD của năm 2015. Vào nửa đầu của năm 2017, lượng kiều hối thậm chí còn "suy thoái tư tưởng" ghê gớm hơn, đến mức cho tới thời điểm này Tổng cục Thống kê còn không dám công bố con số kiều hối về Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2017.
Trong khi đó, một dự báo của Trung tâm nghiên cứu Pew của Mỹ còn cho thấy trong năm 2017 này, lượng kiều hối về Việt Nam có thể chỉ còn 5,4 tỷ USD. Tức "tụt hậu" đến chẵn một thập kỷ…
Một bài toán quá khốn quẫn đang dựng đứng : nếu không thu hút được đủ nhiều kiều hối của "kiều bào ta", chính phủ đào đâu ra ngoại tệ mạnh để bù đắp hố nhập siêu đến năm chục tỷ đô la từ Trung Quốc và trả nợ nước ngoài hàng chục tỷ Mỹ kim mỗi năm ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 21/08/2017
"Hưng - Diệt"
Đã biệt tích những nét thuần phác nên thơ, Hà Nội giờ đây chỉ còn là nơi cư trú của chủ nghĩa tư bản dã man và một chảo lửa chính trị sẵn sàng thiêu đốt bất cứ kẻ nào sa chân.
Trần Đại Quang, hình chụp tháng Năm, 2016.
Năm Mười Bảy… Không chỉ ông Đinh Thế Huynh - nhân vật số 2 trong đảng và có thể là quyền lực thứ 5 trong Bộ Chính trị - vắng bóng suốt từ đầu năm 2017 đến giờ, mà cả ông Trần Đại Quang - nhân vật số 2 trong Bộ Chính trị - cũng vắng mặt một cách đầy khó hiểu và khó nghĩ từ cuối tháng Bảy đến nay…
Một ít hạt sương buổi sớm còn đọng lại đang bị thay thế cấp tốc bởi những gì mà dân gian truyền tụng về quy luật "Sinh Lão Bệnh Tử" cho đời người và "Hưng - Diệt" của các triều đại bắt buộc phải đóng lại cứ mỗi khi lịch sử sang trang.
"Sức khỏe lãnh đạo" - một chủ đề đột ngột bùng phát và gây nghi ngờ lớn trong công luận trong những ngày gần đây - đã gần như chính thức hình thành một cơn "khủng hoảng lãnh đạo" trong nội bộ đảng cầm quyền, nối tiếp một cách đầy "linh cảm" từ hai cơn khủng hoảng ngay trước đó là "khủng hoảng Đồng Tâm" và "khủng hoảng Việt - Đức".
Khủng hoảng năm Mười Bảy
Chỉ có thể so sánh năm 2017 với hai giai đoạn biến động lớn về nội trị là những năm 1985 - 1986 với cơn bão giá - lương - tiền khi lạm phát phi mã đến gần 700% khiến xã hội và đời sống người dân khốn đốn, và giai đoạn 1990 - 1991 sau khi Liên Xô sụp đổ đã tạo hiệu ứng một trận sóng cồn đòi dân chủ và đa nguyên trong đời sống chính trị Việt Nam.
Nhưng khác với hai giai đoạn trên, những cơn khủng hoảng đất đai và nội bộ đảng chỉ xuất hiện trong những năm gần đây và đang hoan ca với nhau lên đỉnh cao trào.
Vào giai đoạn những năm 2005 - 2008 khi làn sóng khiếu kiện tố cáo về đất đai bùng nổ, tỷ lệ đơn thư khiếu nại tố cáo về đất đai đã chiếm đến 70% hoặc hơn trong tổng số đơn thư mà người dân gửi đến các cơ quan công quyền. Nhưng trong vài năm gần đây, tỷ lệ đó đã vọt đến 95%, quá đỗi xứng đáng để vấn đề đất đai trở thành một cuộc khủng hoảng cực lớn trong hiện tại và tương lai gần, nhất là khi "đảng và Nhà nước ta" vẫn khư khư ôm giữ bản hiến pháp về "sở hữu đất đai toàn dân" mà không hề có ý định công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai cho tuyệt đại đa số dân chúng.
5 năm trước, vụ Đoàn Văn Vươn và gia đình dùng mìn và súng tự tạo chống đoàn cưỡng chế ở Tiên Lãng, Hải Phòng đã được xem là ghê gớm về mức độ phản kháng của người dân đối với chính quyền. Nhưng vào năm Mười Bảy, "khủng hoảng Đồng Tâm" đã vượt trên tất cả những hành động phản kháng trong quá khứ để trở thành một sự đối đầu, đối kháng sinh tử không chỉ giữa cá nhân với nhà cầm quyền mà là bởi một tập thể đông đảo người dân mất đất với chế độ toàn trị.
2017 cũng là năm đang biến diễn dày đặc nhất những cuộc khủng hoảng đa dạng và hơn tất cả những năm trước, cuộc khủng hoảng nào cũng như thể đóng dấu "Vong Diệt" cho đoạn cuối của một triều đại.
Điều đáng mỉa mai là không bao lâu sau khi Bộ Ngoại giao và Chính phủ Việt Nam hãnh diện tổng kết về những thắng lợi trong thời kỳ "ngoại giao đa phương hóa", hệ thống tuyên giáo và các tờ báo đảng tiếp tục tô hồng cho thành tích chưa từng có của Việt Nam trên trường quốc tế, trong khi dư chấn của trận động đất mang tên Đồng Tâm còn rung bần bật, cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức - Việt đã nổ ra ở một chiều kích khó ngờ : bắt cóc.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng Đức - Việt rất có thể là căn bệnh báo cáo quá thiên về thành tích và tầm - tâm dự báo phản ứng đang chìm sâu tận đáy của các cơ quan ngoại giao, an ninh và tình báo Việt Nam. Ba tháng sau "khủng hoảng Đồng Tâm" mà nói theo tục ngữ dân gian "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ", não trạng của hệ thống "thi hành công vụ" Việt Nam vẫn như đồng hóa hành động đàn áp dân chúng trong nước với bắt cóc ở nước ngoài làm một. Não trạng đó, cộng với tâm lý xu nịnh bợ đỡ đã ăn sâu vào cốt tủy từ dưới lên trên, hẳn đã khiến không thể toát ra một báo cáo nào dự báo phía Đức sẽ phản ứng mạnh sau vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" mà có thể kéo theo cả một hệ thống các nước châu Âu quay lưng với "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Rồi cứ như một thứ "điềm", những cuộc khủng hoảng lại nối đuôi nhau cùng lao tới cơn "khủng hoảng lãnh đạo".
Nhưng "khủng hoảng lãnh đạo" vẫn chỉ là một cụm từ thuần túy chính trị học. Không ít dư luận từ lâu nay đã gọi thẳng tên của nó : khủng hoảng nội bộ đảng.
Nơi chính trường bình yên trong ác mộng
Mầm mống rõ nhất của cơn "khủng hoảng nội bộ đảng" đã hiện ra từ năm 2012 với "nước mắt Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng rơi vào lịch sử" - như một bợ đỡ vừa ẩn dụ vừa lộ liễu của một người bị nhiều dư luận xem là "bút nô của đảng" khi đề cập lại cuộc chiến với Nguyễn Tấn Dũng.
Hai năm sau đó, lần đầu tiên xã hội Việt Nam được chứng kiến một cái chết "công khai" : Nguyễn Bá Thanh. Quá nhiều nghi ngờ của dư luận về thực chất cái chết của ông Thanh.
Nhưng Nguyễn Bá Thanh khi đó mới chỉ là ủy viên trung ương. Còn vấn đề "sức khỏe lãnh đạo" đang bị quá nhiều dư luận nghi vấn và đồn đãi về giai đoạn tận cùng của nó đã lên đến cấp ủy viên bộ chính trị. Không những thế, cả hai ông Đinh Thế Huynh và Trần Đại Quang còn được xem là những ứng cử viên cho chức tổng bí thư đảng vào kỳ lúc nào ông Nguyễn Phú Trọng quyết định "hạ cánh".
Năm Mười Bảy. Vụ "sức khỏe lãnh đạo" là lần thứ ba liên đới mật thiết đến bí ẩn cung đình giới lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, sau vụ "tau khỏe mà, có chi mô" của cố trưởng ban nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh vào cuối năm 2014 và vụ "tướng chữa bệnh Phùng Quang Thanh" vào giữa năm 2015.
Hiện tượng thông tin hỗn tạp và ngày càng nhiễu loạn về quan chức lãnh đạo cao cấp lại phát tín hiệu báo trước một sự biến động nào đó đủ lớn trong nội bộ đảng.
Vào cuối năm 2014, quá trình truy tìm sự thật về căn bệnh ung thư của ông Nguyễn Bá Thanh đã dẫn đến một cuộc chạy đua dữ dằn cùng kết cuộc Hội nghị trung ương 10 về "bỏ phiếu thăm dò tín nhiệm tổng bí thư" với kết quả Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về đầu bảng.
Giữa năm 2015, vụ Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh "mất tích tại Paris" đã mở màn cho một cuộc chiến quyền khốc khốc liệt trong đảng, kéo dài đến tận khi kết thúc Đại hội 12 của đảng cầm quyền với sự ra đi của ông Nguyễn Tấn Dũng và chiến thắng tuyệt đối của ông Nguyễn Phú Trọng.
Năm Mười Bảy…
Sẽ còn những ai nữa bất an về sức khỏe và bất định về tâm thần ?
Bất chợt hồi tưởng về Yuri Andropov và Konstantin Chernenko - những nhà lãnh đạo đã quá cố trước khi Liên Xô tan rã…
Tiếp sau các cuộc khủng hoảng Đồng Tâm và ngoại giao Đức - Việt, hiện tượng "sức khỏe lãnh đạo" - đang dần tròn trịa cái cơ thiên "Sinh Lão Bệnh Tử" - có thể khiến luồng vận động chính trường Việt Nam lao đến những biến động nào ?
Hay con sóng dữ nào - nơi chính trường bình yên trong ác mộng…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 16/08/2017
‘Bắt Bắc Hà’ không chỉ là tin đồn…
Mà còn có cơ sở.
Hơn cả thế, là "cơ sở thực tiễn" - nói theo ngôn từ rất ưa thích của giới chóp bu Việt Nam.
"Cơ sở thực tiễn" ấy không phải xuất phát từ vài ba nhà đầu tư nhỏ lẻ hay "tay to" muốn trục lợi trong thị trường chứng khoán xanh đỏ mỗi ngày, mà từ… nhà báo Huy Đức.
Chủ tịch ngân hàng BIDV Trần Bắc Hà bắt đầu nghỉ hưu từ ngày 1/9 sau 35 năm công tác
"Cây bút tín hiệu"
Ngày 9/8/2017, Huy Đức "ngẫu hứng" đăng một status trên facebook của ông với tựa đề vỏn vẹn "Bắc Hà". Tuy chẳng viết gì về chuyện ông Trần Bắc Hà - cựu chủ tịch hội đồng quản trị của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển - bị công an bắt hoặc có thể bị bắt, Huy Đức chỉ mô tả kèm hình ảnh "Trong bức ảnh này (Bogaya, Ấn Độ), khi xếp bằng dưới gốc bồ đề nơi được cho là phật tổ từng ngồi, Bắc Hà (phải cùng) là người duy nhất có dáng điệu rúm ró khác thường. Đây là giai đoạn mà ở quốc gia này, Bắc Hà chỉ "dưới Ba Dũng" và hách dịch với phần còn lại, vậy nhưng khi đối diện với thần linh nhìn ông ta vô cùng sợ hãi." Cùng ngày, chỉ số chứng khoán Việt Nam lao dốc đến hơn 2%.
Huy Đức không chỉ là tác giả của "Bên thắng cuộc" vào thời gian năm 2013, mà từ cuối năm 2015 đến nay còn nổi tiếng ở một khía cạnh khác : nhà báo này được một số dư luận xem là "tín hiệu" cho những cuộc kỷ luật hoặc bắt bớ trong nội bộ.
Vào tháng 10/2015 - gần 3 tháng trước khi diễn ra đại hội 12, cây viết Huy Đức đã tung lên mạng xã hội bài "Em vợ thủ tướng & siêu lừa Dương Thanh Cường", mổ xẻ chi tiết về vợ chồng tướng công an Trần Quốc Liêm - em vợ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - mà Huy Đức xem là "mắt xích" quan trọng nhất trong vụ án Dương Thanh Cường (lừa đảo ngân hàng Agribank 966 tỷ đồng). Sau đó, người ta chứng kiến Thủ tướng Dũng phải làm bản giải trình 12 điểm cho Bộ Chính trị, rồi "rớt đài" đau đớn tại Đại hội 12. Từ sau đại hội 12 đến nay, không biết tướng Liêm ở đâu. Thậm chí có luồng thông tin cho rằng ông Liêm đã hoàn toàn "mất tích".
Vào tháng 9/2016 và ngay trước Hội nghị trung ương 4, Huy Đức lại có bài ‘THANH hay THĂNG’ trên blog Ba Sàm. Đây là một bài báo rất đáng chú ý, xét về tính tín hiệu chính trị cho cuộc thanh trừng trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây lần đầu tiên Huy Đức đề cập trực tiếp với chiều sâu về nhân vật Đinh La Thăng - khi đó là Ủy viên bộ chính trị và Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Huy Đức kết luận trong bài ‘THANH hay THĂNG’ : "Thanh – Thuận, cho dù tội trạng tày đình cũng chỉ là kẻ thừa hành. PVC chưa phải là mất mát đau nhất ở PViệt Nam dưới thời Đinh La Thăng ; di sản của ông ta sau 5 năm ở đây chỉ có thể nói là "tan hoang". Nếu các cơ quan pháp luật muốn làm tới nơi thì quy mô của vụ án không chỉ "xảy ra ở PVC" mà là ở PVN, vấn đề không phải là Thuận hay Thanh mà là Thăng".
Có thể hình dung, bài viết trên đã hướng Cơ quan điều tra C46 của Bộ Công an sang một "quy trình" mới : PViệt Nam (Tập đoàn Dầu khí quốc gia).
Nhưng có vẻ vào tháng 9/2016, Huy Đức đã bị "việt vị". Hội nghị trung ương 4 trôi qua buồn tẻ và chẳng hề xuất hiện hồ sơ nào của Vũ Đức Thuận, còn vị thế của Đinh La Thăng vẫn nguyên vẹn.
Phải đến tháng 5/2017, tại Hội nghị trung ương 5, Huy Đức mới toại nguyện khi Đinh La Thăng bị "đá" khỏi Bộ chính trị và chức vụ bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, cùng lúc nhân vật này bị "nhốt quyền lực vào lồng" - theo cách nói sính dùng của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng - tại Ban Kinh tế trung ương cùng với Nguyễn Văn Bình - cựu thống đốc Ngân hàng nhà nước và cũng là người được xem là trợ thủ đắc lực của Nguyễn Tấn Dũng thời ông Dũng còn là thủ tướng.
Đầu tháng 8/2017, Huy Đức lại là nguồn tin đầu tiên phát tín hiệu "bắt Trầm Bê". Trầm Bê là một đại gia ngân hàng, người được xem là "tay hòm chìa khóa" của nhóm Nguyễn Tấn Dũng - Nguyễn Văn Bình.
Còn lúc này là Trần Bắc Hà…
Trục "Nguyễn Văn Bình - Trần Bắc Hà" ?
Trần Bắc Hà cũng được xem là một đại gia ngân hàng. Nhưng hơn cả thế, ông Hà được cho rằng có mối quan hệ rất "đặc biệt" với Nguyễn Văn Bình thời ông Bình còn là thống đốc Ngân hàng nhà nước. Nói cách khác, có thể ví trục Nguyễn Văn Bình - Trần Bắc Hà với trục Nguyễn Tấn Dũng - Trầm Bê.
Một sự trùng hợp đáng điên đảo đối với ông Trần Bắc Hà là vào tháng Tám này - thời điểm có "tin đồn" ông Hà bị bắt, lại "ứng" với tháng Tám năm 2012 khi một đại gia ngân hàng là Bầu Kiên bị bắt thật, khiến thị trường chứng khoán lao dốc không phanh trong suốt mấy phiên.
Vào buổi sáng ngày 9/8/2017, mặc dù một quan chức (giấu tên) của Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) đã giải thích với báo chí rằng không có chuyện bắt ông Trần Bắc Hà, nhưng cái cách mà chỉ số chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục lao dốc đến hết ngày hôm đó đã cho thấy "tin đồn" diễn biến theo cách không có lửa sao có khói.
Trước khi bị bắt vào năm 2012, Bầu Kiên cũng vài lần bị "tin đồn", và cũng có quan chức đứng ra thanh minh "không có chuyện bắt ông Nguyễn Đức Kiên".
Ngay trước khi Trầm Bê bị bắt vào đầu tháng 8/2017, cũng có tin ngoài lề cho biết "Trầm Bê đã thoát".
Điểm tương trùng với sự kiện bắt Bầu Kiên năm 2012 là vào ngày 9/8/2017 khi chỉ số chứng khoán lao dốc, đã không có hiện tượng những nhà đầu tư nào đó cố ý tung tin đồn để trục lợi bằng hành vi "gom hàng giá thấp".
Chiến dịch được tuyên truyền là "chống tham nhũng" của Tổng bí thư Trọng đang phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu. Một trong những nhân vật được dư luận cho rằng nằm trong "vây cánh Nguyễn Tấn Dũng" mà sẽ bị ông Trọng "tỉa từng người một" là đương kim ủy viên bộ chính trị Nguyễn Văn Bình.
"Nguy cơ mất chế độ, mất Đảng chứ không phải chuyện đùa"
Ba ngày trước khi xuất hiện "tin đồn" ông Trần Bắc Hà bị công an bắt, vào chiều ngày 6/8, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có một cuộc tiếp xúc với cử tri quận Tây Hồ. Tại đây, khi nói về vấn đề chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, lần đầu tiên ông Trọng tán thán "Dư luận bức xúc lắm, nguy cơ mất chế độ, mất Đảng chứ không phải chuyện đùa".
Vào những năm 2011 - 2012, Tổng bí thư Trọng mới chỉ lo ngại về "sự tồn vong của chế độ", liên quan đến tham nhũng.
Giờ đây, "cây bút tín hiệu" Huy Đức có lẽ đang báo trước một "điềm", nếu không phải xấu thì cũng chẳng tốt lành gì, dành cho ông Trần Bắc Hà, dù ông đã lui về hưu trí từ năm ngoái.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 14/08/2017
Chuyến công du Mỹ bất ngờ của Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch có được "lập trình" trước hay chỉ là một sự kiện mà logic "cầu viện" đương nhiên của nó phải xảy ra sau vụ Bãi Tư Chính ? Chuyến đi này liệu có với tới kết quả thực chất nào ?
Đai sứ Mỹ Ted Osius gặp Đại tướng Việt Nam Ngô Xuân Lịch, Hà Nội ngày 26/7/2017. (Ảnh : dcsvn)
"Cầu viện" ?
Chỉ một tuần sau cuộc gặp "xã giao" nhưng hàm chứa đầy ẩn ý tại trụ sở Bộ quốc phòng vào chiều 26/7/2017 giữa Bộ trưởng Bộ quốc phòng Ngô Xuân Lịch với Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius, đã xuất hiện tin tức chính thức trên mặt báo đảng về việc tướng Lịch sẽ thăm Hoa Kỳ từ ngày 7 - 10/8/2017. Dự kiến tướng Ngô Xuân Lịch sẽ hội đàm với Bộ trưởng James Mattis, hội kiến lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ và quân đội Hoa Kỳ.
Cần nhắc lại, cuộc gặp "xã giao" giữa Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch với Đại sứ Ted Osius diễn ra chỉ vài ngày sau vụ nhiều nguồn tin quốc tế và trong nước cho biết trước sức ép của Trung Quốc, vào ngày 24/7/2017, chính quyền Việt Nam đã phải yêu cầu ngừng hoạt động thăm dò khí đốt của Repsol - một công ty Tây Ban Nha liên doanh với Việt Nam - ngay tại Bãi Tư Chính luôn được xem là "thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam".
Cuộc gặp trên, dù chỉ được báo đảng mô tả là "tiếp xã giao", nhưng lại "vô tình" trùng hợp với tin tức quốc tế cho biết sau khi Bắc Kinh đe dọa sẽ tấn công một số căn cứ quân sự của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam cho phép Repsol tiếp tục khoan thăm dò dầu khí, phía Việt Nam đã cấp tốc liên lạc với Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội - như một hành động "cầu viện" - nhưng đã không nhận được câu trả lời.
Chỉ sau đó ít ngày, có tin một phái bộ quân sự Mỹ đã đáp máy bay xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Cùng lúc, một cựu quan chức ngoại giao là ông Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hà Lan, hiện là viện phó Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Phát Triển Của Việt Nam VIDS, trong một cuộc trả lời phỏng vấn mới đây với đài RFA Việt ngữ đã "xác nhận" vài thông tin mà đã được dư luận râm ran trước đó : "Rất đáng để ý, có thể nói là khúc quanh mới trong quan hệ Việt - Mỹ, cũng là đợt sóng ngầm tương đối dữ dội trong địa chính trị khu vực. Năm này và trong bối cảnh này là có nhiều chuyển động trong quan hệ Việt - Mỹ mà trước đây một vài năm chúng ta không thể hình dung được. Ví dụ chuyện tập trận, chuyện hạm đội Mỹ sẽ vào Cam Ranh.."..
Cam Ranh ?
Trùng với thời điểm diễn ra cuộc gặp Ngô Xuân Lịch - Osius và nhận định của ông Đinh Hoàng Thắng trên RFA Việt ngữ vào cuối tháng 7/2017, báo Quân Đội Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của Bộ quốc phòng, trong bài "Kiên định đường lối đối ngoại quốc phòng độc lập, tự chủ", đã nêu ra một nội dung đáng chú ý (đoạn gạch dưới) :
"Chính sách quốc phòng của Việt Nam đã nêu rõ : Việt Nam chủ trương không cho bất cứ quốc gia nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Chính phủ Việt Nam đã khẳng định không cho nước ngoài thuê cảng Cam Ranh làm căn cứ quân sự hay căn cứ hậu cần-kỹ thuật. Tuy nhiên, Việt Nam hoan nghênh tàu, thuyền quốc tế ghé đậu và sử dụng dịch vụ hậu cần-kỹ thuật tại đây. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn…".
Nội dung (gạch dưới) trên có vẻ được công khai một cách hiếm hoi từ trước đến nay trên mặt báo đảng.
Một lần nữa kể từ năm 2012 khi Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Leon Panetta thăm Canh Ranh, cảng quân sự có thể khống chế đến 2/3 Biển Đông lại được Việt Nam đặt lên bàn ngã giá với Hoa Kỳ.
Xem ra, cùng với chuyến thăm Mỹ đã được "lập trình" của tướng Ngô Xuân Lịch, xác suất hạm đội Mỹ "thăm" cảnh Cam Ranh như dự báo của ông Đinh Hoàng Thắng là không quá thấp.
Nhân quyền
Tướng Lịch đã đi Mỹ thay cho tướng Vịnh.
Bởi vào tháng Ba năm nay, sau khi chính phủ Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử bắn ý "Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẵn sàng đi thăm Mỹ", ông Murray Hiebert - cố vấn cao cấp, Phó giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) của Mỹ, cho biết sau chuyến đi Mỹ của ông Phúc sẽ diễn ra một chuyến đi Mỹ khác vào tháng 7/2017 của Thứ trưởng bộ quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, liên quan đến hợp tác quân sự Việt - Mỹ. Tuy vậy, cho tới nay vẫn chẳng có bất kỳ thông tin nào về chuyến đi này.
Vì sao thế ?
Nhìn lại năm 2014, khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam, hầu hết các "đối tác chiến lược" của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp. Khi đó, Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Đô đốc Samuel Locklear, đã gợi ý vẫn còn cửa cho "đối tác chiến lược toàn diện" giữa Mỹ và Việt Nam, hàm ý rằng Việt Nam cần rõ ràng và dứt khoát hơn trong mối quan hệ quân sự với Mỹ chứ không thể đeo bám chính sách "đu dây" nguy hiểm giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chính thể Việt Nam đã phớt lờ hảo ý của người Mỹ mà vẫn đeo đuổi mối quan hệ ngày càng nguy hiểm hơn với người bạn "bốn tốt - mười sáu chữ vàng".
Sau đó, quả nhiên tình thế Việt - Trung càng lúc càng bất an, Hà Nội ngày càng bị Bắc Kinh lấn ép không chỉ về giao thương xuất nhập khẩu mà còn ngay tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi đó, các hợp đồng Việt Nam mua vũ khí của Mỹ đã gặp phải phản ứng lạnh nhạt từ phía Quốc hội Mỹ - bao gồm khá nhiều nghị sĩ quan tâm đến rất nhiều vụ nhân quyền bị đàn áp nặng nề ở Việt Nam.
Một khả năng có thể xảy ra là sau vụ chính quyền Việt Nam công khai thách thức Mỹ bằng án 10 năm đối với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, cộng thêm thái độ đu dây cố hữu của Hà Nội, Washington đã không còn mặn mà để tiếp tướng Vịnh.
Cô đơn
Ngay trước chuyến "cầu viện" Mỹ của tướng Ngô Xuân Lịch, đã có thêm một bằng chứng quá sống động về tình thế quá cô đơn của Việt Nam ngay trong khu vực ASEAN.
Tại Diễn đàn an ninh khu vực 10 nước Đông Nam Á ở Manila, Philipppines vào ngày 5/8/2017, một hiện tượng hơi "lạ" là Việt Nam đã cố gắng thúc giục các nước Đông Nam Á có lập trường mạnh mẽ hơn đối với việc Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông. Việt Nam cũng tìm cách đưa những từ ngữ cứng rắn chống Trung Quốc vào tuyên bố của ASEAN, chẳng hạn vận động ASEAN bày tỏ quan ngại về "việc xây dựng" ở ngoài biển, ý nói đến sự bùng nổ các hoạt động xây đảo nhân tạo của Trung Quốc ở vùng biển có tranh chấp trong những năm gần đây.
Việt Nam cũng muốn ASEAN nhấn mạnh trong tuyên bố chung là bộ quy tắc ứng xử (COC) với Trung Quốc ở Biển Đông, hiện đã được lên kế hoạch, sẽ có tính ràng buộc về mặt pháp lý - một điều bị Trung Quốc chống lại.
Thế nhưng theo VOA, một nhà ngoại giao tham gia cuộc họp cho biết rằng "cuộc thảo luận thật gay go" và "Việt Nam đơn thương độc mã đòi có những từ ngữ mạnh mẽ về Biển Đông" trong khi "Campuchia và Phippines không mặn mà thể hiện điều đó". Một số nhà ngoại giao nói còn có phần chắc Việt Nam sẽ thua trong nỗ lực đòi đưa các từ ngữ cứng rắn chống Trung Quốc vào tuyên bố, khi mà Philippines với tư cách chủ nhà hội nghị có nhiều ảnh hưởng hơn…
Quả thật, giới chóp bu Việt Nam chưa bao giờ cô đơn đến thế trên trường quốc tế, dù Việt Nam đã thủ đến chẵn một chục "đối tác chiến lược" trong túi.
Hy vọng mỏng manh còn lại chỉ là Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông.
Gần như chắc chắn, chuyến đi Mỹ của tướng Lịch sẽ bàn về "an ninh Biển Đông", và nếu chuyện bàn thảo tiến hành thuận lợi thì sẽ có thể tiến đến cơ chế "tập trận chung", cùng sự có mặt của hạm đội Mỹ ở Biển Đông trong tương lai gần.
Để khi đó, biết đâu Việt Nam lại tỏ ra "dũng cảm" hơn hẳn mà tiến ra Bãi Tư Chính tiếp tục khoan dầu khí chứ không phải muối mặt "đầu hàng" trước Trung Quốc như vừa qua.
Nhưng lại chưa có gì chắc chắn là giới quân sự Hoa Kỳ sẽ "cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Mỹ", trong khi Mỹ còn phải lo nhiều vấn đề ở nhiều khu vực khác trên thế giới. Vì thế, khả năng Mỹ có can dự vào Biển Đông hay không, và nếu có thì can dự tới mức độ nào, Việt Nam với Mỹ có thể thỏa thuận như thế nào để Việt Nam có thể tăng khả năng quốc phòng của mình để chống lại những bất trắc có thể xảy ra… vẫn là những đáp án mù mờ trong chuyến đi có thể chỉ mang tính "thăm dò" của tướng Ngô Xuân Lịch.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 07/08/2017
Không khó để nhận ra rằng có một điểm chung quan trọng nhất đã không hề hiện ra trong hai sự kiện "phản ứng nhanh" cấp tập diễn ra vào cùng ngày 3/8/2017 : không có bất kỳ từ ngữ "bắt cóc" nào được nói đến trong cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao vào chiều ngày 3/8 và trong đoạn "tự thú" kèm hình ảnh của Trịnh Xuân Thanh trên Đài truyền hình Việt Nam vào buổi tối cùng ngày.
Một nhà báo đứng quay phim trước tòa đại sứ Việt Nam tại Berlin, Đức, hôm 2 tháng Tám.
Điểm chung quan trọng nhất
Đối diện với rất nhiều câu hỏi về tin tức nói rằng ông Trịnh Xuân Thanh bị "bắt cóc" lẫn quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức sau những thông tin này, Bộ Ngoại giao chỉ dẫn lại "Thông báo ngày 31/7/2017 của Bộ Công an đã được báo chí đăng tải, theo đó, ngày 31/7/2017, Trịnh Xuân Thanh đã ra trình diện, đầu thú", và "Hiện nay các cơ quan chức năng của Việt Nam đang tiến hành điều tra. Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn phát triển quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Đức".
Đến tối cùng ngày, người ta thấy Trịnh Xuân Thanh xuất hiện trên Truyền hình Việt Nam với gương mặt phờ phạc, hệt như khuôn mặt như thể bằng sáp của Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh lúc hiện ra ở Hà Nội vào tháng 6/2015 sau quá nhiều tin đồn về việc ông này đã "biến mất" ở Paris.
Toàn bộ lời "tự thú" của Trịnh Xuân Thanh vào tối 3/8, cùng "đơn tự thú" không được đăng nguyên văn mà chỉ trích dẫn vài đoạn ngắn, lại được ông Thanh "đọc" theo một cách mà tất cả những người đã từng là tù nhân lương tâm của chế độ đều biết rõ sở thích và sở trường "dàn dựng" của cơ quan an ninh điều tra.
Nhưng quan trọng nhất, trong toàn bộ phần "đọc" cũng như một phần bản viết tay "tự thú" của Trịnh Xuân Thanh được đưa lên truyền hình, đã không có bất kỳ từ ngữ "bắt cóc" nào, cũng không hiện ra nội dung nào mà Trịnh Xuân Thanh phủ nhận cáo buộc ông đã bị bắt cóc ở Đức.
Chỉ một ngày trước những sự kiện trên, Bộ Ngoại giao Đức đã ra bản tuyên bố phản đối chính quyền Việt Nam và cáo buộc mật vụ Việt Nam đã bắt cóc thô bạo, trắng trợn Trịnh Xuân Thanh ngay trên lãnh thổ Đức. Giới quan chức ngoại giao Đức còn dùng cả cụm từ "bội ước lòng tin vô cùng lớn" trong trường hợp này. Thậm chí sang ngày 3/8, có tin một bộ phận của Đại sứ quán Đức ở Hà Nội đã đóng cửa bộ phận lãnh sự và phòng pháp lý, còn cảnh sát Berlin đã thẳng tay trục xuất cán bộ tình báo Nguyễn Đức Thoa - được biết như "quan chức ngoại giao" của Việt Nam tại Cộng hòa liên bang Đức - ra khỏi lãnh thổ nước này, cấm quan chức này vĩnh viễn không bao giờ được trở lại Đức và có thể cả Châu Âu …
Câu hỏi cần đặt ra là vì sao "đảng và nhà nước ta" lại trở nên "nhu mì" đến thế trước phản ứng của người Đức mà đang bị giới dư luận viên của đảng gào thét là "can thiệp trắng trợn vào nội bộ Việt Nam", "Đức muốn làm diễn biến hòa bình ở Việt Nam" ?
Phải chăng vì quá "mong muốn phát triển quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Đức" như cách nói lặp đi lặp lại không biết chán của Bộ Ngoại giao Việt Nam ?
Hay còn bởi những nguyên nhân khác, trong đó có thể một nguyên nhân nào đó sâu xa hoặc quá nhạy cảm về mặt "chính trị nội bộ" ?
"Đức có đủ bằng chứng"
Chỉ biết rằng, ngay khi tung ra bản tuyên bố phản đối Việt Nam vào ngày 2/8, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Đức đã nói rõ với báo giới xung quanh ông là "Đức có đủ bằng chứng về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh".
Hôm sau, ngày 3/8, một quan chức Đức vẫn cho báo chí biết rằng "Đức có bằng chứng". Một trong những bằng chứng như thế có thể chính là "cán bộ ngoại giao" Nguyễn Đức Thoa có mặt ngay tại địa điểm, ngay vào thời điểm Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc mà camera cảnh sát Đức đã ghi hình được.
Thậm chí phía Đức còn không e ngại khi lặp lại yêu cầu Việt Nam phải "trả ngay" Trịnh Xuân Thanh để Đức xem xét khả năng dẫn độ và thủ tục tị nạn.
Vậy khi nào các cơ quan an ninh và ngoại giao của Đức sẽ trưng ra bằng chứng về vụ mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin ?
Chưa có thời điểm cho câu trả lời. Nhưng dường như thời điểm nào và cách thức, mức độ quyết liệt như thế nào trong nội dung trả lời còn tùy thuộc vào… Bộ Công an Việt Nam.
Trong khi đó ở Việt Nam, diễn biến truyền thông nhà nước trong những ngày qua đã vạch ra một giới tuyến rất rõ : trong khi giới dư luận viên dùng nhiều lý lẽ và xảo biện để phản bác, công kích cáo buộc "Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc" của chính phủ Đức, hầu hết báo nhà nước, kể cả báo đảng, đều chỉ đưa tin bài về "Trịnh Xuân Thanh đầu thú" theo bản thông báo ngày 31/7 của Bộ Công an, hoặc tỏ ý nghi ngờ về việc làm sao Trịnh Xuân Thanh "đi không ai biết, về chẳng ai hay".., mà hoàn toàn không phản bác cáo buộc của Bộ Ngoại giao Đức.
Ngay cả Bộ Ngoại giao của Ủy viên bộ chính trị Phạm Bình Minh cũng như thể "đá" trách nhiệm cho Bộ Công an theo phương kế "hồn ai đó giữ, thân ai người đó lo" trong lúc "tang gia bối rối".
Cái cách thể hiện của Bộ Ngoại giao Việt Nam càng phác ra bức tranh tổng quát : vào chính lúc này, hình như không một cơ quan nào muốn "dây" đến vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" và cơn khủng hoảng ngoại giao Việt - Đức.
Chỉ còn lại Bộ Công an - cơ quan phải "đứng mũi chịu sào".
"Trả giá đối ngoại để giải quyết đối nội"
Cùng ngày 3/8, bắt đầu xuất hiện một luồng dư luận trên mạng xã hội về "chiến dịch bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng Đức và Châu Âu thông qua Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu (EVFTA), trong khi rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hy vọng và trông đợi hiệp định này". Đáng chú ý, luồng dư luận này khởi phát từ vài gương mặt facebooker khá đậm dấu ấn "phe phái nội bộ".
Cũng vào ngày 3/8 đã xuất hiện một luồng dư luận khác về "trả giá đối ngoại để giải quyết đối nội", từ bài viết của một nhà báo thuộc Truyền hình Công an nhân dân, trong đó có những đoạn đáng chú ý :
"Để bắt được Trịnh Xuân Thanh là vấn đề không dễ và Bộ Công an, Bộ Ngoại giao cũng thừa biết những vấn đề phức tạp sẽ xảy ra sau khi bắt Trịnh Xuân Thanh ở Đức. Nếu đúng như báo chí Đức đưa tin là Trịnh Xuân Thanh bị "bắt cóc" thì cũng không có giải pháp nào tốt hơn là phải chịu trả giá về mặt đối ngoại để giải quyết vấn đề đối nội".
"Thực ra "bắt cóc" hay "đầu thú" không quan trọng, mà quan trọng là có con người Trịnh Xuân Thanh tại Việt Nam – một mắt xích quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng.
"Cũng có thể có một thế lực nào đó đang lo sợ hoặc không muốn chúng ta yên ổn, không muốn bộ máy của Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, toàn Đảng, toàn dân đoàn kết nhất trí mà lấy con bài Trịnh Xuân Thanh trong việc che chắn cho bọn tham nhũng".
"Nếu không "đánh rắn dập đầu" thì bọn tham nhũng sẽ phản đòn và tiếp tục ngóc đầu dậy chống đối quyết liệt hơn".
Cần lưu ý, những nội dung trên không đơn thuần là cách nhìn của một tác giả trong một bài báo, mà còn có thể chứa đựng một phần hay toàn bộ quan điểm và cách thức phòng bị của "đảng ta". Điều này lại khá logic với một số phát ngôn và hành xử của một số quan chức "có trách nhiệm" trong thời gian gần đây về vụ Trịnh Xuân Thanh.
Nếu những nội dung trên có "cơ sở thực tiễn", sẽ không đời nào có chuyện Việt Nam "trả" Trịnh Xuân Thanh cho phía Đức ngay hiện thời, mà có trả thì ít ra cũng sau khi Thanh đã hoàn thành trách nhiệm "nhân chứng vàng" trong một phiên tòa có lẽ mang tính lịch sử trong triều đại đảng Cộng sản.
Quả là ""bắt cóc" hay "đầu thú" không quan trọng, mà quan trọng là có con người Trịnh Xuân Thanh tại Việt Nam". Có mất EVFTA mà kinh tế bị xấu đi thì cũng "chơi luôn".
Và nếu những nội dung trên có cơ sở, hẳn EVFTA đang trở thành một trọng tâm tranh đấu mới trong nội bộ đảng, chẳng hạn theo cách "ai phải chịu trách nhiệm làm đổ vỡ EVFTA ?", ngay vào lúc này và còn có thể kéo dài đến Hội nghị trung ương 6 - dự kiến sẽ diễn ra vào quý tư năm 2017. Đó cũng là lúc mà Tổng bí thư Trọng có thể muốn "thanh lý sạch sẽ" những đường dây của "anh Ba X", và muốn hơn nữa là "mọi nẻo đường đều dẫn đến anh Ba".
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 07/08/2017
Một ngày sau khi Bộ ngoại giao Đức ra tuyên bố phản đối hành động mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, buổi họp báo thường kỳ diễn ra ngày 3/8/2017 ở Hà Nội đã lộ diện phản ứng đầu tiên của Việt Nam. Tuy “lấy làm tiếc”, nhưng Bộ ngoại giao Việt Nam đã không có lấy một câu hay từ ngữ nào phủ nhận cáo buộc của phía Đức về việc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc.
Dấu chấm hết
Vẫn còn khá sớm, nhưng có lẽ không quá muộn để nói : “Xin vĩnh biệt Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam (EVFTA)”.
Bản tuyên bố của Bộ ngoại giao Đức phản đối hành động bắt cóc Trịnh Xuân Thanh của mật vụ Việt Nam đã gần như đóng dấu chấm hết đối với nguyện ước chưa bao giờ khẩn thiết đến thế của Hà Nội về EVFTA.
Câu chuyện đầu tiên thuộc về EVFTA - chủ đề mà giới cai trị Việt Nam quan tâm nhất, sau sự đổ vỡ của Hiệp định TPP mà đã khiến Hà Nội thất thần vào mùa xuân năm nay. Nhưng Merkel đã không có bất kỳ một hứa hẹn nào cho tương lai của EVFTA, cho dù hiệp định này đã được ký chính thức từ tháng 12 năm 2015 và chỉ còn chờ quốc hội của 27 nước trong khối Liên minh Châu Âu thông qua.
Cũng không phát ra một sự bảo đảm nào từ bà Merkel về “hiệp định dẫn độ” mà ông Phúc gần như cầu cạnh. Chỉ sau vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc tại Berlin và khi Bộ ngoại giao Đức phải lên tiếng phản đối chính thức, giới quan chức ngoại giao Đức mới tiết lộ rằng chính Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nêu yêu cầu “dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam” với Thủ tướng Angela Merkel. Sau đó, báo chí Việt Nam ồn ào đưa tin “hai bên sẽ xem xét khả năng đàm phán hiệp định dẫn độ”.
Nhưng cũng như EVFTA, hiệp định dẫn độ giữa Đức và Việt Nam, nếu có, cũng phải mất ít ra từ một đến một năm rưỡi nữa. Nếu EVFTA còn phải trải qua rất nhiều thủ tục đồng thuận của các quốc hội trong EU, mà chỉ một nước không đồng ý cũng không thể thông qua, hiệp định dẫn độ cũng phải trải qua không ít lần đàm phán, thẩm định, dự thảo, thông qua các cấp… trước khi Việt Nam có thể đón nhận Trịnh xuân Thanh ở sân bay Nội Bài.
Một khía cạnh Việt Nam học
Song vụ bắt cóc đầy manh động trên đất Đức - cứ như thể thoải mái bắt cóc người bất đồng chính kiến ở Việt Nam - đã phá hỏng toàn bộ viễn cảnh “Thanh về Nội Bài”.
Người Đức chưa bao giờ giận dữ đến thế trong suốt chiều dài quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Với Quốc vụ khanh Văn phòng Bộ ngoại giao Đức, ông Markus Ederer, đó còn là từ ngữ “bội tín”. Cái từ thiên về bản chất dưới đáy của chính trị này lại càng khiến công luận xã hội ở Việt Nam không thể nào quên được nhân vật ủy viên trung ương đảng, chủ tịch thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung đối xử với người dân Đồng Tâm ra sao - ký sống, lăn tay điềm chỉ nhưng sau đó xổ toẹt tất cả.
Cho tới vụ “khủng hoảng bắt cóc”, có lẽ giới chính khách Đức mới nhận ra một Việt Nam của tráo trở chính trị rõ đến như thế. Bấy lâu nay, một Hà Nội nên thơ vẫn được giới quan chức văn hóa Việt lồng vào những vần thơ của Goethe và Heine - từ những dự án dĩ nhiên được viện trợ bởi chính phủ Đức. Nhiều năm qua, người Đức cũng chỉ biết về Việt Nam thời hậu chiến lúc nhúc tham nhũng và không thiếu cảnh vi phạm nhân quyền. Nhưng chỉ vài năm gần đây, có những nghị sĩ Đức mới bắt đầu thấm thía và cám cảnh thân phận quyền làm người của mình khi họ bị công an Việt Nam cấm nhập cảnh vào đất nước này.
“Khủng hoảng bắt cóc” rất có ích cho những người Đức nghiên cứu về Việt Nam học. Họ sẽ càng hiểu rõ hơn rằng tại sao mật vụ Việt Nam - vốn mang thói quen bắt cóc, hành hung hay bắt giam người bất đồng chính kiến trong nước theo “luật rừng” như cơm bữa - lại dám sang tận Berlin làm cái nhiệm vụ đày dọa và bất chấp cả danh thể quốc gia đó.
Không thể ngủ được
Về bản chất, “khủng hoảng bắt cóc” không chỉ là thất bại đau không thể ngủ được của giới mật vụ Việt Nam, không chỉ là hậu quả viên chức đại diện chính thức của cơ quan tình báo Việt Nam tại Đại sứ quán Việt Nam ở Đức bị tuyên bố là người không được hoan nghênh (persona non grata) - một cấp độ phản ứng mạnh mẽ trên phương diện ngoại giao quốc tế - và bị trục xuất khỏi Đức trong vòng 48 tiếng đồng hồ, mà còn để lại những dư chấn không thể lường trước khi phía Đức kết thúc bản tuyên bố phản đối bằng “Chúng tôi cũng bảo lưu quyền áp dụng thêm các hành động khác ở cấp độ chính trị, kinh tế và chính sách phát triển”.
Hãy nhìn lại. Đức lại là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất khối EU. Đức cũng là quốc gia nhập khẩu 1/5 các sản phẩm của Việt Nam xuất qua Châu Âu. Giá trị thương mại song phương Đức - Việt Nam lên đến 9 tỷ đô la, giúp cho số xuất siêu hàng năm của Việt Nam vào thị trường EU lên tới 25 tỷ USD, hoàn toàn trái ngược với số nhập siêu - cả chính ngạch lẫn tiểu ngạch - của Việt Nam từ “bạn vàng” Bắc Kinh gấp đôi như thế - hơn 50 tỷ USD mỗi năm.
Cái cách bắt cóc Trịnh Xuân Thanh mà theo một người bình luận phải ví von “không xin được thì ăn cắp” đã khiến nước Đức đầu tàu chính trị của Châu Âu phải đe dọa sẽ trả đũa.
Hậu quả ngay trước mắt là kể từ nay, trong con mắt nhiều nước Châu Âu : “việc này cũng phá vỡ lòng tin một cách nghiêm trọng” - như một nội dung trong tuyên bố phản đối của Bộ ngoại giao Đức. Quang cảnh này là ngược ngạo kinh khủng với cụm từ “lòng tin chiến lực” để kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế mà ông Nguyễn Tấn Dũng rất sính dùng khi ông còn là thủ tướng, vào năm 2014 khi giới chóp bu Việt Nam vừa bị giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc chơi cho một vố điếng người. Kể từ nay, không khó để hình dung rằng Liên minh Châu Âu sẽ không còn mấy quan tâm đến cảnh nạn Việt Nam bị Trung Quốc hiếp đáp ngoài Biển Đông.
Còn những hậu quả khó lường trong tương lai hẳn không ngoài tình trạng viện trợ không hoàn lại, tín dụng cho vay, đầu tư nước ngoài của Châu Âu vào Việt Nam có thể sụt giảm đáng kể. Những ưu đãi về hàng rào thuế quan trong nhập khẩu hàng Việt Nam cũng bởi thế sẽ được thả nổi theo mặt bằng thị trường chung. Thậm chí khách du lịch Châu Âu - khi đã được báo chí lục địa này dồn dập cảnh báo về “nhà nước bắt cóc”, sẽ chẳng còn mấy tha thiết đi dã ngoại ở một Việt Nam đầy rủi ro rình rập.
“Lấy làm tiếc”
Một ngày sau khi Bộ ngoại giao Đức ra tuyên bố phản đối hành động mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, buổi họp báo thường kỳ diễn ra ngày 3/8/2017 ở Hà Nội đã lộ diện phản ứng đầu tiên của Việt Nam
Đối diện với nhiều câu hỏi liên quan đến vụ việc Trịnh Xuân Thanh và về tuyên bố của Người phát ngôn Bộ ngoại giao Đức ngày 2/8, bà Lê Thị Thu Hằng cho biết bà “rất tiếc về phát ngôn này” và nói thêm : “Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn phát triển quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức”.
Chi tiết đáng chú ý là tuy “lấy làm tiếc”, nhưng cái cách phản ứng đầu tiên của Bộ ngoại giao Việt Nam đã không cho thấy một câu hay từ ngữ nào phủ nhận cáo buộc của phía Đức về việc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc.
Phản ứng yếu ớt.
Thông thường, hành động của một quốc gia nhằm trả đũa quốc gia khác trục xuất nhân viên ngoại giao của mình là trục xuất lại nhân viên của quốc gia đối phương. Công luận đang chờ đợi hành động trả đũa của chính quyền Việt Nam. Liệu họ có đủ can đảm để trục xuất một nhân viên ngoại giao người Đức ?
Hay sau nhiều cuộc họp khẩn từ ngày 1/8 - thời điểm đại sứ Việt Nam tại Đức bị triệu tập đến Bộ ngoại giao nước này về vụ Trịnh Xuân Thanh - đến nay, Việt Nam đã gián tiếp thừa nhận hành vi bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và cố gắng “nuốt nhục” cho qua cơn khủng hoảng ?
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 03/08/2017
VOA - Bài viết này hoàn tất một ngày trước khi chính phủ Đức chính thức xác nhận Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc mang về Việt Nam.
“Phát ngôn xuất thần”
“Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi cũng phải cháy” - ngày hè nồng nực cuối tháng Bảy năm 2017, tâm trạng của nhân vật đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam như bất chợt phấn khích hẳn lên.
Không chỉ phấn khích mà còn nhen nhóm một quyết tâm ý thức kèm quyết liệt hành động.
Lời ví von xuất thần có nét tục ngữ dân gian trên của Tổng bí thư Trọng đã khiến lộ ra cái tâm thế mà ông có vẻ muốn giữ kín bấy lâu nay.
Cũng là lần đầu tiên ông Nguyễn Phú Trọng mạnh bạo phát ra những từ ngữ “thành phong trào”, “thành một xu thế” khi đề cập đến việc làm thế nào chống tham nhũng tại phiên họp thứ 12 của Ban chỉ đạo Trung ương về Phòng chống tham nhũng trung ương ở thủ phủ của Bộ Chính trị tại Hà Nội.
Có thể cho rằng những ví von và từ ngữ trên là mạnh mẽ hơn lối phát ngôn thiên về học thuật kinh viện của chính ông Trọng trong những lần phát động công cuộc chống tham nhũng trước đây, thậm chí khác khá nhiều với khẩu khí có vẻ ủ ê của ông Trọng chỉ mới vào tháng 6/2017.
Ngày 31/7/2017 - thời điểm Tổng bí thư Trọng phát ra những ví von và từ ngữ trên - lại trùng khớp với một sự kiện chấn động chính trường Việt Nam : “tử thù” của ông Trọng là nhân vật Trịnh Xuân Thanh bất thần hiện ra ở Hà Nội để “đầu thú với Bộ công an”.
Không biết vô tình hay hữu ý, cái ngày 31/7 ấy cũng là thời điểm mà Bộ công an tung ra chiến dịch “bắt Trầm Bê” - nhân vật được một số dư luận xem là “tay hòm chìa khóa” của Nguyễn Tấn Dũng thời ông Dũng còn là thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vốn đã râm ran một thời gian nhưng chưa thẳng miệng, chỉ đến khi Trịnh Xuân Thanh “đầu thú”, một số quan chức nhà nước - trong đó có quan chức công an - mới tiết lộ một đánh giá rất quan trọng : Trịnh Xuân Thanh là mấu chốt của đại án PVC (Tổng công ty Xây lắp dầu khí). Dù Vũ Đức Thuận - trước khi bị bắt là trợ lý của Đinh La Thăng vào thời ông Thăng còn là bộ trưởng giao thông vận tải và khi ông Thăng trở thành bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - đã nằm trong trại giam cả năm và có thể đã “khai hết”, nhưng thiếu Trịnh Xuân Thanh thì án PVC chưa thể trọn vẹn, và quan trọng hơn là chưa thể lần được “đường dây” nào đã bảo kê cho Thanh biến mất khỏi Việt Nam vào nửa cuối năm 2016.
Đại gia Trầm Bê lại có vai trò “mấu chốt” như Trịnh Xuân Thanh. Hành trình cùng Ngân hàng Phương Nam trong dĩ vãng, ngân hàng Sài Gòn Thương Tín sau đó và có mối liên hệ mật thiết với ngân hàng Xây Dựng của Phạm Công Danh - nhân vật đã bị đưa ra tòa, Trầm Bê được dư luận xem là một bí số lớn trong không chỉ một mà một số đại án ngân hàng, cũng là một mắt xích cực kỳ quan yếu dẫn đến một cựu thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Nhưng trên tất cả, án kinh tế luôn có thể là cơ sở để phục vụ những chọn lựa hay thanh lọc chính trị. Vụ đại án PVC chỉ là “chuyện nhỏ” so với tiết lộ của những quan chức mà bây giờ mới dám hé ra : Thanh “về” thì khối kẻ tim đập chân run.
Nhất là nếu Thanh đã “khai sạch”…
Mới “đầu thú” đã được “khoan hồng” ?
Một câu chuyện ngoài lề nhưng không thể bỏ qua là cũng vào ngày 31/7/2017 và ngay thời điểm Trịnh Xuân Thanh “đầu thú”, một lãnh đạo thuộc Bộ công an (giấu tên) khi trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã không ngần ngại đề cập đến từ “khoan hồng” trong nội dung trả lời : “Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của đối tượng Trịnh Xuân Thanh, pháp luật sẽ xem xét đối tượng có được khoan hồng hay không ? Nếu được khoan hồng thì ở mức độ nào ?”.
Vị lãnh đạo này cho biết thêm, sau khi Trịnh Xuân Thanh ra đầu thú, cơ quan có thẩm quyền sẽ làm rõ việc bỏ trốn của đối tượng này : “Cơ quan cảnh sát điều tra sẽ điều tra làm rõ Trịnh Xuân Thanh đã trốn chạy bằng cách nào ? Ai đưa đối tượng bỏ trốn...”.
Trong các loại tội phạm, tội phạm bị truy nã là trường hợp đặc biệt nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm càng gia tăng hơn hẳn khi Trịnh Xuân Thanh còn bị “lệnh truy nã đỏ của Interpol quốc tế” - như Bộ công an đã thông báo từ năm 2016 (tuy một số thông tin cho biết lại không thấy tên Trịnh Xuân Thanh trong danh sách truy nã đỏ của Interpol quốc tế).
Những tội phạm đặc biệt nguy hiểm như thế rất thường không thể nhận được khả năng khoan hồng, dù chỉ hứa hẹn, cho dù đối tượng có tự nguyện đầu thú.
Do vậy, khó có thể tưởng tượng được rằng mới chân ướt chân ráo đến trực ban Bộ công an để “đầu thú” (nhưng thông báo của bộ này chẳng kèm theo hình ảnh nào để chứng minh), Trịnh Xuân Thanh đã được một lãnh đạo Bộ công an đề cập đến khả năng “khoan hồng”.
Tương tự vụ “tau khỏe mà, có chi mô” của ông Nguyễn Bá Thanh cuối năm 2014 và vụ “tướng chữa bệnh Phùng Quang Thanh” giữa năm 2015, vụ Trịnh Xuân Thanh - nhân vật cuối cùng trong “Tam Thanh” - ngày càng bộc lộ tính mâu thuẫn bởi những phát ngôn và hành động như thể “đá” nhau của giới quan chức “có trách nhiệm”.
Dấu hiệu Trịnh Xuân Thanh được “khoan hồng” quá nhanh và quá sớm như thế càng khiến dư luận nghi ngờ rằng ông Thanh không phải đã “đầu thú” vào ngày 31/7/2017, mà có thể đã bị bắt ở đâu đó tại châu Âu trước thời điểm 31/7 một số ngày đủ cho cơ quan an ninh Việt Nam “moi ruột”.
Nếu nghi ngờ trên là có cơ sở, cơ chế “gây sức ép bằng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết” đã được vận hành hoàn hảo đến nỗi rất có thể Trịnh Xuân Thanh đã “hợp tác khai báo” quá nhanh, quá thành khẩn, khai bằng hết…, mà từ đó mới được hứa hẹn “khoan hồng”.
Sau Thanh là ai ?
Thủ trưởng cũ của Trịnh Xuân Thanh lại là Vũ Huy Hoàng - cựu bộ trưởng công thương - nhân vật quá tai tiếng với nhiều dự án ngàn tỷ đồng của ngành công thương bị lãng phí và thất thoát cho tới nay, mối quan hệ đầy mờ ám của ông Hoàng với những nhóm lợi ích, trong đó có những doanh nghiệp Trung Quốc, chưa kể trách nhiệm liên đới của ông Hoàng trong nhiều vụ việc khác thời còn là bộ trưởng công thương…
Nhưng một số dư luận lại cho rằng ngay cả Vũ Huy Hoàng cũng chỉ là “cá nhỏ”. Mà “cá mập” chính là Đinh La Thăng - được xem là “người thân” của Trịnh Xuân Thanh. Vào tháng 5/2017, ông Đinh La Thăng đã chính thức bị phế truất chức vụ ủy viên bộ chính trị cùng cái ghế bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, để ngay sau đó được “nhốt quyền lực vào lồng” - một cách nói ưa dùng của Tổng bí thư Trọng - cùng với cựu thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình tại Ban Kinh tế trung ương.
Đến đây, hai “đường dây” xuất phát từ Trịnh Xuân Thanh và Trầm Bê cùng giao nhau ở một điểm : Nguyễn Văn Bình.
Nguyễn Văn Bình lại được xem là “cánh tay mặt” của Nguyễn Tấn Dũng thời còn là thủ tướng. Ông Bình còn kinh hoàng hơn hẳn Trầm Bê về “thành tích” thao túng thị trường tín dụng, tiền tệ và các phi vụ thâu tóm ngân hàng.
Tựu trung, hai nẻo đường có điểm cắt mang tên Nguyễn Văn Bình đều có vẻ dẫn đến… cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Có thể, đó sẽ là những nước cờ mong muốn của Tổng bí thư Trọng trong một số tháng tới và kết thúc tại Hội nghị trung ương 6 - dự kiến diễn ra vào quý tư năm 2017.
Dồn dập hai chấn động Trịnh Xuân Thanh “đầu thú” và tung lệnh bắt Trầm Bê cùng thời điểm ngày 31/7/2017, hẳn chiến dịch “chống tham nhũng” của Tổng bí thư Trọng đang chuyển thế sang một giai đoạn mới cùng “nâng lên một tầm cao mới” - theo cách nói ưa thích của ông Nguyễn Tấn Dũng đến tận ngày cuối cùng của cuộc đời 9 năm làm thủ tướng.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 02/08/2017
Với tất cả tình thế mà hiện thời Trịnh Xuân Thanh đã “về”, đã “nằm” ở đâu đó và nỗi nguy hiểm có thể lao thẳng đến án tử hình của nhân vật này, câu trả lời dường như là duy nhất : Thanh đã khai hết, khai sạch.
Nhưng khai gì ?
“Đứa con hoang đàng” đã “đầu thú” ?
Cuối cùng, sau cả năm trời lưu lạc xứ người, “đứa con hoang đàng” Trịnh Xuân Thanh đã trở về trong vòng tay trìu mến yên thương của Tổng bí thư Trọng.
“Đứa con hoang đàng hãy trở về” lại là lời giục giã của Ủy viên quốc vụ viện Dương Khiết Trì của Trung Quốc cộng sản dành cho người đồng chí Nguyễn Phú Trọng vào tháng 6/2014, ngay sau khi giàn khoan Hải Dương 981 của Bắc Kinh xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam.
Nhưng khác với tâm thế truy tới cùng của Tập Cận Bình đối với phe nhóm tiền nhiệm Giang Trạch Dân, tư chất của người được ví là “giáo làng” lại có vẻ đã sẵn lòng bỏ qua tất cả, kể cả một lá thư được cho là của Trịnh Xuân Thanh công bố vào năm 2016 sau khi Thanh đã biệt tăm ngoài lãnh thổ Việt Nam, trong đó “không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng”.
Chỉ một ngày sau khi nhà báo Huy Đức bất thần đưa tin trên facebook của ông “Trịnh Xuân Thanh về mà báo chí im ắng nhỉ !”, cùng lúc Bộ trưởng công an Tô Lâm nói như phân bua : “Đến giờ tôi vẫn chưa có thông tin gì” trước câu hỏi về những thông tin cho là cơ quan điều tra đã di lí Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam rồi của phóng viên Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, vào ngày 31 tháng Bảy năm 2017, Trịnh Xuân Thanh dường như đã được đặc cách “đầu thú tại trực ban Bộ công an”.
Ứng với Bộ Luật hình sự Việt Nam, “đầu thú” là êm ái hơn hẳn so với “bị bắt giữ và áp giải về Việt Nam”. Logic tiếp theo sẽ là “tình tiết giảm nhẹ” nếu Thanh phải ra tòa. Thậm chí Thanh còn có thể được “khoan hồng”…
Nhưng vì sao Trịnh Xuân Thanh - kẻ đã làm mất mặt Tổng bí thư Trọng và chế độ đến thế - lại có thể sẽ được ưu ái làm nhẹ tội lỗi vung tiền bán trời ở Tổng công ty Xây dựng Xây lắp dầu khí (PVC) thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia (PViệt Nam) - nơi từng thuộc quyền của cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng ?
Không phải dẫn độ bởi Đức ?
Trên bàn cờ “chống tham nhũng” của Tổng bí thư Trọng, PVC có lẽ chỉ là “chuyện nhỏ”, cho dù con số được xem là thất thoát nơi đây đến hơn 3 ngàn tỷ đồng.
PViệt Nam mới là chuyện lớn hơn, hơn nhiều.
Tháng Ba năm 2017, một tòa án ở Việt Nam ra lệnh truy tố Trịnh Xuân Thanh thêm tội tham ô, tức Thanh sẽ phải đối mặt với mức án cao nhất là tử hình. Cũng vào thời điểm đó, đã có những thông tin không chính thức cho rằng Trịnh Xuân Thanh đang trốn ở Đức, và có thể các cơ quan điều tra của Việt Nam còn định vị được Thanh ở đâu trên bản đồ nước Đức.
Khỏi phải nói, ai cũng hiểu rằng nếu Trịnh Xuân Thanh bị cảnh sát Đức bắt giữ và dẫn độ về Việt Nam, Tổng bí thư Trọng sẽ hởi lòng hởi dạ đến thế nào để hoàn thiện vế sau lời cảnh cáo “không trốn được đâu…” của ông trước đây. Vụ việc “hồi hương” này - có tầm vóc không những không thua kém mà còn hơn cả vụ “tau khỏe mà, có chi mô” của ông Nguyễn Bá Thanh cuối năm 2014 và vụ “tướng chữa bệnh Phùng Quang Thanh” giữa năm 2015 - hẳn sẽ tạo nên một cơn địa chấn chính trị ở Việt Nam và khiến nhiều người phải mất ăn mất ngủ và mất mật.
Thậm chí bàn cờ chính trị quốc gia, mà phần thắng chưa biết thuộc về ai, có thể bị đảo lộn bởi sự hiện diện thình lình của Trịnh Xuân Thanh ở Việt Nam…
Nhưng tất cả cũng chỉ dừng tại đó. Một số luật sư cho biết nếu chính quyền Việt Nam không đôn đáo để có được một hiệp định dẫn độ tội phạm với Berlin, Trịnh Xuân Thanh vẫn có quyền ung dung tự tại và nhẩn nha phả khói xì gà ở đất nước thanh bình đó.
Vào cuối tháng Tư năm 2017, có vẻ không còn kiên nhẫn “chờ” Trịnh Xuân Thanh được nữa, Tổng bí thư Trọng đã “trảm” Đinh La Thăng - khi đó đường đường là ủy viên bộ chính trị cùng chức bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Hàng loạt vụ việc và sai phạm ở PViệt Nam được Ủy ban Kiểm tra trung ương của Chủ nhiệm Trần Quốc Vượng - người không biết có thể trở thành “Vương Kỳ Sơn của Việt Nam” hay không - xới lại.
Nhưng cũng chỉ dừng tại đó. Đinh La Thăng mất ghế ủy viên bộ chính trị và phải trở về “Hà Nội ơi, một trái tim hồng”. Nhưng vẫn còn nguyên ghế ủy viên trung ương đảng mà chưa tiến vào quy trình “tố tụng hình sự” như nhà báo Huy Đức mong đợi.
Quy trình “bằng mọi cách bắt và dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về nước quy án” đã trở nên chậm chạp đến mức vào đầu tháng Bảy năm 2017, cuộc gặp giữa Thủ tướng Angela Merkel và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bên lề Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Đức đã chỉ “Về hợp tác an ninh – quốc phòng, hai Thủ tướng nhất trí hai bên sẽ hỗ trợ nhau trong lĩnh vực tư pháp hình sự và xem xét khả năng đàm phán Hiệp định về dẫn độ và Hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cơ bản cho hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia” – theo nôi dung đưa tin của báo đảng.
Ngay lập tức, đã xuất hiện dư luận cho rằng nội dung trên về thực chất là nhắm đến trường hợp Trịnh Xuân Thanh, rằng hầu như chắc chắn ông Thanh cư trú ở Đức, và Việt Nam đang rất muốn Đức hợp tác để dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam.
Thế nhưng tình thế cứ như trêu ngươi ông Trọng : Một hiệp định về dẫn độ giữa Việt Nam và Đức hoàn toàn không phải là loại văn bản cứ muốn là ký, cứ cần là có. Mà phải đàm phán và có thể mất đến một vài năm cho đàm phán. Còn với những gì mà báo đảng tường thuật, thậm chí triển vọng đàm phán như thế còn đang nằm trong giai đoạn “xem xét khả năng”.
Ngay cả động tác “Bộ công an Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Interpol quốc tế để truy nã Trịnh Xuân Thanh” cũng chẳng thấy bất kỳ hứa hẹn nào sẽ phát huy tác dụng. Mọi thứ cứ như thể bị cố trì kéo và sẽ dần nhạt nhòa theo thời gian.
Đến tháng Sáu năm 2017, Tổng bí thư Trọng chợt nói như than thở trước cử tri Hà Nội : “Đối với Trịnh Xuân Thanh đã khai trừ Đảng và khởi tố, truy nã toàn quốc, quốc tế. Chúng ta làm đồng bộ nhưng phải có bước đi, có tình, có lý, mở đường cho người ta tiến, cốt là đánh động để răn đe, ngăn ngừa”.
Kể từ ngày phát lệnh “việc cần làm ngay” vào tháng 6/2016, chưa bao giờ Tổng bí thư Trọng lại thể hiện tâm thế “mở đường cho người ta tiến, cốt là đánh động để răn đe, ngăn ngừa” - một cách nói rất dễ khiến dư luận hiểu rằng ông Trọng đã mệt mỏi và chấp nhận thất bại trong chiến dịch “tìm và diệt” Trịnh Xuân Thanh.
Nhân chứng vàng và “đường dây”
Nguyễn Bá Thanh 2014, Phùng Quang Thanh 2015.
2017, cái tên cuối cùng của “Tam Thanh” chính là Trịnh Xuân Thanh.
Với tất cả tình thế mà hiện thời Trịnh Xuân Thanh đã “về”, đã “nằm” ở đâu đó và nỗi nguy hiểm có thể lao thẳng đến án tử hình của nhân vật này, câu trả lời dường như là duy nhất : Thanh đã khai hết, khai sạch khi được đặc cách “đầu thú”.
Nhưng khai gì ?
Nếu vụ PVC chỉ là “chuyện nhỏ”, chuyện lớn hơn nhiều sau vụ PViệt Nam hẳn là “đường dây” nào đã giúp cho Trịnh Xuân Thanh biến mất quá êm ái khỏi Việt Nam vào nửa cuối năm 2016 ? “Đường dây” đó liên quan trực tiếp và gián tiếp đến những nhân vật chính trị nào ? Liệu có “dính” đến nhân vật nào thuộc loại “cao cấp” ?... Vân vân và vân vân.
Trên bàn cờ chính trị quốc gia, thế bay bổng của nhân vật này là sự sụp đổ của nhân vật khác. Trịnh Xuân Thanh có thể chính là “nhân chứng vàng” của Tổng bí thư Trọng. Nhân chứng cho các vụ PViệt Nam và “đường dây”.
Nhờ Trịnh Xuân Thanh “đầu thú”, ông Nguyễn Phú Trọng không chỉ vớt vát thể diện quyền lực mà còn củng cố được hình ảnh của mình tại đại hội giữa nhiệm kỳ của đảng cầm quyền vào năm 2018.
Ngay trước mắt là Hội nghị trung ương 6, dự kiến vào cuối năm 2017. Đó có thể là một hội nghị đặc biệt quan yếu về công tác nhân sự để chuẩn bị cho đại hội giữa nhiệm kỳ. Đó cũng có thể là thời điểm mà Tổng bí thư Trọng sẽ trở nên mạnh bạo hơn trong chiến dịch thực hiện “nhất thể hóa” của ông - một sách lược mà có thể được hiểu là “đảng kiêm chính quyền” như Tập Cận Bình đã “thu quyền lực về một mối” kể từ năm 2016.
Nhưng trước “nhất thể hóa”, còn có một chiến dịch quan trọng không kém và sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác “làm nhân sự” : chiến dịch kiểm tra tài sản 1000 quan chức.
Nếu quả “nhân chứng vàng” Trịnh Xuân Thanh đã khai hết, khai sạch những gì anh ta biết về PViệt Nam và “đường dây” cùng vô khối câu chuyện hấp dẫn khác, sẽ chẳng ngạc nhiên nếu trong tương lai gần Thanh được “khoan hồng” một cách lặng lẽ, còn các chiến dịch “kiểm tra tài sản 1000 quan chức” và “nhất thể hóa” của Tổng bí thư Trọng sẽ thung dung hơn hẳn.
Từ chuyện “sức khỏe ông Đinh Thế Huynh”, vụ “Repsol - Bãi Tư Chính - biểu tình quốc doanh chống Trung Quốc” tới vụ “Trịnh Xuân Thanh đầu thú” cùng xảy ra vào tháng 7/2017 như một sự trùng hợp kỳ lạ, hình như chính trường Việt sắp xảy đến biến động lớn…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/08/2017
Với trường hợp chính thể Việt Nam, cơ chế trả tự do cho tù nhân lương tâm luôn là sự khởi đầu cho một mối lợi đặc biệt hay sống còn nào đó của chế độ này.
USCIRF website giới thiệu hồ sơ Mục sư Nguyễn Công Chính và bà Trần Thị Hồng.
Ngày 29/7/2017, Mục sư Tin Lành Nguyễn Công Chính, người mà vào năm 2010 đã bị chính quyền Việt Nam xử án tù 11 năm với cáo buộc mơ hồ “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc” khi ông giúp đỡ cho các người Tây Nguyên theo đạo Tin Lành và tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo của họ, người đã thường bị ngược đãi và tra tấn trong nhà tù, “bất ngờ” được trả tự do nhưng với điều kiện chưa có gì thay đổi : Mục sư Chính cùng vợ và 5 người con phải lên máy bay “tống xuất” sang Hoa Kỳ.
Mối lợi dĩ vãng
Trước vụ Mục sư Chính được trả tự do, trường hợp gần nhất được chính quyền Việt Nam thả vào tháng Giêng năm 2017 là tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu - một thành viên của đảng Việt Tân, nhưng không phải “tống xuất” sang Mỹ mà là sang Pháp. Đầu năm 2017 lại là khoảng thời gian mà không biết vô tình hay hữu ý, đã khởi động một chiến dịch “lobby” cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đi thăm Mỹ.
Đến tháng Ba thì cơ sự đã rõ : trên trang facebook của mình, chính phủ Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử bắn ý “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẵn sàng đi thăm Mỹ”, dù rằng thái độ gợi ý công khai như thế có vẻ cầu cạnh quá lộ liễu và không được lợi thế lắm, nếu đối chiếu với tuyên ngôn “Mỹ cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Mỹ” của một số chóp bu Hà Nội.
Trước vụ thả Đặng Xuân Diệu là Tạ Phong Tần. Thành viên của Câu lạc bộ nhà báo tự do này đã bị công an Việt Nam “tống xuất” sang Mỹ vào tháng Chín năm 2015 - thời điểm ngay sau khi chuyến công du Hoa Kỳ “của nhân vật đứng đầu đảng Nguyễn Phú Trọng mà được báo đảng tung hô “thành công vượt quá mong đợi”, cùng trần thuật tràn đầy hể hả của chính ông Trọng “mình phải như thế nào thì người ta mới mời chứ” ; cũng ngay sau khi hai phái đoàn Việt Nam và Hoa Kỳ hoàn tất các vòng đàm phán song phương về Hiệp định TPP, mở ra triển vọng rất gần để Việt Nam trở thành thành viên của TPP như cách đã từng là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới 8 năm trước đó.
Còn trước Tạ Phong Tần là năm 2014. Sau cuộc gặp Obama - Trương Tấn Sang vào tháng Bảy năm 2013 mà đã mở ra triển vọng hoàn tất đàm phán TPP, 2014 là năm mà chính quyền Việt Nam “mở lòng” nhất khi trả tự do đến 12 tù nhân lương tâm, trong đó đặc biệt “ưu ái” những trường hợp như Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải - hai người tù này đều bị công an “tống xuất” sang Mỹ, thậm chí còn không được gặp gia đình trước khi “bay”, và thậm chí Điếu Cày còn mang nguyên đôi dép tổ ong đến Mỹ - như một kỷ niệm chích đốt đau đớn của nhà tù cộng sản.
Những trường hợp khác - được trả tự do trước thời hạn thụ án nhưng được ở Việt Nam như Nguyễn Phương Uyên (tháng 8/2013), Đỗ Thị Minh Hạnh (tháng 7/2014) - được xem là may mắn, lồng trong bầu không khí đậm đặc mùi TPP.
Giờ đây, lại một cuộc “tống xuất” nữa. Và hẳn phải có “mùi”.
“Cầu viện”
Không biết vô tình hay hữu ý, chiến dịch “tống xuất” Mục sư Nguyễn Công Chính lại xảy ra chỉ 3 ngày sau một cuộc gặp đáng chú ý tại trụ sở Bộ Quốc phòng vào chiều 26/7/2017, giữa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch với Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius.
Cuộc gặp này lại diễn ra chỉ vài ngày sau vụ nhiều nguồn tin quốc tế và trong nước cho biết trước sức ép của Trung Quốc, vào ngày 24/7/2017, chính quyền Việt Nam đã phải yêu cầu ngừng hoạt động thăm dò khí đốt của Repsol - một công ty Tây Ban Nha liên doanh với Việt Nam - ngay tại Bãi Tư Chính luôn được xem là “thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam”.
Cuộc gặp trên, dù chỉ được báo đảng mô tả là “tiếp xã giao”, nhưng lại “vô tình” trùng hợp với tin tức quốc tế cho biết sau khi Bắc Kinh đe dọa sẽ tấn công một số căn cứ quân sự của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam cho phép Repsol tiếp tục khoan thăm dò dầu khí, phía Việt Nam đã cấp tốc liên lạc với Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội - như một hành động “cầu viện” - nhưng đã không nhận được câu trả lời.
Một chi tiết đáng chú ý khác là cùng thời điểm Mục sư Chính được trả tự do, đã xuất hiện vài thông tin không thể bỏ qua từ giới chuyên gia nhà nước, liên quan đến quan hệ quân sự Việt - Mỹ.
Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hà Lan, hiện là viện phó Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Phát Triển Của Việt Nam VIDS, một chuyên gia được xem là có tiếng nói không hoàn toàn mang “tính đảng”, trong một cuộc trả lời phỏng vấn đài RFA Việt ngữ đã “xác nhận” vài thông tin mà đã được dư luận râm ran trước đó :“Rất đáng để ý, có thể nói là khúc quanh mới trong quan hệ Việt - Mỹ, cũng là đợt sóng ngầm tương đối dữ dội trong địa chính trị khu vực. Năm này và trong bối cảnh này là có nhiều chuyển động trong quan hệ Việt - Mỹ mà trước đây một vài năm chúng ta không thể hình dung được. Ví dụ chuyện tập trận, chuyện hạm đội Mỹ sẽ vào Cam Ranh...”.
Ngoài ra, còn có vài tin tức khác có vẻ “đời” hơn, chẳng hạn hình ảnh một máy bay được cho là chở phái bộ quân sự Mỹ vừa đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 28/7/2017…
Nếu những thông tin mang tính dự đoán của ông Đinh Hoàng Thắng là có cơ sở, câu hỏi bật ra là chính thể Việt Nam đã đến khúc quanh nào và ra nông nỗi nào để bắt buộc phải “tập trận” với người Mỹ ?
Cơ sự đều có nguồn cơn của nó.
Vì sao tướng Vịnh chưa đi Mỹ ?
Vào năm 2014, khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam, hầu hết các “đối tác chiến lược” của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp. Khi đó, Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Đô đốc Samuel Locklear, đã gợi ý vẫn còn cửa cho “đối tác chiến lược toàn diện” giữa Mỹ và Việt Nam, hàm ý rằng Việt Nam cần rõ ràng và dứt khoát hơn trong mối quan hệ quân sự với Mỹ chứ không thể đeo bám chính sách “đu dây” nguy hiểm giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chính thể Việt Nam đã phớt lờ hảo ý của người Mỹ mà vẫn đeo đuổi mối quan hệ ngày càng nguy hiểm hơn với người bạn “bốn tốt - mười sáu chữ vàng”.
Sau đó, quả nhiên tình thế Việt - Trung càng lúc càng bất an, Hà Nội ngày càng bị Bắc Kinh lấn ép không chỉ về giao thương xuất nhập khẩu mà còn ngay tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi đó, các hợp đồng Việt Nam mua vũ khí của Mỹ đã gặp phải phản ứng lạnh nhạt từ phía Quốc hội Mỹ - bao gồm khá nhiều nghị sĩ quan tâm đến rất nhiều vụ nhân quyền bị đàn áp nặng nề ở Việt Nam.
Chỉ mới đây - cuối tháng 6/2017 và ngay trước chuyến đi Đức của Thủ tướng Phúc, tòa án Việt Nam đã giáng thẳng xuống đầu blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - người được Bộ Ngoại giao Mỹ tôn vinh “Người phụ nữ can đảm quốc tế” vào tháng 3/2017 - một án tù giam khủng khiếp đến 10 năm.
Trong bối cảnh đó, không ngạc nhiên khi người Mỹ hầu như lạnh lẽo với một Hà Nội còn nguyên độc trị.
Thế còn chuyện Việt Nam dự định mua vũ khí của Mỹ và “thúc đẩy hợp tác quân sự” với Mỹ thì sao ?
Trong thời gian Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh đi Washington để “tích cực chuẩn bị cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Mỹ”, ông Murray Hiebert - cố vấn cao cấp, Phó giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) của Mỹ, đã cho biết sau chuyến đi Mỹ của ông Phúc sẽ diễn ra một chuyến đi Mỹ khác vào tháng 7/2017 của Thứ trưởng bộ quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, liên quan đến hợp tác quân sự Việt - Mỹ. Tuy vậy, cho tới nay vẫn chẳng có bất kỳ thông tin nào về chuyến đi này. Một khả năng có thể xảy ra là sau vụ chính quyền Việt Nam công khai thách thức Mỹ bằng án tù 10 năm đối với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, cộng thêm thái độ đu dây cố hữu của Hà Nội, Washington đã không còn mặn mà để tiếp tướng Vịnh.
Tình thế đã gấp gáp lắm rồi
Khó mà hoài nghi rằng sau vụ Bãi Tư Chính tháng Bảy năm 2017, chính sách cùng chiến thuật “đu dây” của Việt Nam giữa Trung Quốc và phương Tây đã chính thức phá sản. Có lẽ giới chóp bu Việt Nam đang “hoảng loạn” đến mức một lần nữa phải bắn ý “cầu cứu” Hoa Kỳ, mà cuộc gặp giữa Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch với Đại sứ Ted Osius là một tiền đề để “tiếp tục thúc đẩy hợp tác quân sự giữa hai bên”.
Nếu TPP mang ý nghĩa lớn nhất là nhằm cứu vãn nền kinh tế và do đó trở thành “cứu cánh” để chính thể Việt Nam khỏi sụp đổ, các hạm đội hải quân Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương cũng có ý nghĩa không kém nhằm ngăn chặn Trung Quốc tràn xuống phía Nam mà có thể tiện thể “nuốt” luôn Việt Nam.
Giả dụ ngay trước mắt, sự hiện diện của các hạm đội Mỹ ở Biển Đông và có thể ngay tại Cam Ranh sẽ giúp Việt Nam tự tin hơn, hơn nhiều, để chẳng phải nuốt hận khi phải miễn cưỡng “hợp tác khai thác dầu khí” chia bôi với Bắc Kinh. Ngược lại là khác, chính thể Việt Nam sẽ có thể cao đầu ngẩng mặt mà tiếp tục tiến trình khai thác dầu tại Bãi Tư Chính trong vùng biển chủ quyền của mình, thu được một khoản lợi nhuận lớn đủ để “duy trì tăng trưởng GDP 6,7%” theo nghị quyết đề ra, đồng thời bù đắp tình trạng hụt thu nan giải mà nếu không cẩn thận, thực thu ngân sách năm 2017 so với dự toán có thể bốc hơi đến 11% - mức hụt thu chưa từng có trong nhiều năm qua.
Tình thế đã gấp gáp lắm rồi.
Chỉ đến lúc này, những vận động và gây sức ép liên tục của Quốc hội Hoa Kỳ nhằm trả tự do cho Mục sư Chính mới “đi vào chiều sâu” - nói theo ngôn ngữ ngoại giao Việt Nam. Chỉ đến lúc này, vai trò bảo trợ cho Mục sư Nguyễn Công Chính và gia đình ông từ các nghị sĩ và chính khách Mỹ như Dân Biểu Alan Lowenthal, Dân Biểu Bill Posey, cựu Đại Sứ Jackie Wolcott, cùng Ủy ban Cứu trợ người vượt biển (BPSOS) mới trọn vẹn trách nhiệm.
Chỉ đến lúc này, sau 7 năm bị ngược đãi hành hạ trong tù, Mục sư Tin Lành Nguyễn Công Chính mới bất ngờ được “trả tự do”, như chúng ta đã biết.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/08/2017
Nhiệm kỳ 3 năm của vị đại sứ “quan hệ Việt - Mỹ chưa bao giờ sáng sủa như lúc này” sắp đóng lại, lồng trong bầu không khí đàn áp nhân quyền bị chính quyền và giới công an Việt Nam trùm phủ lên hai bản án 9 năm tù giam đối với nhà hoạt động nhân quyền Trần Thị Nga cùng 10 năm tù giam giáng xuống đầu Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - nhà hoạt động mà vào tháng 3/2017 đã được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh “Người phụ nữ can đảm quốc tế”.
Ông Daniel Kritenbrink tại Hội nghị CSIS thường niên lần 6 về Biển Đông, 12/7/2016
Quan điểm nhân quyền của Daniel Kritenbrink ?
Nhiều khả năng thay thế Đại sứ Ted Osius sẽ là ông Daniel Kritenbrink. Khác với Ted, Kritenbrink là một quan chức thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, có bề dày và kinh nghiệm ứng phó với Bắc Triều Tiên.
Bắc Triều Tiên lại là một quốc gia “đồng chí” với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong quá khứ và ngay cả hiện tại. Cùng với lực lượng Hồi giáo IS, chế độ chính trị Bắc Triều Tiên đang bị dư luận quốc tế xem là cực đoan và tàn ác nhất thế giới, đồng thời là một trong những nguy cơ rất tiềm tàng mà có thể dẫn đến chiến tranh thế giới lần thứ ba.
Daniel Kritenbrink hẳn đã có những triết lý riêng của ông về Bắc Triều Tiên và kinh nghiệm đối phó với chế độ này, bao gồm cả hành vi vi phạm nhân quyền. Những nguyên tắc và kinh nghiệm như thế phác ra hy vọng rằng Daniel Kritenbrink có thể trở thành một vị đại sứ quan tâm nhiều hơn đến nhân quyền và sẽ cứng rắn hơn trước các vụ vi phạm nhân quyền có hệ thống và ngày càng dày đặc của nhà cầm quyền Việt Nam, kể cả xem xét lại quá trình chính thể này lọt vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc từ tháng 11 năm 2013 và thường tỏ ra rất tự hào về điều đó.
Vậy Daniel Kritenbrink đã có biểu hiện cụ thể nào về nhân quyền Việt Nam ?
Vào tháng 5/2016, khi còn là Giám đốc phụ trách các vấn đề châu Á thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, ông Daniel Kritenbrink được VOA dẫn lời : “Nhân quyền vẫn luôn là một thành tố quan trọng, nếu không nói là trung tâm, trong việc đưa mối quan hệ song phương Mỹ - Việt tiến về phía trước”, và “Việc xét tới yếu tố nhân quyền sẽ vẫn là một điều quan trọng trong bất kỳ quyết định bán vũ khí nào với Việt Nam hay với bất kỳ quốc gia nào”.
Tháng 5/2016 cũng là thời điểm mà nước Mỹ đã làm một cử chỉ đặc biệt kể từ năm 1995 khi Mỹ - Việt bình thường hóa quan hệ : dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Không biết lời cảnh báo của Daniel Kritenbrink về mua bán vũ khí có “linh” hay không, chỉ biết rằng đã hơn một năm trôi qua kể từ tháng Năm năm 2016, giới quân sự Việt Nam vẫn chưa mua được một thứ vũ khí mang hiệu quả sát thương đáng kể nào từ phía Mỹ.
Chưa nói tới nguồn cơn “tiền đâu” trong cảnh trạng ngân khố Việt Nam đang quẫn cực và phải tìm cách dè sẻn chi phí quốc phòng, chính Quốc hội Mỹ lại đang soi mắt vào từng khoản mục bán vũ khí cho Việt Nam. Một trong những tiêu chí ngặt nghèo để “soi” là nhân quyền.
Còn Ted Osius đã để lại di sản triết lý nào ?
“Không có gì là không thể !”
Không chỉ luôn phát ngôn đầy lạc quan “quan hệ Việt - Mỹ chưa bao giờ sáng sủa như lúc này”, Ted còn hướng đến triển vọng của mối quan hệ này bằng triết lý “không có gì là không thể !”.
Nhưng quả là “không có gì là không thể” ở chủ thể chính quyền Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5/2016 và dù đã mở lòng dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Hà Nội, Tổng thống Obama đã phải nhận một cú sốc chưa từng có : Có đến 6 trong tổng số 15 khách mời của Obama bị công an cấm cửa đến gặp ông.
Bảy tháng sau vụ công an Việt Nam thẳng tay chặn khách mời của Tổng thống Obama tại Hà Nội, đến lượt ngoại trưởng của Obama là ông John Kerry cũng lâm vào tình trạng tương tự.
John Kerry đã thực hiện chuyến đi cuối cùng trong nhiệm kỳ của mình đến đất nước Việt Nam, nơi ông coi là “thân thiện”. Nhưng có lẽ không bao giờ ông quên được ký ức tại đất nước đó ông đã bị “dằn mặt” về giao tiếp xã hội đến thế nào. Nhiều khách mời của ông đã không thể ra khỏi nhà trong vòng vây công an.
Bầu không khí dân chủ mà giới quan chức chính phủ và ngoại giao Hoa Kỳ cảm nhận được ở đất nước họ, lại đã bị biến thái một cách lộn ngược tại quốc gia cựu thù. Những gì mà chính quyền Obama đã hy vọng sẽ làm cho giới lãnh đạo Việt Nam thay đổi về não trạng nhân quyền lại chỉ nhận được kết quả hầu như công cốc sau hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ.
Thế nhưng trước tình cảnh bị công an trắng trợn xúc phạm, nhà ngoại giao John Kerry vẫn… cười.
Ted Osius cũng thế.
Khá kỳ quặc là trong lúc hàng loạt kỳ đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ, dù diễn ra ở Hà Nội hay ngay tại Washington, đã trở nên hình thức một cách đáng sợ và trong thực tế chỉ nhận được lời hứa hẹn bị dư luận xem là quá giả dối từ một viên chức cấp thấp - trưởng đoàn đàm phán Việt Nam, trong lúc tần suất bắt bớ người bất đồng ở Việt Nam cứ tăng theo mỗi tháng, còn nạn sách nhiễu hành hung của “côn đồ công vụ” đã trở nên phổ cập đến nỗi có dư luận phải cho đó là một “thuộc tính sinh học” của ngành công an…, người ta vẫn chứng kiến vị đại sứ Ted Osius thung dung thưởng ngoạn phong cảnh ở Việt Nam, nhìn thấy nụ cười rất tươi của ông trên báo chí quốc doanh, còn trang facebook của ông không bao giờ tắt niềm hy vọng bằng những lời mô tả triển vọng không thể tốt đẹp hơn của quan hệ Việt - Mỹ…
Sau vụ khách mời của Tổng thống Obama bị công an Việt Nam thẳng tay chặn cửa, từ đó đến nay người viết bài này đã thực hiện một số khảo sát về ý kiến và góc nhìn của giới đấu tranh dân chủ nhân quyền Việt Nam về mức độ quan tâm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và và Đại sứ Ted Osius đến nhân quyền Việt Nam. Đa số những người được hỏi đều xác nhận đã có một niềm hy vọng không nhỏ kể từ khi ông Ted Osius chính thức nhậm chức đại sứ vào tháng 11/2014. Nhưng những câu từ “tôi quan ngại”, “tôi thất vọng”… của ông Ted trước các vụ nhà hoạt động nhân quyền bị bắt bớ và bị hành hung ở Việt Nam dường như vẫn còn quá “ngoại giao”. Càng về sau này, mối thiện cảm ban đầu của nhiều người đấu tranh dân chủ dành cho ông Ted Osius càng giảm sút, thậm chí giảm sút đáng kể. Nhiều người cho rằng trên cương vị một nhà ngoại giao và với bản tính khôn khéo, lanh lợi cùng tâm thế “an toàn”, ông Ted có thể đã làm tròn phận sự không gây ra căng thẳng giữa Mỹ với chính quyền Việt Nam. Nhưng còn tiến xa hơn nữa thì lại chưa có bằng chứng gì rõ rệt. Cùng với “thành tích nhân quyền” vẫn được nhà cầm quyền Việt Nam tuyên rao không mệt mỏi, uy tín chính khách và hình ảnh nụ cười tươi rói của Ted Osius trong con mắt và trái tim nhiều người hoạt động nhân quyền ở Việt Nam cũng nhòa nhạt theo thời gian…
Daniel Kritenbrink sẽ làm gì ?
Sau vụ khách mời của Obama và Kerry bị công an Việt Nam cấm cửa, Quốc hội Hoa Kỳ hình như không còn cười nổi. Cho đến lúc đó, vấn đề không chỉ là nhân quyền Việt Nam mà đã hóa thân vào thể diện nước Mỹ.
Chẳng phải vô cớ mà sau những vụ việc trên, Nghị viện Liên minh châu Âu đã tung ra một nghị quyết lên án những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam với lời lẽ và văn phong mạnh mẽ chưa từng có.
Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà vào cuối năm 2016, Quốc hội Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thông qua Luật Nhân quyền Magnisky Toàn Cầu và Tổng thống Obama đã ký chính thức. Không thể khác hơn, luật này nhằm chế tài đối với các quan chức vi phạm nhân quyền ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Những ai vi phạm sẽ bị cấm nhập cảnh vào Hoa Kỳ và bị đóng băng tài sản ở nước ngoài.
Không chỉ Hoa Kỳ, một số quốc khác như Canada, Na Uy… cũng đang có khuynh hướng vận dụng Luật Nhân quyền Magnisky Toàn Cầu vào nước họ.
Không chỉ người Mỹ cảm thấy bị tổn thương và bị xúc phạm, mà thế giới dân chủ đang bị thách thức bởi những giá trị hoàn toàn phi dân chủ.
Cũng bởi thế và rất có thể khác với Ted Osius, Daniel Kritenbrink có nhiều việc phải xử lý tại Việt Nam.
Trong những tháng tới, Daniel Kritenbrink cũng có thể là một hình ảnh khác, thậm chí khác hẳn với Ted Osius. Nếu thái độ của Tổng thống Trump là dửng dưng và có phần lạnh nhạt trong cuộc tiếp đón Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc vào tháng 5/2017, Daniel Kritenbrink cũng có thể là nhân vật đại sứ tỏ ra dứt khoát hơn trước tư thế ngả ngớn đu dây của Hà Nội giữa Washington và Bắc Kinh.
Daniel Kritenbrink đang có khá nhiều điều kiện để thể hiện thái độ ấy, nhất là sau vụ “bạn vàng” Trung Quốc thẳng tay ép người đồng chí Việt Nam phải rút giàn khoan Repsol tại Bãi Tư Chính - nơi mà vẫn được Bộ Ngoại giao Việt Nam chiến đấu võ miệng “vùng lãnh thổ chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam” - vào tháng 7/2017.
Và nếu vụ Bãi Tư Chính xứng đáng là một nỗi sợ để Bộ Quốc phòng Việt Nam tìm kiếm trở lại sự hỗ trợ của hải quân và không quân Hoa Kỳ, Daniel Kritenbrink sẽ có cơ hội để không phải nhún nhường thái quá về nhân quyền trước Hà Nội như cái cách của Ted Osius mà đã khiến nhiều người nghĩ vậy.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : 28/07/2017